Trần Đình Hoành's Blog, page 17

October 13, 2017

Không tôi

[image error]


 

Chào các bạn,


Có lẽ khái niệm khó nắm nhất của nhà Phật là vô ngã (không tôi). Khó đến nỗi hiểu được thật rõ thì đạt ngộ: Khi Bồ tát Quán-âm Tự-Tại thực hành trí tuệ bát nhã thâm sâu, thấy được “tôi” (ngũ uẩn) là không, ngài liền vượt qua mọi khổ nạn (Bát Nhã Tâm Kinh).


Thực hành vô ngã không dễ. Nhưng một cách thực hành có lẽ dễ hiểu nhất là: tâm mình phản ứng lại với mỗi sự việc như là mình không hiện diện, không có mặt, không hiện hữu. Nghĩa là: tâm chẳng có phản ứng gì cả, vì tâm không cảm thấy có xúc tác.


– Trúng số độc đắc. Mình không có đó để nhảy cẩng lên.

– Được thăng thưởng. Mình không có đó để lên mặt.

– Người ta phê phán mình. Mình không có mặt để nghe và để tự ái, kể cả khi người ta phê bình hoàn toàn sai, hoàn toàn bất công, hoàn toàn đầy ác ý.

– Bị người yêu bỏ. Mình không có mặt để thất tình.


Hành động như mình “không có mặt”, tức là hành động như mình không hề biết chuyện gì đang xảy ra. Không biết thì không vui, không buồn, không bực, và không làm gì cả.


Đây khác với nín lặng. Nín lặng thường có nghĩa là trong bụng đang nổi điên, nhưng bên ngoài thì tỉnh bơ. “Không tôi” là mình không có mặt để nghe gì, biết gì, bực gì… Mọi thứ xảy ra trước mắt mình nhưng chỉ cứ như là gió thoảng qua mặt, chẳng hề làm tâm mình động đậy gì cả.


Đương nhiên đạt được đến mức “không có mặt” như vậy là rất khó. Phải là siêu sư phụ mới đạt được. Nhưng ít nhất bạn nên hiểu khái niệm “không có mặt”, “không hiện diện”, một khái niệm dễ hiểu của “không tôi, vô ngã”.


Và “không có mặt” cũng rất dễ đo lường, vì nếu bạn cảm xúc, suy nghĩ hay hành động như là bạn đang có mặt, thì bạn chưa đạt “không có mặt”. Ví dụ. Cảm xúc: bực mình; suy nghĩ: muốn dũa nó quá, nhưng nhịn thì tốt hơn; hành động: nín thinh. Vậy cũng là tốt rồi, nhưng vẫn không phải là vô ngã, vì vẫn có mặt để bực, để muốn dũa, để tự bảo nên nhịn, để không làm gì.


Vô ngã thực sự là nghe người ta chửi mà chẳng cảm thấy gì, chỉ như một luồng gió nhẹ mới thổi qua, hay như một người bạn mới trao mình một ly nước. An nhiên tự tại.


Và “không tôi” không chỉ là khái niệm của Phật gia. Nếu bạn có Chúa trong bạn, chẳng có lý do gì bạn lại chẳng “không tôi” được khi bị người ta sỉ nhục.


Đây là điểm bạn muốn đến. Vô ngã.


Chúc các bạn vô ngã.


Mến,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Bat Nha Tam Kinh, Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 13, 2017 17:50

October 6, 2017

Luyện tâm tự do

[image error]


 

Chào các bạn,


Có lẽ điều nhiều người hiểu sai nhất, có lẽ đến hơn 99,99% số người trên thế giới hiểu sai, là họ cho rằng luyện tâm là một hệ thống kỷ luật để luyện tâm ta có kỷ luật, suy nghĩ đúng khuôn phép, một là một, hai là hai, không sai chạy. Có nghĩa là, người luyện tâm đến mức cao thì tư duy kỷ luật như một đường đúng duy nhất xuyên qua một mê cung.


Điều này thì đúng được 10% là cao. Luyện tâm thì tư duy đúng đường, nhưng đường đó không phải là một con đường hẹp đi qua một mê cung, mà là con đường tự do của một cánh chim bay khắp bầu trời.


Luyện tâm không phải là luyện để ép tâm vào một con đường hẹp và gai góc.


Luyện tâm là để giúp tâm tháo gỡ mọi xiềng xích để tâm trở thành một cánh chim tự do trên trời.


Nếu các bạn không nắm vững được điều này, thì các bạn sẽ trở thành mọi người luyện công thức của thế giới – luyện tâm một hồi thì người ta trở thành hạn hẹp, cứng ngắc, tư duy theo các công thức định sẵn (rất giống rôbô), cứ như là chuột chạy tới chạy lui trong mê cung, không ra ngoài được.


Tâm không vướng mắc. Đó là vô chấp, vô trụ, vô tâm, vô niệm. Nói vắn tắt là tâm không bị dính vào đâu.


Chim có thể đậu tại mọi nơi, nhưng không dính cứng vào nơi nào – đậu thì đậu, trụ thì không trụ – cho nên chim tự do với cả bầu trời.


Vẫn thấy đúng sai mà không mắc vào đúng sai.

Vẫn thấy thiện ác mà không mắc vào thiện ác.

Vẫn thấy thánh ma mà không mắc vào thánh ma…


Đó là một tâm thức tự do hoàn toàn vì không còn dính mắc vào đâu.


Mình thấy đạo của mình đúng, và thấy mọi đạo khác của mọi người khác đều đúng.

Minh thấy đạo người khác cực đoan, và cũng thấy đạo mình cực đoan.

Mình thấy mình là Bồ tát trường tồn, và cũng là một bản ngã phù du ảo ảnh.

Mình thấy mọi sự trên đời đều thật, và mọi sự trên đời đều ảo.

Mình rất nghiêm chỉnh với đời, và vẫn thổi đời khỏi lòng bàn tay như một sợi bông gòn.


Tất cả mọi thứ ở đời đều thật – ăn uống ngủ nghỉ, yêu đời, yêu người, thiện ác, phải trái, công lý áp bức… Nhưng tất cả cũng chỉ là phù du ảo ảnh. Toàn diện lịch sử vũ trụ cũng chỉ là một chớp mắt trong cõi vô cùng.


Người học nhạc, học với mọi kỷ luật của tai, mắt, ngón tay, cảm xúc. Nhưng thầy thì không còn kỷ luật, mọi chuyển động của lục căn, lục thức, trên tiếng đàn chỉ là những chuyển động tự do và sáng tạo của dòng nước đi qua trùng điệp núi đồi và đại mạc.


Cho nên, khi là học trò thì ta cảm thấy như mình ép mình vào những công thức khó khăn, khi là thầy thì không còn công thức mà chỉ là khả năng để tâm hồn mình bay cao vào những vùng trời sáng tạo.


Luyện tâm là vậy đó. Trong Không chẳng có gì, tất cả chỉ là một tinh thần rộng rãi tự do như bầu trời vô tận:


Thầy xem địa vị của vua chúa như bụi đất.

Thầy thấy vàng ngọc như gạch sỏi.

Thầy nhìn xiêm y lụa là như giẻ rách.

Thầy coi vô lượng thế giới của vũ trụ như hạt trái cây,

và hồ vĩ đại nhất của Ấn Độ như giọt dầu trên bàn chân.

Thầy nhận xét mọi giáo huấn của thế giới như ảo ảnh của ảo thuật gia.

Thầy chiêm nghiệm ‎ý niệm tối thượng về giải thoát như chiếc áo thêu vàng trong mộng,

và xem thánh đạo của các đấng giác ngộ như hoa trong mắt.

Thầy thấy thiền định là cột trụ của quả núi,

Niết bàn là ác mộng của ban ngày.

Thầy nhìn phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn lượn của con rồng,

và sự lên xuống của các niềm tin như vết tích còn lại của bốn mùa.


Phật Thích Ca


Trái tim ta chẳng còn một công thức hạn hẹp nào, mà chỉ là nước Thiên đàng, tình yêu, bình an, và vô tận. (Luke 17:21).


Chúc trái tim các bạn trở thành bầu trời vô tận.


Mến,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 06, 2017 16:59

October 5, 2017

Mặt trời trong tim

[image error]


 

Chào các bạn,


Trong trái tim ta có mặt trời. Người ta có thể gọi mặt trời đó bằng nhiều cách khác nhau tùy theo văn hóa: Phật tính, Thượng đế… nhưng điều nhiều người đồng ý là có một nguồn sáng vĩ đại trong trái tim người. Nắm được nguồn sáng đó là ta nắm chân lý.


Đương nhiên là nếu nguồn sáng đó trong tim bạn, chỉ bạn có thể nắm nó. Vậy việc đầu tiên bạn luôn cần nhớ là con đường phát triển đời sống tâm linh của bạn là do bạn làm chủ. Chẳng có thầy bà nào làm chủ được trái tim bạn hay giúp bạn nắm được nguồn sáng của bạn.


Phật có thể hỗ trợ, Chúa có thể hỗ trợ bạn, nhưng bạn phải là người lái trái tim của bạn, và nhờ các vị hỗ trợ sức mạnh. Đừng bao giờ quên điều này.


Và vì mặt trời ở trong tim bạn, nên nếu bạn tìm thì được rất dễ. Thực sự là bạn không cần tìm cũng thấy, chỉ cần tháo gỡ tấm màn vô minh dày đặc che mắt bạn thì bạn sẽ thấy mặt trời.


Vấn đề là làm sao gỡ bỏ màn vô minh.


Người ta có đủ nghìn cách để có thể tư vấn cho bạn: đi chùa, đi nhà thờ, ăn chay, tụng kinh, Thiền, quán vô ngã, quán từ bi, cầu nguyện… Nhưng nhìn lại thế giới nhiều rối rắm, có lẽ chúng ta cần một hai pháp có hiệu quả hơn là cả nghìn thứ để chọn lựa mà rốt cuộc thế giới vẫn đầy phàm phu rối rắm.


Màn vô minh của chúng ta là gì? Đó là “cái tôi”. Tập trung vào tôi, thì tất cả mọi thứ trên đời đều là tôi. Tham sân si. Tham lam cho tôi, sân hận vì chạm tôi, si mê vì mắt tôi chỉ thấy tôi.


Bỏ cái tôi đi thì màn vô minh rớt xuống.


Chính vì vậy nhà Phật dạy “không tôi” (vô ngã). Vô ngã thì không tôi, tức là màn vô minh bị tan biến, và ta nắm được mặt trời giác ngộ.


Quán-Tự-Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.


Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành trí tuệ bát nhã thâm sâu

Thấy rõ “tôi” là không, liền vượt mọi khổ nạn


Vô ngã là một tư tưởng triết lý dễ hiểu về lý luận, nhưng cực kỳ khó để thực hành, vì ngày nào tôi còn ăn còn uống còn thở, thực hành “không tôi” là điều rất khó. Đó là chưa nói đến Luật Hấp Dẫn, càng cố tập trung bỏ tôi, thì lại càng kéo tôi vào.


Mình có cách dễ hơn cho các bạn, dù là không cao siêu về lý luận và tư tưởng như vô ngã, nhưng dễ hơn.


Đó là tập trung quan tâm vào người khác, vào thế giới.


Thế giới ai cũng khổ – người đói, người nghèo, người không nhà cửa, người không được đi học, người bệnh hoạn, người ngu si, người ghen tức, người thất tình, người bị áp bức, người hiếp đáp thiên hạ, người trộm cướp, người kiêu căng, người sợ hãi, người tuyệt vọng… Nói chung là hầu như mọi người đều khổ dù đó là ai.


Tùy theo ý ta muốn, ta có thể nghĩ về cả thế giới, hay chỉ là một nhóm người nào đó, như là những người hành khất trong khu phố, hay các em thất học đường phố, hay các em trong cô nhi viện…


Nghĩ về họ, nghĩ về họ, và yêu họ. Mình nói “yêu” họ, mình chẳng nói bạn phải làm gì cả. Yêu là… yêu. Yêu một cô là… yêu cô ấy. Ta biết trong lòng ta yêu là gì. Yêu không phải là nhiệm vụ. Bạn chẳng có nhiệm vụ yêu cô nào cả, và yêu thì bạn cũng chẳng có nhiệm vu làm gì cả – tặng hoa, làm thơ, viết thư, thăm viếng… đó là vì bạn muốn làm. Chẳng ai nói những điều này là nhiệm vụ của bạn.


Cho nên mình nói bạn yêu những người khổ mà bạn thường nghĩ đến, có xúc cảm yêu trong người. Rồi bạn muốn làm gì thì hãy để tình yêu đó thúc đẩy. Kinh nghiệm của mình thì cầu nguyện cho họ là cách làm hay nhất, vì (1) đó là điều thật tình nhất mà bạn làm được – thành thật, âm thầm, không ai biết, và bạn nhờ đến Chúa Phật với sức mạnh vĩ đại của các ngài, (2) năng lượng tích cực từ cầu nguyện tự nó có năng lực thay đổi thế giới, và (3) bạn không thể nói bạn chẳng biết làm gì, vì bạn luôn có thể cầu nguyện.


Và nếu bạn có làm gì, như là dành thời giờ hằng ngày dạy các em thiếu học, đừng nghĩ là bạn đang giúp các em, đang làm ơn cho các em… Chính vì vậy mà mình nói “yêu”. Yêu thì không nói “anh làm cho em”. Anh tặng hoa, anh chở em đi ăn, anh rủ em đi picnic, anh mua tặng em chiếc áo… chẳng vì anh làm gì, giúp gì, công cán gì cho em cả. Anh chỉ yêu em và anh làm vậy vì anh yêu em.


Điều mình nói “yêu” và mình “làm vì yêu” ở đây rất quan trọng, vì tình yêu mới đưa chúng ta vượt lên trên mức “be nice” (dễ thương), mức làm người tốt, mức giúp đỡ, mức muốn được phước, mức muốn được lên thiên đàng… Ta có thể đến mức tâm không còn vướng vào đâu.


“Bồ tát độ hằng hà sa số chúng sinh, mà chẳng độ chúng sinh nào, cho nên mới nói Bồ tát độ hằng hà sa số chúng sinh.” (Kinh Kim Cang). Làm mà không nghĩ là mình làm, không thấy mình làm, không thấy mình cho, không thấy người nhận, đó mới thực là làm.


Làm như thế là yêu thực sự. Làm gì đó cho bố mẹ, làm gì đó cho người yêu, làm gì đó cho vợ/chồng, làm gì đó cho con cái. Mình làm vì yêu, chẳng vì lý do gì khác, chẳng nghĩ gì đến công cán, đến phần thưởng…


Nếu chúng ta nghĩ về mọi người và phát triển được tình yêu như thế, và cầu nguyện cho mọi người hằng ngày, hoặc làm dự án nào đó hằng ngày, mà trái tim hoàn toàn tinh tuyền, không mong cầu gì cho mình, kể cả được an tâm, được hưởng phước, được lên thiên đàng… thì điều gì xảy ra?


Ta trở thành vô ngã và tấm màn vô minh rớt xuống.


Ta nắm được mặt trời, nguồn sáng tâm linh.


Các bạn thực hành đi, điều mình chỉ rất dễ thực hành. Bạn nào đã yêu một lần thì hiểu mình nói gì. Hoặc là yêu con cái, anh chị em trong nhà cũng hiểu được. Phát triển tình yêu đó rộng ra ngoài thế giới, thì màn “tôi” rớt xuống, để ta thấy được mặt trời trong trái tim ta.


Chúc các bạn nắm được mặt trời.


Mến,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Bat Nha Tam Kinh, Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 05, 2017 19:05

October 3, 2017

Mục đích cuối cùng

[image error]


 

Chào các bạn,


Mục đích cuối cùng của luyện tâm là cách ta tư duy và sống với mọi người. Đó là điều chúng ta luôn luôn nói, và các bậc thầy lớn đều tập trung, đó là Yêu thương tất cả loài người, một chiều, vô điều kiện.


– Chúng ta yêu Chúa là để yêu người.

– Chúng ta thành Bồ tát là để từ tâm và cứu độ mọi người.


Nếu chúng ta nói đến đạt Thiền, đạt ngộ, có Chúa, mà ta không có tình yêu bao la đó cho con người thì một là ta nói dối, hai là ta ngớ ngẩn.


Điều này nói ra thì dễ hiểu, nhưng qua nghìn năm mọi tôn giáo thường chia rẽ, chiến tranh, giết chóc, kể cả ngày nay, 2017. Cho nên, các bạn đừng cho rằng bạn có thể nắm chắc được điểm trung tâm này – Yêu tất cả mọi người vô điều kiện.


Rất có thể câu nói vừa ra khỏi miệng là ta đã tính chuyện đánh nhau: thanh toán đối thủ kinh doanh, thanh trừng đối thủ chính trị, đánh nhau với người đạo khác, giảng với nhau về đường thật của mình và đường lạc của các đạo khác, rủ nhau chiến đấu chống kẻ chống Chúa, rủ nhau chiến đấu bảo vệ đạo pháp…


Chúa Phật cần chúng ta sống khiêm tốn, thành thật, yêu người, tĩnh lặng. Các vị cần chúng ta giữ đạo pháp bằng sống đạo pháp – khiêm tốn, thành thật, yêu người, tĩnh lặng.


Các vị chẳng cần chúng ta bảo vệ các vị hay đạo pháp của các vị. Bảo vệ các vị và đạo pháp của các vị bằng cách sống y hệt như các vị đã sống. Có gì khó hiểu trong điểm căn bản này?


Các bạn, chúng ta không cần nói với ai ta theo Phật theo Chúa. Chỉ cần ta sống như Phật như Chúa. Và phép lạ sẽ đến với thế gian.


Lấy các vị làm thước đo của mình, để biết mình đang đi đúng, hay đang lạc đường.


Cách sống của trái tim ta là đỉnh điểm. Trái tim đạt đạo là trái tim yêu mọi người vô điều kiện.


Đừng đo mình bằng đi nhà thờ, đi Chùa, ăn chay, thiền định, giảng pháp, giảng Thánh kinh, rửa tội, giải tội, quy y tam bảo… Tất cả những thứ này là phương tiện. Mục đích cuối cùng là yêu người vô điều kiện. Bạn không thể giác ngộ nếu không từ tâm vô hạn. Bạn không thể có Chúa nếu không có bác ái vô cùng.


Đừng gọi mình là con Phật nếu mình không thực hành yêu mọi người vô điều kiện. Đừng gọi mình là theo Giêsu nếu mình không thực hành yêu mọi người vô điều kiện.


Và bạn sẽ không yêu tất cả mọi người được, nếu tâm bạn không tĩnh lặng. Chỉ tâm tĩnh lặng mới đủ sức nhìn mọi người như nhau để mà yêu, kể cả những người bắt bớ, hành hình, làm hại mình.


Đừng tự dối mình, đồng thời hạ Chúa Phật xuống hàng tiến sĩ giấy.


Chúc các bạn luôn yêu người.


Mến,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 03, 2017 19:59

September 28, 2017

Calmness – Tĩnh lặng

[image error]


Bản tiếng Việt bên dưới


Calmness


Dear Brothers and Sisters,


What are we talking about when we say “a calm mind”?


It is a mind that is at peace with itself and with the entire universe.


If you are calm about one thing and upset, angry, depressed… about another thing, that is not a calm mind. Or if you’re calm this minute, upset the next minute, then it is not a calm mind.


In Buddhist terminology, a calm mind is always calm, about anything or any person, at any place and anytime.


A calm mind cannot be disturbed any anything, any person, any situation… because the mind has learned to look at everything as temporal and illusory. Everything we see with the six sense organs – eyes, ears, nose, tongue, body, consciousness – is temporal and illusory. They are just the fleeting waves on the surface of the ocean, appearing now and disappearing the next minute. They all are truly water drops of the ocean, which is Void (Không, Emptiness).


Another way to express is that the calm mind is the blue sky, everything in the universe going through the mind is the clouds sailing through the sky. Clouds come and go, appear and disappear. But the sky is permanent, always there and, as its nature, always empty, always blue and transparent.


Void is the true nature of the universe and also the true nature of our mind. Our mind is permanently empty and calm. Due to our ignorance, we let the clouds shake us. But clouds cannot shake the sky. Clouds come and go. The sky remains, empty and calm.


That is the meaning of calmness, or Nirvana.


To train the mind to reach calmness, we practice samantha (thiền chỉ), by concentrating the mind on a single object, to gain one-mind undisturbed, such as breathing meditation, walking meditation, every-minute Zen, driving meditation… Then eventually we should be able to drop everything, including samatha, to attain complete calmness.


The Buddha said about calmness (and also about non-attaching):


I consider the positions of kings and rulers as that of dust motes.

I observe treasures of gold and gems as so many bricks and pebbles.

I look upon the finest silken robes as tattered rags.

I see myriad worlds of the universe as small seeds of fruit,

and the greatest lake in India as a drop of oil on my foot.

I perceive the teachings of the world to be the illusion of magicians.

I discern the highest conception of emancipation as a golden brocade in a dream,

and view the holy path of the illuminated ones as flowers appearing in one’s eyes.

I see meditation as a pillar of a mountain,

Nirvana as a nightmare of daytime.

I look upon the judgment of right and wrong as the serpentine dance of a dragon,

and the rise and fall of beliefs as but traces left by the four seasons.

Wish you calmness of the mind.


Metta,


Hoành


 


Tĩnh Lặng


Chào các bạn,


Chúng ta nói về điều gì khi ta nói “tâm tĩnh lặng”?


Đó là tâm bình an với chính mình và với toàn vũ trụ.


Nếu bạn tĩnh lặng về một điều và bực mình, tức giận, trầm cảm… về một điều khác, đó không phải là tâm tĩnh lặng. Hoặc nếu bạn tĩnh lặng phút này, bực mình phút tới, thì đó không phải là tâm tĩnh lặng.


Trong ngôn ngữ Phật pháp, tâm tĩnh lặng luôn tĩnh lặng, về bất kì điều gì và bất kì ai, tại bất kì đâu và bất kì lúc nào.


Tâm tĩnh lặng không thể bị điều gì, người nào, tình trạng nào… làm xung động, vì tâm đã học nhìn mọi thứ là tạm bợ ảo ảnh. Tất cả mọi thứ chúng ta có thể thấy bằng lục căn – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – đều tạm bợ và ảo ảnh. Chúng chỉ là những lượn sóng phù du trên mặt đại đương, hiện lúc này, phút tới là biến. Chúng thực sự là những giọt nước của đại dương “Không”.


Một cách khác để nói là: Tâm tĩnh lặng là bầu trời xanh, mọi thứ trong vũ trụ đi qua tâm ta là những đám mây trôi qua bầu trời. Mây đến và đi, hiện và biến. Nhưng bầu trời thường trực, luôn có đó và, như là bản tính thật, luôn rỗng, luôn xanh và trong.


“Không” là bản tính thật của vũ trụ và cũng là bản tính thật của tâm ta. Tâm ta thường trực rỗng và lặng. Vì ta si mê, ta để cho mây làm ta lay động. Nhưng mây không thể lay động bầu trời. Mây đến và đi. Bầu trời luôn rỗng và lặng.


Đó là bản tính của tĩnh lặng, hay Niết Bàn.


Để luyện tâm đạt tĩnh lặng, chúng ta tập Thiền chỉ (samantha), bằng cách tập trung tâm trí vào một chuyện, để đạt nhất tâm bất loạn, như Thiền hít thở, Thiền đi, Thiền từng phút, Thiền lái xe… Rồi một lúc nào đó ta có thể bỏ tất cả, kể cả thiền chỉ, để đạt tĩnh lặng hoàn toàn.


Phật Thích ca nói về tĩnh lặng (và cũng về vô chấp):


Thầy xem địa vị của vua chúa như bụi đất.

Thầy thấy vàng ngọc như gạch sỏi.

Thầy nhìn xiêm y lụa là như giẻ rách.

Thầy coi vô lượng thế giới của vũ trụ như hạt trái cây,

và hồ vĩ đại nhất của Ấn Độ như giọt dầu trên bàn chân.

Thầy nhận xét mọi giáo huấn của thế giới như ảo ảnh của ảo thuật gia.

Thầy chiêm nghiệm ‎ý niệm tối thượng về giải thoát như chiếc áo thêu vàng trong mộng,

và xem thánh đạo của các đấng giác ngộ như hoa trong mắt.

Thầy thấy thiền định là cột trụ của quả núi,

Niết bàn là ác mộng của ban ngày.

Thầy nhìn phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn lượn của con rồng,

và sự lên xuống của các niềm tin như vết tích còn lại của bốn mùa.

Chúc các bạn tâm tĩnh lặng.


Từ bi,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 28, 2017 23:09

September 27, 2017

Non-Attachment – Vô chấp

[image error]

 


Bản tiếng Việt bên dưới


Non-Attachment


Dear Brothers and Siters,


It seems easy enough to understand what non-attachment means. It means we do not attach ourselves to anything. This seemingly simple idea in theory, however, is difficult in practice, because we human have the habit of attaching to many things in life – name, fame, wealth, position, power, moral rules, church rules, pleasure…


We eat the foods we love, listen to our favorite music, follow our moral norms, enjoy our normal recreations… All these can be attachment. Almost everything we do in a day is our routine, and it is hard to function without a routine. It seems, routine is an attachment. How do we live without attachment?


Attachment is a mental attitude, not a physical action. Touching money, holding money, or even possessing money does not mean attaching to money. We attach to money when we cling to money and become greedy about money — thinking about money constantly, trying to get more money as we can for ourselves, worrying all day about making more money, enjoying having more money just for money’s sake or, further, doing unethical or illegal things just to win more money.


We need money to live, and if we are successful in running a business, money may pour in. We use the money to raise our family and enlarge our business, helping more people be employed and successful, then it is not attaching.


When we start to cross the line from selfless to selfish, we start attaching to money – money by me, of me, and for me.


Non-attachment is a mental attitude. We understand our mind better than anyone, so we usually know if we are attaching to money or not. A good attitude test comes when we lose money: Are we stressed? Or smiling: “Oh, money comes money goes”, or “God gives and God takes away”?


A cavalier attitude, or better yet, Zen calmness, about losing money is a good indication of non-attachment.


The same test goes with everything else in life.


An important point most people miss is that: Attachment is bad even when you attach to goodness. Your political ideals, your moral norms, your religious rules, your ethics… all these are ideas and rules that you follow faithfully, and they could very well be good for you, and good for the world through you. But you can be attaching to them when you believe that they are right and other ways are wrong, that whoever don’t follow them are bad people, or worse, you have to start a bloody revolution to convince other people to follow your path.


Attaching to anything is an attachment. There is no exception.


So you follow your way – your political ideals, your religious rules, your living philosophies – but don’t use it to judge other people.


And we should always be ready to drop your way. Say, now it’s time for your daily prayer, however if your neighbor is sick and need your help to get him to the hospital immediately, then drop your prayer and save him. Non-attachment means dropping when we should drop.


The Heart Sutra says (I capitalize “NO”, and add my annotation in red):

 


In emptiness there is NO form, feeling, cognition, formation, or consciousness; (these are about five skandhas – ngũ uẩn)

NO eyes, ears, nose, tongue, body, or mind; (six sensing organs – lục căn)


NO sights, sounds, smells, tastes, objects of touch, or dharmas; (six sense objects – lục trần)


NO realm of the eyes, up to and including NO realm of mind-consciousness; (shorthand for: eighteen realms – six realm of sensing organs, six realm of sense objects, and six realms of sense consciousness – 18 giới)


and NO ignorance or ending of ignorance, up to and including NO old age and death or ending of old age and death. (Shorthand for 12 Links of Cause and Effect – thập nhị nhân duyên)


There is NO suffering, NO accumulating, NO extinction, NO way, (short hand for 4 Noble Truths – Tứ Diệu Đế)


NO understanding and NO attaining. (no Enlightenment and no attaining Enlightenment – Giác ngộ)

Above is a list of almost all Buddhist teachings. The Heart Sutra negates all Buddhist teachings? What does that mean?


That means we should eventually have to drop all teachings, total non-attachment, and be back to our original mind/heart: Learning every teaching but not attaching to any teaching.


Wish you all non-attachment.


Metta,


Hoành


 


Vô Chấp


Chào các bạn


Có vẻ rất dễ để hiểu vô chấp là gì. Nghĩa là, ta đừng chấp (bám) vào điều gì. Tuy nhiên, điều có vẻ giản dị trên lý thuyết này lại rất khó trong thực hành, bởi vì loài người chúng ta có thói quen chấp vào rất nhiều thứ trên đời – tên tuổi, danh tiếng, tài sản, địa vị, quyền lực, luân lý, luật đạo, vui thích…


Chúng ăn món ta thích, nghe nhạc ta chuộng, theo các quy tắc đạo đức của ta, hưởng thụ các giải trí thường xuyên của ta… tất cả những thứ này đều có thể là chấp. Hầu như tất cả mọi điều chúng ta làm trong ngày đều là hoạt động thường nhật, và rất khó sống nếu không có các hoạt động thường nhật này. Vậy, hình như các hoạt động thường nhật đều là chấp. Làm sao ta sống mà không chấp?


Chấp là một thái độ của tâm trí, không phải là một hành động vật lý. Sờ tiền, cầm tiền, và ngay cả có tiền đều không có nghĩa là chấp vào tiền. Chúng ta chấp vào tiền khi ta bám vào tiền và trở thành tham tiền, luôn luôn nghĩ tới tiền, cố kiếm thêm tiền cho mình, cả ngày lo lắng về việc kiếm tiền, thích thú có tiền chỉ để có tiền hoặc, xa hơn, làm các chuyện phi đạo đức hay phi pháp chỉ để được thêm tiền.


Chúng ta cần tiền để sống, và nếu ta thành công trong kinh doanh, tiền có thể ào vào, chúng ta dùng tiền để nuôi gia đình và mở rộng kinh doanh, giúp thêm nhiều người có công việc và thành công, thì đó không phải là chấp. Khi chúng ta vượt lằn ranh giữa vị tha sang vị kỷ, chúng ta bắt đầu chấp – tiền do tôi, của tôi, và cho tôi.


Chấp là một thái độ của tâm trí. Chúng ta hiểu tâm trí chúng ta hơn ai cả, cho nên chúng ta thường biết mình có đang chấp vào tiền hay không. Một test thái độ sẽ đến khi ta bị mất tiền: Ta bị stressed? Hay mỉm cười: “Ô, tiền đến tiền đi”, hay “Chúa cho Chúa lấy”? Một thái độ ung dung, hay hơn nữa, tĩnh lặng của Thiền, về chuyện mất tiền là một dấu hiệu tốt của vô chấp.


Test này có thể dùng với mọi thứ trên đời.


Có một điều quan trọng nhiều người không biết là: Chấp vẫn xấu kể cả khi bạn chấp vào điều tốt. Lý tưởng chính trị của bạn, quy luật luân lý của bạn, lề luật tôn giáo của bạn, đạo đức của bạn… tất cả những điều này là khái niệm và luật lệ bạn tuân theo triệt để, và chúng có thể tốt cho bạn, và, qua bạn, tốt cho thế giới. Nhưng bạn có thể chấp vào chúng khi bạn tin rằng chúng đúng và những đường khác là sai, rằng ai không theo chúng là người xấu, hay tệ hơn nữa, bạn phải phát động một cuộc cách mạng đẫm máu để thuyết phục những người khác phải đi theo đường bạn.


Chấp vào bất kì điều gì đều là chấp. Không có ngoại lệ.


Cho nên, bạn cứ theo đường bạn – lý tưởng chính trị của bạn, luật lệ tôn giáo của bạn, triết lý sống của bạn – nhưng đừng dùng đường bạn để phán đoán người khác.


Và chúng ta nên luôn sẵn sàng để ngưng con đường của mình. Ví dụ, bây giờ là giờ bạn cầu nguyện mỗi ngày. Tuy nhiên, nếu anh hàng xóm bị bệnh và cần bạn giúp đưa vào bệnh viện tức khắc, thì hãy ngưng cầu nguyện và cứu anh ta. Vô chấp có nghĩa là ngưng cách của mình khi mình nên ngưng.


Bát Nhã Tâm Kinh nói (Mình in các từ “VÔ”, và thêm giải thích của mình màu đỏ):

 


Không trung VÔ sắc, VÔ thọ, tưởng, hành, thức; (trong không chẳng có sắc, chẳng có thọ, tưởng, hành, thức – đây là nói về ngũ uẩn)

VÔ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; (chẳng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – lục căn)


VÔ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; (chẳng có màu sắc, âm thanh, hương thơm, vị nếm, xúc cảm, và các pháp – lục trần)


VÔ nhãn giới, nãi chí VÔ ý-thức-giới, (chẳng có nơi để nhìn, cho đến chẳng có có nơi để ý thức – nói tắt, 18 giới: 6 giới của lục căn, 6 của lục trần, 6 của lục thức)


VÔ vô-minh, diệc VÔ vô-minh tận, nãi chí VÔ lão tử, diệc VÔ lão tử tận; (chẳng có vô minh, cũng chẳng có chấm dứt vô minh; cho nên chẳng có già chết, cũng chẳng có chấm dứt già chết – nói tắt, thập nhị nhân duyên)


VÔ khổ, tập, diệt, đạo; (chẳng có khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ, và con đường diệt khổ – Tứ Diệu Đế)


VÔ trí diệc vô đắc (chẳng có trí tuệ, cũng chẳng có đạt – Giác ngộ và đạt Giác ngộ)

Vô là “không có”. Bên trên là danh sách hầu như toàn bộ phật pháp. Bát Nhã Tâm Kinh xóa hết phật pháp hay sao? Vậy có nghĩa là gì?


Có nghĩa là, một lúc nào đó, chúng ta phải xóa hết giáo pháp, hoàn toàn vô chấp, và trở về với tâm nguyên thủy của ta: Học mọi pháp nhưng không chấp vào pháp nào.


Chúc các bạn vô chấp.


Từ bi,


Hoành


Filed under: Buddhism, Inspiration, Video PPS, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Bat Nha Tam Kinh, Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 27, 2017 18:17

September 26, 2017

Prajñāpāramita-hṛdayam Sūtra – The Heart Sutra – Bát Nhã Tâm Kinh

Nghe nhạc tụng Bát Nhã Tâm Kinh >>


The Heart Sutra is one of the best known, most chanted, of all sutras. It exists in a longer and a shorter form – the calligraphy here is of the shorter version. There are a number of standard commentaries on this sutra, which look at it from a variety of traditional view points. Versions are known in most of the important languages of Mahāyāna Buddhism.


Here is my Siddhaṃ calligraphy of the Sanskrit (following Edward Conze’s Sanskrit edition as it appears in his book Buddhist Wisdom Books). See also my separate page for the Heart Sūtra mantra


[image error]


 


prajñāpāramita-hṛdayam sūtra

oṃ namo bhagavatyai ārya prajñāpāramitāyai!


ārya-avalokiteśvaro bodhisattvo gambhīrāṃ prajñāpāramitā caryāṃ caramāṇo vyavalokayati sma:

panca-skandhās tāṃś ca svābhava śūnyān paśyati sma.


iha śāriputra: rūpaṃ śūnyatā śūnyataiva rūpaṃ; rūpān na pṛthak śūnyatā śunyatāyā na pṛthag rūpaṃ; yad rūpaṃ sā śūnyatā; ya śūnyatā tad rūpaṃ. evam eva vedanā saṃjñā saṃskāra vijñānaṃ.


iha śāriputra: sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā, anutpannā aniruddhā, amalā avimalā, anūnā aparipūrṇāḥ.


tasmāc chāriputra śūnyatayāṃ na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam. na cakṣuḥ-śrotra-ghrāna-jihvā-kāya-manāṃsi. na rūpa-śabda-gandha-rasa-spraṣṭavaya-dharmāh. Na cakṣūr-dhātur. yāvan na manovijñāna-dhātuḥ. na-avidyā na-avidyā-kṣayo. yāvan na jarā-maraṇam na jarā-maraṇa-kṣayo. na duhkha-samudaya-nirodha-margā. Na jñānam, na prāptir na-aprāptiḥ.


tasmāc chāriputra aprāptitvād bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya viharatyacittāvaraṇaḥ. cittāvaraṇa-nāstitvād atrastro viparyāsa-atikrānto niṣṭhā-nirvāṇa-prāptaḥ.


tryadhva-vyavasthitāḥ sarva-buddhāḥ prajñāpāramitām āśrityā-anuttarāṃ samyaksambodhim abhisambuddhāḥ.


tasmāj jñātavyam: prajñāpāramitā mahā-mantro mahā-vidyā mantro ‘nuttara-mantro samasama-mantraḥ, sarva duḥkha praśamanaḥ, satyam amithyatāt. prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ.


tadyathā: gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā.


iti prajñāpāramitā-hṛdayam samāptam.


Notes

The bīja in the centre is dhiḥmma which is said by the Shingon tradition of Japan to be the essence of the Heart Sūtra. The Heart Sūtra itself is said to be the essence of the Perfection of Wisdom tradition. It combines dhīḥ the basic seed-syllable for the Perfection of Wisdom (prajñāpāramitā) with ‘ma’ the seed-syllable for Mañjuśrī in the Shingon tradition.


I’ve followed the Chinese pattern in lining the characters up in a grid in imitation of the way Chinese is written – though here they are read left to right, top to bottom. Siddhaṃ was, and is, written left to right often without word breaks – these can be worked out rom the spelling though it is not easy.


The first short line is the title: pra jñā pā ra mi ta hṛ da yaṃ sū tra


It is now generally believed by scholars that the Heart Sutra was composed in China. The part from the first “iha śāriputra” down to “Na jñānam, na prāptir na-aprāptiḥ” was extracted from the Chinese translation of the Sanskrit Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra or Perfection of Wisdom in 25,000 lines (see Conze’s The Large Sutra on Perfect Wisdom, pg 61, section I 2.2c). An introduction and ending were added in Chinese, along with the mantra which appears in various other Chinese Perfection of Wisdom texts in various forms. It is even possible that the Chinese title was meant to indicate a text to be chanted rather than “Heart Sūtra” as the Chinese characters have some ambiguity. About the time that Xuanzang was in India (mid 7th century) the Heart Sūtra was back-translated into Sanskrit in India, and was given the standard opening for a sūtra “thus have I heard” (evaṃ maya śrutaṃ), and the standard praises from the audience at the end which are also the mark of a sūtra in India, thereby creating the long version. It is possible that it was Xuanzang himself who composed the Sanskrit version that we have today as he was a great fan of the sūtra.


Another version of the Heart Sutra written in Siddham can be seen here.


Prajñāpāramitāhṛdaya Heart Sutra Essays





The Heart Sūtra – Indian or Chinese? (17 Sep 2007) Precis of Jan Nattier’s 1992 article on the provenance of the Heart Sutra.
Words in mantras that end in -e (6 Mar 2009) The Grammatical function of the -e case marker in mantras, suggesting that this is from Prakrit and indicates a masculine nominative singular.
Tadyathā in the Heart Sūtra. (13 Nov 2009) Grammar and syntax of tadyathā in relationship to mantras. Not originally intended to be included in recitation.
Some Additional Notes: The -e ending in mantras. (30 Jul 2010) Further note on the -e ending which shows that it was in widespread us as nominative singular in Northern India [Signe Cohen].
Heart Sutra Syntax .(23 Nov 2012) Initial notes on a grammatical error discovered in Conze’s critical edition of the Sanskrit Heart Sutra, with proposed changes to the text. Now submitted to an academic journal.
Heart Sutra: Horiuzi Palm-leaf mss. Transcription (5 Dec 2012) An important Sanskrit manuscript of the Heart Sutra.
Emptiness for Beginners. (14 Feb 2013) Brief explanation of the concept of emptiness based on close study of Nāgārjuna’s Mūlamadhyamkakārikā.
Heart Sutra Mantra. (30 Aug 2013) Detailed notes on the source texts for the mantra found in the Heart Sutra. Definition of mantra vs dhāraṇī with suggestion that the “mantra” is in fact a dhāraṇī.
Heart Sutra Mantra Epithets. (6 Sep 2013) Notes on the epithets often associated with the mantra. Shows that “mantra” is probably the wrong Sanskrit word, and that the source texts, particularly Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra has “vidyā“. Epithets are in fact unrelated to the dhāraṇī and refer to prajñāpāramitā more generally.
Who Translated the Heart Sutra into Sanskrit? (13 Sep 2013). Using idiosyncrasies in the language to place limits on who could have translated it from Chinese to Sanskrit.
Fixing Problems in the Sanskrit Heart Sūtra. (20 Sep 2013). Given the problems created by translating from Chinese into Sanskrit, how would we improve on the present sutra.
A New Sanskrit Heart Sutra. (27 Sep 2013). A revision of the edition of the Heart Sutra by Edward Conze, with some back story, notes and a new translation.
An Alternate Sanskrit Heart Sutra. (11 Oct 2013). A speculative text based on extracts of the Gilgit manuscript of the Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra.
Why is there a Dhāraṇī in the Heart Sūtra? (18 Oct 2013) Looking at dhāraṇī, attitudes of scholars and the role of magic in Buddhism through the lens of Ariel Glucklich’s work.
Variations in the Heart Sutra in Chinese. (25 Oct 2013) Examining a critique of Jan Nattier’s Chinese origins thesis on the basis of variant readings in the Chinese Tripiṭaka.
The Act of Truth in Relation to the Heart Sutra. (1 Nov 2013) Description of the satyakiriya or act of truth, an obscure branch of Buddhist lore and how it might inform the use of a text like the Heart Sutra
Roots of the Heart Sutra. (15 Aug 2014). A possible source text for the epithets passage in the Hṛdaya in the form of a verse from the Ratnaguṇasaṃcayagāthā.
New Heart Sutra Manuscript. (26 Dec 2014). Diplomatic edition of EAP676/2/5: Ārya Pañcaviṁśatikā Prajñāpāramitā Mantranāma Dhāraṇī (aka the long text Heart Sutra).
Chinese Heart Sutra: Dates and Attributions. (3 April 2015). A critical review of Jan Nattier’s arguments about the chronology of the Heart Sutra, in the light of a 2003 article by Dan Lusthaus presenting evidence which he argues poses a serious challenge to Nattier’s theory.
Avalokiteśvara & the Heart Sutra. (24 Apr 2015) Forensic examination of the name in Sanskrit, Chinese and Tibetan, along with some notes about the role of the bodhisatva in the Prajñāpāramitāhṛdaya.
The Heart Sutra in Middle Chinese. (15 May 2015). A transcription of the Xīnjīng or the Heart Sutra according to the Baxter & Sagart reconstruction of Middle Chinese. This is the Heart Sutra as it might have sounded at the time it was composed.



I’ve prepared a pdf of the three essays on form is emptiness combined.

Form is Emptiness. Part I: Establishing the Text. (17 Jul 2015) First part of this essay works through the process of establishing the text to be commented on. The method involves examining the manuscript/epigraphical tradition of Sanskrit and the canonical Chinese texts as well as versions of the Pañcaviṃśatisāhasrikā-prajñāpāramitā-sūtra in both languages.
Form is Emptiness. Part II: Commentary. (24 Jul 2015) In the second part of this essay we briefly consider the traditional commentaries, then move on to treating the Aṣṭasāhasrikā-prajñāpāramitā-sūtra as a commentary on the famous passage from the Heart Sutra, providing an authoritative alternative to the common Zen inspired readings of the text.
Form is Emptiness. Part III: Commentary continued. (31 Jul 2015). In the third and final part of this essay we discover that the phrase rūpam śūnyatā śūnytaiva rūpaṃ has in fact been altered. In the Aṣṭa it is rūpameva māyā māyaiva rūpam. We explore the implications of this, and sum up the whole project.
Taishō 256: The Other Chinese Heart Sutra. (25 Dec 2015). A first look at the other short text Heart Sutra in the Chinese Tripiṭaka and the associated manuscript in the British Library. Previously attributed to Xuanzang, this essay shows why it is not associated with Amoghavajra.
The Oldest Dated Heart Sutra. (1 Jan 2015). The story of the stele commonly known as 集王聖教序并記  or Preface and Notes to the Preface to the Holy Teaching with the Collected Wang’s Calligraphy. Erected in 672, composed using examples of the calligraphy of 王羲之 Wang Xizhi, it is the oldest dated version of the Heart Sutra.

Nguồn: http://www.visiblemantra.org/heartsutra.html



 


[image error]

Chinese text of the Heart Sūtra by Yuan dynasty artist and calligrapher Zhao Mengfu (1254–1322 CE)


 


Bát Nhã Tâm Kinh

Hán Việt


Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.


Xá-Lợi-Tử! Săc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.


Xá-Lợi-Tử! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.


Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố vô hữu khủng-bố; viễn ly điên-đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.


Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.


Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề. Tát bà ha.


Nguồn: http://www.quangduc.com/kinhdien/kinhbatnha.html



 


Bát Nhã Tâm Kinh

Dịch Nghĩa Tiếng Việt, bản dịch TĐH

tham khảo từ nhiều bản dịch trước đây


Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt qua mọi khổ ách.


Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.


Xá Lợi Tử! Mọi sự đều là không, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không chẳng có sắc, chẳng có thọ, tưởng, hành, thức; chẳng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; chẳng có màu sắc, âm thanh, hương thơm, vị nếm, xúc cảm, và các pháp; chẳng có nơi để nhìn, cho đến chẳng có có nơi để ý thức; chẳng có vô minh, cũng chẳng có chấm dứt vô minh; cho nên chẳng có già chết, cũng chẳng có chấm dứt già chết; chẳng có khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ, và con đường diệt khổ; chẳng có trí tuệ, cũng chẳng có đạt.


Bởi chẳng có gì để đạt, Bồ tát nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên tâm không vướng mắc; vì không vướng mắc nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên đạt được vô thượng chánh đẳng chánh giác.


Nên biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là thần chú lớn, là minh chú lớn, là chú tối cao, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật, không dối.


Nên nói chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là nói chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha. (Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, vậy đó!).


 

Đọc Bát Nhã Tâm Kinh lược giảng của TĐH


Bát Nhã Tâm Kinh lược giảng

Bát Nhã Tâm Kinh lược giảng Việt Anh (để học tiếng Anh)

A Brief Exposition on the Heart Sutra


 


The Heart of Prajna Paramita Sutra

Translated by Tang Dharma Master of the Tripitaka

Hsüan-Tsang on imperial command


When Avalokiteshvara Bodhisattva was practicing the profound prajna paramita, he illuminated the five skandhas and saw that they are all empty, and he crossed beyond all suffering and difficulty.


Shariputra, form does not differ from emptiness; emptiness does not differ from form. Form itself is emptiness; emptiness itself is form. So, too, are feeling, cognition, formation, and consciousness.


Shariputra, all dharmas are empty of characteristics. They are not produced. Not destroyed, not defiled, not pure, and they neither increase nor diminish.


Therefore, in emptiness there is no form, feeling, cognition, formation, or consciousness; no eyes, ears, nose, tongue, body, or mind; no sights, sounds, smells, tastes, objects of touch, or dharmas; no field of the eyes, up to and including no field of mind-consciousness; and no ignorance or ending of ignorance, up to and including no old age and death or ending of old age and death. There is no suffering, no accumulating, no extinction, no way, and no understanding and no attaining.


Because nothing is attained, the Bodhisattva, through reliance on prajna paramita, is unimpeded in his mind. Because there is no impediment, he is not afraid, and he leaves distorted dream-thinking far behind. Ultimately Nirvana!


All Buddhas of the three periods of time attain Anuttarasamyaksambodhi through reliance on prajna paramita. Therefore, know that prajna paramita is a great spiritual mantra, a great bright mantra, a supreme mantra, an unequalled mantra. It can remove all suffering; it is genuine and not false. That is why the mantra of prajna paramita was spoken. Recite it like this:


Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!


Nguồn: http://www.cttbusa.org/heartsutra/hs1.htm


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Bát Nhã Tâm Kinh, Bat Nha Tam Kinh, Buddhism, Heart Sutra, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 26, 2017 09:17

September 25, 2017

Nhất tâm bất loạn – Thiền hít thở

[image error]


TĐH: Hôm qua mình viết bài tiếng Anh, One Mind Undisturbed – Breathing meditation, có một số bạn không theo dõi được rõ ràng, nên hôm nay mình dịch sang tiếng Việt.

 


Hôm nay mình cũng thêm vào khúc cuối bài, một vài điểm quan trọng đã được thảo luận trong comments của bài tiếng Anh.

Chào các bạn,


Cách luyện tâm nền tảng nhất là giữ tâm tĩnh lặng, nghĩa là không nhảy lung tung với đủ mọi thứ kích thích như khỉ. Tâm không được luyện tập dễ bị đẩy, húc, kéo và kích động bởi hầu như bất kì điều gì – tin xấu, tin tốt, lời khen, lời xúc phạm, sợ hãi, băn khoăn, lo lắng…


Bát phong (tám gió) của cuộc đời thường trực tấn công tâm ta. Bát phong đến trong bốn cặp: Lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc (thịnh suy, nhục vinh, khen chê, khổ vui).


Bát phong đại diện cho tất cả mọi thứ kích thích trên đời, thường trực xoay chuyển tâm ta vòng vòng mọi hướng, nếu tâm không biết cách tĩnh lặng.


Giữ tâm tĩnh lặng là cách chiến thắng bát phong. Tâm tĩnh lặng hoàn toàn là tâm Bồ tát.


Trong Thiền học, thiền sinh được dạy ngồi tĩnh lặng trong lúc tập Thiền, gọi là tọa thiền (thiền ngồi), để tâm được đổ sạch mọi thứ – tức là, không suy nghĩ về bất kì điều gì — và chỉ tập trung vào hơi thở, chuyển động vào ra của hơi thở. Cách này gọi là Thiền hít thở (thiền sổ tức).


(Một số thầy gọi thiền sổ tức là thiền đếm hơi thở. Có lẽ vì trong tiếng Hán Việt sổ tức có thể là đếm (sổ) hơi thở (tức), vì vậy họ dạy học trò trước hết là đếm hơi thở. Mình không khuyên các bạn đếm, vì bạn không muốn làm tâm bạn quá bận rộn. Bạn cần để tâm thư giãn.


Mình giải thích cho các bạn một ý nghĩa khác của sổ tức, dùng tiếng Việt thuần túy. Trong tiếng Việt thuần túy, sổ là đi ra, chạy ra, đẩy ra… như chim sổ lồng, cửa sổ (chỗ mở để thông ra ngoài), thuốc sổ, đường may tà áo bị sổ chỉ, sổ mũi.


Tức, trong tiếng Việt thuần túy, có nghĩa là “áp lực bên trong’, như tức ngực (nặng ngực hay đau ngực), tức tối, tức nước vỡ bờ (nước nhiều áp lực quá sẽ làm vỡ bờ).


Vậy, sổ tức có nghĩa là làm cho áp lực bên trong được thoát ra ngoài, làm cho mình hết áp lực bên trong.


Cho nên, mình gọi thiền sổ tức là thiền hít thở — bạn không làm gì ngoài hít thở — hít vào chậm và sâu để cho ra ngoài mọi áp lực bên trong, stress bên trong – không phải là thiền đếm hơi thở. Và mình KHÔNG khuyên các bạn THÊM VIỆC cho tâm trí bằng cách đếm hơi thở hay việc gì khác.


Mục đích của thiền hít thở là tập trung tâm trí vào hơi thở, để chặn tâm trí khỏi đi lang thang.


Chúng ta giữ tâm trí vào MỘT chỗ. Đó là mục đích của thiền hít thở.


Mục tiêu tối hậu của Thiền là hoàn toàn tĩnh lặng. Tuy nhiên, đối với thiền sinh nhập môn, điều đầu tiên là giữ tâm trí lại một chỗ. Chưa là tĩnh lặng hoàn toàn, nhưng ít ra tâm trí đứng lại một chỗ thay vì nhảy lung tung. Đây là “nhất tâm bất loạn” (một tâm không loạn động). Tâm trí tập trung vào một điều, không bị điều gì khác làm loạn động.


Sau đây là cách để giữ tâm trí tập trung vào hơi thở. (1) Hít vào chậm và sâu, (2) ngưng và giữ hơi chừng 2, 3 giây, rồi (3) thở ra từ từ.


Nên nhớ, cuối cùng chúng ta muốn tĩnh lặng hoàn toàn. Nhưng nếu tâm trí phải làm một việc gì đó, thì hãy làm chỉ MỘT việc đơn giản, để tâm trí gần tĩnh lặng đến mức có thể. Vì vậy, bạn chỉ nên theo dõi hơi thở, nhưng đừng thêm đếm hay điều gì khác.


Chỉ vậy thôi. Giữ tâm trí đứng yên một chỗ là bước đầu tiên để đạt tĩnh lặng. Nhất tâm bất loạn là bước đầu tiên để đạt tĩnh lặng hoàn toàn.


Đây là cách thực hành thiền hít thở:


Ngồi bất kì cách nào bạn muốn, như trong các ảnh dưới đây.


Giữ xương sống và xương cổ THẲNG, để không gây thương tích cho sống lưng. Bạn có thể ngồi trên sàn hay trên gối/đệm.


Để tay bất kì cách nào thoải mái nhất cho bạn.


Nhắm mắt, để tập trung dễ hơn.


Thời gian: Bạn có thể ngồi Thiền chừng 15 phút mỗi ngày, bất kì lúc nào mà bạn không quá đói hay quá no. Nhưng buổi sáng sớm hay tối trước khi ngủ là tốt nhất. Sau này, bạn có thể tăng thêm giờ nếu bạn muốn.


Và thư giãn. Đây là không làm gì cả, nhưng có thể khó nếu bạn không biết cách thư giãn, nghỉ ngơi. Tâm trí không làm gì cả (ngoại trừ theo dõi hơi thở), không suy nghĩ về điều gì, không cố gắng gì, không có mục tiêu gì, không nhắm vào mục đích nào. Không có gì.


Quan trọng để nhớ: Đôi khi chúng ta được dạy về các lợi ích của Thiền, như là thân tâm an lạc, an trú trong hiện tại, tạo năng lượng bình an, tăng sức khỏe… Các điều này thường là hậu quả của Thiền, và các thầy thường nhắc đến để khuyến khích các thiền sinh nhập môn.


Nhưng, mình dạy, các bạn nên gạt chúng ta khỏi đầu, hay ít nhất là lờ chúng đi. Vì Thiền là hoàn toàn rỗng lặng, không có gì, không có chi trong tâm. “Không” (the Void) chẳng có gì. Nirvana (Niết Bàn) là không có gì, lửa đã tắt.


Đây là điều quan trọng, đừng bám vào điều gì, đừng chạy theo mục đích nào. Còn bám vào bất kì điều gì đều là bám (“chấp”) và ta sẽ chẳng bao giờ đến bờ nếu cứ bám vào thuyền mãi. Nếu Thiền có một mục đích, thì mục đích đó là xóa khỏi tâm tất cả mọi thứ, xóa tất cả mọi phương tiện – kể cả Thiền – và xóa tất cả mọi mục đích – kể cả mục đích đạt Thiền.


Nếu chúng ta “bám” vào điều gì đó khi tập Thiền, như là an lạc, an trú, năng lượng, sức khỏe, đạt Thiền… thì ta đang “chấp”.


Thiền là vô chấp, vô trụ, vô tâm, vô niệm. Đó là Phật tâm.


Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Không bám vào đâu thì sinh tâm giác ngộ (Kinh Kim Cang, Đoạn 10).


Lúc khởi đầu, mình chỉ muốn các bạn làm một việc máy móc đơn giản là theo dõi hơi thở, và không làm gì khác, không muốn gì, không nhắm mục đích nào. Nhưng, đáng tiếc là, vẫn còn một mục đích “nhất tâm bất loạn.” Sau này khá rồi, các bạn cần xóa luôn nhất tâm bất loạn để trong tâm bạn không còn gì – vô chấp, vô trụ, vô tâm, vô niệm.


Chúc các bạn vui Thiền.


Mến,


Hoành


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 25, 2017 15:45

September 24, 2017

One mind undisturbed – Breathing meditation

[image error]

Last update: 18:28 25/9/2017


Vietnamese version here


Dear Brothers and Sisters,


The most fundamental technique in training the mind is to keep the mind still,[*] meaning not jumping around with all kinds of stimuli like a monkey. The untrained mind is easily pushed, shoved, pulled, and excited by almost anything – bad news, good news, compliment, offensive remark, fear, anxiety, worry…


The eight winds (bát phong, tám gió) of life constantly attack our mind. The eight winds come in four pairs: prosperity & decline, disgrace & honor, praise & censure, suffering & pleasure (Lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc — thịnh suy, nhục vinh, khen chê, khổ vui).


The eight winds represent all life stimuli, which constantly move our mind around in all directions, if the mind doesn’t know how to stay still.


Keeping the mind still is the way to defeat the eight winds. A completely still mind is a Bodhisattva mind.


In Zen, students are taught to sit still during a meditation session (called zazen – tọa thiền, thiền ngồi), to empty his/her mind of everything — i.e, not thinking about anything — and to concentrate solely on the breath, the in and out movements of the breath. This method is called Breathing Meditation (thiền sổ tức, thiền hít thở).


(Some teachers called thiền sổ tức “breath counting meditation” (thiền đếm hơi thở). It appears that in Chinese Vietnamese (Hán Việt) sổ tức may mean counting (sổ) the breath (tức), so some teachers teach the students to count the breath first. I don’t recommend you to count, because you don’t want to keep your mind too busy. You need to relax the mind.


Let me give you another meaning of sổ tức, using pure Vietnamese. In pure Vietnamese, sổ means going out, running out, pushing out… such as chim sổ lồng (bird fleeing from cage), cửa sổ (an opening to the outside), thuốc sổ (laxative), the hem of the shirt bị sổ chỉ (the sewing thread gets loose), sổ mũi (running nose).


Tức, in pure Vietnamese, means pressure inside (inner pressure), such as tức ngực (heaviness or pain in the chest), tức tối (angry), tức nước vỡ bờ (too much water pressure will break the dam).


So, sổ tức means letting the inner pressure out, relieving yourself of the pressure inside.


Thus, I call thiền sổ tức “breathing meditation” (thiền hít thở) – you are not doing anything other than breathing – breathing slowly and deeply to relieve inner pressure, inner stress – not breath counting meditation. And I am NOT recommend you to ADD WORK to your mind by counting the breath or anything else).


The purpose of breathing meditation is to concentrate the mind on the breath, in order to stop the mind from wandering.


We keep the mind stay in ONE place. That is the purpose of breathing meditation.


The ultimate goal of Zen is complete stillness (hoàn toàn tĩnh lặng). However, for the new Zen student, the first thing to do is to keep the mind stay in one place. Not really complete stillness, but at least the mind stays in one place instead of jumping around. This is called one mind undisturbed (nhất tâm bất loạn, một tâm không loạn động). The mind focuses on one thing, not disturbed by any other thing.


Following the breath is the way to keep the mind stay on the breath. (1) Breathe in slowly and deeply, (2) stop and hold the breath for 2 or 3 seconds, then (3) breathe out slowly.


Remember, ultimately we want complete stillness. But, if the mind has to do some work now, let the mind do only ONE simple work, so the mind is as close to stillness as possible. Therefore, just follow you breath, but don’t add counting or anything else to it.


That’s it. Keeping the mind in one place is the first step in establishing stillness. One mind undisturbed is the first step in establishing complete stillness.


Here is how you do breathing meditation.


Sit any way you want to sit, as in the pictures below.


Keep your back bone and neck bone STRAIGHT, to prevent injury to your back. You can sit on the floor or on a cushion.


Place your hands in any position most comfortable to you.


Keep your eyes close, so as to concentrate easier.


Follow your breath — let your mind go along with your breath: breathe in slowly and deeply, stop, breathe out slowly.


Timing. You can meditate for 15 minutes each day, anytime when you are not too hungry or too full; however, early morning or before bed time is the best. Later on, you may increase the time as you wish.


And relax. This is nothing to do, but could be difficult if you don’t know how to relax (thư giãn, nghỉ ngơi). Let the mind do nothing (other than following the breath), thinking about nothing, trying nothing, having no goal, aiming at no purpose. Nothing.


An important point to remember: Sometimes we are taught the benefits of Zen, such as peace and happiness for the body and the mind, dwelling peacefully in the present, producing peace energy, good health… These things are the results of Zen, and some teachers talk about them often to encourage the novices.


However, I teach, you should get those things out of your mind, or at least, ignore them. For Zen is complete emptiness and stillness; there is nothing in our heart. The Void (Không) contains nothing. Nirvana (Niết Bàn) contains nothing – the fire is out.


This is important. Don’t grasp anything. Don’t go after any purpose. Every grasping is an attachment, and we never get ashore if we keep grasping the boat. If there is a purpose for Zen, that purpose should be to erase everything, erasing all means — including Zen — and erasing all purposes — including the purpose of attaining Zen.


If we grasp at anything while practicing Zen, such as peace and happiness, dwelling peacefully, energy, health, attaining Zen… then we are attaching.


Zen is non-attachment (vô chấp), non-grounding (vô trụ), mushin (no mind, vô tâm), munen (no thought, vô niệm). That is the Buddha mind/heart.


No grounding anywhere, thus the Bodhisattva mind is born. (The Diamond Sutra – Section 10)


At the beginning, I’d like you to do a simple mechanical thing; that is to follow your breath, and do nothing else, wanting nothing, aiming at no purpose. Unfortunately, there is still one purpose of “one mind undisturbed”. Later on, when you grow, you need to erase even “one mind undisturbed”, so that there is nothing in the mind — non-attachment, non-grounding, no mind, no thought.


Have a good meditation.


Hoành


Note:


[*] In the Western tradition, people use “mind”, in the East people use “heart”. It is really “mind/heart”.


 


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


 


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 24, 2017 09:02

One mind undisturbed

[image error]


Dear Brothers and Sisters,


The most fundamental technique in training the mind is to keep the mind still,[*] meaning not jumping around with all kinds of stimuli like a monkey. The untrained mind is easily pushed, shoved, pulled, and excited by almost anything – bad news, good news, compliment, offensive remark, fear, anxiety, worry…


The eight winds (bát phong, tám gió) of life constantly attack our mind. The eight winds come in four pairs: prosperity & decline, disgrace & honor, praise & censure, suffering & pleasure (Lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc — thịnh suy, nhục vinh, khen chê, khổ vui).


The eight winds represent all life stimuli, which constantly move our mind around in all directions, if the mind doesn’t know how to stay still.


Keeping the mind still is the way to defeat the eight winds. A completely still mind is a Bodhisattva mind.


In Zen, students are taught to sit still during a meditation session (called zazen – tọa thiền, thiền ngồi), to empty his/her mind of everything – i.e, not thinking about anything, and to concentrate solely on the breath – the in and out movements of the breath. This method is called Breathing Meditation (thiền sổ tức, thiền hít thở).


(Some teachers called thiền sổ tức “breath counting meditation” (thiền đếm hơi thở). It appears that in Chinese Vietnamese (Hán Việt) sổ tức may mean counting (sổ) the breath (tức), so some teachers teach the students to count the breath first. I don’t recommend you to count, because you don’t want to keep your mind too busy.  You need to relax the mind.


Let me give you another meaning of sổ tức, using pure Vietnamese. In pure Vietnamese, sổ means going out, running out, pushing out… such as chim sổ lồng (bird fleeing from cage), cửa sổ (an opening to the outside), thuốc sổ (laxative), the hem of the shirt bị sổ chỉ (the sewing thread gets loose), sổ mũi (running nose).


Tức, in pure Vietnamese, means having pressure inside, such as tức ngực (heaviness or pain in the chest), tức tối (angry), tức nước vỡ bờ (too much water pressure will break the dam).


So, sổ tức means letting the inner pressure out, relieving yourself of the pressure inside.


Thus, I call thiền sổ tức “breathing meditation” (thiền hít thở) – you are not doing anything other than breathing – breathing slowly and deeply to relieve inner pressure, inner stress – not breath counting meditation. And I am NOT recommend you to ADD WORK to your mind by counting the breath or anything else).


The purpose of breathing meditation is to concentrate the mind on the breath, in order to stop the mind from wandering.


We keep the mind stay in ONE place. That is the purpose of breathing meditation.


The ultimate goal of Zen is complete stillness (hoàn toàn tĩnh lặng). However, for the new Zen student, the first thing to do is to keep the mind stay in one place. Not really complete stillness, but at least the mind stays in one place instead of jumping around. This is called one mind undisturbed (nhất tâm bất loạn, một tâm không loạn động). The mind focuses on one thing, not disturbed by any other thing.


Following the breath is the way to keep the mind stay on the breath. (1) Breathe in slowly and deeply, (2) stop and hold the breath for 2 or 3 seconds, then (3) breathe out slowly.


Remember, ultimately we want complete stillness. But, if the mind has to do some work now, let the mind do only ONE simple work, so the mind is as close to stillness as possible. Therefore, just follow you breath, but don’t add counting or anything else to it.


That’s it. Keeping the mind in one place is the first step in establishing stillness. One mind undisturbed is the first step in establishing complete stillness.


Here is how you do breathing meditation.


Sit any way you want to sit, as in the pictures below. .


Keep your back bone and neck bone STRAIGHT, to prevent injury to your back. You can sit on  the floor or on a cushion.


Place your hands in any position most comfortable to you.






Keep your eyes close, so as to concentrate easier.


Follow your breath — let your mind go along with your breath: breathe in slowly and deeply, stop, breathe out slowly.


And relax. This is nothing to do, but could be difficult if you don’t know how to relax (thư giãn, nghỉ ngơi).  Let the mind do nothing (other than following the breath), thinking about nothing, trying nothing, having no goal, aiming at no purpose. Nothing.


You can meditate for 15 minutes each day, anytime when you are not too hungry or too full; however, early morning or before bed time is the best. Later on, you may increase the time as you wish.


One mind undisturbed. Nhất tâm bất loạn.


This is the most fundamental method to train the mind to defeat the eight winds.


Good luck and enjoy!


Metta,


Hoành


Note:


[*] In the Western tradition, people use “mind”, in the East people use “heart”.  It is really “mind/heart”.


 


© copyright 2017

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


 


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 24, 2017 09:02

Trần Đình Hoành's Blog

Trần Đình Hoành
Trần Đình Hoành isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Trần Đình Hoành's blog with rss.