Trần Đình Hoành's Blog, page 21

June 19, 2016

Thiền lái xe

giao thong


 

Chào các bạn,


“Thiền lái xe” hay “lái xe chánh niệm” là khi lái xe thì tập trung vào lái xe, và “nhận thức việc lái xe trong dòng xe cộ với những người khác”. Đó là thái độ “nhận thức” và “tĩnh lặng”, tức là Thiền.


Thiền lái xe là một cách tu Thiền rất hay. Giúp ta tĩnh lặng, nhận thức được mọi thứ trong môi trường của mình, và từ tâm với mọi người, rất nhiều giờ trong ngày vì mỗi ngày ta dùng nhiều giờ để lái xe.


Ngược lại, lái xe mà căng thẳng và giành giật, thì mọi công phu tu tập lúc khác, như là ngồi Thiền, sẽ thành dã tràng xe cát, vì xung động của lái xe sẽ phá mọi công phu tĩnh lặng của bạn.


Đây là các điểm để tập trung vào lái xe:


Hợp pháp:


– Giữ tốc độ hợp pháp.

– Không vượt đèn đỏ.

– Không lạng lách.

– Không làm gì phá luật giao thông.


Tử tế:


– Không giành đường.

– Không chửi bới. Tươi cười xin lỗi khi quẹt nhau, nếu lỗi người khác thì tươi cười bỏ qua cho họ (nếu không phải là đụng nặng quá, cần bảo hiểm hay bệnh viện).

– Nhường đường cho người khác.

– Không làm người khác giật mình và bực bội, như là cúp ngay trước đầu xe người ta. Làm cho người ta xung động cũng là tội làm cho người ta phạm tội.


Nhận thức (và an toàn):


– Biết ai đi trước, hai bên hông, và sau lưng mình.

– Biết tài xế kia làm gì. Như mình bắt đầu có đèn xanh, nhưng phải đợi các tài xế bên đèn đỏ ngừng hết đã, trước khi mình chạy, không chỉ nhìn đèn mà chạy để rồi đụng nhau. (Đây gọi là “lái xe phòng thủ” – Defensive driving).

– Nếu có người tính cướp giật ai đó mình cũng nhận ra.

– Đừng chạy ngay phía trước, phía sau, hay bên hông xe lớn (car, truck, bus).

– Biết đường có vấn đề, như ổ gà, lún đường, công trình đào xới…

– Biết sắp có đường băng ngang, hay ngõ hẽm, và có thể có xe từ trong đó chạy ra.

– Trong ngõ hẽm, chạy chậm, chuẩn bị trẻ em chạy lung tung.


Thong thả:


– Cho mình nhiều giờ để chạy thong thả. Nếu chỉ 40 phút có thể đến nơi, thì cho mình 50 phút, để không căng khi bị kẹt đường.

– Giữ trái tim tĩnh lặng và tử tế với mọi người.


Lái xe là một cách Thiền rất hay, và bạn có cơ hội Thiền hằng ngày, nhiều giờ trên xe. Vậy hãy dùng lái xe để tập Thiền.


Chúc các bạn vui lái.


Mến,


Hoành


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Thiê


Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa Tagged: Thiền, Văn Hóa
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 19, 2016 11:04

May 20, 2016

Chào mừng Phật Đản lần thứ 2640 (Phật lịch 2560 – dương lịch 2016)

phat-dan-sanh


Chào các bạn,


Lễ Phật Đản (Vesak) là lễ kỷ niệm cho ba ngày khác nhau–ngày đản sinh, ngày chuyển pháp luân và ngày nhập niết bàn–của Đức Phật.



Lễ Phật đản tại Việt Nam và một số quốc gia được ấn định là ngày rằm tháng 4 âm lịch. Trong năm nay, đó là ngày Thứ bảy 21.5.2016 dương lịch.


Liên Hợp Quốc cũng giữ Lễ Phật Đản “vào ngày trăng tròn tháng 5 [dương lịch]”, tức cũng thường trùng với ngày rằm tháng 4 âm lịch.


Thật ra Lễ Phật Đản thường kéo dài một tuần, nên đa số chùa đã bắt đầu từ ngày 14.5.2016, đến 21.5.2016 là ngày chính thức và kết thúc.


Tại sao có sự khác biệt về số lần Phật Đản và năm Phật lịch?


Phật lịch bắt đầu từ lúc Phật Thích Ca nhập diệt, lúc 80 tuổi. Tính từ lúc sinh ra, thì phải cộng thêm 80 lần ngày kỷ niệm sinh nhật hằng năm. Cho nên Phật lịch năm nay là năm 2560, nhưng Phật Đản thì lần thứ 2640.


Hôm nay, nhân mùa Phật Đản, chúng ta hãy ôn lại các giáo pháp chính Phật Thích Ca dạy, qua 2 bài kinh:


1. Kinh Chuyển Pháp Luân: Bài giảng đầu tiên ngay sau khi Đức Phật thành đạo, giảng cho năm anh em Kiều Trần Như, là những người đã từng tu chung với Đức Phật trước đó. Kinh này nói về giáo pháp căn bản nhất của Phật gia: Bốn Chân Lý Vi Diệu và Tám Con Đường Chánh (Tứ Điệu Đế và Bát Chánh Đạo).


2. Kinh Lời Dạy Sau Cùng: Bài giảng cuối cùng trước khi Phật nhập diệt. Với 18 đoạn dặn dò quan trọng cho các đệ tử. Chúng ta cần nhận ra là lời dạy kế cuối – đoạn 17 – của Kinh Lời Dạy Sau Cùng là nhắc lại Kinh Chuyển Pháp Luân – kinh đầu tiên – cho thấy Kinh Chuyển Pháp Luân quan trọng thế nào.


Lời dặn cuối cùng – đoạn 18 – là: “Đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất diệt ở thế gian.”


Chúng ta hãy đón tiếp Phật Đản bằng tâm nguyện thực hành lời Phật dạy.


Sau đây mời các bạn chiêm nghiệm và thưởng thức:


1. Một video cổ nhạc về phật pháp.

2. Kinh Chuyển Pháp Luân.

3. Bản tân nhạc tên Tụng Niệm Khúc của Nguyễn Hữu Tân do ca sĩ Thanh Thúy trình bày.

4. Kinh Lời Dạy Sau Cùng.


Chúc các bạn một mùa Phật Đản an lạc.


Metta,


Hoành


 

Cổ nhạc Phật pháp



 

Kinh Chuyển Pháp Luân


Tôi nghe như vầy, sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp đầu tiên tại Vườn Nai. Tại đây, Ngài dạy năm vị Tỳ-kheo đầu tiên rằng:


– Này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia phải tránh xa. Một là đắm nhiễm các dục thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không dẫn đến đức hạnh thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập. Hai là tự làm khổ mình bằng các lối tu khổ hạnh ép xác, không thích hợp với các phẩm hạnh bậc thánh, không dẫn đến mục đích giải thoát.


– Này các Tỳ-kheo, vị hành giả có chánh trí phải loại bỏ hai cực đoan vô ích này. Hãy đi theo con đường Trung Đạo do Như Lai chứng ngộ, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật, dẫn đến sự an tịnh, thánh trí, giác ngộ và niết-bàn.


– Này các Tỳ-kheo, con đường Trung Đạo, chính là tám đường chánh: quan điểm chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nỗ lực chân chánh, ý niệm chân chánh và thiền định chân chánh.


– Này các Tỳ-kheo, sau đây là bốn chân lý vi diệu của cuộc đời:


Chân lý thứ nhất là thực tại đau khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ và chấp vào năm nhóm nhân tính là khổ.


Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về cái ta, cái của ta, là dục ái, hữu ái và phi hữu ái.


Chân lý thứ ba là Niết-bàn, tức là sự trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của đau khổ và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là sự ly tham, sự từ bỏ, sự giải thoát và không còn chấp trước.


Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến niết-bàn, đó là tám đường chánh, là con đường Trung đạo.


– Này các Tỳ-kheo, cần phải liễu tri về thực tại khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật. Này các Tỳ-kheo, cần phải trừ diệt hoàn toàn gốc rễ dẫn đến khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật.Này các Tỳ-kheo, cần phải tu tập trọn vẹn con đường dẫn đến Niết-bàn. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật.


Như vậy, này các Tỳ-kheo chỉ khi nào tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn chân lý vi diệu của cuộc đời dưới ba sắc thái, gồm mười hai khía cạnh đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, thì khi ấy Như Lai mới xác nhận với thế gian, gồm chư thiên, ma vương, Phạm Thiên, giữa các đoàn thể Sa-môn, Bà-la-môn, giữa loài trời và loài người rằng Như Lai đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tâm Như Lai đã giải thoát và an tịnh tuyệt đối, đời sống này là cuối cùng, Như Lai không còn bị luân hồi sanh tử nữa.


Khi bánh xe chánh pháp đầu tiên này được Như Lai vận chuyển, tuyên bố, các hàng chư thiên trên địa cầu đều cung kính khen ngợi: “pháp môn này thật là vi diệu ! Không có Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, ma vương hay Phạm thiên nào có thể thuyết giảng được. Đây là chân lý vi diệu vừa được Đấng Giác Ngộ khám phá và truyền bá, đem lại an lạc, hạnh phúc cho loài trời và loài người.”


Lúc ấy các chư thiên ở các cõi trời Tứ Đại Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng, trời Đại Phạm, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Biến Tịnh, trời Quảng Quả, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền và các chư thiên Phạm thiên cũng đều đồng thanh khen ngợi nhiều lần như vậy. Trong khoảng thời gian ấy, mười ngàn thế giới đều chấn động và vang rền tiếng pháp. Rồi một luồng hào quang rộng lớn, rực rỡ phát chiếu, làm sáng cả vũ trụ. Ngay thời pháp này, tôn giả Kiều-trần-như đã giác ngộ và được Đức Phật xác chứng là A-nhã Kiều-trần-như.


Tụng Niệm Khúc – Tác giả: Nguyễn Hữu Tân, Ca sĩ: Thanh Thúy



 

Kinh Lời Dạy Cuối Cùng


Chính tôi được nghe: lần chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên, Đức Thế Tôn độ tôn giả Kiều-trần-như và lần thuyết pháp sau cùng, Ngài độ tôn giả Tu-bạt-đà-la. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Vào đêm cuối trước ngày Niết-bàn vô dư, giữa rừng Sa-la, dưới cây song thọ, không gian thật vắng lặng, yên tĩnh, Đức Phật đã nhắn nhủ những điều cốt lõi của chánh pháp như sau.


1- Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc Thầy tối thượng. Dẫu có sống thêm ở đời bao nhiêu năm nữa, Như Lai cũng không ngoài mục đích răn dạy các vị về giới luật ấy thôi.


Người giữ giới thì không được kinh doanh, thương mại, xây dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông nghiệp, thuê người giúp việc, theo kiểu thế tục. Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng suy, hay coi lịch đoán số.


Các vị nên sống tiết chế thân mạng, ăn uống điều độ, duy trì nếp sống thanh cao, giải thoát. Không tham dự chính trị, lãnh sứ mạng liên lạc, thông tin. Không được luyện bùa chú, chế linh dược, giao hảo người quyền quý, kết thân kẻ ngạo mạn. Cần phải giữ tâm chân thật, sống chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây, mong cầu đạo quả giải thoát. Không được che dấu lỗi lầm, bày điều mê hoặc để thu hút quần chúng. Phải sống ít muốn, biết đủ đối với bốn phẩm vật cúng dường. Sống vừa đủ để hành đạo, không cất chứa tài sản và tiền bạc.


Như Lai vừa nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới luật đó là căn bản, là gốc rễ của giải thoát. Nhờ giữ giới trang nghiêm, thiền định và trí tuệ phát sanh, có thể tiêu diệt sự đau khổ. Thế nên các vị hãy giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn. Người giữ giới thanh tịnh sẽ nuôi lớn pháp lành. Người thiếu mất giới thì không thể phát sinh công đức.


2. Này các đệ tử, các vị phải chế ngự năm giác quan không để chúng dong ruổi theo trần cảnh, dục lạc. Người tu phải như chú mục đồng cầm roi chăn, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người. Một khi các vị buông lung năm giác quan, không những các vị không chế ngự được năm thứ dục lạc, mà các vị cũng không thể dừng được vòng cương toả của phóng túng, như con ngựa chứng nếu không dây cương, nó sẽ lao xuống hầm hố. Nạn khổ của giặc cướp chỉ có một đời, trong khi nạn giặc giác quan làm chúng sanh đau khổ nhiều kiếp. Tai họa của nó vô cùng nguy hiểm. Các vị phải cẩn thận.


Thế nên, người có trí cần phải chế ngự các giác quan chứ không phục tùng nó; giữ gìn chúng như là canh chừng giặc cướp, không để chúng hoành hành, thao túng.


Này các đệ tử, trong các giác quan của con người, ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí nguy hại hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật trên tay và quên đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say mà không có móc sắt; như khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp thiện. Khi tâm được chế ngự một chỗ thì không việc gì không thành.


3. Này các đệ tử, khi thọ dụng phẩm vật cúng dường, các vị nên quan niệm như uống thuốc. Ngon không ham, dở không chê. Ăn uống chỉ để cho khỏi đói khát. Như ong hút mật trong hoa, chỉ lấy mùi vị, không làm tổn thương hương sắc. Người xuất gia cũng vậy: thọ dụng sự cúng dường để đủ sức khoẻ tu tập, không được ham cầu quá nhiều, làm tổn thất tín tâm của tín thí. Hãy như người trí biết lượng sức kéo và chịu đựng của trâu, không nên dùng trâu quá sức, đến nỗi kiệt lực.


4. Này các đệ tử, ban ngày thì nỗ lực tu tập pháp lành, không để thời gian trôi qua uổng phí. Đầu hôm, cuối đêm cũng không luống bỏ. Giữa đêm tụng niệm, tu trì. Đừng vì chuyện ngủ nghỉ mà để cuộc đời trôi qua vô ích. Hãy tâm niệm rằng ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, để tự tinh tấn độ mình, khắc phục sự lười biếng, ngủ nghỉ. Giặc phiền não luôn rình rập giết các vị, còn nguy hiểm hơn kẻ thù, làm sao các vị có thể mặc tình ngủ nghỉ mà không cảnh giác ! Phiền não ngủ trong tâm người cũng như rắn độc nằm trong nhà, phải dùng móc sắt giới hạnh mà lôi kéo nó ra gấp. Rắn độc ra rồi ta mới an tâm ngủ nghỉ. Rắn độc chưa ra mà mải mê ngủ nghỉ thì thật là người không biết hổ thẹn.


Này các đệ tử, sự hổ thẹn là trang sức đẹp nhất trong mọi trang sức. Sự hổ thẹn có khả năng chế ngự mọi thứ bất thiện và phi pháp của con người. Thế nên hãy sống với tâm niệm hổ thẹn, đừng bao giờ lãng quên đức tính ấy. Mất tâm hổ thẹn là mất tất cả công đức. Có hổ thẹn là có tất cả thiện pháp. Không hổ thẹn thì có khác chi loài cầm thú.


5. Này các đệ tử, nếu có ai xúc phạm, thương tổn thân thể các vị, các vị nên kiềm chế tâm mình, đừng để lửa sân hận thiêu đốt. Lại phải giữ lời ăn, tiếng nói, đừng buông lời ác độc để trả đũa ai. Tâm sân hận trỗi dậy sẽ làm băng hoại đạo nghiệp, cháy hết công đức tu tập. Đức tánh của kham nhẫn thì giữ giới và khổ hạnh cũng không thể sánh bằng. Thực hành đức nhẫn mới xứng danh là bậc Thượng Nhân có sức mạnh. Người nào chưa có thể chịu đựng sự nhục mạ một cách hoan hỷ, như uống cam lộ, thì chưa thể xứng danh là người vào đạo có trí. Sự sân hận sẽ thiêu hủy tất cả pháp lành, nó nguy hiểm hơn lửa dữ. Các vị phải canh phòng cẩn mật, đừng cho sân hận xâm nhập. Trong các loại giặc cướp công đức thì sân hận là nguy hiểm bậc nhất. Người thế gian sống thọ hưởng dục lạc, thiếu phương pháp chế ngự, nếu có sân hận còn có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo loại bỏ mọi thứ vui của đời mà không loại bỏ được sân hận thì thật đáng trách, cũng giống như bầu trời quang đãng mà có sấm sét nổi lên là điều không thích hợp.


6. Này các đệ tử, các vị hãy tự xoa đầu mình và ghi nhớ rằng: các vị đã bỏ tất cả các mỹ phẩm và trang sức của thế gian, khoác trên mình chiếc áo cà-sa hoại sắc, sống bằng cách khất thực. Khi nào tâm lý kiêu mạn, cao ngạo nổi lên thì lập tức chế ngự nó. Kiêu ngạo là tánh xấu mà thế nhân còn không nên có, huống chi là người xuất gia vì đạo giải thoát, sống bằng khất thực hay sao!


7. Này các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Thế nên, các vị hãy huấn luyện tâm cho thật chất trực. Nên biết rằng: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo.


8. Này các đệ tử, các vị nên biết rằng người nào tham muốn nhiều thì nhu cầu lợi dưỡng cũng nhiều, do vậy mà đau khổ càng tăng. Người ít muốn thì không ham cầu, không đắm nhiễm nên không có tệ hại ấy. Chỉ với lợi ích ấy thôi cũng đủ để các vị phải trau dồi, thực tập, huống là khi hạnh này còn có công năng phát triển các công đức ! Người ít muốn thì không lấy lòng người bằng cách dua nịnh, lòn cúi và cũng không bị các giác quan sai sử, thao túng. Hành giả ít muốn, tâm ý được thanh thản, không còn những ưu tư, phiền muộn, gặp việc thì đủ nghị lực để ứng phó, không việc gì không làm được. Nói chung, sống hạnh ít muốn tất gần Niết-bàn.


9. Này các đệ tử, nếu các vị muốn giải thoát mọi đau khổ thì nên thường xuyên tu tập quán biết đủ. Pháp biết đủ là cơ sở của sự an lạc, hạnh phúc và sung mãn. Người biết đủ dẫu nằm trên đất vẫn thấy an lạc. Người không biết đủ dẫu sống ở thiên đường vẫn chưa thấy toại nguyện. Không biết đủ tuy giàu mà rất nghèo. Biết đủ thì tuy nghèo nhưng rất giàu có. Người không biết đủ là kẻ nô lệ của năm thứ dục lạc thấp kém và còn là tấm bia đời đáng thương xót đối với hành giả biết đủ.


10. Này các đệ tử, muốn đạt đạo tịch tịnh, vô vi, an lạc, các vị phải xa lìa những chốn huyên náo, sống một mình ở những nơi an nhàn, thanh vắng. Người ở chỗ yên tĩnh thì trời Đế-thích và chư Thiên đều kính trọng. Vì thế, các vị nên xa lìa hội chúng, sống đơn độc thư thái và cắt đứt gốc rễ đau khổ bằng tư duy trí tuệ. Người thích hội chúng thì bị hội chúng nhiễu loạn, như cây cổ thụ mà có nhiều chim tụ tập thì có thể bị hư cành. Thế gian trói buộc con người trong đau khổ cũng giống như con voi già bị sa lầy, khó mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát, các vị cần ghi tâm.


11- Này các đệ tử, nỗ lực tinh tấn thì không việc gì khó khăn. Thế nên các vị phải siêng năng, tinh tấn như giọt nước thường nhỏ có thể xuyên thủng đá. Người tu hành mà biếng nhác thì khác nào như người cọ cây lấy lửa, cây chưa kịp nóng đã nghỉ, dầu tha thiết được lửa, lửa cũng không vì thế mà có được. Hãy siêng năng tinh tấn không dừng.


12- Này các đệ tử, thực ra cầu cạnh thiện tri thức hay người trợ lực không bằng tự mình đề cao chánh niệm, tỉnh thức. Có chánh niệm thì giặc phiền não không thể xâm nhập được.


Thế nên các vị phải sống trong sự nhiếp niệm. Mất chánh niệm là đồng nghĩa với mất công đức. Có được chánh niệm bền vững thì dù sống trong môi trường ngũ dục cũng chẳng hề gì, như người chiến sĩ vào trận có mặc áo giáp thì không còn sợ gì nữa.


13- Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy, muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy.


14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật.


15. Này các đệ tử, hý luận chỉ làm cho tâm trí rối loạn. Người xuất gia mà sống hý luận thì không thể đạt được tuệ giác giải thoát. Vì thế các vị phải nhanh chóng từ bỏ vĩnh viễn tâm lý hý luận, vô ích. Diệt trừ các hý luận tạp loạn mới có thể đạt được an lạc tịch diệt.


16. Này các đệ tử, hãy thường xuyên nhớ đến các công đức để từ bỏ tất cả mọi phóng dật, như là tránh xa bọn giặc cướp tài sản thánh. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã tuyên nói chánh pháp lợi ích rốt ráo. Về phần mình, các vị hãy nỗ lực tinh tấn thường xuyên, đừng để cuộc đời trôi qua vô ích, sau này ăn năn, hối hận đã muộn. Như Lai như là vị lương y, rõ biết bịnh lý, cho toa thuốc hợp bịnh trạng từng người. Uống hay không uống không phải là lỗi của lương y. Như Lai lại cũng như người chỉ đường, chỉ rõ đâu là con đường nên đi và hướng đến giải thoát. Biết rõ đường lành mà không chịu cất bước lên đường không phải là lỗi của vị đạo sư!


17. – “Này các đệ tử, đối với bốn chân lý thánh, nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ chỉ bày cho các con.” Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy, bốn chúng đều im lặng, không ai còn thắc mắc.


Lúc ấy, tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng:


– Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác. Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao thượng nầy nữa.


18. Lúc bấy giờ trong chúng, hàng đệ tử hữu học phải đối diện sự kiện Đức Phật sẽ vô dư Niết-bàn, đều bi cảm, đau xót. Hàng đệ tử mới vào đạo nghe những lời dạy cuối cùng đều được hóa độ, như trong đêm tối nhờ có ánh sáng, nên thấy đường đi. Các hàng đệ tử vô học đã dứt sạch các phiền não, vượt ra khỏi sanh tử, vẫn không ngăn được sự ngậm ngùi: “Tại sao Đức Thế Tôn vô dư Niết-bàn quá sớm ! Lúc đó, Đức Phật vì thương bốn chúng nên dạy thêm rằng:


– Này các đệ tử, chớ có thảm sầu, đau xót. Dẫu Như Lai có sống thêm ở đời một kiếp nữa, rồi cũng phải đến ngày Niết-bàn. Hội ngộ mà không chia tay; kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được.


Đối với Như Lai, kinh nghiệm và pháp thức lợi mình, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố. Thật chẳng có lợi ích gì, nếu Như Lai sống lâu nơi đời mà các vị không thực hành chánh pháp. Những chúng sanh đáng độ, Như Lai đã độ hết. Những chúng sanh chưa được độ, Như Lai cũng đã tạo nhân duyên để họ được hóa độ. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất diệt ở thế gian. Như Lai vô dư Niết-bàn hay không, việc đó không quan trọng.


Này các đệ tử, các vị nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyến, thương tâm. Cuộc đời là như thế, các vị phải nỗ lực tinh tấn để tự giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự vận hành không kiên định. Như Lai vô dư Niết-bàn như bỏ đi một căn bệnh dữ. Đó là năm nhóm nhân tính, mang tính tội lỗi, tạm gọi là thân, vì thế, nó phải chịu sự chi phối không thương tiếc của già, bệnh và chết. Bậc tuệ trí khi thoát khỏi nó có cảm tưởng như là dẹp xong được bọn cướp. Như vậy, chết không đáng để hoan hỷ, an lạc hay sao ?


Này các đệ tử, các vị phải tha thiết tìm kiếm con đường giải thoát. Toàn thể thế giới từ những vật thể đang vận động cho đến các vật thể không vận động cũng đều không thường còn, và không có thực thể, rồi phải đến lúc hoại diệt.


Thôi, các vị hãy yên lặng, đừng nói thêm lời nào nữa ! Đã đến lúc Như Lai vô dư Niết-bàn. Đó là những lời dạy cuối cùng của Như Lai.


 


Filed under: Buddhism, Video PPS, Văn Hóa Tagged: Buddhism, Phật học, Video, Văn Hóa
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 20, 2016 09:12

March 31, 2016

Thiền nghe

langnghe


 

Chào các bạn,


Chúng ta nghe nói ngồi Thiền, đi Thiền, Thiền ăn… nhưng có lẽ chưa nghe ai nói đến Thiền nghe nhỉ?


Thiền nghe là tập trung (concentration) vào việc nghe với tâm tĩnh lặng (quiet heart), cũng như ngồi Thiền tập trung vào hơi thở với tâm tĩnh lặng.


Trong thời đại nhiều bàn luận, tranh cãi, điện thoại… chúng ta có khuynh hướng nói nhiều hơn nghe, và đó là một thiệt hại lớn, vì nghe nhiều thì học được nhiều, nói nhiều thì chẳng học được nhiều. Và quan trọng hơn hết là, trong nghệ thuật truyền thông cũng như nghệ thuật giao tiếp, nghe quan trọng hơn nói rất nhiều.


Trước hết ta phải biết nghe để hiểu rõ ràng từng lời của người đối diện, hầu có thể trả lời hay nói tiếp một cách chính xác. Người ta nói A mình hiểu B thì mình nói gì cũng sai.


Hơn thế nữa, nghe rất kỹ, không chỉ là từ ngữ mà còn nghe âm giọng, cường độ, vận tốc… của người nói, và nghe cả những khoảng im lặng của người ấy, để hiểu được những tình cảm bên sau những câu nói của người đó.


Và nghe còn có nghĩa là “đọc ngôn ngữ của thân thể”, tức là nhìn người nói để đọc được ngôn ngữ của thân thể họ.


Làm hết cả ba việc này mới là nghe kỹ càng. Và chỉ sau khi nghe kỹ càng bạn mới có thể nói chính xác và hiệu lực, cả về ý nghĩa lẫn tình cảm.


Và tâm ta phải tĩnh lặng để tập trung vào chuyện nghe. Tĩnh lặng là:


– Không suy nghĩ đến điều gì khác ngoài trừ việc nghe.


– Nghe chứ đừng bình phẩm để làm ồn trong đầu mình, như là: “nói xạo quá”, “sao ngu quá vậy”, “làm vậy thì hỏng rồi”… Nếu bạn không tĩnh lặng, mà có nhiều tiếng ồn trong đầu như thế, thì không nghe được.


– Tĩnh lặng còn có nghĩa là không có thành kiến. Chỉ nghe mà thôi, đừng nghĩ “chàng này nói gì thì cũng chẳng tin được”, “cô này rất ghét người Trung, chuyện gì cũng báng bổ Trung kỳ”… Chỉ khi ta nghe mà không có thành kiến làm màn lọc loại nhiều điều nghe ra khỏi tai, thì cái nghe mới rõ ràng chính xác.


– Tĩnh lặng còn có nghĩa là từ tâm, kể cả khi nghe người nói chuyện xạo với mình, cũng nên có từ tâm với họ, vì họ đang nói xạo là do tham lam, hay thiếu tự tin.


– Đặc biệt để ý đến những điều mình đồng ý để nói chuyện thân thiện. Đừng đừng đừng tập trung vào điều mình không đồng ý. Đồng cảm không chỉ là giỏi ngoại giao mà còn là từ tâm.


Tất cả những điều này chẳng có gì mới mẻ với người học Thiền cả, chỉ như là ngồi Thiền tập trung vào hơi thở và giữ tâm tĩnh lặng không tham sân si, không chấp trước, mà thôi. Nhưng có lẽ các bạn đã thấy số người nghe kỹ càng rất hiếm trong xã hội – nói như ăn cướp, người ta nói chưa xong đã cướp lời, chưa kịp hiểu người ta nói gì đã giành trả lời, nghe với thành kiến và bóp méo mọi điều người ta nói, không nghe người ta chút nào nên người ta nói một đường mình nói một ngã, người ta đang nói nghiêm chỉnh mình biến thành chuyện hài…


Không có gì chán bằng nói chuyện với người không chú ý vào nói chuyện và chuyên nói trật đường ray. Nhưng quan trọng hơn thế, những người nói chuyện ngớ ngẩn chẳng làm cho ai phục mình, quý mình, và thân với mình được. Và rất khó tìm được công việc tốt.


Nghe là điều cực kì quan trọng trong truyền thông. Nếu nói quan trọng 1, thì nghe phải quan trọng 2 hay 3.


Chúc các bạn luôn thực hành Thiền nghe.


Mến,


Hoành


Bản tiếng Anh do TĐH dịch từ tiếng Việt


Listening Zen


My dear friends,


You have heard about sitting Zen, walking Zen, eating Zen… but probably not listening Zen.


Listening Zen means concentrating on listening with a quiet heart, just as sitting Zen concentrates on breathing with a quiet heart.


In an era of much discussion, arguing, telephoning…we tend to talk more than listen, and that is a big loss, because more listening means more learning, while speaking – unless it is a question – usually doesn’t bring much knowledge. In addition, the essential thing is, in the art of communication as well as the art of human relation, listening is much more important than speaking.


First of all, in a conversation, we have to know how to listen to understand clearly every word the other person is saying, in order to answer or follow up accurately. If he says A, we understand B, then everything we say is wrong.


More than that, we need to listen very carefully, not just to the words but also the tone, the intensity and the speed of the voice, including the quiet spaces, so that we can understand the sentiments behind his words.


And listening also means “reading body language” – looking at the speaker to read his body language.


Only with these three tasks the listening is considered sufficient. And only after listening sufficiently we can speak accurately and effectively, both in meaning and in sentiment.


In addition, our heart has to be quiet to concentrate on listening. Quietness means:


– Not thinking about anything other than listening.


– Listening but not making noises in your mind with criticisms, such as “Lying too much,” “How stupid!”, “That is bad”… If you have too many noises in the head, you’re not quiet and you can’t hear.


– No prejudice. Only listening, don’t raise up prejudices in your mind, such as “This guy’s words cannot be trusted”, “This girl hates people from the Central Region, always vilifying them”… Only when you listen without some prejudice acting as a filter screening out many things, you may hear clearly and accurately.


– Compassion. Have compassion for people, even when they lie to you, because that is their human weakness due to greed or lack of confidence.


– Agreement. Pay special attention to the points you agree with the speaker, to make the conversation more pleasant. Do not concentrate on the points you disagree. Sympathy is not only compassion but also good diplomacy.


These things are not new to Zen students. They are similar to sitting and concentrating on breathing, and keeping the mind quiet – no greed, no anger, no prejudice. However, you have probably realized that there are very few good listeners in our society – people rattling through like swindlers, cutting off others before they finish, jumping in to answer before really understanding what the speaker is saying, listening with prejudice and therefore distorting the speaker’s meaning, not hearing the speaker at all and therefore answering off-course, turning the speaker’s serious discussion into a joke…


Nothing is as annoying as talking to a person who pays no attention to the conversation and often answers off-course. But more importantly, the lousy talker can hardly gain anyone’s admiration, respect and affection, and would have a hard time getting a good job.


Listening is a very important skill in communication. Speaking is important, but listening is twice or trice as significant.


Wish you always practice listening Zen.


Metta,


Hoanh


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2016 16:09

March 29, 2016

Nguồn gốc của đức hạnh

tamthanhtinh

Chào các bạn,


Nói đến đức hạnh của con người, chúng có thể có nhiều nguồn gốc đối với chúng ta:


– Thấp nhất, là sợ hãi trừng phạt và ham mê phần thưởng, ở đời này hay sau khi chết, như là nhân quả trả báo hay thiên đàng hỏa ngục. Đây là phần phổ thông nhất trong đa số tín hữu của các tôn giáo, và đây cũng là phần thấp nhất trong tâm linh. Nói theo Bồ Đề Đạt Ma “tâm thanh tịnh mới là công đức thật”, thì mọi việc làm vì tham hay sợ chẳng có công đức gì, cùng lắm thì chỉ là một chút phước đức hư ảo “như ảnh tùy hình”.


– Cao hơn một chút là làm điều thiện và không làm điều ác vì lòng yêu người, đây là cách sống của các thánh nhân, và lòng nhân ái là bản tánh chân thật của trái tim con người. Đây vẫn chưa đến mức tâm hoàn toàn thanh tịnh như tổ Bồ Đề Đạt Ma nói, nhưng đây là trái tim thệ nguyện độ mình và độ người của con đường Bồ tát.


– Mức cao nhất là làm thiện, như là bố thí, mà không còn chấp vào ta là người bố thí, không còn chấp vào người là người được bố thí, không còn chấp vào bố thí là việc thiện nên làm. Tâm thanh tịnh hoàn toàn vô chấp, bố thí mà tâm vẫn thanh tịnh tự nhiên như khát nước và uống một ngụm nước mà chẳng phải dính vào tư tưởng nào.


Không chấp vào bất kì điều gì, nói theo Kinh Kim Cang đó là “làm điều thiện mà chẳng làm điều thiện, đó mới là làm điều thiện”, đó là tâm hoàn toàn vô chấp, tâm thanh tịnh, và các điều tâm thanh tịnh làm mới là công đức.


Vậy tâm thanh tịnh mới là nguồn gốc của đức hạnh thật.


Chúc các bạn luôn có tâm thanh tịnh.


Mến,


Hoành


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 29, 2016 16:59

March 23, 2016

Tâm Bình Đẳng

equanimity


 

Chào các bạn,


Chúng ta nghe nói nhiều về tâm bình đẳng (Upekkha) trong văn hóa Phật giáo. Đây là một khái niệm rất sâu sắc trong tư duy, và là nền tảng cho một trái tim rộng mở và từ tâm.


Tâm bình đẳng là trái tim thấy mọi sự ngang nhau, mọi người ngang nhau, dù là vẫn có thể khác nhau. Tâm bình đẳng có thể thấy thiện, ác, người làm đúng, người làm sai, nhưng vẫn yêu thương tất cả mọi người như nhau vì thấy được mọi người ngang nhau – ai cũng đang ngụp lặn trong bể khổ tham sân si của cõi ta bà.


Tức là dù có thấy thiện và ác khác nhau, những khác nhau đó không làm cho tâm bị chướng ngại, không bị dính vào thiện để chống ác, và vẫn nhìn mọi người bình đẳng trong bể khổ để giúp mọi người cùng thoát bể khổ. Đây là điều mà Thiền tông Lục tổ Huệ Năng gọi là “niệm niệm vô ngại” – tư tưởng nhiều nhưng không bị tư tưởng nào làm chướng ngại. “Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không… tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.” (Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Bát Nhã).


“Niệm niệm vô ngại” cũng là điều mà Huệ Năng gọi là “Vô niệm” – “Nếu thấy tất cả pháp [mà] tâm không nhiễm trước [thì] gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi … đi lại tự do, ứng dụng vô ngại…, tự tại giải thoát, gọi là hạnh VÔ NIỆM”.


Có nghĩa là thấy được mọi niệm, nhưng không bị dính mắc vào đâu – người ác mình cũng độ để giải thoát, người thiện mình cũng độ để giải thoát, mỗi người độ một cách khác nhau – đi lại tự do, ứng dụng vô ngại – thì đó là “Vô niệm”.


Tâm bình đẳng, tâm vô niệm, như vậy là tâm tự do hoàn toàn, thấy được mọi sự, nhưng không bị dính mắc vào sự nào, luôn yêu mọi người và cứu độ mỗi người một cách khác nhau.


Các bạn, đó là tâm Phật, tâm Bồ tát.


Nhưng đó cũng là tâm Cha, tâm Mẹ. Cha mẹ thấy các con khác nhau, nhưng yêu thương các con ngang nhau, và dạy các con mỗi đứa một cách khác nhau.


Đó cũng là tâm Thầy, tâm Cô – yêu mọi trò ngang nhau, dù dạy mỗi trò một cách khác nhau.


Đó cũng là tâm Lãnh Đạo – yêu các thành viên ngang nhau, nhưng hỗ trợ mỗi thành viên một cách khác nhau.


Quan trọng nhất, đó là tâm Dân Chủ — thấy mỗi người có tư duy và ý muốn khác nhau, nhưng tôn trọng ngang nhau, và tìm cách hòa hợp những điều khác nhau đó để có được tổng hợp cao hơn.


Các bạn, đó là tâm bình đẳng của Phật gia.


Chúc các bạn luôn bình đẳng.


Hoành


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Inspiration, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 23, 2016 17:14

March 21, 2016

Những điều tử tế nhỏ bạn làm

resonnance


 

Chào các bạn,


Nếu bạn nhặt một mảnh rác nhỏ trên vỉa hè và bỏ vào một thùng rác cạnh đó, nếu một em bé cho cụ già nghèo khổ ổ bánh mì nhỏ ăn sáng của em, nếu một cậu học trò đưa một cụ bà qua đường… những điều này có ảnh hưởng lớn đến đất nước của ta không?


Năm 2011 khi có trận sóng thần lớn ở Nhật, một em bé Nhật 9 tuổi, bố mẹ đã mất trong trận sóng thần, sắp hàng đợi nhận thức ăn. Khi một cảnh sát viên cho em bé một gói mì tôm, thay vì ăn một mình, em đã mang gói mì đặt vào thùng mì để chia cho tất cả mọi người đang sắp hàng. Hành động nhỏ nhoi này đã gây chấn động và thán phục cho hàng triệu người Việt khi cảnh sát viên này ghi lại câu chuyện.


Một tiếng khảy móng tay có thể rung động đến vô lượng thế giới.


Các bạn, đừng nghi ngờ gì về hậu quả rất lớn đến từ một hành động tưởng chừng rất nhỏ của mình. Một hành động tử tế của bạn có thể được 5 người thấy và ngầm học theo. Một trong 5 người này dạy đứa con gái của mình về chuyện này. Người con gái sau này trở thành văn sĩ nổi tiếng, và kể chuyện này trên báo chí, hàng triệu người đọc.


Cuộc đời có những cách chuyển các thông điệp tốt một cách lạ lùng như thế. Cho nên, các bạn, đừng xem thường chuyện nhỏ. Trong cuộc đời này mọi sự đều lớn như nhau. Nhà Phật nói, một sátna bằng vô lượng kiếp, trong một giọt nước có đầy đủ mặt trời, mặt trăng, mọi tinh tú, và toàn thể vũ trụ. Các điều này không là triết lý thần bí như nhiều người tưởng, nhưng mà là một cái nhìn rất logic và khoa học về sự nối kết của tất cả mọi sự trong vũ trụ trong vòng thời gian vô thủy vô chung.


Cho nên các bạn, những điều tử tế nhỏ bạn làm, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của chính bạn, của gia đình bạn, của bố mẹ anh chị em bạn, con cái bạn, học trò của bạn, láng giềng của bạn, đất nước của bạn…


Thế giới của chúng ta là một trường năng lượng lớn. Những hành động tích cực của ta tạo năng lượng tích cực như những vòng sóng do viên sỏi rơi tạo nên trên mặt hồ. Những sóng năng lượng này khi gặp những trái tim cùng tần số sẽ được cộng hưởng và tăng ảnh hưởng rất lớn.


Cho nên các bạn, đừng bao giờ không làm một hành động tử tế chỉ vì bạn nghĩ nó quá nhỏ. Một giọt nước chứa cả vũ trụ trong đó.


Chúc các bạn luôn tích cực mọi nơi mọi lúc.


Mến,


Hoành


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Thiền, Video PPS, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Thiền, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 21, 2016 12:51

March 14, 2016

Tự tánh

mặt trăng


Chào các bạn,


Tự tánh là danh từ nhà Phật gọi bản tánh thật của mỗi người chúng ta, còn được gọi là tánh, chân tâm, tâm nguyên thủy, bản lai diện mục, Phật tánh…


Thiền tông Lục tổ Huệ Năng nói trong Pháp Bảo Đàn Kinh:


Tự tánh vốn thanh tịnh

Tự tánh vốn chẳng sanh chẳng diệt

Tự tánh vốn tự đầy đủ

Tự tánh vốn chẳng lay động

Tự tánh có thể sanh vạn pháp


(Phẩm tựa, thứ Nhất)



Huệ Năng nói: “Chỉ cần kiến [tự] tánh, không cần thiền định giải thoái.” Tức là nếu ta thấy được tự tánh của ta, thì ta thành Phật, mà không cần gì khác.


Phật tánh là tánh bất nhị, tánh không có hai, vượt lên trên mọi cặp đối đãi tốt xấu, thiện ác, lành dữ… Đó là rất giống “tâm không phân biệt”, còn gọi là tâm xả (Upekka), trong Phật giáo Nguyên thủy. Huệ Năng nói:


Như trong Kinh Niết Bàn nói: Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: Phạm tứ trọng cấm (bốn giới trọng nhất trong giới Tỳ kheo, giống như người thế gian phạm tội tử hình), làm tội ngũ nghịch và nhất xiển đề, phải bị đoạn dứt thiện căn Phật tánh không? Phật nói: Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường, Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt, gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị. Uẩn và Giới, phàm phu thấy cho là nhị, người trí liễu đạt thì biết tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là Phật tánh vậy.

Thấy được tự tánh không chỉ có nghĩa là nói ngoài miệng, mà cần hành động thích đáng trong tâm: “Cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hoá. Miệng niệm tâm hành, thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lià tánh chẳng có Phật.” (Phẩm Bát Nhã, thứ hai)


Cho nên các bạn, chúng ta phải thấy rõ được tự tánh của mình: Luôn thanh tịnh, không lay động, vượt lên trên các cặp đối đãi, và trong tâm hành động tương ứng với các hiểu biết này. Đó chính là kiến tánh thành Phật.


Nếu chúng ta thường xuyên quán (nhìn) tánh và kiến (thấy) tánh, hành động trong tâm tương ứng với điều ta thấy đó, thì pháp môn đốn ngộ này của Lục tổ sẽ cho ta thấy Như Lai.


Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Mến,


Hoành


© copyright 2016

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com


Filed under: Buddhism, Thiền, Văn Hóa, Zen Tagged: Buddhism, Phật học, Văn Hóa, Zen
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 14, 2016 15:13

Trần Đình Hoành's Blog

Trần Đình Hoành
Trần Đình Hoành isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Trần Đình Hoành's blog with rss.