Trần Đình Hoành's Blog, page 15
June 14, 2018
Đối thoại Thiền 1
Trò: Sao thế gian nhiễu loạn?
Thầy: Sao lòng con nhiễu loạn?
Trò: Vì thế gian nhiễu loạn.
Thầy: Thế gian là gì?
Trò: Mọi người.
Thầy: Sao mọi người nhiễu loạn?
Trò: Vì… mọi người nhiễu loạn.
Thầy: Sao lòng con nhiễu loạn?
Trò: … Sao con được bình an?
Thầy: Đừng nhiễu loạn.
Trò: Sao con ngừng nhiễu loạn?
Thầy: Đừng nhiễu loạn.
TĐH
© copyright 2018
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
May 28, 2018
Cầu bất đắc
Chào các bạn,
Cầu bất đắc là muốn mà không được: muốn người yêu mà người yêu bỏ, muốn giàu mà vẫn chưa giàu đủ, muốn địa vị mà chưa tới được địa vị mình nhắm, muốn kinh doanh lớn mà bị sập tiệm, muốn xe hơi xịn mà chưa có… Nhà Phật nói: “Cầu bất đắc khổ” Muốn mà không được thì khổ.
Nhưng chúng ta muốn rất nhiều thứ, và có lẽ là cần muốn nhiều thứ: Muốn học giỏi và đỗ đạt cao, muốn có công việc tốt, muốn có người yêu, muốn có tiền bạc thong thả, và hàng tá điều muốn khác. Và những điều muốn đó khuyến khích ta học hành làm việc chăm chỉ hơn. Phần lớn những điều muốn đó có ích cho đời – bản thân ta khá hơn, sản xuất cao hơn, làm việc tốt hơn cho nền kinh tế, và như thế là tốt hơn cho cả nước và mọi người.
Có gì sai với những ước muốn đó? Bố mẹ thường khuyến khích con cái ước muốn – có những giấc mơ. Thầy cô muốn học trò có những giấc mơ. Theo đuổi những giấc mơ, chúng ta sẽ cố gắng làm việc tốt hơn, siêng hơn, và hiệu quả hơn. Không có những giấc mơ thì đời sống khó phát triển, và rất… chết.
Thế thì làm sao mà tránh “Cầu bất đắc khổ”?
“Nhưng, với tôi, cầu bất đắc mà vẫn không khổ thì sao?” Không nhất thiết muốn mà không được thì phải khổ. Ví dụ: Tôi muốn vào trường y, vào không được, tôi vui vẻ vào trường kinh tế thì sao? Bị người yêu bỏ, tôi buồn 5 phút, có lẽ 5 tuần thì có lý hơn, rồi vui vẻ học hành làm việc, vì “Con gái thời nay khó khăn vậy đó. Phải cố gắng hơn thôi”, thì sao?
Chúng ta phải hiểu “cầu bất đắc khổ” với khái niệm “vô chấp” của nhà Phật. Nhà Phật nói sống “vô chấp”, không nói sống “vô cầu”.
Nhất định là nhu cầu cuộc sống bắt ta cần nhiều điều: tiền bạc, nhà cửa, công việc… Nếu không muốn các điều này, thì mình không biết bạn sống ở đâu, với ai. Nhưng muốn mà không chấp – không bám, không dính, không kẹt cứng vào đó.
Muốn tiền, nhưng chưa đủ tiền cũng không căng, tiếp tục làm việc siêng năng vui vẻ cho đủ tiền. Không phàn nàn, không stress, không đi ăn trộm, không đòi hối lộ. Nếu chưa đủ tiền mua căn nhà lớn như ý mình muốn, thì vẫn vui vẻ mua căn nhà nhỏ, rồi để đó tính sau.
Muốn người yêu tuyệt vời, nhưng chưa gặp được thì đừng than thân trách phận, vẫn cứ yêu đời từng ngày, rồi có lẽ một lúc nào đó một nàng tiên sẽ được bạn Hấp Dẫn tới.
Vô chấp không có nghĩa là không muốn, không sờ, không cầm. Bạn vẫn muốn tiền, sờ tiền và cầm tiền. Nhưng nếu tiền chưa đủ hay bị mất thì vẫn tĩnh lặng yêu đời, chuyển sang phương án 2.
Các quý vị ăn nói kiểu khinh thường tiền bạn, khinh thường người yêu, khinh thường áo quần, khinh thường công việc cao cấp… thì chẳng hiểu Phật pháp. “Khinh thường” là một thái độ không có trong Phật pháp, hỏi Bồ tát Thường Bất Khinh thì biết. Tiền giúp ta rất nhiều thứ, ngay cả xây chùa in kinh cũng phải có tiền. Người yêu cho ta hạnh phúc, dù rằng phải trả giá bằng thỉnh thoảng nhức đầu (Luôn để một ống thuốc nhức đầu trong túi bạn). Công việc cao cấp cho ta cơ hội phục vụ đời lớn rộng hơn.
Đường nhà Phật là đường Trung Đạo, không vất bỏ nhưng cũng không bám víu. Cố gắng sống tử tế, làm việc tử tế, luôn yêu người và yêu đời, hậu quả đến đâu cũng đều vui đến đó, muốn hậu quả tốt hơn thì vui vẻ làm việc nhiều hơn, không phàn nàn, không stress, không căng, không ganh tị… Đó là thái độ “vô chấp”.
Vô chấp là sống nghiệm chỉnh với mọi người, với mọi thứ, vì đời là Sắc. Nhưng không bám, không dính, không tham, không stress, vì đời là Không.
Sắc mà là Không, Không mà là Sắc. Đó là thái độ Trung Đạo.
Đừng nói Phật pháp dạy chê thế gian, chối bỏ thế gian. Đó là thái độ cực đoan, không phải Phật pháp.
Phật pháp dạy sống nghiêm chỉnh với thế gian, vui vẻ với thế gian, như thiền sư thỏng tay vào chợ. Sống giữa chợ đời nhốn nháo với tâm thức thong dong của một thiền sư.
Chúc các bạn luôn yêu đời.
Mến,
Hoành
February 5, 2018
Không có từ tâm – Tại sao?
Chào các bạn,
Tiếng Mỹ có cụm từ “to contemplate your navel” (suy ngẫm rốn của bạn) hay “navel gazing” (nhìn rốn), hay một từ có vẻ khoa học hơn, omphaloskepsis, có nghĩa là “nhìn rốn suy tư” – omphalo là chữ Hy Lạp có nghĩa là rốn, skepsis nghĩa là nhìn, quan sát, phản ánh. Các cụm từ này để chỉ hình ảnh ngồi Thiền, và có nghĩa diễu cợt là ngồi nhìn rốn, tư duy về rốn thì chỉ thấy rốn.
Dù đã có nhiều người Tây phương ngồi Thiền, đa số người Tây phương vẫn cho đó là hành vi tốn thời giờ vô ích. Trong thời kỳ quân đội Miến Điện cai trị độc tài, chẳng hạn, nhiều bài bình luận trên báo chí Tây phương nói về các sư trong hệ thống Phật giáo Miến Điện như những người chỉ biết ngồi nhìn rốn trong Chùa và vô cảm với dân chúng bị đàn áp bên ngoài.
Đây cũng là một câu hỏi thường xuyên với những người năng động và ngồi Thiền: Nếu Thiền là để dập tắt mọi xung động, mọi xúc động, có thể nào Thiền làm cho chúng ta thành vô cảm?
Câu trả lời là: “Vâng, rất có thể Thiền làm cho chúng ta thành vô cảm, nếu chúng ta hành Thiền mà không hiểu Thiền.”
Đọc lại truyện Thiền “Không có từ tâm”:
Một người phụ nữ ở Trung Quốc đã cấp dưỡng một vị sư hơn 20 năm. Bà đã làm một chòi nhỏ cho sư và lo việc ăn uống khi sư thiền định. Cuối cùng bà thắc mắc là không biết vị sư đã tiến bộ được gì trong suốt bao nhiêu năm. Để tìm câu trả lời, bà nhờ một cô gái đầy ham muốn giúp một tay. “Vào ôm ông,” bà bảo cô gái, “rồi hỏi đột ngột: ‘Làm gì bây giờ?’ ”
Cô gái vào gặp sư và, chẳng nề hà gì, đến vuốt ve sư, hỏi sư phải làm thế nào về việc đó.
“Một cây mọc trên tảng đá trong mùa đông,” vị sư trả lời đầy thi vị. “Chẳng nơi đâu có hơi ấm.”
Cô gái trở về và báo cáo lại điều sư nói.
“Nghĩ đến việc tôi nuôi ông này cả 20 năm!” bà than một cách giận dữ. “Ông ta chẳng tỏ vẻ gì quan tâm đến nhu cầu của cô, chẳng hề muốn giải thích tình trạng của cô. Ông ta không cần phải đáp lại ham muốn, nhưng ít ra ông ta cũng phải tỏ lộ được một tí từ tâm.”
Bà liền đi ngay đến chòi của vị sư và đốt nó.
Việc người phụ nữ giận dữ đến đốt chòi, là để diễn tả tính cách nghiêm trọng của vấn đề, lỗi lầm nghiêm trọng của vị sư: “Nhiều vị sư ngồi Thiền cả mấy mươi năm mà chẳng hiểu tinh yếu của Thiền và, do đó, hoàn toàn lạc đường mà không biết.”
Đương nhiên không phải chỉ là sư, mà là cả muôn vạn người đang ngồi Thiền có thể đang lạc như thế. Vì vậy, đây là vấn đề nghiêm trọng.
Cô gái đến làm chuyện quyến rũ thì chẳng có gì đáng nói, vì có lẽ là nhào đến ôm sư như thế thì chẳng quyến rũ ai được, đừng nói là sư, (trừ khi đó là quán bia ôm hay cà phê ôm).
Nhưng câu trả lời của sư cho cô gái chỉ rõ ra cách tư duy của sư và hướng quan tâm của sư. Có lẽ mọi người trong tình trạng của sư đều thắc mắc ngay tức thì: “Cô này có bệnh tâm thần không? Chẳng lẽ cô yêu mình quá nhưng không biết cách nói, ngoại trừ cách tỏ tình thô thiển này? Hay là cô có vấn đề gì? Dù sao thì đây cũng là điều không bình thường và không tốt cho cô này.”
Người quan tâm đến cô gái có lẽ sẽ nói gì đó, hỏi chuyện với cô một chút, hy vọng là có thể hiểu thêm một chút gì để vừa giúp cô này vừa giải quyết vấn đề cho mình.
Nhưng sư, ngồi Thiền (lạc đường) đã lâu, nên chẳng quan tâm đến ai cả, mà chỉ nghĩ đến chính mình: “[Tôi là] một cây mọc trên tảng đá trong mùa đông, chẳng nơi đâu có hơi ấm.” Đây là một câu nói về chính mình, đầy hãnh diện, với một cô gái rất có vẻ tâm thần.
Sư (1) tập trung vào chính mình và (2) không hề quan tâm đến người khác. Đây là vấn đề lớn của sư và cũng là của Phật pháp. Đó là, cái tôi (ngã) của sư quá lớn vì sư tập trung vào chính cái ngã của mình trong bao năm, và cái ngã lớn của sư che mắt sư nên sư không thấy được người khác, không quan tâm về người khác, và sư vô cảm.
Đây là phản lại Thiền 180 độ – Thiền là vô ngã (không tôi) và từ tâm thương yêu chúng sinh vô hạn.
Con đường Bồ tát là gì?
Bồ tát tự độ mình để độ mọi chúng sinh. Bồ tát tu tập để giải thoát chính mình và giúp mọi chúng sinh giải thoát.
Bồ tát thương yêu mọi chúng sinh vô hạn. Tấm lòng Bồ tát tĩnh lặng, như mặt hồ lặng như gương, một hạt cát rơi vào mặt hồ là mặt gương gợn sóng. Bồ tát cảm nhận mọi đau khổ từ rất lớn đến rất nhỏ của mọi chúng sinh. Yêu thì cực kỳ nhạy cảm đến mọi đau khổ của người mình yêu. Không nhạy cảm thì không yêu. Bồ tát Quán Thế Âm, chẳng hạn, có nghìn tay nghìn mắt là để thấy được mọi đau khổ của thế gian và có thể cứu khổ cho mọi chúng sinh ở thế gian.
Bồ tát nhạy cảm với từng nỗi khổ của người khác, nhưng Bồ tát không xung động – không nhảy choi choi – lòng vẫn tĩnh lặng để thấy mọi sự rõ ràng như nó là (as it is) và biết nên làm gì để giúp người đau khổ.
Bồ tát rất nhạy cảm với mọi nỗi khổ của thế nhân. Từ tâm vô hạn là trái tim Bồ tát.
Hơn nữa, chúng ta nói “Bồ tát độ mình và độ người”. Đó là cách nói cho dễ hiểu, nhưng Bồ tát không phân biệt mình và người. Bồ tát độ mình chính là độ người, Bồ tát độ người chính là độ mình. “Nếu Bồ tát còn thấy mình, thấy người… thì đó không phải là Bồ tát.” (Nhược Bồ tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ tát) (Kinh Kim Cang, Đoạn 3 – Đại thừa chính tông).
Bồ tát không thấy mình, không thấy người. Mình chính là người, người chính là mình. Cái đau của người chính là cái đau của mình, mà mình có thể thấy được từng li. Và mình độ người cũng là độ chính mình, mình chỉ độ mà chẳng làm ơn nghĩa gì cho ai cả.
Đó là tư duy Bồ tát, tư duy đầy yêu người như yêu chính mình, đau với người như đau với chính mình, giúp người giải thoát cũng chính là giúp mình giải thoát.
Mình và người là một. Tình yêu vô hạn làm hai người thành một.
Và đó là Thiền.
Ngồi Thiền để tập trung vào hơi thở (hay vào gì đó) chỉ là cách rất căn bản để giữ tâm trí không đi lang thang như khỉ chuyền cành, giúp tâm trí tĩnh lặng dễ hơn.
Nhưng ngồi Thiền như thế chẳng đưa chúng ta đến đâu cả, và rất có thể đưa ta thành chàng ngố vô cảm.
Thiền là tĩnh lặng và yêu người vô hạn. Nếu ta ngồi Thiền và không luôn nhớ đến đỉnh điểm này của Thiền (“Thiền là tĩnh lặng và yêu người vô hạn”), thì ta rốt cuộc cũng chỉ là “Một cây mọc trên tảng đá trong mùa đông, chẳng nơi đâu có hơi ấm.”
Chúc các Bồ tát luôn từ tâm vô hạn.
Metta,
Hoành
© copyright 2018
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
January 17, 2018
Tâm thanh tịnh và các từ tương đương
Chào các bạn,
Trong bài này mình sẽ đi qua một loạt từ khác nhau trong Phật triết, nhưng có cùng một ý nghĩa như tâm thanh tịnh, để chúng ta không còn rối rắm khi đọc kinh sách Phật.
Các từ dưới đây chỉ là một số từ thường xuyên gặp trong kinh sách, và mỗi nghĩa ở đây cho một chữ cũng chỉ là một nghĩa trong số nhiều nghĩa khác nhau của chữ đó, khác nhau chút ít về kỹ thuật tùy theo câu nói. Để biết mỗi từ rõ ràng, cách hay nhất là tra tự điển Phật học.
– Tâm
Tâm là từ rất chung chung, thường đứng trước vài từ khác, như tâm thanh tịnh, tâm tĩnh lặng, tâm Phật… Cho nên chúng ta nên nói qua từ “tâm” trước mọi từ khác.
Tâm là trái tim. Nhưng trong Phật triết, cũng như trong văn hóa Việt Nam, tâm là trái tim và trí óc (tâm và ý), nói chung là toàn bộ tư duy của con người – cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ, lý luận, nhận xét, kết luận, quyết định.
Chúng ta dùng “tâm” vì thường chú trọng vào khía cạnh tình yêu trong tư duy. Đôi khi ta dùng “ý” để chú trọng vào trí óc, lý luận.
Ngôn ngữ thuần Việt có từ tương tự như “tâm”, đó là “lòng”, như lòng mẹ (tâm mẹ), lòng yêu người (tâm yêu người), lòng tham (tâm tham)…
Trong tiếng Anh, người ta dùng “mind” (trí óc) thường hơn. Thỉnh thoảng người ta dùng “heart” (trái tim), hay heart/mind, hay mind/heart.
– Tâm thanh tịnh
Tâm thanh tịnh là the pure heart trong tiếng Anh.
• Ngay trong phần mở đầu Kinh Pháp Cú, kinh quan trọng số 1 trong Phật giáo Nguyên thủy, phẩm đầu tiên, tức phẩm Song Yếu, đoạn 2, ta thấy:
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình “
Thích Minh Châu dịch
(Chú ý: Ở đoạn kinh này, “ý” được dùng thay vì “tâm”).
• Từ “thanh tịnh” cũng có trong lời Bồ Đề Đạt Ma nói với Lương Vũ Đế về “công đức”: “Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.”
“Trí” chính là “trí óc”, “ý”, “mind”. Trí phải thanh tịnh hoàn toàn.
“Thể” là bản chất. “Thể” phải được trống không vắng lặng. Bản chất của ta phải trống không vắng lặng.
Ngày nay, chúng ta dùng “tâm” cho trí và thể của Bồ Đề Đạt Ma: Tâm thanh tịnh, tâm trống không vắng lặng, đó mới là công đức.
• Ngay trong phần mở đầu của Pháp Bảo Đàn Kinh, của Thiền tông Lục tổ Huệ Năng, sư nói: “Thiện tri thức, tự tánh của Bồ Đề vốn thanh tịnh, chỉ dụng tâm này trực liễu thành Phật.”
• Tác phẩm “Thanh tịnh đạo”, do luận sư Bhadantacariya Buddhaghosa trước tác vào thế kỷ V, tóm tắt giáo lý và thực hành Phật giáo Nguyên thủy, có tên Pali là Visuddhimagga. Magga là con đường. Visuddhi là thanh tịnh, purification, purity. “Thanh tịnh đạo” là “Con đường thanh tịnh”, tiếng Anh là “the Path of Purification” hay “the Path of Purity”.
– Tâm tĩnh lặng
Tâm tĩnh lặng (the tranquil heart, the still heart). Đây cũng là tâm thanh tịnh.
– Tâm rỗng lặng
Tâm rỗng lặng (the empty and tranquil heart) cũng là tâm tĩnh lặng, tâm thanh tịnh, chỉ nhấn mạnh thêm ý “rỗng”. Rỗng là không có gì, empty. Nhưng chính xác hơn, “rỗng” ở đây có nghĩa là không chấp (non-attachment), không bám (non-grasping), không dính (non-sticking) vào điều gì.
– Tâm Không
Một cách nói khác của “Tâm rỗng lặng”
– Tâm nguyên thủy
Tâm nguyên thủy (the original mind/heart) nói đến bản tánh nguyên thủy (tánh thật) của con người là thanh tịnh, trước khi bị si mê làm thành vọng tâm (tâm si mê, unlightened mind/heart).
Một cụm từ tương đương là “bản lai diện mục” (mặt mũi nguyên thủy, Phật tính, original face, Buddhahood).
– Chân tâm
Chân tâm là tâm thật (true heart), không phải vọng tâm (tâm si mê, unlightened heart).
“Vọng” là xằng bậy, như “vọng tưởng” là suy nghĩ bậy bạ. “Vọng” là “sai, không thật”, như “vọng ngữ” là nói dối. “Vọng” là tự cao tự đại như “cuồng vọng” (tự cao thành điên) . “Vọng tâm” là “tâm giả”, không thật, khác với “chân tâm” là “tâm thật”.
– Tâm bồ đề
Bồ đề (bodhi) là giác ngộ, thức tỉnh (enlightened, awakened).
– Giác ngộ
Giác ngộ (enlightened) là tỉnh thức, bodhi, awakened, bồ đề.
– Tỉnh thức
Tỉnh thức (awakened) là giác ngộ, bồ đề, enlightened, bodhi.
Bodhisattva, Người tỉnh thức, Người giác ngộ, là Bồ tát.
– Tâm Phật
Tâm Phật (Buddha’s heart) cũng là tâm Bồ tát, tâm Người tỉnh thức, tâm Người giác ngộ.
– Niết Bàn
Niết Bàn (Nirvana) nghĩa là lửa đã tắt. Đây là nói đến tâm thanh tịnh, không còn chút xung động, tham sân si nào (lửa đã tắt). Niết Bàn là tâm Phật, tâm Bồ tát, tâm giác ngộ.
– Mặt trăng / ánh trăng
Mặt trăng hay ánh trăng là biểu tượng cho giác ngộ, tỉnh thức.
Tất cả mọi từ trên đây đều có một nghĩa là “giác ngộ” (enlightened, awakened). Mọi từ đều có một nghĩa như nhau là Tâm thanh tịnh.
– Tâm thanh tịnh là tâm hoàn toàn không có gì làm vẫn đục:
• không tham sân si, không tội lỗi, không phân biệt, không chấp trước, không dính mắc;
• tâm nhận thức được tất cả mọi điều, nhưng không bị kẹt (không bị dính) vào đâu (aware of everything but not attached to anything);
• tâm đầy từ bi hỉ xả (metta, karuna, mudita, upekkha) mà không bị chấp dính vào tình yêu.
– Tâm thanh tịnh là tâm tĩnh lặng, tâm rỗng lặng, tâm Không.
– Tâm thanh tịnh là tâm nguyên thủy, là bản lai diện mục, là Phật tính của mỗi chúng ta.
– Tâm thanh tịnh là tâm thật, chân tâm, của chúng ta.
– Tâm thanh tịnh là tâm bồ đề, tâm giác ngộ, tâm Phật, tâm Bồ tát, tâm tỉnh thức.
– Tâm thanh tịnh là Niết bàn.
– Tâm thanh tịnh thường có biểu tượng là mặt trăng, ánh trăng.
Những tên “tâm” này, dù có cùng một nghĩa, nhưng khi dùng có thể hàm ý nhấn mạnh một điểm khác nhau chút ít, như các điểm nhấn sau đây.
– Trí tuệ: Tâm Bồ đề, Tâm giác ngộ, Tâm tỉnh thức, ánh trăng (đôi khi là mặt trời / ánh sáng mặt trời).
– Bản tánh: Tâm thanh tịnh, tâm tĩnh lặng, tâm rỗng lặng, tâm Không.
– Phật vị: tâm Phật, tâm Bồ tát
– Thời gian: Tâm nguyên thủy, Chân tâm (tâm thật), (rồi “tâm phàm phu” hay “vọng tâm”, vì si mê), rồi Niết Bàn (trở về tâm nguyên thủy).
Nhưng dù gì thì mọi từ bên trên đều đồng nghĩa như nhau và nói về một điều như nhau.
Hy vọng một chút thông tin này giúp các bạn bớt rối rắm khi đọc kinh sách Phật.
Chúc các bạn luôn tinh tấn.
Mến,
Hoành
© copyright 2018
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
November 26, 2017
Phât tính và chúng ta
Chào các bạn,
Các bạn có biết tại sao chúng ta cảm thấy khó sống với Phật tính của ta không?
Tại vì, chúng ta không được dạy sống như thế từ nhỏ. Từ nhỏ và lớn lên, dần dần, chúng ta được học, qua tác phong của người lớn, tranh giành, hơn thua, gian dối, ganh tị, ghen ghét, tham lam, sân hận, kiêu căng… Còn Phật tính thì mấy người nghĩ tới?
Chúng ta thường nghe đến các bài học luân lý bỏ ác làm thiện, hoặc nghe thiền thoại về tập trung đầu óc, và rất ít khi nghe về Phật tính như là điều duy nhất, hay ít ra là quan trọng nhất, để tập trung vào. Đây là điều cần được nhắc nhở hằng ngày, nhưng điều này ít khi xảy ra.
Khái niệm rất giản dị này – chúng ta có Phật tính, chúng ta là Phật đang thành, chúng ta chắc chắn sẽ thành Phật – nên được chúng ta tự nhắc nhở mỗi ngày.
Nếu chúng ta được dạy từ nhỏ ta là Phật, nên sống như Phật, và có người sống như thế trước mặt ta hằng ngày, thì có lẽ sống như Phật không quá khó như ngày nay.
Nói như thế để chúng ta cùng hiểu sống như Phật thành khó vì chúng ta đã quen sống cách sống phàm phu, như người trước nay hút thuốc uống rượu hằng ngày thì khó bỏ để mà sống thanh sạch hơn.
Rất nhiều bạn nói với mình: Em muốn đừng hay giận, mà không được. Đừng hay ghen, mà không được. Đừng hay ganh tị, mà không được. Dễ thương vui vẻ với mọi người, mà không được.
Nói thế thì chẳng khác gì bước vào võ đường và nói với sư phụ: Em muốn nhảy lên trời đá song phi mà không được. Thầy chỉ mỉm cười và nói: Đương nhiên là được; em chỉ cần học võ một thời gian.
Nhưng đây là điểm quan trọng các bạn cần nắm: Học sống cách “bỏ điều xấu làm điều thiện” không phải là cách học tốt nhất, vì Luật Hấp Dẫn. Dưới Luật Hấp Dẫn, nếu bạn càng tự bảo: “Tôi đừng ganh tị” thì ganh tị càng ùa vào bạn, vì bạn nghĩ đến điều gì nhiều (kể cả nghĩ đến để “chống” nó) bạn càng kéo điều đó vào bạn. Cũng như cha mẹ cứ bảo con “đừng ngu” thì nó sẽ ngu thêm. Các bạn chắc đã từng có nhiều kinh nghiệm khó khăn khi chăm chú bỏ điều gì xấu trong tư duy hay thái độ của ta. Đó là vì Luật Hấp Dẫn. Bí quyết là tập trung vào một điều trung tâm cực tốt, hoàn toàn tích cực, thì điều đó sẽ tự động đánh bạt những điều tiêu cực mà ta không cần quan tâm đến. (Nếu bạn là người có tâm lực rất mạnh thì lại là chuyện khác. Bạn có thể nói “bỏ” là bỏ tức thì. Nhưng tâm lực như thế thì thuộc hàng Thiền tổ rồi. Không cần đọc bài này).
Học tâm linh là nắm lấy bản tính của mình và sống bằng bản tính của mình. Nhận rằng mình là Phật đang thành, và sống như Phật.
Sống như Phật là sống thế nào thì chắc mọi chúng ta không biết nhiều cũng biết ít. Không biết thì tìm một cuốn sách về đời Phật Thích Ca mà đọc. Cách tư duy của Phật, cách suy nghĩ của Phật, thái độ của Phật trước mọi vấn đề – Tĩnh lặng, từ bi, nhẫn nhục, vô chấp… đó là điều chúng ta muốn học. Chuyện bên ngoài, như áo choàng vàng và cạo đầu, hay làm nghề gì… thì không cần thiết. Tâm là chủ. (Thật ra, Phật Thích Ca để đầu tóc xoắn rất hippy hơn cả The Beatles
November 20, 2017
Tập trung
Chào các bạn
Sau nhiều năm quan sát đời sống, mình đi đến một kết luận rất chắc chắn là: Con người lạc lối vì thiếu tập trung. Con người ở đây là loài người, quốc gia, xã hội, và mỗi cá nhân chúng ta.
Thực sự là điều gì cũng khá dễ trên đời. Một việc chỉ thành khó khi ta không tập trung vào nó, mà để đầu óc chạy lang bang khắp chốn.
Năng lực không tập trung được, chạy tản mạn, thì ta không có sức. Giản dị thế.
Tưởng tượng vô địch cử tạ thế giới, không tập trung, trong thời gian thi đấu, hết chạy đua rồi bơi đua, đá bóng, đủ thứ trò… thì làm sao còn đủ năng lực để cử tạ. Muốn thắng cử tạ thì chỉ có một cách: ăn, ngủ, nghỉ, và cử tạ.
Chúng ta nói kiên trì thì chắc chắn sẽ thành công. Nhưng kiên trì chính là tập trung. Người kiên trì tập trung làm một việc, ngày này sang tháng nọ, cho đến khi được việc và thành lớn.
Khái niệm tập trung này dễ hiểu, rõ ràng hơn cả khái niệm kiên trì, nên các bạn cần nhớ. Tập trung vào điều gì có nghĩa là dành nhiều thời gian và công sức làm điều đó. Và khi tập trung vào điều đó thì không làm việc khác.
Nếu bạn muốn giỏi tiếng Anh, thì bỏ ra nhiều giờ học tiếng Anh mỗi ngày – học văn phạm, học viết, học nghe, học nói… Và khi học thì tập trung học, đừng mở Facebook, tin nhắn, game, và đủ thứ đồ điện tử. Các đồ điện tử là sư tổ làm người ta mất tập trung.
Yêu một cô thì tập trung vào cô ấy: Ngồi gần nhau thì đừng mở điện thoại lướt Facebook. Nói chuyện thì chăm chú nghe, chăm chú nói. Hỏi thăm về cô ấy thay vì nói chuyện bóng đá hay chính trị. Quan tâm đến vui buồn bệnh khỏe của cô ấy. Nếu không tập trung như thế thì đừng thắc mắc tại sao tôi không có người yêu dù đã 40 tuổi.
Đôi khi trong đời bạn chưa biết tập trung vào điều gì, cho nên cảm thấy chơi vơi lạc lõng. Đây cũng là chuyện bình thường cho nhiều người. Vậy thì tập trung vào yêu người và yêu đời. Tập trung vào nhìn cái đẹp mỗi khi ra đường – nắng, gió, mây, trời, chim chóc, cây cỏ, hoa lá… người qua đường, nét đáng yêu của các em bé, nét đáng phục của người bán hàng rong, nét căng của nhiều người qua lại để mà thương cảm họ… Tập trung vào “nhìn” thế giới và con người sẽ làm cho trái tim của ta rộng mở và ta sẽ thấy được nhiều con đường trước kia chưa thấy. Trái tim rộng mở luôn thấy đươc rõ và nhiều.
Nếu bạn chưa tập trung được vào điều gì và đang cảm thấy lạc đường, chơ vơ lạc lõng, thì bạn hiểu mình đang nói gì. Mình không cần giải thích cảm tưởng lạc lõng là thế nào, vì bạn biết rất rõ. Điều chính là nếu bạn lạc lõng thì cần biết cách chỉnh đốn tư tưởng từ từ. Thường là nếu chúng ta thấy không phương hướng thì tập trung vào yêu đời yêu người, hiểu đời hiểu người; đây là cách giải quyết vấn đề tốt nhất. Nếu bạn đang lạc phương hướng, thì tìm ra chuyện gì làm để có phương hướng là điều gần như không thể, vì nếu có thể thì bạn đã tìm ra rồi và đã không gặp vấn đề. Chỉ có cách mở rộng trái tim của mình, thì mắt mình sẽ thấy nhiều hơn khi trước để mà chọn lựa.
Trong đời sống tâm linh, có đủ thứ pháp môn, đôi khi làm các bạn choáng vì nhiều thứ quá. Nhưng chỉ có một điểm tập trung: Sống với Phật tính (với Chúa) trong ta và yêu tất cả mọi người vô điều kiện. Tất cả mọi pháp môn khác chỉ để hỗ trợ điểm tập trung này. Chẳng có pháp môn nào có mục đích riêng của nó. Nếu tập tành gì mà khi tập không ý thức được mục đích này, thì đương nhiên là bạn đi lạc. (Xem Không có từ tâm). Vấn đề tâm linh số một trong thế giới là người ta không tập trung đúng chỗ và tản mạc năng lực ra đủ mọi thứ để phải lạc luôn trong rừng.
Mọi pháp môn nhà Phật cũng chỉ giúp người ta tập trung – thiền hít thở tập trung vào hơi thở, công án để chặn tâm trí không đi lang thang, thiền quán là tập trung “nhìn” vào điều mình đang quán, thiền từng phút là để tập trung vào một việc gì đang làm mà thôi, niệm phật A di đà là để tập trung vào Phật tính của mình. Tương tự như thế, trong Kitô giáo bạn tập trung vào chỉ một điều duy nhất là Chúa Giêsu – sống như Giêsu với Giêsu là bạn đồng hành từng giây trong ngày.
Điểm chính yếu: Tập trung vào sống như Phật Thích Ca, như Chúa Giêsu, và yêu mọi người. Các thứ khác đều không cần thiết, hoặc nếu bạn thích, thì chỉ để hỗ trợ cho điểm chính yếu này.
Bạn không cần thông minh, không cần thiên tài, không cần giàu có, không cần cơ hội ai cho… Bạn chỉ cần tập trung vào việc gì bạn muốn tập trung, trường kỳ, tức là kiên trì – kiên trì tập trung – thì bạn sẽ thành công 100% dù bạn định nghĩa thành công là gì.
Tập trung, tập trung, tập trung.
Đây là một kỹ năng dễ tập. Khi nào muốn tập trung vào việc gì thì dẹp hết mọi thứ có thể làm mình chia trí. Và chỉ tập trung đầu óc năng lực vào làm việc đó mà thôi.
Nếu chưa biết tập trung vào điều gì thì tập trung vào yêu người. Yêu người mở rộng cả trái tim lẫn trí tuệ của ta, để bạn có thể thấy nhiều hướng đi đẹp mà chọn.
Giản dị thế.
Chúc các bạn luôn tập trung.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 17, 2017
Thiên đàng và địa ngục
Chào các bạn,
Có lẽ các bạn đã biết truyện Thiền Cửa thiên đàng:
Một chiến binh tên Nobushige đến gặp Hakuin, và hỏi: “Có thiên đàng và địa ngục không?”
“Anh là ai?” Hakuin hỏi.
“Tôi là một hiệp sĩ đạo,” người chiến binh trả lời.
“Anh, chiến sĩ!” Hakuin kêu lên. “Vua chúa nào dùng anh làm cận vệ? Mặt anh nhìn như mặt ăn mày.”
Nobushige quá giận và bắt đầu rút kiếm ra, nhưng Hakuin tiếp tục: “Anh cũng có kiếm nữa! Kiếm của anh chắc là quá cùn để chặt đầu tôi.”
Trong khi Noshibughe rút kiếm Hakuin nói: “Đây cửa địa ngục đang mở.”
Nghe những lời này, chàng hiệp sĩ đạo nhận ra kỷ luật của thiền sư, bỏ kiếm lại vào bao và gập người chào.
“Đây cửa thiên đàng đang mở,” Hakuin nói.
Thiên đàng và địa ngục trong tâm ta, ở đây, lúc này. Và chính ta là người gác cổng thiên đàng, cũng như hỏa ngục. Chính ta đưa ta vào thiên đàng hay hỏa ngục.
Yêu là thiên đàng, ghét là địa ngục.
Bố thí là thiên đàng, tham lam là địa ngục.
Khiêm tốn là thiên đàng, kiêu căng là địa ngục.
Từ bi là thiên đàng, sân hận là địa ngục.
Thành thật là thiên đàng, dối trá là địa ngục.
Tĩnh lặng là thiên đàng, xung động là địa ngục.
Và đây không phải là triết lý hay lý luận. Đây là sự thật. Các bạn chỉ cần nhớ lại cảm giác khi yêu, khi ghét, khi khiêm tốn, khi kiêu căng, thì biết ngay đâu là thiên đàng đâu là địa ngục. Không cần ai dạy mình thiên đàng ở đâu, địa ngục ở đâu. Nếu nói chuyện thiên đàng địa ngục sau khi chết, thì các vị đều nói dối vì chẳng vị nào chết rồi sống lại về đây để kể chuyện. Ai cũng nói theo sách, hay theo tưởng tượng.
Chúng ta không thể biết gì bên sau ngưỡng cửa sự chết, cho nên chẳng nên nói gì về thiên đàng địa ngục sau khi chết. Có nói gì thì cũng là lảm nhảm. Phật Thích Ca không trả lời các câu hỏi về điều gì bên sau sự chết. Trong Tiểu Kinh Malunkya (Trung bộ kinh, Phẩm 63) Đức Phật nói: “Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: ‘Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết'”. Những câu hỏi triết lý trừu tượng như thế chỉ làm tốn thời giờ mà chẳng liên hệ gì đến giải thoát ta khỏi bể khổ.
Nhưng có một điều chúng ta có thể chắc chắn: Nếu bây giờ sống tử tế, thì sau khi chết ta cũng được tử tế, nếu sau khi chết có gì. Biết thế là đủ. Khỏi phải bàn lăng nhăng.
Điều quan trọng là ta cần có thiên đàng và tránh xa địa ngục lúc này.
Các bạn, chúng ta là thiên thần giữ cửa thiên đàng của chính ta, và cũng là ngạ quỷ giữ cửa địa ngục của chính ta. Chúng ta cũng là thánh nhân trong thiên đàng của chính ta, và cũng là tù nhân trong địa ngục của chính ta. Chẳng có ai nữa.
Cho nên, đừng mong chờ ai khác. Bạn có thể nhờ Phật nhờ Chúa giúp bạn sống bình thản, an nhiên tự tại. Các vị có thể tư vấn cho bạn một tư duy, kích thích cho bạn tích cực hơn một chút. Nhưng chính bạn phải sống an nhiên tự tại. Các vị chẳng thể sống giúp bạn được. Và nếu bạn nhất định phải đi gây lộn thì Chúa Phật nào có thể giúp bạn không rơi vào địa ngục mà bạn vừa mở ra cho bạn vào?
Chúng ta làm chủ tâm ta, làm chủ thiên đàng và địa ngục của ta, là thánh nhân trong thiên đàng và tù nhân trong địa ngục của ta. Ta là tất cả những người này. Chẳng còn ai khác.
Cho nên các bạn, nếu bạn đang đau khổ, đang nhức nhối, đang sầu bi,… đừng chờ ai khác: Hãy tự mở của thiên đàng của bạn.
Nhưng em đang đau quá mà anh. Làm sao em có thể mở cửa thiên đàng?
Trái tim chúng ta vốn rỗng lặng như bầu trời trong xanh. Những đám mây đen đang trôi qua bầu trời. Nhưng chúng sẽ qua và bầu trời lại trong xanh rỗng lặng.
Mọi hiện tượng làm ta đau khổ chỉ là phù du, ảo ảnh, điên đảo mộng tưởng, mộng ảo bọt bóng. Chúng chỉ là những đám mây đen, chẳng ảnh hưởng gì đến bầu trời. Chúng chỉ là những bóng ma làm ta sợ hãi. Thấy như thật mà không thật. Mà dù có như thật thì cũng phù du, chỉ trong một lúc rồi biến khỏi bầu trời. Không mây đen nào có thể tồn tại lâu.
Nhắm mắt lại, nghĩ đến bầu trời xanh của trái tim ta và nói: “Ta không thể để ảo ảnh lừa ta. Trái tim ta là bầu trời bao la, chẳng đám mây nào có thể làm hỏng bầu trời và lấy đi tĩnh lặng muôn thuở của trời.”
I am the sky. Large and empty. I am.
Chúc các bạn luôn rỗng lặng.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 14, 2017
Bố thí
Chào các bạn,
Bố thí (giving) là một trong Lục độ ba-la-mật (tiếng Phạn Sanskrit: 6 paramitas), tức là 6 cách (phương tiện, methods, tools, virtues) trong Bồ tát đạo (Bodhisattva way) để độ chúng ta, đưa chúng ta từ bờ khổ vượt sông mê đến bờ giác ngộ.
Bố thí là độ đầu tiên, tức là căn bản nhất, trong Lục độ: Bố thí (Dana-paramita) , Trì giới (Sila-paramita), Nhẫn nhục (Ksanti-paramita), Tinh tấn (Virya-paramita), Thiền định (Dhyana-paramita), Trí tuệ (Prajna-paramita).
Bố thí là cho đi, cho người khác. Cho đi là bớt đi của tôi, bớt đi cái tôi.
Có ba cách bố thí:
– Tài thí: cho tài sản, tiền bạc, vật dụng.
– Pháp thí: cho kinh Phật, giảng dạy và quảng bá Phật pháp.
– Vô úy thí. Cho cái không sợ, làm cho người ta được bình an. Tức là, giúp người ta biết tĩnh lặng trước mọi tình huống, dạy cho người ta cách tự bảo vệ…
Kinh Kim Cang nói: “Bồ tát… nên không có chỗ trụ mà bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí… Bồ tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng.” (KKC, Đoạn 4)
Tức là, Bồ tát bố thí mà chẳng vì mục đích gì, lý do gì, công đức gì, giáo pháp gì. Bồ tát bố thí mà chẳng mong cầu bất kì điều gì.
Tại sao?
Vì “nếu Bồ tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức chẳng phải Bồ tát.” (KKC, Đoạn 3).
Tức là, Bồ tát không thấy tôi bố thí, không thấy người nhận bố thí, không thấy chúng sanh được bố thí, không thấy pháp nào nhận bố thí, không thấy luôn cả việc bố thí. Bồ tát bố thí tự nhiên như hít thở cho chính mình.
Đó là tinh thần bố thí.
Chúa Giêsu nói: “Khi bạn bố thí cho người thiếu thốn, đừng để tay trái của bạn biết tay phải đang làm gì, để việc bố thí của bạn có thể bí mật.” (Matthew 6:3).
Tinh thần bố thí thật sự là thế, không mong cầu gì cho mình, chỉ là bố thí vì mình yêu người và mình có thứ để cho người. Yêu thì cho nhau tự nhiên như thế. (Xem Ý nghĩa hành động của ta).
Ngày nay chúng ta có lẽ học theo Mỹ, cho gì đó là quảng cáo tên mình rộn ràng trên báo chí, truyền thanh truyền hình, mạng xã hội, tặng một phòng học thì đặt tên mình cho phòng học, tặng một miếng đất làm công viên thì đặt tên mình làm tên công viên. Đó là kiểu Mỹ, như là viện trợ Mỹ luôn có câu “Viện trợ (hay quà tặng) của chính phủ và nhân dân Mỹ”. (Các chính phủ khác cũng làm như thế, nhưng Mỹ là thường xuyên và rõ ràng nhất).
Các bạn, nếu bạn muốn dùng bố thí để quảng cáo cho tổ chức, công ty, kinh doanh của bạn, thì cũng tốt, và người nhận quà của bạn cũng được lợi. Nhưng các bạn cần hiểu, như thế là huề. Bạn bỏ tiền ra mua danh tiếng và đã được danh tiếng, thế là huề. Bạn chẳng tạo được gì tốt cho tinh thần của bạn.
Bố thí mà giúp được tâm hồn bạn thanh tịnh là bố thí mà không bố thí. Bố thì mà không thấy mình bố thí, không thấy người nhận bố thí, không thấy việc bố thí. Bố thí mà tay trái không biết việc bố thí của tay phải.
Đây là tâm thanh tịnh, hay tâm tĩnh lặng. Không vướng mắc vào đâu, không dính vào đâu, không trụ vào đâu, không chấp vào đâu. Đó là tâm Bồ tát, tâm Bồ đề.
Tiếng Mỹ có từ do-gooder, người làm việc tốt, có ý nghĩa xấu là làm việc tốt mà ngớ ngẩn, để cho điều mình giúp bị tồi tệ thêm, hoặc là làm với đầu óc thỏa mãn: “Tôi làm việc tốt, tôi là người tốt, tôi làm vui lòng Chúa.”
Thực sự, Chúa Phật dạy chúng ta cho đi để giảm của tôi và cái tôi xuống, không để tăng cái tôi lên như thế. Và các vị dạy ta bố thí để tốt cho tâm thanh tịnh của ta, chẳng vì để các vị hài lòng. Các vị luôn yêu ta dù ta làm đúng hay sai, còn gieo nhân nào gặt quả nấy là việc tự nhiên của ta, các vị chẳng can dự vào.
Các bạn, nên quên đi việc Chúa Phật hài lòng hay không. Hãy tập trung vào tâm mình có thanh tịnh hay không. Tu mà chấp vào Chúa Phật thì cũng hỏng. Thiên hạ chấp vào danh Chúa Phật để đánh nhau cả nghìn năm rồi. Không chấp, không trụ vào đâu cả. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Chúa Phật có nói gì thì cũng chỉ để giúp bạn có tâm thanh tịnh – không tham, không sân, không si, không mong cầu, yêu tất cả mọi người. Yêu Chúa Phật là chỉ để yêu người, tất cả mọi người, vô điều kiện. Chấm hết.
Giúp người, cho người, bố thí, mà không bố thí, đó mới là bố thí.
Chúng ta bố thí rất thường ở đời – từ vài nghìn đồng cho một người hành khất, đến mua hộ vài tờ vé số, đến quyên góp từ thiện, đến thăm viếng người bệnh, đến xây chùa nhà thờ, ấn hành kinh sách, đến nghề nghiệp hằng ngày: bác sĩ, y tá, thầy cô, nhà khoa học… Làm gì thì làm, hãy nhớ bố thí mà không bố thí, đó mới là bố thí.
Cuối cùng, bố thí thật là không phải cho người, mà là giảm cái ta. Đó là ý nghĩa câu: “Người cho nên cám ơn.”
Chúc các Bồ tát bố thí với tâm thanh tịnh.
Mến,
Hoành
Bài tương tự: Lục độ ba la mật – Bố thí
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 9, 2017
Trái tim yêu thương
Chào các bạn,
Chúng ta nói nhiều đến yêu người, yêu mọi người, một chiều, vô điều kiện. Đó là trái tim Bồ tát. Đó là trái tim của Chúa trong ta.
Nhưng chúng ta cần hiểu bản chất của tình yêu. Phần chính của tình yêu là cảm xúc và tình nguyện. Anh yêu em vì anh cảm thấy yêu em. Anh cầu nguyện cho em, tặng hoa cho em, rủ em đi chơi… vì anh thích làm thế, chẳng ai bắt ai làm.
Đương nhiên là đôi khi người ta biến tình nguyện thành nhiệm vụ, để giúp thiên hạ ngớ ngẩn. Ví dụ: Yêu bố mẹ thì phải vâng lời bố mẹ, chăm sóc bố mẹ tử tế. Đây thực ra là những việc tự nguyện vì yêu, nhưng người ta biến thành nhiệm vụ làm người, cho những quý vị không biết yêu, hay không yêu, bố mẹ. Nếu bạn yêu bố mẹ, bạn không cần các luật lệ đạo đức này. Hoặc yêu vợ, thì nên về nhà để ăn tối mỗi chiều cùng vợ con, đừng để vợ cô đơn chẳng mấy lúc thấy được mặt chồng. Đây cũng là điều tình nguyện vì yêu, biến thành công thức nhắc các ông không thực sự yêu vợ.
Hiểu được bản chất cảm xúc và tình nguyện của tình yêu như thế thì bạn mới có thể đo lường trái tim Bồ tát, trái tim Chúa, của bạn.
Bạn thực sự có trái tim Bồ tát khi bạn tự nhiên cảm xúc yêu tất cả mọi người và tự nguyện làm gì đó để tất cả mọi người được thêm hạnh phúc. Nghĩa là bạn không cần công thức, luật lệ gì, về điều yêu này.
Nếu bạn ép mình và nhắc nhở mình thường xuyên: “yêu người, yêu người, yêu người”, thì đây cũng là điều tốt cho người mới bắt đầu đường Bồ tát. Nhưng một lúc nào đó mọi luật lệ mọi công thức đều phải trở thành không cần thiết. Bồ tát tự nhiên cảm nhận yêu thương mọi người vô hạn, và muốn độ mọi người thoát khỏi khổ nạn thế gian.
Bạn có trái tim Giêsu cũng thế. Nếu bạn đang làm theo nhiệm vụ của công thức, thì đó là bước mở đầu. Nhưng một lúc nào đó những công thức đó phải trở thành thừa thãi và vô ích, bạn tự nhiên yêu mọi người, và tự nhiên làm việc để giúp mọi người có ánh sáng.
Vậy, điều chúng ta cần hiểu là: Chúng ta đã bắt đầu có được trái tim Bồ tát thật sự, trái tim Giêsu thật sự, khi chúng ta cảm thấy tự nhiên yêu mọi người thường trực. Cụm từ “yêu mọi người thường trực” này là để giúp bạn nhớ lại cảm giác yêu người yêu, để hiểu yêu thì cảm giác thế nào. Chẳng ai nhắc nhưng lúc nào bạn cũng nghĩ đến cô/cậu ấy, chẳng quên được, và có lẽ vẫn nghĩ như thế khi ngủ. Yêu là vậy đó, nghĩ/nhớ thường xuyên và không quên. Bồ tát, con Chúa, cũng yêu mọi người như thế, một cảm xúc, một thôi thúc thường trực trong lòng, không biến mất. Khi trái tim bạn như thế đối với mọi người, vô điều kiện, không phân biệt, thì đó là tình yêu của Bồ tát, của Giêsu.
Khi chúng ta yêu người như thế, ta tự động biết làm gì để giúp thế gian bớt khổ. Thực sự là Người tỉnh thức chẳng làm gì cũng giúp thế gian bớt khổ. Người tỉnh thức đi ngang thành phố, mỗi bước đi tỏa ra ánh sáng tĩnh lặng bình an, người đi đường thấy thế cũng tự nhiên cảm nhận được tĩnh lặng và bình an, và hiểu được một chút thế nào là tĩnh lặng và bình an. Bản thân của Người tĩnh lặng tự giúp thế gian mà không phải làm gì hơn. Bản thân Người tĩnh lặng tự động giảng pháp mà không cần nói.
Và nếu Người tĩnh lặng nói một câu 5 chữ, giá trị thuyết phục của câu đó có lẽ bằng 1 ngàn bài giảng của người khác.
Chúc các bạn, các Bồ tát, các con Chúa, tĩnh lặng và yêu người, tự nhiên như hít thở.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 8, 2017
Tâm linh và không tâm linh
Chào các bạn,
Có lẽ các bạn đọc mình thường thì đã hiểu khá rõ ràng điều gì là tâm linh, điều gì là không tâm linh. Nhưng mình cũng muốn thỉnh thoảng nhắc lại để mọi người cùng rõ.
Tâm linh là trái tim linh thiêng của mỗi người chúng ta. Tâm là trái tim. Linh là linh thiêng. Trái tim linh thiêng là nơi sâu thẳm nhất của trái tim ta, ở đó ta sống với cách sống cao nhất, như cách sống của thánh nhân, của Bồ tát.
(Tâm linh không phải là phong thủy, đồng bóng, cúng vái, phù thủy, hồn ma bóng quế, kinh kệ, lễ bái … OK?)
Tâm linh không phải là môn học xử thế. Dù tâm linh là cách xử thế cao diệu nhất, nhưng xử thế chỉ là một hậu quả tự nhiên, không phải là mục đích, của đời sống tâm linh. Chúng ta không thực sự nói về xử thế như là: Làm thế nào thì được nhiều người thương? Làm sao để chinh phục lòng người? Khi nào thì hòa, khi nào nên chiến? Làm thế nào để vừa đánh vừa đàm? Thưởng và phạt? Công và tội? Và mọi thứ như thế.
Các môn xử thế trên thế giới luôn có 2 điểm chính:
– Làm cho người khác yêu bạn, phục bạn.
– Luôn hai chiều: Có qua có lại. Yêu tôi, tôi yêu lại. Ghét tôi, tôi ghét lại. Giỏi thì tôi thưởng, dở thì tôi phạt. Khi có thể hòa, tôi hòa; khi nên đánh nhau tôi đánh.
Cả hai đặc tính này không có trong tâm linh: Chúng ta lo cho trái tim linh thiêng của ta, không quan tâm người khác thương ta hay ghét ta (dù rằng thường là người ta thương ta). Chúng ta không cần có qua có lại, và thường một chiều trong tình yêu cũng như trong tĩnh lặng (yêu kể cả người đánh mình; tĩnh lặng dù trời đang sập; vô chấp dù có thể rất thích, như là thích ăn).
Cho nên các bạn đừng nhầm tâm linh với các môn học xử thế (dù rằng nếu bạn sống tâm linh tốt thì đa số người thường thương bạn). Tâm linh chỉ là cách sống từ nơi sâu thẳm nhất của trái tim ta. Đời sống tâm linh thực sự là đời sống của thánh nhân, Bồ tát.
Xưa nay, khái niệm về chúng ta và thánh nhân là: “Thánh nhân là những bậc phi phàm trên bàn thờ, chúng ta là người dơ dáy quỳ lạy dưới bàn thờ.” Nhà thờ nhà chùa, qua nghìn năm, đi lạc và dẫn tỉ tỉ người đi lạc theo – làm cho mọi người đều tin họ là rác. Và do đó họ sống như rác thật. (Truyện Đơn Hà thiền sư chẻ tượng Phật làm củi sưởi ấm là nhằm phá chấp vào vọng kiến này).
Chúng ta là người đã có Phật tính trong xương tủy. Là Phật đang ngủ, chỉ cần tỉnh thức.
Chúng ta là con Thượng đế, có Thánh linh Chúa trong từng tế bào. Ta là Thánh linh đang đi lạc khỏi Cha, chỉ cần cầm tay Cha mà đi.
Ta là Phật, ta là con Thượng đế, chân lý này không thể thay đổi.
Dù ai, dù chính bạn, nói “Tôi không có Phật tính”. Dù tòa kết án tử hình bạn vì bạn là “Kẻ sát nhân kinh khủng nhất trong lịch sử giết người”, thì bạn vẫn là Phật đang thành. Điều này nằm trong gene của bạn, chẳng cách nào thay đổi.
Cũng như thế, bạn là con Thượng đế từ trong gene. Chẳng ai có thể làm gì để thay đổi chân lý đó.
Chẳng ai có thể làm mình nghĩ rằng mình không là Phật đang thành, không là con Thượng đế. Tôi là Phật đang thành, và tôi sống như Phật. Tôi là con Thượng đế và tôi sống như Thượng đế Cha tôi.
Tôi có thể vẫn thỉnh thoảng vấp ngã, mặt mày trầy trụa và áo quần bẩn thỉu. Nhưng đừng nói tôi là rác rến, vì dù bẩn bên ngoài vì mới ngã, tôi vẫn là Phật đang thành, tôi vẫn có dòng máu Thượng đế trong tôi.
Các bạn, đừng hãnh diện với bằng thạc sĩ của bạn, với chức danh “Giọng ca vàng” của bạn, với giải khoa học quốc tế của bạn, với vương miện hoa hậu của bạn… vì mọi thứ này đều chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu so với cái lớn hơn trái đất mà bạn đã có: Phật tính, dòng máu Thượng đế, trong bạn.
Hãy tưởng tượng con trai của tổng thống Pháp nhảy cẩng lên la hét vui mừng như khỉ vì mới được trái chuối. Thế có phi lý không?
Khi bạn cầm bản tính thật của mình mà sống từng giây trong ngày, thì cần sách vở gì, cần thầy bà nào, cần đường đi nào? Phật đang thành tự biết sống như Phật. Con Thượng đế tự biết sống như Thượng đế.
Tuyệt đối tĩnh lặng. Tuyệt đối yêu thương.
Sống với trái tim Phật của mình, trái tim của Thượng đế trong mình. Đó là đời sống tâm linh.
Có gì để nói nữa?
Chúc các bạn luôn sống với bản chất thật của mình.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


Trần Đình Hoành's Blog
- Trần Đình Hoành's profile
- 5 followers
