Trần Đình Hoành's Blog, page 11

October 21, 2019

Đời rối rắm

[image error]


Chào các bạn,


Chúng ta ai cũng biết đời rối rắm – đời đây có nghĩa là thế giới, tức là cả đời và đạo. Đời sống thường đầy tham sân si và đời sống đạo đầy tham sân si. Cho nên, đời rối rắm. Vì đời rối rắm, và người ta không biết giải quyết những rối rắm đó như thế nào, nên con người khổ.


Đó là căn bản triết lý của nhà Phật.


Nhưng cum từ: “Đời là khổ” hay, nói theo kiểu của mình, “Đời rối rắm”, là những cụm từ tạo nên nhiều hiểu lầm nhất.


Khi nói: “Đời là khổ”, người ta thường hiểu rằng “Đời”, tức là phố xá, làng xóm, thế giới, vũ trụ, đời sống… quanh ta là khổ. Điều đó có nghĩa là nắng mưa là khổ, hạn hán lụt lội là khổ, con người là khổ, xã hội là khổ, sống là khổ, sinh lão bệnh tử là khổ, ăn uống ngủ nghỉ là khổ, vui là khổ, buồn là khổ, blah blah blah là khổ….


Và đó là hiểu sai Phật pháp ngay từ trong căn bản đầu tiên – chân lý đầu tiên trong 4 chân lý: khổ, tập, diệt, đạo.


Đời là đời, mưa nắng là mưa nắng, sinh lão bệnh tử là sống tự nhiên…. Đời là đời, đời chẳng là khổ, chẳng là sướng.


Sướng hay khổ là trong đầu của ta. Nếu đầu ta thấy đời là khổ, thì đời là khổ. Nếu đầu ta thấy đời là sướng, thì đời là sướng.


Nói chính xác là: Người si mê làm cho đời họ khổ. Hay, Người si mê thấy đời khổ.


Đó mới là ý nghĩa đúng của câu “Đời là khổ.” Và các bạn cần nắm rất vững câu này và ý nghĩa thực của nó. Đừng tiếp tục lầm lạc như cả thế giới hơn hai ngàn năm nay.


Khi nắm được chân lý đó – khổ hay sướng là ở trong đầu ta – thì lời giải trở thành quá rõ và dễ dàng: Tất cả những cảm xúc hay tư duy trong đầu ta đều không là thực. Đó chỉ là cảm xúc hay tư duy. Đó không là sự thật, không phải là phiến đá ta có thể sờ, trái bóng ta có thể cầm. Chúng không hiện diện thật. Chúng chỉ là cảm xúc hay tư duy nhất thời, đến rồi đi, mờ ảo như mây qua trời, phù du, hiện đó rồi biến đó… Vì thế người ta lại nói: “Đời là ảo ảnh.”


“Đời là ảo ảnh”, cũng như thế, không có nghĩa là mưa nắng, sinh lão bệnh tử là ảo ảnh. Mà có nghĩa là, mọi cái nhìn (cảm xúc và tư duy) của ta về cuộc đời đều chỉ là ảo ảnh, không thực, hiện đó rồi mất đó.


Cho nên, muốn chấm dứt tình trạng thấy đời là khổ, thấy đời là rối rắm trong đầu, thì hãy luyện cách cảm xúc và tư duy để đầu không thấy đời là khổ, mà chỉ thấy đời là bình an, an lạc.


Cách đó là: Nhìn cuộc đời “như nó là” (as it is)- thấy mưa thì thấy mưa, thấy nắng thì thấy nắng, thấy người thì thấy người… đừng thêm “buồn, vui, sướng, khổ, tốt xấu, đẹp xấu…” vào cái nhìn. Cũng như nhìn vào một bức tranh vẽ, mà không có lời diễn giải… cảnh trong tranh xấu hay đẹp, tốt hay xấu….


Đó chính là “quán” trong triết lý Phật gia. “Quán” (nhìn) cuộc đời, nhìn con người “như nó là” mà không diễn giải hay bình phẩm.


Nếu ta nhìn cuộc đời như thế, trái tim ta sẽ luôn bình an, bình thản, và luôn đầy lòng từ bi với con người, với mọi người vẫn còn đang ngụp lặn trong si mê với những cảm xúc và tư duy ảo ảnh.


Khi ta nhìn được cuộc đời như nó là, mọi rối rắm và khổ đau trong đầu ta đều biến mất, tâm ta rỗng lặng, và ta thấy được cuộc đời rất sâu, hơn trước cả trăm nghìn lần, và đó là trí tuệ Bát Nhã – trí tuệ giải thoát.


Các bạn “Đời là khổ” và làm cho đời hết khổ cũng chỉ là một sátna giải thoát, chuyển hóa cái nhìn của ta về cuộc đời từ mê đến ngộ.


Chúc các bạn nắm được trí tuệ giải thoát.


Mến,


Hoành


© copyright 2019

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 21, 2019 00:08

May 20, 2019

Phật pháp và tư duy hòa bình


 


Chào các bạn,


Phật pháp so với giáo lý của các tôn giáo khác thì lý luận hơn rất nhiều lần và tinh vi hơn rất nhiều lần, chính vì vậy mà khó hiểu với người bình dân. Nhưng chúng ta là người trí thức thì nên nắm cho vững, vì đó là những giáo lý hòa bình nhất thế giới.


Vô chấp thì đương nhiên hòa bình, vì chẳng bám vào điều gì đến mức phải đánh nhau.


Vô ngã thì hòa bình vì không có cái ta để đánh nhau.


Nhưng các bạn chỉ thực sự hiểu được sự vi diệu và mức độ tinh vi của Phật pháp khi các bạn thấy đủ thứ vấn đề bên ngoài Phật pháp.


Ví dụ: Mọi người trên thế giới, dù thuộc tôn giáo nào, hoặc có tôn giáo hay không, đều học làm lành lánh dữ, làm thiện tránh ác, nhắm vào chân thiện mỹ, đi theo chân lý… Và mọi người bám vào ý niệm của họ hay của tôn giáo họ về thiện ác, đúng sai, chân thiện mỹ, chân lý. Như là:


– Người ăn rau cho rằng người ăn thịt là sai, người ăn thịt cho rằng người ăn rau phi lý.


– Chân lý là Allah với người này, là God với người kia, và hai người kỵ nhau trong hai tôn giáo khác nhau, dù rằng Allah và God đều chỉ có một nghĩa là Thượng đế/Chúa Trời.


– Người cho rằng Giêsu là Chúa Trời mới đúng, người cho rằng Giêsu chỉ là người…


Và các bạn đã thấy thế giới đã và đang giết nhau kinh khủng chỉ vì những khác biệt chẳng quan trọng như thế – chẳng quan trọng nếu bạn đứng ngoài cuộc, đối với người trong cuộc đang “chấp/bám” thì mọi thứ đều quan trọng đủ để giết nhau.


Tức là, dù mọi người đều yêu chân lý, nhưng chân lý của mỗi người khác với chân lý của người khác, và ai cũng cho rằng mình đúng thiên hạ sai, và “nhân danh God (hay Allah), chúng ta đi đánh nhau chống đám tà đạo kia”.


Cho nên, khi bạn nói bạn yêu chân thiện mỹ, yêu God, yêu làm lành lánh dữ… những điều đó có thể chẳng có nghĩa lý gì hết, meaningless. Mọi người đều yêu chân lý, đều yêu chân thiện mỹ, và đều giết nhau như ngóe trong lịch sử, và vẫn đang giết nhau trong các chiến tranh tôn giáo.


Cho nên Phật giáo dạy vô chấp – bạn thích gì thì thích, đừng bám vào để đến nỗi giết nhau vì nó. Vô chấp với tất cả mọi thứ – điều gì bạn thích thì cứ giữ cho bạn, nhưng đừng bám vào điều đó như những người điên giết nhau trong lịch sử. Người ta thích thứ khác bạn, thì bạn cũng chẳng cần phải bám vào ý của bạn đến mức phê phán chê bai thiên hạ mà sinh ra ẩu đả. Giữ điều bạn thích cho bạn, nhưng đừng chấp vào đó để tạo vấn đề cho người khác.


Đó là trí tuệ của nhà Phật, căn bản của hòa bình.


Đừng chấp vào bất kì điều gì, kể cả đạo của bạn, Chúa/Phật của bạn, giáo lý của bạn… Giữ cho bạn, nhưng đừng chấp vào đó để chê thiên hạ và làm mất hòa khí. Điều này nghe rất hợp lý và dễ hiểu, nhưng các tôn giáo Tây phương giết nhau cả ngàn năm vì ai cũng chấp vào Chúa và đạo của họ để tìm giết những người có Chúa tên khác trong đạo khác. Chấp bám là đầu mối của chiến tranh.


Cho nên, trí tuệ nhà Phật rất cao.


Hay là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc.”


Tức là, mọi thứ là thật nhưng là ảo, là ảo nhưng là thật. Nghĩa là, ví dụ, giáo pháp là thật cho nên hãy thực hành nghiêm chỉnh, nhưng cũng là không thật cho nên nghiêm chỉnh thì nghiêm chỉnh, nhưng đừng bám vào đó, đừng chấp vào đó, để sinh ra vấn đề cho mình hay cho người.


Hay người thông thái cũng như người dốt, người dốt cũng như người thông thái, vì dù có dốt có thông thái, nhưng mọi người đều là Phật đang thành, đều có Phật tính. Vậy đừng chấp/bám vào sự khác biệt để mà phân biệt.


Phật pháp là giáo lý cao siêu, uyển chuyển, và hoạt động rất tốt với cuộc đời với những rối rắm của nó, để cho chúng ta một đời sống bình an và hòa bình.


Toàn bộ Phật pháp xoay quanh vô chấp – đó là một cách sống rất hòa bình.


Nhưng thiên hạ đa số là si mê. Cứ cái gì cho là tốt như giáo pháp, kinh sách, Phật/Chúa thì nhất định là phải bám vào, giết nhau cũng chẳng nhả. Đó là cực kì dốt nát.


Để mình lập lại: Chấp là đầu mối của chiến tranh dù bạn chấp vào điều tốt hay xấu, kể cả chấp vào Phật, vào Chúa, vào Niết Bàn, vào Thiên Đàng, vào đường thiện, vào thánh kinh. Thích cái gì thì cứ giữ cho bạn, chẳng ai bắt bạn bỏ điều bạn thích, nhưng đừng bám vào đó đến mức phải đánh nhau với người có tư duy khác mình. Đó là vô chấp.


Chính vì vậy mà mình nói nhiều đến Phật pháp. Nếu nhìn cung cách các tôn giáo Tây phương giết nhau cả nghìn năm nay, mình thấy tương lai hòa bình của thế giới lệ thuộc vào thế giới có nhiều người nắm được Phật pháp hay không.


Các tôn giáo Tây phương có thể hòa bình, nếu mọi người đều sống với tinh thần Jesus như Jesus, nhưng sự thật là cực kì ít người thực hành lối sống đó. Nói đến Tây phương là cạnh tranh, tranh chấp, đối chọi, Christ và anti-Christ, God và Devil, thiện ác đối đầu. Chẳng thông minh như Phật gia.


Rất may là thực hành Phật pháp hoàn toàn chẳng đòi hỏi bạn bỏ đạo nào của bạn cả. Phật pháp là một lối sống thông minh và tinh vi, người đạo nào sống cũng được.


Mình nói lại để các bạn nhớ rõ: Tương lai hòa bình của thế giới lệ thuộc vào có được bao nhiêu người của thế giới hiểu được Phật pháp. Nhìn lịch sử thế giới, và tình trạng hiện tại, mình không có hy vọng các tôn giáo Tây phương thực sự biết hòa bình, cho đến khi họ hiểu Phật pháp.


Cho nên các bạn, chúng ta có một sứ mệnh: Hiểu Phật pháp, thực hành Phật pháp, rồi dạy lại cho thế giới, không cần như một tôn giáo, mà như là một cách sống rất tinh vi. Dù bạn là đạo nào, giữ đạo của bạn, học thêm cách sống của Phật gia để làm giàu cho đời sống tâm linh của bạn. Bạn không phải theo đạo Phật mới có quyền ngồi Thiền, giữ tĩnh lặng, hay vô chấp.


Thế giới cần biết Phật pháp, dù nhiều người vẫn chưa biết là họ nên biết Phật pháp.


Chúc các bạn nắm được Phật pháp và dạy lại cho thế giới.


Mến,


Hoành


© copyright 2019

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 20, 2019 20:11

May 15, 2019

Vô chấp và xả bỏ

[image error]


 

Chào các bạn,


Đa số tín đồ Phật giáo không hiểu vô chấp và luôn tưởng vô chấp là xả bỏ, và ý niệm xả bỏ nghĩa là điều gì không tốt, tiêu cực, làm mình căng hay tức giận hay lo lắng… thì đừng ôm vào đầu, xả bỏ đi.


Nhưng đây không đủ là Phật pháp. Có thể nói là 1/10 của Phật pháp mà thôi. Đúng ra, đây là tâm lý phổ thông – bất kì nhà tâm lý học nào, hay thầy tư duy tích cực hạng bét nào, hay bất cứ bạn nào viết trên Internet, cũng đều nói được như thế: “Ôi, mấy cái chuyện không quan trọng đó mà, ôm vào đầu làm chi cho mệt, gạt nó ra ngoài đi cho khỏe.” Đây là tâm lý phổ thông, không thật sự là Phật pháp.


Vô chấp của nhà Phật là không bám cứng vào bất kì điều gì trên đời – tốt xấu, thiện ác, hay dở, kể cả Phật pháp, kể cả Phật, kể cả Niết Bàn… Điều này được tóm tắt trong câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (Không trụ vào đâu, thì sanh tâm [Bồ đề]) của Kinh Kim Cang.


Trụ là đứng cứng một chỗ, như trụ tấn, hay phòng thủ cứng tại một chỗ như: “Anh trụ tại huyện này, tôi giữ sư đoàn xa đây một chút, dụ cho tụi nó tấn công anh, tôi sẽ đến bao vây tụi nó, hai gọng kềm – trong đánh ra, ngoài ép vô.”


Trụ tức là chấp, tức là bám cứng vào một chỗ nào, vào một điều gì. Vô chấp (vô trụ) là không bám vào điều gì ở đời (dù rằng có thể dùng mọi thứ trên đời, tùy lúc).


Các quý vị đi chùa chỉ nghĩ vô chấp là xả bỏ điều gì xấu, như nghiện rượu, hay giận, hay tự ái, hay chấp nhất, hay phàn nàn… Và quý vị bám cứng vào giáo lý, như:


– Ăn chay (ăn rau) triệt để, và xem người không ăn chay là người có tội sát sinh. Đây là chấp hàng đại gia. Phật giáo nguyên thủy ăn đủ thứ sinh vật, chứ không ăn chay kiểu chỉ ăn rau. Các quốc gia ở vùng lạnh và sa mạc, người ta phải ăn thịt hay ăn cá, vì sa mạc và sống du mục thì chẳng có rau để ăn, vùng băng tuyết cũng chẳng có rau, vùng lạnh thì chẳng có rau mùa đông và cuối thu. Ăn rau có thể tốt cho sức khỏe trong một số trường hợp, nhưng đừng nói cả thế giới có tội vì rất nhiều người ăn thịt ăn cá.


– Bám vào kinh sách để cãi nhau từng chữ, trong khi chẳng hiểu gì vì không thực hành để hiểu. Kinh sách chỉ là bản đồ. Đường đi thật không phải là bản đồ mà là thực hành mỗi giây mỗi phút trong ngày. Tụng kinh chẳng giúp bạn giác ngộ được.


– Bám vào Niết Bàn như một kéo dài của lòng tham.


– Bám vào Phật như là kẻ cứu rỗi, trong khi bạn mới là kẻ cứu rỗi bạn.


– Bám vào Phật đạo như là tôn giáo khoa học và cho rằng các tôn giáo khác là mê tín.


Thiên hạ bám mà không biết đó là chấp, vì họ thông thấy có nhu cầu “xả bỏ” các thứ tốt.


Thực sự, vô chấp là (1) có thể dùng mọi thứ trên đời – chẳng cần bỏ thứ nào, (2) miễn là đừng bám cứng vào đó nhả không ra.


“Bám cứng” thường có biểu hiệu dễ thấy nhất là người bám cứng thường có thái độ đúng sai (ta đúng, chúng hắn sai), hay thái độ tự xem mình là thánh thiện (self-righteousness, ta thánh thiện, chúng hắn tội lỗi), hay thái độ mất đạo đức, như bám vào rượu đến say sưa mỗi ngày la vợ mắng con, bám vào tiền và kinh doanh dối trá, bám vào chức vụ và giành giật thường xuyên , bám vào gì đó bên ngoài mình (như là kinh sách, hay đi chùa, hay Phật) như là sự cứu rỗi (mà không biết chỉ mình cứu rỗi mình)…


Ưng vô sở trụ, không bám vào đâu. Phật tâm tinh khiết và tự do hoàn toàn, làm bất kì điều gì, dùng bất kì thứ gì, tùy theo lúc, để cứu độ chúng sinh, nhưng không bám cứng vào đâu, vì tất cả mọi thứ trên đời đều là phương tiện/khí cụ để dùng – không thể bám vào cái kéo trong khi công việc đang cần búa.


(1) Tinh khiết và (2) tự do hoàn toàn – tức là không dính cứng vào đâu, không bị giam tù ở đâu. Đó là tâm Phật.


Đọc Kinh Kim Cang thì sẽ thấy điều này rõ như ban ngày. Nhưng hơn 99% quý vị đi chùa chẳng hiểu.


Các bạn nhớ nắm vững điều này, chẳng chỉ vì đó là Phật pháp, mà vì đây là cách sống hiệu quả nhất – dùng tất cả mọi thứ, mọi khí cụ trên đời – và tự do nhất, vì chẳng bám vào khí cụ nào. Chẳng có bao tải nào trên lưng, nên tâm thức hành giả có thể bay cao khắp cả bầu trời.


Tự do đầu tiên và cuối cùng. Chúng ta sinh ra với một tâm thức tự do của trẻ thơ. Và ta lớn lên học bỏ tù tâm thức ta trong nhà tù của đủ mọi thứ song sắt trên đời. Giải thoát là cuối cùng lấy lại được tự do cho tâm thức, trở về tâm thức tự do của trẻ thơ.


Đó là tâm nguyên thủy, bản lai diện mục (mặt mũi nguyên thủy). Đó là tự do đầu tiên và cuối cùng.


Chúc các bạn luôn có tự do.


Mến,


Hoành


© copyright 2019

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 15, 2019 17:42

March 13, 2019

Trái tim bầy đàn

[image error]


 

Chào các bạn


Tĩnh lặng là yếu tố chính cho một đời sống dịu dàng và an lạc. Chỉ cần ra đường đứng một lúc thì chúng ta sẽ thấy có người cãi nhau, gây gổ, đánh nhau, lẩm bẩm chửi thề, hay mặt mũi nhăn nhó rất căng… thì tự nhiên ta hiểu được tĩnh lặng quan trọng cho đời sống này thế nào. Chỉ một điều duy nhất “Tôi không muốn cãi nhau, đánh nhau, nhăn nhó căng… như mấy người kia” cũng đủ cho ta động lực đi tìm tĩnh lặng.


Tuy nhiên, có lẽ tìm hiểu nguyên lý của tĩnh lặng sẽ dễ hơn nếu chúng ta nhìn sự thất bại của những người tìm tĩnh lặng mà không được. Nhìn các thiền sư, thiền sinh, các guru, các vị viết sách thiền, các tăng ni, các tu sĩ mọi giáo phái, tín đồ của mọi giáo phái, thiếu tĩnh lặng – tức là đầy tham sân si, ngã mạn, phán đoán – dù rằng rất nhiều người bỏ cả đời học đủ mọi loại kinh sách, mọi pháp môn, mọi thần học, thì đương nhiên ta sẽ có câu hỏi: “Tại sao mọi người này đi tìm tĩnh lặng mà không được?”


Các bạn, sau nhiều năm quan sát người, và quan sát chính tâm mình, mình nhận ra một sai lầm chung cho thất bại của mọi người. Đó là: Mỗi người đều lấy chính mình làm đích điểm tu tập.


Tôi tu tập để tôi tĩnh lặng, để tôi có ánh sáng, để tôi được giải thoát, để tôi hết tham sân si, để tôi giác ngộ, để tôi thành Bồ tát… “Tôi” là đích điểm tu tập, và đó là 100% của nguyên do đưa đến thất bại.


Khi lấy tôi làm đích điểm tu tập, cái tôi ta trương phình ra, càng ngày “tôi” càng được Luật Hấp Dẫn đưa vào, từ từ cái tôi lớn bằng trời, che kín mít mắt ta, chẳng còn thấy gì được, chứ đừng nói là giác ngộ. Đó là lý do mà nếu các bạn đã thường nói chuyện với hàng tu sĩ các giáo phái, thì thấy người đi tu càng lâu năm càng có khuynh hướng kiêu và tham sân si nhiều hơn là tín đồ dưới đáy. Tức là cái tôi của họ rất lớn, nhưng mắt họ bị che và không thể thấy. Và đó là vấn đề lớn cho đời sống tâm linh của thế giới, vì các thầy mà mù thì ai là người thấy đường trong hàng tỉ tín đồ.


Nói một cách khoa học, thì con người là một sinh vật bầy đàn, chúng ta có tính bầy đàn trong DNA của chúng ta. Có nghĩa là nếu ta xa rời bầy đàn, thì ta sẽ chết hay sống lay lắt mà thôi. Khi ta dùng cả đời ta luyện tập chỉ nhắm vào “tôi” hay “cho tôi”, chính là ta đã xa rời bầy đàn ở mức sâu thẳm nhất – xa rời ngay trong tư duy, đó là chưa nói nhiều người đi tu vì “khinh đời” thì xa đời và xa bầy càng tuyệt đối trong tư duy – một tinh thần như thế chỉ có chết hay sống lay lắt mà thôi.


Đó là vấn đề.


Các bạn, một con vật bầy đàn có “tư duy” gì trong DNA? Mình nói tư duy trong DNA, tức là tư duy bẩm sinh, tư duy di truyền, tư duy vô thức, mà nhiều khi chính con vật không ý thức được, nhưng tư duy đó có rất rõ trong mỗi con vật trong đời sống bầy đàn.


Từ duy đó là, dùng ngôn ngữ loài người: Tôi luyện tập tôi cho hạnh phúc của bầy đàn, điều tôi đang học là cho bầy đàn, điều tôi đang quán là cho bầy đàn, điều tôi đang thực hành mỗi ngày là cho bầy đàn. Không có bầy đàn thì tôi chết. Đời sống của tôi là đời sống của bầy đàn, đời sống của bầy đàn là đời sống của tôi.


Đây là tư duy tự nhiên của sinh vật bầy đàn. Tư duy này cho con vật “the sense of belonging” – cái cảm giác, cái nhận thức, mình thuộc về bầy của mình. Các nhà tâm lý học sẽ nói với bạn rằng sense of belonging là một cảm xúc và động lực sống căn bản nhất và mạnh mẽ nhất của con người: Một người mà không có sense of belonging đối với xã hội quanh mình, với mọi người quanh mình, với đời sống quanh mình, thì đó là một đời sống cực kì cô đơn và đau khổ, bị mất động lực sống, và là một chứng bệnh tâm thần nặng. Người ta có từ “alienation”, bị xa lạ, bị xa cách, bị là người ngoài cuộc (“alien” là người nước ngoài) để nói về hiện tượng đó.


Cho nên, khi chúng ta sống, đặc biệt là khi chúng ta ngồi yên lặng một nơi, chỉ một mình, để tập Thiền hay nghiên cứu, chỉ với “tôi” và “giác ngộ của tôi” làm đích điểm, ta bị lạc vào thế giới trong đó ta hoàn toàn mất sense of belonging vì tập trung chỉ vào tôi. Và đó là một chứng bệnh tâm thần phản tác dụng – nó làm cho thế giới bầy đàn của bạn biến mất, và thế giới của bạn chỉ còn có “tôi” bao trùm thế giới. Không những “tôi” của bạn lớn, mà bạn không đứng vững được, không tĩnh lặng được, vì đó là tâm lý sống lây lắt và sợ hãi của một con vật bầy đàn đang bị sống chỉ một mình.


Muốn đứng vững, muốn thấy yên ổn, thấy hạnh phúc, thấy tĩnh lặng, là phải luôn thấy mình đứng giữa bầy đàn, yêu bầy đàn, và đang làm mọi việc cho hạnh phúc và sự sinh tồn của bầy đàn.


Đó là điều các thánh nhân và chúng ta thường nói: Yêu người – yêu tất cả mọi người, yêu cả bầy đàn “loài người”, chẳng chừa ai.


Chính sense of belonging và quan tâm đến bầy đàn đó cho chúng ta nền tình yêu để đứng vững trên đó, và ánh sáng tình yêu để không cần phải tham sân si cho chính mình mà chỉ còn quan tâm đến mọi người, và tự động vượt lên trên yêu ghét, tốt xấu, giàu nghèo, ngoài trong, ta người… nói chung là vượt lên trên thế giới nhị nguyên, để chỉ còn thấy nhất nguyên – thấy loài người là một bầy lớn, và ta là một phần trong bầy, sống với bầy và cho bầy, vì hạnh phúc và sinh tồn của cả bầy.


Đó là tư duy ta đã tự nhiên có từ trong DNA. Đó là cái mà nhà Phật gọi là tâm nguyên thủy, hay bản lai diện mục (mặt mũi nguyên thủy), trước khi ta bị đời sống làm ta thành tham sân si.


Phật Thích Ca vì yêu người nên mới lặn lội đi tu để tìm đường giải thoát cho người. Chúa Giêsu vì yêu người mà chịu chết để chuộc tội cho loài người. Không có tình yêu cho loài người làm khởi điểm thì hai vị cũng chỉ tù mù như đám thiền sinh ngớ ngẩn ngày nay ngồi Thiền để tìm tĩnh lặng và hạnh phúc cho chính họ.


Có điều gì rõ ràng hơn vậy nữa?


Cho nên, các bạn, trở về bản tính nguyên thủy của mình là gì? Là trở về bản tính bầy đàn đang có trong DNA của mình, yêu bầy của mình, quan tâm đến bầy của mình, lo cho bầy của mình, chăm sóc bầy mình, làm mọi thứ – Thiền, nghiên cứu kinh sách, tĩnh tâm, cầu nguyện – vì tồn vong và hạnh phúc của bầy mình.


Nếu ta có thái độ như thế, tức là ta đã có khởi điểm như Phật và Chúa. Và đó là giác ngộ.


Vậy hãy quán cuộc đời với con mắt bầy đàn. Quán những khó khăn, vui sướng, tiếng cười, giọng khóc của loài người, để yêu loài người, để trở lại cùng bầy trong tư duy, và sống với bầy trong trái tim của một hành giả đi tìm hạnh phúc cho bầy


Forget about the self. Quên tôi đi. Vậy thì bệnh alienation và màn si mê sẽ rơi xuống.


Yêu mọi người là giác ngộ. Không có giác ngộ nếu không có yêu mọi người.


Chúc các bạn luôn yêu người.


Mến,


Hoành


© copyright 2019

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 13, 2019 15:54

March 6, 2019

Mùa nào cũng đẹp, người nào cũng đẹp


 

Chào các bạn,


Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có lẽ chúng ta đều đồng ý là mỗi mùa có một nét đẹp riêng. Chẳng thể nói mùa nào đẹp hơn mùa nào. Xuân thì bừng sức sống; hạ thì nắng, cây xanh, phượng đỏ, và biển; thu thì sắc màu mờ sương lãng mạn, đông thì lặng lẽ, giá lạnh, áo len và khăn quàng khoe sắc.


Người ta cũng vậy các bạn. Chúng ta có khác nhau thì cũng chỉ như các mùa. Mỗi người có một cá tính riêng, nhưng mọi người đều đẹp ngang nhau, nếu chúng ta có tâm bình đẳng để nhìn. Xã hội tạo tiêu chuẩn đẹp xấu để ta phân biệt – như là chân dài, eo thon, hay nói chuyện có duyên hoặc vô duyên, hay người thông minh hay kém thông minh… Và chúng ta vô tình làm nô lệ cho những chuấn giá trị phần lớn là do Hollywood và các công ty điện ảnh, kịch nghệ và hàng thời trang định ra. Hoặc có thể là do các tổ chức chính trị hoặc tôn giáo định ra. Những chuẩn này nhằm phân biệt người này và người kia, nghĩa là ngược với tâm phân biệt của thánh nhân.


Cái nhìn của thánh nhân khác với cái nhìn của phàm phu. Thánh nhân nhìn một người là nhìn vào hồn họ. Phàm phu nhìn thì nhìn vào bên ngoài của người ta. Sự khác biệt giống như người không sành rượu thì thích chai rượu đẹp, người sành rượu thì chỉ cần rượu ngon, chai thì thế nào cũng vậy.


Nhìn với tâm phân biệt là cái nhìn của một tâm thức vẫn bị giam tù – nô lệ cho đủ thứ chuẩn người đời đặt ra, và cái nhìn cực kỳ hạn hẹp vì nó ngừng ngay ở bên ngoài khi mắt nhìn và tâm trí kết luận tức thì “người này thế này, người kia thế nọ”.


Tâm không phân biệt nhìn vào hồn của mỗi người, và nhận thấy những yêu thương, âu lo, hy vọng, khắc khoải, ước mong, chờ đợi của người đó. Và ở mức đó mọi người rất giống nhau, nhưng cũng khác nhau ở mọi chi tiết – mỗi người có thể yêu một số điều khác nhau, mỗi người có thể bị ảnh hưởng buồn vui bởi những điều khác nhau, mỗi người có những mong ước khác nhau… Cái nhìn như thế thì như nhìn một cánh đồng hoa, với rất nhiều hoa khác nhau, mỗi hoa một vẻ, nhưng tất cả đều là hoa, đều có vẻ đẹp riêng, và đều làm cho lòng mình tươi đẹp. Đó là cái nhìn rất sâu và riêng tư, nhìn mỗi người đến tận hồn người ấy và thấy rõ người ấy là một người đặc biệt khác hẳn mọi người, nhưng tổng thể thì vẫn rất giống mọi người khác trong tư duy, xúc cảm, ước mong…


Đây là cái nhìn của mẹ nhìn các con. Mẹ biết mỗi con rất kỹ, đứa nào có nốt ruồi nào và những cá tính nào mẹ đều biết, và đương nhiên chẳng đứa nào giống đứa nào. Nhưng tổng thể thì các con đều như nhau, đều là con của mẹ, đều có những nét chung của các con của mẹ, và mẹ chẳng thể nói mẹ yêu con nào hơn con nào.


Mẹ có cái nhìn với tâm không phân biệt vì mẹ có tình yêu cho các con. Muốn có tâm không phân biệt chúng ta phải có tình yêu cho mọi người. Nếu ta yêu “người” thì tự nhiên ta chẳng phân biệt người này với người kia, dù ta thấy rất rõ hai người khác nhau trong nhiều chi tiết. Tức là, thấy kỹ đến nỗi thấy từng chi tiết khác nhau, nhưng sâu đến nỗi thấy khác nhau mà yêu như nhau. Đó là khác mà không khác, không khác mà khác, không khác chính là khác, khác chính là không khác. (Bát Nhã tâm Kinh).


Tâm không phân biệt, mới nghe thì tưởng rằng đó là lý trí – cái đầu mình đừng phân biệt ai – nhưng thực ra tâm không phân biệt được sinh ra từ tình yêu. Bạn không thể dùng lý trí để bảo bạn không phân biệt được, nếu bạn không yêu mọi người. Không có tình yêu thì đầu óc bạn nhất định sẽ phải phân biệt người hay người dở, người đẹp người xấu, người thành thật người dối trá, vì không yêu thì chỉ có cách nhìn người để xem mình phải ứng xử hoặc dùng họ như thế nào để tốt nhất cho mình.


Cho nên dù là bài học có vẻ lý trí – hãy có tâm không phân biệt – nhưng nó thực là bài học thực hành tình yêu.


Yêu người, thực sự là chuyện vô cùng dễ, chẳng khó như nhiều người cảm thấy giống như phải leo ngang dãy Hy Mã Lạp Sơn ngập băng và tuyết. Nếu bạn biết là mọi người đều khổ, thì bạn tự nhiên yêu mọi người. Cả thế giới ai cũng khổ – đau vì tình, đau vì tiền, đau vì tiếng tăm, đau vì ganh tị, đau vì thù hận, đau vì giành giật, đau vì si mê, đau vì tham lam, đau vì lo sợ, đau vì đau… Mọi người đều ngụp lặn trong bể khổ. Điều này thì hoàn toàn chính xác, thế cho nên chúng ta luôn luôn thấy đủ thứ xì căng đan, tội phạm, hành vi ngu dốt, tâm trí đau khổ… của những người xem ra là đã có đủ mọi thứ trên đời rồi. Không có một vị trí nào trên đời, một nơi nào ta đứng, một không khí nào ta thở, mà có thể tách rời ta ra khỏi khổ đau của đời sống này. Trừ khi tâm trí ta được giải thoát khỏi tù ngục tư duy để có được tự do hoàn toàn. Tự do hoàn toàn là giải thoát, là giác ngộ.


Chỉ cần hiểu rõ bản chất của khổ đau, thì ta yêu tất cả mọi người, tội nghiệp cho tất cả mọi người, yêu như thế là chuyện tự nhiên, chẳng cần phải cố gắng. Hiểu rõ được bản chất của cuộc đời và của con người – khổ – thì tự nhiên ta yêu mọi người.


Người ta nói rằng thái tử Tất Đạt Đa thấy con người khổ, nên quyết chí tìm học đạo để chấm dứt cái khổ cho người. Và người ta nói đến con đường học đạo của Tất Đạt Đa, nhiều thầy, nhiều đường, cho đến lúc thái tử thiền định và giác ngộ. Nhưng có lẽ người ta không biết, những chặng đường tu luyện đó là phụ. Điều chính đã có từ đầu, đó là thái tử thấy con người khổ và thái tử đau vì cái khổ của con người, và tình yêu lớn dành cho mọi người thúc đẩy thái tử đi tìm giải pháp.


Nào các bạn, đây là điểm lớn, các bạn hãy suy nghĩ: Thái tử đã giác ngộ từ lúc còn ở hoàng cung thấy mọi người khổ và đau cái đau của mọi người và yêu thương mọi người quá đỗi. Tình yêu lớn đó chính là Enlightenment, chính là Giác Ngộ. Mọi thứ giáo pháp khám phá ra sau này dưới cội Bồ Đề chỉ là kết quả tự nhiên của tình yêu lớn đó. Không có tình yêu lớn đó thì chẳng có gì dưới cội Bồ Đề cả. Tình yêu lớn đó chính là đại ngộ. Những điều thấy được sau này, thực là tiểu ngộ, thấy thêm. Ngày nay người ta thường nói: “Thấy được câu hỏi là đã đi hơn nửa đoạn đường.”


Các bạn, đây là điểm quan trọng cho chúng ta. Thấy mọi người và yêu mọi người là đại ngộ. Tình yêu là ánh sáng. Tình yêu lớn là ánh sáng lớn, ánh sáng giác ngộ. Và chúng ta nói đến tình yêu, không nói đến ý tưởng. Yêu là bạn có cảm xúc yêu thương dạt dào, đau lớn với cái đau loài người đang mang. Bạn đã yêu như thế là đã có được ánh sáng giác ngộ, và mọi thứ khác sẽ tuần tự đến với bạn, chẳng có gì phải tìm.


Chúc các bạn biết yêu tất cả loài người, chẳng chừa ai.


Mến,


Hoành


© copyright 2019

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 06, 2019 01:26

December 19, 2018

Ngôn ngữ Bát Nhã

Bát Nhã Tâm Kinh tiếng Phạn Sanskrist, Thư viện Quốc gia Pháp.


 


Tương lai trí tuệ của thế giới

nằm trong ngôn ngữ Bát Nhã


Chào các bạn,


Ngay trong các quốc gia Phật giáo, mà Việt Nam là một, rất nhiều người đi chùa cả đời mà không hiểu ngôn ngữ Phật pháp thật, thường được gọi là ngôn ngữ Bát Nhã, vì nằm trong Bát Nhã Tâm Kinh. Đây là đỉnh cao của Phật triết. Không nắm được ngôn ngữ Bát Nhã thì bạn vẫn còn đứng bên ngoài ngưỡng cửa Phật pháp.


Đa số mọi người đi chùa chỉ biết được làm lành, lánh dữ, ăn chay, niệm Phật. Vậy thì cũng tốt, nhưng vậy thì khác gì các tôn giáo khác, các trường phái tâm linh khác, kể cả các nhóm tà ma ngoại đạo, hay cả những người không theo một tôn giáo nào, hoặc chẳng có tín ngưỡng nào? Cả thế giới, ai cũng nói làm lành, lánh dữ, ăn chay (và cầu nguyện). Thế thì các điều thật sự là Phật pháp ở đâu?


1. Phật pháp thật sự vượt lên trên nhị nguyên – không còn lành dữ, tốt xấu, trắng đen. Không còn nhị nguyên, dù nhị nguyên vẫn còn đó; nhị nguyên vẫn còn đó, nhưng vẫn không còn nhị nguyên.


Tại sao vượt lên trên nhị nguyên? Vì nhị nguyên là nguồn gốc của bất đồng và chiến tranh. Bạn cho rằng ăn thịt là tội vì sát sinh. Bác sĩ tây y khuyên bố bạn vừa bệnh xong nên ăn cháo thịt bò bằm cho mau hồi phục. Bạn nói uống rượu là sai, ở nơi khác rượu là lễ vật dâng Thượng đế.


Vượt lên trên nhị nguyên, như hai đứa con tranh nhau giành kẹo, đứa nào cũng nói mình đúng, mẹ biết hai con đều sai và tốt nhất là không nên giành giật. Hay đúng hơn, mẹ có thể thấy đứa này hơi đúng hơn đứa kia một chút, nhưng cả hai vẫn sai khi giành nhau. Đó là mẹ vẫn thấy nhị nguyên, nhưng không thấy nhị nguyên.


2. Vượt lên trên nhị nguyên thì thấy mọi sự như nhau. Đó là tâm bình đẳng.


Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.

Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc.


Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.

Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.


Phật chẳng khác Phàm phu, Phàm phu chẳng khác Phật.

Phật tức là Phàm phu, Phàm phu tức là Phật.


Kẻ cướp chẳng khác kẻ bị cướp, kẻ bị cướp chẳng khác kẻ cướp.

Kẻ cướp tức là kẻ bị cướp, kẻ bị cướp tức là kẻ cướp.


Vì sao? Vì mọi người đều ngập trong tội lỗi tham sân si. Cướp hay bị cướp thì cũng đầy tội lỗi, như hai kẻ giết người cướp nhau mà thôi.


Nhưng cả hai cũng đều là Phật đang thành, Bồ tát nhìn mọi người thấy mọi người đều là Phật, kể cả kẻ giết người.


3. Ngôn ngữ Bát Nhã thấy mọi thứ trên đời: tốt xấu, lành dữ, thiện ác, thánh ma… Nhưng không bám, không dính vào đâu cả. Đó là vô chấp, vô trụ. Đó cũng là Không.


Thấy Phật, thấy ma. Nhưng không dính vào Phật, không dính vào ma.


Thấy cướp, thấy tăng. Và rất có thể đánh cướp và mời tăng. Nhưng trong lòng cung kính đối với cả cướp lẫn tăng, tức là chẳng thấy cướp, chẳng thấy tăng, và do đó chẳng bám vào cướp và cũng chẳng bám vào tăng.


Tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả đều giống nhau. Ứng xử có thể khác trong cung cách xã hội – một người thì đưa vào trại cải huấn, một người thì mời trà – nhưng ứng xử thật trong lòng thì đều cung kính với cả hai như nhau.


Sống với mọi điều, nhưng không bám vào điều nào.


Đó là vô chấp, vô trụ.


Thiền sư Đan Hà chẻ tượng Phật làm củi, nhưng vẫn cung kính với Phật và tượng Phật. Cung kính với Phật nhưng chẳng bám vào Phật, đừng nói là bám tượng Phật. Không bám Phật nhưng vẫn theo đường Phật, theo đường Phật nhưng vẫn không bám dính đường Phật, không bám dính Phật…


Thị cố Không trung…

vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí

vô lão tử, diệc vô lão tử tận;

vô khổ, tập, diệt, đạo;

vô trí diệc vô đắc…


Hãy thấy trong Không…

chẳng có vô minh, cũng chẳng có hết vô minh, cho đến

chẳng có già chết, cũng chẳng có hết già chết;

chẳng có khổ, tập, diệt, đạo;

chẳng có trí tuệ, cũng chẳng có đắc đạo…


Tức là:


Trong Không… chẳng có Thập nhị nhân duyên (12 bước nhân duyên, từ vô minh cho đến già chết – vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử – và lại sinh ra trong vòng luân hồi mãi mãi); cũng chẳng có chấm dứt Thập nhị nhân duyên (tức là chẳng có chấm dứt vô minh cho đến chẳng có chấm dứt già chết và luân hồi).


Chẳng có Tứ Diệu Đế – Bốn Chân Lý: Khổ, Nguyên nhân khổ, Diệt khổ, và Con đường diệt khổ.


Chẳng có trí tuệ Bát Nhã; cũng chẳng có đạt được trí tuệ Bát Nhã (tức là chẳng có đắc đạo).


Tức là, tóm tắt lại, trong Không – trong tánh thật của vũ trụ và của tâm ta – chẳng có Phật pháp hay Niết Bàn gì cả.


Nghĩa là sao?


Nghĩa là vẫn có Phật pháp và Niết Bàn để ta tu tập, thực hành và nhắm vào, nhưng cũng chẳng có Phật pháp hay Niết Bàn để ta có thể bám và dính. Tu tập thì vẫn nghiêm chỉnh, nhưng không bám không dính, để cần lờ thì cứ lờ.


Và thật sự là đến đỉnh điểm của tu tập, ta chẳng cần phải lờ điều gì nhưng cũng tự nhiên chẳng còn dính mắc vào đâu, vì tư duy và đời sống đã thành tự nhiên như cánh chim bay khắp phương trời, bay khắp nơi, đậu khắp nơi, nhưng chẳng dính nơi nào. Như thiền sư Tanzan biết có luật nam nữ không được gần nhau, nhưng sư thấy cần bồng kỹ nữ qua đường thì vẫn bồng, bồng rồi thì cũng chẳng nghĩ đến phạm luật hay không và cũng chẳng nghĩ đến hình ảnh kỹ nữ.


Đó là tự do tuyệt đối và an nhiên tự tại.


Tự do tuyệt đối là giải thoát – giải thoát khỏi mọi ngục tù (dính mắc) của tâm trí. Giải thoát cũng chính là Niết Bàn.


Đó là “hành” mà không “chấp”. Pháp có thể hành, nhưng không thể chấp.


Có thể sống với mọi sự như là có, mà chẳng dính vào đâu như chẳng điều gì có.


“Có mà là không, không mà là có.” Đó là ngôn ngữ và cách sống Trung Đạo của Phật pháp, hay chính xác hơn nữa là, ngôn ngữ Bát Nhã Tâm Kinh.


Các bạn, ngôn ngữ Bát Nhã cực kì quan trọng, vì hai lý do:


1. Nếu bạn không nắm vững, thì hiểu biết của bạn về Phật pháp là zero, và


2. Đây là ngôn ngữ luận lý trí tuệ số một của thế giới, chẳng có một ngôn ngữ nào của dòng triết lý nào có thể sánh bằng. Tương lai trí tuệ của thế giới nằm trong ngôn ngữ Bát Nhã (nếu những người Đông phương chúng ta nắm vững được để mà truyền dạy. Rất khó cho người Tây phương có thể hiểu. Cần kiên nhẫn của những bậc thầy của chúng ta).


(Mình nói “ngôn ngữ luận lý” vì “ngôn ngữ tình cảm” thì, theo thẩm định của mình, số một là ngôn ngữ của Giêsu).


Các bạn có thể làm được điều đó không? Học và dùng mọi điều nghiêm chỉnh như là có, nhưng không bám dính vào đâu như là không?


Chúc các bạn luôn trí tuệ.


Mến,


Hoành


Để hiểu thêm về Bát Nhã Tâm Kinh, đọc:



Bát Nhã Tâm Kinh lược giảng
Bát Nhã Tâm Kinh lược giảng Việt Anh (để học tiếng Anh)
A Brief Exposition on the Heart Sutra

© copyright 2018

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 19, 2018 16:51

December 16, 2018

Tâm là chủ

[image error]


 

Chào các bạn,


“Tâm là chủ” có rất nhiều tầng sâu sắc. Thỉnh thoảng gặp cơ hội, các bạn sẽ khám phá ra một tầng mới. Nhưng để giản dị hóa vấn đề lúc này, mình nói ra đây hai khía cạnh chính của “tâm là chủ.”


Thứ nhất, trong đời sống của bạn, tâm của bạn là chủ. Điều này nói nghe có vẻ như rất tự nhiên và dễ hiểu, nhưng đa số các bạn, và đa số người trên thế giới, vẫn không nắm được (dù mọi người vẫn nghĩ rằng vừa nghe qua là đã nắm được).


Tâm là chủ, có nghĩa là điều gì không phải tâm bạn cũng đều không là chủ. Tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, bằng cấp, chức vụ, tình duyên, con cái, tôn giáo, văn hóa… Chẳng có gì là chủ đời bạn. Tâm bạn là chủ đời bạn. Nếu chủ mà yếu ớt thì đời bạn yếu ớt.


Tâm phải vững, chắc chắn, mạnh mẽ, tĩnh lặng, yêu thương. Mọi thứ khác, tiền bạc, nhà cửa, bằng cấp… là từ tâm mà ra.


Ngay cả khi bạn nói Chúa làm chủ đời bạn, điều này vẫn có nghĩa là “tâm bạn là chủ”. Ví dụ: Chúa làm chủ đời bạn, Chúa đưa đường dẫn lối cho bạn gặp cha, gặp soeur, dạy bạn đủ điều. Bạn nghe rồi và tâm bạn vẫn cứ tiếp tục làm ăn trộm, thì Chúa cũng chịu thua. Chúa có thể dẫn bạn đi đường đúng, đi hay không vẫn là tâm bạn quyết định. Không có chuyện đổ mọi chuyện lên đầu Chúa, kể cả chuyện bạn trộm cắp.


Thứ hai, “tâm là chủ” có nghĩa là tâm bạn là chủ thế giới của bạn. Mình đã viết trước đây: “Mỗi người chúng ta có một thế giới của mình – gia đình, bạn bè, sở làm, hàng xóm, những con phố ta qua thường xuyên, những quán ăn ta ăn thường xuyên, những người ta gặp thường xuyên — tất cả những gì thường xuyên đó là thế giới của ta. Và ta là gốc của thế giới của ta. Nghĩa là, ta có ảnh hưởng cực lớn lên bản chất của thế giới đó.”


Nếu ta dữ dằn, thế giới của ta thành căng thẳng, thù nghịch. Nếu ta tiêu cực, thế giới của ta thành ảm đạm, xấu xí, tồi tệ. Nếu ta yêu người, thế giới của ta đầy yêu thương. Nếu ta tích cực, thế giới của ta đầy ánh mặt trời. Tâm của ta ảnh hưởng lên thế giới của ta, và thế giới của ta phản ánh tâm ta.


Nhưng “thế giới của ta” còn lớn hơn cả đoạn mình mô tả bên trên. Thế giới của ta thực sự là cả thế giới, cả vũ trụ này. Vì mỗi người chúng ta chỉ thấy cả thế giới, cả vũ trụ là thế giới của ta. Ta chẳng có một hình ảnh thế giới nào khác trong tâm trí. Trong mắt ta, chỉ có một thế giới, không có thế giới của tôi và thế giới của người khác. Cho nên rất nhiều trường phái triết lý duy tâm Đông Tây xưa nay chỉ nói giản dị và chính xác là: “Tâm ta tạo ra thế giới”, mà không cần nói đến chữ “của ta.”


Nghĩa là, nếu ta tiêu cực, ta chỉ thấy cả thế giới tiêu cực, không có hình ảnh thứ hai. Ngược lại, nếu ta tích cực, ta thấy cả thế giới tích cực. Hay nói một cách khác, tâm ta tạo ra nhãn quan – cái nhìn và cái thấy – của ta.


Một ví dụ khác là, nếu bạn mang kính màu đỏ, bạn thấy chính bạn và cả thế giới đều đỏ. Mang màu xanh, thì bạn thấy chính bạn và cả thế giới đều xanh. Cặp kính đeo mắt là tâm bạn.


Cách nhìn chính xác về chính mình và về thế giới là kính mắt không màu, để có thể nhìn mọi sự “như nó là” (as it is). Cặp kính không màu đó là tâm tĩnh lặng – không có xung động nào tạo sóng hay tạo màu lên kính.


Và đây là điều sống chết mà nhiều người chẳng hiểu: Nếu bạn từ tấm bé đã mang kính màu đỏ lên mắt 24 giờ một ngày (kiểu như contact lenses), thì cho đến 50 tuổi bạn cũng chẳng biết gì khác ngoài thế giới màu đỏ. Nghĩa là bạn bị cầm tù trong cái nhìn nhuộm đỏ mà bạn chẳng biết, vì bạn chẳng biết thế giới có thể thấy khác đi. Đó là tình trạng của đại đa số người bị giam cầm trong tham sân si của mình cả đời mà hoàn toàn không biết mình đang bị cầm tù, chỉ vì không biết được có một đời sống có thể khác. Đó là lý do tại sao rất nhiều người được nghe giảng cả đời mà vẫn chẳng thể thấy đường.


Thế thì làm sao mà cứu chữa họ được?


Chỉ có một cách. Nếu bạn muốn dạy họ, họ phải tin bạn đến mức sẵn sàng luyện tập để bớt tham, bớt sân, bớt si, và yêu người hơn. Tức là làm cho màu đỏ nhạt đi từ từ. Nếu họ kiên nhẫn nghe lời bạn, thì một lúc nào đó họ sẽ nhận ra là thế giới có thể có một màu khác màu đỏ, và rõ ràng sáng sủa hơn, nếu ta bớt tham sân si và ta yêu người hơn.


Nhưng làm sao để họ nghe bạn từ đầu, trong khi họ chẳng biết là họ đang bị cầm tù, và lời nói của bạn họ nghe như truyện Tề Thiên?


Có hai yếu tố: Số một là duyên – đến giờ duyên đủ cho họ thấy, thì họ sẽ nghe bạn để thấy. Số hai là tình yêu – nếu họ biết là bạn yêu họ, thì có lẽ họ sẽ lắng nghe.


Mình lệ thuộc vào số hai này rất nhiều. Mình biết là mình rất yêu các bạn và rất muốn các bạn thử làm theo những điều mình chỉ. Vì sao? Chẳng vì sao cả. Chẳng có lý do gì khác. Mình cảm thấy thương các bạn như là em của mình, chẳng vì Chúa bảo vậy hay Phật bảo vậy. Chỉ vì trái tim mình bảo vậy. Chẳng có lý do chính đáng nào khác. Mình chẳng có mong cầu gì khác.


Và mình vẫn tin là mình cứ nói mãi, viết mãi, sẽ có những em của mình hiểu mình, dù rằng có thể nhiều em chẳng bao giờ hiểu.


Tình yêu không bao giờ thất bại. 1 Corinthians 13:8.


Chúc các bạn luôn tĩnh lặng để thấy rõ chính mình và mọi sự.


Mến,


Hoành


© copyright 2018

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 16, 2018 17:18

December 5, 2018

Ta tạo thành thế giới của ta

[image error]


Chào các bạn,


Mỗi người chúng ta có một thế giới của mình – gia đình, bạn bè, sở làm, hàng xóm, những con phố ta qua thường xuyên, những quán ăn ta ăn thường xuyên, những người ta gặp thường xuyên — tất cả những gì thường xuyên đó là thế giới của ta. Và ta là gốc của thế giới của ta. Nghĩa là, ta có ảnh hưởng cực lớn lên bản chất của thế giới đó.


Điều này rất dễ hiểu. Một người có một cá tính rất mạnh luôn có ảnh hưởng đến mọi người xung quanh. Nếu đó là một côn đồ ác ôn thì thế giới của anh ta nhiều căng thẳng, sợ hãi, bực bội, chán chường, tuyệt vọng. Nếu đó là một thánh nhân thì thế giới của thánh nhân đó nhiều vui tươi, an lạc và hạnh phúc.


Đây là cốt yếu của tư duy tích cực. Chúng ta tạo thành bản chất của thế giới của ta, chúng ta không để thế giới của ta định tánh ta. Giả sử, một Thiền sư sống giữa khu chợ búa ồn ào giành giật, Thiền sư không để chợ búa làm Thiền sư thành giành giật, nhưng Thiền sư lấy cái tĩnh lặng yêu thương của mình làm người trong chợ được ảnh hưởng tốt theo Thiền sư, và ứng xử với nhau thành thật và tử tế hơn.


Tâm là chủ, tâm tạo. (Kinh Pháp Cú).


Mỗi chúng ta là một Thiền sư trong thế giới của mình. Các bạn cần hiểu điều này. Bạn luyện tâm cho chính bạn, nhưng bạn ảnh hưởng cả thế giới của bạn. Bạn chẳng cần làm gì cho ai cả, chẳng cần dạy ai điều gì cả. Chỉ sự hiện diện của bạn, cách đi đứng, cách nói năng, cách ứng xử của bạn tỏa ra một nguồn năng lượng tích cực nhiệm mầu, lan tỏa và ảnh hưởng đến trái tim của mọi người quanh bạn.


Ánh sáng mạnh hơn bóng tối. Một căn phòng lớn chỉ cần một ngọn đèn cầy cũng đủ để cho ta thấy đường. Một khu chợ lớn chỉ cần một trái tim Thiền là đủ để làm cho chợ trong sáng hơn một chút.


Cho nên, nếu xã hội của chúng ta có nhiều vấn đề, cách để làm xã hội tốt hơn là mỗi chúng ta thuần thục tâm linh tích cực. Nếu xã hội tối đen và không có nhiều ngọn đèn cầy đốt sáng, thì làm sao xã hội sáng ra được? Nếu mọi người trong xã hội đều có máu gian tham và tham nhũng (kể cả những người chưa biết mình có máu tham nhũng vì chưa có cơ hội tham nhũng) thì xã hội đó khá thế nào được? Loại bỏ một trái tim tham nhũng ra khỏi một chức vị, chỉ để thay thế vào chức vị đó một trái tim tham nhũng khác, nếu xã hội không có những trái tim tinh tuyền.


Cho nên các bạn, con đường chính đáng để mang an lạc đến cho ta và cho thế giới của ta là trái tim tinh khiết an lạc của ta.


Các thầy dạy tâm linh thường chỉ nói chuyện cá nhân, chuyện của bạn và trái tim của bạn. Nhưng chuyện cá nhân của bạn cũng là phần lớn chuyện thế giới của bạn.


Nếu chúng ta có trái tim đầy tham sân si thì thế giới của ta thế nào? Đầy tham sân si. Đừng trông mong gì vào thế giới của mình nếu mình không là một ngọn nến. Đừng quên điều này.


Chúc các bạn luôn trong sáng.


Mến,


Hoành


© copyright 2018

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 05, 2018 17:11

December 1, 2018

Bạn của chính mình






Chào các bạn,


Chúng ta nói thường xuyên về trái tim tĩnh lặng, mạnh mẽ, không xung động. Nhưng nếu thỉnh thoảng ta bị xung động, tức giận, lo sợ, hay stressed, thì cũng đừng đập đầu mình là sao mình tồi quá.


Nên thương chính mình một chút. Chúng ta là phàm phu, dù đang cố gắng đi đường Bồ tát thì thỉnh thoảng cũng trượt chân. Và cũng nên thương mình đủ để chấp nhận điểm yếu của mình, coi đó là té ngã, vui vẻ đứng lên đi tiếp. Và nếu muốn nói một câu an ủi mình thì nói một câu an ủi mình. Nếu ta không biết yêu chính mình, thì có lẽ ta cũng chẳng biết yêu người khác. Giả sử đó là người yêu của mình trượt chân, mình sẽ đỡ dậy và nói một câu an ủi. Vậy thì cũng hãy làm như thế với chính mình.


Học yêu thương cũng là học yêu thương chính mình — hướng dẫn mình, kỷ luật với mình, nhưng cũng luôn nâng đỡ, an ủi và khuyến khích chính mình. Cách chúng ta biết yêu mình có lẽ là cách hay nhất để ta biết yêu mọi người khác, vì ta đã có một người luôn luôn bên cạnh để thực hành yêu thương.


Nhiều người thường bị stressed và mất tinh thần khi thấy chính mình yếu kém, như là luôn tưởng mình tĩnh lặng hoàn toàn, cho đến khi đụng chuyện mới thấy mình quá yếu. Chẳng sao cả các bạn. Đời sẽ cho ta đủ cơ hội để chúng ta biết mình mạnh yếu đến đâu. Cảm ơn đời. Biết mình yếu là để mình có thể mạnh thêm. Chẳng phải là lý do để đập đầu hay mắng mỏ mình.


Con người của chính ta cũng cần được ta nhận diện, nói chuyện, an ủi, dỗ dành, khuyến khích. Yêu mọi người có nghĩa là yêu mọi người, kể cả con người của mình. Yêu đây không có nghĩa là chấp ngã. Chấp ngã là bám cứng vào mình mà không cần quan tâm đến mọi người, đến thế giới. Yêu mình là yêu một người rất gần gũi với mình, cần mình gần gũi, am hiểu, yêu thương, và hỗ trợ trên cuộc hành trình đời, như mình cũng ứng xử với mọi người khác. Yêu thương, nâng đỡ, an ủi, hỗ trợ không bao giờ có nghĩa là chấp.


Cho nên các bạn, trong đời sống tâm linh chúng ta thường không cảm thấy cô đơn, kể cả khi đang một mình. Chúng ta có chính mình để trò chuyện và chăm sóc an ủi, có Chúa Phật để tâm sự, và có mọi người khác để yêu thương và để cầu nguyện cho họ.


Chúc các bạn luôn đầy tình yêu.


Mến,


Hoành


© copyright 2018

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 01, 2018 16:16

November 13, 2018

Bất lập văn tự… kiến tánh thành Phật

[image error]


 


Chào các bạn,


Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn độ, và là sơ tổ Thiền tông Trung quốc, có để lại 4 câu thơ tinh yếu của Thiền tông.


Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ chân tâm

Kiến tánh thành Phật


Tạm dịch:


Không lập chữ nghĩa

Truyền riêng ngoài dạy

Chỉ thẳng tâm thật

Thấy tánh thành Phật


Không dùng chữ nghĩa, truyền riêng ngoài dạy [thông thường], bởi vì người ta thường dạy bằng chữ nghĩa, và đây là cách không dùng chữ nghĩa.


Chữ nghĩa rất có giới hạn, mù mờ, méo mó, không bao giờ thực sự rõ ràng, lý luận kiểu nào cũng được, cho nên dạy bằng chữ và học bằng chữ, nhiều khi chẳng đi được đến đâu, mà học trò có thể càng học thì càng lạc vì cứ bám chặt vào từ ngữ mà không nắm được “cái thần” mà thầy muốn chuyển tải. Như là cứ chú ý 100% về áo quần của một người, mà chẳng biết gì về người đó.


Các bạn cũng đã kinh nghiệm nhiều về điều này, như khi ta nói một điều mà người khác hiểu ta một nẻo, và sinh ra gây gổ. Trong khoa học quản lý người ta nói “80% các vấn đề của một công ty là vấn đề truyền thông” (80% of the problems of a company are communication problems). Những vấn đề này có hai loại: (1) không nói, và (2) khi nói thì ông nói gà bà hiểu vịt.


Cho nên chữ nghĩa rất có giới hạn. Chúng ta phải dùng chữ nghĩa và lời nói hàng ngày, thì phải dùng. Nhưng cần nhớ, hiểu lầm là chuyện thông thường hơn cơm bữa. Ngay một câu giản dị “Em thông tin cho anh thường xuyên nhé.” Hai tháng sau anh hỏi: “Em làm tới đâu rồi, sao anh chẳng thấy thông tin gì hết? Anh nói thông tin cho anh thường xuyên mà.” “Ô, em tưởng thường xuyên là khoảng 3 tháng một lần.” “Anh nghĩ là 2 tuần một lần thì tốt hơn.”


Trong đời sống tâm linh, mọi thứ đều là trừu tượng, cho nên hiểu lầm có thể xảy ra gần như là trong MỖI câu, đọc một bài 100 câu thì có thể hiểu sai hết 60 câu trong đó, và sai vĩnh viễn, cả đời. (Đó là chưa nói nếu thầy hiểu sai, thì mọi trò đều hiểu sai, và cấp độ sai sẽ càng ngày càng cao với các thế hệ học trò hậu duệ).


Cho nên phải nắm được “cái thần”, cái tinh yếu của bài học, chứ đừng dính vào chữ nghĩa. Phật dạy yêu người thì yêu mọi người, đừng đánh con người ta sặc máu mũi rồi nói: “Em đánh vậy để cho nó một bài học tốt, đó là em yêu người mà.”


Đừng nói yêu người bằng cái miệng, tức là chỉ bằng lời. Nếu bạn yêu vợ bạn, con bạn, thì yêu bằng hành động – về nhà ăn tối thường xuyên, chăm sóc mọi người thường xuyên… Đừng có đi làm đến mức chẳng ai trong nhà thấy được mặt bạn lúc nào, và mỗi năm thấy mặt bạn và bó hoa chỉ vào ngày 8/3.


Vì ngôn ngữ có vấn đề, và nhiều người trên thế giới cứ bám cứng vào từ ngữ để đi lạc vĩnh viễn, Thiền tông có cách dạy “không lời, không chữ.” Mình nghĩ có lẽ vẫn dùng lời để dạy nhau vài điều, nhưng không lệ thuộc vào kinh sách, mà chỉ chú tâm vào người học trò thấy được bản tánh thật của anh ta.


Chỉ thẳng chân tâm. Chỉ thẳng vào trái tim thật của mình. Có người viết là “trực chỉ nhân tâm – chỉ thẳng tâm người”, nhưng có lẽ câu này không đúng, vì chữ nhân (người) bị dư. Đương nhiên là chỉ thẳng tâm người học trò, chẳng lẽ lại chỉ thẳng tâm chó, mèo trong nhà.


Nhưng, chỉ thẳng chân tâm (tâm thật) vì còn có vọng tâm (tâm sai), là tâm còn si mê, suy nghĩ đầy tham sân si, tức là nhiều vọng tưởng (tư tưởng sai). Như là tham tiền, chạy theo chức vụ, chạy theo quyền lực… và cho rằng chạy theo những thứ đó là yêu gia đình mình, hay là hạnh phúc.


Tâm thật là trái tim tinh khiết, đầy yêu thương, trái tim nguyên thủy của mình.


Nhưng ai “chỉ thẳng tâm thật”? Thầy chỉ tâm học trò cho học trò thấy? Hay học trò tự chỉ thẳng tâm mình? Và chỉ thế nào?


Chúng ta có câu chuyện về Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Khả, học trò đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma và là tổ thứ 2 của Thiền tông Trung Quốc:


Huệ Khả nói: “Con không an được tâm, xin thầy an tâm cho con.”

Đạt Ma bảo: “Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho.”

Sư đáp: “Con không thấy tâm đâu cả.”

Đạt Ma đáp: “Ta đã an tâm cho con.”


Trong đối thoại ngắn ngủi này, Bồ Đề Đạt Ma đã làm hai việc: (1) chỉ cho Huệ Khả biết mình làm chủ tâm mình, (2) chỉ cho Huệ Khả tìm đến tâm thật của Huệ Khả.


Tâm của con, con chẳng đưa được cho thầy, thì thầy làm gì với tâm con được. Con là chủ của tâm con, con muốn làm gì với tâm con thì con làm. Thầy chẳng làm gì được.


Con chẳng thấy tâm đâu cả, thì con cũng chẳng thấy được cái bất an ở đâu cả. Nghĩa là bất an của con không có thật, đó là vọng tưởng. Và tâm bất an cũng không có thật, đó là vọng tưởng, vọng tâm. Con chỉ cần dẹp vọng tưởng, dẹp suy nghĩ lăng nhăng đi, thì không còn vọng tưởng, thì tâm con sẽ an. Thầy đã chỉ con cách cho tâm an rồi đó. Con làm đi.


Và khi con bỏ hết được mọi thứ lăng nhăng trong đầu làm con bất an như thế, thì đó là tâm thật, chân tâm, tâm Phật của con.


Thầy có thể chỉ trò cách bỏ vọng tâm để thấy chân tâm. Nhưng trò phải là người làm. Trò phải dẹp mọi vọng tưởng, để có thể thấy tâm thật của mình. Thầy không làm thay trò điều đó được.


Cho nên chữ “chỉ” trong “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” phải là học trò chỉ thẳng vào tâm thật của trò. Thầy chẳng làm điều đó cho trò được.


Kiến tánh thành Phật. Thấy chân tâm, là thấy được bản tánh của con, vì chân tâm chính là bản tánh. Bản tánh thật của con là Phật, thấy được tánh đó thì thành Phật.


Các bạn, từ nói về hành động quan trọng nhất ở câu này là “kiến” – thấy rõ. Thấy rõ bản tánh thì thành Phật.


Đây là điều rất ít người nắm được. Chỉ “thấy” mà “thành.” Xưa nay có ai nói vậy? Thấy bản tánh của em thì em thành tiến sĩ. Hay thành hoa hậu. Hay thành bác sĩ. Nghe đã khó trôi rồi, nói gì đến thành Phật.


Có lẽ nhiều người nói đến câu này nhưng không hiểu được tầm mức bom hạt nhân của chữ “kiến”. Làm sao thấy mà thành được? Sao mà em soi gương thấy em mà em thành hoa hậu được trong khi ảnh em trong gương thì như cô bé lọ lem?


Nhưng thế giới tâm linh là thế giới của phép lạ, của những điều phi thường.


Em là con vua, nhưng vì vua cha đã bị gian thần giết lúc em còn sơ sinh, em được một cung nữ mang lên miền rừng núi ở, đóng vai mẹ của em, để trốn tránh. Bây giờ em đã 18, bỗng nhiên có nhiều người lạ – tiều phu, thầy thuốc, người bán vải… – thỉnh thoảng đến thăm và nói cho em biết họ trước kia là tướng của cha em, đã nhiều năm trốn tránh, nay em đã lớn khôn, họ muốn em biết em là thái tử và muốn em đứng đầu cho họ để giành lại sơn hà xã tắc vua cha để lại.


Đương nhiên là em chới với vì cảm thấy như mình đang ở trong truyện Phong Thần. Nhưng từ từ em “thấy” được mình là thái tử, “tin” rằng mình là thái tử, và em “hành xử” như thái tử suy tính việc lấy lại cơ đồ cho cha.


Các bạn, chữ “thấy” này không phải là chỉ thấy bằng mắt, hoặc bằng lý luận, hay cả trí tuệ, mà còn là thấy đến mức “tin”. Chưa tin là chưa thấy đến nơi.


Nếu ta tin ta là Phật, thì đương nhiên là ta sống như Phật, với tư duy của Phật, và như thế có nghĩa là thành Phật.


Nếu em tin em là thái tử, mà vẫn hằng đêm đi ăn trộm, thì đương nhiên đó là em chỉ tin bằng cái miệng, chứ chẳng tin bằng cả trái tim, cả trí óc, cả linh hồn. Nếu em tin thật sự, em sẽ bắt đầu hành xử như thái tử với một gánh nặng sơn hà trên vai.


Các bạn, chữ “thấy” với nghĩa “tin” này rất rốt ráo trong đời sống tâm linh, vì nó giúp ta “hành xử” để đến đỉnh điểm cuối cùng.


Nhưng làm sao để thấy thật và sâu được như thế?


Các bạn, có lẽ muốn thấy trái tim thật của ta, thì ta phải có trái tim thật dễ thấy. Nếu trái tim ta còn đầy tham sân si che lấp, có lẽ ta chẳng thể thấy trái tim thật của ta. Phải hết tham sân si che mắt, che trí và che tim, thì ta mới có thể thấy trái tim thật của ta.


Hay nói một cách khác, ta phải có trái tim đầy tình yêu đầy từ tâm rõ ràng, tức là tâm thật của ta, trước khi ta có thể thấy tâm thật của ta.


Nếu tư duy (tức con mắt trí tuệ) của ta tràn đầy tham sân si, thì ta chẳng thể kiến tánh để mà thành Phật được. Muốn kiến tánh thì phải không có tham sân si che mất mắt và che mất tánh.


Cho nên nếu chúng ta chỉ đọc câu “kiến tánh thành Phật” khi trong lòng đầy tham sân si, thì ta chẳng thể kiến và thành gì cả.


Hết tham sân si thì ta không còn gì che mờ mắt và che mờ trái tim. Nên ta có thể thấy (kiến) được trái tim trong sáng, tức trái tim Phật, của mình. Và đó chính là “kiến” được “tánh” của mình – bản tánh nguyên thủy của mình là bản tánh Phật. Và kiến tánh Phật như thế thì thành Phật.


Hay, thực ra là ta đã “thành” Phật rồi, thì mới “thấy” mình thành Phật?


Thiền tông lục tổ Huệ Năng không biết đọc không biết viết, nhưng nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” thì liền giác ngộ. Hay, thật ra, Huệ Năng đã ngộ trong tư duy và hành động rồi, nay nghe câu ấy thì hiểu được câu ấy ngay, vì đó đã là cách sống của Huệ Năng?


Phải chăng ta phải yêu trước khi có thể hiểu được yêu có nghĩa là gì?


Chúc các bạn luôn sống với bản tánh Phật của mình.


Mến,


Hoành


© copyright 2018

Trần Đình Hoành

Permitted for non-commercial use

www.dotchuoinon.com

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 13, 2018 19:18

Trần Đình Hoành's Blog

Trần Đình Hoành
Trần Đình Hoành isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Trần Đình Hoành's blog with rss.