Trần Đình Hoành's Blog, page 20
April 16, 2017
Không hợp?
[image error]
Chào các bạn,
Hai người mới gần nhau – như là người yêu, vợ chồng, bạn đồng phòng, người cùng nhóm làm việc – thường khám phá ra từ từ là có nhiều điều hai người không hợp nhau. Và đây là bắt đầu khó khăn cho liên hệ tình cảm. Chàng hay vất đồ bừa bãi, nàng rất ngăn nắp trong nhà. Chàng thích xem thể thao trên TV, nàng chỉ muốn xem ca nhạc. Chàng hút thuốc, nàng chịu không được mùi thuốc…
Không hợp nhau như thế là câu chuyện muôn thuở của loài người, và người ta cãi nhau, ghét nhau, bỏ nhau, ly dị nhau thường cũng là vì nhiều khác nhau như thế.
Tại sao?
Nếu ta nghĩ đến hai bánh xe răng cưa khít khao chạy sát nhau trong một cỗ máy, thì đó là “hợp”. Làm sao mình và người kia có thể chạy khít khao như hai bánh răng cưa như thế? Cơ hội để hai người gặp nhau như hai bánh răng cưa khít khao của một cỗ máy thì rất nhỏ. Mỗi người chúng ta như là một hòn đá gai góc, gặp một hòn đá gai góc khác, thì cơ hội để châm nhau, đẩy nhau, đụng nhau, làm phiền nhau, thường rất lớn so với cơ hội khít khao.
Tại sao mình dùng ví dụ của hai “hòn đá gai góc”? Tại vì đa số mọi người là những hòn đá gai góc – chúng ta có những cách tư duy đã quen, những nguyên lý sống cứng chắc, những sắp đặt hằng ngày ngăn nắp, nói chung là mọi sự rất cứng chắc. Bây giờ gặp người kia cũng có những cách tư duy, nguyên lý, và cách sắp đặt, nhưng những thứ này lại khác các thứ của mình, nhiều thứ lại còn chỏi lại với của mình 180 độ. Mà vì mình quen với cung cách của mình rồi, nên mình rất bảo thủ và cứng chắc với cung cách của mình. Thế cho nên “hòn đá gai góc” là vậy.
Nhưng, chúng ta hy vọng là với thời gian ta sẽ giúp người kia thay đổi tốt hơn, để có thể khít khao với ta.
Và người kia cũng hy vọng là sẽ thay đổi được ta khít khao hơn theo thời gian như thế.
Vậy thì, chúng ta đang có 2 dũng sĩ giác đấu đứng nhìn nhau, người này tìm cách thay đổi người kia. Thế thì đây sẽ là một cuộc chiến hấp dẫn cho hàng nghìn khán giả trong đấu trường, vì cả hai dũng sĩ đều chuẩn bị để tấn công, tấn công, chẳng ai lo phòng thủ, đừng nói là chịu thua.
Các bạn, có lẽ bạn sẽ hạnh phúc hơn, nếu bạn 60 tuổi. Khổng tử nói “lục thập nhi nhĩ thuận” – sáu mươi tuổi thì tai nghe gì cũng thuận. Tức là ai nói sao mình nghe cũng thuận tai, vì mình có thể hiểu được tại sao người ấy nói vậy, trong tâm người ấy tư duy thế nào, và ai cũng có lý của họ, và mình hiểu được điều đó.
Rất tiếc là bạn chỉ 26, 36, 46, thì làm sao đây?
Bạn có thể tư duy như nước được không? Nước luôn mềm và có thể sống khít khao với bất kỳ viên đá nào có hình thù hay gai góc thế nào. Nước luôn chảy đến và ôm quanh mọi viên đá một cách khít khao.
Nước không có hình thù riêng của nước – không có cái tôi định hình – mà nước có hình thù của bất kì cái gì đựng nước, dù có là cái ly cái chén hay là dòng suối, dòng sông, biển cả.
Đó là “không tôi”, vô ngã – không là viên đá – và từ tâm, yêu người, bao bọc lấy người theo hình dáng của người.
Có lẽ điều này còn khó đạt hơn là 60 tuổi, vì nhiều người 60 vẫn không đạt được “nước”. Nhưng bạn không muốn đợi 30, 40 năm nữa để được 60, và vẫn có thể không đạt được “nước” lúc đó. Bạn muốn là “nước” bây giờ.
Các bạn, trong Kinh Pháp Hoa, Tiểu Long Nữ 8 tuổi thành Bồ tát trong một sát na. Lục tổ Huệ Năng không biết đọc không biết viết, chỉ nghe câu kinh “Không trụ vào đâu thì sinh tâm Bồ đề” mà giác ngộ ngay. Những chuyện này không phải chỉ là chuyện tưởng tượng, mà có thể là chuyện thật với bạn.
Hãy nghĩ về cuộc đời vô thường ảo ảnh này, hãy nghĩ về loài người si mê ôm cứng lấy những thành kiến và nguyên lý ảo tưởng trong đầu, hãy nghĩ về trái tim Phật của mình tinh khiết như nước và nhẹ nhàng uyển chuyển như nước, rất có thể là bạn sẽ sáng tỏ để thấy đường và quyết định sống như nước. Chỉ trong một sát na chuyển hóa.
Nếu chúng ta nhìn kỹ để thấy được “tánh” (bản chất thật) của trái tim mình – Phật tâm – có lẽ chỉ trong một sát na bạn sẽ bỏ tất cả mọi công thức, thành kiến, nguyên tắc, bám víu trong đầu – tất cả sụp đổ như một tòa nhà làm bằng các con bài – để chỉ còn trái tim thanh thoát của mình, tự do như nước chảy.
Hiện tượng này không khó như nhiều người nghĩ. Chỉ cần nhìn kỹ cuộc đời và nhìn kỹ tâm mình, như nó thực sự là (as it really is).
Chúc các bạn chuyển hóa trong một sát na.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


February 23, 2017
Con Sam – biểu tượng vợ chồng chung thủy – có thể bị tuyệt chủng
Vợ chồng sam
Chào các bạn,
Trong văn hóa Việt Nam, sam là biểu tượng của vợ chồng chung thủy, dùng thường xuyên để giáo dục đạo vợ chồng. Nhưng biểu tượng này có nguy cơ tuyệt chủng vì ngày nay người ta rầm rộ quảng cáo “đặc sản sam”, “món ăn không thể bỏ qua”, “tuyệt vời gỏi trứng sam” trong các nhà hàng.
Sam (tên khoa học Tachypleus tridentatus), đôi khi được gọi là sam biển, thường sống ở các cửa biển và các khúc sông gần cửa biển, luôn đi đôi một cặp vợ chồng. Sam cái lớn hơn sam đực, đi trước. Sam đực theo sau, bám chặt vào sam cái. Nếu người ta bắt sam thì luôn luôn bắt hai con bám nhau như thế. Vì vậy, từ xưa sam đã được dùng làm biểu tượng cho vợ chồng chung thủy, để dạy chúng ta ăn ở thủy chung.
Bài dân ca miền nam “Lý Con Sam” sau đây là bài ca giáo dục chung thủy. Làn điệu của bài hát này được gọi là làn điệu lý con sam cũng rất được mến chuộng trong dân ca miền nam, nên rất thường được dùng trong các tuồng cải lương.
Lý Con Sam
Sông sâu nước chảy có nguồn
Con sam có cặp theo luồng nước sông
Hỡi ai biết cặp con sam
Mình đồng chân sắt mắt lại trên lưng
Uống nước thôi cầm chừng
Đói no xin nhờ vợ ta đừng có theo ai
Ấy là đôi cặp con sam
Sam ơi sam lội sam vùi dưới sông
Sông sâu cách trở con đò
Đi đêm khó gẩm theo dò bóng đêm
Nghĩa nhân có đặng keo sơn
Bền lòng son sắt ắt đẹp duyên hương
Chớ thiếp luôn chiều chồng
Mới nên duyên chồng vợ
Xin chàng chớ quên em
Ấy là duyên nợ con sam
Sam ơi sam lội cho chồng ấm no
Hỡi ai biết cặp con sam
Mình đồng chân sắt mắt lại trên lưng
Uống nước ta cầm chừng
Đói no xin nhờ vợ ta đừng có theo ai
Nghĩa nhân có đặng keo sơn
Bền lòng son sắt ắt đẹp duyên hương
Chớ thiếp luôn chiều chồng
Mới nên duyên chồng vợ
Xin chàng chớ quên em
Ấy là duyên nợ con sam…
Ấy là duyên nợ con sam
Mời các bạn nghe bài Lý Con Sam qua giọng hát của nghệ sĩ Minh Lý.
Sự Tích Con Sam làm giàu nền văn hóa thủy chung đất Việt.
Sự tích con sam
Ngày xưa có hai vợ chồng một người đánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ đang thả lưới. Không một người nào thoát khỏi tai nạn. Tin dữ về đến làng, tất cả mọi gia đình đánh cá đều đau khổ. Tiếng khóc lan đi các nhà. Riêng người đàn bà lòng đau như cắt. Như điên như cuồng, bà bỏ nhà ra đi, hy vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển đi, đi mãi. Trải qua hai ngày đến một hòn núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây. Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ đứng trước mặt mình, hỏi:
– Người là ai mà dám đến nằm trước nhà ta?
Người đàn bà mếu máo đáp:
– Tôi đi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá!
Cụ già nói:
– Ta là thần Cây. Thấy nhà ngươi chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là chồng ngươi còn sống, hiện ở ngoài hải đảo.
Nói rồi, ông cụ trao cho người đàn bà một viên ngọc và bảo:
– Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua được biển để gặp chồng. Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy đó.
Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Thốt nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo vo. Được một lúc sau thấy chân chấm đất, bà mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trên một bãi cát lạ mà gió bấy giờ đã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá. Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ.
Người chồng ôm ngang lưng vợ để vợ đưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng không thể nói hết. Vì thế, bà ta đã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng đều sa xuống biển. Rồi đó họ hóa thành những con sam. Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ để bay qua biển. Có câu tục ngữ “Thương như sam”, là do truyện này mà ra.
Trích “Sự tích đất nước Việt” – Nguyễn Đổng Chi
Ngày trước không nghe ai nói ăn sam. Hình như người dân không ăn sam bao giờ, có lẽ vì tôn trọng biểu tượng chung thủy cao quý. Nhưng ngày nay, đột nhiên chúng ta có quảng cáo và truyền hình nói ồ ạt về các đặc sản sam: Món ăn độc đáo, Đặc sản, Món ăn không thể bỏ qua…
Đặc biệt món “trứng sam” được quảng cáo như món ăn tuyệt vời.
Các bạn, ăn trứng sam là cách nhanh nhất để sam tuyệt chủng, vì đương nhiên là không còn trứng thì không thể có con.
Mời các bạn xem vài video sau đây:
Cách bắt và làm thịt sam biển rất bá đạo
Đặc sản sam biển (Quảng Ninh). Clip này có cho biết sam ngày nay rất hiếm
Về Cần Giờ ăn gỏi trứng sam. Nướng sam khi còn sống. Nướng trứng ngay trong mai của sam mẹ. Cực kỳ thất đức
Các bạn, vấn đề rất rõ là nếu người ta thích ăn trứng sam thì nhất định sam sẽ tuyệt chủng, vì không có con để tiếp tục nòi giống.
Endanger Species International (Tổ chức quốc tế Các Loài Có Nguy Cơ Tuyệt Chủng) đang lên tiếng báo động về sam (Asian horseshoe crabs): “Sam có chỗ đứng rất quan trọng trong chuỗi thực phẩm biển vì là sinh vật ‘dọn đáy’ sông biển, cũng như ăn các sinh vật khác và làm thức ăn cho các sinh vật khác.” Các bạn, có thể xem thông tin ở đây.
Nếu sam tuyệt chủng, không chỉ là môi trường sinh thái bị xáo trộn, mà chúng ta còn mất một biểu tượng văn hóa lớn về giá trị gia đình. Đó là chưa nói cách ăn trứng sam thật là quá nặng về sát sinh. Mỗi bữa ăn là ta giết bao nhiêu nghìn con sam.
Đây lại là món ăn chơi, không phải là món ăn cần thiết như cơm để nuôi sống chúng ta. Tội và nghiệp!
Các bạn, có cách nào chúng ta tuyên truyền, giải thích, quảng bá để mọi người ngưng ăn sam không?
Nam mô A di đà Phật.
Hoành
Filed under: Buddhism, Thiền, Video PPS, Văn Hóa Tagged: Phật học, Thiền, Video, Video PPS, Văn Hóa


February 9, 2017
Trái tim nhạy cảm
[image error]
Chào các bạn,
Chúng ta thướng nói luyện tập trái tim để mình tĩnh lặng, mạnh mẽ, đứng vững với sóng gió. Điều này hoàn toàn đúng.
Nhưng ít khi chúng ta nói về một sự thật khác, là luyện tâm thì trái tim của ta nhạy cảm hơn với mọi sự, mọi điều, mọi người… và vì thế nhận ra được nhiều hơn những đau khổ của loài người và các loài sinh linh khác.
Phật Thích Ca giảng pháp vì muốn loài người bớt khổ. Quan Âm Bồ tát thì nghe thấy được mọi đau khổ của chúng sinh. Chính vì vậy mà khi người ta Phát tâm Bồ Đề để bắt đầu tu Bồ tát đạo, thì trước hết là khởi nguyện tu để độ mình và độ mọi chúng sinh.
Chúa Giêsu thì thường khóc khi thấy con người đau khổ.
Bồ tát từ tâm vô lượng. Chúng ta không thể có từ tâm nếu chúng ta không nhạy cảm với đau khổ của mọi chúng sinh.
Kỳ thực là càng luyện tâm, chúng ta càng mạnh mẽ, thì lại càng nhạy cảm với đau khổ của mọi sinh linh, của thế giới quanh mình.
Cho nên sự thật là càng luyện tâm ta càng mạnh mẽ để đặt gánh nặng đau khổ của mọi chúng sinh lên chính vai mình.
Đây là một sự thật của các thánh nhân mà chính các thánh nhân cũng ít nói đến. Đó là chuyện tự nhiên. Tâm mình càng tinh tuyền tĩnh lặng, mình càng nhạy cảm với mọi đau khổ quanh mình, và vì thế mình tự động nguyện giúp cho thế giới bớt khổ.
Điều này quan trọng để chúng ta hiểu. Vì ngồi Thiền để “tĩnh lặng” để không nhạy cảm được với đau khổ của ai, thì đó là đã lạc đường. (Xem Không có từ tâm).
Luyện tâm, ta càng mạnh mẽ thì ta lại càng cảm được đau khổ của cả thế gian. Đây là một gánh nặng lớn các bạn ạ.
Chúc các bạn luôn mạnh mẽ và nhạy cảm.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Zen


January 14, 2017
Thiền Thi (Lý – Trần 900 CE – 1400 CE)
Chào các bạn,
Năm mới, mình vừa đổi mới PPS “Thiền Thi” để chia sẻ với các bạn.
PPS “Thiền Thi” có tất cả 30 bài thơ thiền Hán-Việt của hai đời Lý-Trần (năm 900 đến 1400 sau Công Nguyên), và 30 bài thơ dịch tiếng Việt của các anh Nguyễn Duy, Nguyễn Bá Chung, Trần Đình Hoành. Bản nhạc nền “Rejuvenation” cũng rất thiền.
Chúc các bạn năm mới an nhiên, tĩnh lặng !
Túy Phượng
Các bạn click vào ảnh dưới đây để xem và download slideshow:
Filed under: Buddhism, Thiền, Thiền thi, Video PPS, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Thiền, Thiền thi, Video PPS, Văn Hóa


December 18, 2016
Trụ và Vô trụ
[image error]
Chào các bạn,
Hôm nay mình muốn nói với các bạn về “vô trụ” – ưng vô sở trụ nhi tâm kỳ sanh – không trụ vào đâu cả thì sinh tâm Bồ Đề. Nhưng thay vì nói vô trụ, mình sẽ nói nhiều đến “trụ” để các bạn hiểu “vô trụ” là gì.
Các bạn có biết ở đời chúng ta trụ vào cả trăm cả nghìn thứ không? Chẳng phải là chỉ một hai thứ mà cả trăm cả nghìn thứ.
“Trụ” tức là đứng chắc cứng một chỗ trên nền, như là võ sinh trụ tấn, cột trụ trong nhà, đại quân trụ tại biên giới… Vậy “trụ” có nghĩa là đứng chắc trên một nền, tựa cứng vào một thứ, bám cứng vào một thứ.
Chúng ta trụ vào:
– Bằng cấp cao có thể cho ta nghề nghiệp, tiếng tăm, tài sản.
– Sắp đẹp có thể cho ta nghề nghiệp, tiếng tăm, tài sản.
– Nghề nghiệp có thể cho ta tiếng tăm, tài sản, gia đình.
– Tiền bạc, tài sản…
– Doanh nghiệp riêng..
– Trí thông minh …
– Kiến thức…
– Tài năng…
– Gia tộc dòng họ…
– Vợ chồng…
– Bè bạn…
– Tổ quốc…
– Đồng bào…
– Ký ức…
– Lý thuyết chính trị…
– Triết lý…
– Tôn giáo…
– Sách vở…
– Internet…
– Màu quần sắc áo hợp gu…
– Nhạc thích hợp…
– Cà phê ưa chuộng…
…
Những thứ này và còn hàng nghìn thứ nữa nếu chúng ta có thời giờ ngồi để kể ra hết (có thể dày bằng cuốn tự điển), là những thứ chúng ta trụ vào, bám vào, để có an ninh – đây là thế giới của tôi với uy tín tôi, gia nghiệp tôi, danh tiếng tôi, gia đình tôi, kiến thức tôi, tôn giáo tôi, những điều tôi yêu thích… Tất cả những thứ này tạo thành thế giới thân quen của ta, và ta yên lòng ở trong thế giới đó một cách thoải mái. Nếu bị ném ra khỏi thế giới đó vào một thế giới xa lạ khác, thì ta hoàn toàn lạc lõng, mất đất đứng, như con cá nước ngọt bị ném ra biển, chới với và chết.
Trụ, hay chấp, là vậy, là bám vào hàng trăm hàng ngàn thứ trong thế giới thân quen của mình, mà mỗi lần thứ gì mất đi là mình đều chới với – mất việc, mất danh tiếng, mất uy tín, mất tiền, mất vợ/chồng, mất người yêu, mất bạn, mất cà phê ngon…
“Vô trụ” là không bám vào bất kì thứ gì trong cả nghìn thứ đó.
Vẫn cầm tiền để chi dụng hàng ngày, nhưng không trụ (không chấp) vào tiền, để khi tiền bay đi thì cũng cười khà.
Vẫn có danh tiếng tốt lớn, nhưng nếu toàn bộ danh tiếng sụp đổ thì cũng xem như căn nhà đồ chơi bằng giấy của mình sụp đổ.
Vẫn có tài sản lớn, nhưng một sáng bỗng trắng tay thì cũng tạ ơn Trời đã cho mình cuộc sống vui nhiều thăng trầm.
…
Vô trụ, vô chấp, không có nghĩa là không sờ vào gì cả, mà có nghĩa là có thể sờ và cầm mọi thứ, mà không bám vào thứ nào, để khi tất cả bay đi thì mình vẫn cảm như đang cầm một hơi gió trong lòng bàn tay và mở tay ra thì tất cả bay đi.
Vô trụ là vậy đó.
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Không trụ vào đâu, đó là tâm Phật.
Chúc các bạn luôn có Phật tâm.
Mến,
Hoành
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism


October 5, 2016
Quyết tâm giải thoát
Chào các bạn,
Hôm qua trong bài Giải thoát mình có nói đoạn này: “Đó là một trái tim tĩnh lặng. Dù vẫn sống ở đời, vẫn làm mọi chuyện cần làm, dùng mọi thứ cần dùng, mà tâm luôn thanh tịnh và tự do, hoàn toàn không bị dính vào đâu, không bị ảnh hưởng bởi điều gì. Làm được điều đó hay không là chuyện của riêng bạn. Chẳng ai giúp bạn được.” Và các bạn thắc mắc, anh là thầy mà nói “chẳng ai giúp bạn được”, là sao?
Là “chẳng ai giúp bạn được”.
Chúng ta nghe nói Phật gia có 84 ngàn pháp môn, thiếu gì thứ để thực tập: ngồi Thiền, tụng kinh, bát chánh đạo, ăn chay, giữ các giới tu… thế nào cũng có điều để giúp mình chứ?
Các bạn, chúng ta đang nói đến vô chấp. Vô chấp có nghĩa là không chấp, không dính mắc. Vậy muốn vô chấp, muốn không dính mắc, thì bạn chỉ việc đừng dính mắc. Nếu bạn hay tham tiền và thường giành giật, thì từ nay vẫn kiếm tiền, nhưng đừng tham và đừng giành giật, làm tiền kiểu từ ái, tử tế. Nếu bạn tham nổi tiếng, thì từ nay đừng tối ngày tìm cách nổi tiếng, làm việc gì phải làm và ai biết mình thì biết, không biết thì còn vui hơn, vì chẳng sợ ai dòm ngó. Nghiện rượu thì ngưng uống rượu từ từ cho đến lúc ngưng luôn. Nghiện hút thuốc thì ngưng thuốc từ từ cho đến lúc ngưng luôn. Hay ganh tị thì mỗi khi mình ganh tị với ai hãy nhắc mình cầu nguyện để Trời Phật ban phước lành cho người đó.
Nói chung, muốn không chấp thì đơn giản là… không chấp nữa. Đây là một quyết định của lý trí. “Tôi nói tôi không làm nữa là tôi không làm nữa.”
Nếu bạn không có quyết tâm này, thì ngồi Thiền, tụng kinh, đi chùa, cúng quảy… làm bất kì điều gì bạn làm đều không thể vô chấp được, ngược lại bạn sẽ như nhiều người khác – chấp vào ngồi Thiền, chấp vào tụng kinh, chấp vào đi chùa, chấp vào cúng quảy… để tưởng là mình đang tiến gần đến giác ngộ và thấy mình thông thái hơn những người không làm như mình, trong khi mình có hàng trăm lớp chấp bao kín mình như xi măng.
Các bạn, rất nhiều vấn đề trên đời chỉ giản dị là ngưng ngang, với quyết tâm. Bạn có thói quen ăn trộm vặt, bạn muốn bỏ thói này, thầy sẽ bảo bạn: “Vậy thì đừng ăn trộm nữa”. Thầy sẽ không bảo bạn đi tụng kinh, vì tụng kinh không chấm dứt thói quen ăn trộm.
Vấn đề của chúng ta là chuyện cần làm thì ta không thích làm, chỉ thích làm những thứ lăng nhăng khác để chạy trốn vấn đề. Nếu bạn tham nhiều, sân nhiều, thì đơn giản là ngưng tham, ngưng sân. Nếu bạn quyết tâm “ngưng”, thì sẽ ngưng được. Lúc đã quyết tâm, những thứ khác như ngồi Thiền, tụng kinh, đi chùa, có thể giúp thêm một chút. Nhưng điều chính là “quyết tâm” của bạn ĐÃ giải quyết vấn đề cho bạn. Nếu bạn không quyết tâm ngưng, một triệu pháp môn khác cũng chẳng giúp được gì, mà lại càng làm bạn sa địa ngục vì chấp.
Cho nên cách cho bạn giải thoát, có tự do tâm trí hoàn toàn, là ngưng chấp. Nhỡ có chấp thì nhắc mình “vô chấp”. Giản dị như vậy, không có pháp môn thứ hai. Và điều này chỉ có mình bạn làm được cho bạn, vì không ai khác biết điều gì trong đầu bạn cả.
Chúc các bạn được vô chấp và tự do.
Mến,
Hoành
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


October 4, 2016
Giải thoát
Chào các bạn,
Giải thoát là từ nhà Phật, nói đến giác ngộ, nói đến ta được giải thoát.
Giải thoát khỏi điều gì? Đương nhiên chúng ta biết giải thoát khỏi mọi tội lỗi.
Nhưng tội lỗi là gì? Đương nhiên trộm cắp, cướp của, giết người là tội lỗi. Nhưng không chỉ có vậy. Từ đúng nhất của nhà Phật là đau khổ. Giác ngộ là giải thoát khỏi đau khổ.
Cái nền của nhà Phật là Bốn Chân Lý: (1) Đời khổ, (2) Nguyên Nhân của Khổ, (2) Khổ có thể diệt, và (4) Con Đường Diệt Khổ. Đó chính là Con Đường Tám Nhánh (Bát Chánh Đạo).
Các bạn thấy, từ “tội lỗi” không có trong tư tưởng nền tảng nhất của Phật giáo nguyên thủy. Trong Phật gia, tội lỗi chính là khổ, khổ chính là tội lỗi. Khổ của nhà Phật bao gồm cả “tội” theo kiểu hình tội ngày nay, và cả điều không là hình tội nhưng mà là ngu si tạo ra khổ – tạm gọi theo từ quen thuộc của chúng ta là “tội” và “lỗi”, tức là “tội lỗi”.
Nhưng dù đã định nghĩa “tội lỗi” là tất cả mọi thứ tạo ra khổ cho ta. Thì những thứ đó là gì?
Những thứ đó gọi là “chấp” – bám vào, dính vào, trụ vào.
Nếu không còn chấp – vô chấp, không còn bám vào đâu, dính vào đâu, trụ vào đâu nữa – thì đạt đạo giải thoát. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm (Kinh Kim Cang).
Nhưng không bám, không dính, không trụ còn có nghĩa là gì? Là tự do tuyệt đối. Không còn bị dính vào đâu nữa cả. Tâm ta đạt được tự do hoàn toàn.
Vậy giải thoát khỏi mọi tội lỗi chính là tự do tuyệt đối. Điều này rất rõ trong chữ nghĩa: giải thoát là liberate, tự do là free. Hai từ này đồng nghĩa: to liberate tức là to free.
Nhưng “vô chấp” – không dính vào đâu – nói thì dễ, làm thì khó.
Thiên hạ giết nhau vì bị dính vào tôn giáo, dính vào Chúa Phật thần thánh.
Thiên hạ đánh nhau vì tiền, vì tình, vì tài sản.
Thiên hạ tranh nhau vì danh tiếng, vì chức vụ, vì thị trường, vì chủ nghĩa.
Thiên hạ điên rồ với nhau vì ghét nhau, vì thù nhau, vì say rượu.
Bạn chỉ ngón tay vào bất kì điều gì trên đời, vào bất kì chữ nào trong tự điển, bạn đều có thể chấp vào điều đó, chữ đó. Chỉ ngón tay vào cái bát, vâng, đã và sẽ có nhiều người trên thế giới cãi nhau, đánh nhau, thậm chí giết nhau chỉ vì một cái bát. Chỉ ngón vào từ pháp, vâng, đã có và sẽ có khối người thù nhau đánh nhau vì giáo pháp, của các tôn giáo khác nhau, hay của các nhánh trong cùng một tôn giáo. Cũng như thế, thiên hạ đánh nhau vì Chúa, vì Allah, vì Phật, vì tình yêu, vì tự do, vì dân chủ, vì bất kì điều gì ta có thể cho là tốt đẹp thánh thiện nhất.
Có hàng tỉ điều để chấp như thế, cho nên con người luôn ở trong tù ngục của chấp trước. Không còn chấp vào đâu cả, thì không còn một song sắt nào của nhà tù.
Chúng ta sống với nhiều thứ: thức ăn, áo quần, nhà cửa, xe cộ, bằng cấp, danh tiếng, tiền bạc, Phật pháp, chủ nghĩa kinh tế, hệ thống chính trị, gia đình, chồng vợ, con cái… Làm sao ta sống với những thứ này và những người quanh ta mà ta không chấp vào điều gì cả, không dính vào điều gì cả?
“Không chấp” không có nghĩa là “không có”. Tiền thì vẫn có trong túi để chi dụng, nhưng không chấp vào tiền, không dính vào tiền. Rượu thì vẫn uống một chút cho khỏe, nhưng không chấp vào rượu. Bằng cấp thì vẫn cao, nhưng không chấp vào bằng cấp.
Nhiều người tưởng rằng không chấp có nghĩa là không có, không đụng tới bao giờ. Người không đụng đến phụ nữ vẫn có thể nổi lòng tà khi đụng, nhưng Tanzan bồng kiều nữ bước qua vũng bùn mà lòng thanh tịnh như trăng sáng.
Không chấp có nghĩa là vẫn có thể sờ mọi thứ, làm mọi chuyện, mà lòng luôn thanh tịnh và trong sáng.
Đó là giải thoát, là tự do hoàn toàn. Không còn điều gì có thể làm tâm dao động. Đó gọi là không còn tội lỗi.
Đó là một trái tim tĩnh lặng. Dù vẫn sống ở đời, vẫn làm mọi chuyện cần làm, dùng mọi thứ cần dùng, mà tâm luôn thanh tịnh và tự do, hoàn toàn không bị dính vào đâu, không bị ảnh hưởng bởi điều gì.
Làm được điều đó hay không là chuyện của riêng bạn. Chẳng ai giúp bạn được.
Nhưng ít nhất bạn cần hiểu giải thoát là gì, tự do là gì, không tội lỗi là gì.
Chúc các bạn giải thoát.
Mến,
Hoành
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Kinh Kim Cang, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


August 16, 2016
Lễ Vu Lan 2016
Chào các bạn,
Hôm nay, thứ tư, 17.8.2016, rằm tháng 7 âm lịch, là ngày Lễ Vu Lan, Lễ Báo Đáp Ân Đức Cha Mẹ.
Lễ này bắt đầu từ Kinh Vu Lan (Ullambana Sutta). Sutta là kinh. Vu Lan là lấy hai âm đầu của từ Ullambana. Ullammbana có nghĩa là “treo ngược”, trong tiếng Hán gọi là Đảo Huyền (dây treo ngược). Vì vậy Lễ Vu Lan còn gọi là Giải Đảo Huyền, giải thoát khỏi bị treo ngược.
Kinh Vu Lan kể lại tôn giả Mục Kiền Liên xuống âm phủ tìm mẹ thấy mẹ và mọi linh hồn đều bị treo ngược và đói khổ trong địa ngục, bèn dâng cơm cho mẹ. Nhưng mẹ Mục Kiền Liên, vì lòng tham quá nhiều, sợ các quỷ đói khác dành phần ăn của mình, dùng tay che giấu chén cơm, nên khi đưa cơm vào miệng cơm liền biến thành than đang cháy đỏ, không ăn được.
Mục Kiền Liên không biết làm thế nào, về hỏi thầy là Phật Thích Ca. Phật dạy Mục Kiền Liên là nghiệp tội của mẹ quá nặng, cần phải nhờ thần lực của chư tăng mười phương hỗ trợ. Và ngày tự tứ là ngày chư tăng mười phương đều có mặt tại một nơi, là ngày tốt để làm lễ cầu nguyện cho mẹ.
Ngày tự tứ là ngày rằm tháng bảy âm lịch, ngày cuối cùng của 3 tháng an cư kiết hạ của chư tăng, từ rằm tháng tư đến rằm thánh bảy. Đây là ba tháng chúng tăng chay tịnh, trì giới, thiền định, bồi dưỡng đức hạnh và trí tuệ. Đến ngày cuối là ngày tự tứ, chúng Tăng tập họp, từng vị một ra trước đại chúng cầu xin được đại chúng soi sáng, bằng cách chỉ cho mình thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm, mà vì vô tình hay cố ý, mình đã sai phạm, nhưng do vô tri, không thể tự thấy biết. Sau khi đại chúng chỉ cho thấy rồi, thì thành tâm sám hối. Sám hối rồi thì sẽ được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tự nhiên phát sinh hoan hỷ, nên gọi là tự tứ.
Trong ngày tự tứ thần lực của chư tăng rất mạnh, nhờ mới được 3 tháng bồi dưỡng. Muc Kiền Liên nghe lời dạy của Phật, cùng chư tăng dâng lễ vật cầu nguyện, nhờ đó mà mẹ Mục Kiền Liên được giải thoát khỏi địa ngục và đi đầu thai. Vì vậy ngày tự tứ còn gọi là ngày Báo Đáp Ân Đức Cha Mẹ, tức là Ngày Vu Lan.
Về sau này, từ chuyện mẹ Mục Kiền Liên ở âm phủ, người ta còn xem như ngày Vu Lan là ngày tưởng nhớ đến các linh hồn người chết, và vì vậy người ta thường có tục cúng cô hồn, dâng thực phẩm cho các linh hồn cô đơn vất vưởng, trong ngày Vu Lan.
Câu truyện này, cũng như đa số các câu truyện trong kinh sách Phật giáo, thường có nhiều nghĩa khác nhau. Truyện này có ít nhất là hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất là hiếu thảo, báo đáp ân đức của cha mẹ, giúp cha mẹ thoát khỏi khổ nạn.
Nghĩa thứ hai, sâu sắc hơn, là nói về tâm ta.
Tâm là chủ. Tâm ta là mẹ của ta.
Nếu Tâm đầy tham sân si thì ta sa địa ngục. Nếu Tâm thanh tịnh thì ta ở thiên đàng.
Thiên đàng và hỏa ngục cũng đều ở trong Tâm. Chỉ một tích tắc đổi được từ thù hằn sang hiền dịu, là ta đã từ địa ngục bước vào cửa thiên đàng (Xin đọc Cửa thiên đàng)
Tâm tham sân si thì Tâm không thấy rõ điều gì cả, nhìn mọi sự đều đảo ngược như là bị treo ngược. Bát Nhã Tâm Kinh nói “Điên đảo mộng tưởng.” Tham sân si thì điên đảo. Như kẻ nghiện không được mẹ cho tiền hút sách thì nói là mẹ ghét mình, và bạn nghiện rủ mình hút sách thì nói là bạn thương mình.
Người đang bị treo ngược trong địa ngục tham sân si thì thấy mọi sự trên đời đều ngược–đầu thành chân, nền thành nóc, tốt thành xấu, hiền thành dữ, yêu thành ghét, trắng thành đen, bạn thành thù, thù thành bạn, ngu dốt thì tưởng là thông thái…
Và lòng tham thì không bao giờ thỏa mãn, no đủ, như người không được ăn bao giờ. Tất cả mọi thứ mình có–tình yêu, bạn bè, hạnh phúc–đều bị lửa tham của mình đốt sạch.
Trong kinh Vu Lan, mẹ Mục Kiền Liên được chư tăng tụ lại dùng năng lực tụng kinh của mình mà giúp bà thoát khỏi địa ngục.
“Chư tăng” là biểu tượng của cách sống thanh tịnh của Phật pháp. Tăng là người thực hành tâm thanh tịnh. Tức là nếu ta sống tâm thanh tịnh, không phải chỉ là đọc kinh sách mà không thực hành, thì cách sống đó sẽ có năng lực làm cho tâm ta thanh tịnh, thoát khỏi địa ngục tham sân si.
Trong kinh nói “chư tăng mười phương” – tức là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới – nghĩa là hãy dùng mọi sức mạnh ta có, mọi quyết tâm ta có, để giữ tâm thanh tịnh, và Hành trì tại mọi nơi ta đứng – ta luôn đứng giữa 10 phương – “ở đây lúc này”. Không thể không kiên quyết và liên tục mọi giây ta sống trong ngày, mà có thể thoát khỏi địa ngục tham sân si.
Chúc các bạn luôn quyết tâm, không bị treo ngược, giữ được tâm thanh tịnh.
Chúc mỗi ngày của các bạn đều là một ngày Vu Lan.
Mến,
Hoành
Bài này đã đăng dưới tiêu đề “Tâm là mẹ” vào lễ Vu Lan năm 2013. Nay đăng lại với một chút thay đổi.
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Văn Hóa Tagged: Bat Nha Tam Kinh, Buddhism, Phật học, Văn Hóa


June 24, 2016
Vòng tròn Zen
Chào các bạn,
Có lẽ các bạn đã thường thấy vòng tròn Zen trong Thiền tông Nhật Bản. Người Nhật gọi là enso, có nghĩa là vòng tròn. Đây là một biểu tượng thường xuyên nhất của Thiền tông Nhật Bản. Nó có nghĩa là gì?
Nó là vòng tròn. Vòng tròn có nghĩa là gì trong Thiền hay trong văn hóa Phật giáo?
Phần nhiều người ta nghĩ đến mặt trăng. Mặt trăng là biểu tượng của giác ngộ trong Thiền tông. Trăng tròn đầy và sáng. Giác ngộ viên mãn, viên mãn là tròn đầy. Trăng tròn đầy thì sáng, đó là ánh sáng của trí tuệ. Vòng tròn hay mặt trăng biểu tượng cho giác ngộ là vậy.

Thiền sư Ryokan ước gì có thể tặng trên trộm vầng trăng (giác ngộ)
Vòng tròn là biểu tượng cho Không. Vòng tròn là vũ trụ, và vũ trụ rỗng lặng, đó là Không.
Vòng tròn Zen lại thường hở một chút, không phải là một vòng kín mít. Tròn mà không kín, tức là đầy mà không tù ngục. Vũ trụ không biên giới. Tư duy không ngục tù.

Pháp Luân – 8 căm bánh xe là Bát Chánh Đạo.
Vòng tròn là bánh xe quay, chúng ta nhớ đến Bánh xe Chánh pháp, như Kinh Chuyển Pháp Luân (Kinh Chuyển Bánh xe Chánh pháp), hay chữ Vạn là hình ảnh bánh xe xoay.

Chữ Vạn – biểu tượng cho bánh xe xoay
Vòng tròn còn là khái niệm thời gian vòng tròn, không gian vòng tròn, vô thủy vô chung, của Phật triết (không như khái niệm thời gian và không gian đường thẳng, có đầu có cuối, như trong triết lý Tây phương).

Tĩnh lặng
Và quan trọng nhất cho thực hành của chúng ta: Vòng tròn là tĩnh lặng – tròn đầy nhưng rỗng lặng, trái tim tròn đầy nhưng rỗng lặng, không có gì bên trong, không dính mắc vào điều gì.
Chúc các bạn luôn tĩnh lặng.
Mến,
Hoành
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


June 19, 2016
Tĩnh lặng – Gốc tư duy tích cực
Chào các bạn,
Mọi con đường tu tập đều nhằm đưa đến Tĩnh lặng – gốc của Tư duy tích cực. Tĩnh lặng thì tích cực vô biên và không còn tiêu cực.
Thấy được Phật tính của mình, thành Phật, đến Niết Bàn, là Tâm tĩnh lặng. Niết Bàn là lửa đã tắt.
Sống trong Chúa là bình an, không còn lo sợ, bực bội, hờn giận… Đó là tĩnh lặng.
Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Trong Không chẳng có gì cả” (“Cho nên trong Không chẳng có sắc, chẳng có thọ tưởng hành thức; chẳng có mắt tai mũi lưỡi thân ý; chẳng có màu sắc, âm thanh, mùi thơm, vị nếm, xúc cảm và các pháp; chẳng có nơi để nhìn, cho đến chẳng có nơi để ý thức; chẳng có vô minh, cũng chẳng có chấm dứt vô minh; cho đến chẳng có già chết, cũng chẳng có chấm dứt già chết; chẳng có khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ, và con đường diệt khổ; chẳng có trí tuệ, cũng chẳng có đạt [trí tuệ giải thoát].”
Hán việt: Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức; vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc.)
Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh lại kết: “Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, vậy đó!” Nếu trong Không chẳng có gì hết, thì làm gì có bờ này, bờ kia, làm gì có sông có bè, để mà “qua bờ”.
Vậy là sao?
Vậy nghĩa là, khi ta đã đạt tĩnh lặng rồi, đạt Niết Bàn rồi, tức là đi được từ bờ si mê vượt sông đến được bờ giác ngộ rồi, ta nhận ra ta cũng chỉ là ta – cũng đói bụng, cũng bệnh, cũng buồn ngủ, cũng phải ngủ, cũng thấy cuộc đời tham sân si, cũng sống cùng nhân thế – chỉ một điều là ta tĩnh lặng – sống như mọi ngày, làm việc như mọi ngày – với tâm tĩnh lặng, không xung động nhảy choi choi theo hỉ nộ ái ố ai lạc dục. Và đây là Tâm nguyên thủy tinh tuyền mà ta đã bị tham sân si che nên không thấy, bây giờ thấy lại.
Cho nên mới nói: Qua bờ rồi mới biết là chẳng có bờ để qua. Ta vẫn là ta, ta đã chẳng đi đâu cả, đã chẳng vượt qua dòng sông nào cả, mọi thứ chỉ là một hành trình ảo tưởng, để vượt qua mọi ảo tưởng của tâm trí.
Người tĩnh lặng thì cũng ăn, ngủ, cuốc đất, trồng khoai, nấu ăn… như người không tĩnh lặng.
Tĩnh lặng chẳng thay đổi gì đời ta cả. Chỉ thay đổi tâm ta, từ cái nhìn vọng động về cuộc đời, đến cái nhìn tĩnh lặng về cuộc đời.
Nhưng cái nhìn tĩnh lặng về cuộc đời làm ta cảm thương thế nhân đang ngụp lặn trong bể khổ tham sân si, và do đó ta hồi hướng mọi công đức cũng như mọi tư duy và việc làm của ta vào việc giúp thế nhân thoát khổ. Đó là tích cực vô biên.
Thế mới hiểu tại sao Tĩnh lặng là gốc rễ của Tư duy tích cực.
Những điều khác chỉ là tiểu tiết không cần quan tâm, như: Ta làm gì để thế nhân thoát khổ? Ta sống cách nào để cứu độ thế nhân?
Nhân duyên, Trời, đưa ta đến đâu ta làm việc đến đó. Bồ tát chỉ cần biết từ tâm với thế nhân, làm gì thì mỗi ngày sẽ đến với nhu cầu của nó.
Các bạn, đó là tại sao trong khoa học Tư duy tích cực của chúng ta, chúng ta luôn lấy Tĩnh lặng làm gốc.
Chúc các bạn luôn Tĩnh lặng.
Mến,
Hoành
© copyright 2016
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


Trần Đình Hoành's Blog
- Trần Đình Hoành's profile
- 5 followers
