Trần Đình Hoành's Blog, page 16
November 7, 2017
Ứng xử với nghiệp duyên
Chào các bạn,
Các từ nghiệp duyên, nhân duyên, nhân quả hầu như có một ý nghĩa rất giống nhau, chỉ khác nhau về chữ hơn là về ý.
Duyên, tiếng anh là conditions (điều kiện), những điều kiện ta sống trong quá khứ, chẳng hạn (gia cảnh giàu nghèo, học trường nào, có anh chị em không, bố mẹ làm nghề gì, nơi ta ở giàu hay nghèo, thời thế chiến tranh hay hòa bình, bão lụt thường không, ta siêng học hay ham chơi…), những điều kiện sống (conditions) này trong quá khứ tạo ra ta ngày nay và những chuyện xảy ra cho ta ngày nay (như ta là bác sĩ hay là ăn cướp).
Nói kỹ thuật hơn một chút, thì điều gì ta làm, hay bố mẹ ta làm, tức là điều ảnh hưởng trực tiếp đến ta, thì gọi là nhân (cause). Những điều gián tiếp hơn (thời thế, trường học, thời tiết, thiên tai…) gọi là duyên (conditions). Tức là nguyên nhân trực tiếp (nhân) và nguyên nhân gián tiếp (duyên). Vì thế người ta thường nói “nhân duyên” (causation) hay chỉ nói tắt “duyên”.
Nghiệp duyên thì cũng như duyên hay nhân duyên, nhưng nhấn thêm về “nghiệp” (karma). Bất cứ điều gì ta làm đều tạo ra nghiệp. Có lẽ hiểu nghiệp dễ nhất là “đường dây từ nguyên nhân đến hậu quả”. Ví dụ: Kẻ giết người, tạo ta một nghiệp xấu, nghiệp khổ. Rồi cậu ta gặp một cô và yêu và lấy làm vợ. Sau đó cậu mới khám phá ra là người mình giết trước kia là cha của cô vợ đương thời của mình. Và đương nhiên là cậu ấy đau khổ và không biết phải ứng xử thế nào cho hết tội. Giết người là nhân. Tạo nên nghiệp ác. Nghiệp ác này gặp lúc thì trổ ra thành tình huống đau khổ mới. Trên thực tế, nghiệp duyên có nghĩa hoàn toàn như nhân duyên hay duyên. Và ta có thể nói đây là nhân quả (causation, cause and effect) hay luật nhân quả (the law of causation, the cause-and-effect law).
Nghiệp duyên hay nhân duyên hàm ý là đời sống của mình hiện nay “phần lớn” là hậu quả của các chuyện mình làm trước kia. Điều này thì rất dễ thấy: Hồi nhỏ chuyên trốn học để đi bắn chim bắt dế, thì ngày nay làm phu khuân vác trong chợ là phải rồi. Nhưng từ “phần lớn” rất quan trọng. Phần lớn tức là không phải 100%, vì cách sống của mình lúc này cũng dự phần vào tạo nhân duyên cho mình hôm nay và tương lai. Anh phu khuân vác kia, nếu ngày nay siêng năng học một nghề gì đó và sau đó hành nghề siêng năng, thì chẳng có gì cấm anh ta có thể thành một đại gia trong nghề một ngày nào đó.
Khái niệm nhân duyên, nghiệp duyên này cũng rất gần gũi với khái niệm “căn cơ”. Căn là rễ, gốc rễ. Cơ là máy, cổ máy trời. Căn cơ của ta là gốc rễ của ta, đã được tạo từ trước qua những nhân duyên của ta trước nay. Người có “căn cơ cao”, hay “căn cơ tốt”, hay nói giản dị là “có căn cơ”, là người có thể hiểu được những vấn đề tâm linh rất nhanh; họ còn được coi là “bậc thượng căn” (người có gốc rễ cao). Ngày trước không học, chỉ đi chơi, thì ngày nay thường có căn cơ thấp, nghe mà không hiểu. (Nhưng nhớ là Lục tổ Huệ Năng con nhà nghèo không biết đọc không biết viết, nhưng khi nghe ông hàng xóm đọc Kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng đại ngộ. Tức là nghiệp duyên Huệ Năng đã rất tốt trước kia, bây giờ dù không học thì cũng đầy trí tuệ tâm linh. Và nhiều vị bằng cấp thạc sĩ tiến sĩ rất xôm tụ, nhưng tâm linh thì hoàn toàn không biết gì, vì tự kiêu quá, không ai dạy được, mà cũng không tự học được).
Trong bài này, chúng ta nói đến ứng xử với mọi người bằng nghiệp duyên, nhân duyên, hay căn cơ của họ.
Tình trạng của một người lúc này đã được định hình phần lớn bằng quá khứ của họ, trí tuệ của họ lúc này đã được thành hình từ quá khứ đến bây giờ. Nghĩa là, nếu họ chỉ hiểu đến mức 1 thì bạn không thể bắt họ hiểu đến mức 10, vì đó là điều không thể. Có thể nếu họ chăm chỉ họ sẽ cần 10 năm hay 20 năm để đến mức 10, hoặc lười biếng thì chẳng bao giờ đi xa hơn 1, hay cũng có thể đi ngược xuống -1 không biết chừng.
Bạn muốn chính bạn thoải mái, và mọi người quanh bạn thoải mái, thì ứng xử với mọi người ở mức căn cơ của họ, do nhân duyên của họ đã tạo ra. Hay nói cách khác, ứng xử với họ như họ là (as he is, as she is). Người ta hiểu được đến đâu thì nói đến đó. Nói mà thấy người ta không hiểu thì đừng gân cổ giải thích mãi, hoặc tìm cách áp lực cho người ta hiểu.
Đây là phương cách giáo dục hiệu quả. Dạy con cũng vậy, căn cơ nó chậm lụt về toán nhưng nhanh về tưởng tượng, tình cảm và văn chương, thì đừng ép con phải giỏi toán, mà nên khuyến khích con giỏi văn chương. Vì căn cơ nó vậy, đi theo căn cơ thì tốt hơn là nghịch với căn cơ.
Trong mọi việc ở đời, đặc biệt là những việc cực kỳ trừu tượng như tâm linh, thì nếu bạn của mình chỉ có thể đến mức tụng kinh, ăn chay, làm việc thiện, và chẳng thể hiểu những điều sâu sắc của Bát Nhã Tâm Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa… thì để bạn tụng kinh, ăn chay, làm việc thiện, mà đừng bắt bạn hiểu Phật pháp thâm sâu.
Đó là ứng xử theo nghiệp duyên, nhân duyên, hay căn cơ. Ứng xử như vậy thì mình thoải mái, học trò mình cũng thoải mái, mình và học trò không căng và stressed, và học trò dễ khá vì đi con đường hợp năng khiếu học trò.
Không chỉ là học trò hay con cái, mà nhân viên dưới quyền, hoặc mọi người giao tiếp thường xuyên với mình, cũng thế. Ứng xử với mỗi người tùy theo căn cơ của họ và giúp họ phát triển theo con đường hợp với năng khiếu của họ nhất. Nếu điều gì họ chưa đến mức hiểu được thì đừng ép họ hiểu. Khuyến khích họ luôn tiến, ngày hôm nay khá hơn hôm qua, theo vận tốc của họ là tốt nhất.
Còn nếu mình cần người có căn cơ cao hơn nhiều, thì tìm.
Đây cũng còn là những vấn đề lớn về chính trị, xã hội. Nếu đất nước hiện đang ở mức căn cơ này, nghiệp duyên này, thì đừng đòi đất nước bỏ giai đoạn, nhảy một bước lên đến hàng đầu thế giới. Hiểu đất nước và giúp đất nước mở mang trí tuệ từ từ, cách nhanh nhất hợp với nghiệp duyên, căn cơ của đất nước.
Đó gọi là sống tùy duyên – tùy nhân duyên, tùy nghiệp duyên mà sống.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
(Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tôn)
Việt dịch:
Sống đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có của, đừng tìm nữa
Nhìn cảnh, vô tâm, hỏi chi thiền
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
Chúc các Bồ tát luôn tùy duyên.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 6, 2017
Ý nghĩa hành động của ta
Chào các bạn,
Mỗi khi ta làm một điều gì, như là cho người hành khất một ít tiền, dạy không công cho một nhóm trẻ em đường phố, điều ta làm có ý nghĩa gì? Trong bài này chúng ta sẽ nhìn ý nghĩa của các hành động của chúng ta từ góc cạnh của chính ta.
Kinh Pháp Cú mở đầu: “Tâm làm chủ, tâm tạo.” Nghĩa là tâm ta làm chủ mọi hành động của ta, tạo ra mọi tư duy và hành động của ta.
Vậy đối với chính ta, người làm ra hành động, chỉ ta là thực sự hiểu tâm ta, cho nên chỉ ta hiểu được hành động đó có ý nghĩa gì. Và vì mức độ tĩnh lặng (cũng như trí tuệ tâm linh) của chúng ta khác nhau, nên ý nghĩa của cùng một hành động xem là như nhau lại có thể rất khác nhau, tùy theo ai làm hành động đó.
— Nếu bạn cho người hành khất 20 ngàn đồng, để muốn giật le với cô bạn gái đang đi bên bạn, thì có lẽ bạn sẽ đồng ý là việc bố thí đó chẳng ích lợi gì cho đời sống tâm linh của bạn cả. Hơn nữa, nó có nghĩa là “nói dối” – cố tình “nói” với cô bạn gái là bạn yêu người nghèo khổ, trong khi bạn chỉ đang nói dối (bằng hành động) để mua cảm tình của cô ấy.
— Nếu bạn cho người hành khất 20 ngàn đồng vì bạn thực sự muốn giúp người ấy có thêm được 20 ngàn đồng để sinh sống, thì đó là một hành động tốt. Nhưng đây là cái bẫy lớn nhất cho đời sống tâm linh của chúng ta.
Giúp người là một hành động tốt trên phương diện xã hội. Nhưng rất nhiều người lệ thuộc vào việc làm bên ngoài – bố thí, từ thiện, giúp xây chùa, xây nhà thờ, in kinh sách – để mong rằng những việc này giúp mình được công đức, được đầu thai nơi tốt sau khi chết, được lên Thiên đàng…
Các bạn, giúp người để mong mình được lợi như thế, rất có thể có lý trong nền kinh tế thị trường – tôi trả tiền và tôi lấy công – nhưng lâu đài tâm linh không phải là chợ búa mà tính mua bán, đổi chác, hơn thua, lời lãi.
Chúa Giêsu nói: “Khi bạn bố thí cho người thiếu thốn, đừng để tay trái của bạn biết tay phải đang làm gì, để việc bố thí của bạn có thể bí mật.” (Matthew 6:3).
Bố thí mà thích thiên hạ đều biết – như thói quen của chúng ta thích lên báo ngày nay – thì chẳng được công đức gì, mà còn làm cho cái tôi của bạn thêm trương phình. (Nhưng nếu bạn cần quảng cáo việc mình làm để kêu gọi mọi người giúp thêm tiền thì lại là chuyện khác phải không?)
— Hơn nữa, làm việc thiện để mong mình được giác ngộ, thì không thể giác ngộ được. Vì giác ngộ là tâm thanh tịnh, tâm tĩnh lặng. Tức là tâm chẳng muốn gì cả, kể cả muốn giác ngộ. Còn “muốn” là còn “tham”, còn “chấp”.
Kình Kim Cang (Đoạn 10) nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” – Không trụ vào nơi nào, thì sinh tâm [Bồ đề ] đó. Nếu còn bám vào từ thiện, bố thí, in kinh sách, xây chùa, giúp người, để mong giác ngộ, thì chẳng thể giác ngộ.
“Nếu Bồ tát trụ nơi pháp [tức là, nơi bất kì điều gì, kể cả Phật pháp] mà làm việc bố thí thì như người vào trong tối ắt không thể thấy. Nếu Bồ tát tâm không trụ pháp mà hành bố thí thì như người có mắt lại thêm ánh sáng mặt trời chiếu soi.” (KKC, Đoạn 14).
Vô trụ (vô chấp) rốt ráo có nghĩa là Bồ tát “không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp chúng sinh, không chấp thọ giả”. Tức là, Bồ tát không bám vào tôi, không bám vào người, không bám vào chúng sinh, không bám vào đời sống. Có nghĩa là, Bồ tát không thấy tôi, không thấy người. Bồ tát thấy tất cả là một. Bố thí mà không thấy mình bố thí, như là lấy đồ trong túi trái của mình, bỏ sang túi phải của mình, không nghĩ gì cả.
Bồ tát bố thí mà không thấy mình bố thí, không thấy người nhận bố thí, không thấy hành động bố thí, chỉ như là mình uống nước khi khát mà chẳng phải suy nghĩ gì về uống nước. Như là phản xạ tự nhiên, thấy ai cần thứ mình có thì mình đưa cho họ dùng. Chỉ giản dị thế. Bồ tát không mong cầu gì, không mong được phước gì, không thấy công đức gì, chỉ thuần túy làm việc “bố thí” vì có người cần gì đó mà mình có. Đó là tâm thanh tịnh. Tâm Bồ tát. Tâm giác ngộ.
Chúng ta có khuynh hướng làm việc từ thiện để ta thấy ta “tốt”, để ta thấy ta “làm từ thiện”, để ta thấy ta “biết yêu người”, để ta thấy ta “có lòng yêu người”… Các bạn, có lẽ những tư duy này chẳng có gì sai cả, và vẫn tốt một phần nào đó cho xã hội của phàm phu. Chỉ là, đó không phải là tư duy giác ngộ, và ta chẳng bao giờ giác ngộ được nếu ta có tư duy như thế.
Đức Phật nói: Ta thấy “Niết Bàn là ác mộng giữa ban ngày”. Niết bàn còn phải được xả bỏ, huống chi là các việc từ thiện, việc nhà chùa, nhà thờ.
Đương nhiên, vô chấp (vô trụ) là việc của tư duy, không phải là điều gì bên ngoài. Bạn vẫn làm đủ mọi thứ – từ thiện, bố thí, xây chùa, xây nhà thờ, in kinh sách. Chỉ là đừng nghĩ rằng những thứ này giúp bạn giác ngộ. Không bám vào chúng, không bám vào bất kì điều gì, kể cả mọi việc thiện, kể cả giáo pháp, kể cả Niết Bàn, thì chúng ta mới là Người tỉnh thức, Bồ tát.
Vấn đề của phàm phu là người ta không hiểu tâm thanh tịnh (tâm tĩnh lặng, tâm giác ngộ) là gì, và tưởng rằng chỉ cần làm “việc thiện” là đủ cho mình đạt. Điều này hoàn toàn sai, chính vì vậy mà đây là cái bẫy tâm linh cực lớn hằng tỉ tỉ người qua bao niên đại đã rơi vào mà không ra được.
— Tư duy này cũng là tư duy với Chúa Giêsu. Đừng làm việc gì chỉ để đổi chác hay mua lòng Chúa. Chúng ta là con của Thượng đế, chúng ta cần biết suy nghĩ như Cha của mình. Thượng đế yêu chúng ta và cho chúng ta đủ thứ chẳng để mua điều gì từ ta cả, kể cả mua tình yêu của ta. Thượng đế chỉ làm vì ta là con Thượng đế.
Mọi người đều là anh chị em của ta. Làm gì cho họ thì cũng như ta làm cho cánh tay của mình. Đừng nghĩ đến công cán gì khi mình xoa dầu nóng bóp cánh tay của mình.
Và đừng nghĩ làm từ thiện để được lên Thiên đàng cùng Chúa. Bạn đã có Thiên đàng rồi, chẳng cần phải đợi, nếu bạn đã biết nắm tay Chúa mà sống từng giây trong đời. Nếu bạn không biết nắm tay Chúa mà sống, thì bạn chẳng thể có Thiên đàng, vì bạn không thể dùng tiền bạc hay công đức gì của bạn đủ để có thể mua đất ở Thiên đàng. (Xem John 1:13).
Làm từ thiện, giúp người, bố thí thì hãy làm với tư duy của Chúa như thế. Không nghĩ gì về mình cả, quên mất cái tôi hoàn toàn, chỉ làm việc giúp người vì người là anh chị em trong nhà mình, và vì Cha của mình giúp mình chỉ vì tình yêu tự nhiên, chẳng vì gì khác.
Đó là trái tim của Chúa trong ta.
Chúc các Bồ tát, và con Chúa, tâm thanh tịnh.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Video PPS, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Kinh Kim Cang, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 4, 2017
Đổi cách tư duy
Chào các bạn,
Chúng ta đã nói đến đổi cách tư duy nhiều rồi – từ tư duy tiêu cực sang tư duy tích cực. Bài này cũng chẳng có gì mới. Chỉ là nhấn mạnh thêm một chút ở tầm mức tâm linh.
Chúng ta đừng nói/nghĩ tiêu cực. Đừng nói tôi dốt, tôi tồi, chị ngu, anh xấu, tôi ích kỷ…
Hãy nói/nghĩ tích cực. Hãy nói tôi giỏi, tôi siêng, tôi tử tế, tôi yêu người, tôi thành thật, tôi khiêm tốn…
Chúng ta biết luật hấp dẫn: “Nói/nghĩ đến điều gì thì ta sẽ hấp dẫn điều đó vào”. Nếu ta nói ta chống Kiêu Căng thì ta sẽ kéo Kiêu Căng vào với ta (dù ta có thêm chữ “chống” trước đó). Dạy con mà cứ bảo con “đừng dốt” thì nó chỉ biết nó dốt và kéo thêm cái dốt vào nó. Phải nói “con giỏi” thì con sẽ nghĩ là con giỏi và kéo cái giỏi vào. Vậy thì tìm điều mà khen con, đừng nhắc đến cái yếu.
Thiên hạ xưa nay phần nhiều thích nhấn mạnh đến con người tội lỗi, xấu xí, si mê, đần độn, đáng sa hỏa ngục, tham sân si…, rất khó lên thiên đàng; làm Bồ tát khó hơn mò kim đáy biển, xuống hỏa ngục thì dễ và nhiều…
Các bạn, bỏ cách tư duy tiêu cực đó đi, vì nếu không bỏ, luật hấp dẫn sẽ giữ bạn trong hỏa ngục vĩnh viễn, và con cái bạn cũng sẽ học theo bạn đường xuống hỏa ngục.
Chúng ta có Phật tính, nếu ta nghĩ ta đang thành Bồ tát, như một sinh viên năm đầu đại học nghĩ là cậu ta đang thành tiến sĩ từng bước, thì ta sẽ là Bồ tát.
Vấn đề không phải là khó hay dễ, mà là cái đầu ta hướng ta đến đâu. Điều này mình không muốn nói nhiều, vì ai trong chúng ta cũng đã có kinh nghiệm việc cái đầu của một người hướng người đó thành ăn mày, thành ăn cướp, hay thành thầy cô, nghệ sĩ, bác sĩ, kỹ sư…
• Con đường tâm linh của chúng ta cũng giản dị như thế: Không nói đến điều gì yếu kém của mình, tập trung vào một điểm mạnh duy nhất: Mình có Phật tính và mình đang thành Phật từng ngày.
Nhà Phật gọi đó là “con đường Bồ tát” – Bồ tát đạo.
Ta khởi đầu con đường Bồ tát bằng “phát bồ đề tâm”, tức là bắt đầu quyết tâm hướng đến giác ngộ, hướng đến ánh sáng. Phát là trỗi lên, bắt đầu. Bồ đề tâm là Bodhicitta, tâm giác ngộ, tâm ánh sáng.
Chỗ này có điều rất thú vị. Bắt đầu quyết tâm giác ngộ là… bắt đầu, tức là chưa có gì trước đó. Nhưng thực sự, tâm nguyên thủy của ta là tâm ánh sáng, là tâm giác ngộ. Ta đã có rồi, tâm đó cũng còn gọi là Phật tính. Chẳng phải là chưa có gì, mà là đã có đủ rồi. “Phát tâm” thì cùng lắm là bắt đầu đi tìm lại tâm nguyên thủy có sẵn của mình thôi chứ chẳng phải là đi tìm gì mới.
Tâm bồ đề là thế nào? Là tâm tĩnh lặng và từ bi. Tĩnh lặng và yêu người.
Phát tâm bồ đề là phát nguyện tĩnh lặng, để ta có được tĩnh lặng hoàn toàn – tĩnh lặng hoàn toàn là ý nghĩa của từ Mâu Ni trong tên Thích Ca Mâu Ni Phật.
Và phát tâm bồ đề cũng là thệ nguyện mình sẽ giác ngộ – tức là tĩnh lặng hoàn toàn – và giúp mọi người khác giác ngộ. Bồ tát là yêu người, Bồ tát giúp người vì yêu người chứ chẳng vì nhiệm vụ ai bảo.
Đó là cái nhìn tích cực về chính mình. Chẳng có gì mới lạ. Ta có Phật tính thì nắm Phật tính của mình mà sống (thay vì cứ lảm nhảm như người điên: tôi tồi tệ, tôi thối tha, tôi ngu dốt… để thành tồi muôn năm như mình nghĩ. Diệt cách suy tư tiêu cực giết người này đi).
Bồ tát là tĩnh lặng và yêu người (độ mình và độ người). Giản dị và rõ ràng.
Bắt đầu phát tâm bồ đề, quyết tâm đến giác ngộ, là bạn đã thành Bồ tát tức thì. Bồ tát khởi sự/tập sự trên đường Bồ tát. Không phải đợi đến giác ngộ bạn mới là Bồ tát. Đừng quên điều này. Giác ngộ là Bồ tát hoàn toàn, bắt đầu là Bồ tát tập sự.
Và cứ thế mà làm cho mình thuần thục cách sống với trái tim Bồ tát, cho đến lúc mình là Người tỉnh thức hoàn toàn.
Đó là tư duy tích cực. Chỉ nhìn vào điều tích cực của mình mà sống.
• Và nếu bạn gọi bạn là con Chúa thì cũng thế. Đừng lảm nhảm mình tội lỗi, bẩn thỉu, dễ xuống hỏa ngục… Chúng ta là con Thượng đế, con Thiên Chúa, con Đức chúa trời. Cha thương chúng ta không thể kể siết. Đây không phải là văn chương cải lương: “Anh yêu em không kể siết”; nhưng nếu 2 năm sau anh ly dị em thì chẳng ai ngạc nhiên gì trong thời đại này. Và đây không phải như tình yêu hạn hẹp của con người: Làm vui lòng tôi thì tôi thưởng, làm phật ý tôi thì tôi tát. Kiểu có qua có lại này không phải là kiểu của Thượng đế, mà là phàm phu.
Thượng đế là tình yêu. Cha yêu thương chúng ta không kể siết, vì bạn chẳng có cách nào để diễn tả được cha yêu chúng ta đến thế nào – quá lớn, quá mạnh, để trí khôn của chúng ta có thể hiểu thấu. Vì đó là tình yêu của Thượng đế, chẳng thế lấy lòng con người mà hiểu đủ. Tạm thời dùng các từ tình yêu vô tận, tình yêu vô lượng để diễn tả.
Chúng ta có Thánh linh Thượng đế (hơi thở của Thượng đế) trong từng tế bào trong cơ thể của ta. Đó là một điều thiêng liêng cao cả nhất trên thế gian này. Vậy hãy sống như Thánh linh Thượng đế.
Tĩnh lặng vì con của Thượng đế thì chẳng có lý do gì để tham sân si, kiêu căng, sợ hãi, nhảy choi choi, mà lại không tĩnh lặng, thoải mái, hạnh phúc, bình an.
Khi bạn đã nắm tay Thượng đế mà sống, thì bạn chẳng cần gì, chẳng lo gì nữa, y hệt như con của Đại đế La Mã nhân lên một tỉ lần.
Bình an, tĩnh lặng, và yêu người, đó là con Thượng đế.
Con Thượng đế thì người ta nhìn vào cũng có thể nhận ra, vì con Thượng đế thì bình an, tĩnh lặng và từ bi, như Bồ tát. Nếu con Thượng đế mà không giống Bồ tát, còn nhảy choi choi, thì đó không là tác phong của con Thượng đế thật.
Còn nhảy chồm chồm như khỉ, còn sợ hãi, sân hận, tham lam, hận thù… thì đó là chưa biết Chúa, chưa nắm được tay Chúa mà đi.
Cha yêu bạn vô bờ bến, muốn bạn nắm tay Cha mà đi để bạn luôn bình an và hạnh phúc, và muốn bạn xem Cha như bạn, không phải là bức tượng trên bàn thờ để bạn lạy.
Chỉ có một việc bạn cần tập trung: Sống với Thánh linh Cha trong bạn, nắm tay Cha như bạn đồng hành hằng ngày và đi. Mọi sự khác đều từ đó mà ra.
• Các bạn, tư duy tích cực là như thế. Hãy nhìn vào bản chất sâu sắc của ta, nắm bản chất sâu sắc của ta mà sống. Chúng ta là Phật đang thành. Chúng ta là con Thượng đế. Đừng để thiên hạ lảm nhảm điều tiêu cực để lôi bạn xuống đáy theo họ.
Chúc tất cả chúng ta đều sống như Bồ tát thực sự, như con Thượng đế thực sự.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Buddhism, Kinh Kim Cang, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 2, 2017
Tỉnh thức
Chào các bạn,
Bồ tát (tiếng phạn, Bodhisattva) là Người tỉnh thức.
Sattva là chúng sinh. Bodhi (bồ đề) là giác ngộ, tiếng Anh là Enlightenment. Bodhisattva, tiếng Anh là the Enlightened Person, người đã được sáng, người giác ngộ. Tiếng Việt thường dùng từ “Bồ tát” theo âm tiếng phạn, hay “Người tỉnh thức” theo nghĩa tiếng Việt.
Tỉnh thức là đã thức dậy từ cơn mê. Chữ “mê” này có nghĩa là không biết (như người mê man), không tỉnh (như si mê, say mê), không thực (mê mộng, mơ khi ngủ)…
Người chưa là Bồ tát là người còn mê. Mê là chưa tỉnh, là còn “điên đảo mộng tưởng” (Bát Nhã Tâm Kinh). Điên là điên khùng (insane), đảo là đảo ngược (reversed, upside down, downside up), mộng là mơ ngủ (dream, nighmare), tưởng là ý nghĩ (thinking, thought).
Điên đảo mộng tưởng là người điên, mọi tư tưởng đều không thật, như cơn mộng, và mọi thứ đều thấy đảo ngược: tốt thành xấu, trắng thành đen, thiện thành ác, thật thành giả, giả thành thật… Ví dụ: người mê ma túy thì ghét bố mẹ vì hay la mắng và không cho tiền chơi ma túy, cho là bố mẹ tồi, nhưng bạn bè ma túy rủ trộm cắp để cùng say ma túy thì cho là người tốt, bạn tốt.
Kinh Kim Cang còn nói mọi thứ trên đời là mộng huyễn bào ảnh (mộng, ảo, bọt, bóng). Người còn mê thì điên đảo mộng tưởng, chạy theo mộng ảo bọt bóng như là những điều thật, những quan trọng cho đời sống mình.
Chạy theo tiền bạc, địa vị, danh tiếng, tình yêu, tài sản, sân hận, thù hận, ganh ghét, tranh giành, đấm đá… dù tất cả chỉ là phù du, chẳng thực sự có ý nghĩa gì, có đó rồi mất đó, và khi chết thì chẳng mang theo được. Đó là điên đảo mộng tưởng, đó là si mê.
Bát Nhã Tâm Kinh nói: Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Nói giản dị ra là “không mà là có, có mà là không”.
Tất cả mọi thứ ở đời đều có đó để ta dùng. Muốn giúp người bằng nghề chữa bệnh, bạn phải có bằng bác sĩ, và bạn càng là bác sĩ giỏi và tốt thì bạn càng có tiếng tăm, và có lẽ cùng với tiếng tăm thì tiền bạc và chức vụ. Tất cả những thứ này – bằng cấp, danh tiếng, tiền bạc, địa vị — tự nhiên đến khi bạn làm việc. Chẳng cần phải vất đi, mà hãy để đó dùng mà giúp đời. Đó là có.
Nhưng chúng là phù du, chỉ một chốc, và thực sự chẳng có nghĩa lý gì, vì chúng chẳng giúp bạn được 1mm trên đường giác ngộ, và bạn cũng chẳng mang chúng sang bên kia thế giới được, cho nên chúng có mà thực là không. Cho nên đừng tham, đừng bám, đừng chấp vào chúng. Chúng đến thì đến, đi thì đi, chẳng cần vui mà cũng chẳng cần buồn.
Ngay cả thân ta có đây nhưng cũng chỉ một chớp mắt trong cõi vô cùng rồi tan biến. Cho nên đừng chấp vào “tôi”.
Đó là cái nhìn của người hoàn toàn vô chấp – Người tỉnh thức – thấy mọi thứ như nó là (as it is), không còn điên đảo mộng tưởng.
Tỉnh thức không có nghĩa là bạn bỏ mọi thứ và lên rừng tụng kinh gõ mõ. Tỉnh thức là trái tim của bạn không còn mê, và đã thức tỉnh. Sống giữa cuộc đời với những thứ trên đời mà không bị bám vào, dính vào, chấp vào điều gì ở đời.
Đó là Vô chấp. Và vô chấp là không chấp vào bất kì điều gì, kể cả những thứ cho là cần, là thánh, như kinh sách, giáo luật, trí tuệ, giác ngộ, Niết Bàn. Vẫn đọc kinh mà không chấp vào kinh, vẫn giữ giáo luật mà không chấp vào giáo luật, vẫn quý trí tuệ mà không chấp vào trí tuệ, vẫn tìm giác ngộ mà không chấp vào giác ngộ, vẫn đến Niết bàn mà không chấp vào Niết Bàn.
Phật Thích Ca nói:
Thầy xem địa vị của vua chúa như bụi đất.
Thầy thấy vàng ngọc như gạch sỏi.
Thầy nhìn xiêm y lụa là như giẻ rách.
Thầy coi vô lượng thế giới của vũ trụ như hạt trái cây,
và hồ vĩ đại nhất của Ấn Độ như giọt dầu trên bàn chân.
Thầy nhận xét mọi giáo huấn của thế giới như ảo ảnh của ảo thuật gia.
Thầy chiêm nghiệm ý niệm tối thượng về giải thoát như chiếc áo thêu vàng trong mộng,
và xem thánh đạo của các đấng giác ngộ như hoa trong mắt.
Thầy thấy thiền định là cột trụ của quả núi,
Niết bàn là ác mộng của ban ngày.
Thầy nhìn phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn lượn của con rồng,
và sự lên xuống của các niềm tin như vết tích còn lại của bốn mùa.
Đó là vô chấp.
Bồ tát sống trong đời như mọi người, tử tế với mọi thứ ở đời, nhưng khác mọi người là không chấp vào điều gì.
Tỉnh thức là trí tuệ và là thái độ của tâm thức Bồ tát. Tỉnh thức không phải là gì bên ngoài.
Từ mê đến tỉnh chỉ là một sátna. Qua đến bờ bên kia rồi mới biết là đã chẳng có bờ để qua, chẳng có vượt, chẳng có đến.
Chúc các bạn, Người tỉnh thức, luôn thức tỉnh.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


November 1, 2017
Cỏ cây giác ngộ thế nào?
Chào các bạn,
Đầy là truyện “Cỏ cây giác ngộ thế nào?” trong 101 Truyện Thiền và lời bình của mình:
Vào thời Kamakura, Shinkan học Thiên Thai Tông 6 năm, sau đó học Thiền 7 năm; rồi thiền sư qua Trung Quốc và nghiên cứu Thiền 13 năm nữa.
Khi thiền sư trở về Nhật nhiều người muốn gặp thiền sư và hỏi các câu bí hiểm. Nhưng Shinkan rất ít tiếp khách, và khi tiếp khách, thiền sư rất ít khi trả lời câu hỏi của họ.
Ngày nọ có một người 50 tuổi đang học về giác ngộ, nói với Shinkan, “Tôi đã học tư tưởng của Tông Thiên Thai từ lúc còn nhỏ, nhưng một điều tôi không hiểu nổi. Thiên Thai cho rằng ngay cả cỏ cây cũng sẽ giác ngộ. Đối với tôi đây là điều rất lạ.”
“Bàn luận cỏ cây giác ngộ thế nào thì được ích gì?” Shinkan hỏi. “Câu hỏi là anh làm thế nào để có thể giác ngộ. Anh có bao giờ nghĩ đến chuyện đó không?”
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ như vậy cả,” ông già kinh ngạc.
“Vậy thì về nhà và nghĩ đến nó,” Shinkan kết thúc.
Đây là lời bình mấy năm trước:
• Thời Kamakura bắt đầu từ năm 1185 đến năm 1333.
• Tu hành là để giải thoát chính mình khỏi sự si mê của chính mình, chẳng để tìm hiểu các điều không liên hệ gì đến giải thoát chính mình cả.
• Những câu hỏi triết lý trừu tượng cũng không cần thiết. Tiểu Kinh Malunkya (Trung bộ kinh, Phẩm 63) viết:
Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.
Vì những điều này hoàn toàn không dính dấp gì đến con đường giải thoát diệt khổ của chúng ta.
Đây là lời bình hôm nay:
Bồ tát tỉnh thức và giúp người khác tỉnh thức.
(Trần Đình Hoành dịch và bình)
Chúc các Bồ tát đại ngộ.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Thiền thi, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


October 31, 2017
Cố gắng cách thoải mái
Chào các bạn,
Chúng ta, đặc biệt là trong nền giáo dục truyền thống Việt Nam, luôn thúc đẩy con cái, em út, học trò cố gắng, cố gắng, cố gắng.
Đương nhiên là cố gắng, hay “kiên trì”, là mẹ của thành công. Không cố gắng, không kiên trì, thì chẳng thành điều gì được.
Nhưng nếu bạn sinh ra thuộc loại 1m55, nặng 40 ký, thì có lẽ là cũng không nên cố gắng để được 1m75 và 65 ký, để thi cử tạ quốc gia. Cố gắng là một chuyện, thông minh để biết điều gì nên cố gắng tới đâu lại là một chuyện khác.
Điều này cũng quan trọng trong giáo dục. Nếu cháu nào học môn nào đó không được thì có thể dạy cháu thêm môn đó từ từ, nhưng đừng bắt cháu giỏi đến hạng nhất trong môn đó, vì rất có thể là đầu óc cháu không nhạy cho môn đó. Mỗi cháu có một sức mạnh khác các cháu khác, tập trung vào phát triển sức mạnh đó là tốt nhất. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Người ta chỉ nói “Giỏi một nghề” là đủ, và chẳng ai nói nghề đó phải là nghề gì. Nếu cháu thích vẽ thì để cháu tập trung vào vẽ tốt hơn là cứ ép cháu giỏi toán để cháu vừa không giỏi toán vừa không giỏi vẽ.
Cho chính ta cũng thế, tập trung vào điều ta học dễ, tập dễ; đừng tập trung vào những điều khó.
Trước tiên, điều này cần nhớ. Đừng tập trung vào những điều yếu của ta. Đừng tập trung vào không kiêu căng, không ganh ghét, không sân hận, không ngu dốt… Có lẽ các bạn đã khám phá ra: tập trung vào điểm yếu của ta thường rất khó để làm ta khá hơn. Hầu như càng tập trung thì ta càng cảm thấy mệt mỏi và tuyệt vọng.
Đó là vì luật hấp dẫn: Càng để ý đến điều gì, ta càng kéo nó vào tâm ta. Ví dụ: Càng tập trung vào chống Kiêu Căng, ta càng kéo Kiêu Căng vào người.
Hơn nữa, như là cháu học toán không vô. Để cháu tập trung vào môn vẽ mà cháu thích thì tốt cho cháu hơn.
Bồ tát tập trung dễ nhất là vào yêu người.
Tại sao?
Tại vì:
1. Yêu người là tích cực. Tập trung vào tích cực luôn dễ, tập trung vào tiêu cực thường khó. Tập trung vào trăng lên trên bãi biển sóng lao xao nhè nhẹ, thì dễ hơn là tập trung vào một đám người chửi nhau.
2. Tập trung vào yêu người luôn cho chúng ta cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản, hạnh phúc. Đó là cảm giác rất quen thuộc của tình yêu. Chính cảm giác này giúp ta dễ luyện tập, thích luyện tập, và thích yêu người, như là người thích tập đàn thì dễ giỏi đàn.
3. Yêu người tự động thầm lặng gạt những thứ khác ra ngoài mà ta không cần nghĩ đến: yêu người thì tự động khiêm tốn – gạt bỏ kiêu căng, tự động dịu dàng – gạt bỏ sân hận, tự động rộng rãi – gạt bỏ tham lam.
4. Luyện tập yêu người cũng không cần cố gắng quá sức. Nếu có ai đó mà ta nghĩ tới là đau và hận. Thì cũng chưa cần tập yêu người đó. Tạm quên đã. Hãy vui vẻ tập yêu mọi người khác. Đến lúc nào đó ta sẽ thấy yêu người kia cũng không khó.
Yêu người thực sự là rất dễ so với mọi điều khác. Nhiều người không hiểu điều này. Vì sao? Vì yêu người đã có sẵn trong DNA của ta, một sinh vật bầy đàn. Ngày xưa chưa biết đến DNA, nhà Phật dùng một từ rất giống ý nghĩa của DNA: Trái tim nguyên thủy của ta. (Gene của ta = trái tim nguyên thủy của ta, cực kỳ khoa học, lại cực kỳ tâm linh cùng lúc).
Trái tim nguyên thủy của ta tràn đầy tình yêu. Cho nên yêu người là chuyện rất dễ. Rất nhiều người không hiểu bí mật giữa ban ngày này. Rất nhiều thầy nói về yêu người như chuyện cực khó, phải cố gắng trầy vi tróc vảy, đến nhiều kiếp. Các bạn, điều đó sai 100%. Trong tất cả mọi thứ về tâm linh nên tập, yêu người là dễ nhất. Các bạn tập thì sẽ biết. Và nếu bạn biết tập gì dễ hơn tập yêu người thì cho mình biết.
Chúc các Bồ tát vô lượng từ tâm.
Mến,
Hoành
Xem các chú vịt con dễ thương cố gắng theo mẹ
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


October 30, 2017
Trái tim tĩnh lặng
Chào các bạn,
Trái tim Bồ tát tĩnh lặng. Vậy, trái tim tĩnh lặng là gì?
Tĩnh lặng là không xung động, không loạn động, không động đậy, dù điều gì xảy ra.
Thấy gì thì thấy, cần làm gì thì làm, nhưng dù thấy gì làm gì thì tâm vẫn tĩnh lặng:
– Thấy động đất… tĩnh lặng.
– Thấy giết người… tĩnh lặng.
– Thấy cướp bóc… tĩnh lặng.
– Thấy áp bức… tĩnh lặng.
– Thấy bất công… tĩnh lặng.
– Được nổi tiếng… tĩnh lặng.
– Được trúng độc đắc… tĩnh lặng.
– Được vinh danh… tĩnh lặng.
– Thấy chết đến nơi… tĩnh lặng.
– Súng kề đầu mình… tĩnh lặng.
…
Bồ tát không có lý do để không tĩnh lặng. Bồ tát không nói: “Nó gian ác thế sao tĩnh lặng được”, “Chúng nó áp bức tàn nhẫn thế, sao tĩnh lặng được?” Còn hỏi thế là còn chưa hiểu Bồ tát là gì.
Bồ tát là tĩnh lặng.
Bồ tát có thể rất động trong hành động, như là đánh một lúc vài tên cướp trên đường, nhưng tâm thì vẫn tĩnh lặng và đầy từ bi. Đừng nhầm lẫn hành động bên ngoài của Bồ tát với trái tim tĩnh lặng bên trong của Bồ tát.
Làm sao Bồ tát tĩnh lặng được?
Bồ tát tĩnh lặng được vì Bồ tát yêu người. Thế gian loạn động, mọi người loạn động, trong một bể điên ta bà. Muốn cứu thế gian, muốn cứu người ra khỏi bể điên, Bồ tát phải thức tỉnh.
Thức tỉnh là tĩnh lặng. Awakening is calmness.
Trái tim tĩnh lặng là đôi mắt tĩnh lặng nhìn thế gian. Nếu đôi mắt có nhiều nước và sóng nước, đôi mắt chỉ thấy được thế gian mờ mờ ảo ảo, nhồi dập méo mó. Đôi mắt đó chỉ có thể tạo thêm sóng gió cho thế gian.
Trái tim tĩnh lặng là đôi mắt tĩnh lặng, nhìn thế gian như nó là, với những si mê và khổ đau của nó, từ bên ngoài đến bên trong trái tim người.
Bồ tát do đó biết được làm sao để cứu độ thế gian.
Trước khi Bồ tát hành động gì, Bồ tát đã, và sẽ tiếp tục, cứu độ thế gian bằng tĩnh lặng. Chính tĩnh lặng của Bồ tát tạo ra năng lượng tĩnh lặng trong lòng người phàm tục.
Chúc các Bồ tát luôn tĩnh lặng.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


October 29, 2017
Bồ tát độ mọi người
Chào các bạn,
Yêu thương mọi người, tôn trọng mọi người, là tâm Bồ tát, tâm bình đẳng – thấy ai cũng là Bồ tát, là Phật, vì mọi người đều có Phật tính trong họ.
Phật Thích Ca, vào một kiếp trước, khi còn là Bồ tát Thường Bất Khinh (không bao giờ khinh), gặp ai, già trẻ lớn bé nam nữ giàu nghèo, cũng chắp tay vái lạy: “Chào ngài, ngài sẽ là Phật.”
Điều này chúng ta đọc thường, nhưng có thấm không? Không phải là thấm kiểu: “Ôi, Phật Thích Ca thật phi thường.” Các bạn, chẳng ai cần bạn khen Phật, đặc biệt là Phật thì lại càng không cần nghe bạn khen. Chúng ta phải thấm kiểu: Mình là Bồ tát và cần phải sống như Bồ tát Thường Bất Kinh như thế.
Chúng ta cần phải ngưng tán thưởng Chúa Phật Bồ tát thánh thần trên bàn thờ, và cần nhìn vào Chúa Phật trong trái tim linh thiêng của ta để tôn kính chính ta: Ta ơi, ta là Bồ tát, hãy sống như là Bồ tát chân thật, đáng là Bồ tát.
Nếu bạn nghĩ bạn là con bò thì bạn sẽ chỉ biết ăn cỏ và nghé ọ như bò. Nếu bạn biết bạn là Bồ tát thì bạn sẽ sống như Bồ tát. “Biết” là tất cả.
Ta là Phật đang thành, nên hãy tập trung vào tính Phật của ta, thay vì cứ chê trách mình là phàm phu. Nếu bạn học lớp 5 và luôn chê trách mình ngu, bạn sẽ chẳng bao giờ có tiến sĩ. Nếu bạn lớp 5 và sống như người sẽ có tiến sĩ, bạn sẽ có tiến sĩ.
Mỗi chúng ta đều có một trái tim Bồ tát, một trái tim Phật, thì hãy sống thật với trái tim đó.
Và Bồ tát phổ độ chúng sinh. Khoan nói làm sao để Bồ tát đưa chúng sinh qua bờ (phổ độ). Hãy nói Bồ tát yêu mọi chúng sinh. Đó là điểu khởi đầu – tình yêu. Đã yêu thì sẽ đưa nhau qua cả trăm bờ, đừng nói là một bờ.
Bạn có mến yêu và tôn kính người khác vì tính Phật trong họ hay không? Nếu bạn còn nhiều phân biệt người dốt người giỏi, người giàu người nghèo, người tà người chính, người yêu người ghét… thì bạn chưa thấy Phật tính của ai, kể cả Phật tính của bạn.
Phật tính ở trong mọi người. Thánh Linh ở trong mọi người.
Nếu bạn thấy được Phật trong bạn, Chúa trong bạn, đương nhiên là bạn thấy được Phật/Chúa trong mọi người.
Khi bạn ứng xử tốt với một người, đó là bạn ứng xử tốt với Phật, với Thiên Chúa. Khi bạn ứng xử không tốt với một người, đó là bạn ứng xử không tốt với Phật, với Thiên Chúa. (Matt 25:31-46).
Thế giới còn nhiều người chưa hiểu trái tim linh thiêng của họ, hãy giúp họ thấy được trái tim linh thiêng trong họ.
Từ si mê đến giác ngộ, từ phàm phu đến Bồ tát, chỉ là một sátna biết hay không biết.
Chúc các bạn luôn đầy từ bi với mọi người.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen [image error]

October 27, 2017
Dạy học làm người
Chào các bạn,
Hôm qua mình nói về Học làm người. Hôm nay mình nói về Dạy học làm người.
Môn gì thì cũng cần thầy dạy qua nhiều niên đại, môn đó mới tồn tại được. Mình hy vọng là trong số các bạn sẽ có vài người dạy học làm người. Đương nhiên là mình đang dạy các bạn, nhưng cách dạy của mình thường là chỉ các bạn tự dạy tự học thì đúng hơn.
Có một số khái niệm căn bản, và mình nhắc các bạn thực hành thường xuyên để hiểu và để thuần thục. Như là khiêm tốn. Mình chẳng bao giờ định nghĩa khiêm tốn là gì, hay cho một công thức nào để khiêm tốn. Cùng lắm thì mình thường nói đừng kiêu căng, đừng kiêu căng là khiêm tốn. Nhưng thế nào là kiêu căng mình chẳng hề định nghĩa. Mình đã nói vài lần: “Khiêm tốn là nâng người khác lên bằng ta.” Hoặc, “Thấy ai cũng có thể là thầy dạy được mình điều gì đó.” Đây cũng là những khái niệm sống, hơn là công thức như 2 + 2 là 4.
Những khái niệm sống luôn hiện ra bên ngoài với đủ hình thức khác nhau. Mình khiêm tốn trong lòng, nhưng đôi khi bên ngoài thì khiêm tốn, khi lại có vẻ như kiêu căng, khi lại có vẻ như dữ dằn… Tùy công việc ở đời bắt mình phải làm gì. Nhưng nếu mình khiêm tốn thì mình biết lòng mình. Và thiên hạ sống với mình lâu năm cũng có thể thấy mình khiêm tốn. Nhưng thiên hạ thì không chắc, và ta cũng không nên quan tâm đến thiên hạ nghĩ gì. Ta chỉ cần quan tâm mình biết mình khiêm tốn, và cố gắng khiêm tốn, là đủ. (Về những vấn đề sâu thẳm của trái tim, thiên hạ thường suy bụng ta ra bụng người với trái tim nông cạn của họ, cho nên nếu bạn lệ thuộc vào cái nhìn của người khác về bạn, thì bạn cũng chỉ sâu đến nửa milimét dưới da là cao).
Đây là cách giúp các bạn tự dạy tự học, hơn là mình dạy ai điều gì. Đó không chỉ là phương pháp sư phạm, mà đó là vấn đề phải như thế. Tâm của bạn chỉ bạn biết, chỉ bạn đo lường được, và chỉ bạn biết bạn. Bạn không nên quan tâm đến người khác, và người khác nếu quan tâm đến bạn thì cũng nên chỉ cho bạn các khái niệm sống để bạn thích thì thực hành. Các “thầy” cho các bạn công thức 1, 2, 3 để làm, một con đường tu trì với công thức chi tiết 24 giờ một ngày, thì một là thầy cũng lớ ngớ lẩn ngẩn, hai là thầy xử với các bạn như con nít chẳng biết gì, phải cho công thức để sống. Những người sống công thức thường bị hai lỗi: (1) Đầu óc mù mờ, hạn hẹp, thiếu suy nghĩ và sáng tạo. (2) Thường kiêu căng cho rằng sống cách “kham khổ” như ta mới là cách sống tốt, thiên hạ là phàm phu ngu vì không sống được như ta.
Mình xem các bạn là Bồ tát, có thể tự hành tự hiểu, với những khái niệm sống trừu tượng, mà không nên bị mình hại, đưa vào công thức. Mình hy vọng là sẽ có một số bạn thành thầy để dạy lại người khác. “Thầy” thì đã nhiều như nấm rồi, thầy mà biết thực sự thì đếm được trên đầu ngón tay. Cho nên thế giới nhiều thầy lắm ma là vì thế. Mình không muốn tạo thêm một số thầy bà như trong các đền thờ, các guru, các “đại thượng sư”. Mình chỉ muốn có một số bạn, tự đào luyện trái tim chính bạn thành tinh khiết, để dạy lại người khác tự đào luyện.
Từ “tự” này quan trọng, vì chẳng ai có thể đào luyện trái tim của bạn trừ chính bạn. Các thầy tự xưng là người khai ngộ cho các bạn là không đáng tin, vì chính bạn phải khai ngộ cho các bạn. Thực hành và suy niệm, và chúng ta sẽ sáng. Không có đường nào khác.
Các bạn, Bồ tát độ chính mình và độ người. Đúng vậy đó. Chúng ta nên là Bồ tát. Đừng nửa nạc nửa mỡ u u a a như bàn dân thiên hạ. Thế giới cần nhiều trái tim và trí tuệ Bồ tát. Đừng chỉ làm kẻ tụng kinh đi chùa. Hãy là Bồ tát của thế giới, vì đây là điều thế giới cần. Thế giới không cần thêm người đi chùa đi nhà thờ, không cần thêm thầy thêm guru, thế giới cần nhiều trái tim Bồ tát.
Phát nguyện Tâm Bồ đề: Tức là phát nguyện sống cuộc đời và tư duy Bồ tát. Tức là, sống với tâm tĩnh lặng và đầy từ tâm. Chẳng có gì khác hơn vậy. Rất dễ hiểu để thực hành.
Chúng ta phát nguyện tâm Bồ tát vì có một lý do cho chính ta, nhưng có đến 8 tỉ lý do cho thế giới.
Chúc các bạn luôn tâm nguyện Bồ đề.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


October 25, 2017
Biết chính mình – Giải thoát
Chào các bạn,
Biết chính mình là việc khó. Nhà Phật nói con người si mê, đã si mê thì chẳng biết gì được, đừng nói là biết chính mình.
Nếu bạn quan sát một con bướm, có lẽ bạn biết con bướm nhiều hơn biết chính mình. Bạn có thể nhìn bướm từ mọi góc cạnh, có thể dùng các loại kính phóng đại để nhìn những điểm nhỏ nhặt. Nhưng có lẽ bạn chẳng thể quan sát chính bạn như thế.
Đó là nói về vật thể, chưa nói về tinh thần. Biết được tâm trí và tinh thần của chính mình, đối với nhiều người là chuyện không thể. Người kiêu căng mà tưởng mình khiêm tốn, người dữ dằn mà tưởng mình hiền dịu, người mở miệng ra thì người ta ghét mà tưởng mình có duyên, người dốt mà tưởng mình giỏi, người tiêu cực mà tưởng đời tiêu cực với mình… Đây là những câu chuyện muôn thuở của loài người. Nếu con người có thể thấy được chính mình dễ dàng, thì thế giới đã là thiên đàng từ muôn thuở rồi. Nếu ai cũng thấy được chính mình, thì đương nhiên có thể sửa sai tức thì, và đương nhiên là thế giới ai cũng đều sống đúng được. Đó chính là Thiên đàng.
Nhưng thế gian là cõi ta bà, cõi phiền não, cõi trói buộc, cõi bất tịnh, vì con người si mê và chẳng thấy đường.
Biết được chính mình là biết được mọi người, vì mình và mọi người đều rất giống nhau. Biết được chính mình là biết được thế giới, vì thế giới chỉ là như mình mà nhân lên nhiều lần. Biết được chính mình là hết si mê, tức là giải thoát, giải thoát khỏi tù ngục của si mê, của vô minh, của bóng tối.
Nhưng làm sao để biết được chính mình?
1. Trước hết, ta phải biết là mình đang mê, đang ở trong tù ngục của chính si mê của mình. Nếu mình không biết mình đang mê thì mình sẽ không bao giờ tỉnh.
Sao là mê?
Cứ làm những chuyện mình không muốn làm là mê. Không muốn nói dối, nhưng vẫn nói dối. Không muốn gây lộn, nhưng vẫn gây lộn. Không muốn ganh tị, nhưng vẫn ganh tị. Không muốn ghét người, mà vẫn ghét người. Không muốn giành giật, mà vẫn giành giật. Không muốn kiêu căng, mà vẫn kiêu căng. Không muốn thất tình, mà vẫn thất tình. Không muốn stressed, mà vẫn stressed.
Những chuyện muốn làm thì không làm được. Muốn hiền dịu, nhưng không hiền dịu. Muốn khiêm tốn, nhưng không khiêm tốn. Muốn thành thật, nhưng không thành thật. Muốn hòa bình, nhưng lại gây gổ. Muốn thoải mái, nhưng lại luôn căng. Muốn rộng rãi, nhưng lại hay tham. Muốn bình thản, nhưng luôn lo âu đủ thứ.
Sống như thế là ở tù. Làm thứ mình không muốn làm, và không làm điều mình muốn làm. Thấy được mình đang ở tù, tức là thấy được si mê của mình. Không sống được cách của người có trí, không bị ở tù.
2. Ở tận tầng sâu nhất của trái tim ta, là trái tim của Phật, trái tim của Chúa, trái tim của Sự Sáng. Đó là trái tim linh thiêng của ta, chúng ta phải biết nắm trái tim linh thiêng đó để mà sống.
Vì sao tôi biết tôi có trái tim linh thiêng đó?
Vì bạn muốn những điều trái tim linh thiêng đó muốn: hiền dịu, thành thật, khiêm tốn, yêu người, điềm tĩnh… Những điều này bạn muốn vì trái tim linh thiêng của bạn luôn nhắc bạn hãy “Nắm lấy tôi – trái tim linh thiêng của bạn – để mà sống hiền dịu, thành thật, khiêm tốn, yêu người, điềm tĩnh. Đừng để tôi một mình trong khi bạn bị tù ngục.”
Nếu ta không có trái tim linh thiêng đó ta đã chẳng nghe gì về cách sống tốt đẹp này, mà chỉ biết sống trước sao nay vậy, như loài vật.
Trái tim linh thiêng của ta đã luôn thôi thúc thầm thì, nhắn nhủ ta cầm tay để sống.
Vậy, hãy nghe lời trái tim linh thiêng của mình, cầm trái tim linh thiêng của mình mà sống.
Trái tim linh thiêng của mình chính là Phật tính, chính là Thánh Linh. Cầm trái tim linh thiêng của mình mà sống thì bạn sẽ được như Bồ tát, được như thánh nhân. Không 100% thì cũng một ít phần trăm.
Nhưng làm sao cầm trái tim linh thiêng của mình được?
Nếu bạn đã nhận ra bạn có trái tim linh thiêng rồi, thì chỉ cần nói: “Trái tim linh thiêng của tôi ơi, tôi sẽ sống với bạn mọi giây trong đời.”
Và nhớ câu nói đó thường xuyên.
Giản dị như vậy đó.
Và bạn sẽ được giải thoát khỏi tù ngục của chính mình. Và bạn sẽ hiểu “giải thoát” là gì.
Chúc các bạn đại ngộ.
Mến,
Hoành
© copyright 2017
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen


Trần Đình Hoành's Blog
- Trần Đình Hoành's profile
- 5 followers
