Vương Trí Nhàn's Blog, page 73

July 27, 2014

Tiếp nhận và vận dụng lý luận trong nghiên cứu văn học hiện nay

Trong bài viết này, tôi tập trung  nêu một  số nhận xét cụ thể:

  --  mấy
chục năm qua, đời sống lý luận có  nhiều
sôi động bởi đó  là do nhu cầu xã hội đòi
hỏi. Song được như thế một phần, là nhờ dịch của nước ngoài ; về căn bản ta chỉ mang những cái học được ra áp
dụng ; 
mà trong  việc vận dụng cũng đang
có  nhiều điều bất cập.

--  sự phát triển lý luận vẫn chưa có gì đáng kể
; lại đã xuất hiện tình trạng khoe mẽ,
làm dáng, thói láu cá phản khoa học.

 --  Những  căn bệnh này vốn có trong tư duy lý luận các
thế hệ cũ nay được tái phát và trở nên trầm trọng hơn.

                    

                  

                                                 


một ít tiền đề lịch sử

      “Trong
lịch sử văn học nước ta  cũng có khi người ta chuyên luận về triết học, nhưng ít
thôi ; dường như đây không phải là truyền thống lớn của ông cha ta
“ (1).

      “ Tổ
tiên ta ít làm lý luận … Sự phân công lao động xã hội không đủ mạnh, không đủ
triệt để, để hình thành một tầng lớp lao động trí óc, làm công việc xây dựng các
phạm trù  và hệ thống tư tưởng
“ (2)

     Những nhận xét thẳng thừng nói trên là của Trần Văn Giàu và Hà Văn Tấn. Các ông phát biểu khi bàn chung về lịch sử tư tưởng Việt Nam.

    Song
sự khái quát của các ông cũng  đúng với cả  tình hình tư tưởng, tình hình
lý luận  văn chương.

     Và
điều quan trọng, nó không phải chỉ đúng trong thời trung đại, khi sự
sáng tác nằm trong quy luật của một nghề thủ công, mà còn đúng cả khi bước sang
thời hiện đại.
     Nửa
đầu thế kỷ XX,  chứng kiến sự ra đời
của  lý luận phê bình như một bộ môn độc
lập của văn học Việt Nam
hiện đại. Có điều manh nha ra đời chứ chưa phải phát triển như lẽ ra nó phải
có.  Ai cũng nhận  hai cuốn sách thành công nhất của lý luận phê bình thời kỳ 32-45 là Thi nhân VN 1932-41 của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, song
nhìn vào thì một cuốn nặng về cảm thụ, một cuốn kỹ càng tỉ mỉ trong việc bình
giá tác phẩm, chứ không phải  mạnh về
khái quát quá trình văn học. Chưa hề có một cuốn nghiên cứu vừa bám sát đời sống văn học, vừa
mang đậm chất lý luận.


    Tình trạng lom đom lệt bệt của lý luận không phải vấn đề riêng của giới cầm bút, mà còn là vấn đề chung của xã
hội lúc ấy.

     Năm
1938, Việt nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh in ra, thì năm sau, Hoài
Thanh có bài giới thiệu trên tạp chí Tao Đàn.

    Trong phần cuối bài viết này, sau khi bảo rằng đọc lịch sử văn hoá Việt Nam là một điều cần thiết,
Hoài Thanh lấy làm tiếc là dư luận đang
thờ ơ lạnh lùng với quyển sách. Theo ông,
sách khảo cứu thì công chúng xứ ta mấy
năm gần đây tuồng như không muốn biết
đến nữa. Người ta chỉ xem những thứ  gì
không  cần phải nghiền ngẫm suy nghĩ ;
người ta chỉ xem  để giết thì giờ, để
giải trí  không có mục đích gì khác
  “ (3) .

   Tức là một cách sống, cách  làm 
văn học theo kiểu trung đại  vẫn đang ngự trị.

    Hơn nửa thế kỷ sau, trong một cuốn sách
bàn về một vấn đề lớn của văn hoá và in
ra năm 2004, có người còn viết:“Khái niệm tư duy hầu như không tồn tại trong
truyền thống tư tưởng Việt Nam
“. (4).

     Nghe như một câu ngẫu nhiên buột miệng,
rồi vô ý viết ra mà quên không xoá bỏ, -- nhưng không phải trong đó không có
rất nhiều  sự thực.

  

 Những bước vận động 


     Trên cái nền mạch như thế, có thể nhận ra
đường dây phát triển lý luận phê bình
trong đời sống văn học từ sau 1945, về một phương diện nào đó như là có sự bùng nổ. Có dịp giở lại tạp chí iên
phong
ra hồi 1945-46, hoặc tạp chí Văn
nghệ
 ra trong kháng chiến chống Pháp, người ta dễ
dàng nhận thấy là phần sáng tác chỉ chiếm một bộ phận nhỏ, không đến non nửa. Ví dụ mỗi số như vậy chỉ có một hai truyện ngắn, dăm bảy bài thơ; mà phê bình
theo nghĩa hẹp cũng chưa có thể viết
nhiều vì chưa có tác phẩm. Phần chính ở đây là các bài  tiểu luận nêu ý kiến, thảo luận bàn bạc trao đổi về văn chương văn hoá.

     Hơn bao giờ hết, với sự thay đổi mà cách
mạng mang lại, người ta cảm thấy cuộc sống hôm nay sẽ khác hôm qua, cách làm
văn nghệ cũng khác. Chí ít thì việc cầm
bút  không chỉ được phép dựa vào thói
quen, mà còn cần đến rất nhiều suy xét phán đoán.

     Nên nhớ là vào thời điểm đó, ngay cả những
người xưa nay không mấy khi dùng đến lý tính, cũng bắt buộc phải làm quen với
nó.

     Trong truyện ngắn Đôi mắt  viết năm 1948, Nam Cao, qua miệng nhân vật
Hoàng, từng ghi lại cái  tình trạng mà
trước 1945 không ai hình dung nổi :“Viết chữ
quốc ngữ sai  vần mà  lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả
lên. Mở miệng ra là thấy
đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực
dân, phát xít,  phản động, xã hội
chủ  nghĩa, dân chủ với  cả tân dân dân chủ
nữa, mới khổ thiên hạ chứ.”

      Thật dễ mỉm cười  khi nghe những người chỉ quen với việc đồng
áng cấy cày nói vậy.

      Song, trong lịch sử, cái mới bao giờ chẳng đến
như là một cái gì lạ lẫm  kỳ cục! Thành
thử, nếu như bảo rằng tình trạng mà Nam Cao mô tả cũng là tình trạng xảy ra ở nhiều lĩnh vực khác trong đó có 
lĩnh vực văn chương, thì có gì là khó hiểu?

     Phải nhận đây là những nét mới của thời đại.

     Xu thế đi vào lý luận có từ văn nghệ kháng chiến như thế này lại sẽ được tiếp tục tự nhiên từ sau hoà bình lập lại 1954.  Nhu cầu của xã hội  kéo đến đâu công tác nghiên cứu  khởi động và phát triển theo đến đấy. Trong
khi đời sống sáng tác có những biến chuyển thì trong các nhà trường, các chương
trình lý luận được biên soạn và chí ít đã hình thành nên cả một bộ môn học
ở  đại học cũng như ở các lớp viết văn
cấp tốc.

    Tôi
nhớ vào khoảng 1973-1974, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn
cuối,  bắt đầu có một số Việt kiều về
thăm Hà Nội và có đến gặp các cán bộ đang chủ trì Hội nhà văn Việt Nam. Người
đứng đầu Hội là Nguyễn Đình Thi thường kể với bọn nhà báo chúng tôi là trong
những lần ấy, ngoài các sách sáng tác, mấy anh chị em ở xứ người trở về thường
không quên đề nghị giới thiệu cho họ biết những cuốn sách lý luận quan trọng.
Một nền văn học bộc lộ qua cái phần tự ý thức mà nền văn học đó tuyên bố, điều
đó đáng quan tâm lắm chứ !

      Song, sẽ là quá sớm và có phần lạc quan
tếu, nếu bảo rằng từ đấy chúng ta đã có một nền lý luận độc lập. Hệ luận chủ
yếu mà người ta có thể rút ra  khi  nhìn lại sinh hoạt lý luận lúc này, đó là việc phát triển lý luận  một thời gian dài, rút lại, quy vào việc du nhập lý luận của nước ngoài. Tức là xem xem ở những
nước có nền văn chương mà chúng ta muốn học, người ta làm thế nào, thì lựa lời
nói lại, rồi  tìm cách làm theo. Một cách
tự nhiên, thấy diễn ra cái  tình hình Hà
Văn Tấn đã miêu tả. Theo ông, trong lịch
sử tư tưởng, luôn luôn xảy ra  quá trình
nội sinh hoá các yếu tố ngoại sinh; cũng tức là du nhập các hệ tư tưởng từ xa tới, mài giũa chúng cho phù hợp với nhu cầu trong
nước
(5).  

 

Đã chính xác chưa?      

   Một mảng sách lớn trong văn học Việt Nam
hiện đại là sách dịch thuật. Nhưng sau một thời gian mải miết đọc, nay đã tới lúc
mọi người bắt đầu nhìn nhau tự hỏi:

  --Hình như hoạt động được coi là quan trọng này đang trong tình trạng bột phát
ngẫu nhiên, gặp đâu làm đấy ?

   --Liệu có chắc thứ văn học mà chúng ta đã
dịch là bộ mặt chân thực của văn học thế giới nghĩa là ta đã hiểu đúng thế giới? Nếu chưa thì tại sao? Và nếu hiểu sai
thì liệu có khả năng rồi ra chúng ta sẽ hiểu đúng về kẻ khác?

    Trong
việc tiếp nhận những cái hay cái đẹp của người, có phải đang có những lý do cụ thể nó hạn chế chúng ta lại ?

     Đại thể đó cũng là những vấn đề của sự
tiếp nhận  lý luận phê bình.

    Có những chuyện mà bỏ qua thì thôi
không nói làm gì, nhưng khái quát lên thì quả là những vấn đề ta phải băn khoăn. Tôi lấy một ví dụ có liên quan
đến phần nguyên lý sáng tác:

     Ngay từ những năm trước 1975, có một “lời
nói có cánh“ mà các nhà thơ tiền chiến như Chế Lan Viên, Tế Hanh … vốn rất
thạo tiếng Pháp và đọc nhiều lý luận về thơ phương Tây thường dẫn ra, xem như
một phương hướng mà lớp người lúc đó còn trẻ 
là bọn chúng tôi phải nghe theo “Thơ nào cũng là thơ thời sự “— lúc nói
điều này, các ông dẫn nguyên văn tiếng Pháp tôi còn nhớ lõm bõm như sau “Toute poésie est poésie de
circonstance


      Câu nói cô đúc như một nắm đấm thật chặt.
Người nói lại là một nhà thơ cổ điển. Thuyết phục quá chứ gì !

    Sau này chúng tôi mới biết thực ra trong
câu khái quát trên, chữ circonstance 
có nghĩa là trường hợp, cảnh ngộ …, poésie de circonstance có nghĩa là thơ gắn với một tình huống, một sự
việc cụ thể.

    Nó có tính trung hoà, do đó khác hẳn so với hai chữ thơ thời sự vốn có
cái nghĩa rất riêng mà những ai  sống với
văn học trước 1975 hẳn nhớ: thơ phải bám sát các sự kiện  xã hội, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị do lãnh
đạo quy định. 

    Từ cái việc có vẻ nhỏ bé, không đâu vào
đâu này, thỉnh thoảng trong tôi không khỏi thoáng qua một thoáng giật mình: 

     Liệu những tư tưởng mới mẻ và tên tuổi xa lạ mà chúng ta được nghe giới thiệu
hàng ngày--- và nếu nghiêm túc mà xét, thì cả những tư tưởng sâu sắc mà chúng ta tiếp thụ được từ các sách
vở gọi là kinh điển ---, tất cả đã được truyền thụ chính xác?

    Hay nhiều khi ngay cả những người trong nghề vẫn chưa ra thoát tình trạng của ông cha ta ngày xưa, tức là mê man giữa những núi sách của nước
ngoài, rồi phỏng đoán, hiểu lệch, chép
vội chépvàng và  lo truyền thụ cho nhau theo kiểu ếch cõng
nhái
, cốt  học cho nhanh, và đành
chấp nhận là đã  tạo ra không ít sai lạc.


     Rồi lại còn những trường hợp cố tình lái ý
người ta theo cái chủ đích rất chân thành rất có thiện chí của mình, nhưng hoá
ra lại đưa nguyên ý đi rất xa so với chính nó !

     Tại hội nghị phê bình diễn ra ở Tam Đảo, tháng 8-2003, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân
đã có một bài tham luận, trong đó nhấn mạnh 
khi tiếp thụ  lý luận nước ngoài,
cần phải có quan điểm phê phán. Ai cũng thấy nói thế là đúng, xưa nay mọi người
vẫn nói thế, nhưng đôi lúc tôi vẫn muốn đặt thêm vào đây vài câu hỏi: 

 --trước khi
phê phán người, liệu ta có bảo đảm chắc chắn là đọc đúng hiểu đúng người?

 -- và
nếu không tiếp thụ chính xác thì việc phê phán còn có ý nghĩa gì nữa?




Từ những hạn chế trong tiếp nhận …

      Trong Lời nói đầu của  cuốn Sự phát triển của  tư tưởng Việt Nam,  sau đoạn mà phần trên chúng tôi đã dẫn, Trần
Văn Giàu còn nói thêm :“Ông cha chúng ta
ít viết về lý luận, trừ việc giải thích
hay bình kinh điển, cũng ít trình bày những vấn đề lý luận một cách có
hệ thống và chi tiết, dường như ngầm 
hiểu rằng  thánh hiền đã nói hết
rồi chỉ cần học và làm theo“
 .(6)

    Nói nôm na, tức các cụ xưa chỉ làm lý luận
cho phải phép, và chỉ giải thích kinh
điển chứ không ai tính chuyện phát triển kinh điển.

   Sau đây là một nhận xét đáng lưu tâm, chúng tôi đọc được trong một bài viết về sự tiếp nhận
Phật giáo ở Việt Nam.


    Theo Như Hạnh Nguyễn Tử Cường, khi tìm hiểu
Phật giáo, các nhà nho xưa ở ta không hiểu nhiều lắm về những văn bản gốc của
Ấn Độ  và thường tuỳ tiện mang cho nó một
màu sắc bản địa.

     Thứ
nữa, ở nhiều người,  thấy có sự mê hoặc
văn chương, hơn là một  phát triển tôn
giáo. Chỉ thích tìm về những danh tác nhằm thoả mãn cái thú yêu thích thơ văn. Trong nhận thức
luận, thích đề cao sự ngộ, tức
là hiểu biết có tính chất đột khởi, bừng
tỉnh, bỗng dưng  nắm được chân lý, mà
không thích nói tới công phu học hỏi chắc thiệt lâu dài
(7).

    Chớ nên quên rằng một đặc điểm nữa của việc
tiếp thụ lý luận vốn có từ thời trung đại là sách vở kinh điển thường
được đưa vào theo lối thu gọn, tóm tắt.Trong khi ở bênTàu người ta làm ra
những bộ đại toàn, đại hệ, thìở ta chỉ có những bộ toát ước.
Các cụ xưa muốn nhiều thứ quá, mà lại không có điều kiện, nên đành bằng lòng
với việc lướt qua chobiết mà  không dừng
lại ở cái gì thật kỹ càng.

     Lối tiếp nhận ấy đến nay vẫn còn tồn tại.
Trong chỗ riêng tư, và đôi khi ngay tại
các hội nghị từ 1986 về trước, tôi nhớ các nhà lý luận mà tôi có quen đã có lúc nói thẳng là chúng ta thường lấy
việc trở về với kinh điển là đủ, trong khi đáng lẽ phải xuất phát từ kinh điển để đi tiếp.

    Thông tin thì có, nhưng may lắm chỉ thấy nói người nọ người kia vừa đọc được một
ít cái mới, chứ gần như chưa có ai đáng gọi là người đẩy được lý luận tới
những giới hạn mới. Đến khi cần truyền thụ lại cho nhau thì sách vở được biên soạn theo lối chụp giật, đi đường tắt, dùng những trung gian chưa hẳn đã đáng tin cậy.

    Cách làm ăn
như thế đã thành một thứ học phong, tức một tác phong làm việc không dễ
từ bỏ.

     Đến lượt nó, một  sự du nhập lý
luận cẩu thả, tuỳ tiện… chắc chắn thành mầm gây bệnh. Sự rập khuôn tầm thường xen lẫn với lối ăn sống nuốt tươi
thô bạo đều đã xuất hiện. Và một khi những con đường lặp đi lặp lại mòn mỏi tự
nó đã hình thành  thì người ta 
kẻ trước người sau sẽ cứ mải miết 
mà đi, công việc cuốn người ta
đi, lý luận chỉ còn là một thứ trang sức cần thiết chứ mấy ai còn muốn nghĩ về
nó một cách nghiêm túc ? 




…   đến những sai lệch 
trong vận  dụng


      Còn nhớ, có lần Vũ Trọng Phụng đã  tung ra một truyện ngắn khái quát óc tư duy
của dân mình bộc lộ qua đám người có
học, và hay lý sự.

      Nó có cái tên hơi trừu tượng:Từ lý
thuyết  đến thực hành
.(8)

      Đại
thể đây là câu chuyện một người  ra sức
bênh vực cho các quan niệm Âu hoá, cụ thể là chấp nhận cho phụ nữ có quyền ngoại
tình, ấy vậy mà đến khi bị vợ cho cắm
sừng thì anh ta lại buồn thiu.

      Thông thường nhiều người cho rằng mục đích của
tác giả là chế giễu hiện tượng nói một đằng làm một nẻo.

     Song
theo tôi, ý nghĩa thiên truyện nằm ở đoạn cuối, khi tác giả trực tiếp trình bày cái 
cảm tưởng còn lại trong tâm trí mình “…Bỗng đâu tôi cũng chán đời. Và
hoài nghi. Thật thế, tôi tin rằng đất
Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết  và tư tưởng ở đâu đâu,  tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là
thành thối nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều  tín ngưỡng nào một quan niệm chắc chắn gì.


    Cố nhiên rồi mai đây, mọi việc sẽ khác đi, và
sẽ tới lúc người ta làm được những điều 
tốt đẹp, đủ để xem như bằng chứng bác bỏ một cách thuyết phục cái cảm
tưởng hoài nghi nói trên của Vũ Trọng Phụng.

    Nhưng cái ngày đó chưa đến, và tới hôm nay
có vẻ như Vũ Trọng Phụng vẫn đúng.

    Xin được bắt đầu bằng một dẫn chứng đã
cũ:   

    Không chịu dừng lại ở công việc cảm thụ, từ trước 1945, một số người làm nghiên cứu  phê bình đã tìm cách đưa những lý luận mới
vào nghiên cứu văn học. Nguyễn Bách Khoa
tức Trương Tửu từng nổi tiếng với việc áp dụng cả những luận điểm mác-xít lẫn
phân tâm học để lý giải Truyện Kiều. Sức làm việc hơn người nơi ông được bổ sung một  sự nhạy cảm hiếm có với cái mới. Trong khi nhiều đồng nghiệp  khác thiên về cảm tính thì ông nổi lên như
một nhà khoa học uyên bác.

    Thế nhưng 
đọc lại những cuốn Nguyễn Bách Khoa viết về Truyện Kiều,  thấy ông không ra khỏi cách áp dụng gượng
gạo, thậm chí có chút gì đó như là cưỡng bức lý luận phải khuôn theo ý mình. 

    Ông bảo Nguyễn Du là một người mắc bệnh thần kinh, Kiều
là một con bệnh uỷ hoàng và u uất

(Nguyễn Du và Truyện Kiều) (9).

    Rồi, nương theo một vài ý kiến đọc được đây
đó, ông nói theo lối hàm hồ rằng chất thơ là một chất quý tộc, yếu tố nền móng của chất thơ là cuộc đời ký sinh, biến
thái  cuối cùng của chất thơ là một trạng
thái bại hoại về thần kinh hệ

( Văn chương Truyện Kiều) (10).


    Những nhận xét tuỳ tiện này không ngẫu nhiên có mặt trong các trang
sách, mà tồn tại như một hệ thống lập luận nhất quán, và tác giả tỏ ra rất hài
lòng về những phát hiện của mình.

    Trong thuở ban đầu mới  làm quen với 
tính khoa học, mọi chuyện ở ta hiện ra như thế đấy ! Đọc sách, người
ta  không khỏi ngán ngẩm cho số phận cái
mới vào Việt Nam,
thật nó dễ  bị dày vò và bị làm hỏng đến như thế nào. 

    Điều đáng nói là ở chỗ căn bệnh trên không
phải của riêng Nguyễn Bách Khoa và những người cùng thời. Hơn nửa thế kỷ đã
trôi qua, song trong giới ưa nói lý luận hôm nay, cái việc làm theo kiểu Nguyễn
Bách Khoa chẳng những không tuyệt nọc mà lại có những diễn biến mới


    Có thể
bệnh không quá đáng không sống sượng như người đi trước, mà  chỉ bộc lộ 
ở  những dạng thức đơn giản hơn,
người ta dễ bỏ qua hơn hoặc nói chung là dễ tha thứ, dễ chấp nhận hơn. Nhưng nhờ vậy mà ở anh ở tôi, ở mỗi chúng ta, nó tồn tại một cách dai
dẳng, mỗi người đều có dây dưa ít nhiều, và có vẻ như  mọi người 
đã ngầm thoả thuận với nhau rằng quên đi cho xong, chứ 
lấy đâu ra thời gian và sức lực để 
ngồi  tính sổ một cách sòng phẳng
?!

    Có thể cắt nghĩa cái sự sống sượng nói trên
bằng những thói quen  tâm lý  đã hình thành ở một số nhà nghiên cứu háo
danh. Sự có mặt  của  tính vụ lợi ở họ không có cách nào che giấu.
Mà  biểu hiện của nó thì thật  muôn hình muôn vẻ. Chung quanh những cái đang
trở thành thời thượng, tức được xem như mới mẻ nhất tiên tiến nhất của nước
ngoài, người ta chạy đua để tìm cách chụp giật, nhận vơ về mình, làm như chính
mình nghĩ ra, hoặc  làm như chỉ nhắc
đến  tên 
của những lý luận ấy đã đủ là hơn người rồi. Ngược lại, nghe ngóng rằng
những tư tưởng nào đó có vấn đề thì chưa biết nếp tẻ ra sao cũng lao vào đánh
hôi
. Có thể đoán thoạt đầu, đây chẳng qua chỉ là một cách để tự đề cao. Song suy đến cùng thì bên trong
thấy ẩn giấu cả một chút  loè  bịp, cơ hội.

    Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận thêm một sự
thực rằng việc vận dụng lý luận vốn là một loại tài năng và có thể nói là chúng
ta thường chưa biết sợ, chưa nhận thức hết cái khó của nó. 

     Trong đời sống khi so sánh
một người chỉ có chiếc xe đạp, nhưng bon bon trên đường, với người có một chiếc
xe máy loại sang trọng, nhưng đi đứng xẹo xọ, lái không vững, chạy không đều,
đổ ngã lúc nào không biết …  thông thường
mối thiện cảm của  chúng ta  là dành cho người thứ nhất chứ không phải
người thứ hai.

    Trong nghiên cứu khoa học đáng lẽ cũng phải cũng vậy, nhưng hiện
có tâm lý nghe ai nói được vài câu lý luận mới, chưa biết nếp tẻ sao mọi người
đã phục lăn, còn người ngồi nghiên cứu cho thành thục những lý luận cũ để áp
dụng cho thấu đáo bị coi thường, kết quả là kiểu làm lý luận theo lối chạy xô có cơ ngày càng phát triển. 




Một ít 
tâm sự  


      Tôi
có cảm tưởng nhiều bạn trẻ đang tập tành thành nhà nghiên cứu hiện nay muốn đi
vào lý luận. Trong khi đó thì cái vốn văn học sử mà các bạn đó có được còn rất
mỏng mảnh.

     Các bạn hình như không biết, hoặc không được ai giảng cho biết, để rồi cố không muốn biết, rằng mọi thứ
lý luận đều bắt nguồn từ sự phát triển của văn học, tương tự như mỗi giống cây lớn lên từ một mảnh đất cụ thể.

     Chẳng hạn, muốn hiểu chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa—kể cả
hiểu để từ chối nó và phê phán nó
 — thì
trước tiên phải nắm rất vững văn học xô viết và văn học các nước Đông Âu trước
1989.

     Hoặc muốn hiểu Bakhtin và thi pháp thì phải đọc cho nát cả ông Đốt lẫn các sách vở viết về Đốt, cũng như có những hiểu biết chính xác về tình trạng của khoa nghiên cứu văn học ở Nga những năm 1930.

     Gần đây, một thứ lý luận mà hồi trước bị cấm đoán nay trở thành mốt, là mảng lý luận
phương Tây hiện đại.

     Có
lần tôi được đọc một công trình nghiên
cứu của một bạn trẻ muốn đi vào khảo
sát  sự hình thành văn xuôi Việt nam ba
mươi năm đầu thế kỷ XX. Trong phần giáo đầu, tác giả trình ra những tư tưởng mà
mình dựa vào để làm việc. Người sính cái mới có thể hào hứng vì  thấy dẫn
ra toàn là  lý luận của những tên tuổi lớn trong khoa
nghiên cứu văn học thế giới:T.Todorov và R.Jakobson, Ch.Caudwell và G.
Genette….

     Nhưng riêng tôi cứ thấy những nguyên lý lý
luận kia vốn xuất phát từ văn học Tây Âu hiện đại, tốt hơn hết là để áp dụng cho
các nơi mà ảnh hưởng văn học phương Tây đã đến độ chín. Chứ đối với một số tác phẩm xuất hiện trong giai đoạn tập tành của nền văn xuôi hiện đại
vừa mới xuất hiện như văn học Việt Nam
thời Tố Tâm trở về trước, thấy nó
không hợp. Cố ép mà vận dụng nó, nào khác kẻ học làm sang.Trong trường hợp này, tôi nghĩ những lý thuyết về sự giao thoa, tiếp
biến văn hoá, và quá trình hiện đại hoá các nền văn học trung đại, nếu được vận
dụng sẽ có lý hơn. 

     Lại như việc gần đây nhân các lý thuyết
hậu hiện đại bắt đầu được dịch in, có người muốn tỏ ra thức thời đã mau mắn hô
lên rằng những tìm tòi kiểu này cũng đang xảy ra ở ta, ngụ ý ta đây chẳng kém gì người, ta đang nhịp bước cùng
thế giới. 

     Trong khi ấy, theo sự tìm  hiểu
của một số chuyên gia chín chắn, ta đang
ở vào một giai đoạn khác hẳn. 

     Lối áp dụng khiên cưỡng nói trên vốn xuất
phát từ sự non yếu trong trình độ:Ta biết ít quá, và thấy cái gì cũng hay cũng
đẹp, cũng nên học theo. 

     Song chắc cũng
không sai nếu bảo ta chưa thoát khỏi những thói quen có tự nhiều đời  truyền lại, tức là học lỏm và nhận liều.

     Trước khi áp dụng lý luận vào thực tế, cần nhớ  động cơ không đủ biện minh cho hành động và tâm huyết không làm nên hiệu quả.
Và nếu không sợ làm nản  lòng nhau, phải
nói những điều chúng ta hay mang ra khoe 
--- cái sự  tha thiết hết mình của chủ quan nhà nghiên cứu --  chỉ có một ý nghĩa rất nhỏ. 

   Ngay cả khi đã có
mong muốn chân thành và thái độ nghiêm túc, nếu không có định hướng đúng,
người ta vẫn có thể lao mình vào những công việc không mấy triển vọng, hoặc đơn giản hơn là
không đáng đặt nhiều kỳ vọng đến thế. 

    Câu chuyện của tôi là để dành cho các bạn
trẻ muốn nghiên cứu văn học thực sự, có tham vọng muốn cắt nghĩa nền văn học dân tộc cả trong quá khứ lẫn hiện tại, từ đó đóng góp vào sự vận động của văn học và xã hội trong thời gian tới. Còn theo chỗ tôi biết, khuynh hướng
làm lý luận vì lý luận, làm lý luận để chứng tỏ sự sang trọng và năng lực hội nhập mạnh mẽ của nghiên cứu văn học ở ta – khuynh hướng đó đang được nhà nước hiện nay
khuyến khích. Người đi theo khuynh hướng này sẽ dễ dàng trở thành giáo sư tiến
sĩ,  tức có địa vị và được dư luận trọng
nể.

   Với số
bạn đọc loại này – mà tôi biết là chiếm đa số trong giới nghiên cứu trẻ -- bài viết trên và lời
tâm sự cuối cùng của tôi chắc không thích hợp. Nếu các bạn loại đó đã chót vui chân theo
tôi đến những dòng cuối cùng, tôi xin có lời xin lỗi. Hẳn có những giáo sư sẽ bảo với các bạn là đừng nghe tôi xui dại.




 Nguyên
là bài tham luận trong một cuộc hội thảo

tại Viện văn học, 2004.

 Đã in
trong  Vương Trí Nhàn--Phê bình và tiểu luận 2009.

Riêng đoạn cuối mới được viết lại 7-2014







Chú thích

(1)  
Trần
Văn Giàu, Sự phát triển  của tư tưởng
ở Việt Nam
, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1973, tr. 10

(2)  

Văn Tấn,  Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt
Nam và tư tưởng Việt Nam
, in trong Một số vấn đề lý luận về
lịch sử tư tưởng Việt Nam
,
Hà Nội,1984, tr. 29-30

(3)  
In
lại trong Hoài Thanh, Bình luận văn chương 1934-1943,  NXB Giáo dục Hà Nội, 1998, tr.184

(4)  
Huỳnh
Khái Vinh  Nguyễn Thanh Tuấn,  Bàn về khoan dung trong văn hoá,  NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr
230

(5)  

Văn Tấn Sđd, tr.33

(6)  
Trần
Văn Giàu  Sđd, tr.11

(7)  
Hồn Việt **, NXB Văn học,  Hà Nội 
2004, tr. 47-48

    
(8)   Tao đàn 1939,sưu tập
trọn bộ  hai tập, t. II, tr.803

(9) Nguyễn Bách Khoa
Nguyễn Du và Truyện Kiều, 1942, NXB Hàn Thuyên Hà Nội tr. 20. Dẫn lại
theo Đinh Gia Trinh Hoài vọng của lý trí, NXB Văn học, Hà Nội, 1996, tr.
276 



     (10)In
lại  trong Nguyễn Bách Khoa Khoa học
văn chương
,  NXB Văn  hoá thông tin Hà Nội,2003, tr.462
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 27, 2014 02:55

July 21, 2014

"Thành thì đen kịt đốc thì lang .. " hay là sự chuyển đổi phương thức tự sự trong thơ Tú Xương

 Nguyên đây là một câu thơ trong bài  Phố hàng Song

Ở phố Hàng Song thật lắm quan,

Thành thì đen kịt, đốc thì lang

Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố

Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.

 Thành  là tên gọi viên phòng
thành
,  chức quan chỉ huy quân sự một
tỉnh, cũng như đốc học là người phụ trách giáo dục cuả tỉnh. Cả hai nằm trong hàng loạt gương
mặt những con người đương thời mà Tú Xương 
từng phác họa.  

      Là một
ngòi bút trào phúng thực thụ và có bản lĩnh, Tú Xương thường không ngại mang
chính mình ra mà chế giễu. Loạt thơ tự trào, cộng với những bài trữ tình thuần
túy (loại như Sông kia rày đã nên đồng...) gộp cả lại làm nên một
mảng thơ riêng, khá đặc sắc.

     Có điều, dẫu sao, trong số hơn trăm bài
thơ hiện đang lưu truyền và được xác định là của tác giả, các bài thơ “hướng
nội” nói trên chỉ chiếm một phần nhỏ. Ngược lại, nói tới Tú Xương, nhiều khi
người ta nhớ ngay tới loại thơ khắc họa chân dung những người đương thời. Những
bài “hướng ngoại” này thường nói tới một đối tượng cụ thể: một ông phủ, ông đốc
học nào đó trong vùng hoặc một người bạn nào đó của tác giả. Và chúng thường có
nhan đề ngắn gọn (do người sau đặt): Mừng
ông lang, Chế ông huyện, Đùa ông hàn, Bỡn ông Điềm v.v…



Một
phòng triển lãm


Nhận
xét thứ nhất nảy sinh khi người ta đọc loại thơ này: Tú Xương có một phạm vi
quan sát khá rộng. Sống trong một đô thị nhỏ nơi thoát thai từ làng xóm, ông
vẫn giữ được thói quen thường thấy trong sinh hoạt tinh thần nơi thôn xã là để
mắt đến mọi việc xảy ra chung quanh, và sẵn sàng lên tiếng về những chuyện ấy.
Lọt vào kính ngắm thường xuyên của ông là đủ loại nhân vật, từ quan chức đến sư
sãi, từ ông tú ông cử, cho đến đám học trò đang mài đũng quần trong các lớp
bình văn, rồi cô ký, me tây, rồi thầy thông, thầy phán… sơ sơ có thể ước tính
tổng cộng số người được Tú Xương nhắc tới trong các bài thơ đã viết lên tới vài
chục. Tất cả hiện ra như các hình nhân trong một chiếc đèn kéo quân khổng lồ mà
tác giả đã kỳ công vẽ mặt tô mày để kiếm chút niềm vui giữa cuộc đời tẻ nhạt.




Những
nét kỳ dị


Theo
sự ghi nhận của nhà văn Nguyễn Công Hoan – một người nổi tiếng có trí nhớ tốt
và đã một thời gian dạy học ở Nam Định – thì hầu hết các nhân vật được nói tới
trong thơ Tú Xương có địa chỉ thật ở ngoài đời. Các bài thơ đã hình thành như
một cách để tác giả đánh dấu những gương mặt mà mình từng biết và phải chung
sống.

Tuy
nhiên, điều đó không làm hại đến ý nghĩa khái quát mà các chân dung có thể có.

Một
nhận xét nữa nẩy sinh khi đọc loại thơ nhân vật của Tú Xương: trước sau bút
pháp của ông là khá nhất quán. Sự hài hước được nhà thơ sử dụng như một loại “chiếu
yêu kính” tức một công cụ để nhận thức bản chất con người và sự việc.

 Vấn đề
không phải chỉ ở chỗ tác giả thường xuyên miêu tả những thói xấu của các nhân
vật, tức vạch ra sự không bình thường của nó về mặt xã hội (quan lại tham
nhũng, đốc học rong chơi, cờ bạc; sư ở tù; con cái khinh bỉ bố mẹ…). 

Mà điều
quan trọng hơn, là ông biết nhìn ra cả trong mặt mày hình dáng con người cũng
có sự biến dạng.


 Nếu ông chỉ nói ở cái phố hàng Song lắm quan kia, cô Bố “chồng
chung vợ chạ”, ông Hàn “đậu lạy quan xin”, ta thấy đã tài, đã sắc sảo. 

Song con
mắt thi sĩ nơi ông còn nhìn thấy cái nét đặc sắc mà cái nhìn xã hội học dễ bỏ
qua: “Thành thì đen kịt, đốc thì lang”.

 Trong một dịp khác, ông tả người bán
sắt “Mũi nó gồ gồ, trán nó giô”, cũng như ông không tha cả chính mình “Mắt thì
lao láo, mặt thì xanh
”.

 Những câu thơ hơi khang khác này xui người ta nghĩ rằng
hình như trong tiềm thức, tác giả bắt đầu cảm thấy rằng sự méo mó lệch lạc là
nằm tận trong bản chất con người đương thời. Đây nữa, những câu thơ tả sự dở
dang, bất cập, một thứ nửa dơi nửa chuột tiên thiên bất túc không sao sửa chữa
nổi trong con người đương thời,
đại loại:

- Hán
tự không biết Hán


  Tây tự chẳng biết
Tây


- Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta

- Chẳng
phải quan mà chẳng phải dân


- Ấm
không ra ấm, ấm ra nồi.


Như
các nhà nghiên cứu nghệ thuật đã lưu ý, nét đặc biệt của nghệ thuật hiện đại
(rõ nhất là trong hội họa) ấy là thiên về miêu tả con người với những nét kỳ
dị, hình ảnh méo mó, không những không ăn khớp với những khuôn mẫu sẵn có, mà
còn thường xuyên có hiện tượng phân thân, và không tạo ra một sự ổn định, không
có những đường viền rõ rệt. Do những hạn chế của thời đại và của bản thân,
đương nhiên Tú Xương chưa thể có được một tư duy nghệ thuật mới lạ như vậy.

 Những câu thơ trên chỉ được viết ra một cách tự phát.

 Song đọc Tú
Xương, người ta vẫn không khỏi liên tưởng tới một quan niệm về con người mới mẻ -- chưa xuất hiện ở  thời của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du --  những quan niệm
về con người chỉ xã hội hiện đại mới có. Đây chỉ nói về quan niệm; còn như mỗi
tác giả đạt tới mức sâu sắc và độc đáo như thế nào trong quan niệm của mình,
thì đấy lại là chuyện khác.




Sự phá
cách


Mặc
dù chỉ sống được hơn 7 năm trong thế kỷ XX, Tú Xương vẫn đáng được xem như
một nhà thơ có cốt cách hiện đại. Cảm giác hiện đại chủ yếu hình thành qua ấn
tượng về con người tác giả, một người làm thơ không phải để nói chí hoặc giáo
hóa ai mà chỉ cốt phơi bày cho hết những bức xúc chộn rộn trong lòng mình; con
người ấy gần như đánh mất sự quân bình vốn có, ngược lại lúc nào ông cũng sống
trong trạng thái “ngồi không yên ổn đứng không vững vàng” luôn luôn bị
ám ảnh bởi những ham hố trần tục.


điều “mình với ta tuy hai mà một” (thơ Tản Đà), con người tác giả trong
thơ Tú Xương thế nào thì các nhân vật được ông phác họa cũng vậy.

 Xưa nay đã
nhiều người tả cô đầu, song chỉ đến Tú Xương, loại người tưởng là dưới đáy xã
hội này mới dám lớn tiếng tuyên bố “Cũng liều bán váy chơi xuân”

Nghe
thật trâng tráo nhưng bên trong có gì đó chua chát, bi phẫn, nó là cái tâm
trạng đến với người ta khi cuộc sống chung quanh đã trở nên bẩn thỉu quá mà bản
thân không biết làm gì để thay đổi
nó.

 Cái tâm thế của người cô đầu Tú Xương
diễn tả ở đây sẽ là tâm thế mà càng về sau càng phổ biến, và con người thời
sau, dù làm bất cứ việc gì, trước những bất lực phải chịu, cũng muốn văng ra
những câu tương tự.




Chẳng những quyết liệt trong thái độ sống, Tú
Xương còn quyết liệt trong các ứng xử nghệ thuật.
  

Thời ông sống là thời trong văn chương Việt Nam còn đang ngự trị
các quy phạm cổ điển. Thơ ca Việt Nam phải gần ba chục năm sau mới biết đến
phong trào Thơ mới, nên gì thì gì, Tú Xương cũng chỉ có cách trổ tài qua
thơ Đường luật. Song bản lĩnh và ý chí tự do của nhà thơ non Côi sông Vị là ở
chỗ, trong khi bị gò bó bởi thi luật cổ điển, Tú Xương vẫn tìm đủ cách để công
phá nó. Một ví dụ: bài thơ mang tên Bỡn ông Điềm.

Tôi hỏi
thăm ông đến tận nhà


Trước nhà có miếu có cây đa

Cửa hè
sân ngõ chừng ba thước


Nứa lá tre pheo đủ một tòa

Mới sáu
bận sinh đà sáu cậu


Trong
hai dinh ở có hai bà


Trông
ông
mốc thếch như trăn gió

Ông tốt
duyên vì có nước da


Cũng
giống như nhiều bài thất ngôn bát cú của Xuân Hương, bài thơ này, tuy bề ngoài
vẫn giữ được sự đăng đối (câu ba đối câu bốn, câu năm đối câu sáu) song đó là
một sự đăng đối trời cho, người ta cảm thấy tác giả không cần một chút cố gắng.
Trong khi ấy mạch đi của cả bài thơ quá tự nhiên, hầu như gặp đâu nói đấy,
những ràng buộc thừa-phá-đề-luận-kết… bị để sang một bên, hai câu cuối giống
như một miếng bỏ nhỏ khá gây ấn tượng.

Nhất
là về mặt mỹ cảm thì sự phá cách càng rõ rệt, cái chi tiết mốc thếch như
trăn gió
quá đậm chất văn xuôi, cũng như giọng thơ nửa thân tình nửa giễu
cợt, tất cả làm cho sự vật con người mất hẳn cái vẻ cao thượng, thuần khiết,
vốn được coi là nét tiêu biểu của thơ ca cổ điển.




Đã in Cánh bướm và đóa hướng dương, 1999







  Viết thêm 22-7-2014

Thỉnh
thoảng tôi hay trở lại với những bức ảnh chụp chân dung con người hoặc những
đám đông trong thời gian năm bảy chục năm trước. Tự nhiên cứ cảm thấy sao mặt người xưa thường
hiền lành phúc hậu, chứ không đằng đằng sát khí và đầy ham muốn tà tâm  muốn tự bộc lộ như con
người thời nay.

 Và tôi nghĩ đến tình trạng lay lắt của các nhà văn.

 Khi đối diện với xã hội đương đại, các đồng
nghiệp của tôi phân hóa làm hai dạng.

 Một số thường chỉ lo nịnh bợ con người.

 Một số khác – đây tôi muốn nói những cây bút còn có lương tâm nghề nghiệp -- tính
chuyện phân tích phê phán sự suy đồi xuống cấp mà con người hiện đại đang trải
qua. Họ sẵn sàng lớn tiếng. Họ nghĩ, bằng cách đó tác động vào xã hội, dọn đường cho con người
hiện nay  vượt lên mình, tự từ bỏ cái ác trong mình.

 Nhưng những tác động đó xem ra chưa hiệu quả bao
nhiêu, con người đương đại từ các quan chức nhà nước đến người dân thường hôm
nay xem ra đã quá lỳ lợm, đối tượng của văn học hiện nay chừng như đã  nhờn thuốc, nghe rồi để đấy.

Chân dung con người hiện đại cần được biểu hiện bằng những bảng mầu mới. Khái quát hơn, chúng ta phải có những nguyên tắc miêu tả mới dựa trên những
nguyên tắc mỹ học hiện đại.

 Một chút khác đi trong phương thức tự sự sử dụng trong thơ Tú Xương ở đây là câu trả lời mà các thế hệ người viết
văn trước đã tự phát đi tới. 

 Đến lượt mình, nhà văn ngày nay phải đi tới nó một cách tự giác.
Tức là trải qua bài bản nghiên cứu một cách khoa học và có sự tham khảo hướng
phát triển của văn học thế giới.





một nhà văn hiện đại cũng đã dùng những phương tiện biếm họa kiểu grotesque để miêu tả đời sống đương thời. Chúng tôi đã nói tới điều
này trong bài Sự biến hóa của chất nghịch
dị trong truyện ngắn Nam Cao trước 1945 --
cũng tức là bài Nam Cao và chủ đề  sự bất lực trước kiếp sống mòn, in trên
blog này  6-1-2011.

So
với  Nam Cao thì việc xử lý phương thức ở
Tú Xương đơn sơ mộc mạc hơn.

Nhưng
ta nhớ, Tú Xương sống trước Nam Cao gần nửa thế kỷ, khi mà xã hội và văn học
còn đang ngổn ngang trong một thời kỳ chuyển đổi còn Nam Cao thì sống ở một
thời đại đã chín, thậm chí chín quá hóa thành nẫu nà hư hỏng.



Bài
học của cả hai người là những gợi ý tốt cho những người viết văn hôm nay. Hoặc là phải nâng mình lên, phải tự khác đi. Hoặc là cứ sống ngắc ngoải như ta đang sống rồi ôm nhau nỉ non than thở trách móc. Rằng không ai đọc mình. Rằng nhà nước đã nhận nuôi như một lũ báo cô, nuôi để làm cảnh, mà vẫn để mình rạc dài đói khát.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 21, 2014 22:05

July 17, 2014

Thích ứng đồng nghĩa với hư hỏng thoái hóa biến chất



Người ta chỉ hay nói  khủng
hoảng kinh tế  giá cả leo thang
ảnh hưởng
tới sinh hoạt hàng ngày của người dân.

Nhưng không khó gì để nhận ra rằng
sự nghèo đi cũng đồng thờì làm cho
con người hèn đi, cuộc thích ứng mà
người ta phải chịu đựng đã là nguồn gốc của mọi hư hỏng thoái hóa mà con người hiện
đại bộc lộ.



 Và trước sau điều bi đát nhất sẽ tới, xã hội
và con người mất hết khả năng tái cấu trúc, khả năng sáng tạo ra một tương lai
tốt đẹp hơn…



Khi tất cả hàng hóa tăng giá có nghĩ con người đang bị hạ giá.



Nội dung trên đã được tôi trình
bày trong bài viết Thích ứng để tồn tại,
đã in  trong Những chấn
thương tâm lý hiện đại
(2009) và đưa trên blog này ngày 4-12-2010. 

Sau gần bốn năm, nay lại xin kính trình
để bạn đọc tham khảo.



Đã lâu lắm rồi hôm ấy, Dần, nhân vật chính trong truyện ngắn Một đám cưới (Nam
Cao viết năm 1944) mới có cái quyền đi chợ. Chẳng qua là nhân ngày cưới của cô.
Ông bố dặn mua lấy hai xu chè. Cô gái trả lời hai xu bây giờ ai bán. Và cô thẽ
thọt nói thêm: 

-- Ông lão cả đời không đi chợ, cứ tưởng chè rẻ lắm. Quen với ngày xưa, độ một
xu một ấm. Bây giờ năm xu, nấu đặc chỉ được một ấm là hết xoẳn.
Có thể xem đây như bằng
chứng đầu tiên về tình trạng giá cả leo thang trong xã hội mà văn chương có dịp
ghi nhận.


Hoá ra từ hồi nào, nền
kinh tế ở xứ này đã là một cái phao bập bênh và những thay đổi tận đâu đâu trên
thế giới đã ảnh hưởng ngay đến người dân thường ở những vùng đất xa xôi hẻo
lánh bậc nhất.

Trước tình trạng gần như
không thể kiểm soát nổi ấy, người ta bàn đến cách đối phó.

Tôi đồ chừng hàng ngày,
trong các gia đình, trong các nhóm bạn bè ngồi quán tán gẫu, và trong đầu óc
từng người nữa -- như là có hàng ngàn hàng vạn cuộc hội thảo nho nhỏ diễn ra
liên tục, ở đó mọi người nhao nhao đăng đàn diễn thuyết trao đổi ý kiến.

Than phiền, kêu la.

Ngậm ngùi lo lắng.

Bảo nhau phải thắt lưng
buộc bụng...



Riêng tôi thì lại hình
dung ra một loại kịch bản khác.


Một số người … mặc kệ. Họ tự nhủ:



--- Dễ người dễ ta, khó người khó ta.

--- Rồi sẽ có cách, không chết được mà sợ. Nếu gặp khó mà chết thì chúng mình
chết từ hồi tám hoánh nào rồi !

-- Anh nào biết cù nhầy là anh ấy sống.

Con người nơi đây vốn quen thích ứng với mọi hoàn cảnh. Kẻ thông minh là kẻ
không biết sợ. Các quyết định mới được hình thành nhanh lắm.

Giả sử như tôi đang có một cửa hàng thuốc tây.

Có mà ngớ ngẩn thì mới sợ rằng thuốc nhập giá tăng rồi không ai mua. Còn có
người ốm thì còn có người cần thuốc, mà lúc cái bệnh nó đã thúc vào lưng thì
giá cắt cổ vẫn cứ phải xì tiền ra.

Vậy thì giá nhập tăng một, ta tăng hai ba, và như vậy chuyện cân thịt, lít xăng
leo thang có ăn nhằm gì, không chừng lại là một cơ hội đẹp để ta hốt của.

Ấy cái khó ló cái khôn chính là như thế.





Sự thông minh tính toán kiểu ấy
không phải độc quyền của dân buôn thuốc. Một người đã nghĩ được, thì mọi người
ở mọi ngành nghề đều có thể có ý nghĩ tương tự.

Ai nấy dường như có thêm động cơ để mạnh tay hơn trong những việc lâu nay còn
vừa làm vừa run.

Các nhân viên kiểm lâm yên tâm hơn trong việc thông đồng với đám lâm tặc nhằm triệt
phá rừng.

Dân hải quan hoặc thuế vụ có cớ để tự nhủ rằng “ không vòi vĩnh ai sống nổi ”?

Nhà khoa học khua nốt mấy công trình nghiên cứu dang dở mang nghiệm thu, để còn
kịp xin kinh phí đợt mới.

Bất chấp sự tăng tốc của mọi người, bác trông giữ xe máy tự lúc nào đã nhẹ
nhàng tăng giá từ một ngàn lên thành ngàn rưỡi hai ngàn.

Còn người nông dân tự do thì không có gì phải hối hận trong việc chiếm dụng đất
đai ven các quốc lộ, kéo nhau đi đào vàng hoặc khai thác than thổ phỉ, rồi tràn
vào thành phố cân điêu cân thiếu khi đạp xe bán rong một vài mặt hàng, kể cả
bán những thứ hoa quả có phun thuốc sâu vượt quá nồng độ cho phép...





Tạm thời có thể mô hình hoá thành
mấy cách phản ứng:

1/ người sống bằng gian dối có cớ để gian dối.

2/ người tham nhũng hợp pháp hoá được việc ăn cắp của mình.

3/ người sản xuất không cần phân vân khi đưa ra hàng kém hàng hỏng.


Mỗi người có thêm lý do để hạ thấp chất lượng cuộc sống mà mình có tham gia.
Không ai còn thấy chướng khi sự tồn tại của bản thân được đặt cao hơn lợi ích
xã hội.

Một nhân vật trong Anh em Karamazov của Dostoievski từng bảo “ Sống
trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là truyền thống của họ Karamazov nhà ta.” Không
phải người Nga, nên không quen khái quát thành công thức trừu tượng, nhưng
trong bụng nhiều người Việt mình hôm nay đã tự nhủ thầm như thế.





Điều dự đoán cuối cùng của tôi: Ngay
cả các đám ăn nhậu rồi ra cũng đông vui hơn.

Muốn chống lại tình trạng giá cả leo thang mà không ăn uống cho no say thì lấy
đâu ra sức hở trời?

Mỗi lần tan cuộc là một lần sảng khoái, trong bụng chỉ còn có cách tự nhủ thời
buổi này tiết kiệm làm gì, không hưởng thụ ngay bây giờ thì có nghĩa không bao
giờ ta được hưởng thụ cả !

Trong cuộc nhảy múa để tồn tại, một thứ men say của hiện sinh tràn đến tự lúc
nào làm cho người ta ngây ngất. Cái sự thụ động mà cô Dần của Nam Cao xưa chấp
nhận đã thuộc về một dĩ vãng quá xa; giá kể có sống lại, chắc nhân vật ông bố
trong truyện Một đám cưới sẽ phải mấy lần lắc đầu le lưỡi:” Èo ! mẹ ơi
!..“










 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 17, 2014 07:06

July 14, 2014

Ba bài viết ngắn về Tô Hoài

                                     

   

 Ở các
nhà trường hồi tôi đi học người ta thường đưa ra một luật lệ của sự sáng tác: hãy
xây dựng điển hình. Về một giai cấp, một tầng lớp, một con người hãy cố tìm
ra  một hình ảnh duy nhất. Như tạo ra một
bức ảnh thờ vậy.



 Nhưng về sau đọc rộng ra, tôi thấy có một
thứ lý luận khác và tôi rất thích, tôi cho là nó phát huy hết sức mạnh của
người viết. Để hiểu về một con quạ, văn chương cần đưa ra 11 hình ảnh khác
nhau, và bạn đọc sẽ từ đó hình dung ra hình ảnh thứ 12, đó là con quạ của họ.


  Trong phê bình cũng vậy. Với mỗi nhà văn,
người phê bình có thể đưa ra nhiều hình ảnh khác nhau, và tổng hợp lại bạn đọc
sẽ tìm thấy hình ảnh nhà văn của mình.

  Về Tô Hoài, tôi đã viết hai bài  tổng hợp, một là Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du, in trong Cây bút đời người, 2002 và hai là bài
ghi chép Tô Hoài nhìn từ một khoảng cách
gần,
đã in trong tạp chí Nhà văn,
2009.


  Cả hai bài trên, cùng với một loạt bài khác,
đã đưa vào blog này.( xem trang mặt của blog, mục Chân dung nhà văn)

Nhưng
trong quá trình làm việc, tôi còn một số bài khác, ít được đọc hơn, xin giới
thiệu dưới đây.





                         

                          CON MẮT TÔ
HOÀI  BÓNG DÁNG
NGUYỄN TUÂN




Khi được mời viết hồi ký, không ít
nhà văn ở ta thích trả lời: Khi nào già tôi sẽ viết. Nhưng trong phần lớn
trường hợp, họ không giữ được lời hứa. Hoặc giả, theo nghĩa đen, không đủ sức
thực hiện ý định. Hoặc giả theo nghĩa rộng, già cả, cũ kỹ đi, chỉ sợ người ta
quên, nên khi viết ra sức tô vẽ cho mình. Những thiên tự thuật kiểu đó đánh mất
đi gần hết giá trị chúng có thể có.

Về phần mình, Tô Hoài quan niệm hơi
khác. Ông viết hồi ký từ khi còn rất trẻ. Cuốn Cỏ dại ra đời năm 1944
khi ông mới 24 tuổi.

Bước sang tuổi năm mươi, ông công
bố Tự truyện (in báo từ 1971, in thành sách 1978, từ đó về sau nhiều lần
tái bản ). Nay
ở tuổi bảy mươi, ông lại có Cát bụi, 
chân ai.
Sống đến đâu, viết đến đó - dường như ông muốn nói vậy. Và
các cuốn hồi ký của ông chỉ tự nó trần trần đối diện với bạn đọc, người viết ra
nó không cần nhân danh tuổi già, nhân danh năm tháng, kinh nghiệm để... “bắt nạt” ai cả.




Một cách nhìn, một cách
viết


Thông thường ở ta hồi ký được hiểu
là những cuốn sách người viết tự kể về đời mình. Có nói về những người khác
cũng là nhân tiện mà nói, nói tạt ngang cho đậm câu chuyện. Hồi ký của
Đặng Thai Mai hay Những năm tháng ấy  của Vũ Ngọc Phan. Từ bến sông Thuơng
của Anh Thơ hay Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng v.v đều chung một kiểu
viết như vậy. Cho tới Tự truyện Tô Hoài cũng không ra ngoài thông lệ vốn
có.

Chỉ tới Cát bụi, chân ai,
nhà văn mới tạo cho thể tài một sự xô đẩy nho nhỏ. Khi còn trích in trên báo,
người ta tưởng đây là loại hồi ký với nhiều chân dung liên tục xuất hiện, trong
đó, mỗi người bạn từng đi lại thân quen với tác giả được ông dành riêng một
chương: Nguyễn Bính, Nguyên Hồng, Xuân Diệu. Nhưng đọc cả quyển mới vỡ nhẽ ra
Tô Hoài viết về Nguyễn Tuân là chính, chẳng qua học theo A. Malraux (trong Phản
hồi ký
) ông cũng gặp đâu viết đấy, nên ngòi bút mới đôi khi sa đà viết thêm
về những người khác ít trang. Vẫn là hồi ký - chân dung, nhưng Cát bụi chân
ai
là bức tranh truyền thần khuôn mặt Nguyễn Tuân, như Tô Hoài được biết,
một thứ Nguyễn Tuân nhìn gần ở khoảng cách rất gần, không bị tô vẽ, bị thiêng
liêng hoá, có điều không vì thế mà mất đi vẻ khả ái và nhất là những nét đáng
thông cảm.




Chỗ giống người
của  "kẻ khác  người"


Tuy luôn luôn không quên điểm xuyết
đôi nét về con người Nguyễn Tuân giai đoạn tiền chiến, thậm chí đi ngược lại
mãi về một thời rất xa, khi Nguyễn Tuân cùng một người bạn định trốn qua Xiêm
theo đường Campuchia rồi bị bắt, nhưng trên nét lớn, Cát bụi chân ai
để nói về cuộc đời dấn thân của Nguyễn Tuân như Tô Hoài biết từ sau 1945 tới nay.
Đường đời sự nghiệp khác nhau, tâm tính càng không giống nhau, vậy mà giữa hai
người đã có chung bao kỷ niệm. Hồi kháng chiến chín năm ở chiến khu sống chung
trong một cơ quan đầm ấm, thân mật. Lần theo bộ đội vượt sông đánh đồn. Những
năm tháng sau hoà bình 1954, đời sống văn nghệ Hà Nội ngổn ngang bao chuyện.
Dăm chuyến đi dài lên các tỉnh miền núi phía bắc những năm chống Mỹ hào hứng,
lý thú cũng có, mà giá lạnh đơn độc cũng có. Ai người quen nghĩ Nguyễn Tuân
khinh bạc, ích kỷ nghênh ngang tự thị sẽ tìm thấy ở đây, qua những chi tiết rất
thật, những giây phút Nguyễn Tuân cũng rất nồng nàn quý trọng tình nghĩa, cũng
chi chút trong từng việc nhỏ của đời sống gia đình và của sinh hoạt văn nghệ.
Hơn thế nữa, Nguyễn Tuân cũng yếu đuối, cũng làm dáng, điệu bộ, và cũng biết sợ
như bất cứ ai. Cái tài của Tô Hoài trong cuốn hồi ký này là ở chỗ phác ra rõ
rệt những nét độc đáo trong tính cách Nguyễn Tuân - một câu tiêu biểu “Ô hay,
người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” (tr. 7) - song vẫn cho thấy tác
giả Vang bóng một thời thực ra rất gần với chúng ta, với tất cả những
phiền luỵ tầm thường, những hy vọng dang dở, những trái khoáy vô lý... của kiếp
người. Đã bước trong đời thì hỡi ai kia, chân người rồi cũng lẫn trong cát bụi
như mọi chúng sinh mà thôi, nhất định là thế, không thể nào khác, không phải vì
thế chúng tôi xa lạ, ngược lại, cát bụi khiến chúng tôi thêm gần gũi với người
biết mấy!




Niềm cảm khái cuối cùng

Nhưng dẫu sao, Cát bụi chân ai
vẫn là một cuốn hồi ký. Dù bóng dáng của Nguyễn Tuân có trùm lên cả quyển sách,
thì cạnh đấy, vẫn hiện lên mồn một cái bóng dáng chính của người viết, một Tô
Hoài lịch lãm, ý nhị, bắt vở hết các bậc đàn anh, biết thóp đủ mọi chuyện,
khinh bạc, đáo để, song cũng lại biết thiết tha với từng chi tiết trong cuộc
sống hàng ngày, lại càng tha thiết trước một chén rượu quý, mấy câu tâm sự bâng
quơ, những lá thư cảm động. Công bằng với Nguyễn Tuân cũng tức là Tô Hoài có
được công bằng với giới văn nghệ. Dẫu sao, những người này cũng đã có mặt trong
suốt cuộc đời tác giả, cùng ông chia sẻ vui buồn, và suy cho cùng, giá mà chẳng
tốt hơn, thì họ cũng chẳng xấu hơn những người khác. Với sự chính xác của một
thứ bộ nhớ điện tử, đầu óc Tô Hoài thường khi nhớ lại vặt vãnh đủ chuyện. Ngòi
bút ông sau những khoáng đạt chơi vơi với những cảnh tượng hùng vĩ ở miền núi,
lại thản nhiên, thủng thẳng, mà vẫn không kém sinh động, quay về dựng lại những
phút vắng lặng trong câu chuyện mấy bạn tri kỷ, giữa một hàng quán xô bồ của chốn
thị thành.

Còn như cảm hứng cuối cùng về cuộc
đời? Ở cuối chương Một chặng đường (in trong Tự truyện) Tô Hoài
viết: “Trên sóng cát cuộc đời, mình đã
từng sống cái kiếp phong trần, vào đâu nên đấy, của con phù du
”. Ở cuối Cát
bụi chân ai
lại vẫn cái giọng mệt mỏi và biết điều ấy “Tôi ngồi lại đây trông vào mịt mùng nhìn thấy xa lắc xa lơ một thời đã
qua. Âu cũng là cái nhộn nhạo được khấy dộng chốc lát”.
Tiếp đó là cái hình
ảnh có sức khơi gợi: “Bãi tắm Cát Cò. Hai
bên vách đá thẫm đen, không có bóng người. Con kỳ đà đủng đỉnh bò ra giữa đường
hầm, bạnh mang, rướn chân nhìn quanh rồi lại nép vào mép những tảng đá... Vết
chân người lẫn chân con kỳ đà in vân vân trên cát”
. Một chút hư vô bàng bạc
ở đây chỉ làm rõ thêm ấn tượng đã toát ra từ cả cuốn sách, ấy là dù hay dù dở
thì tác giả cũng đã viết nó bằng sự thành thực và toàn bộ kinh nghiệm sống của
mình, nên chi, nó đáng được đối xử một cách trân trọng và cả độ lượng nữa.




In
trên Thể thao và văn hóa , 1993
















                                                  MỘT NHÀ VĂN HÀ NỘI




 Không kể thời
gian kháng chiến chống Pháp và không kể những đợt đi công tác ngắn ngày, thì từ
nhỏ đến giờ, Tô Hoài luôn luôn sống ở Thủ đô. Tính đến đầu 1985, ông từng viết
43 cuốn sách về Hà Nội. Ngoài sáng tác văn học, có lúc ông còn trực tiếp làm
công tác đường phố. Hiện Tô Hoài đang là chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.

 Những chi tiết ấy
nhiều người đã biết, cũng như phần lớn chúng ta đã biết hai chữ Tô Hoài là do
Lịch
Hoài Đức ghép lại. Một người như Tô Hoài mà có viết nhiều về
Hà Nội là chuyện đương nhiên! Giữa Thủ đô và một đời như đời văn của Tô Hoài,
quả là có một mối quan hệ đặc biệt.

 Tô Hoài hay kể:
ông đến với nghề văn một cách rất giản dị, và bước đầu vào nghề, không thấy có
gì mới lạ hơn, so với những nghề khác, như nghề bán giày ở một đại lý cho hãng Bata
hay nghề dạy trẻ học mà bạn bè ông thường làm. Đại khái một lần, đi phủ hộ đê,
thấy cảnh canh đê, “trống giục trống dồn”, “người lớn và trẻ con rúc ráy bên vệ
cỏ” Tô Hoài liền viết truyện Nước lên gửi đăng ở Hà Nội tân văn
của Vũ Ngọc Phan.

 Nếu có thể nói
vào nghề, có nghĩa là viết truyện in ra được trả tiền cẩn thận thì Tô Hoài vào
nghề bằng truyện ấy. Có điều, khi đến với nó, ông vẫn có được sự bình thản,
không cuống lên vì hoang tưởng, không quá choáng ngợp.

  Ở đây, có những lý do thuộc về cá tính riêng
của Tô Hoài. Nhưng một phần quan trọng khác cũng là  do hoàn cảnh. Ông lớn lên và đi học ở quê
ngoại vùng Nghĩa Đô. Từ nhỏ, không những đã quen với Kiều, ca dao, mà
còn quen với Tứ dân văn uyển, Văn đàn bảo giám, và các loại truyện dịch
Chinh đông Chinh tây, Tam hạ nam đường
... Dù là gia đình chỉ làm nghề thủ
công, nhưng bước vào tuổi thanh niên, Tô Hoài cảm thấy không có gì xa lạ với
mọi tờ báo ở Hà Nội, và Sài Gòn lúc ấy: Nước non, Cậu ấm, Mới, Tiểu thuyết
thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy.


 Mới hai mươi mốt
tuổi, ông đã viết câu chuyện nổi tiếng về chú Dế Mèn, trong đó cảnh bờ sông Tô
Lịch với những vườn nhãn, ao chuôm, con gà ri, đôi chuột bạch... là những khung
cảnh gần với ông  ở làng Nghĩa Đô của
ông. Cả tư tưởng của một chàng thanh niên mới lớn lên, thích sống độc lập lại
cũng thích phiêu lưu như ông diễn tả trong Dế mèn... đều là tư tưởng bao
trùm trong nhiều thanh niên thời kỳ 1940-41.

 Tô Hoài lại sớm
viết hồi ký. Trong tập Cỏ dại in ra từ 1944, ông lấy chuyện gia đình, họ
hàng mình để kể. Gần đây (1978), Tô Hoài có tập Tự truyện, kể lại những
bước đường tư tưởng của mình khi mới đến với nghề văn.

 Óc quan sát tinh
tế và tỉ mỉ đã giúp cho Tô Hoài nhớ và ghi được nhiều chi tiết về cuộc sống ở
Hà Nội. Ông đính chính hộ nhiều người những cái nhầm lẫn, vì như nhiều người cứ
nghĩ chung quanh Hồ Gươm: nhiều liễu, hoá ra bây giờ còn mỗi một cây, v.v. Ông
lại giúp cho chúng ta tự tìm hiểu thêm về những địa điểm trong sinh hoạt thành
phố (chẳng hạn, tại sao gọi là Vườn hoa canh nông?). Rồi, nguồn gốc  nem cuốn ở đâu? Nghề làm giấy ở Bưởi đòi hỏi
người thợ thủ công trước đây phải khéo léo, vất vả thế nào?

Xét về thời gian lịch sử, ta thấy Hà Nội đã được Tô Hoài
theo dõi liên tục, từ khi Pháp mới sang (Quê nhà) cho tới những năm ba
mươi, bốn mươi và kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám (Mười năm). Đó là
phần ngoại thành, vùng Nghĩa Đô, Bưởi và quá lên vùng Cầu Giấy, Từ Liêm, Hoài
Đức, Tô Hoài rất quen.

 Về nội thành,
những xóm rác ven hồ Bảy Mẫu cũ, đầu hoà bình lập lại được ông phác qua trong Những
ngõ phố
và một số nét sinh hoạt Hà Nội hồi đánh B52 được ông vẽ nên trong Người
đường phố
(cả hai tiểu thuyết đều được in ra 1980).

 Viết về ngoại
thành, ngòi bút ông lui tới một cách thoải mái đã đành. Ngay viết về nội thành,
Tô Hoài vẫn rất ung dung. Ông không hay tả Hà Nội nhà cao cửa rộng. Trước cách
mạng, khu nội thành được ông miêu tả như một nơi không thiếu gì chuyện nhảm nhí,
nơi có nhiều nhân vật rất kỳ cục, nào me tây, nào nặc nô hiệu cầm đồ, đủ thứ.
Từ 1954 đến nay, bà con hàng phố sống với nhau gần gũi, đầm ấm như người trong
một gia đình. Thành phố nhấp nhô những dãy nhà một tầng thấp, bên trong mỗi nhà
xanh lên những giàn hoa lý, cây cảnh, cây, cây hoa mộc trong chậu.

 Thành phố với
những mái lợp phi-brô xi măng trắng, hay những miếng giấy dầu đen nhoáng, cạnh
cửa sổ vải hoa treo dò phong lan tai trâu xanh dày... Đấy là Tô Hoài trực tiếp
tả. Một đoạn khác (trong Người đường phố) ông còn để cho một nhân vật
nói thẳng:

- Kẻ chợ mà đủ phố Hàng Bừa, Hàng Bún, Hàng Mụn, Lò
Rèn... tức là cái gốc nhà quê rõ rồi.

 Cái gốc nhà quê
này của Hà Nội không làm cho nhân vật khó chịu. Trái lại, họ nói thế, dễ dàng
thấy gần với Hà Nội hơn, cái Hà Nội là của mình, và cùng với tác giả, tìm ra vẻ
đẹp của phố xá.

Nhân vật chính trong bút ký Nhớ quê của Tô Hoài
là một thanh niên Hà Nội đứng vào đội quân Nam tiến, và nghĩ trong lúc này:
“Chúng ta còn ở Hà Nội làm gì?”

Trong tiểu thuyết Những ngõ phố, người đọc lại
bắt gặp một trường hợp khác, một gái nhảy của Hà Nội cũ, nay đi tham gia xây
dựng các công trường ở miền Tây Tổ quốc, và nghĩ rằng phải đi xa, cái tình của
mình với Hà Nội mới trọn vẹn.

Bản thân Tô Hoài cũng vậy. Chúng ta đã nói bao giờ “hộ
khẩu chính” của ông cũng là Thủ đô, nhưng từ trước cách mạng ông đã có nhiêu
chuyến giang hồ vặt, đi khá xa, tận Huế, Sài Gòn. Bây giờ, ông còn bay đi xa
hơn. Ngoài Hà Nội, ông còn một vùng quê nữa để viết là các tỉnh miền núi Tây Bắc,
Việt Bắc. Hai cái chất thật đối lập nhau, Hà Nội và núi rừng.
Nhưng với Tô Hoài, hai nơi đó đều gần gũi tự nhiên, như đâu cũng là quê
ông. Thành thử lại có thể nói về phương diện nữa của chất Hà Nội trong Tô Hoài:
Khả năng thích ứng mạnh mẽ. Có cảm tưởng đi đâu ngòi bút ông cũng hoạt động
được. Tô Hoài thật đã giống như bao nhiêu người có thời gian ở Hà Nội rồi, thì
đi đâu cũng khéo gây dựng cơ nghiệp, sắp xếp nhà cửa, khiến cho cuộc sống mình
được nên cơ ngũ, gia đình mình trở thành có nền nếp.

Bao nhiêu người Hà Nội, sau những năm kháng chiến ở lại
Việt Bắc, hay Nam Định, Thanh Hoá đã sống như thế. Lại bao nhiêu gia đình ngoại
thành Hà Nội, đi xây dựng miền núi, những năm sau 1954, đã sống như thế.

Chúng ta vừa nói Tô Hoài đến với nghề một cách bình thản.
Nhưng sau khi đã có một quan niệm sòng phẳng thế rồi, nghề văn ở Tô Hoài lại
được nhìn nhận khá tỉ mỉ. Nói đây là chuyện để cả đời người ta làm, cũng không
phải quá đáng. Từ chuyện lẩn mẩn người ta ăn, người ta mặc thế nào, đến chuyện
suy nghĩ tư tưởng một thời... đều phải lắng nghe, để mắt tới. Lúc nào cũng lo
tích luỹ, nhặt nhạnh. Và viết, viết rất đều tay, không chờ cảm hứng, không viết
theo những cơn nóng lạnh bất thần. Chẳng hạn ai đã làm nghề văn đều biết, gọi
chung là viết, nhưng công việc rải ra đủ thứ, người chuyên viết ngắn, người
chuyên viết dài, người chỉ sáng tác cho người lớn đọc, người thâm canh ở khu
vực viết cho thiếu nhi. Thậm chí, nói đến cùng, cũng phải thấy là trong nghề
người ta hay có thành kiến: Việc này người mới vào nghề mới đáng làm, người lâu
năm trong nghề không nên làm. Việc này dở, việc kia mới sang trọng v.v...

Tô Hoài không thế, ông viết đủ thứ, miễn thấy cần làm là
làm, không chọn việc. Đấy chính là một đặc điểm của ngòi bút Tô Hoài, nó khiến
cho nhiều người nhìn ông phải khâm phục.

Nói cho đúng ra, trong cái việc mà chúng ta gọi một cách
quy ước là “làm nghề” chăm chỉ, thành thạo, ở Tô Hoài không phải chỉ có sự đều
tay, sự chuyên cần, mà còn có cái mau mắn duyên dáng, nó khiến cho ông cả khi
viết những tiểu thuyết dài lẫn những bài báo ngắn đều có được cái giọng riêng.
Những khi phải tả Hà Nội, Tô Hoài vừa có cái 
kỹ lưỡng từ trong nói ra, lại có cái tươi mới như vừa gặp vừa thấy.

Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần do trước sau Tô Hoài
vẫn giữ được cái hóm, cái nghịch cần thiết cho những “Người ven thành” luôn
luôn phải đi lên thành phố để làm đủ các loại việc, rồi ít ngày sau, lại bỏ
đấy, bắt sang những công việc khác, mà lúc nào cũng giữ được cái thế của người
đứng ngoài, đứng hơi xa một chút, để nhận xét cho thấu đáo, lên thành phố,
những người này phải rất hoạt bát để bán được hàng, tìm được việc, mà lại khỏi
bị những người hàng phố lừa. Và lên đấy phải nghe ngóng, tích luỹ, phải có
nhiều điều tai nghe mắt thấy, để về còn kể cho bà con hàng xóm, hoặc con cháu
trong nhà. Bởi vậy, nên cái chân dung thành phố do những con người này vẽ nên
bao giờ cũng tươi mới, giàu chi tiết, kích thích sự tò mò của người khác.

Trong cuốn Nguời đường phố  trên kia đã nhắc (cũng như trong nhiều tập
sách khác, trong đó có Chuyện cũ Hà Nội) Tô Hoài kể ra một số vùng ngoại
ô  với những nghề nghiệp cha truyền con
nối, lên làm ăn ở thành phố. Cổ Nhuế, thợ may, hàng thầu; Thủ Lệ,
giặt là; Lai Xá, thợ ảnh; Thanh Nhàn, cắt tóc; Thuỵ Khuê,
xôi lúa, quà vặt v.v... và v.v... Quả ngoại ô Hà Nội là một “thế giới” phong
phú. Trong “thế giới” đó, cũng có sự phân công lao động rất tỉ mỉ, khiến cho
từng người làm nghề trở thành những người nghệ sĩ tài hoa và hết lòng với nghề,
được mọi người kính trọng. Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết
văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc
Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, thì số tác giả của Thủ đô
thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng
đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời
cầm bút.

Đã
in trong Một số nhà văn VN hôm nay với Hà
Nội
1986                              










                                         MỘT
CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ          




                                                              I




    Nhiều nhà văn Việt Nam  hiện đại sống và làm việc gần như trong suốt
thế kỷ XX, có thể nói là cuộc đời của họ vắt ngang cả một thế kỷ văn chương:
Nguyễn Công Hoan 1903 -1977, Tú Mỡ 1900 -1976, Hoài Thanh 1909 – 1982, Nguyễn
Tuân 1910 -1987, Xuân Diệu 1916 – 1985...

    So với những nhà văn ấy, Tô Hoài (sinh năm
1920) xuất hiện trên văn đàn có phần muộn hơn, 
nhưng ngay từ những năm bốn mươi, ông vẫn kịp viết ra hàng loạt tác phẩm
như Dế mèn phiêu lưu ký, Quê người, Cỏ dại... khiến cho các nhà nghiên
cứu văn học  không thể không nhắc nhở đến
tên tuổi ông mỗi khi nhắc đến  cái thuở
gọi là văn học tiền chiến.

   Từ sau 1945, 
mạch sáng tác của ông giữ được liên tục, dù giữa núi rừng Việt Bắc hay hoà bình trở về Hà Nội, sách ông
vẫn in ra đều đều. Cho tới những năm chín mươi, tức là  khi đã ngoài bảy mươi,  ngoài số 
sách cũ  được tái bản, Tô Hoài còn
cho in các tập hồi ký Cát bụi chân ai, Chiều chiều.

   Sự có mặt của  những cuốn hồi ký này,cùng là vô số bài
báo  mà ông vẫn viết   cũng như các hoạt động xã hôi mà ông tham
gia khiến cho người ta cảm thấy Tô Hoài luôn luôn hiện diện  và là một tiếng nói một bộ phận không thể
thiếu trong đời sống văn học đương thời.

    Vào những ngày này, Tô Hoài đã qua cái tuổi
mà dân gian gọi là thượng thọ. Trong vẻ bình thản của tuổi già, ông vẫn gắng
viết và dành nhiều thì giờ hơn cho việc suy nghĩ chiêm nghiệm  đời sống.




                                                             II




    Nghĩ tới Tô Hoài, người ta nhớ ngay
tới  một vùng đất mà ngay từ khi mới đến
với nghề văn ông  đã trở đi trở lại với
nó, đã viết  về  mọi mặt sinh hoạt  ở đó 
kỹ càng tỉ mỉ. Đó là vùng đất phía bắc thành phố mạn gần chợ Bưởi, với
mấy làng nghề như Yên Thái  làm giấy,
Trích Sài Bái Ân nổi tiếng trong  nghề
dệt lĩnh...

 Với Tô Hoài, làng Nghĩa Đô tuy chỉ là quê
mẹ  song 
đấy là nơi ông lớn lên. Ngôi nhà của ông ngoại. Những cây hồng bì dậu  cúc tần. Tiếng kẽo kẹt của khung cửi bên hàng
xóm, tiếng rao xa xôi của bà bán kẹo mạch nha...Tất cả những cái đó  làm 
nên một  tuổi thơ đầy ấn
tượng  mà mỗi lần có dịp về quê ông  hai ông bà 
( bà Tô Hoài cũng là người  làng )
thường cùng nhau ôn lại với những cảm giác vui buồn lẫn lộn.

  Từ thưở nào đến giờ những làng xóm này những
cuộc đời này chưa một lần  được miêu tả
trong văn học. Thời xưa, người ta chỉ biết đến những câu ca dao hoặc một ít
truyện nôm ở đó con người soi mãi mới thấy bóng mình. Chỉ từ đầu thế kỷ XX, với
việc xã hội   sống theo nếp hiện đại, và
chữ quốc ngữ  được dạy thay cho chữ nho,
sách báo quốc ngữ trở nên  phổ biến,  thì mọi mặt đời sống mới bắt đầu  được chụp hình lại được khắc hoạ như  vốn có trong thực tế. Truyện ngắn truyện dài
của  Tô Hoài cũng như nhiều tác phẩm  của các nhà văn đương thời đã trở thành những
tài liệu xã hội học có giá trị.

    Điều Tô Hoài có thể tự hào là khung cảnh
quê hương qua những trang viết của ông đã trở thành bất tử.




[ Hình ảnh trên
phim—Tô Hoài bên một bức tường đá ong


 ....  
Cũ kỹ xù xì nhưng  chắc chắn,
những bức tường như thế này như tượng trưng cho cuộc sống trầm tĩnh mà lắm nỗi
đa đoan của cả một vùng quê ngoại thành. Cả cuộc đời một nhà văn tưởng như tìm
mãi viết mãi mà không bao giờ nói hết được những bí mật chất chứa trong đó.







                                                               III




       Bên cạnh các làng xóm ngoại thành  Hà Nội, nếu cần nói tới  một vùng đất nữa trở thành đề tài thường
xuyên trong các trang sách của  Tô
Hoài  thì đó là vùng  miền núi Tây Bắc Việt Bắc. Chúng ta biết rằng
ngay từ trước 1945 nhà văn này đã có chân trong 
văn hoá cứu quốc, một tổ chức 
thành viên của  Mặt trận Việt minh
chuẩn bị cho  Cách mạng tháng tám. Những
năm tháng ngay sau Cách mạng, Tô Hoài trở thành 
phóng viên của báo Cứu quốc và khi nổ ra cuộc toàn quốc kháng
chiến ông đã cùng với anh em trong toà soan 
di chuyễn cơ quan lên Bắc Cạn lo ra báo tiếp tục.

    Có thể nói việc viết về miền núi sớm được
Tô Hoài đảm nhận xem như  một công tác
được Cách mạng giao phó.

     Nhưng đứng ở góc độ một nhà văn thì  viết về miền núi cũng là một công việc
mà  Tô Hoài  sớm tìm thấy niềm hứng thú. Khi đã xác định
cho mình cái lẽ sống lâu dài với trang sách, cầm bút như một nghề nghiệp, ông
muốn chứng tỏ rằng ở đâu mình cũng viết được. Ai đó từng nói lý do tồn tại của
một ngòi bút nhiều khi chỉ đơn giản  là ở
chỗ  ngòi bút ấy lạ hoá đời sống
tức  biết nhìn chung quanh bằng cai nhìn
mới mẻ như người ta mới trông thấy lần đầu,và Tô Hoài chính là một minh chứng
cho nhận xét này. Càng đến với những vùng đất lạ, lòng  ham sống ham để ý quan sát ở ông càng được
huy động một cách ráo riết. Tấm vải thô hiện 
dần lên bên  khung cửi thân yêu mà
người phụ nữ miền núi đang ngồi dệt. 
Chiếc mõ trâu ngẫu nhiên  cầm trên
tay. Những bước chân uyển chuyển   trong
một đêm xoè.  Niềm  say sưa 
mà mọi người cùng chia sẻ khi ngồi trước 
vò rượu cần...Tất cả, tất cả  đều
là những đối tượng được trí nhớ ông ghi nhớ cẩn thận để sẽ có lúc, bằng sự sinh
động của ngôn ngữ, diễn tả chúng trên trang giấy.

    Khi bước chân trên những con đường vắng vẻ
của đồi núi  hay từ khung cửa nhìn ra
làng bản xa xăm, trong tâm trí ông thức dạy bao suy nghĩ về cuộc sống tự nhiên
của con người. Nếu trước đây  từ cuộc
sống của người thợ dệt trong Quê người, Xóm giếng đên cuộc sống của
mấy  chú ngan con gà trống ri đôi chuột
bạch trong O chuột -- ông đã phác hoạ người và cảnh vùng quê Nghĩa
Đô   với đủ vẻ tiêu điều tan nát thì nay
qua những Triệu Văn Khìn,Vừ A Dính, Kim Đồng,cô Ính, anh Sạ,vợ chồng A Phủ...
ông tìm thấy và muốn làm lây truyền sang bạn đọc những khao khát  cháy bỏng trong con người  một thời : tháo gỡ hết mọi ách áp  bức, 
làm lại cuộc đời.







                                                             IV




     Mặc dù bị hạn chế bởi bút pháp ước lệ và
tượng trưng của văn học trung đại  phương
Đông song trong các thế kỷ trước, Thăng Long Hà Nội đã được nói tới trong tác
phẩm của các nhà văn nổi tiếng : Phạm Đình Hổ có Vũ trung tuỳ bút,Hải
Thượng Lãn ông Lê  Hữu Trác có Ký sự
lên kinh
, cả Nguyễn Du cũng có bài thơ nổi tiếng nói về người gảy đàn ở đất
Thăng Long.

    Bươc sang thế kỷ XX, Hà Nội càng hay được
nói tới  một cách trực tiếp và nhiều
vẻ.Qua những trang sách của Thạch Lam 
Nguyễn Tuân Vũ Bằng chúng ta được biết có một Hà Nội tài hoa lịch
lãm  cũng như qua Nguyễn Huy Tưởng chúng
ta sống lại nhiều giây phút hào hùng của Thủ đô lịch sử. Tô Hoài đóng góp ở cái
phần khác. Hà Nội trong ông hiện ra với tất cả cái vẻ bình thường của một nơi
kẻ chợ, tuy không phải vì thế mà mất đi vẻ thơ mộng đáng yêu. 

    Ta cũng không nên quên rằng làng quê Tô
Hoài là một vùng có truyền thống văn hoá lâu đời. Trên những trang sách của
ông, Hà Nội  có hiện ra với nhiều đình
chùa hội hè, những phong tục độc đáo và thú vị, 
những chợ búa cầu quán  rêu
phong... thì cũng là điều dễ hiểu.

      Hà Nội 
vừa cổ kính vừa năng động, qua một thế kỷ Hà Nội từng hiện ra với hàng
trăm bộ mặt khác nhau và ngòi bút Tô Hoài như cũng bươn bả để tìm cách theo kịp
cuộc sống vùn vụt thay đổi của thành phố. Trước sau riêng về Hà Nội ông  đã có tới cả chục tập sách. Và nếu như có dịp
đặt chúng bên  nhau người ta sẽ nhận ra
một nét đặc  biệt trong  tình yêu của nhà văn này với vùng đất  thân yêu của mình : ông đã để tâm tìm hiểu
suy nghĩ không chỉ về Hà Nội hôm nay mà cả Hà Nội trong nhiều giai đoạn   lịch sử.

   Hà Nội thời người Pháp mới sang và những
người dân ở các làng xóm ven thị tập hợp nhau lại để chống xâm lược : Quê
nhà


   Hà Nội thời Pháp thuộc  đời sống ổn định mà cũng là đang tàn lụi :
Quê người


   Hà Nội 
những năm chuẩn bị Cách mạng tháng tám : Mười năm

   Hà Nội những năm sau hoà bình 1954 : Những
ngõ phố,người đường phố


   Hà Nội thời chống Mỹ : Chiều chiều

   Hà Nội những năm từ sau 1985: các truyện
ngăn như Tình tình gió bay, Người một mình...

   Tưởng như còn viết ông còn khơi ra được
những tầng đất trầm tích nằm sâu trong lòng Hà Nội.







                                                            
V




     Sự lịch lãm từng trải vốn là một yêu cầu
có tính chất sinh tử  thường được đặt ra
với mọi người viết văn và Tô Hoài rât hiểu điều này.

     Trong giới cầm bút thời nay ông nổi tiếng
là một người đi nhiều.

     Lúc trẻ đã ham đi, về già vẫn ham hố muốn
đi, ông từng để lại dấu chân  trên đủ mọi
miền đất nước.

     Để rồi, sau những chuyến đi ấy ông lại trở
về với thành phố thân yêu của mình.

      Hai ba chục năm trước, thuở Tô Hoài còn
gọi là trẻ, và vỉa hè Hà Nội còn rộng rãi đủ chỗ cho người đi lại,Tô Hoài (
cũng như Nguyễn Tuân đã quá cố ) thường 
thích đi bộ. Trầm tĩnh và tự nhiên, con người ông như lẫn đi giữa dòng
người xuôi ngược.

     Trong lòng Hà Nội, Tô Hoài sống với gia
đình bè bạn. Cũng trong lòng Hà Nội, Tô Hoài trở về với cái giới sáng tác mà
ông tự xem như một thành viên tích cực. Nhà văn này  thuộc diện chơi rộng, bạn chuyện của ông
thuộc đủ các ngành nghệ thuật khác nhau.

    Không có gì lạ nếu như  trong số 
đồng nghiệp, người này thích văn ông người kia chê ông  nhiều phen sa vào vụn vặt tầm thường,  một người khác nữa không phục  ông ở cái sự làm hàng, ai đặt cái gì
cũng  viết  và cho rằng như thế có hại cho văn chương...
Nhưng hầu như ai cũng phải công nhận đây là một ngòi bút tân tuỵ, một người
sống trong nghề tự nhiên, như con cá bơi trong nước, hơn  nữa lại 
có  quan niệm  riêng và tự tin sống theo cái cách mà mình đã
chọn.     

       Khi ngồi với nhau, nhiều nhà văn ở ta
thích khoe rằng mình viết  theo cảm hứng
và ngầm  tỏ ý chê bai những ai chăm chỉ
cần cù. Từ cách làm việc của  Tô Hoài ---
người  vốn lớn lên ở một làng  làm nghề 
dệt --- người ta thấy toát ra một điều : làm được  người thợ thủ công trên trang giấy  cũng thú vị 
lắm. Vả chăng cùng với sự viết, Tô Hoài thường còn tự nguyện  khoác lên mình đủ  thứ chức vụ trong Hội nhà văn cũng như có mặt
trong nhiều hoạt động xã hội khác. Vả chăng trong lúc ấy Tô Hoài vẫn chơi  vẫn 
hưởng thụ chẳng kém một ai. Đúng hơn có lẽ nên nói  ở nhà văn này có cả một quan niệm rộng rãi về
sự làm người, và ông đủ sức sống hết mình theo cái quan niệm mà ông tin tưởng.




                                                               VI




     Trong hơn sáu mươi năm miệt mài sáng tạo, Tô
Hoài bao giờ cũng dành một phần công sức và tâm huyết viết cho thiếu nhi. Ông
đã viết loại sách này  từ khi mới mười
tám đôi mươi vừa bước vào nghề ( Dế mèn phiêu lưu ký, Võ sĩ bọ ngựa ),
khi làm phóng viên báo Cứu quốc và theo bộ đội vào giải phóng Tây bắc ( Hoa
sơn,  Chiếc xe bí mật )
, khi về Hà
Nội trong nhiều năm đảm nhận công việc phó tổng thư ký Hội nhà văn ( Đảo
hoang, Nhà Chử
) và khi đã sang tuổi tám mươi ( một trăm truyện cổ tích ).

     Có thể nhìn vào mảng sách viết cho thiếu
nhi này để thấy một quan niệm nghề nghiệp của Tô Hoài : Ông không chê những
việc  nhỏ nhặt. Từng là tác giả của những
bộ sách vài trăm trang song ông vẫn sẵn sàng đứng tên sau những tập sách mỏng
mười lăm hai chục trang hoặc sẵn sàng viết lời cho những cuốn truyện tranh mỏng
mảnh.

      Thời trung đại,trong tâm trí những người
cầm bút ở ta, viết cho thiếu nhi chưa thành một đầu việc. Bộ phận văn học này
chỉ ra đời trong lòng xã hội hiện đại nghĩa là từ đầu thế kỷ XX trở đi, để rồi
nhanh chóng  thu hút được  đóng góp 
dù ít dù nhiều nhưng đã là có của nhiều cây bút hàng đầu trong  văn học 
Việt Nam...Trong đội ngũ khá đông đảo này, Tô Hoài  thuộc loại viết nhiều nhất  và trong một số trường hợp đã đạt tới trình
độ có thể nói là bất tử như trường hợp cuốn Dế mèn phiêu lưu ký  đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhà văn
thường nhắc lại với bạn đọc nhỏ tuổi cũng như con cháu trong nhà : ở đây viết
về giống vật mà thực ra là ông viết về con người với những mơ ước lành mạnh và
sự học hỏi thường xuyên trên đường đời. Dế 
mèn
sống mãi vì những tư tưởng nhân bản mà tác giả muốn thấm nhuần
trong lòng mỗi bạn đọc ít tuổi cũng như nhiều tuổi.




 

   

                                                    
VII




   Những
người có dịp cùng làm việc với  Tô Hoài
đều biết rằng nhà văn này thường có một vẻ ngoài  chậm rải, từ tốn. Tuy không đưa nghề chơi lên
trình độ một  công việc thiêng liêng như
Nguyễn Tuân, song cũng có những lúc ông trầm ngâm bên một chén ruợu hoặc nhẩn
nha bên một lồng chim...Cả những  lúc trở
về tập bản thảo hoặc  đánh bạn với những
bộ sách dày cộp  ông vẫn có vẻ thản nhiên
như không.

      Ây thế 
nhưng đó là cái vẻ bề ngoài. Trên một 
trăm năm mươi đầu sách đã in và hàng ngàn bài báo đã viết  làm chứng cho năng suất làm việc ghê gớm của
ông. Lại  như  bạn bầu với sách vở, cái việc nhiều người cầm
bút thời nay ngại ngần thì ông không bao giờ sao nhãng, trong giới nhiều người
đã biết rằng đây là một trong số ít nhà văn thượng vàng hạ cám cái gì cũng đọc.
Ham đi ham sống thế nào thì sự đọc của Tô Hoài cũng quyết liệt như vậy. Đọc đến
đâu tiêu hoá ngay  đến đấy. Ông thường
nhận viết các bài điểm sách ngắn để ghi nhận luôn những điều đã thu hoạch được
cùng những nhận xét khi đọc.







                                                             VIII




    Nhìn 
cái vẻ chăm chú  của Tô Hoài khi
tập theo  những động tác thể dục cũng như  khi lắng nghe một bản tin,  người ta không khỏi kinh ngạc không ngờ  một người đã ngoài tám mươi mà còn dẻo dai
bền bỉ làm sao !  Song Tô Hoài là  thế. Từ những trang viết thuở mười tám đôi
mươi, nhà văn này  đã có một giọng văn
khá già dặn,  ngược lại đến nay sau hơn
sáu chục năm làm nghề, ông vẫn khiến cho người ta kính phục bởi trong chừng mực
nào đó còn giữ được khả năng ngạc nhiên cùng là cái nhìn mới mẻ và tươi tắn  của tuổi trẻ. Trong ông hội tụ  những phẩm chất khác nhau đôi khi là trái
ngược nhau : say mê đấy mà cũng  tỉnh táo
ngay đấy, tinh nhanh đáo để trong nhận xét song lại cũng rộng rãi trong cách
nhìn người. Bắt tay vào việc, ông  vừa
biết làm vừa biết nghỉ,  biết học người
khác nhưng biết giữ lấy cách làm riêng của mình. Không coi việc gì là thường
nhưng lại không xem việc gì quá quan trọng, lối nhìn ấy đã thành một bản năng
quy định cách cư xử của ông. Bên cạnh sự thiết thực rất trần tục, ông lại
thường giữ được  một thoáng hư vô nó
khiến cho mọi việc với ông có được cái nhẹ nhõm và mau mắn nhiều người thấy
thèm mà không học nổi. Trong chừng mực nào đó có thể  mạnh dạn khái qúat rằng cách sống cách nghĩ
của những kiểu người như Tô Hoài  mang
trong mình nó cả những cái hay cái dở mà cuộc sống khắc nghiệt đã bồi đắp nên
cho mỗi người dân khắp   vùng đồng bằng
Bắc bộ mà họ  sinh sống.   




                                                     


                                                              IX

  

    Ở ta,
viết văn chỉ mới được coi là một nghề nghiệp từ đầu thế kỷ XX,tuy nhiên những
người  có cách hiểu đúng về nghề và thực
sự là đã làm nghề trọn vẹn bền bỉ chưa phải là nhiều. Trong bối cảnh đó một sự
hết lòng với nghề như Tô Hoài thật đáng ghi nhận. Luôn luôn ông có  ý thức đặt cả đời mình vào  việc cầm bút. Hoạt động của ông bao trùm  trên một phạm vi  rộng rãi, 
như người ta thường nói, mọi việc trong nghề từ A đến Z ông đều trải qua
và có cách giải quyết của mình.  Quen
biết nhiều  từng trải lắm quả thật có thể
nói  ông đã trở thành mộ cuốn từ điển
sống của nghề văn. Qua các  tác phẩm  đã in của ông,mãi mãi người ta còn tìm thấy
hình ảnh  con người  một thời, với tất cả những lo toan hàng ngày,
sự phấn đấu của chúng ta cùng là những khó khăn những hạn chế   hoàn cảnh đã đặt ra  mà không ai trong chúng ta vượt qua nổi.Thời
gian sẽ sàng lọc để chọn ra những gì tinh hoa Tô Hoài đã viết từ đó làm giàu
thêm cho văn học Việt Nam. Điều có thể chắc là các thế hệ sau trong khi giải
quyết những vấn đề đặt ra trong việc làm người và làm nghề  của mình, khi cần tìm hiểu lại quá khứ  có thể trở lại với những tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... thì cũng có thể  đọc lại 
Tô Hoài và đấy là điều chính tác giả của những Dế mèn phiêu lưu ký,
Miền Tây, Cát bụi chân ai,  Chiều
chiều...
cũng hằng ao ước.




 Lời thuyết minh cho phim chân dung Tô Hoài -- Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, 2002




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2014 11:36

July 4, 2014

Con người khám phá và con người thích ứng trong "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh

Một người bạn
trẻ vừa mang đến cho tôi cuốn Viết – cô đơn
& sức mạnh
của Nguyễn Thị Từ Huy. Trong sách ngoài mấy bài về văn học
nước ngoài nói những chuyện của  M. Duras,
A. Robbe - Grilett, R. Barthes… , tôi nhận ra có hai bài liên quan tới văn học
trong nước, một về Chí Phèo của Nam
Cao, và một về Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh.




Lâu nay tôi vẫn
ngán các nhà nghiên cứu đi học nước ngoài về mà không  bao giờ viết được một bài cho ra hồn về một tác
giả tác phẩm trong nước – viết cho anh em trong nghề chịu, chứ không phải viết với tâm thế của người từng đi học và nay thì đi dạy về lý luận.


May mà bài viết của Nguyễn Thị Từ Huy không đi theo cái lối ngược đời đó.  Từ Huy không có
ý định dùng tác phẩm VN minh họa cho một quan điểm lý luận nào – dù ai cũng
biết chị rất thạo về các loại lý luận văn học Tây phương đang trở thành mốt ở ta. Có vẻ như chị đã quên hết những lý luận đó.

Tôi không đánh giá các bài viết của Từ Huy ở đây. Tôi chỉ muốn nói Từ Huy đã
viết về  Nam Cao và Bảo Ninh  từ tâm thế của những người đọc thấy tác phẩm
liên quan đến mình,  liên quan đến các vấn
đề xã hội mà chúng ta đang sống, và muốn chia sẻ với mọi người.



 Người đọc có thể không đồng tình với các kết
luận của Từ Huy. Nhưng các ý kiến của nhà phê bình lại gợi cho người đọc cùng nghĩ
thêm về tác phẩm được nói tới. Trong hoàn cảnh ở ta hiện nay, được như thế cũng
đã quý lắm.




Bằng chứng về những tác động mà cuốn sách của Từ Huy để lại trong tôi:  sau khi đọc bài viết của chị về Bảo Ninh, tự nhiên tôi  phải trở lại với cuốn Nỗi buồn chiến tranh.  Và tôi xin phép mang cái bài về Bảo
Ninh đã viết từ bẩy tám năm trước
ra  in lại dưới đây, -- ngoài những bạn
đọc chưa đọc nó bao giờ, biết đâu có người đã đọc rồi nay muốn đọc lại. Mà trước tiên, chính tôi phải đọc lại để nghĩ cách đi tiếp viết tiếp. 




   Lời đề nghị cuối cùng : tất cả chúng
ta sẽ nhiều lần trở lại với Nỗi buồn
chiến tranh
  của Bảo Ninh như đã và sẽ trở lại nhiều lần với các thiên
truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Tới đây, các nhà phê bình phải có những chuyên
khảo có chất lượng viết về các tác giả đó. Vì họ đã viết nên những trang sách quan trọng bậc nhất
của văn học ta trong giai đoạn lịch sử chúng ta đang sống. Khi đọc, ta thấy có mình ở trong những tác phẩm ấy.

                            

        

Chiến tranh nhìn qua số phận cá nhân




     Có một quy phạm thường xuyên chi phối dòng
tiểu thuyết Việt Nam
viết về chiến tranh vốn đang còn khá lèo tèo. Bất chấp việc chúng được viết
ngay trong thời bom đạn hay trong thời bình mấy chục năm về sau, đó thường là
những cuốn sách dựng lại cả một bức tranh mở ra theo bề rộng, chiến tranh được
ví với một trận cuồng phong, hoặc một cỗ máy khổng lồ có sự vận động cùng lúc
của nhiều số phận. Con người trong các tác phẩm đó được miêu tả trong hình thế
một nhóm, một tập thể (từ nhỏ đến lớn) có tổ chức, có định hướng rõ ràng, và mỗi
cá nhân không hề có ý muốn trở thành độc lập bên cạnh đám đông. Mặc dù vẫn còn
những nét riêng tư, nhưng họ không bao giờ tồn tại như những con người tự thân,
mà chỉ được xem như người phát ngôn cho một vấn đề của xã hội.




   Chỗ giống nhau giữa Xung kích của
Nguyễn Đình Thi và Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu chẳng hạn là
cả hai đều bám vào một sự kiện cụ thể (mỗi cuốn sử dụng một chiến dịch “làm
nền”) rồi trong đó, một dàn nhân vật đi về lui tới suy nghĩ. Cái mà người ta
còn lưu lại trong đầu sau khi đọc là một không khí chiến tranh nói chung, còn
vấn đề “con người trong chiến tranh” chỉ là một nhánh phụ. Để hình dung ra con
người, bạn đọc phải đi theo lối đường vòng, và chắp nối người này một chút
người kia một chút.




   Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ngả sang một cách viết
khác. Thực tế là trong cuốn tiểu thuyết này, người ta có dịp bắt gặp toàn bộ
chiến tranh - một cuộc chiến tranh với đủ những địa điểm và những khoảnh khắc
tiêu biểu từ ngày đầu đến ngày cuối (không khí Hà Nội khi thành phố bắt
đầu tiễn con em ra chiến trường; những chặng đường từ hậu phương tới mặt trận;
những ngày sau tết Mậu Thân; giải phóng Sài Gòn…). Song tất cả đều thông qua ý
thức của nhân vật Kiên chứ không phải miêu tả trực tiếp. Tức là ở đây, chiến
tranh chỉ được thể hiện qua một con người, tác phẩm từ đầu đến cuối men theo
những ý nghĩ của nhân vật, dày đặc vui buồn, hối hận, trăn trở, bất lực của anh
ta. Trùm lên tất cả chỉ có một đường dây là từng trải của Kiên, mạch suy nghĩ
của Kiên, và bao quát hơn là số phận của Kiên. Thật khó đẩy tác phẩm vào trong
vòng tay của những khái niệm như “bức tranh toàn cảnh”, hoặc “một thiên sử thi
hoành tráng” mà chúng ta quen nghĩ.




     Trong khi mọi sự kiện trước sau bị đảo lộn
về thời gian thì chúng lại tỏ ra rất mạch lạc, nếu xét theo sự phát triển của ý
nghĩ và tình cảm của nhân vật chính. Mỗi sự kiện cụ thể ngoài ý nghĩa tự thân
có thêm một tầng khái quát: này là những lúc vui; này là những lúc chết lặng đi
vì buồn; những lần hoang mang tuyệt vọng (không lần nào giống lần nào); một
phen kinh ngạc vì cách xử sự của người này người kia. Trong suốt cuốn sách,
Kiên như chỉ có một mình. Các nhân vật khác chỉ sống trong ý nghĩ cả Kiên,
trong đó có một số nhân vật chỉ ngẫu nhiên được nêu ra rồi mất hút. Bù lại, tự
thân Kiên đã khá đa dạng. Gần như không có việc nào của lính mà Kiên không trải
qua. Trong anh, chất lính được chưng cất và cô kết lại. Lính nghĩa là không có
quyền lựa chọn số phận của mình. Lính nghĩa là gặp đâu hay đấy ngẫu nhiên thất
thường trôi nổi theo sự đưa đẩy của hoàn cảnh và không bao giờ dám đặt câu hỏi
tại sao mình lại như thế này mà không như thế khác. Lính nhiều khi đồng nghĩa
với vô vọng, bất lực.




    Cảm giác của chúng ta về chất lính trong
Kiên còn được củng cố, bởi với anh, cái chết luôn luôn trở lại như một ám ảnh.
Suy nghĩ về cái chết thường trực khi ăn cũng như khi ngủ, khi Kiên đơn độc một
mình, cũng như khi anh vui vầy giữa bạn bè. Với người lính này, cái chết là một
bộ phận của chính cuộc sống.




    Một trong những lý do khiến cho nhiều người
kiên trì lối viết “tập thể nhân vật” nói trên: người ta cho rằng làm thế mới có
khả năng xây dựng được những điển hình khác nhau và cái nào cũng cụ thể sinh
động, từ đó gộp cả lại khái quát nên thứ “chân dung nhóm” bao quát các kiểu
dạng con người đương thời. Xét về khía cạnh nghề nghiệp, tuy không tuyên bố,
nhưng dường như Bảo Ninh muốn nói  thật
ra một nhà văn không thể biết nhiều như anh ta vẫn tưởng; may ra anh ta chỉ
biết chính mình. Và từng con người mới quan trọng, từng con người chính là “vấn
đề của mọi vấn đề”, kể cả khi người ta sống và nghĩ về chiến tranh.




Cuộc sống dưới dạng hồi ức




    Ra khỏi chiến tranh, trong Kiên hàm chứa
một mâu thuẫn thường trực. Một mặt anh chai lì đi. Mặt khác, trong anh, dòng ký
ức về chiến tranh lại cuồn cuộn chảy và những chuyện nhỡn tiền chỉ là đầu mối
để anh nhớ lại chuyện cũ, thúc đẩy con người nhân vật  gắng vươn lên để nhận thức về quá khứ. Thành
ra cái vẻ uể oải “chẳng biết dùng đời mình vào chuyện gì” (tr 77 – số trang ghi
theo bản của Nhà Xuất bản Hội nhà văn, 1991) chỉ là bề ngoài. Trong cái dạng
sống riêng của mình, Kiên cực kỳ nhạy cảm và ngầm chứa một khao khát vươn tới
không gì cản nổi.




    Sự chai lì thật ra vốn được hình thành dần
trong quãng đời cầm súng của nhân vật. Những năm ấy, Kiên đã cảm thấy, “không
phải là mình đang sống mà như đang bị mắc kẹt trong cõi đời này” (87). Những gì
tốt đẹp trong ý nghĩ và tình cảm sớm bị mất đi. Người ta tự nguyện gác hết suy
nghĩ để hành động. Rồi cái nếp sống bức bối chật hẹp như thế này còn được tô
đậm thêm bằng hàng loạt bất lực thời hậu chiến. Kiên không biết lao vào kiếm
sống và hưởng thụ như mọi người. Cả đến những chuyện riêng tư cũng không biết
lo, có bao nhiêu việc đáng làm thì Kiên lại đã không làm, đến khi cái câu hỏi
khó chịu “đi đâu bây giờ, làm gì bây giờ?” ngày ngày vang lên như một ám ảnh,
thì quả thật là một cách xác nhận về tình trạng bế tắc thực sự.




    Thời bình cũng như thời chiến, Kiên đều đơn
độc. Chung quanh anh là những người vừa ra khỏi chiến tranh đã lập tức quên
lãng, lao đầu vào cuộc kiếm sống. Trong con mắt họ, Kiên như một kẻ mộng du.




     Nhưng chỉ cần đứng lùi ra xa một chút,
nhìn chặng đường chiến tranh như một phân đoạn lịch sử, chúng ta sẽ thấy ngay
rằng kẻ tỉnh táo không phải là cái đám đông hỗn độn kia, mà chính là Kiên. Đám
đông lao vào kiếm ăn thực ra đang mê muội. Ngược lại người chiến binh sống vất
va vất vưởng và tưởng đời mình như bỏ đi, mới là kẻ sáng suốt.




     Nhà văn Pháp J. Cocteau từng viết về mối
quan hệ giữa một thi sĩ với hoàn cảnh: “Ở đây chỉ một mình thi sĩ là người sống
giữa những người chết
, và chính trong giờ phút ấy thi sĩ đã làm mồi cho
chính sự chết - nó đang sống hơn là thi sĩ sống.” Tình cảnh của Kiên
cũng có những nét tương tự.




    Hồi ức làm nên lý do để sống. Trong lịch sử
văn học nhiều nước, hàng loạt cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh được viết
bởi sự thôi thúc phải nói to lên cái lời đề nghị đơn giản: không được quên
lãng. Một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga V. Rasputin mang tên Hãy sống và
hãy nhớ
(bản dịch tiếng Việt đổi đi một chút, gọi là Sống mà nhớ lấy).
Còn ở Việt Nam,
cuốn truyện vừa của Nguyễn Minh Châu mang tên Cỏ lau cũng có một ý tương
tự. Câu chuyện xoay quanh công việc đám lính hậu chiến đi tìm hài cốt những
người chết. Sau khi bảo rằng vùng này đất tốt quá chừng, vô khối là đất mà chỗ
nào cũng chỉ có giống cỏ lau mọc, tác giả viết, “Với bao nỗi toan tính hối hả
trong thời bình, mỗi con người chúng ta có lẽ đôi khi cũng là một cánh rừng cỏ
lau giàu sức sống, rất chóng lãng quên những người lính đã ngã xuống”. Bởi lãng
quên đe dọa đến chính cuộc sống, người ta phải tiến hành cuộc chiến đấu dai
dẳng để chống lại nó. Viết văn với Nguyễn Minh Châu hay Bảo Ninh nói ở đây
chính là để chống lại sự lãng quên đó.




Lạ hóa chính mình lạ hóa hoàn cảnh




Những
ai đã đọc Thời xa vắng, hẳn nhớ cách của Lê Lựu viết về quá khứ trong
đó: quá trình tham gia chiến đấu của Sài không được miêu tả cặn kẽ. Song nhà
văn vẫn làm cho người đọc thấy rõ Sài là một sản phẩm của chiến tranh, chỉ
chiến tranh mới đẻ ra những con người tương tự.





thể nói một đặc trưng của bản thân Sài là thái độ quan liêu. Nghĩa là, Sài cũng
ghi xương khắc cốt rằng mình lớn lên, bắt đầu làm người thực sự từ trong chiến
tranh. Song thực chất nó là thế nào, Sài không để ý. Ngược lại Sài cứ nhơn nhơn
như không, lại còn luôn tự lừa mình rằng chẳng có điều gì mà mình không hiểu,
và rộng hơn tự hào rằng ra khỏi chiến tranh mà bản thân cái phần tốt đẹp trong
con người mình vẫn còn nguyên vẹn.




    Niềm tự tin được đẩy lên thành một ảo tưởng
ấy đã làm nên cả đặc trưng của nhân vật trong Thời xa vắng. Thứ tự tin
nông nổi và có vẻ như đáng yêu đó là nguồn gốc của bao thất bại đến với Sài về
sau. Con người rút cục trở thành tù nhân của hoàn cảnh và càng lao đầu vào hành
động tình thế càng trở nên tuyệt vọng.




     Bề ngoài Kiên của Bảo Ninh không được như
Sài. Dường như anh không ra khỏi chiến tranh. Mưu cầu hạnh phúc cho bản thân,
anh không biết. Những trò hưởng lạc, anh không màng. Nhưng vẫn có thể nói so
với Sài, Kiên vượt lên một bực ở chỗ toàn bộ sức sống của anh tập trung vào
việc nhận diện chiến tranh. Nghĩ về nó. Ngày đêm ăn ngủ lúc nào cũng có nó.
Muốn khôi phục lại bộ mặt của chiến tranh như nó vốn vậy. Để làm việc đó, anh
sẵn sàng để cho ký ức nổi lên hỗn loạn, với dụng ý rằng sau đó tìm cách kiểm
soát nó, lý giải nó một cách chủ động.




     Lúc nào chiến tranh cũng được Kiên nhìn
như thuở ban đầu. Anh đến với nó từ một sự vô tư không thành kiến. Luôn luôn
thú thực rằng mình chưa hiểu. Luôn luôn sợ quên, sợ nhầm. Nghĩa là Kiên đã dọn
lòng một cách thanh thản, đã tạo cho mình khả năng đối diện với một thực tế khó
nhằn và có được ý chí ngoan cường trong việc chinh phục nó chiếm lĩnh nó. Nói
cho đúng ra, khi tự nhủ rằng với cuộc chiến tranh ấy, mình phải viết, thật ra
anh đã bước đầu khách quan hóa nó, tách nó ra khỏi mình, lạ hóa nó để tiêu hóa
nó. Có thể nói Kiên đã tìm thấy một đối tác tốt để đồng hành trên suốt quãng
đường đời còn lại.




    Có một sự thực là từ lúc chưa xung vào quân
ngũ đến lúc trở về, quan niệm của Kiên về vị trí và mối quan hệ của mình với
chiến tranh là nhất quán. Một mặt, như Kiên từng xác định, giữa cuộc chiến
tranh to lớn, anh “chẳng là gì cả” mà chỉ là một thứ  đinh ốc nhỏ, hoặc như chữ anh dùng “loại con
sâu cái kiến” trong cuộc biến động vĩ đại; và anh bằng lòng với số phận đó. Mặt
khác, hình như ở Kiên luôn luôn có một con người nữa, tách ra bên ngoài để soi
xét mọi chuyện, và đây là khía cạnh tự do bên trong, nó làm nên tầm vóc của
nhân vật. Lúc đã suy nghĩ thì nhân vật không còn bị một ràng buộc nào. Không bị
bắt vít vào những quan niệm thông thường. Không bị ảnh hưởng của những đồng đội
chung quanh. Một cái gì cơ bản hơn, những
nguyên tắc của việc làm người
- nếu có thể nói như thế - chi phối anh, len
lỏi trong những suy nghĩ của anh. Những kiến thức mà tuổi trẻ anh đã tiếp nhận
được từ  những người thân và bè bạn của
nền giáo dục ở nhà trường thường xuyên trở lại để giúp anh so sánh đối chiếu
với thực tế trước mắt.




       Trong cái vẻ ương ương gàn gàn, Kiên
vượt lên trên những người thông thường. Có thể nói trong văn học Việt Nam,
đây là một trong những trường hợp hiếm hoi, ở đó con người giữ nguyên được cảm
giác ngạc nhiên kỳ lạ về chính cuộc sống mà họ đã sống. Nhờ thế, một cuộc chiến
tranh chưa được biết tới lại hiện ra sắc nét và độc đáo, nghĩa là không giống
cuộc chiến thông thường mọi người vẫn hiểu.




Nhận thức như một lẽ sống

Trong
cảm nghĩ của Kiên, chiến trường có lúc có cái không khí rờn rợn của một cuộc
sống không thực. Có những khu vực ở đó, “chim
chỉ bay không kêu, măng nhuốm màu đỏ “
, và “rất nhiều hồng ma, một loại cây ưa máu” (các tr.7, 13). Mà đời sống
sau chiến tranh khi được phản ánh vào tâm trí Kiên cũng vậy, nó có cái không
khí “ nửa nhà thương nhà đòn”, như
chữ dùng của tác giả.




Sự
tỉnh táo trong cái nhìn hiện thực của con người này sớm bị thách thức. Thường
xuyên, Kiên cảm thấy mình lạc lõng chơi vơi chẳng biết bấu víu vào đâu.




Như
vậy là Kiên đã thất bại đã đầu hàng, như nhiều nhân vật vô tâm khác? (Có lúc
anh đã tự nhủ: “mình chả trở lại thành người được đâu!”).




Song
đó chỉ là một phía. Trong hoàn cảnh nhiều điều trái ý, khao khát nhận thức của
Kiên – một khao khát chẳng những bao giờ cũng âm ỉ mà nhiều lúc lại còn bừng
sáng lên đột ngột - đã trở thành cái phao để anh bấu víu. Nó mang lại cho anh
lẽ sống. Kiên cảm thấy đời mình không còn ý nghĩa gì khác ngoài việc nghĩ về
chiến tranh và khôi phục lại bộ mặt thực của nó. Các hồi ức của Kiên không dừng
lại ở mức độ cảm giác mà vươn tới trình độ của một nhận thức. Mối quan hệ của
Kiên với chiến tranh được đặc trưng bởi tự ý thức sâu sắc của nhân vật về môi
trường mà mình có mặt. Sống vốn đã là để nhận thức. Với chiến tranh cũng vậy.
Nơi người ta thường cho rằng mỗi con người phải quên mình đi cho hành động,
thực ra lại là mảnh đất tốt cho những suy nghĩ, phản bác, thể nghiệm, kiểm tra,
chấp nhận...




Chỉ
cần có ít kinh nghiệm về tiểu thuyết viết về chiến tranh ở Việt Nam,
người ta đã thấy những nhận thức đã đến với Kiên như vừa phác họa là vượt lên
trên sự thông thường, là lạc lõng xa lạ, và đây là điều đã được nhiều nhà phê
bình gọi ra. Nó cũng là nguồn cơn của nhiều giận dữ mà các đồng đội hôm qua đã
đổ lên đầu tác giả. Tuy nhiên, chỉ cần gạt bỏ thành kiến và lòng tự ái bẩm
sinh, những người đã trải qua chiến tranh sẽ thấy con người Kiên là hoàn toàn
bình thường. Và nhận thức của anh về chiến tranh không phải là suy nghĩ theo
nghĩa thông thường, mà là sự vận động trong đầu óc thực thụ:




- Nó mang màu sắc kinh
nghiệm cụ thể, kết quả của một sự tìm tòi cá nhân chứ không phải kinh nghiệm
bày đàn, một thứ chân lý do người ta học đòi nói leo, bị áp đặt và không có
thẩm tra thể nghiệm.





- Nó là cái gì người ta
cố từ chối mà không từ chối nổi, chứ không phải nông nổi bốc đồng, một thứ làm
dáng, ra cái điều suy nghĩ, ý  nghĩ vừa
đến trong đầu  đã kêu toáng lên dọa mình
dọa người.





- Nó (sự suy nghĩ ấy)
lung linh tồn tại như một cơ thể sống. Trong khi ở nhiều cuốn tiểu thuyết hậu
chiến khác, chiến tranh là đơn giản, chỉ có một nghĩa, dễ hiểu (để rồi dễ quên
dễ chán) thì ở đây, mặc dù đã sống với nó hết lòng, con người lại vẫn như là
chưa hiểu cái gì đã đến với mình  trong
những năm tháng không bình thường ấy.





Nhận
thức ở đây đồng nghĩa với khám phá, khám phá không bao giờ ngừng. Trong cái sự
chật vật để đi đến nhận thức, con người như đã ở vào trình độ sống hiện đại,
chứ không phải loại người “cổ lai hy”, hùng hục hành động và chỉ biết giải
thích công việc mình làm theo những công thức có sẵn.




Một đối trọng đầy sức ám ảnh




Bên
cạnh Kiên thì trong tác phẩm, Phương là nhân vật nổi lên hơn hết. Trong cảm
giác chung về nỗi buồn mênh mông và như một thứ không khí phả vào từng trang
tác phẩm, không chỉ có nỗi buồn xé lòng của Kiên mà còn có nỗi buồn dai dẳng,
nỗi cay đắng nằm tận đáy lòng của Phương. Khi Kiên đi sâu vào nhận thức để giải
mã cuộc đời, cái đối tượng có sức ám ảnh với nhân vật không chỉ là chiến tranh
mà còn là Phương nữa.




Trong
các bài hát lẫn trong thơ ca Việt Nam đương đại, người phụ nữ những năm chiến tranh
thường được hiện ra như những cô gái nhanh nhảu tháo vát, nếu không đi thanh
niên xung phong hoặc làm giao liên đưa bộ đội vào chiến trường thì đó cũng là
người con gái ở lại hậu phương chung thủy đảm đang, thay thế chồng con cha anh
trong những công việc đàn ông thường làm. Họ hết sức năng động trong phạm vi
những việc cụ thể, nhưng lại đơn giản sơ lược trong đời sống tinh thần, và
thường thiên về những giọt nước mắt sùi sụt, để rồi sau đó lại đột ngột cứng
cỏi một cách kỳ lạ đến mức khó hiểu, nếu không nói là giả tạo. Có thể bảo đó là
nét đặc biệt của người Việt nói chung, song ở phụ nữ, người ta nhận ra những
biểu hiện lý tưởng.




Trong
Nỗi buồn chiến tranh, Phương trước
tiên vượt lên mẫu người con gái thông thường đó để trở nên một ngoại lệ. Hãy bắt đầu bằng hình ảnh Phương trước
ngày tiếng súng bắt đầu nổ. Đó không phải chỉ là hình ảnh của hòa bình hạnh
phúc mà ngay từ lúc ấy, Phương đã là con người của một nhận thức mới. Trong khi
Kiên tính chuyện ra đi, lao vào hành động, thì Phương lại có cái nôn nao khó
tả, nó là nỗi dự cảm trước một điều lớn lao đang xảy tới. Toàn bộ sự nhạy cảm
của Phương được huy động khiến cho người ta cảm thấy Phương như vượt hẳn lên so
với người bạn trai cùng tuổi. Phương nói ra những điều lớn lao một cách trực
tiếp như là lịch sử đã ứng vào miệng cô. Buổi tối bên bờ biển (trong đợt Phương
với Kiên đi nghỉ) có cái không khí huyền bí của một thời điểm mặc khải, khi con người chợt nhận ra điều bí mật. Từ
lúc chưa ai cảm thấy, thì hình như Phương đã cảm thấy chiến tranh tới gần. Và
nhất là những gì Phương phản ứng trước cái thực tại sắp tới đó thì thật bất ngờ
mà suy cho cùng lại thấy rất có lý. Ngay từ lúc này người ta đã thấy Phương sâu
sắc hơn Kiên. Phương không chỉ sống với cuộc đời trước mắt mà còn sống với
những ký ức từ thuở người Việt viết nên Chinh phụ ngâm và ru con bằng
những câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non
”.




Nếu
sự chừng mực trong tiếp nhận chiến tranh ngay từ khi tiếng súng chưa nổ khiến
Phương có cái vẻ tiên cảm đến mức lạc lõng so với con người đương thời, thì cái
cách Phương hiểu về thời đại của mình càng sâu sắc lạ thường, một cách hiểu mới
mẻ đến mức người ta phải nghi ngờ. Nói chung trong cách xử sự, Phương là con
người vượt ra ngoài thông lệ. Đoạn tác giả để cho Phương cảm thấy gần với cha
Kiên hơn là Kiên, Phương đứng bên cha Kiên trong cái lần ông họa sĩ này đốt
tranh… bị một số người cho là giả tạo. Nhưng lô-gich của Phương là vậy. Phương
và cha Kiên tự nhận là những kẻ lạc thời và lạc loài, song sự thật, họ là tinh
hoa của thời đại họ, là những con người của nhân văn nhân đạo, của vĩnh cửu.




Ngay
từ đầu, với trình độ hiểu biết của mình, Phương dường như đứng ngoài không gian
thời gian. Từ chỗ đứng đó Phương tìm ra nguồn sức mạnh tinh thần để hòa hợp với
xã hội. Kiểu nghĩ trí tuệ một cách bản năng như thế giúp Phương không
cứng nhắc trước cuộc đời. Việc Phương tự biến đổi theo hoàn cảnh mà chúng ta
thấy về sau như có thêm bảo đảm rằng con người tưởng như ngoại lệ này vẫn là
trường hợp bình thường. Trong Phương có cái phần mà nhiều người khác có, nhưng
lại lảng tránh.

     

Thích ứng để tồn tại    

Trong
những lần bàn về cuốn sách của Bảo Ninh, một số người có nhắc tới nền văn học
xô - viết viết về chiến tranh, và những bộ phim làm theo cảm hứng của những tác
phẩm tinh hoa trong nền văn học đó, kiểu như Khi đàn sếu bay qua
hoặc Bài ca người lính. Trong những tác phẩm ấy, các nhân vật nữ hiện
lên như những con người sẵn lòng để người yêu ra đi, nhưng trong lòng xiết bao
đau đớn. Rồi ngay trong lòng hậu phương bản thân họ cũng bị vùi dập. Tình cảnh
đáng thương xảy ra theo nghĩa con người trở nên suy đồi mặc dầu họ không muốn.
Họ quay ra rượu chè chơi bời, tức chìm dần vào những lầm lạc. Yếu đuối tầm
thường tồn tại trong họ ngay bên cạnh cái cao đẹp, cái sang trọng. Song không
phải vì thế mà họ đáng trách: họ chỉ là nạn nhân của cuộc chiến.

Phương
trong Nỗi buồn chiến tranh có những nét gần với các nhân vật người Nga
nói trên.


Phương không có cái kiêu ngạo đầy ảo tưởng “ví đây đổi phận làm trai được -
thì sự anh
hùng há bấy nhiêu” (thơ Hồ Xuân Hương).

Phương
cũng không phải mẫu người con gái cam chịu hoặc gồng mình hy sinh, lấy sự đau
khổ làm số phận.

Thế
thì đâu là nhân tố Việt Nam
còn lại trong lòng người con gái kỳ lạ này?

Đó
là sự thích ứng.

Qua
miệng bà mẹ của Phương, tác giả sớm nhận xét Phương có xu thế vươn tới
sự hoàn hảo và mơ ước nhập thân vào cuộc sống
(tr 238). Chỉ cần có chút
kinh nghiệm trường đời, người ta sẽ hiểu ngay là thật vô phúc cho người đàn bà
Việt Nam nào hội trong mình cùng một lúc cả hai phẩm chất trái ngược đó. Bởi sự
sống ở đây bao giờ cũng mang trong mình nó sự vô thường, sự dang dở. Muốn hoàn
thiện thì người ta trước sau không tránh khỏi gãy nát, sụp đổ.

Cũng
may mà ở Phương, sự nhạy cảm vẫn mạnh hơn, và cô biết từ bỏ cái ao ước ban đầu
kia để giữ lấy cho mình phẩm chất thứ hai.

Sự
thích ứng đến với cô một cách tự nhiên. Thích ứng như sự phá bỏ nguyên tắc bất
chấp mọi điều kiện. Thích ứng cao hơn tự do, cao hơn lòng tự trọng. Thích ứng với
nghĩa có thể đầu hàng, có thể giả tạo, có thể từ bỏ chính mình, miễn sao được
sống.


lẽ phải nói tới những gì lưu truyền trong máu huyết  thì mới giải 
thích được sự thích ứng của 
Phương, một  sự thích ứng ấy không
chỉ nhanh nhạy mà còn bền chắc và trở thành yếu tố chủ yếu làm nên sự sống của
nhân vật .




Đầu
tiên là sự thích ứng với những đổi thay không kiểm soát nổi mà  chiến tranh mang lại. Bước ngoặt này xảy ra ở
chỗ nhà ga Thanh Hóa. Phương theo tiễn Kiên. Lúc ấy cả hai từ Hà Nội vào và đã
trải qua một hành trình kinh khủng. Giờ họ rơi tõm vào cái ga bị ném bom. Trong
lúc lạc Kiên, Phương bị rơi vào tay một 
thằng đểu. (Đây là một thứ tình thế phổ biến, chiến tranh ở đâu cũng có,
tuy rằng lại ít khi được nói tới trong các tiểu thuyết  Việt Nam -- bởi  đằng sau đó, người ta luôn luôn đọc ra mặt
trái của chiến tranh).

So
với những xô đẩy mà Kiên phải chịu thì sự mất mát của Phương là lớn hơn nhiều.

Nhưng
chúng ta hãy xem họ phản ứng như thế nào?

Sau
cơn lê lết đau đớn ê chề, Phương nhanh chóng hồi phục.Trong con mắt người bạn
trai, cô vẫn cứ lộng lẫy “mềm mại, mịn màng”, tóm lại là tuyệt mỹ (tr 269).

Nhưng
với Kiên, sự thích ứng của Phương là cả một tội lỗi. Phương của anh đã mang cái
tội phản bội, cái tội đầu hàng, “quỳ gối trước cái số phận mới mẻ” (tr 264) và
chàng thanh niên không bao giờ tha lỗi cho cô gái về cái tội để cho kẻ khác xúc
phạm tới cái tuyết sạch giá trong mà lại quên ngay được, và trở về với đời sống
bình thường dễ dàng như vậy.

Trong
khi Kiên đau đớn, Kiên bực tức, Kiên muốn người bạn gái phải tự xỉ vả, tự xử
tội mình, phải muốn chết đi vì xấu hổ, thì ngược trở lại, Phương coi tai họa
như một cái gì tự nhiên phải đến và không hề có mặc cảm phạm tội. Cô không bị
ràng buộc vào những quan niệm cổ lỗ như phần lớn con người đương thời. Với cô,
chung thủy hay phản bội lúc này chẳng có ý nghĩa gì cả.




Một
lý do huyền bí nào đó đã mách bảo nhà văn lấy đoạn này làm cao trào của truyện
và đưa nó vào phần kết, xem nó như cái chìa khóa để hiểu toàn bộ tâm lý nhân
vật. Đây là thời điểm đánh dấu sự vượt cao của Phương so với Kiên, không phải
chỉ trong ý nghĩ mà còn trong hành động. Từ đây, Phương như trở thành một con người khác. Phương như vừa tự phát
hiện ra một cái gì rất mạnh của mình mà trước đây, mình không thấy hết, và một
người như Kiên càng không thấy hết.




Nhớ và quên đều có lý




Sau
khi đã có sự thích ứng thứ nhất – thích ứng với chiến tranh – thì sự thích ứng
thứ hai ở Phương - thích ứng với hoàn cảnh hậu chiến – sẽ đến một cách tự
nhiên, mặc dầu nó xảy ra một thời gian dài và diễn biến với nhiều cung bậc hơn.




Một
điều đối lập ai cũng thấy khi so sánh Phương và Kiên sau chiến tranh: trong khi
Kiên đào bới vào ký ức và tin tưởng ở sứ mệnh người tiên tri của quá khứ mà
mình tự nguyện đảm nhận thì Phương gần như có thái độ ngược lại.





đồ suy nghĩ của Kiên bao gồm mấy bước. Ra đi trong náo nức; khi nhập cuộc sớm
thất vọng và bắt đầu cảm thấy cần tìm hiểu sự thực về chiến tranh; đến thời hòa
bình, cái định hướng suy nghĩ này của anh càng trở nên rõ rệt. Trong thâm tâm,
Kiên mang máng cảm thấy rằng đẻ mình chìm vào mạch nghĩ như vậy là có lỗi. Giá
kể có thể giống như mọi người, buông mình trong lười biếng, lẫn mình đi giữa
đám đông, thỏa thiệp với chung quanh thì thật tiện. Nhưng bản chất con người
buộc Kiên phải làm khác. Có một cái còn quan trọng hơn sự chung sống hòa hợp
với mọi người chung quanh, thậm chí cao hơn hạnh phúc theo nghĩa thông thường,
đó là tìm ra sự thực đời sống. Tính chất nhất thiết của quá trình nhận thức
khiến cho Kiên có cái chất mà các nhà nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết
thường nhấn mạnh: sẵn sàng chống lại hoàn cảnh; đi đến cùng trên con đường đã
chọn.




Theo
cách hiểu thông thường, thì rượu chỉ làm cho người ta say sưa quên lãng. Đằng
này Kiên lúc nào cũng khát rượu, vậy mà anh rất tỉnh, càng rượu càng tỉnh, rượu
giúp anh sáng suốt tập trung sức lực vào công việc. “Chỉ có người nào biết bỏ qua những cái lặt vặt thì mới nhận ra được cái
chủ yếu của đời sống
” — cái nghịch lý ấy ở đây lại được ứng nghiệm.




Nhìn
vào những cuộc phiêu lưu trong văn học phương
Tây thế kỷ XX
, M. Alberes bảo rằng nay là lúc người ta không đòi hỏi nghệ
thuật phải đi vào khám phá ý nghĩa bí mật của sự vật mà nó, nghệ thuật, chỉ được dùng như một phương
tiện giúp con người tự vấn và thách đố lại mọi ảo tưởng cũng như sự lừa dối
.
Kiên sẽ phải viết tiểu thuyết là vì như thế.




Còn
Phương. Khi nói thẳng khi quanh co, song bao giờ Phương cũng kiên trì một thái
độ: mọi chuyện hôm qua không thể giải thích; và cách tốt nhất để sống là hãy
quên hết chuyện cũ. Cuối cùng, giống như một kết cục tất yếu, Phương đã bỏ đi
trong sự nhớ tiếc khôn nguôi của Kiên. Đi như là một sự lãng quên tuyệt đối.




Chúng
ta nên hiểu sự kiện này như thế nào? Trước hết, với Phương đây là bước đi hợp
với logic. Nếu Kiên là con người của tình thế trước mắt thì Phương là con người
của một cuộc đời dài rộng hơn. Kiên là cái duy lý mà chúng ta vốn thiếu trong
khi Phương là cái duy cảm mà người Việt có thừa. Kiên đầy hào hứng trong việc
miên man sống với ký ức vì thật ra Kiên vẫn là mình, vẫn giữ được mình trong
chiến tranh. Còn Phương, sau cái bề ngoài nhởn nhơ và cái vẻ đẹp nguyên vẹn
kia, thật ra cái cô Phương “bậc thày thích ứng” kia đã không còn là mình nữa.
Xét ở một phương diện nào đó, nhờ thích ứng mà Phương vẫn tồn tại, nhưng xét
trên một phương diện khác, con người Phương hôm qua không còn dấu vết gì nữa,
Phương đã thất bại.




 Bề ngoài là một tính cách lạc lõng so với số
đông, song Phương là tập đại thành của tính cách cố hữu mà người Việt nào cũng
mang sẵn trong máu.




Song hành như những thách thức




 Chỉ cần đứng tách ra một chút để chiêm nghiệm
đời sống tinh thần của xã hội những năm chiến tranh, thì người ta phải nhận là
qua việc dựng lại diễn biến của nhân vật Phương, Nỗi buồn chiến tranh
có thêm một tầng ý nghĩa mới.

Phương
với tác giả không phải chỉ là chỉ một cách để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ
như nhiều cây bút phê bình đã viết.

Nhìn
lại, trong cả cuốn tiểu thuyết, ta thấy hình ảnh Phương làm nên một cái nền
vững chãi cho Kiên. Bên cạnh Kiên, Phương là một kẻ đồng hành để so sánh. Một
kẻ đối thoại quyến rũ. Và một cách nhìn đời khác, một thách thức.

 Lúc gần gũi và thông cảm với nhau, Phương là
cái phần cao đẹp mà Kiên không vươn tới. Lúc bị cuộc đời hành hạ, Phương là kẻ
biết mau mắn chấp nhận để tồn tại, có cách nghĩ thực tế hơn hẳn so với nỗi đau
đớn khôn nguôi của Kiên.

Với
việc bỏ đi xa để lại cho Kiên niềm nuối tiếc, Phương trở thành tượng trưng cho
cuộc đời gần gũi đấy mà bí ẩn đấy, cái cuộc đời vừa  tẻ nhạt chán chường vừa đầy sức quyến rũ mà
trong một phút xuất thần, Lưu Quang Vũ đã kêu lên như một lời thú nhận:





ai nói cho lòng ta hiểu nổi


Về
cuộc đời ghê gớm ta yêu 





     Tình thế Phương thời hậu chiến không được
nói nhiều, song cái lý riêng của tình thế đó thì đã rõ. Nhân vật tồn tại như một
biểu hiện của cái mệt mỏi buông xuôi thấm vào đám đông sau chiến tranh. Sau
những năm tháng bất thường, nó xoay con người đến nát tươm, nó làm cho con
người trở thành méo mó kỳ dị…, người ta vẫn muốn sớm quay về cuộc đời bình
thường. Nhất là sau một cuộc chiến quá sức, biết mình không thể hoàn lương trở
lại, người ta muốn tạm đắp điếm cho xong, muốn tìm một sự bình yên cần kíp cho
cuộc sống trước mắt, dù biết là nó giả tạo. Theo mạch thời gian, thấy càng về
sau Phương càng mất hình mất dạng, càng như tan biến đi, trong khi đó Kiên càng
kiên trì hơn với những câu hỏi ám ảnh, càng trở thành chính mình.

 Phương là sự bình ổn với bất cứ giá nào, bình
ổn để nhắm mắt sống cho qua cái hiện sinh ngoài tầm kiểm soát; ngược lại  Kiên – trong hành động nhận thức của mình -
lại nổi bật lên như là yếu tố hư vô mà thách thức và do đó thúc đẩy cuộc đời đi
tới.




     Việc miêu tả quá trình song hành giữa hai
nhân vật có sự bổ sung cho nhau như Phương và Kiên khiến cho hình ảnh con người
trong Nỗi buồn chiến tranh như được gợi mở với nhiều chiều kích rộng
rãi. Trong khi ghi nhận hai nhân tố có thực trong đời sống, đồng thời tác phẩm
còn tồn tại như lời mời gọi cuộc đối thoại mà lẽ ra xã hội hậu chiến nên đón
nhận. Dù những đề xuất ấy không được chính thức hưởng ứng, song trong đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam hậu chiến, các nhân vật như Kiên như Phương vẫn
đã hiện diện với đời, và đấy là cái làm nên lý do trường tồn của tác phẩm.
Không mấy khi, nhà văn Việt Nam
xây dựng được những nhân vật có ý nghĩa thách thức như thế.




2006 -07

 In lần đầu trên mạng talawas.org 22-11-2007



Đã in
lại trong Vương Trí Nhàn – Phê bình &
tiểu luận 2009
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 04, 2014 08:47

June 26, 2014

Khi một nền giáo dục không còn khả năng tự cải hóa tự thay đổi





Giá trị khoa học cao nhất thời nay là biết chăm chỉ phục vụ thời sự

Việc một số nhà giáo dạy văn kì cựu tỏ ý hoan nghênh đề thi tốt nghiệp THPT năm nay bàn về biển đảo không làm cho những người như tôi ngạc nhiên.

Chẳng qua các nhà giáo ấy chỉ muốn khẳng định con đường mà họ đã theo từ trước đến nay.

Con đường nào? Đó là thông qua văn học—chủ yếu là văn học hiện thời --, thuyết minh rao giảng cho các hoạt động đang thu hút sự chú ý của xã hội và coi đó gần như là công việc chính của người giảng dạy một bộ môn nhân văn như văn học.

Lịch sử kể cả lịch sử văn chương chả là thứ gì xa xôi trừu tượng mà phải quá lo. Tất cả trông vào phản ứng của người ta trước tình hình thời sự.

Người sáng tác cũng như người giảng dạy văn chương phải coi phục vụ thời sự là niềm hãnh diện.

Nhiều thế hệ người thày đã quen với ý nghĩ như vậy.

Từ đó, nếu có đào tạo ra một lớp người đời sống tinh thần nghèo nàn, nghề nghiệp không có, lấy việc làm theo mệnh lệnh từ trên xuống làm niềm tự hào…thì cũng chẳng ai lấy làm xấu hổ.

(Trên đây cũng là cách hiểu của tôi với điều mà nhà nghiên cứu Giáp Văn Dương gần đây mô tả -- chúng ta chỉ lo đào tạo con người công cụ. Chỉ xin bổ sung thêm, thứ con người công cụ mà nền giáo dục ta đào tạo nên là loại công cụ quá cổ lỗ thô sơ ; trong trường hợp sản phẩm giáo dục đang nói, đó là một thứ công chức xoàng xĩnh không ai muốn dùng).



Một sự sai khác dễ thấy khi so sánh

Có nhiều điều do đã quá quen, nên ta tưởng ở đâu cũng vậy lúc nào cũng vậy sau biết rộng ra hóa không phải.

Thử nhìn vào các cuốn sách giáo khoa môn văn ở bậc tú tài Sài Gòn trước 1975. So với sách tương tự Hà Nội, chỗ khác thì nhiều, trong đó có cái điểm là ở đó có một tinh thần khoa học nghiêm túc với nghĩa:

-- không bao giờ có chuyện văn học phục vụ chính trị một cách thô thiển nói chung,

-- không bao giờ dành cho văn chương đương thời một sự sùng bái quá đáng; không ép học sinh phải học mọi thứ văn chương vừa viết rời tay và mới xuất hiện trên báo chí vài năm ….

Còn ở Hà Nội thì sao? Trước khi vào Đại học Sư phạm Vinh, tức là từ hồi còn học cấp II, cấp III Chu Văn An, tôi đã biết rằng các nhà nghiên cứu văn học đương thời bị khống chế theo cái phương châm học từ Trung quốc sau 1949 là hậu kim bạc cổ.

Lúc học đại học, phần văn học cổ điển chúng tôi chỉ được học rất sơ sài. Bao nhiêu sinh viên có năng lực đổ xô cả vào việc tìm hiểu văn học đương thời, lấy việc được tham dự vào đời sống văn học trước mắt làm niềm tự hào. Còn một số sinh viên chót đi theo văn học cổ điển và văn học nước ngoài thì đành xót xa như bị đẩy ra chầu rìa trở thành người đứng ngoài cuộc. Phải một thời gian họ mới học được cách làm cơ hội chủ nghĩa ở trình độ cao hơn, sẵn sàng bóp méo lịch sử phục vụ thời sự và nhờ thế, họ lại trở nên cao giá hơn. Nhưng đó là chuyện về sau.

Khái quát lại thì thấy Các vấn đề nội tại của một ngành khoa học, các vấn đề mà nó phải đối diện trong suốt lịch sử hình thành không là gì cả, nếu nó không phục vụ thời sự.

Không chỉ môn Văn, mà các môn khoa học xã hội khác cũng đều đi theo hướng đó, nhưng ở môn văn, người ta lại hay có những lý lẽ che đậy khéo léo hơn, do đó đáng xấu hổ hơn.

Từ những người quản lý giáo dục cho tới các giáo viên đều thống nhất xác định nhiệm vụ của khoa học là góp phần lý giải các hiện tượng thời sự, còn cái gốc khoa học thì bị lảng tránh và tùy tiện thay đổi, chín bỏ làm mười là thường, mà bốn năm, thậm chí hai một,cũng vẫn là con số mười đẹp đẽ.

Thời sự ở đây vừa có nghĩa là đời sống tinh thần sau 1945 nói chung, vừa có nghĩa là các vấn đề nổi cộm của từng năm tháng cụ thể.



Một hệ thống phụ thuộc và bị hòa tan

trong hệ thống hành chính vô cảm


Trở lên là tình trạng giáo dục phục vụ chính trị trên bề mặt.

Sự phục vụ này còn đi vào bề sâu, biến thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của một bộ máy đồ sộ -- cả trong việc dạy và học số người trong ngành tính ra phải là con số chục triệu.

Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền lực.

Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không làm gì chỉ về mở trường trong vùng. Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ , huyện -- là người do triều đình cử chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.(1)

Sang thời cách mạng thì hoàn toàn ngược lại. Nhiều vị sư do nhà nước phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.

Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do ủy ban cử sang.

Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.

Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.

Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.



Một trong những chuyện buồn cười nhất thời gian gần đây là chỉ thị của Bộ gíáo dục cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.

Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào.

Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.

Một kỷ niệm nữa từ những năm 55 – 58, tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay xác cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.

Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích càng phổ biến.

Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, có làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao thì không ai cần biết.



Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở ta kể với tôi Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. Nhưng về sau do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.

Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc chứ không phải à uôm như từ sau khi Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên qua đời tới nay.



"Giáo dục thì ta không kém gì thế giới"

Một lần đọc hồi ký Đoàn Thêm, tôi biết rằng ở miền Nam trước 11-1963, ông Ngô Đình Diệm có một nhận thức về nền văn hóa giáo dục nước nhà rất đặc trưng cho người Việt. Đại ý, theo Ngô Đình Diệm, nước ta kém gì thì kém chứ dân ta rất ham học, ta có truyền thống về văn hóa giáo dục, có thể làm gương mẫu cho các nước Đông Nam Á(!) .

Về mặt này, có thể nói là giữa nhà chính trị họ Ngô với các đối thủ tức là những người của bên thắng cuộc, như chữ dùng của Huy Đức, hoàn toàn có một sự tương đồng.

Ở Hà Nội trước 1945, chúng tôi cũng được rót vào đầu niềm tự hào về thứ “cao quý nhà nghèo” của giáo dục văn hóa xứ mình và các vị bề trên đứng ra chèo lái xã hội thì đều là những nhà văn hóa nhà giáo dục có tầm vóc quốc gia.

Tuy nhiên,ở miền Nam, sau khi Ngô Đình Diệm đổ, đến thời các vị tướng làm chính trị, thì họ khôn ngoan hơn. Bảo rằng bỏ mặc cũng được mà bảo rằng thức thời cũng được, họ cho phép nền giáo dụclúc ấy vượt lên cái cổ hủ vốn có, kể cả vượt qua cả nền giáo dục khá bài bản thời Pháp thuộc, để chuyển sang học cách làm giáo dục mới mẻ của người Mỹ.

Theo tôi hiểu, một trong những nét làm nên bản chất giáo dục Hà Nội và nay mở ra cả nước, đó là sự tiếp nối, là bộ mặt hiện đại của một thứ giáo dục làng xã tiểu nông, cái gì cũng tàm tạm gọi là có mà không cái gì đạt tới trình độ một nền giáo dục chân chính. Nhưng đó là ý tôi biết được về sau. Suốt thời trẻ chúng tôi phải quán triệt một nhận định của trên

-- chúng ta có một nền giáo dục thuộc loại tiên tiến trên thế giới

-- sau những học lỏm ban đầu của các nước anh em Liên xô Trung quốc, nay đã đến lúc chúng ta chẳng cần học ai cả.



Mất dần mọi sự thiêng liêng

Dịp cuối niên học 2013-14, một anh bạn trạc tuổi tôi đi họp phụ huynh cho cháu nội trong nhà đang học tiểu học trở về kể rằng không khí nhà trường sao ngao ngán hết chỗ nói.

Cái chính tức là nhà trường hiện nay truyền sang học trò tinh thần thi nhau cạnh tranh để giành những danh hiệu.

Trong việc đánh giá học sinh sau một năm học, người ta có chú ý đến nội dung bài vở nhưng nhiều chỗ che giấu hoặc làm lấy lệ; cái quan trọng hơn là trình độ thích ứng của mỗi em trước sự nhào nặn của nhà trường .

Từ đó nẩy sinh trong học sinh và phụ huynh tâm lý chỉ chăm chăm xem mỗi em học sinh ở vào cái thang bậc nào trong bảng thành tích mà nhà trường xếp đặt. Những chuẩn mực kiến thức cũng như đạo đức của em trở nên một cái gì hết sức trừu tượng và xa lạ.



Một lần, tôi đã đọc được lời than phiền của một phụ huynh là sao trong những dịp khai giảng thì bắt con em họ phải tập đi tập lại những động tác rất vô nghĩa để đón những cán bộ ủy ban sang dự. Trong khi đó cảm giác của người học sinh về sự thiêng liêng của nhà trường, sự thiêng liêng của buổi lễ khai giảng, hoàn toàn là một cái gì khó hiểu đối với lớp trẻ đương thời.



Khi nghĩ về những năm học tiểu học của mình, tôi luôn nhớ về các thầy, các cô cũ. Không hiểu sao, tôi cảm thấy đối với các thầy có một sự kính trọng thật sự.

Con em chúng tôi hiện nay khi nói về nhà trường không mấy khi chúng nhắc tới những người thầy mà chúng đang học. Ngày 20-11 có đi chúc tết các thầy thì cũng sớm hiểu đây là cái lệ không làm không được.

Khoảng từ 1964 trở về trước, ở Hà Nội người ta còn chọn lọc khi tuyển người vào ngành sư phạm. Tức là có những người có thể rất giỏi, rất được việc nhưng nếu không có cách sống thế nào đó, không có thói quen đạo đức thế nào đó thì được khuyên là không bao giờ nên đi vào ngành sư phạm. Vì là thầy lúc đấy cũng là một sự nghiệp thiêng liêng như tu hành vậy. Người ta không thể mưu cầu danh lợi khi đi làm thầy.

Có điều, đấy chỉ là di sản còn sót lại của nền giáo dục trước 1945 và kéo dài lót đót qua kháng chiến. Ngay trước 1975 tinh thần thực dụng cũng đã thấm vào lớp thanh niên mới lớn chúng tôi mà việc chán bỏ ngành sư phạm đã thành một thứ luật bất thành văn. Chúng tôi bảo nhau đó là nghề bán cháo phổi, nghề chở đò qua sông. Trong sự đãi ngộ của nhà nước thì hồi đó lương giáo viên thuộc loại thấp, ở nhiều vùng nông thôn, giáo viên phải làm thêm mới đủ sống.Có người nêu ra định nghĩa người giáo viên tức là người nông dân có thêm nghề phụ là nghề gõ đầu trẻ.

“Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạm thông qua, nông lâm bỏ xó”

“Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”…


những câu danh ngôn được truyền tụng hồi ấy gần đây tôi còn được nghe nhắc lại, với ngụ ý là tất cả những tệ hại xảy ra hôm nay, nó đã bắt nguồn lâu lắm rồi, ngay từ lúc xã hội còn thịnh trị.



Có một chuyện mà tôi thấy tuy có vẻ nhỏ nhặt không đáng nói nhưng sao tôi vẫn thấy cần nói. Tại sao nền giáo dục của chúng ta, nhất là giáo dục tiểu học lại toàn sử dụng phụ nữ. Nhiều cô giáo quá, tỷ lệ cô quá cao. Nếu tôi không lầm có đến 80 – 90% giáo viên tiểu học các trường là phụ nữ. Theo sự hiểu biết của tôi, nhất là qua tìm hiểu nền giáo dục của các xã hội bình thường khác thì ngay trong trường tiểu học, học sinh đã cần lây truyền tính khỏe mạnh, cương nghị, quyết đoán của nam giới chứ không chỉ cần sự ngọt ngào, tình cảm của nữ giới.



Cạn kiệt năng lực thay đổi

Trong bài viết Làm sao cứu vãn nền giáo dục phi chuẩn mực này được? tôi đã nói tới tình trạng đang ngại nhất của nền giáo dục hiện nay – nó tiên thiên bất túc, bất thành nhân dạng do đó vô phương cứu chữa.

Người ta vẫn đang lớn tiếng yêu cầu là phải có những cải cách mạnh bạo trong ngành giáo dục. Nhưng với những người đang làm giáo dục hiện nay, tôi có cảm tưởng ở họ đã cạn kiệt năng lực tự thay đổi.

Muốn thay đổi được họ phải biết một nền giáo dục chuẩn mực là như thế nào, giáo dục các nước khác ra sao. Đằng này, họ không bao giờ biết một cái gì khác ngoài nền giáo dục mà họ đang sống và là những trụ cột. Người viết sách giáo khoa không biết rằng sách giáo khoa ở các nước khác người ta viết như thế nào. Người lên lớp giảng không biết rằng ở các nước khác người ta làm việc với niềm tin thế nào, kiến thức thế nào.



Trong đời làm báo hồi trẻ, tôi luôn luôn bắt gặp những người phụ trách báo mà không biết tờ báo nào thời trước cách mạng, không bao giờ biết nào tờ báo ở nước ngoài và còn tham gia vào việc ngăn chặn cấp dưới của mình đọc các tờ báo ấy. Thế mà họ cứ làm công việc phụ trách báo vài chục năm trời.

Đến khi làm xuất bản tôi cũng gặp những ông giám đốc không hề biết nghiệp vụ xuất bản là gì. Nhiều ông nhà không có tủ sách cá nhân, bản thân không bao giờ đi lùng sách, không bao giờ ra các cửa hàng xem người ta mua sách ra sao. Vậy mà những vị giám đốc ấy, khi tiếp khách nước ngoài (hồi trước 1986, khách Liên xô có, khách Trung quốc có), vẫn tự tin rao giảng kinh nghiệm xuất bản của mình cho khách.

Những người thầy giáo và nói chung là những người làm giáo dục ở ta cũng trong tình hình tương tự. Mà chuyện bên giáo dục cũng là chuyện của mọi ngành khác.



Đã đến lúc không còn biết học ở đâu nữa

Một trong những bài thơ thường trở lại trong đầu óc tôi những ngày này là bài 1940 của Bertolt Brecht



Con tôi hỏi: hay là con học toán?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Khó gì con?

Con sẽ tính ra rất dễ dàng rằng

Hai mẩu bánh ăn no hơn một mẩu

Con tôi hỏi: hay con học tiếng Pháp?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Nước suy rồi

Con cứ việc lấy tay xoa bụng

Gào lên, người ta sẽ hiểu con.

Con tôi hỏi: hay là con học sử?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Con ơi.

Con hãy học vùi đầu xuống đất

Có thể mai ra còn sống thoát được chăng!



Thế rồi, tôi nói: ừ con

Con học toán, học Pháp văn, học sử.


(Trần Dần dịch

– Trích từ Bertolt Brecht Thơ trữ tình, NXB Hội Nhà văn, 2006, tr. 70)



Khoảng hơn mười năm trước đây, tôi cũng sống theo như lời khuyên của Brecht, tức là khi không biết làm gì thì bảo nhau quay về học.

Nhưng giờ thì tôi thấy phải nghĩ khác, một cách nghĩ bi quan hơn. Đối với thế hệ trẻ hiện nay, kể cả các bạn mới học xong đại học và mới bước vào đời, thì nay lời khuyên đó cũng không đủ nữa. Họ biết học làm sao khi cả xã hội không có không khí học tập. Họ biết học làm sao khi sống trong một xã hội cạn kiệt năng lực cải hóa thay đổi. Từ cấp thấp đến cấp cao, phần kiến thức cơ bản mà mọi thanh niên phải có ở các nước, đến với họ quá lỗ mỗ cũ kỹ. Họ biết học làm sao khi không có ngoại ngữ và do đó không có thói quen tìm hiểu về các nề giáo dục khác. Họ biết học làm sao khi không biết rằng trên thế giới người ta đã tiến đến đâu rồi.

Với việc trói buộc nền giáo dục trong quan niệm cổ lỗ của mình, từ đó tạo ra một cơ chế không còn khả năng tự thay đổi, xã hội chúng ta đang trong tình trạng giậm chân tại chỗ, tự tái tạo ngày mai của mình theo cái mẫu hôm nay và làm cho nó suy đồi tan nát hơn mà lại vẫn tự huyễn hoặc là đang đi tới một tương lai tốt đẹp hơn.



---

(1) Xem bài Vài nét về giáo dục địa phương nhà Nguyễn

Nguồn tin:trang Web Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Thứ sáu, 11/04/2014

Theo Đại Nam thực lục, các chức quan quản lý việc học dưới thời nhà Nguyễn đó là: Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo. Mỗi chức quan sẽ quản lý ở một cấp khác nhau. Đốc học, có nhiệm vụ làm thanh tra học vấn ở cấp tỉnh, tước quan hàng Ngũ phẩm, được chọn trong số những người đỗ Tiến sĩ. Giáo thụ, quản lý việc học ở cấp phủ, tước quan hàng Thất phẩm, được chọn trong số những người đỗ Cử nhân. Huấn đạo có trách nhiệm quản lý việc học ở cấp huyện, có tước quan hàng Bát phẩm, được chọn trong số những Tú tài.

Việc chọn ra các học quan dưới thời nhà Nguyễn cũng có những tiêu chuẩn nhất định như:

“Năm Gia Long thứ 11 (1812), nhà vua đã truyền chỉ cho quan tổng trấn Bắc Thành để bổ chức Đốc học, Trợ giáo cho các tỉnh, trấn còn khuyết với tiêu chuẩn là người đó phái có học hạnh. Người nào địa phương tự xét thấy đủ tiêu chuẩn thì kê khai rõ tên tuổi, quê quán để tâu lên triều đình”. Năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) triều đình lại có nghị chuẩn về tiêu chuẩn tuyển chọn các học quan như sau “chức dạy học ở các phủ, huyện nếu là Hương cống, Sinh đồ thì hạn tuổi từ 40 trở lên, là ẩn sĩ thì hạn từ 50 tuổi trở lên. Người nào đã được sung chuyển thì Bộ Lễ hội đồng với Quốc tử giám sát hạch, nếu đạt thì chỉ chờ để phân công công việc”.


























 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2014 04:26

June 16, 2014

Một di sản chiến tranh: tình trạng kém cỏi của việc học ngoại ngữ và những bế tắc trong hội nhập và phát triển hôm nay




Khi không
có ý thức và thói quen


                                      làm bạn với  các nước khác

                                                 người ta làm sao có thể hội
nhập  


                                                                                                    





    Từ chiến tranh trở về, những người viết văn
thuộc lớp chống Mỹ chúng tôi lòng đầy háo hức.Trong số những việc liên quan tới
việc lập nghiệp, có việc học ngoại ngữ. Ồ, cái đó cần lắm chứ, phải lo học,
phải đi quốc tế, phải trở thành những
trí thức thật đàng hoàng – nhiều người gặp nhau ở ý nghĩ ấy. 

Nhưng chẳng bao
lâu, không ai bảo ai mà đều ngấm ngầm nhận ra một sự thực: Học  khó quá. Tắc. Hình như kiến thức nó cố trốn chạy
khỏi mình.

 Như trong chuyện ngoại ngữ, dù có kiên trì đến mấy, học cũng không
vào. Nhà văn nọ, có lần, sau khi tuyên bố hùng hồn là mình học tiến bộ lắm, xoè
ra cho mọi người thấy một quyển sách
tiếng Anh mới mua được ở một hiệu sách cũ. Bạn bè chung quanh nhìn kỹ, thì ra
đó là một cuốn sách tiếng Pháp.


 Dĩ nhiên về sau, cái sự gọi là quyết tâm kia có giảm. Có
thương nhau thì bảo nhau lo viết ngay đi; chứ còn việc học, mà nhất là việc đọc
sách và xì xồ với nhau mấy câu bằng các thứ tiếng xa lạ  -- một hai năm
sau, mọi người nói nhỏ với nhau -- sao  thấy nó phù phiếm quá  (!).




 Di lụy của những cấm đoán

     Những kỷ niệm trên lập tức trở lại trong
tâm trí tôi, khi nghe những lời than phiền gần đây về tình trạng dân mình đội
sổ trong việc ngoại ngữ và nhất là cái 
cách người ta giải thích về tình
trạng bê bết đó.

     Lấy ngành giáo dục làm ví dụ. Tuy trong thực
tế việc học và dạy được tổ chức rất kém song trên các tuyên bố chính thức, việc chinh phục ngoại
ngữ có lúc được đề lên như một thứ quốc sách. So với những năm chiến tranh, phải
thấy điều kiện học của các bạn trẻ bây giờ đã khá hơn trước rất nhiều. Lại càng
không nên nghĩ đến chuyện ký tính, sức
nhớ, khả năng thông minh của học sinh sinh viên nước mình … Vậy thì tại sao mọi
việc thê thảm làm vậy? Không dám coi như một môn bắt buộc trong các kỳ thi phổ
thông. Để mặc cho hiện tượng bằng giả tràn lan. Chấp nhận tình trạng quê mùa của cả xã hội mà không có cách nào kháng cự?  Phải chăng cái sự kém cỏi kia
hiển nhiên và kéo dài từ thế hệ nọ sang thế hệ kia đến mức người ta bắt đầu
tuyệt vọng.

    Chính
ở đây, tôi  thấy phải nói tới những
nguyên nhân tâm lý:

   Nhìn vào lớp nhà văn chống Mỹ vừa nói ở
trên, trước tiên tôi nhớ tới hoàn cảnh mà bọn tôi lớn lên, trong đó có những
chuyện mà ngày nay không ai tưởng tượng ra nổi.

    Có một hồi người Hà Nội xác định với nhau là “ta chỉ nói chuyện với chính ta“. Nghĩ tới người nước ngoài là nghĩ chuyện phải
cảnh giác. Đi đường, thấy tây đầm hỏi đường, không được chỉ. Sổ ra vài câu tiếng
tây với họ là bị công an gọi về đồn liền.

   Xưa nay nghề dịch vốn đã èo uột, vậy mà hồi
đó báo chí, kể cả báo chí  văn nghệ còn
gần như cai hẳn tức là bỏ luôn cái  mục
được coi là rắc rối này. Vả chăng, muốn làm cũng chẳng có gì mà làm. Sách Anh
Pháp không nhập, ngay sách Trung văn cũng không có, bên Bắc Kinh đang cách mạng
văn hoá. Một số cuốn sách xô - viết  loại
như Chuyện núi đồi và thảo nguyên in xong -- cũng như phim Đàn sếu bay qua mang chiếu -- liền bị phê
phán và thu hồi.

    Quả thật trong một tình cảnh chiến tranh
nay sống mai chết, có ai còn bụng dạ nào mà nghĩ đến ngoại ngữ nữa.

      Điều đáng nói là lâu dần thành một thói quen,
ngay cả khi những rào cản cụ thể hôm qua không còn, thì những rào cản trong tâm
lý con người không phải bỗng chốc mà dỡ bỏ được ngay. Nó đã ăn vào tư duy, chi
phối  tình cảm và ý chí của nhiều thế hệ.
Vì thế mới có tình trạng  sống giữa sách
vở ê hề, tài liệu chồng chất và gần như
không chịu một hạn chế nào như hiện nay, người ta chỉ có học đòi làm dáng, chứ vẫn không thể có một sự giao
lưu và tiếp nhận tốt như đáng lẽ phải có.




Sự lảng tránh cố ý

    Năm 2004, một nhà văn Mỹ là S. Sontag qua đời. Tôi nhớ những năm
chiến tranh, bà này có qua Hà Nội, và nghe nói nhận xét về người mình hay lắm, mà bọn tôi không được giới thiệu.

    Thì
may quá, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể
S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một
phạm vi địa lý rộng.

     Đó cũng là cái ý mà một người Nhật gần đây có sống mấy năm liền ở
Hà Nội nhận xét: Người Việt ít khi đặt mình vào địa vị của người khác để suy xét.

    Tôi cho rằng chính những đặc tính trên đây
cản trở việc học ngoại ngữ của ta hiện nay.   


     Đọc lịch sử cận đại, thời các cụ đua nhau Đông
du, lại được biết:  Hồi Phan Chu
Trinh mới qua Nhật, ông có được  gặp cả
thủ tướng Nhật Bản lúc ấy mà phiên âm qua tiếng Hán Việt gọi là Đại Ôi. Câu đầu
tiên mà Đại Ôi nói với Phan Chu Trinh đại ý tôi nghe nói người Việt Nam đã
lâu, mà nay mới gặp, hoá ra người các ông ít đi nước ngoài thật. Tiếp đó, khi
biết rằng người đối thoại với mình  lúc
ấy chưa biết tiếng Pháp, Đại Ôi tỏ vẻ ngạc nhiên, sao lại thế, muốn đánh đuổi
gì người ta cũng phải hiểu người ta đã, không học tiếng Pháp sao được ?

    Chuyện đầu thế kỷ XX mà nghe như chuyện của
chính chúng tôi trong thời chống Mỹ.

     

Phải bắt đầu bằng một sự khao khát

   Những anh em lên Sapa về thường kể, không
hiểu tại sao  tuy chỉ tích luỹ theo kiểu
học lỏm khách du lịch mà nhiều thanh niên dân tộc H’mong trên đó nói tiếng Anh
rất giỏi, trong khi nhiều người Kinh mình học có bài bản hẳn hoi mà nói vẫn rất
quê.

    Từ chuyện có vẻ ngược đời đó, vẫn trên cái mạch đi tìm những ảnh hưởng
của văn hoá đối với việc học ngoại ngữ, tôi muốn nêu một giả thiết  :

    Tuy không nói ra rành rọt, nhưng những
thanh niên H’mong kia hiểu rằng ngoài
cái thế giới mà họ đang sống, còn có thế
giới rộng hơn,gần nhất là thế giới của người Kinh. Và 
muốn tồn tại họ phải hoà nhập với thế giới đó. Tức là ý thức về mình và
kẻ khác của họ đã phát triển và nó ăn vào 
trong tâm thức họ, đời nọ truyền sang đời kia. Khi tiếp xúc với
một thứ tiếng mới, họ có nhu cầu  buộc
mình cố bắt chước nói cho thật giống.

     Còn ngược lại, nhiều người vùng xuôi khi tiếp xúc với người nước ngoài, tuy ở ngay
các đô thị lớn, song thường thiếu nghiêm túc, không coi là chuyện thiết yếu liên quan đến cuộc sống của mình. 

     Sự xem
thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc, nó lưu cữu trong
ta, và tha hồ tác oai tác quái.

     Miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi bấy lâu nay
là thế chứ còn gì nữa!




một sự mệt mỏi …không nên có

   Tôi đang công tác ở một nhà xuất bản. Thỉnh
thoảng, cơ quan tôi cũng có khách nước ngoài và khi tiếp khách, ông giám đốc
không quên mời một số nhân viên cùng dự.

   Nhưng sau một ít lần háo hức, những
ngày gần đây, phải thú thực tôi rất
ngại.

   Phần thì tiếng tăm không biết.

   Phần thì, trong những buổi gặp đó, thường
chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại. 

   Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì
phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên
họ thế nào. Đằng này chúng tôi mù tịt. 

  Theo lời một nhà thơ, đầu óc cũng rất
tỉnh và cũng từng là quan chức đầu ngành Hà Nội là Vũ Quần Phương -- thì nhiều
cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với
thảo luận quá, rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống, đại khái hỏi
họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa, rồi tán dần ra.

    Vài lần chầu rìa và ngồi nói tào lao như
thế qua đi, giờ đây “nhỡ “ được gọi  tiếp
khách là tôi xin kiếu. Một số bạn bè cùng lứa 
cũng có tâm trạng như trên.

    Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện
này và đừng lặp lại. Dẫu sao, khi vào đời, một sinh viên cũng phải có được một
ngoại ngữ. Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra
và muốn làm bạn với thế giới. Ngoại ngữ cũng chính
là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó.

    Còn nếu như sau khi đã quyết tâm rồi mà các bạn vẫn không sao học nổi thì xin có hai đề nghị có vẻ trái ngược nhau:

    Một là các bạn đừng trách mình nhiều. Nói thật, lỗi không phải ở các bạn đâu mà lỗi là ở những người đi trước, nay các bạn vẫn đang phải gánh chịu những di lụy của quá khứ.

   Hai là tuy vậy, các bạn vẫn phải tìm cách vượt lên để học bằng được những điều cần học. Con người phải có ao ước vượt qua định mệnh.

   Học được một ngoại ngữ cho rành, ra ngoài làm ăn với thế giới một cách đàng hoàng, là cách tốt nhất để góp phần sửa chữa những sai lầm của quá khứ và do đó là vượt lên so với các thế hệ đi trước.




 Nguyên là bài

 Tại sao
người mình kém ngoại ngữ?


Báo Sinh viên Việt Nam

10-2006




  Viết thêm 16-6-2014

 Trở lên là trong phạm vi chuyện trong nhà, nói xuê xoa
với nhau cho xong. Còn xét trên nhu cầu phát triển thì việc kém cỏi trong dạy
và học ngoại ngữ chỉ làm rõ hơn tình trạng trì trệ của xã hội ta.

Có người nói sau bốn chục
năm, chúng ta vẫn chưa ra khỏi chiến tranh.

Có người nói  những nguyên tắc chỉ đạo xã hội hậu chiến chẳng qua vẫn là những nguyên tắc thời chiến, nay chế biến lại chút ít. Vẫn những tư tưởng ấy, chỉ có điều nó đã hết năng lượng tổ chức. Vẫn con cháu những người đi trước chia nhau làm chủ xã hội, chỉ có điều nay họ liều lĩnh hư hỏng thoái hóa hơn cha ông. 

Nói cách nào thì cũng cùng một ý.

Xét trong phạm vi giới văn
học mà ở trên tôi đã dẫn làm ví dụ.

 Đáng lẽ là lớp nhà văn có mặt ở mọi chiến
trường trong chiến tranh khi quay về phải lo học hỏi mọi mặt trong đó có việc
học bằng được ngoại ngữ.

 Để làm gì, để
hiểu biết chung về tình trạng thế giới hiện đại, từ đó có định hướng khai thác
kinh nghiệm vốn có.

 Nói hẹp hơn, có ngoại ngữ -- với nghĩa rộng là
có sự tiếp xúc bình thường với văn học nước ngoài -- mới học hỏi cách viết về
chiến tranh ở các nước đó, quay về mới
biết  khai thác tốt nhất những kinh
nghiệm thời chiến phục vụ việc tổ chức cuộc sống của con người xã hội hậu chiến.

 Ở các nước bình thường khác, những người nào
chỉ biết dừng lại ở các kinh nghiệm quá khứ, khư khư tôn sùng quá khứ, ngủ
nguyên trong vinh quang quá khứ, lớp người đó bất cứ thuộc ngành nghề gì sẽ bị
đào thải.

 Nhưng ở ta hôm nay, các bước ngoặt lịch sử
chiến tranh hậu chiến chưa bao giờ được nhận thức nghiêm túc.

Nay
ta đã bắt đầu thấy cần phải hội nhập. Nhưng muốnbiết là hai chuyện
khác nhau.

 Một sự hội nhập mà không bao gồm cả những đau
xót làm lại chính mình;

một
sự hội nhập mà không bao gồm đào thải 
những gì cô độc cô quả là cách sống chủ yếu của thời chiến Hà Nội hôm
qua;

một
sự hội nhập như thế chẳng qua là chuyện hời hợt bề ngoài. Phát triển sao được.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 16, 2014 02:21

May 25, 2014

Nguyễn Khải và chân dung các nhà văn trẻ những năm chống Mỹ, trường hợp "Chúng tôi chăm sóc những tài năng "

 Truyện ngắn sau đây nằm trong chùm
bài  Nguyễn Khải  viết trên báo Nhân dân in ở Hà Nội 1974.

 Các bài khác như Tính dối trá, Chân dung một người ủng hộ lực lượng trẻ, Lối sống ở khoảng giữa... chỉ là những đoạn văn ngắn, kiểu bài mà người
ta gọi là tạp văn - phiếm luận - tạp luận - tạp
ghi.


  Riêng Chúng
tôi chăm sóc những tài năng
  giống
như một truyện ngắn.

Lâu nay Nguyễn Khải vẫn có lối viết truyện bằng cách bám ngay vào một
nhân vật có thực nào đó, lấy việc tả cho ra con người ấy làm mục tiêu, đến khi
đưa vào truyện tên tuổi chỉ đổi đi một chút mà nguyên mẫu thì ai cũng nhận ra ngay. 

Truyện sau đây vẫn giữ lệ đó.

 Nhân vật đội cái tên N. sau đây
đương thời ai cũng biết là Phạm Tiến Duật.



 Giống như một cái bẫy, lối viết
này cực kỳ nguy hiểm ở chỗ nó "thả lỏng" để cho nhà văn mang vào những chuyện nhạy cảm vẫn được đồn thổi trong đời sống hàng ngày của những người chung quanh và từ đó dễ gây thù chuốc oán. 

Nhưng theo Nguyễn Khải, chỉ làm thế mới
đủ sức gây tác động cần thiết. Nó sẽ  khơi
dậy kinh nghiệm sống  của độc giả khiến
cho mỗi người trong họ đọc và bồi đắp thêm cho truyện bằng những hiểu biết
riêng. Nếu như lòng dạ tác giả trong sáng, và nhất là tác phẩm không dừng lại ở chuyện riêng tư của nhân vật được nói
tới mà có thể gợi ra những ý tưởng khái quát, - tóm lại là trong tay những ngòi
bút bản lĩnh-- thì đây lại là một cách viết lợi hại.

Chúng tôi chăm sóc những
tài năng
 đã đạt tới hiệu quả đó. Chân dung lớp trẻ những năm chống Mỹ – bước
đi trong nghề, cách tồn tại của họ, tầm vóc và  những hạn chế của họ -- được vẽ khá chính xác. Ngoài ra,
chưa bao giờ mối quan hệ giữa các thế hệ nhà văn bao gồm cái cách mà người ta
hay gọi là “chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ kế cận” lại được vẽ ra đầy đủ như ở đây. Mà quan hệ giữa các nhà văn không bao giờ nằm ngoài mối quan hệ giữa người với người trong mỗi xã hội. Vấn đề có thể khơi ra theo nhiều hướng lắm.

 Chúng tôi sẽ
trở lại với bối cảnh tác phẩm được viết và những dư luận quanh tác phẩm này vào phần ghi chép Nguyễn Khải 1974  đưa lên
blog trong một ngày tới. 

Ở đây có thể nói ngay là lúc ấy, Chúng tôi chăm sóc những tài năng đã bị phản ứng dữ dội từ phía báo chí và bạn đọc, từ phía các nhà văn, nhất là các nhà văn trẻ. Riêng tôi thì sở dĩ nó để lại một ấn tượng sâu đậm vì nó đã nói đúng về đời sống văn học như tôi được biết.  Đó toàn là những chuyện hàng ngày Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu vẫn nói với tôi. Trong thực tế, người trong giới sống với nhau còn tệ hơn nhiều.

 Mặt khác, nếu so với ngày nay thì hồi ấy người ta còn sống tử tế chán.

 Nghĩa là không chỉ khái quát, Nguyễn Khải còn dự báo, còn cảnh báo tai họa. Càng về sau, càng thấy Nguyễn Khải nói đúng. 
  Sau khi in trên
báo Nhân dân, các bài tạp văn nói trên cũng như một số truyện ngắn
Người mơ mộng,
kịch Đối mặt… chỉ được in lại một lần, trongTuyển
tập Nguyễn Khải

gồm ba tập, bộ sách do tôi sưu tầm tuyển chọn và giới thiệu, in ra ở nhà xuất
bản Văn học, H. 1996.

 Ngoài ra, tác giả coi nó như những  đứa con hoang không bao giờ nhìn nhõ gì tới.

 Riêng tôi thì vẫn coi đây là một bộ phận trong đóng góp của Nguyễn Khải vào đời
sống văn học trong chiến tranh. Thời đó, Hà Nội sống những năm tháng đầy dằn vặt. Đã
có một cuộc tự mổ xẻ khởi đi từ cuộc thảo luận “làm ăn thật thà”, nhưng rồi mọi
chuyện lại đâu đóng đấy. Tôi đã học được nhiều điều khi được sống cạnh tác giả trong
đợt làm việc này. Học về cách nhìn nhận những vận động trong xã hội và cách văn học tham gia vào việc thảo luận các
vấn đề bức bách đó.  Về sau, nhiều tạp
văn tôi viết là do học theo cách viết của chùm bài này.   





CHÚNG TÔI CHĂM SÓC NHỮNG TÀI
NĂNG!





Thoạt đọc, có
thể bạn nghĩ ngay đến một anh N. nào đó mà bạn quen biết. Rồi cũng không phải
là N. mà lại là một người nào khác nữa. Vậy thì chẳng phải là ai cả. Là một
nhân vật văn học, trong một câu chuyện có thể xảy ra, chứ chưa phải đã xảy ra.


N.K




Chúng tôi đã được
đọc thơ của N. từ lâu, trước khi được gặp anh. Vì anh là một chiến sĩ ở chiến
trường, còn chúng tôi là những người viết văn, làm báo ở Hà Nội. Tôi không còn
nhớ rõ vào cái hôm nào đó tôi đã được bạn bè giới thiệu thơ của anh.

Tôi vốn không thích
đọc thơ, cho nên cũng chẳng chú ý lắm tới sự xuất hiện liên tiếp của nhiều nhà
thơ trẻ trong những năm gần đây. Nghe nói về một tài năng thơ thì cũng ừ hữ
biết vậy, chứ trong bụng vẫn hồ nghi, vẫn chưa dám tin hẳn là một nhận xét đứng
đắn.

 Ở trường hợp của anh N. thì có khác. Bởi vì
người ta nói về anh nhiều quá, đồn đại về anh nhiều quá.

Theo sự đánh giá
của những người tôi vốn rất tin thì N. là một nhà thơ đã biết dem lại một vẻ
đẹp cho tiếng nói hằng ngày, một chiều sâu cho những ý nghĩ hằng ngày.

 Ô! Thế thì rõ ràng là một tài năng rồi! Đã là
một tài năng thì không thể không tìm đến mà chiêm ngưỡng. Thế là tôi tìm đọc
thơ của N.

Lúc này, các báo và
tạp chí ở trung ương đang giành giật nhau đăng thơ của N.
Không có tháng nào lại không có vài bài thơ mới của N. đăng ở đây
hoặc ở đó.

 Mà quả là có hay thật, có khác người thật. Vần
điệu trúc trắc một cách êm ái, hình ảnh ngộ nghĩnh và bất ngờ, tư tưởng tuy
chưa cao sâu gì nhưng lại rất dễ được tán thưởng. Một cách nói duyên dáng những
điều ta vốn nghĩ, chứ chưa phải là một cách nói bình dị những điều ta chưa từng
nghĩ.

Trong thâm tâm tôi
cũng đánh giá anh N. là một người làm thơ có tài, nhưng mới là sự bắt đầu, một
sự bắt đầu đầy hứa hẹn như các nhà phê bình thường viết ở đoạn kết mỗi bài.

 Từ ngày ấy trong đám người ngưỡng mộ thơ của
N. có thêm cả tôi nữa, một cái mồm của tôi nữa. Mỗi lần toà soạn nhận được thư
và thơ của N. từ chiến trường gửi về, lập tức chúng tôi hò gọi nhau chạy ào ào
tới buồng làm việc của tổ thơ, bóc một gói thuốc, pha một ấm trà, chọn người có
giọng đọc tốt, rồi người ngồi kẻ đứng lắng nghe một cách trịnh trọng bài thơ
mới nhất của anh.

 Một chiến sĩ làm thơ!

 Một người làm thơ trẻ!

Một nhà thơ của thế
hệ trẻ!

Một nhà thơ lớn
trong tương lai! Cứ thế, cứ thế, chúng tôi đẩy anh lên cao tít để được ngửa mặt
mà ngắm nghía cái hình tượng do chính tay bọn tôi đã hò hét kéo nhau tuốt mãi
lên.

Mà vui thật! Có
được một câu chuyện mới để thay thế cho những câu chuyện đã hoá ra nhàm vì sự
lặp đi lặp lại. Có được một nhân vật mới để tìm hiểu, để đánh giá, để đoán định
về tương lai. Có được một phong cách mới để tán tụng, để so sánh, để nói xa nói
xôi những phong cách mà mình không ưa thích.

 Bởi vì chúng tôi không thích ngợi ca mãi, sùng
bái mãi những tên tuổi đã lừng lẫy. Tự mình thì không thể so sánh được với họ,
vậy thì hãy lấy một người khác ra mà so sánh, cái người ấy lại đang có sức
quyến rũ, đang có sức thuyết phục. Phải buộc các ông "trạng văn",
"trạng thơ" động đậy một chút, đưa mắt nhìn xuống cái đám chúng sinh
là bọn tôi một chút; buộc họ phải lo lắng, phải hoài nghi, phải tự hỏi: liệu
cái vị trí hiện tại của họ trên văn đàn có còn là vĩnh viễn?

Ấy là cái tâm lý
thông thường của bọn tôi khi tuyên truyền về một tài năng. Đó là sự vui sướng
của chúng tôi khi được hết lời ca ngợi một tên tuổi mới. Có phần vì người, có
phần vì mình; có phần tầm thường, có phần cao quý; nhưng nói ra, viết ra, tất
nhiên chỉ rặt những chữ nghĩa cao quý và hết lòng vì người.




*

Rồi chúng tôi cũng
được gặp anh N. Tin anh sắp ra Hà Nội chữa bệnh đã được truyền báo cho nhau từ
nhiều ngày trước.

Rồi đến một buổi
chiều, một người nào đó đã nói to cái tin mong đợi: "N. đã ra!".

 Thế là chúng tôi xúm lại chung quanh người đưa
tin, hỏi han dồn dập: Ra từ bao giờ? Ra với ai? Hiện ở đâu? N. có khoẻ không?
Đã được nói chuyện với N. chưa? N. có đem theo tập thơ anh vừa làm không? Anh
đã có ý định đưa in ở những đâu chưa?

Tối hôm ấy, ngày
hôm sau, tôi đạp xe đến đâu cũng nghe anh em (tất nhiên là người trong giới cả)
xì xào về cái tin N. vừa ra.

 Mà chương trình hoạt động của N. trong những
ngày ở Hà Nội xem chừng cũng nặng nhọc ngay cả với người ngoài hoàn toàn khoẻ
khoắn.

Thôi thì bạn bè
quen biết cũ sẽ đến thăm anh và mời anh đến thăm gia đình họ.

 Thôi thì những anh em làm thơ trẻ vốn ngưỡng
mộ một tài năng thơ cũng sẽ đến thăm anh, sẽ đưa anh đọc những bài thơ mới nhất
của họ và nhờ anh nhận xét.

Ấy là chưa kể các
nhà văn, nhà thơ đàn anh cũng sẽ tổ chức những cuộc tiếp xúc hoặc riêng hoặc
chung để chúc mừng anh về sự thành công bước đầu. Rồi các toà soạn, các nhà
xuất bản. Rồi các đề nghị, các yêu cầu, các kế hoạch.

Vậy thì bọn tôi sẽ
được gặp anh, sẽ được trò chuyện với anh vào những lúc nào? Chúng tôi đã tìm ra
một lời đề nghị hết sức khôn khéo và dễ chịu: mời anh tới nghỉ ở cơ quan chúng
tôi. Chỗ ở và làm việc của chúng tôi vừa rộng rãi, vừa tịch mịch, là thiên
đường của người sáng tác như nhiều anh em ở ngoài quân đội đã nhận xét. Tất
nhiên là anh đã vui vẻ nhận lời. Vả lại chúng tôi còn là đồng đội.

Ngay từ phút gặp gỡ
đầu tiên tôi đã rất mến N. Cái bề ngoài của
anh hoàn toàn phù hợp với hình ảnh lý tưởng của tôi về một nhà thơ của chiến
trường, một nhà thơ của thế hệ trẻ. Anh rất gầy và nước da anh rất xạm. Vầng
trán thông minh, cái nhìn đắm đuối, nụ cười hóm hỉnh. Còn cách nói chuyện của
anh thì tuyệt. Hết sức chân thật, hết sức hồn nhiên, mà vẫn cứ sâu sắc hơn
người. Sau lần tiếp xúc ấy, chúng tôi có một cảm tưởng  rất giống nhau: anh N. đã là con người của
tương lai, là một nhà thơ của lớp người tương lai.




*

Thoạt tiên là đồng
chí thường trực của cơ quan chúng tôi phàn nàn. "Ông N. đến là lắm
khách!".

Bởi có khách đến
thì đồng chí phải chạy lên gọi, nếu không có nhà lại xuống báo tin anh đã đi
vắng, khách tỏ vẻ ngờ thì phải phân bua, phải thuyết phục, rồi ghi lại tên tuổi
và yêu cầu của người đến gặp nhưng không có được may mắn.

Mà khách của anh N.
thì đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi nghề nghiệp với những đề nghị hết sức khác nhau.

Thật ra N. cũng chỉ
có mặt ở cơ quan tôi khoảng dăm ba ngày, còn anh đi những đâu, tôi cũng chẳng
thể biết. Có điều mỗi lần gặp lại anh thì anh càng như gầy hơn, da anh như xạm
hơn, anh nói với chúng tôi với cái vẻ buồn rầu: "Tôi mệt quá, còn mệt hơn
cả ở chiến trường. Có thể tôi lại xin trở vào trong kia".

N. đã nói chuyện
tại nhiều nơi, đã tham dự nhiều cuộc tiếp xúc, đã trả lời rất nhiều câu hỏi
hoặc thơ ngây, hoặc oái oăm của nhiều bạn đọc, đã phát biểu những quan niệm của
anh về thơ văn, về thế hệ trẻ, và nhất là những nhận xét của anh về các tác
phẩm của những người khác.

Anh đã nói tất cả
những điều đó rất tự nhiên, rất chân thành, nghĩ sao thì nói đúng như vậy.

Theo sự nhận xét
của tôi, một người được anh em trong giới coi là khôn ngoan, thì N. đã nói hơi
nhiều quá, đã nói thành thật quá. Lẽ ra anh còn phải biết nín lặng, và biết
cách trả lời hết sức mập mờ. Nhưng đó lại là một nghệ thuật phức tạp và khó
khăn. Một nghệ thuật mà chỉ khi nào anh đã biết rất rõ cái giới của anh mới có
thể sử dụng một cách tự nhiên và thành thạo.

Quả nhiên những ý
kiến của anh đã gây nên sự tranh cãi, tranh cãi phía sau anh thôi, còn trước
mặt anh thì mọi người vẫn tươi cười, vẫn vồ vập, vẫn ca ngợi như trước kia, như
không có gì đã xảy ra hết.

Nhưng sau lưng anh
người ta đã bắt đầu xì xào, điều này tiếng nọ.

 Dẫu sao tôi vẫn quý anh, vẫn yêu
anh, và hết lòng bảo vệ anh. Tôi vẫn tin rằng anh là người trong sáng hơn tôi,
chân thật hơn tôi, và quả là có tài năng hơn tôi.

Cho đến một buổi
tối, vâng, tôi còn nhớ như in cái buổi tối hôm ấy vì nó đã đánh dấu bước rẽ của
tôi, rằng tôi vẫn là tôi, chưa có những thay đổi căn bản trong nhiều quan niệm.

Hôm ấy cũng như
những ngày trước, N. đi suốt ngày, mãi tới khuya mới trở về buồng riêng. Tình
cờ đêm đó tôi lại có mặt ở đấy. Anh chào tôi và hỏi:

- Anh không về ngủ
nhà à?

Tôi trả lời:

- Mình đang viết dở
bài cho tạp chí, cho nên cũng muốn ngồi viết cho xong trong đêm nay.

Anh đứng nhìn tôi,
rồi đột nhiên bảo:

- Từ bữa tôi ra đây
cũng chưa có dịp nào được cùng anh trò chuyện.

Tôi hỏi anh một
cách rụt rè:

- Tối nay ông có
mệt không?

Anh trả lời rất sốt
sắng:

- Mệt thường thôi.
Anh lên chơi với tôi nhá! Tôi đang muốn trao đổi với anh một vài ý kiến.

Tôi bước theo anh
vừa cười vừa hỏi:

- Trao đổi chuyện
gì thế?

- À, chung quanh
nghề nghiệp của chúng ta.

Chính là lúc ấy một
ý nghĩ diễu cợt vụt thoáng qua trong óc tôi "Nghề nghiệp! Các ông trẻ đến
là thích bàn về nghề nghiệp!". Tôi mời anh hút thuốc, anh từ chối. Tôi hỏi
anh có nghiện nước trà không, anh trả lời là không nghiện, nhưng uống vẫn được,
mà anh chỉ uống vào lúc sáng. Tôi khen anh sống giản dị, trong sạch, anh gật
đầu, cười mỉm:

- Đúng là chúng tôi
sống có giản dị hơn các anh. Vả lại chúng tôi là người lính ở chiến trường.

Đó là câu thứ hai
của anh làm tôi không được bằng lòng.

Anh là lính, dễ
thường tôi chưa hề làm lính bao giờ ư?

Tại sao lại có sự
phân biệt quá rạch ròi làm vậy?

Anh lại nói:

- Tuy tôi làm thơ,
nhưng tôi cũng rất thích đọc văn. Tôi đã đọc anh nhiều.

Tôi chờ đợi một lời
khen quen thuộc, để nói một câu nhún nhường quen thuộc. Anh khen tôi thật,
nhưng là khen cái hôm qua, một thành công của hôm qua!

- Trong những tác
phẩm của anh, tôi chỉ thích có tập truyện ngắn Mùa lạc. Dạo ấy anh ở
nông trường Điện Biên có được lâu không?

Tôi trả lời cộc
lốc:

- Vài tháng!

Anh tỏ vẻ ngạc
nhiên:

- Có vài tháng thôi
à? Anh đã sống như thế nào, đã lấy tài liệu như thế nào?

Tôi trả lời miễn
cưỡng:

- Thì mình sống
cũng như mọi người.

Anh lại trầm trồ:

- Đó là những
truyện ngắn rất hay.

Khen thế có nghĩa
là một đời văn của tôi chỉ còn được có một tập truyện ngắn. Khen thế tức là
chê. Bởi vì tôi hy vọng ở tôi nhiều hơn, tôi mong chờ bạn bè đánh giá việc làm
của tôi khác hơn.

Tôi mỉm cười nhợt
nhạt:

- Thế đấy! Viết cả
đời có khi chỉ còn được một cái truyện ngắn.

Anh đồng ý ngay:

- Thế cũng là
nhiều. Tôi chỉ dám mong còn để lại cho đời sau được mấy câu thơ.

Chao ơi! Đã bắt đầu
nghĩ tới đời sau kia đấy! Nhanh chóng thế! Anh lại hỏi:

- Anh có giỏi về
khoa học tự nhiên không?

Tôi trả lời thành
thật:

- Rất dốt! Có lần
nói chuyện trước một hội nghị trí thức, tôi đã nói rằng, diện tích đảo Cồn Cỏ
chỉ có 4.000 mét vuông. Vì nghĩ rằng 4 ki lô mét vuông tức là 4.000 mét vuông.

Anh cười rất to:

- Chuyện có thật,
hả anh?

- Có thật hoàn
toàn!

- Thế thì xấu hổ
quá. Nếu tôi được công tác ở Hà Nội tôi sẽ nghiên cứu một số giáo trình thuộc
chương trình toán đại học. Làm nghề gì cũng cần phải giỏi toán, anh ạ.

Rồi anh lại hỏi:

- Anh có thích hội
hoạ không?

- Có!

 - Anh có
thưởng thức được vẻ đẹp của tranh Pi-cát-xô không?

- Chịu! Mình thích
những bức tranh vẽ theo chủ nghĩa cổ điển, nghĩa là nguời và vật phải gần giống
như thật.

Anh lại ngạc nhiên:

- Chưa thích là do
mình chưa được học. Xem tranh, nghe nhạc đều phải học, học thật nghiêm chỉnh
thì mới thưởng thức được vẻ đẹp của nó.

Tôi chống chọi một
cách hăng hái:

- Đời người rất
ngắn, cái gì cũng muốn học, cái gì cũng muốn biết thì còn thời giờ đâu làm
nghề?

- Nhưng học của
người cũng là một cách rèn tay nghề.

- Nhưng... nhưng
mình vẫn viết!

- Tôi nghe người ta
nói sự bố cục trong các tác phẩm của anh không được hài hoà. Nếu anh giỏi về âm
nhạc và hội hoạ tôi tin là anh sẽ khắc phục được cái nhược điểm ấy.

Tôi vẫn cười cợt:

- Xa xôi quá! Theo
mình, một tác phẩm văn học bố cục chưa đẹp, chưa cân đối là do những yếu tố
hoàn toàn khác.

- Có những yếu tố
khác như anh nói, và có cả những yếu tố như tôi đã nói.

- Chẳng lẽ việc của
mình, mình lại không biết?

Mới mở đầu câu
chuyện mà như cả hai chúng tôi đều thất vọng về nhau. Nhưng anh vẫn tươi cười,
vẫn nói về tôi và nói về anh.

 Còn tôi thì tỏ vẻ khó chịu ra mặt, cười cũng
gượng gạo mà có trả lời anh chuyện này hay chuyện kia cũng là gượng gạo.

Anh cho tôi biết
anh rất sành hội hoạ và âm nhạc. Anh cũng mê đọc sách triết học và lịch sử. Bạn
bè của anh không chỉ giới hạn trong đám anh em làm văn thơ hoặc thích văn thơ,
mà còn mở rộng ra rất nhiều ngành nghề khác. Ví như nhà vật lý A, nhà địa chất
B, nhà nghiên cứu sinh hoá E, nhà toán học X, những người hiện đang có tên tuổi
đều là bạn của anh cả.

 Anh thú nhận, nói chuyện với họ luôn luôn là
sự khám phá, xem ra lại lợi ích hơn, quan trọng hơn là những cuộc trao đổi nhàm
phiếm giữa những người cùng làm một nghề. Anh kết luận: chúng ta là những người
của thế kỷ này, vậy phải biết tất cả những gì mà thế kỷ đã cống hiến vào quá
trình nhận thức tự nhiên và xã hội. Anh khẳng định: Không có tài năng ngu dốt.
Tôi cam đoan với anh rằng, anh nói thế, một người ngu dốt bao giờ cũng là một
người ngu dốt.

Chẳng lẽ tôi phải
nói rõ với anh rằng: anh không nên nói như anh vừa nói. Dẫu những điều anh vừa
nói có là chân lý thì anh cũng không nên nói. Vả lại những điều anh vừa nói tôi
cũng đã biết. Tôi tự nói tôi dốt thì chẳng sao, nhưng anh chớ có gật gù nói vin
theo: quả là anh cũng có dốt thật. Đó là phép tắc không có văn bản của cách đối
nhân xử thế. Anh là một người viết thì anh phải hiểu ra cái điều đó chứ? Lẽ ra
anh phải hiểu ra trước tiên cái điều đó chứ?




Vậy là trong đám
người thấy cần thiết phải xem xét lại, đánh giá lại con người và tài năng của
anh N. có thêm một tôi nữa, một cái mồm của tôi nữa. Sở dĩ chúng tôi đều không
thích N. vì một lẽ rất đơn giản: Anh không giống với chúng tôi. Chỉ có thế!
Hoàn toàn chỉ có là thế!

Chúng tôi cũng là
nghệ sĩ cả, nhưng sự say mê, sự đắm đuối ở chúng tôi bao giờ cũng có chừng mực,
lại được giấu kín dưới cái vỏ ngoài bình thản, lạnh lẽo. Mà N. thì lại bộc lộ
nó ra một cách thái quá, lộ liễu quá. Thế là khác!

Giữa chúng tôi cũng
có những quan niệm rất khác nhau về sự sáng tạo, nhưng chúng tôi không hề nói,
lại càng không thích tranh cãi, việc ai người nấy biết, có trao đổi cũng chẳng
đi đến kết luận nào, chúng tôi quan niệm thế. Mà N. thì đến là hay bày tỏ các
quan niệm, đến là hay tranh cãi, đến là thích tìm ra một kết luận chung. Lại
càng khác!

 Chúng tôi tuy chơi với nhau, thân thì thân,
nhưng vẫn phải tránh cho nhau những chuyện không nên nói. Bởi vì, có nói ra thì
cũng đến thế. Mà lại dễ bị hiểu nhầm. Mà lại nhìn nhau thêm khó ra. Chẳng bằng
không nói lại giữ được tình bạn lâu dài.

 N. thì khác, bởi anh có những quan niệm sống
rất khác. Chẳng hạn anh đã nói với tôi những điều mà ngay những người bạn thân
nhất của tôi cũng phải tính toán, phải kiêng dè. Họ có biết nhưng họ không nói.
Chúng tôi đều biết rất rõ những nhược điểm, những thói xấu của nhau, nhưng
chúng tôi không bao giờ nói. Ích lợi gì mà nói!

Đấy! Đấy! Khác nhau
đến thế đấy!

 Kể ra sự khác biệt giữa chúng tôi với anh có
thể giải thích theo nhiều cách. Lấy cách sống của anh làm chuẩn cũng là một
cách. Mà lấy chúng tôi làm chuẩn cũng lại là một cách.

Chúng tôi không
thích anh bởi rằng chúng tôi đã lấy cách sống của chúng tôi làm chuẩn. Cho nên
anh mới hoá ra một người làm thơ tài năng cũng tầm thường mà tính tình lại kiêu
ngạo.

Một anh chàng quá
non trẻ vừa mới nếm mùi danh vị đã lập tức bị quay cuồng, bị choáng váng.

Một tác giả chưa đủ
bản lĩnh để chống chọi lại, để vượt qua những lời tán tụng quá đáng và theo
thời của bạn đọc.

Lại có thêm một
bằng chứng tiêu cực để chúng tôi có dịp tự khen cách sống và cách viết của
nhau. Bởi vì chúng tôi thì biết nhìn nhau mà sống và nhìn nhau mà viết; biết
ngắm nghía cái khuôn khổ của nhau mà ướm mình vào, nhỏ hơn thì được, nhưng chớ
có thừa ra.

 N. là con người hơi thừa ra khỏi cái khuôn mà
chúng tôi đã quy định.

Cũng như trước đây
chúng tôi đã hò hét nhau kéo N. lên cao để chiêm ngưỡng, thì bây giờ chúng tôi
lại hò hét nhau cắt gọt cái phần thừa ra của anh cho vừa với khuôn khổ. Phía
nào cũng là vì người cả, vì một tài thơ cần được giúp đỡ và bảo vệ.




*

Bẵng đi hai năm tôi
mới được gặp lại N. như cũng vừa mới từ chiến trường ra, nhưng lần này vì không
nghe ai xì xào gì trước, cho nên tới lúc tình cờ gặp nhau tôi mới được biết là
anh vừa ra.

Trong hai năm qua
chúng tôi vẫn dược đọc thơ của N. đang rải rác trên nhiều tờ báo. Nhưng thơ của
anh không còn gây được sự bàn tán cuồng nhiệt như ở thời kỳ đầu. Vì rằng thơ
của anh vẫn thế, là sự lặp lại giản đơn những cái anh đã có. Chúng tôi đã dự đoán
đúng: N. chỉ là một tài năng cũng tầm thường. Nhưng trong thâm tâm, ở cái phần
trong sáng và vô tư của tôi, tôi phải nhận rằng: chính là cái dư luận độc địa
(mà tôi là một trong những thủ phạm) đã tác động một cách nguy hại tới sự sáng
tạo của anh.

Anh đã không dám dò
tìm, khai phá những khu vực mới vì e sợ bị thất bại.

 Trước kia khác, trước kia anh dám làm tất cả
vì còn chưa bị dư luận quấy nhiễu, còn chưa phải bận tâm vì lời khen tiếng chê
của người đời. Còn hôm nay anh đã có một cái tên, đã được nhiều người chú ý,
người mong anh thành công có, mà kẻ đợi anh thất bại cũng có. Cho nên anh buộc
phải tính toán, buộc phải chọn lựa.

Trong cái nghề
nghiệp của chúng tôi, khi đã tính toán, đã chọn lựa, tức là đã muốn sự nhàn
nhã, sự an phận, sự chắc chắn, không được gì thêm, nhưng cũng chẳng lo bị mất
mát đi. Có nghĩa là tự mình chấm dứt mọi sự biến hoá, trở thành một hình ảnh
chết, một hiện tượng của quá khứ, một tiếng vang nay đã xa xôi.

Chẳng lẽ anh đã
giống chúng tôi nhanh chóng đến thế!

 Mà giống nhau thật,  giống nhau cả cho đến cái vẻ ngoài. Một cái
nhìn dò xét, một nụ cười ngập ngừng, một dáng đi thận trọng. Và cái cách nói
năng của anh mới mơ hồ làm sao! Mới đắn đo làm sao! Tôi xin thuật lại một đoạn
đối thoại giữa chúng tôi trong lần gặp lại tình cờ:

- Dạo này ông vẫn
viết đều chứ?

- Tôi vẫn viết
nhưng mà chậm.

- Có bài nào hay
cho bọn mình mấy bài?

- Vâng, để tôi
chọn, có vài bài nhưng chưa phải đã thích lắm.

- Ông có dự định
viết cái gì dài dài không?

- Có thể là sau
này, chứ hiện nay thì tôi chưa nghĩ tới.

- Các ông thì có ít
thời giờ hơn bọn mình.

- Công việc của tôi
trong ấy cũng không bận lắm, có điều làm gì cũng phải tính tới cái sức của
mình.

- Ông viết đang
sung sức thì cứ nên viết tới đi!

- Viết nhì nhằng
thì vẫn làm, nhưng viết được một cái gì thật thích thì khó quá.

- Ông mà cũng cảm
thấy khó?

- Khó chứ! Có làm
nghề mới biết cái nghề của mình là khó.

Đúng thế! Có làm
nghề lâu mới biết cái nghề văn chương là khó! Mỗi tuổi nghĩ mỗi khác thật. Chín
chắn hơn nhiều mà cũng nhũn nhặn hơn nhiều.

Từ bữa ấy, đi đâu
cũng nghe bạn bè nói về sự thay đổi tiến bộ của anh N.

 Mà thơ của anh, nói cho công bằng, đọc vẫn cứ
thích, không được thật thích như trước kia, nhưng vẫn là thơ của một tài thơ,
chúng tôi uốn nắn lại nhau thế. Là một nhà thơ trong đội ngũ những nhà thơ. Là
một tên tuổi quen thuộc trong số rất nhiều tên tuổi đã quen thuộc. Là người của
bọn tôi, là lứa trẻ nối sau cái lứa đã không còn trẻ, là hình ảnh, bóng dáng
của một thời xuân sắc của tất cả mọi người.

Nếu như bọn tôi có
phải bàn về N. thì đã có thể nói với nhau một cách từ tốn và bình thản, không
say mê mà cũng chẳng bực dọc, không so sánh mà cũng không thèm muốn.

 Như mọi người!

 Là một người đứng lẫn trong mọi người.

Là một khuôn mặt
hao hao với rất nhiều khuôn mặt.

 Một tài năng như tất cả các tài năng. A ha! Là
một tài năng đã trở lại cái tầm vóc chung, cái khuôn khổ chung, có thể bé hơn
cái chung chút ít, nhưng rõ ràng là không bị thừa ra.

Bởi vì cái phần hơi
thừa ra ấy, chúng tôi đã hùa nhau gọt xén đi một chặp bằng lưỡi dao của dư
luận.

 Rồi đến chính N. cũng lại tự gọt xén một chặp
nữa bởi vì đã biết đắn đo, biết tính toán, biết từ bỏ sự phiêu lưu để giữ lấy
cái an toàn.




*



Bạn đọc chớ vội
thất vọng vì cái phần kết không có hậu của truyện này. Với anh N. thì quả thật
có hơi buồn, vì anh đã trở thành một con người trung bình, một người làm thơ
trung bình như tất cả chúng tôi. thôi được, ta hãy để anh N. sang một bên.
Chuyện về anh coi như là kết thúc. Nhưng tài năng văn nghệ thì vẫn còn, còn
nhiều. Chúng tôi đang đi tìm họ đây. Chắc chắn là sẽ có. Tôi đã được nghe xì
xào những lời tán tụng đầu tiên rồi. Một tài thơ và một tài văn. Mà độc đáo
lắm, trí tuệ lắm, hiện đại lắm. Những tài năng rất là hiện đại. Lại sẽ có bao
nhiêu chuyện để mà bàn. Lại có bao nhiêu cớ để mà vui, mà giận, để so sánh và
ghen tuông. Dẫu sao chúng tôi vẫn cứ là chúng tôi, không một mảy may thay đổi.
Nếu chúng tôi không thấy cần thiết phải tự thay đổi, thì các tài năng đã đến,
đang đến và sẽ đến phải thay đổi. Họ sẽ phải nhìn vào chúng tôi mà biến hoá.
Cũng như... cũng như chúng tôi đã từng nhìn vào những kẻ đàn anh mà nhào lộn và
biến hoá.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 25, 2014 03:18

May 21, 2014

M. Bakhtin – Một số vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu văn học quá khứ

 Lời dẫn 

Bài viết sau đây của M. M. Bakhtin  (1895-1975) vốn in trên tạp chí Novyi mir (Thế giới mới) của Hội nhà
văn Liên xô số ra 11-1970. So với các công trình đồ sộ khác của Bakhtin thì nó
có vẻ không mấy quan trọng, chẳng qua … chỉ là một bài báo nhỏ.

Tôi đồ rằng thế này.

Năm đó tên tuổi của Bakhtin bắt đầu
được khôi phục, và làm choáng ngợp cả giới nghiên cứu lẫn sáng tác.Novyi Mir muốn chứng tỏ mình là một tạp
chí đổi mới nên gợi ý tác giả viết riêng cho mình một bài, và Bakhtin đã đáp ứng
lại thịnh tình đó bằng bài viết ngắn này. (Cũng như ở ta, tới năm 1980, nhà
nghiên cứu Hoàng Trinh phụ trách Tạp chí văn học, nghe nói tôi có biết ít nhiều
về Bakhtin đã nhờ tôi chọn dịch một cái gì đó của tác giả và tôi đã gửi tới bản
dịch.)


Nhưng nói như Xuân Diệu, rễ của cây cúc vẫn có mùi thơm của cúc, --
dù là viết theo đơn đặt hàng, nhưng bài viết sau đây vẫn có ý nghĩa rất lớn với
các nhà nghiên cứu văn học ở Liên xô những năm đó ở hai khía cạnh:

1/ 
Bakhtin yêu cầu nhà nghiên cứu phải đăt văn học trên bối cảnh văn hóa chứ
không chỉ dừng lại ở các nhân tố xã hội kinh tế. Ta biết rằng ở Liên xô trước
1991, khoa nghiên cứu văn hóa cũng vừa kém cỏi vừa sai lệch; văn học bị đặt
trong mối quan hệ nhục nhã với hệ tư tưởng, và một cách hình thức, với các vấn đề
kinh tế xã hội, chứ không phải lịch sử văn hóa (đây cũng là căn bệnh mà các nhà
nghiên cứu ở VN thường mắc). Gợi ý của Bakhtin sẽ làm phiền rất nhiều những người
lười biếng, chỉ biết áp dụng duy vật lịch sử một cách giáo điều.

2/ Ông lại yêu cầu nhà nghiên cứu khi
đi vào các hiện tượng văn học không dừng lại ở thời đại ra đời của tác phẩm, mà
phải nối tiếp nó với các thời đại khác, nhất là không được hiểu thời đại theo nghĩa
hẹp, mà phải xem xét nó trong cả thời đại lớn. Đây cũng mở ra cả một bước ngoặt.

Tôi xin lấy một ví dụ về việc áp dụng
quan niệm trên ở VN.

 Theo tư tưởng chính thống đang chi phối tất cả
các giáo trình đại học và các sách lịch sử văn học kiểu mậu dịch quốc doanh, thì trước và sau 1945 là hai thời đại khác hẳn
nhau, và nhà nghiên cứu sẽ phạm quy, nếu tìm cách giải thích tác phẩm của các
nhà văn tiền chiến bằng các vấn đề của đời sống hiện nay (đúng hơn phải gọi đầy
đủ là “thực tiễn cuộc sống cách mạng” hiện nay), cũng như ngược lại, lấy đời sống
hôm nay để chứng minh cho giá trị nhân bản của văn học tiền chiến.

 Nhưng theo thiển ý của tôi, cả hai giai đoan
trước sau 1945, đều thuộc chung về một thời đại.

Cái thời đại lớn nói ở đây, tức là thời
đại xã hội trung cổ, chuyển mình theo hướng hiện đại hóa.

Nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn hiện đại
hóa I.

Nửa sau, bên cạnh xu thế quay về một
xã hội tiền hiện đại
trong những năm chiến tranh, thì dù lảng tránh và trầy trật đến mấy, vẫn
phải theo hướng của thế giới, gọi đích danh là quá trình hiện đại hóa giai đoạn II, giai đoạn chúng ta đang sống.

Chính là khi nghiên cứu lại các nhà
văn tiền chiến, tôi đã dùng kinh nghiệm sống của con người hôm nay để giải
thích đánh giá và tôi thấy nó có hiệu quả. Ban đầu tôi chỉ tự phát làm việc đó,
nay nhờ đọc Bakhtin, thấy tự tin hơn.

Tuy viết muộn, nhưng Tô Hoài trước
1945 là một nhà văn có cái nhìn riêng về đời sống. Điều thú vị là đọc nhiều
sáng tác của ông, nhất là thời kỳ sau 1986, cứ thấy phảng phất không khí của
các truyện ngắn trước 1945, con người cũng thế mà sự việc cũng thế. 

Hỏi ông thì
ông chỉ bảo mình chẳng nghĩ gì cả làm gì có sự phân cách giữa thời nọ với thời
kia. Vậy có thể dùng lại chữ của Bakhtin ở đây, tất cả là thuộc về một thời đại
lớn.

Trong hoàn cảnh mà giới nghiên cứu
văn học ở ta đang mải mê chạy theo những quan niệm lý luận mới, nhắc lại hai luận
điểm của Bakhtin như trên nghe có vẻ cổ lỗ thế nào. Nhưng theo tôi, gợi ý của
Bakhtin mới là con đường lớn và có triển vọng với những  ai muốn qua nghiên cứu  để  hiểu
văn học và hiểu đời sống.

 Trong một dịp khác tối sẽ trở lại với Bakhtin,
Bakhtin và Những vấn đề thi phápDostoievski

 Lúc này đây, những gợi ý của Bakhtin trong bài
báo nhỏ này vẫn rất mới mẻ.

Khi xem lại bản dịch này tôi không có
bản tiếng Nga trong tay, nên không nhớ tên thật của bài viết là gì, hình như nó
hãy dũng cảm sử dụng những khả năng lớn
…Tuy nhiên tôi vẫn nghĩ cái tên của bản tiếng Việt là đúng với dụng ý của tác
giả.

Mấy câu in đậm trong bài là của người dịch.

Tôi cũng xin lỗi là do không có đủ
tài liệu trong tay nên không có một số chú giải cần thiết khác.







Nếu
được nói ý kiến của tôi về những nhiệm vụ đang đặt ra hàng đầu đối với khoa
nghiên cứu văn học, thì tôi muốn dừng lại ở hai vấn đề liên quan tới lịch sử của
văn học trong các thời đại trước, và cũng là ở hình thức chung nhất của nó. Tôi
sẽ không đề cập tới vấn đề nghiên cứu văn học hiện đại và phê bình văn học, mặc
dù, hơn đâu hết ở đây có những vấn đề dưới đây sẽ nói, và theo tôi, chúng đã
chín muồi, và đã được nghiên cứu có hiệu quả, cần phải tiếp tục.

Trước
hết, khoa nghiên cứu văn học
cần phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa
. Văn học là một
bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Không
thể hiểu nó ngoài cái mạch (kontekst)
nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại
.
Không được tách nó khỏi
các bộ phận khác của văn hóa, cũng như không được, như người ta vẫn làm, là trực
tiếp gắn nó với các nhân tố xã hội kinh tế, vượt qua đầu văn hóa. Những nhân tố
xã hội kinh tế tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung và chỉ thông qua văn hóa,
mới tác động được tới văn học.


Trong
một thời gian dài, chúng ta đã đặc biệt chú ý tới các vấn đề riêng của văn học.
Bấy giờ làm như thế có thể cần thiết và có lợi. Nhưng nên nói rằng cái lối chỉ
biết tới những vấn đề riêng như thế xa lạ với những truyền thống quý báu nhất của
khoa học ở ta. Thử nhớ lại chân trời văn hóa hết sức lớn rộng trong các công
trình nghiên cứu của Pôtépnhi và đặc biệt Veselovski. Trong khi mải mê chú ý tới
những vấn đề của những khu vực riêng, người ta đâm ra coi thường mối quan hệ và
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực khác nhau của văn hóa, quên rằng ranh giới
giữa các khu vực này không phải là tuyệt đối, trong các thời đại khác nhau,
ranh giới này lại khác đi. Người ta cũng không biết rằng sinh hoạt văn hóa sôi
nổi nhất và có hiệu quả nhất diễn ra ở ranh giới giữa các khu vực, chứ không phải
từng khu vực riêng của văn hóa, nhất là khi những khu vực đó lại tự khép kín
trong “mảnh đất” của mình. Cần đặc biệt nhấn mạnh là trong giới hạn của thời đại,
các khu vực riêng của văn hóa không chỉ có tác động lẫn nhau mà còn có đấu
tranh. Sự thống nhất của nền văn hóa trong một thời đại là hiện tượng hết sức
phức tạp và không phải là sự hòa điệu đơn giản. Đúng hơn, nó giống như cuộc
tranh luận chưa chấm dứt trong phạm vi thời đại đó.

Trong
các công trình nghiên cứu lịch sử văn học ở ta, nhiều người đã chú ý nêu rõ đặc
điểm của thời đại có liên quan đến hiện tượng văn học đang đươc nghiên cứu.
Nhưng trong phần lớn trường hợp, người ta làm giống y như  trong môn lịch sử đại cương, thiếu đi sự phân
tích có tính tới những sai biệt cụ thể về từng khu vực của văn hóa, cuộc đấu
tranh và những tác động của các khu vực đó với văn học. Và cả phương pháp luận
của một lối phân tích như thế cũng chưa được nghiên cứu. Trong một số công
trình, cái gọi là “quá trình văn học” của thời đại, vốn bị nghiên cứu tách rời
khỏi sự nghiên cứu văn hóa một cách sâu sắc, rút cục lại bị quy lại thành những
cuộc đấu tranh trên bề nổi giữa các khuynh hướng văn học, và trong thời kỳ cận
đại (đặc biệt ở thế kỷ XIX), đôi khi bị quy vào những chuyện ồn ào trên báo
chí, tóm lại là những thứ chả có ảnh hưởng quan trọng gì đối với nền văn học lớn,
nền văn học thực thụ của một thời đại. Trong khi đó, văn hóa như một dòng chảy
mạnh mẽ ở mãi bề sâu (đặc biệt là bộ phận văn hóa dân gian, có tính cách nền tảng),
thật sự có tác động tới các nhà văn, lại chưa được phát hiện, đôi khi chính nhà
nghiên cứu chưa hề hay biết. Lối tiếp cận như vậy không thể giúp ta đi sâu vào
những tác phẩm lớn, bản thân văn học hiện ra bé nhỏ và không có gì đáng để ý.

Nhiệm
vụ mà tôi  đang nói và gắn vào đó là những
vấn đề của nó (vấn đề ranh giới giữa các thời đại khi hiểu mỗi thời đại là một
sự thống nhất về văn hóa, vấn đề loại hình văn hóa và nhiều vấn đề khác) đang
hiện ra hết sức rõ rệt trong những cuộc thảo luận về nền văn học barocco ở các nước Slavơ và đặc biệt những
cuộc thảo luận về thời kì Phục hưng và chủ nghĩa nhân đạo ở các nước phương
Đông hiện đang còn được tiếp tục. Chính trong những cuộc thảo luận này, giới
nghiên cứu thấy rõ cần phải đi sâu hơn nữa vào mối quan hệ không thể tách rời
giữa văn học và văn hóa của một thời đại.

Những
công trình nghiên cứu văn học xuất hiện mấy năm gần đây mà tôi vừa nêu – của
Kondrat, Likhachev, Lotman và trường phái của ông – tuy khác nhau về phương
pháp luận, nhưng đều giống nhau ở chỗ là không tách văn học khỏi văn hóa, mà muốn
hiểu các hiện tượng văn học trong sự thống nhất của toàn bộ văn hóa một thời đại
(trong sự thống nhất đó, vẫn có những sai biệt, phân hóa, cố nhiên). Ở đây cần
nhấn mạnh văn học là một hiện tượng rất phức tạp, và nhiều chiều cạnh, mà khoa
nghiên cứu văn học lại còn quá trẻ, chưa thể nói có một phương pháp nào gọi là
“lối thoát duy nhất” trong nghiên cứu văn học được. Đó là lý do và cũng là điều
kiện cần thiết để xác định phải có những lối tiếp cận khác nhau, chỉ cần đó là
những cách tiếp cận nghiêm chỉnh và có thể phát hiện ra những điểm mới trong
các hiện tượng văn học.

Nếu như không thể nghiên cứu văn học
tách rời nền văn hóa của thời đại, thì cũng không nên thu hẹp hiện tượng văn học
trong cái thời đại đã sản sinh ra nó, trong tính đương thời của nó, như người
ta vẫn nói
. Chúng ta thường có ý cắt nghĩa nhà văn và tác phẩm
bằng hoàn cảnh nhà văn đó đã sống và quá khứ gần đó (trong giới hạn của thời đại,
như chúng ta vẫn hiểu). Nhưng chúng ta rất sợ phải đi xa thời đại của cái tác
phẩm chúng ta nghiên cứu.

Lối
nghiên cứu xuất phát từ điều kiện và nhiệm vụ của xã hội trong đó tác phẩm ra đời
cố nhiên phải có, nhưng nó không thể bao quát hiện tượng được nghiên cứu, và
trước tiên là những yếu tố của hiện tượng có liên quan tới cái gọi là “tính nội
dung của hình thức”. Mọi tác phẩm đều bắt rễ rất sâu vào quá khứ xa xôi. Một
tác phẩm văn học vĩ đại được chuẩn bị qua nhiều thế kỷ, lúc nó hình thành tức
là lúc người ta thu hoạch cả cái thành quả của một sự tìm kiếm lâu dài và phức
tạp đến lúc chín muồi. Chỉ căn cứ vào điều kiện của thời đại, cái thời gian tác
phẩm ra đời, để hiểu và cắt nghĩa tác phẩm, chúng ta không bao giờ có thể thâm
nhập vào được cái bề sâu ý nghĩa của nó. Bó hẹp trong một thời đại, chúng ta
cũng không thể hiểu cái cuộc sống của tác phẩm trong những thế kỷ tiếp,  khi tương lai của tác phẩm hiện lên như là
ngược đời, kỳ quặc. Phá
vỡ những giới hạn của cái thời gian mà nó ra đời, tác phẩm vươn tới cuộc sống của
các thế kỷ, tức là sống trong một thời đại lớn và thường là (với các tác phẩm
vĩ đại thì luôn luôn là) một cuộc sống sôi nổi và đầy đặn hơn so với cuộc sống
đương thời
. Nói một cách đơn giản và thô thiển hơn, nếu ý
nghĩa của một tác phẩm nào đó chỉ được người ta quy vào chỗ là nó có vai trò nhất
định trong cuộc đấu tranh với quyền chiếm hữu nông nô (trong các trường phổ
thông, người ta làm vậy) thì tác phẩm đó hoàn toàn mất ý nghĩa, khi chế độ nông
nô và những tàn tích của nó không còn trong đời sống, ngược lại, nếu ý nghĩa của
nó vẫn được tăng cường tức là nó đã đi vào thời đại lớn. Nhưng tác phẩm vẫn
không thể sống trong những thế kỷ tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu
hút vào mình những gì của các thế kỷ đã qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những
yếu tố của ngày hôm nay (tức của xã hội đương thời với nó) mà không tiếp tục
quá khứ và không gắn bó với quá khức một cách đáng kể, nó không tiếp tục sống
trong tương lai…

Như
tôi đã nói, cuộc sống của những tác phẩm vĩ đại trong những thời đại tiếp sau,
cách xa thời gian ra đời của nó, đôi khi rất là ngược đời. Trong tiến trình của
cái đời sống những năm tiếp theo đó, các tác phẩm này có thêm những ý nghĩa mới,
những khía cạnh tư tưởng mới. Các tác phẩm này hình như lớn vượt lên, so với
chính nó trong thời gian nó được xây dựng. Hãy nhớ lại trường hợp Shakespeare.
Có thể nói rằng cả Shakespeare  lẫn những
người cùng thời với ông, không hề hay biết có một Shakespeare  vĩ đại, như bây giờ chúng ta đều biết.

Đương
thời, Bielinski từng nói rằng mỗi
thời đại lại phát hiện ra những tác phẩm vĩ đại của quá khứ những khía cạnh mới.

Hay là chúng ta thêm thắt vào tác phẩm của Shakespeare  những thứ mà trong đó không có, chúng ta hiện
đại hóa và xuyên tạc những tác phẩm ấy? Hiện đại hóa và xuyên tạc là chuyện đã
xảy ra và còn xảy ra. Nhưng Shakespeare  trở nên vĩ đại không phải là dựa vào chỗ đó.
Ông trở nên vĩ đại là do những yếu tố đã có trong tác phẩm của ông, nhưng cả
ông và những người đương thời không thể quan niệm và đánh giá được trong cái mạch
văn hóa của thời đại mình. Ý
nghĩa tư tưởng chỉ tồn tại ở dạng hàm chứa, tiềm năng, và ý nghĩa đó chỉ được phát
hiện trong cái mạch văn hóa của những thời đại kế tiếp, một cái mạch thuận tiện
cho sự phát hiện đó
. Kho tàng tư tưởng do Shakespeare  mang vào trong các tác phẩm của ông thật ra đã
được lựa chọn và xây dựng trong nhiều thế kỷ, thậm chí trong hàng ngàn năm:
chúng hòa tan vào ngôn ngữ, và đó không phải chỉ là những lớp ngôn ngữ văn học,
mà còn cả những tầng ngôn ngữ dân gian mà trước Shakespeare  chưa được đưa vào văn học, chúng hòa tan trong
các thể loại và hình thức rất đa dạng của sự giao tiếp về ngôn ngữ, trong các
hình thức của nền văn hoá dân gian hùng hậu (chủ yếu là hình thức hội giả trang
hình thành đã hàng ngàn năm, trong các thể loại sân khấu diễn xướng: kịch diệu
pháp, kịch hề và nhiều thể khác), trong các cốt truyện bắt rễ sâu vào thời tiền
sử, cuối cùng, chúng hòa tan trong những hình thức của tư duy.

Cũng
có ý nghĩa đặc biệt là các thể loại, qua trường kỳ lịch sử trong các thể (kể cả
thể loại văn học thành văn, lẫn văn chương truyền miệng) đã quy tụ những hình
thức nhìn nhận và suy nghĩ về những phương diện nhất định của đời sống. Đối với
những người xem nghề văn chỉ là một thứ nghề thủ công, thể loại là một thứ
khuôn sáo bề ngoài. Chỉ các nghệ sĩ lớn mới biết thức tỉnh những tiềm năng ý
nghĩa có sẵn trong thể loại. Shakespeare  đã sử dụng và đưa vào tác phẩm của mình một
kho tàng lớn lao những ý nghĩa ở dạng tiềm năng mà thời bấy giờ người ta chưa
phát hiện ra và nhận thức đầy đủ…

Nói
vậy không có nghĩa là nhà văn có thể bằng cách nào đó tách khỏi thời đại đang sống,
tác phẩm của nhà văn đó có thể đặt vào quá khứ hay xếp sang tương lai đều thế cả.
Thời đại nhà ăn đang sống vẫn giữ nguyên vai trò quyết định của mình: thiếu đi
yếu tố đó, không thể có sáng tác đó nữa. Sự phân tích khoa học chỉ có thể xuất
phát từ thời đại nhà văn đã sống, và muốn tiếp tục phát triển,  mọi thời đại phải tự soát xét lại từ cái gốc
đó. Như chúng tôi đã nói từ đầu, trước
tiên người ta hiểu một tác phẩm văn học trong sự thống nhất đa dạng của nền văn
hóa của cái thời đại nó đã được xây dựng. Có điều không thể bó gọn nó trong thời
đại này mà vẻ đầy đặn của nó chỉ được phát hiện ra trong cả thời đại lớn
.

Nhưng
nền văn hóa của một thời đại – dù thời đại này cách xa chúng ta bao lâu nữa –
không thể tự gói gọn trong chính nó,  như
một cái gì đã hoàn thiện, đã sẵn sàng, và có thể đi mãi không quay lại, tức có
thể chết. Đến nay, quan niệm của Spengler về những thế giới văn hóa hoàn thiện
và khép kín vẫn còn gây được ảnh hưởng trong các nhà sử học và giới nghiên cứu
văn học ở ta. Nhưng cần phải bổ sung và phê phán tư tưởng đó ở những phương diện
quan trọng nhất của nó. Spengler xem nền văn hoá của một thời đại như một vòng
tròn khép kín. Nhưng sự thống nhất của một nền văn hóa nhất định là sự thống nhất
để ngỏ. Mỗi một đơn vị thống nhất đó (ví dụ văn hoá cổ đại) có tính đặc thù của
mình, nhưng vẫn gia nhập vào quá trình hình thành nền văn hóa nhân loại, quá
trình này là duy nhất, tuy không phải là phát triển theo đường thẳng. Trong mọi nền văn hóa quá khứ còn
hàm chứa một tiềm năng ý nghĩa lớn lao, chưa được nhận thức và chưa được sử dụng
trong suốt cuộc sống lịch sử của nền văn hóa đó.


Chính
nền văn hóa cổ đại chưa biết rằng có một nền văn hóa cổ đại mà hôm nay chúng ta
biết. Ai từng là học trò hẳn nghe một câu đùa đại ý nói: Những người Hy Lạp cổ
không biết điều chủ yếu ở họ - họ không biết rằng họ là những người Hy Lạp cổ,
và không bao giờ họ tự gọi mình như vậy. Chính là khoảng thời gian để biến người
Hy Lạp thành người Hy Lạp cổ có một ý nghĩa thức tỉnh lớn lao: nó được lấp đầy
bởi những phát hiện, theo đó, thời cổ đại hiện ra với những giá trị tư tưởng hết
sức mới mẻ, mà người Hy Lạp thực ra không biết, dù chính họ đã sáng tạo nên.

Chúng
tôi xin nhấn mạnh ở đây chúng tôi nói tới cái
chiều sâu tư tưởng vốn có trong nền văn hóa ở các thời đại đã qua
,
chứ không nói tới việc tăng cường những hiểu biết của chúng ta về các nền văn
hóa đó, qua những tư liệu, bằng chứng mà ngành khảo cổ đã khai quật được, cũng
như qua việc phát hiện những văn bản mới, hoàn thiện việc giải mã các văn bản ấy,
hoặc là qua việc phục chế… đó là việc tìm ra những cơ sở vật chất của tư tưởng,
kẻ mang tư tưởng, phần xác của tư tưởng như người ta vẫn nói. Nhưng trong văn
hóa, giữa phần xác và phần hồn không thể có một sự phân chia ranh giới tuyệt đối.
Văn hóa không phải được tạo nên từ những yếu tố chết. Như chúng ta đã nói,
trong tay những người xây dựng, đến những hòn ngói cũng biết nói lên một điều
gì đó qua hình thức của mình. Do đó, những phát hiện mới về nền văn hóa vật chất
góp phần sửa chữa những quan niệm tư tưởng của chúng ta và yêu cầu chúng ta phải
làm lại những quan niệm đó ở những phía rất cơ bản.

Có một quan niệm đã sống dai dẳng
trong chúng ta nhưng là quan niệm một chiều và do đó không đúng: đó là quan niệm
cho rằng để hiểu một cách thật đúng một nền văn hóa khác, cần đặt mình vào đó,
quên mình đi, nhìn thế giới bằng con mắt của nền văn hóa xa lạ với mình này
.
Cố nhiên, việc thâm nhập vào một nền văn hóa khác, khả năng nhìn thế giới bằng
con mắt của nó là nhân tố cần thiết để tìm hiểu nó. Nhưng nếu chỉ nhờ yếu tố đó
đã hiểu mọi chuyện, thì cách hiểu đó chẳng qua chỉ là một bản sao đơn giản,
không có gì mới và cũng chưa giàu có thêm về bất cứ phương diện nào. Cách hiểu
sáng tạo không từ chối chính mình, vị trí của mình trong thời gian và nền văn
hóa của mình. Nó không chịu quên chút gì hết cả. Để
hiểu hiện tượng, nhà nghiên cứu có một việc quan trọng là tạo ra thế đứng ngoài
– đứng ngoài về cả không gian, thời gian và văn hóa – trong tương quan với sự vật
mà nhà nghiên cứu đó muốn hiểu một cách sáng tạo
.
Bản thân bề ngoài của mỗi con người cũng không bao giờ được người đó nhìn nhận
một cách thấu đáo và suy nghĩ được toàn diện; không một tấm gương hoặc một bức ảnh
nào giúp được người đó trong việc này hết. Chỉ có những người ngoài nhìn thấy
cái vẻ ngoài thực sự của anh ta, hiểu vẻ ngoài đó, nhờ cái thế đứng ngoài xét về
mặt không gian, cũng như nhờ vào chỗ họ là những người khác.

Trong lĩnh vực văn hóa, thế đứng
ngoài là một thứ đòn xeo mạnh mẽ giúp cho sự hiểu biết

(cố nhiên, phải kết hợp chặt chẽ với việc thâm nhập từ bên trong bằng cách đi
sâu vào đối tượng). Chỉ trong mắt những nền văn hóa khác, một nền văn hóa lạ mới
tự phát hiện ra mình một cách đầy đủ hơn và sâu sắc hơn (nhưng không phải đã hiểu
tất cả, vì lại có những nền văn hóa khác nhìn nhận và lý giải hay hơn). Trong
khi gặp gỡ và tiếp xúc với nhau, từng nền văn hóa này phát hiện ra bề sâu của
mình; giữa đôi bên dường như bắt đầu một cuộc đối thoại, khiến cho tính cách chật
hẹp và đơn điệu của từng nền văn hóa này, được khắc phục. Chúng ta đặt ra cho nền
văn hóa lạ kia những vấn đề mới, mà nó chưa từng đặt ra, nền văn hóa kia trả lời
chúng ta, mà cũng là mở ra cho chúng ta thấy những phương diện mới của nó những
bề sâu ý nghĩa mới. Không
có những câu hỏi của mình, người ta không thể hiểu những cái khác lạ ngoài mình

(cố nhiên, đây phải là những câu hỏi nghiêm chính thực thụ). Khi hai nền văn
hóa gặp gỡ đối thoại với nhau, chúng không hòa trộn mà cũng không lẫn lộn vào
nhau, mỗi bên bảo vệ sự thống nhất và sự nguyên vẹn để ngỏ của mình, nhưng cả
hai có thể làm giàu thêm cho nhau.

Về
triển vọng của sự phát triển tới đây của khoa nghiên cứu văn học ở ta, tôi thấy
đó là một triển vọng hết sức tốt đep, vì chúng ta có những khả năng lớn. Cái mà
không phải bao giờ chúng ta cũng đủ, đó là sự dũng cảm trong khoa học nghiên cứu;
mà nếu thiếu đi sự dũng cảm đó, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới đỉnh cao
và thâm nhập được xuống bề sâu như chúng ta mong muốn.






















































































Đã
in trên Tạp chí Văn học, số 4 (184),
tháng

7&8/1980, tr. 139 - 144
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 21, 2014 07:24

May 16, 2014

Thạch Lam và mối đồng cảm với người nước ngoài sống trên đất Việt: trường hợp truyện ngắn "Người đầm"




Vốn là bài Trong thân phận của kẻ khác có thân phận của
chính ta, từng 
đưa lên blog này ngày 14-8- 2012. 
Cuối bài có phần viết thêm
gần 1500 chữ





Trong việc sửa chữa lại một truyện ngắn trước khi in vào sách, Thạch Lam cho ta thấy  tinh thần nhân văn của thời đại đã thấm vào ông tự nhiên và sâu sắc như thế nào. 

Bằng những lời lẽ ôn tồn và dung dị, ông đã đề xuất  một cách nhìn  nhân hậu và hợp lý  đối với  những người từng đóng vai trò chủ đạo chèo lái xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX: người Pháp.



Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938).


Nội dung Người đầm có thể tóm tắt như sau:

Một lần, tác giả tới xem chiếu bóng ở rạp Pathé (trông ra Hồ Gươm; sau đổi là rạp Hòa Bình, nay thành Nhà hát múa rối). Ở đó, ông gặp một người đầm, cùng đi xem với con gái. Có cái lạ là hai mẹ con người này chỉ ngồi ở ghế hạng nhì, chỗ vẫn thường dành cho người bản xứ. Chẳng những thế, ở bà toát ra vẻ khiêm nhường nhũn nhặn,“cái nhìn của bà rụt rè e lệ quá, khiến tôi ái ngại và cảm động”. Giờ nghỉ, ra ngoài, bà mua kẹo cho con, vẻ rất thân thiện với chú bé bán kẹo, nhất là khi thấy chú chạy vội đi vì sợ cảnh sát thì bà buồn hẳn.



Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, Người đầm kết thúc bằng cái cảnh ngoài trời “mưa bụi và gió lạnh”, còn hai mẹ con người đàn bà “lủi thủi đi trên con đường vắng” ra về. Từ đó, tác giả - nhân vật xưng tôi trong truyện – không gặp lại bà nữa.



Người chủ hiểu biết, độ lượng và cái nhìn thân thiện về kẻ xa lạ

Mấy thế kỷ đã qua, kể từ khi hai dân tộc Pháp-Việt có dịp tiếp xúc với nhau. Trong tâm thức người Pháp, người Việt thường hiện lên với những đường nét thế nào? Những hình ảnh này đã thay đổi ra sao theo thời gian? Bấy nhiêu câu hỏi lẽ ra phải sớm được đặt ra, và tìm lời giải đáp, qua các tác phẩm văn chương (cố nhiên là loại viết bằng tiếng Pháp).

Bởi gạt sang một bên những cái nhìn thực dân, có thể tin chắc là trong chừng ấy thời gian tiếp xúc, phải có nhiều người Pháp yêu mến người Việt, nếu không làm sao họ có thể có nhiều đóng góp vào việc hiện đại hóa xứ sở này đến thế.

Tiếc thay, vì quá bận bịu, ở ta chưa ai ngó ngàng tới chuyện ngày cả.

Tình hình cũng chả khả quan gì hơn khi nhìn vào phần viết ngược lại, tức câu chuyện “bóng dáng người Pháp trong tâm thức người Việt”.

Đại khái, chỉ biết rằng trong phần lớn trường hợp, người Pháp thường được phác họa như những kẻ lố lắng, thô lỗ, kỳ cục. Thơ Tú Xương tả cảnh thi cử:

-- Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng

Bài văn tế Francis Garnier, tương truyền là của Nguyễn Khuyến:

Mắt ông xanh lè – Mũi ông thò lõ – Tay ông cầm cờ – Miệng ông huýt chó – Nhà ông bày toàn những chai-- Vườn ông trồng toàn những cỏ.

Cho đến giai đoạn xã hội Việt Nam trở nên ổn định và có phần thịnh trị, như từ sau 1932 trở đi, thì trong một đôi phen xuất hiện, hình ảnh này cũng chưa phải đã được cải thiện khá hơn.

Nhân vật công sứ trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng chỉ là một sơ đồ thiếu sức thuyết phục.

Trong khi đó, ở những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Lại chuyện con mèo, mấy ông Tây “sơ-vin” lại hiện ra chẳng có gì là gây được thiện cảm, người này tàn nhẫn lạ lùng, người kia ngẩn ngơ máy móc trong cách nghĩ, cách sống.

Đặt trong khung cảnh này mà xét, thì với Người đầm, Thạch Lam đã bộc lộ một cái nhìn và thái độ khác hẳn.

Tư thế của nhân vật xưng tôi ở đây, là tư thế một người chủ lịch lãm, đại lượng.

Ông không giấu rằng, ông có những tình cảm tốt đẹp với dân tộc Pháp, vừa muốn thân thiện với họ, vừa muốn hiểu biết họ.

Và sự thực là ông đã có một hiểu biết đến nơi đến chốn về dân tộc ấy, đến mức, chỉ hình ảnh một người đàn bà thôi cũng đủ gợi nên trong ông hàng loạt liên tưởng

“Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thờ cao trên bụi cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh, bên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quỳ đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người bên ấy”.

Quay trở lại với hình ảnh của người đàn bà trước mặt, lúc này ở tác giả không còn có sự phân biệt đây là dân Việt mình, kia là người Pháp nữa, mà chỉ còn duy nhất một nhân vật phụ nữ yếu đuối cần được che chở. Thạch Lam nhìn bà chẳng khác bao nhiêu so với cách ông vẫn nhìn những bà mẹ Lê, cô Tâm trong Cô hàng xén, cô Liên trong Hai đứa trẻ.

Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn rầu âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây”.

Do chỗ được soi sáng từ một cái nhìn như thế, người đầm ở đây trở nên sinh động, trước tiên là có một đời sống nội tâm phong phú: nhạy cảm và biết điều; đơn độc song vẫn tế nhị; khiêm nhường cố thu mình lại, như bất cứ ai phải sống ở một nơi xa lạ, trong khi vẫn tìm cách khẳng định bản thân trước cái hoàn cảnh éo le và không có gì là dễ chịu ấy.

Về mặt nhận thức mà xét, giờ đây, người đàn bà trong văn Thạch Lam không còn là hiện tượng ngoại nhập lạ lùng kỳ quái, như vẫn thấy ở nhiều tác phẩm văn chương mà đã trở thành một con người bình thường, thành viên của một nhân loại thống nhất; kẻ khác đã trở thành chính ta, có nhiều cái ta trong hình ảnh kẻ khác ấy.



Vượt lên lối nhìn nhận thông thường

Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, nói đơn giản với một sự tỉnh táo vốn có, khi tả người đàn bà Pháp ngồi trong rạp chiếu bóng, Thạch Lam không quên lưu ý

  “Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại còn thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa”.

Ở một đoạn sau, tác giả láy lại

:“Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng, như se lại, trước cái ác cảm bà đoán thấy ở xung quanh”.

Hóa ra, không phải cái nhìn của Thạch Lam là cái nhìn chung của mọi người về người đầm. Mà ngược lại, bởi biết rằng cái cách nhìn nhận của mình còn đang là đơn lẻ, nói đúng ra, vượt lên cao hơn hẳn với đám người quanh mình, nhà văn cảm thấy như được một sự kích thích thú vị và càng hào hứng theo đuổi những suy nghĩ riêng tư.

Rút cục, chúng ta có một thiên truyện nó như chứng tích cho sự trưởng thành của ý thức cộng đồng: sau giai đoạn thù hận, đến giai đoạn chấp nhận người Pháp, bởi biết rằng, trong khi mang tới nhiều đau đớn và bất hạnh thì đồng thời họ cũng là cái cầu nối để chúng ta đến với thế giới hiện đại, và nhiều người trong họ vẫn là những người đáng mến.



Cần nói thêm rằng không phải ngay từ đầu nhà văn đã dám đi đến cùng trên con đường được ông lựa chọn.

Trong bản in trên báo Ngày nay 1937, thiên truyện có một kết cục hơi khác với văn bản ngày nay chúng ta vẫn đọc. Đoạn ấy thế này:

Mấy tháng sau buổi xem chiếu bóng ở rạp Pathé, tác giả có dịp gặp lại người đàn bà kia, thì bà đã thực sự bị hoàn cảnh làm cho xấu đi.

Trong cung cách của một người Pháp nói tiếng Việt đã hơi sõi, bà quát mắng một người ăn mày

“Xin cái gì nữa, đồ bú dù”, còn cô bé con cũng “níu lấy áo mẹ, giơ chân đá về phía những đứa trẻ khốn nạn kia, mồm mắng câu mà cô đã học được của anh bồi: Cút, con khỉ ”.

Tóm lại người đầm hôm nào đã có đủ những thói xấu của đám người Pháp sống lâu ở Đông Dương.

Có lẽ là do căn cứ vào bản in báo này, mà Nguyễn Tuân, trong bài viết nổi tiếng dùng làm lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Thạch Lam in ra ở Hà Nội năm 1957, đã hạ những câu bình phẩm:

Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng của một Người đầm (…). Qua cái hơi văn bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả”.

Nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, người đầm nói ở đây là đồng nhất ngay từ đầu, đồng nhất hoàn toàn, với hình ảnh một kẻ thực dân.

Ở chỗ này, người đọc hậu thế lại có dịp chứng kiến ngòi bút Thạch Lam tinh tế và tác giả đã cẩn trọng với trang sách của mình đến là ngần nào.

Nếu chỉ giữ lại như văn bản đã in báo thì suy cho cùng, cái nhìn của Thạch Lam về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh vẫn có nét gì đó hao hao như cái nhìn của những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và nhiều người đương thời.

Có lẽ vì sớm cảm thấy điều đó, nên một năm sau, khi đưa Người đầm vào tập Nắng trong vườn, Thạch Lam đã làm một cuộc thay đổi căn bản.

Đoạn văn diễn tả cái cảnh gặp lại lần sau bị tước bỏ hẳn.

Thay vào đó, chỉ là mấy câu buông lửng. “Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa”.

Nghĩa là nhà văn không muốn nhìn nhận cái việc người đầm bị “làm hỏng”.

Vẫn trân trọng lưu giữ “hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó”, tác giả kết thúc truyện ngắn bằng một ý nghĩ giản dị và đôn hậu. “Bây giờ chắc bà ta có công việc làm rồi”.



So với bản in báo, thì bản in sách có mất đi một chút sắc sảo trong cách nhìn nhận nhân tình thế thái, song nghĩ kỹ, nó lại trung thành với chính Thạch Lam hơn, nó trở nên nhất quán trong cái ấn tượng mà nhà văn này tự phân biệt với tất cả những người khác, muốn để lại trong tâm hồn bạn đọc.

Với văn bản hiện nay, người đọc cảm thấy càng âm vang lên niềm ao ước của Thạch Lam, có lẽ nó đã là lý do chính thôi thúc ông viết Người đầm:

Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà”.

Người đầm cũng như nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, được viết bằng một bút pháp cổ điển, nhưng ý nghĩa của mỗi dòng chữ, lời đề nghị toát ra qua tác phẩm thì với con người hôm nay vẫn còn là một cái gì mà chúng ta không dễ với tới.




Viết thêm 16-5-2014


1/ Trong các giáo trình về văn hóa VN, một số nhà nghiên cứu thường khái quát là dân ta sống trong hiếu hòa thân thiện với người các xứ khác. Dân gian thì tự bảo với nhau người mình có thói quen với ai cũng ân cần niềm nở và được tiếng là mến khách.

Nhưng trong thực tế hôm nay không phải như vậy hoặc đúng hơn không chỉ có vậy. Thái độ của người dân cả Hà Nội lẫn các địa phương với người nước ngoài đến làm việc và du lịch được báo chí miêu tả gần đây cho thấy một xu thế khác. Trong cơn khủng hoảng xã hội, nhiều người Việt đang tìm cách đổ vạ cho bất cứ người nào chúng ta ngẫu nhiên gặp trên bước đường kiếm sống của mình. Đám khách phương xa vô tội kia tự nhiên trở thành đối tượng để người dân ở các đô thị xoay sở kiếm chác kể cả chặt chém lừa lọc, ăn cắp, cướp giật.

Tại sao lại có tình trạng ấy? Hàng ngày người mình đối xử với nhau cũng đã không ra gì. Cái đó có. Nhưng đằng sau đó còn cái quan niệm hẹp hòi của mình về người nước ngoài, đại khái cho rằng họ là hậu duệ của những kẻ đến đây theo chân quân xâm lược.

Và điều quan trọng là họ thì quá sướng trong khi chúng ta quá khổ, thành thử trong nỗi đau khổ của chúng ta, họ có lỗi.



2/ Trở lên mới là mới thử kiểm điểm trên phương diện sinh hoạt hàng ngày.

Xét mối quan hệ với nước ngoài trên các vấn đề hình thành và phát triển của quốc gia, còn nhiều câu hỏi phải đặt ra.

-- Sự có mặt của người nước ngoài ở xứ ta qua thời gian cả ngàn năm nay có đặc điểm gì?

-- Vai trò của yếu tố ngoại lai trong các phương diện kinh tế chính trị văn hóa ngôn ngữ?

--- Nhà nước phong kiến ở ta thường nhìn nhận các quốc gia khác thế nào?

--- Người dân thường ở ta thường nhìn người nước ngoài thế nào?

-- Mối liên hệ giữa tự ý thức dân tộc với cách hiểu về sự chung sống với các dân tộc khác trên thế giới? Sự chệch hướng của mối quan hệ đó trong thời gian chúng ta bận bịu vì cuộc chiến tranh?

…..

Đây không phải là công việc một người có thể làm được song cần phải có người nào đó bắt đầu đi, rồi những người khác sẽ đi xa hơn.



3/ Trước mắt bản thân chúng tôi thấy có một thắc mắc. Phải chăng ở ta vừa có hiện tượng sùng ngoại lẫn bài ngoại? Nghĩa là chúng ta chưa tìm thấy một nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này mà còn để cho những tình cảm bản năng bột phát chi phối.

Về sùng ngoại, bao gồm cả sự ỷ lại vào nước ngoài, thì nhiều tài liệu ở ta đã nói tới.

Còn cái ý bài ngoại là do tôi đọc được từ Phan Châu Trinh. Trong bài viết Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam , cụ Tây Hồ có lẽ là người lần đầu tiên dùng tới chữ này nhân nói về Phan Bội Châu.

Theo Phan Châu Trinh, cá tính con người Phan Bội Châu biểu hiện “những quán tính lâu đời của người Việt Nam, gồm những mặt tốt đẹp nhất cho tới những mặt thiếu sót, kém cỏi nhất” .

Cụ Tây Hồ giải thích thêm “... Ông ấy -- tức Phan Bội Châu VTN chú--là người đại biểu cho những tập quán có từ ngàn xưa trong lịch sử của dân tộc nước Nam. Không biết chân tướng của người nước Nam, xem ông ấy thì biết được. Người dân nước Nam rất giàu tính bài ngoại, ông ấy bài ngoại đến chỗ cực đoan. Người nước Nam rất thích ỷ lại vào người nước ngoài thì ông ấy ỷ lại đến chỗ cực đoan. Người dân nước Nam rất thiếu tính tự lập thì ông ấy lại càng thiếu cùng cực. Tính cách và trình độ của ông ấy nhất nhất đều tương hợp với tính cách và trình độ của quốc dân, bởi vậy ông nhân ưu điểm và khuyết điểm của quốc dân mà lợi dụng. Đây là điều thầy thuốc gọi là thuật ‘lấy độc trị độc’ (tắc nhân tắc dụng chi thuật)” .

Trích theo bài viết của Vĩnh Sính

Ý nghĩa tác phẩm Tân Việt Nam của Phan Châu Trinh(http://www.chungta.com.vn/nd/tu-lieu-...)



4/ Xin nhắc lại trên đây là điều tôi còn đang thắc mắc và sẽ chưa thể tin nếu chưa tìm cho mình rất nhiều bằng chứng khác. Hơn nữa, vấn đề không đơn giản chỉ là gán cho dân tộc một đặc tính, như thể dán một cái nhãn hiệu. Sẽ là cần thiết hơn sau khi nói đặc tính ấy ta phải miêu tả tình trạng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể và tìm ra cách giải thích sự hình thành và phát triển của nó.



Điều có thể chắc: Chúng ta chưa đưa vấn đề quan hệ với người nước ngoài  lên bình diện ý thức. Chúng ta còn quá cẩu thả trong các mối quan hệ đó, nói cách khác là chưa bàn bạc trao đổi với nhau thường xuyên để tiến tới cả cộng đồng có một nhận thức hợp lý từ đó mỗi cá nhân có cái nhìn hợp lý và cả quốc gia có sách lược chiến lược cụ thể.

Suy cho cùng mọi chuyện xuất phát từ chỗ ta chưa chịu đặt mình vào đại gia đình nhân loại.

Với kẻ khác, lúc thì ta kiêu căng, lúc thì ta sợ sệt.

Điều có thể còn chắc chắn hơn nữa là rất nhiều lần ta rơi vào tình trạng mâu thuẫn, đỏng đảnh, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác. Trước những người đã có lúc làm ơn cho ta, ta cũng biết đấy, nhưng lúc điên lên lại quệt mỏ bất cần. Với những kẻ đến xâm chiếm ta, ta chỉ nhăm nhăm tiêu diệt cho hả giận mà không biết cách hóa giải các lực lượng đó và ngăn chặn từ xa, lại càng không biết biến thù thành bạn.

Trong một cuốn sách danh ngôn tôi đọc được một câu đại ý khi đã vong ơn với người đã có lúc cứu giúp mình thì người ta cũng dễ liếm gót giày kẻ đã đạp vào mặt mình.



5/ Có hai tác phẩm của Nguyên Hồng viết từ trước 1945, tôi được học trong chương trình trung học khoảng 1958-60, và cứ nhớ mãi nhưng các bạn trẻ hiện nay ít biết. Cả hai cùng nhắc nhở tôi tới truyện Người đầm nói trên của Thạch Lam.

Một là truyện Buổi chiều xám, vẽ lại hình ảnh một người lính Nhật với sự thông cảm cao độ. Người lính đó đến VN làm nhiệm vụ một tên lính của đội quân xâm lược. Nhưng dưới con mắt của tác giả, người lính đó vẫn hiện lên như một con người . Khi thấy một bà mẹ bế một em bé đi qua, hắn luống cuống xô đến bộc lộ tình cảm thân thiện như để khuây đi nỗi nhớ nhà vẫn đau đáu trong lòng.

Hai là truyện Người đàn bà Tầu, sau đổi là Một người mẹ Trung quốc. Người đàn bà nhếch nhác nói ở đây dẫn một lô một lốc mấy đứa con sang Việt Nam chạy loạn. Trong cảnh khốn cùng bà nhanh chóng thấu hiểu mọi nỗi đau của người dân ở xứ sở vừa đặt chân tới, và tác giả thì tỏ thái độ cảm thông và khâm phục với người đàn bà xa lạ ấy.



Tôi không nhớ thờ tiền chiến còn có truyện nào tương tự, nhưng chỉ cần hai thiên truyện trên đủ thấy cái nhìn của Thạch Lam trong Người đầm là không đơn độc. Các tác phẩm này là một khía cạnh làm nên tính nhân bản của văn học 1932-45, nó là cả một truyền thống mà từ sau 1945, nhất là từ sau 1960 thì chúng ta từ bỏ để chỉ tập trung vào làm một nền văn học phục vụ chiến tranh -- vì thế mới có chuyện nhiều tác phẩm tiền chiến có giá trị song động khác đi một tí là bị phớt lờ, bị cấm đoán. Nhưng khi cả đến Nguyễn Tuân sau 1945 cũng từ bỏ tinh thần nhân bản này, do đó không hiểu được Người đầm của Thạch Lam như trên đã dẫn, thì chúng ta đủ hiểu cái định hướng của thời đại đã làm biến dạng con người ta đi như thế nào.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 16, 2014 07:49

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.