Vương Trí Nhàn's Blog, page 69

January 17, 2015

Một cách đinh nghĩa về sự trưởng thành của con người

Tôi thích thú với bài thơ sau đây của nhà thơ Ba Lan Wisława Szymborska (1923 - 2012) trước tiên  là bởi  nó nói tớí sự hạn chế của con người.

 Tuổi trẻ thường nghĩ mình có thể làm mọi thứ. Chỉ khi trưởng thành, người ta mới hiểu rằng mỗi con người  luôn luôn bất lực trong việc tổ chức cuộc sống của bản thân; luôn luôn có những việc cần làm mà bị bỏ lỡ; trong khi mải sống theo một cách này, người ta buộc phải từ bỏ những cách sống khác.

Bài thơ cũng nói rằng sống là  phải sai lầm, phải làm phiền người này hoặc làm người khác thất vọng. Nếu cứ ngồi tính hết những điều gọi là lỗi lầm, thì ta sẽ hối hận mà chết. Nếu cứ sống theo lời khuyên của người khác thì người ta không còn là mình.

Đây là mấy câu gần cuối, chúng  thuộc loại hay nhất của cả bài

Xin lỗi mọi điều vì em không có mặt khắp nơi.

Xin lỗi tất cả mọi người vì em không thể là ai cũng được.




Em biết mình chẳng có gì biện minh chừng nào em còn sống,

vì chính em là trở ngại của mình.

Lời xin lỗi  được lặp đi lặp lại. Nhưng trong những lời xin lỗi rất thành thực ta vẫn cảm nghe  một điều tự nhủ giống như một bằng chứng của sự kiên cường. Con người ở đây sẽ tiếp tục đi  theo cái lối mà con người cũ của mình trước đó đã mở  ra. 

Một sự ương bướng rất dịu dàng đã được xây dựng trên cơ sở của sự từng trải, của nhận thức sáng suốt, kể cả tự nhận thức.

 Nhờ sự ương bướng ấy, những lời lẽ của con người tưởng như đã già,  đã đi hết mọi phía sáng tối của cuộc đời, ở đây càng có sức thuyết phục với người đọc. Cả hai cảm thấy mình có quyền  tự coi như  đã trưởng thành.

 Dưới một vì sao Wisława Szymborska Thái Linh dịch

Xin lỗi sự ngẫu nhiên

 vì em gọi nó là điều tất yếu.




Xin lỗi điều tất yếu

nếu dù sao em cũng đã nhầm.




Hạnh phúc xin đừng giận dữ réo gầm,

vì em chiếm như của riêng mình vậy.




Người đã khuất hãy quên đi điều ấy,

 rằng trong ký ức mơ hồ họ leo lét lắt lay.




Xin lỗi thời gian vì em đã không hay,

 bao lần lỡ những trần gian khoảnh khắc.




Xin lỗi mối tình xưa,

vì tình mới em xem như tình yêu thứ nhất.

Những cuộc chiến xa xôi xin hãy thứ tha,

 khi em đem hoa thắm về nhà.




Những vết thương hoác miệng hãy bỏ qua,

khi em bị kim đâm vào ngón.




Xin lỗi những người từ vực sâu đang gọi khóc,

 vì đĩa nhạc kia với vũ khúc nhịp nhàng.




Xin lỗi những người sân ga lang thang,

vì giấc ngủ lúc năm giờ sáng.




Hi vọng hãy bỏ qua đừng chấp,

vì đôi khi em cũng mỉm cười.




Đừng chấp em, sa mạc kia ơi,

 vì em chẳng chạy nhanh cầm thìa nước.




Cả mi nữa cú ơi,

vẫn trong chiếc lồng này bao năm không gì khác trước,

bất động đăm đăm nhìn một điểm không rời,

hãy buông tha cho ta, ngay cả khi mi là một chim nhồi.




Vì bốn chân bàn xin thứ lỗi cho em,

cây bị đốn kia ơi.




Xin lỗi những câu hỏi lớn lao

 vì những câu trả lời nhỏ bé.




Sự thật ơi, đừng để ý tới em sít sao đến thế.

Hỡi trang nghiêm, hãy rộng lượng hải hà.




Nhẫn nại đi sự sống bí ẩn à,

 từ gấu áo người em rút từng sợi chỉ.




Tâm hồn đừng lên án em như thế,

khi lâu lâu em mới gặp người.




Xin lỗi mọi điều vì em không có mặt khắp nơi.

Xin lỗi tất cả mọi người vì em không thể là ai cũng được.




Em biết mình chẳng có gì biện minh chừng nào em còn sống,

vì chính em là trở ngại của mình.




Xin đừng chỉ trích em lời nói hỡi, em xin,

 khi em mượn những ngôn từ thống thiết,

rồi sau đó thêm vào bao khó nhọc,

để chúng dường như thanh thoát nhẹ nhàng.




Theo mạng Lilia







***

Phụ lục

  Trong khi phát triển cùng một ý toát ra  bài trước, bài thơ sau đây cũng của Szymborska không hay bằng. Tuy nhiên tôi thích nhất hai câu cuối -- nhấn mạnh đến sự bất lực -- nên đưa thêm vào đây để các bạn cùng  thưởng thức.



Ghi chép Wisława Szymborska Thái Linh dịch




Sống – là cách duy nhất

để phủ đầy lá quanh mình,

thở hổn hển trên cát,

hay cất cánh bay;




để làm một chú chó

hoặc vuốt ve bộ lông ấm của nó;




để phân biệt cơn đau

với tất cả những gì không phải là cơn đau;




để có mặt trong các sự kiện

xuất hiện trong những cảnh tượng,

tìm kiếm sai lầm nhỏ nhất trong số các sai lầm.




Là cơ hội đặc biệt

để nhớ trong chốc lát

những điều đã trò chuyện

bên ngọn đèn leo lét;




và để ít nhất một lần

vấp phải hòn đá,

bị ướt dưới mưa,

đánh mất chìa khóa trên bãi cỏ;




để nhìn theo tia chớp trong gió;




và để luôn luôn không rõ

về một điều quan trọng nào đó.







Cả hai bài đều lấy từ mạng Lilia,

một trang mạng mà theo tôi,

chủ nhân của nó thực sự có cốt cách và ngôn ngữ của môt nhà thơ.





Xin gửi tới bạn Thái Linh  lời cảm ơn của một người

bắt đầu hiểu rằng

tới tuổi bảy mươi



thì  tốt nhất là nên trở lại với thơ.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 17, 2015 21:09

January 1, 2015

P.Eluard (1895-1952) và đời sống văn học Hà Nội trước 1975

Nhận
xét về sự hình thành  lớp nhà thơ tiền
chiến, Hoài Thanh viết  “mỗi nhà thơ Việt
hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp’. Đối với sự hình thành sáng
tác nhà thơ sau 1945, nói hẹp hơn là với lớp nhà thơ chống Mỹ, tình hình có
phần ngược lại.  Ảnh hưởng, từ những cái
to lớn như văn hóa thơ, cho tới  những
gợi ý sáng tác--- chỉ đến với họ từ nền thơ trong nước, từ các bậc đàn
anh;  số có hiểu biết về thơ nước ngoài
đến mức như một nguồn mạch, một tác động trực tiếp gần như không có.


điều nhìn lại nền thơ lúc ấy, người ta vẫn tìm thấy những dấu vết những tiếng
dội của thời đại nó hiện ra thành những mảng những khối những tên tuổi những
câu thơ giọng thơ mà người làm thơ tiếp nhận và có mặt trong suốt hành trình
của họ.


Một
thời gian dài, văn học chủ yếu lấy cảm hứng từ nguồn xô viết và nguồn Trung
quốc. Nhưng đó là ở tinh thần chung của văn học và xét về thể loại thì chủ yếu
đó là văn xuôi. Còn thơ? Có thể nói một cách chắc chắn là ở đây,  không có một nền thơ nào có ảnh hưởng rõ
rệt.  Tôi nhớ loáng thoáng:

--
các tập chung Tập thơ Liên xô, Về Diên An,
Những nhà thơ da đen,  Thơ Tây Ban Nha

,  và có cả một tập Thơ Indonesia  nữa

            -- các tập về từng tác giả riêng
thơ, S.Pétofi, R. Tagore, P. Neruda, Nazim Hikmet, L.Hughes      …

         Nếu chỉ căn cứ vào những cuốn sách,
thì chỉ có vậy.

          May sao, bên cạnh sách, đời sống văn
học bao gồm từ những bài viết, bài giới thiệu, những bài thơ dịch in lẻ tẻ trên
các báo và tạp chí, số báo, cho đến câu chuyện hàng ngày, những suy nghĩ về thơ
mà người trong cuộc thường trao đổi với nhau. Ở đây người ta có thể nhận ra có
sự chênh lệch. Có những nhà thơ nước ngoài đã có sách in, nhưng tác động tới
đời sống chẳng là bao. Ngược lại, có những nhà thơ được dịch rất ít, nhưng
trong giới, ai cũng biết, cũng có ấn tượng như là mình có quen biết.

         Được can dự vào cái đời sống thơ dịch mong manh trôi chảy
này những năm ấy, tôi  muốn nói đến hai
tên tuổi hằn lên khá sâu trong ký ức khiến cho bản thân tôi, khi cùng với họa
sĩ Nguyễn Quân làm tập Mười nhà thơ lớn
của thế kỷ
,(1982) phải lập tức ghi nhận, và đưa lên hàng đầu. Đó là  hai nhà thơ Pháp  L. Aragon và P. Eluard.

          Sự có mặt của Aragon không hoàn toàn xuôn xẻ.
Ngay từ hồi kháng chiến cùng với việc dịch K. Simonov ( Đợi anh về ), Tố Hữu đã dịch Hành
khúc
của ông. Năm 1960, một tập Thơ
Aragon
được in ra, khá sớm so với mọi nhà thơ khác mà tôi đã kể trên. Nhưng
chỉ vài năm sau thôi, sự tiếp nhận văn chương bị ảnh hưởng nặng về bao nhiêu
chuỵện thời sự  lúc ấy đã hãm Aragon
lại.

           Không chỉ là những câu thơ đưa tình
yêu lên một thứ tuyệt đối mang tính chiếm hữu. Mà còn tiếng nức nở của một
người thất vọng trước lý tưởng mình đã lựa chọn…Những yếu tố ấy đã ngăn cản
không cho nhà thơ đến với chúng tôi nữa.

           Trong hoàn cảnh ấy, thì người đi cặp
với Aragon
là Eluard lại nổi lên như một cái gì mà người ta có thể chấp nhận ngay được.

             Một lần nào đó, sau khi tiếp một
đại diện của Đảng Cộng sản Pháp lúc đó đến thăm Hà Nội, Tế Hanh kể với tôi là
ông ta cũng chỉ nói đại ý Đảng Pháp có hai nhà thơ, một chết rồi coi như còn
sống và một còn sống coi như đã chết.

            Người thứ hai là Aragon còn người thứ nhất là
Eluard.

            Tế Hanh khuyên tôi không nên hiểu
nhận xét quái ác này ở từng chữ một của nó, mà hãy chỉ nhớ rằng sau hết đây vẫn
là nhà thơ quan trọng của nước Pháp mà cũng là của thơ ca hiện đại. Họ khác
nhau và như đối trọng của nhau.

             Về mối liên hệ của Eluard với các
bậc đàn anh trong thơ  chống Mỹ ở VN  lúc đó, tôi nhớ có mấy trường hợp :

              Trong Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên có một bài ghi lại cái nức nở của
một người muốn mang những tìm tòi hiện tại bổ sung cho quá khứ, sửa chữa quá
khứ:

           
Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình


            Những vui buồn đời ký thác cho anh

             Câu thơ đập như qủa tim còn trẻ

             Mừng vui quá bỗng rưng rưng giọt
lệ


            Như sáng mai xuân mà sương ướt đầu
cành





             Tôi
viết cho ai cho cả mọi người


             
Nhưng rất gần cho những đứa em tôi


            Ngày
đau khổ khép tay trong tủi cực


           Nay
mở tay ra bến rộng sông dài


            Cho
ai cũ thơ tôi làm ướt áo


             Nay họ về sưởi dưới nắng thơ tôi

      Bài thơ mang tên Nghĩ về thơ này đó có một dòng cạnh ghi
chú ngay bên cạnh đầu đề  : Nhân đọc Eluard và Pòemes pour tous
(Thơ cho tất cả mọi người ).

           Xuân Diệu không dịch
Eluard nhiều, nhưng trong số các bài thơ dịch của Xuân Diệu, bài Cái chết tình yêu cuộc sống là một trong
những bài hay nhất.

           Tế Hanh thì cố nhiên là
người đã đóng góp nhiều nhất vào vào việc dịch và giới thiệu Eluard rồi. Có
một  sự gần gũi  tự nhiên giữa bậc thầy thơ Pháp và Tế Hanh,
gần hơn so với Xuân Diệu Chế Lan Viên. Có lẽ do 
sự tự nhiên của thơ chăng?

             Từ 1958, trên tạp chí Văn Nghệ, Tế Hanh đã có
bài viết về nhà thơ này mang tên Eluard
dòng thơ bất
tuyệt.

          Sau này trong tập Đẹp hơn nước mắt tuyển thơ kháng chiến
Pháp, Tế Hanh cho dịch  của Eluard tới
bảy bài.

           Trong thế hệ của tôi,
hai nhà thơ thông thạo thơ nước ngoài hơn cả là Bằng Việt và Hoàng Hưng cũng là
người đã có những bài thơ dịch Eluard đến mức hoàn thiện.

             Cái gì đã khiến cho
Eluard đồng hành với cả một thời của các nhà thơ Việt Nam như vậy? Tôi tự hỏi
và tự trả lời cho mình thế này. Aragon quá dằn vặt quá phức tạp. B. Brecht qua
trí thức và đầy nghịch lý. P.Neruda ngổn ngang như thiên nhiên đồ sộ. Nazim
Hikmet dẫu sao cũng là một giọng điệu mới, ở nhà thơ Thổ này cũng như ở nhà thơ
Cu ba N. Guillen, có một thứ giản dị mà chúng tôi còn chưa quen, nên phục thì
phục thật, nhưng không tính chuyện có thể học theo để viết một cái gì của mình.

             Chính trong cái nền
đó mà Eluard nổi lên. Một cái gì thuần khiết trong trẻo. Một tiếng nói trầm
tĩnh vì hình như những điều định nói là chuyện đương nhiên rồi không có gì phải
cao giọng, thơ lại khá hồn nhiên và  như
ô –tô – ma – tích, là tự động mà
tuôn chảy nữa, một bài thơ như Tự do
cứ như là tràn ra, viết liền một mạch là xong .

           P.Neruda viết khi nghe
tin Eluard mất “Tôi tưởng như còn thấy
ông đang sống, luôn luôn ở bên cạnh tôi. Ánh sáng chói lọi như một thứ bắc cực
quang không bao giờ tắt trong đôi mắt ông. Ông liền xương liền thịt với nước
Pháp, mảnh đất  ở đó những rễ và những
cành nguyệt quế kết lại làm nên một thiên nhiên sực nức thơm tho. Đá và nước
nâng bước ông đi. Dồn tụ cả vào ông ánh sáng ngàn năm -- những tổ chim, những
bông hoa và những bài ca trong suốt.


          Vâng, trong suốt,  đó chính là 
chữ tôi tìm thấy. Thơ ông là đá thạch anh. Thơ ông là ngụm nước ngọt lịm
trong cái thoáng nước thấm vào cổ họng.


          Còn theo V. Nezval, “Eluard là người biết nói một cách giản dị
nhất trực tiếp nhất  về một thứ chủ nghĩa
nhân đạo phức tạp
“.

          Vậy là Eluard đến với
chúng tôi cứ như là đã hẹn trước…

          Dưới đây là hình ảnh con
người và thơ  Eluard qua cái nhìn của nhà
văn Nga từng là một trong những cầu nối giữa văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp
với văn hóa xô viết -- là I.Erenburg.

        Những năm sáu mươi của thế
kỷ trước, ở Hà Nội, các nhà văn lớp trước 
truyền tay nhau không chỉ một số tác phẩm văn học văn học xô viết  dịch ra tiếng Pháp  mà còn một số tác phẩm văn học Pháp do Nhà
xuất bản Ngoại văn  Moskva
  tuyển lựa và cho in.  Bài viết của Ehrenburg (nguyên văn tiếng
Nga) – là lời giới thiệu dành cho tập Thơ Eluard  trong xê-ri sách nói trên.

                   

Eluard
trong mắt Ehrenburg






Những người đã trải qua những năm chiến tranh ở
vị trí tiền tiêu hẳn biết những người lính đã bồi hồi như thế nào giữa hai loạt
đại bác, trong khoảnh khắc yên lặng xa vắng, trên đồng nội lảnh lót một vài tiếng
chim. Eluard phải sống và viết trong những khung cảnh rất ồn ào, người ta phải
nghe từ tiếng loa phóng thanh oang oang đến tiếng còi ầm ĩ, tiếng bom đưa dậy đất.
Lịch sử lên tiếng và hình như chỉ có máy điện tâm đồ mới phân biệt được nhịp đập
trái tim người. Eluard không tự tách mình khỏi thời đại, không chui vào một góc
kín. Nhà thơ tham gia kháng chiến, đấu tranh cho hoà bình, nhiều bài thơ của
ông dội thẳng vào những vấn đề mà mọi người phải làm quen. Nếu như thơ của
Eluard đã làm rung động và sẽ làm cho những người đương thời rung động thì
chính bởi đó là thứ thơ yên lặng, trong thơ không hề muốn nói to hơn thời đại,
trong thơ lúc nào cũng nghe thấy giọng nói của một con người.



Những bài thơ đầu tiên của Eluard được in trong những
năm nước Pháp vất vả trải qua cuộc chiến tranh mà nhiều người tưởng là cuộc
chiến tranh cuối cùng và bây giờ ta gọi là chiến tranh thế giới thứ nhất.

Năm 1918, ông viết Trường ca hoà bình. Đây là
mấy dòng: Tất cả những người phụ nữ hạnh phúc lại nhìn thấy người chồng. Họ
đã quay về như mặt trời, đầm ấm biết bao. Họ cười, họ nói thầm thì nói
xin chào trước khi gặp gỡ niềm vui, ôm
ấp.


Và không lâu trước khi chết, năm 1951, ông viết:

Con người sinh ra để hiểu nhau, để yêu nhau, để có
những đứa trẻ gọi họ là cha. Họ có những đứa trẻ khi lạnh lẽo bước đi giữa thế
giới lại phát hiện ra lửa, ra con người
.

Suy nghĩ về sự phát hiện ra lửa, từ cổ Hy Lạp đã lay
động tâm tưởng nhiều nhà thơ, lại sống dậy trong thơ Eluard. Ngay từ hồi còn ở
mặt trận ông đã viết: Trời xanh bỏ tôi rồi, tôi nhóm lửa.

Tôi đã dẫn thơ Eluard dịch ra văn xuôi. Tất nhiên có
mất mát đi nhiều tôi có lo. Nhưng cái làm tôi sợ hơn vì chắc là sẽ mất mát
nhiều hơn, là dịch ra văn vần.

 Có những nhà
thơ ưa dịch có thể dịch ra ngôn ngữ khác không những tư tưởng hình tượng mà đôi
khi cả những thủ pháp biểu hiện. Có thể chuyển những dòng thơ của Maiakovski ra
bất cứ thứ ngôn ngữ nào.

Ngày sặc sỡ vụt qua

Năm tháng kéo xe bò chầm chậm.

Ở đây có cả hình tượng lẫn thủ pháp, những từ chỉ có
một nghĩa dứt khoát, ngắn gọn. Nhưng đây, những dòng của Puskin

Tôi nhớ lại những phút giây kỳ diệu

Khi trước tôi hiển hiện hình em

Như bóng dáng vụt qua phút chốc

Như bài ca vẻ đẹp êm đềm

Dịch ra tiếng khác, những câu thơ kỳ diệu này dễ trở
thành một thứ láu lỉnh tầm thường tệ hại.

Nhiều nhà thơ Nga từ Briussov đến Pasternak đã thử dịch
câu thơ của Verlaine: "Tim tôi khóc lên như cơn mưa đang qua trên thành
phố. Chẳng biết nó là thế nào cái nỗi buồn đó, nỗi buồn đang tràn ngập trái tim
tôi."


Sự tình là ở chỗ này: cái diệu kỳ của những vần thơ
vừa dẫn là ở sự kết hợp dễ dàng nhất của những từ bình thường và nó trở nên
không ra làm sao trong ngôn ngữ khác.

Trong bản dịch xuôi, người đọc có thể biết ý nghĩa
chính xác những dòng thơ Eluard đã viết và có thể tưởng tượng những câu thơ đó
trong nguyên văn vang lên một cách hồn nhiên nhất, trở thành thơ.

Đương nhiên ngay ở nguyên văn, đối với những người
không quen cảm thụ thơ, thơ của Eluard cũng có vẻ không có gì khác với văn
xuôi. Ông cố gắng để thơ mất đi cái vẻ ngoài thi vị của nó. Trong thơ ông không
có chỗ cho những quy tắc những vần những niêm luật. Nó chỉ cố kết trong nhịp
điệu và sự gắn bó  kín đáo của ngôn từ.

Có những nhà thơ học được cách mô tả sự vật một cách
khéo léo cùng là nắm được những thủ pháp thơ ca khác nhau. Họ tìm mọi cách để
chuyển văn xuôi ra thơ. Eluard trong thơ khó khăn rất mực và đồng thời lại giản
đơn như trẻ nhỏ, khi trẻ nhỏ cởi mở tưởng đang tự thú với mình.

Có những nhà thơ hội hoạ, họ vận dụng sức mạnh của
những gì nhìn thấy, thơ họ loá lên những hình tượng. Thuộc loại này trong văn
học Pháp là Hugo, những người trong nhóm Parnasse, Baudelaire, Rimbaud, và
trong số những người đang sống là Aragon mà ta quen biết. Maiakovski cũng nổi
bật lên giữa những nhà thơ Nga với lối biểu hiện gần hội hoạ vậy.

Có những nhà thơ bản lĩnh tâm tình thuộc loại khác. Họ
chẳng bao giờ chỉ dẫn kêu gọi, họ chỉ kéo ta đi như âm nhạc. Thơ của họ không
tách rời khỏi sự quyến rũ mầu nhiệm của ngôn từ.

Sinh thời, Eluard rất yêu hội hoạ. Với người bạn gần
gũi nhất của ông là Picasso, ông rất gắn bó. Họ cùng nhau ra sách người dùng
lời người vẽ. Nhưng thơ Eluard lại ít chất hoạ. Hiếm lúc nào thấy ông đi vào
những hình tượng có tính chất tạo hình. Cách nói của ông luôn đơn giản, và hơn
thế nữa, hồn hậu. Kể ra là những ví dụ sau đây:

- Chúng ta đi bên nhau, cầm tay nhau. Ta tưởng như
khắp nơi là nhà của ta, dưới bóng cây dịu dàng, dưới bầu trời xanh, tất cả mái
tranh, giữa phố xá vắng vẻ vì mặt trời oi nóng, một người bộ hành lơ đãng nhìn
ta, giữa những người tốt bụng và những chàng ngốc. Tình yêu chả có gì bí mật
hết. Chúng ta được mọi người hiểu, mọi người mến yêu, bởi vì họ như những người
khách của ta vậy.


- Làm sao bây giờ, cửa đóng lại. Làm sao bây giờ,
chúng tôi bị giam bên trong. Làm sao bây giờ, đường phố bị bao vây. Làm sao bây
giờ, thành phố đầu hàng. Làm sao bây giờ, thành phố đói, chúng tôi chả còn vũ
khí. Làm sao bây giờ, bắt đầu đêm. Làm sao bây giờ, chúng tôi yêu nhau.


Eluard nắm rất vững ý nghĩ của ngôn từ. Trong bài thơ
về G. Péri ông viết: Có những tiếng giúp
cho ta sống, đó là những tiếng đơn giản: tiếng
ấm và tiếng tin, tiếng sự
thật và tiếng tự do, tiếng trẻ con và tiếng người yêu, và một
số tên gọi hoa và cây. Từ
dũng cảm
từ
phát hiện từ anh em và từ đồng chí, tên một số thành phố và làng mạc, tên một số phụ nữ và bè bạn. Và bây
giờ trong đó thêm vào từ
Péri.

Eluard  rất ghét
những từ hoa hoè hoa sói và mặc dầu viết về những đề tài có sức kích động lòng
người, ông vẫn chịu không thích được những từ kêu to quá đáng. Bài thơ Tự do
ông viết trong những năm kháng chiến được hàng triệu người Pháp quen thuộc. Ông
bảo: tôi viết tên tự do trên căn nhà đổ
của tôi, trên ngọn hải đăng sụt vỡ của tôi, trên bức tường những nỗi buồn của
tôi.


Những thang bậc trữ tình này rất gắt, ông lại phải làm
dịu bằng những câu bình thường đơn giản :
Trên con chó của tôi dịu dàng và dễ bảo, trên cái tai nghe ngóng thận trọng của
nó, trên cặp chân vụng về của nó, tôi viết tên em :
tự do.

Ông hiểu biết thơ ca một cách sâu sắc không thể tưởng.
Ông đã soạn tuyển tập thơ Pháp, thơ Baudelaire, ông rất thích thơ Anh, thơ Tây
Ban Nha, ông có thể nói như một nhà thông thái, một học giả, nhưng tính chất
bác học, sự cách điệu, những từ ít dùng, giọng điệu kỳ cục... những cái đó
không được phép có mặt trong thơ ông.

Năm 1924, trong giới văn học Paris người ta nói rằng
nhà thơ Eluard thình lình mất tích. Quả thật trong một thời gian dài không ai
được tin tức về Eluard thật. Nội tâm khủng hoảng, ông đi du lịch qua Haiti,
Panama, đến Tân Tây Lan về Indonesia, Sri Lanca. Sẽ uổng công nếu tìm trong thơ
ông dấu hiệu bề ngoài của chuyến đi này. Từ phong cảnh bên đường tới những tên
gọi quái lạ không bao giờ thấy trong thơ ông. Ông vui vẻ cắt nghĩa rằng ông đi
không phải vì một say mê thơ ca nào cả.

Trong văn học Pháp, cũng như văn học Nga, chúng ta
biết có nhiều nhà thơ thích nói những chuyện không ai biết. Đó vừa là phương
tiện làm cho những câu thơ nhạt phèo sống lại, vừa là những vần thơ mới. Eluard
chỉ dùng những từ bình thường nhất, nhưng biết để nó vang lên một cách đặc biệt
và tìm thấy trong đó sức mạnh của thơ.

Tất nhiên thơ Eluard có khó đối với người đọc. Gây ra
khó khăn chính là ở sự đơn giản, đôi khi là quá chắt lọc trong một số bài
thơ... Sợ hãi thừa lời thừa chữ, Eluard đặc biệt vào cuối những năm hai mươi đi
đến một sự cô đọng đến nỗi một số dòng gần như là bí hiểm.

Giống như nhiều người đương thời ở Pháp đi theo con
đường của Apolinaire từ chối mọi dấu trong thơ, vì cho rằng nó làm hỏng nhịp
điệu do đó làm khô héo thơ, Eluard cũng làm thơ không có chấm phẩy, nhưng lại
nổi lên với cái chất trần trụi trong suốt rất hiếm có. Hình ảnh, nhiệt tình,
đương nhiên nhờ đó được lĩnh hội một cách dễ dàng hơn. Lermontov từng viết:

Có những cách nói

Tối tăm hay không rõ nói gì

Nhưng không thể không cảm động

Hay không chú ý tới chúng.

Thơ Eluard không thể nói không có ý nghĩa gì. Nhưng
đôi khi có thể dùng từ "tối tăm" và nếu không một chút cảm động thì
không thể tiếp nhận. Những nhà phê bình thích nói về sự phổ biến, trong những
năm hai mươi ba mươi đã gọi thơ Eluard là thơ của độ trăm người đang yêu nhau.

Điều đó có đúng bởi vì rằng, thơ Eluard lúc đó còn
chưa phổ biến rộng trong độc giả.

Đại chiến thế giới thứ hai bắt đầu, hàng ngàn người
Pháp chép lại những bài thơ của tác giả mà họ chưa quen. Với những vần thơ này,
những con tin đi ra pháp trường và những người du kích vào trận chiến đấu. Nhà
thơ của một trăm người đang yêu đã trở nên dễ hiểu và được mọi người hiểu.

Có thể cho rằng thơ Eluard thay đổi, rằng ông đã viết
theo một kiểu khác. Thường khi viết về những nhà thơ đi đến chủ nghĩa cộng sản,
người ta chú ý làm nổi bật ngày tháng rẽ ngoặt trong sáng tác của họ: trước
ngày tháng nào đó anh ta viết về tình yêu và viết rất khó hiểu. Từ ngày tháng
nào đó, anh ta thay đổi và bắt đầu viết cho mọi người theo tinh thần công dân.

Sự phân chia ấy có tính chất đơn giản và không sao áp
dụng được với Eluard. Trong sáng tác của ông không thể tìm thấy bước ngoặt.
Ngược lại có thể thấy một đường dây nối thẳng giữa những bài thơ đầu và những
bài thơ của ông viết trước khi chết.

Tất nhiên có những tư tưởng mới, những chủ đề mới và
những hy vọng mới do cuộc sống mang lại. Nhưng ngay trong thơ Eluard thời trẻ
đã có thể thấy tinh thần căm giận chiến tranh, căm giận phi nghĩa, căm giận
những gì đè nén con người. Còn chủ đề tình yêu thì đến cuối đời, mình ông đâu
có chịu từ bỏ.

Ông viết những bài thơ đầu tiên khi còn là một người
lính. Quyển sách đầu tiên của ông mang tên Trách nhiệm và sự trăn trở.
Ông viết : "Chiến tranh vào những
ngày mùa đông chẳng gì vất vả hơn
". Ông giận dữ vì những kẻ đã để cho
người lính Finand Paulchen bị chết. Những chủ đề như thế có thể thấy trong thơ
ông một phần tư thế kỷ về sau. Trong tập thơ cuối cùng Phenix, ông viết
về người phụ nữ: "Em ra đi anh buồn
hết sức. Anh kêu
Ôi, chỉ với em, anh
mới có thể kêu
Ôi cuộc đời".

Những chủ đề mới không che lấp những chủ đề trước kia
và Eluard không bao giờ từ bỏ những cuốn sách đầu. Ông có những bài thơ đặc
biệt, những bài thơ luận chiến được viết vào năm 1949 - và tặng "những
người bạn thích yêu cầu cao của tôi" - ý ông muốn nói những ngưòi yêu thơ
ông mà lại không muốn công nhận những vần thơ chính trị của ông. Nếu tôi nói với anh rằng trên một chiếc cọc
màn giường tôi có bện một chiếc tổ chim và không bao giờ tôi nói
ôi thì anh tin tôi và hiểu nỗi buồn của tôi.
Nhưng nếu tôi ca ngợi phố xá, ca ngợi cái khu tôi ở thì anh không tin tôi nữa
.
Nhà thơ trách người bạn mình vô lý còn chính ông chẳng có gì thay đổi cả. Ông
tiếp tục nhớ đến những loài chim làm cho ông buồn trong những giấc mơ. Hai năm
sau trong tập Phenix những con chim này lại kêu "ôi".

Quá trình làm thơ của Eluard gây khó dễ cho những nhà
phê bình chỉ quen với những phạm trù rõ ràng: trong một thời gian dài Eluard là
người cổ động cho thơ siêu thực ở Pháp. Cuộc đấu tranh chống lại những hình
thức hàn lâm trong văn học và đạo đức tiểu thị dân bắt đầu từ nửa sau thế kỷ
mười chín. Đến thời Eluard bước vào văn học, mục đích mà Baudelaire, Rimbaud,
Apollinaire đặt ra vẫn chưa thực hiện hoàn toàn. Nhưng thời của những chủ nghĩa
khác nhau đã hết, siêu thực hình như là cố gắng cuối cùng muốn áp dụng vũ khí
của thế kỷ cũ để chống lại kẻ thù... Sau tấn thảm kịch Tây Ban Nha, Eluard
nhanh chóng hiểu rằng phải tiến hành một cuộc đấu tranh khác và ông đã dũng cảm
tiến hành cho đến cuối đời.

Với ông, chủ nghĩa siêu thực đồng thời có nghĩa là sự
xác nhận vị trí của thơ ca trong đời sống, giúp cho sự đổi mới hiện thực, thay
xã hội tư sản bằng một xã hội khác xứng đáng với con người hơn. Trong việc chọn
lời, phối ý, sự tinh tế đầy chất thơ luôn luôn dắt dẫn ông y như những lô gích
nghiêm khắc. Do đó chủ nghĩa siêu thực đối với ông không phải là một ngôi sao
dẫn đường không phải là một sai lầm ngẫu nhiên, mà là một pha, một chặng đường phát triển.

       Khi những thử thách ập đến, trong hàng
ngũ siêu thực phân hoá làm hai, một bên Aragon, Eluard bên kia là Breton. Năm
1936, Eluard viết:

"Đã đến lúc tất cả các nhà thơ phải tuyên bố ngay
từ đầu rằng họ đi sâu vào đời sống của mọi người, đi sâu vào đời sống xã hội.
Và điều này không làm ai ngạc nhiên cả".

Thơ Eluard luôn luôn gắn bó với xã hội mà nhà thơ
sống. Với tất cả sức lực có thể có, thơ Eluard vang lên như là biểu hiện của tư
tưởng và cảm giác của nhân dân Pháp trong những năm dưới ách chiếm đóng của bọn
phát xít cũng tức là những năm kháng chiến. Năm 1942, Thơ và sự thật ra
đời, nhanh chóng hàng triệu người lặp lại:
Tôi sinh ra để biết em, để gọi tên em, tự do
.

Ông tham gia kháng chiến, tổ chức nhà in bí mật, làm
bất cứ việc gì được giao, đi khắp nước Pháp với truyền đơn trong túi và những
vần thơ sắp sửa bật dậy trong tim. Có một dạo để trốn tránh bọn Gestapo, ông
phải vào trú ở nhà thương điên gần St. Alban. Hai tháng trời sống giữa những
người bệnh tật bất hạnh trên một núi tuyết giữa bão tố và bốt thù, ông đã làm
việc đều đặn. Ở đó ông đã viết về cuộc sống đấu tranh, về hy vọng và hạnh phúc.

Chiến tranh kết thúc nhưng nhiều người vẫn sống trong
lo âu chưa hẳn có hoà bình. Eluard hiểu rằng một nhà thơ đồng thời là một chiến
sĩ cộng sản như ông không có quyền nghỉ ngơi. Ông lại tranh đấu cho hoà bình.
Có thể nhìn thấy ông trong nhiều cuộc hội nghị ở Pháp, ở Ý. Trong thời gian nội
chiến ở Hy Lạp, ông cùng với Ive Farge đi vào những khu vực quân giải phóng vừa
chiếm được. Cũng như Tây Ban Nha năm 1936, Hy Lạp năm 1949 lại xáo động trong
tấm lòng trong sạch, thiện cảm và ý chí ngoan cường của ông.

Nếu đặt thơ Eluard viết về đề tài chính trị cạnh thơ
trữ tình của ông, người ta không thấy có sự đứt quãng. Khi ông nói về các chiến
sĩ du kích, về những người tham gia bảo vệ hoà bình vẫn thấy sống dậy cái tinh
thần và những cảm giác nó thấm thía trong những bài thơ ông viết về nỗi buồn,
về tình yêu, về cái chết.

Cái gì đã báo hiệu con đường chính trị của Eluard?
Trước hết là nỗi khao khát không nguôi: chính nghĩa. Baudelaire đã viết rằng
thơ ca chân chính là sự phủ nhận những gì phi chính nghĩa. Baudelaire  sống trong một thời tranh tối tranh sáng và
tất cả đời sống nhà thơ chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc. Đời Eluard không
tách khỏi thơ ông. Ông thật sự đau khổ vì những cái không chính nghĩa, không
những như một công dân, mà còn như một nhà thơ. Không kém gì chính nghĩa là tự
do mà ông yêu, giữa hai thứ đó không có gì mâu thuẫn mà lại ràng buộc lẫn nhau.
Hơn tất cả những người đương thời khác, với ông, có thể dùng câu của Puskin:
"trong cái thế kỷ khắc nghiệt của
tôi, tôi ca ngợi tự do
".

Sự lương thiện không phải là một đặc tính bắt buộc của
thơ ca. Chúng ta biết có nhiều nhà thơ nổi tiếng tốt, dũng cảm, thông minh,
nhưng đã mất sự lương thiện một con người phải có. Eluard không những lương
thiện trong đời sống mà còn lương thiện trong thơ. Trong một bài thơ nói về
tình yêu, ông viết: Vì chúng ta yêu nhau,
chúng ta muốn giải phóng những người khác khỏi sự giá lạnh đơn độc, chúng ta
mong để tôi không chỉ nói tôi muốn mà còn nói anh muốn, chúng ta muốn, để ánh
sáng chan hoà với những người khác.
Hạnh phúc của người khác với Eluard
không chỉ là một quan điểm triết học, một nguyên tắc đạo đức, một điểm trong
cương lĩnh chính trị, mà còn là một yêu cầu cá nhân có ý nghĩa sâu xa.

Tất cả những người đã gặp ông đều biết khó lòng tìm thấy
sự thống nhất giữa một nghệ sĩ và sáng tác của nghệ sĩ đó như sự thống nhất
giữa thơ và đời sống trong Eluard. Ông mang tất cả mình vào thơ, thơ đối với
ông luôn luôn là một thứ lý lịch cá nhân. Ông khiêm tốn đặc biệt, tránh xa mọi
thứ hư vinh. Dịu dàng, mau mắn, ông sống trong tình yêu của tất cả những người
mà ông đã gặp. Ông không phải là loại nhà thơ phù phiếm bay mãi trên mây trên
gió. Ông tham gia vào cuộc sống, nhìn thấy mọi chi tiết vặt vãnh của nó, nhưng
không bao giờ từ bỏ mơ ước lớn của mình.

Eluard mất ngày 18-11-1952. Không có gì quá khi nói
rằng nước Pháp và thơ ca thế giới cay đắng chịu đựng tổn thất này. Trong đám
tang Eluard có thể tìm thấy những người rất hiểu về thơ, những đại diện của
nước Pháp sáng tạo, và cả những người bình thường nhớ đến thơ Eluard trong
những năm chiến tranh như nơi gặp gỡ của tinh thần dũng cảm và nghệ thuật.

        ...Thơ Eluard là một bằng chứng sinh
động chứng tỏ thơ sống, yêu cầu, đau đớn, khỏi, và tự nâng mình lên.




Mấy bài thơ Eluard

 Với lòng ham mê khó cưỡng, khi đọc các bản dịch Eluard ra tiếng Nga, chúng tôi đã làm cái việc tự nhiên là chuyển nó sang tiếng Việt cho mình dùng. Khi tính chuyện công bố các bài thơ ấy với bạn đọc, tôi hiểu rằng tôi đã đánh liều với dư luận. Nhưng các bạn hiểu cho, đây là những trang blog cá nhân. Tôi không dám lạm dụng tình yêu của các bạn với Eluard mà chèo kéo mời mọc. Tôi chỉ nghĩ, may ra,  biết đâu, cũng có một vài bạn tò mò muốn biết, vậy là tôi đã mãn nguyện lắm.   




Các bài không ghi rõ xuất sứ, và tôi hoàn toàn có ý thức rằng mình chưa đủ trình độ để có thể đạt tới sự chính xác cần thiết. Xin phép gọi đây là các bản phỏng dịch. Vì lòng yêu Eluard và sự lưu luyến đối với một thời thơ dịch mà bản thân có tham dự, xin được kính trình các bạn .




***




Tôi
nghiêng đầu ghé sát vào cửa kính, như một tên lính gác những nỗi buồn



dưới tôi, mãi dưới, trời đêm


Trong
bàn tay tôi cả đồng bằng nằm gọn


Chìm
trong nỗi tẻ lạnh của những chân trời lửa đôi, tôi nghiêng bên tấm kính





Đi tìm
em, tôi đi suốt sự đợi chờ


Đi
suốt chính mình


Tôi
yêu em, đến nỗi rằng không biết


những
cái gì lớn hơn thân thiết


Còn
thiếu ở đây








Sớm mai

Tôi mơ
thấy một con đường trống vắng


Em đi
trên con đường đó đơn độc


Tôi
nghe bước chân em như những con chim nhảy nhót


Thức
dậy trong những lớp sương trong suốt





Trong
cánh rừng xanh và ẩm ướt


Bình
minh duỗi dài



những hàng cây nở nang


Em
mang ngày tới





Hình
như tất cả là bình thường


Những
ngày hè bình thản


Tôi
ngủ như một đứa trẻ


Và em
thức dậy trong bình minh


Và em
làm quà cho tôi


Tuổi
trẻ vô tận





Cô độc

Tôi
sống trong cô độc


Không
em


- Ai
nói điều này?


Ai có thể sống không em?




Ai đó
không đơn độc


Ai?

Cuộc
sống ruồng rẫy số phận?


Cuộc
sống ruồng rẫy em?


Đêm
đến dần


Những
tảng băng trong suốt


Tôi
tan dần trong đêm





Từ
những lời trong suốt đầu tiên





Từ
những lời trong suốt đầu tiên,


 Từ
nụ cười đầu tiên của thân thể em


Con
đường xa vắng biến mất


Cuộc
sống lại bắt đầu





Những
đoá hoa e lệ,


những
đoá hoa bình thường của trời đêm


Những
cánh tay run rẩy kết lại


Những
cánh tay con trẻ


Những
cặp mắt như hướng cả về em



ngày trên mặt đất bắt đầu





Tuổi
trẻ bí mật đầu tiên


Niềm
vui sướng đầu tiên


Cái
nôi của đất và những giọt sương và những mùi thơm


Không
tuổi tác không thời gian không ràng buộc


Không
sự quên lãng không có bóng tối








Và nụ
cười


Trên
thế gian này không có những ban đêm không ánh sáng


Anh
cần phải tin tôi nếu như tôi nói vậy


Nếu
như tôi xác nhận


Rằng
luôn luôn cả ở trong nỗi buồn như bóng tối dày đặc


Cũng
có cái then hờ cái cửa sổ đầy ánh sáng





Trên
thế giới vẫn sẵn có ước mơ



những mong mỏi cần được thực hiện


Có sự
đói, cần phải làm no


Trên
thế giới có những trái tim tốt lành


Những
bàn tay hy vọng nắm chặt nhau



những đôi mắt chăm chú


Và có
cuộc sống mà ta muốn




San sẻ cùng ai đó








Lòng
tin


Nếu
tôi nói với em gì đó


Đó là
để nghe em rõ hơn


Nếu
như lắng nghe em


Tôi
tin rằng tôi sẽ hiểu em


Nếu
như em cười với tôi


Đó là
để tôi thêm mê mẩn


Khi
chia sẻ với nhau tiếng cười


 Chúng
ta chia sẻ cả thế giới


Nếu
như tôi ôm lấy em


Đó là
để thơ tôi không bao giờ cạn


Nếu
như chúng ta sống với nhau


Mọi
điều trên đời thật tốt đẹp


Và khi
chia tay em


Chúng
ta nhớ nhau trong cách xa


Và khi
chúng ta xa nhau





Chúng
ta lại tìm nhau





Giữa
cuộc tàn sát


Đêm
nay nằm ở Paris


Sự yên
lặng lạ kỳ


Sự yên
lặng mắt không nhìn thấy


Sự yên
lặng của những giấc mơ không màu


Gõ vào
từng mái nhà


Sự yên
lặng của những cánh tay biếng lười


Sự yên
lặng của những vầng trán khô khỏng





Người
đàn ông ra đi


Người
đàn bà ở lại


Nghèo
đói, không nước mắt


Đêm
nay nằm ở Paris


Và nằm
giữa trái tim trong trắng của nó


Sự yên
lặng kỳ lạ



những tia thù hận nhấp nháy trong đêm


Hãy
tới bọn đao phủ chọn cho mình cái chết


Một
cái chết chính nghĩa








***

Loài
người có những quy luật đúng đắn


Nho
biến thành rượu vang


Lửa
bốc dậy từ than


Từ
những cái hôn, ra những cô bé cậu bé








Với
con người, có những quy luật cay độc


Ta bảo
vệ sự trong sạch, mặc dù


Chiến
tranh và khổ cực


Dù cái
chết bẩn thỉu đang rình






những quy luật có tình


Làm
ánh sáng từ nước sông (?)


Từ mơ
ước thành hiện thực


Từ
quân thù đáng nguyền rủa, ra người bạn.





Đó là
những quy luật xưa cổ


Đó là
những quy luật mới phát hiện


Nó lớn
lên từ trái tim trẻ nhỏ


Cho ta
sự thông minh cao cả của mọi thời gian








Một
chút đổi thay


Vĩnh
biệt nỗi buồn


Chào
nỗi buồn


Người
được viết trên đường dây


Người
được viết trong cặp mắt tôi yêu


Người
không phải là tai hoạ


Vì cái
miệng tham lam nhất trên đời này sẽ được thay thế


Bằng
nụ cười


Xin
chào nỗi buồn


Tình
yêu thân thể


Cái
mênh mông của một tình yêu bất tận


Sự dịu
dàng của người sinh ra bất ngờ


Như
một sự diệu kỳ không ai hình dung ra vóc dáng


Cái
đầu cứng cỏi


Là nét
mặt của nỗi buồn tốt đẹp





Chính
sự dễ dàng


Sự dịu
dàng của em khả năng gây ngạc nhiên của em,


sự
kiêu hãnh mềm mại


Địa lý
kỳ diệu của cái nhìn và sự êm ái


Phép
mầu hữu cơ


Sự hoà
trộn của tay và mắt


Cỏ và
tuyết


Cỏ và
mùa xuân


Cơn
rùng mình thoáng qua của biển do sự va động của mưa


sự
trộn lẫn của yên tĩnh và sự trong sáng thần kỳ của em
 

Gió
mang lại cho làn môi hương vị của tuổi trẻ



những cái hôn xa


Gió --
cánh tay ai đó, em cảm thấy dưới áo!





Sự
chính xác của trái tim con người


Ôi, sự
chính xác của trái tim con người


Tất cả
màu sắc của vẻ đẹp


Những
hình thức trau chuốt


Và một
ngàn cách thức khác


Chỉ là
để


Đi
thẳng tới mục đích


Sự
chính xác


Của
bước đi không mệt mỏi qua cánh rừng


Những
cái hôn và lời nói ngẫu nhiên


Sự
vững vàng của lẽ sống


Thốt
ra trên miệng người đàn ông và người đàn bà


Và sự
kỳ dị của hình dáng đám mây


Không
vượt ra khỏi đường viền đám mây đó





Có thể
nói hết


Tôi
cần phải nói tất cả - về những bờ dốc và con đường


Về phố
xá, về người đi qua, về cánh đồng và người chăn súc vật


Về cái
chồi đầu tiên của mùa xuân về mùa đông rỉ nát


Về cái
lạnh và cái ấm, đẻ ra những quả chuông


Tôi
muốn chỉ ra cả dân tộc - và chỉ riêng mỗi người


Và kẻ
nào mang cho họ đôi cánh, kẻ nào gieo nỗi khổ


Và mỗi
lứa tuổi con người, và những cái được con người chiếu rọi


Hy
vọng và máu, lịch sử và lo toan của họ


Tôi
muốn chỉ ra đám đông lớn lao và bần cùng


Bị
phân ra các nơi như người chết trong nghĩa trang


Và đám
đông mạnh hơn những cái bóng lẻ


Đám 
đông đạp đổ tường đá, chiến thắng bọn chủ của mình


Chỉ rõ
sự ràng rịt của cây lá, sự ràng rịt của những bàn tay anh em


Những
bước thận trọng của con thú chưa ai từng biết


Sự ẩm
ướt phì nhiêu của sông và sương ướt


Sự
chính nghĩa trong việc canh giữ và cái rễ sâu xa của hạnh phúc


























































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 01, 2015 06:53

December 29, 2014

Thanh Tịnh, cuộc đời ngậm ngải tìm trầm

Năm sớm năm muộn xê xích ít chút nhưng nói chung hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng mười một, đầu tháng chạp dương lịch, khi những chiếc lá bàng chuyển dần từ màu xanh sang màu đồng điếu, thời tiết bắt đầu ngả hẳn sang mùa đông, trời đất thấm lạnh đôi khi có thể giá rét thấu xương - thứ rét ngọt như người ta vẫn nói - thì cũng là lúc dân làm báo Hà Nội chúng tôi bắt tay vào một công việc thuộc loại vất vả trong năm là chuẩn bị những số báo tết.




Đời làm báo những năm chống Mỹ, dù không tất bật và lúc nào cũng bị ám ảnh bởi một cuộc cạnh tranh sôi động như thời kinh tế thị trường hiện nay, song so với nhiều nghề khác trong guồng máy làm các ấn phẩm có liên quan đến chữ nghĩa, thì cũng đã là bận rộn hơn hẳn. Lo làm dâu thiên hạ mà! Tháng nào tuần nào cũng phải tự trình diện trước dư luận và cấp trên tất cả phong độ của một kẻ đứng đắn và thành thạo trong làm nghề, kể cũng đã mệt lắm chứ. Nữa đây lại là báo tết!

Ở tạp chí Văn nghệ Quân đội nơi tôi công tác những năm ấy, có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong toà soạn phải góp một bài để số báo có chất lượng. Thơ thẩn còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đố, cùng nhiều thể tài gọi là tạp nhạp khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ.

Hình như hồi ấy, chúng tôi thường bận tâm vì những suy nghĩ nghiêm trang, nên tay nghề xoàng xĩnh và không biết làm hàng như về sau này! Bởi vậy vừa dọn dẹp bài vở cho số tết, vừa nhăn nhó và cứ nghĩ đến việc phải vẽ vời ra cho được dăm ba bài chọc cười mọi người, đã thấy lúng túng, bụng bảo dạ mình thì làm cho ai cười được, vì có ai làm cho mình cười được đâu!

Những lúc ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh trực biên tập (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại, và tủm tỉm:

- Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái, đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ, mà đã có đến chục bài ký tên Thanh Tịnh... Ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!

Cố nhiên là Nguyễn Minh Châu không nói oan cho Thanh Tịnh chút nào.

Đóng góp của ông cho các số báo tết làm cho chúng tôi ngạc nhiên, vì như bắt gặp một Thanh Tịnh khác so với con người chúng tôi vẫn gặp.

Có cảm thưởng như sau một năm dông dài, ông chợt nhớ ra phải làm việc nào đó để bù lại tháng ngày đã mất. Và mỗi lần thấy ông vừa thở phì phì, vừa bước những bước nặng nề đi lại trong phòng để ngẫm nghĩ, rồi thỉnh thoảng lại quay vào bàn ghi ghi chép chép, rồi hào hứng cười thầm như tự thưởng cho những ý nghĩ hóm hỉnh của mình thì chúng tôi chỉ còn có cách bảo nhau rằng - hẳn ngày xưa, một ông đồ già lọ mọ lục lại đống bồ cũ, lấy ra mấy thỏi mực, mấy tờ giấy hồng điều, thử lại vài cây bút mốc meo bấy lâu xếp xó trước khi ra phố bò toài trên chiếu viết thuê các loại câu đối tết, chắc cũng có cái vẻ mải miết tương tự.



Từ những ngày làm báo Tết ấy, tôi thường vân vi nghĩ rộng ra cả cuộc đời Thanh Tịnh để hiểu về một cách tồn tại độc đáo trong văn học.

Cuộc sống nhân loại là một sự phân công tự nhiên, song bao giờ cũng có. Và ngay trong phạm vi hẹp là từng nghề thôi, thì cũng đã có sự phân công đôi khi rất ngẫu nhiên ấy. Có người đóng góp cho cuộc đời này những chủ lực như gạo thịt nuôi sống người ta. Lại có những người chỉ như trái ớt quả chanh, thêm thắt tô điểm bên mâm cơm, không có không chết ai nhưng sự thực là thiếu đi, cũng dễ làm cho đời sống mất hết ý vị.

Nói thế này không rõ vong linh Thanh Tịnh ở dưới suối vàng có giận không, chứ quả thật, sự tồn tại của Thanh Tịnh thời tiền chiến theo tôi hiểu là thuộc cái dạng một sự thêm thắt không thể thiếu ấy.



Đã có lúc ông làm nghề đạc điền. Đã có lúc ông dạy học. Nhưng hình như hồi tiền chiến cái nghề ông làm lâu nhất, lại là nghề hướng dẫn du lịch, một thứ công việc lang thang đây đó, góp chuyện với mọi người, làm cho mọi người vui bằng những câu chuyện nhỏ của mình. Và cái thú của nghề này chính là ở biên độ dao động rất rộng của nó. Tán hão cho vui cũng được. Mà dày công nghiên cứu để mang lại kiến thức cho mọi người thì tâm sức bỏ ra mấy cũng chưa đủ.



Đến như đóng góp của Thanh Tịnh trong văn học - một tập truyện ngắn một ít bài thơ, tất cả đều có cái giọng bùi ngùi, và càng bùi ngùi thêm vì loanh quanh toàn kể về những con người hiền lành song bất hạnh - sự đóng góp ấy cũng chỉ là một sự thêm thắt nếu người ta tính đến số lượng ít ỏi của nó.

Có điều, nhờ sự thành thật, và cả cái vẻ dịu dàng nhỏ nhẻ, không giống một ai mà rồi những trang văn chương ấy sẽ tồn tại trong tâm trí nhiều thế hệ. Sau khi đã đọc bao nhiêu ý tưởng quyết liệt nhất của Nhất Linh và Vũ Trọng Phụng, sau khi đã biết đến cái đậm đà duyên dáng của tiểu thuyết Khái Hưng, cũng như sau khi nghe tiếng nói thâm trầm và điềm đạm của Thạch Lam, người ta vẫn có những lý do riêng, để thỉnh thoảng tìm đến với văn Thanh Tịnh.



Đời xếp anh tôi với Thạch Lam

Ngồi chung một chiếu hội văn đàn

Chao ôi! Chiếu đã hai lần lạnh

Còn lại mình tôi vớí thế gian




Hồ Dzếnh đã viết như thế khi Thanh Tịnh qua đời. Đọc mấy câu thơ người ta cảm nghe được một cái gì giống như lời an ủi về tình thế “cùng một lứa bên trời lận đận” của các ông, những ngòi bút không thuộc dòng chủ lưu, nhưng lại làm cho không ai quên nổi.



Trong một hồi ký về quá trình đi theo kháng chiến, Thanh Tịnh kể: thực ra, hồi ấy (tức là cuối 1946) ông chỉ tính ra dự Đại hội văn hoá toàn quốc.

Chẳng qua ngày họp kíp quá, mà tiếng súng kháng chiến ở Hà Nội diễn ra nhanh quá: vốn tính đận đà ông không quay về kịp, nên mới có một sự nhập cuộc như chúng ta đã thấy, tức là mặc dù quê ở Huế, song Thanh Tịnh lại theo đoàn người khổng lồ của Hà Nội lên Việt Bắc, rồi có mặt trong các hoạt động kháng chiến tám năm liên tục.

Nhưng sự nhập cuộc này - một sự nhập cuộc đàng hoàng, bởi chính thức mà nói, ông là một chiến sĩ quân đội - vẫn có cái vẻ riêng rất Thanh Tịnh của nó.

Thời gian đầu hoạt động văn nghệ trong các lực lượng vũ trang còn đang lẻ tẻ tự phát và lẫn vào các hoạt động khác.

Ví dụ, nhân có một đoàn tuyên truyền chính sách, hay một đoàn kiểm tra đi các địa phương các đơn vị, ở trên mới ghép thêm vào một vài chiến sĩ văn nghệ, để gây không khí.

Nhưng ai ngại không biết, chứ Thanh Tịnh không ngại. Ông thích ứng ngay được với lối hoạt động nhỏ lẻ ấy. Tới đâu ông cũng nhanh chóng thâm nhập để biến thành người trong cuộc, rồi xem có gì đáng biểu dương thì làm thơ biểu dương, hoặc có gì đáng phê phán thì viết bài phê phán.

Thứ thơ dễ hiểu với mọi người ấy lại được mang “sân khấu hoá” tức không bắt người ta phải đọc thầm, mà là chuyển thành cảnh diễn, nên thông thường là được quần chúng tán thưởng. Bắt đầu ra đời một thể tài gắn với cái tên Thanh Tịnh hồi kháng chiến chống Pháp: thể độc tấu.

Và cứ thế, cứ với độc tấu, Thanh Tịnh như một người du ca, có mặt ở nhiều địa điểm của căn cứ địa Việt Bắc.

Qua năm 1951, trong khuôn khổ của việc sắp xếp lại tổ chức nói chung, Thanh Tịnh nghe một cán bộ chính trị khuyên “Nên về lại quê hương”, thế là ông đi bộ trở vào vùng trong. Nhưng đến Nghệ An, biết vùng tự do Bình Trị Thiên chật hẹp, không có đất hoạt động, ông liền ở lại với Chi hội văn nghệ Khu Bốn. Bên cạnh Hải Triều, Hoàng Trung Thông, Bùi Hiển, Chế Lan Viên... ông có làm thơ viết báo, nhưng chủ yếu là phụ trách văn công.

Và đây một đợt công tác độc đáo: ấy là khi hoà bình mới lập lại 1954, ông được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.



Không biết ai đã có sáng kiến đặt Thanh Tịnh vào việc ấy?

Song quả thực, đấy là một trong những lần tài năng của Thanh Tịnh được sử dụng một cách đắc địa.



Thanh Tịnh là thế, là cuốn theo chiều gió, là ngọn cỏ gió đùa, là nương theo sự xô đẩy của hoàn cảnh mà tìm lấy tính chủ động, ở đâu thì cũng giữ lấy vai nghệ sĩ của mình, và hình như càng gặp những điều kiện sống khó khăn, không ổn định ông càng trở nên sinh động tự nhiên và nổi bật lên với khả năng thích ứng. Ngược lại sẽ hiện ra sẽ sống khó khăn thậm chí ông yếu đuối, lạc lõng lúng túng trong những hoàn cảnh ổn định, mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy.



Sở dĩ tôi nói vậy, vì nghĩ đến hơn ba chục năm cuối đời của Thanh Tịnh bắt đầu kể từ 1954 khi ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi từ đó, về hưu.



Bề ngoài mà xét, thì sau hơn chục năm kháng chiến, làm người lính từ địa phương đến chủ lực, khi ở Việt Bắc, khi vào Khu Bốn, nay ông mới có một đơn vị công tác chuyên sâu, một nơi ở ổn định. Hơn thế nữa, từ nay, ông được làm cái nghề mà ông yêu thích, và đã tự nguyện theo đuổi, là viết văn viết báo, hỏi còn gì lý tưởng hơn nữa?

Song sự thực mọi chuyện không suôn sẻ như thế.

Những người quen biết, khi viết về tuổi già Thanh Tịnh, thường tả căn phòng của ông trong ngôi nhà số 4, ở đó rất nhiều đồ vật lịch sử “cái đĩa thời Lê, viên gạch thời Lý”, ngoài ra là ngổn ngang những vật kỷ niệm “một mảnh máy bay B.52, viên đạn ở chiến trường Quảng Trị, một con vịt nhựa sứt mẻ nhặt được sau một trận bom...” Và có người còn bảo là trong hoàn cảnh bấy giờ, Thanh Tịnh đã khéo tổ chức một cuộc sống riêng rất hợp lý. Có điều đấy là một cách an ủi cho người đau khổ đỡ tủi.

Nên biết là ngay từ sau 1954, Văn nghệ Quân đội là một cơ quan rất được ưu đãi, anh em cán bộ chiến sĩ tuy đang tại ngũ, nhưng không phải lúc nào cũng bắt buộc mặc quân phục, và giờ giấc cũng không chặt chẽ như các đơn vị hành chính khác.

Chỉ riêng một việc cơ quan đặt ở ngoài thành lại không có trạm gác đi về thoải mái, đã là một ân sủng quá sức chờ đợi!

Là những người lính, nhưng hầu hết cán bộ trong cơ quan có gia đình ở Hà Nội, và sau một ít giờ sinh hoạt chung, ai về nhà nấy, thậm chí viết lách cũng có thể ngồi nhà, chỗ ngồi viết được cơ quan bố trí có để mốc ra đấy, cũng chẳng ai có ý kiến.



Chính trong không khí đầm ấm đó mà sự cô độc của Thanh Tịnh càng nổi lên rõ rệt.

Vào những buổi tối, cả ngôi nhà hai tầng thâm nghiêm sang trọng đó vắng lặng chỉ có Thanh Tịnh, với một hai đồng chí chiến sĩ khác làm công tác phục vụ ở lại.

Sau những bữa cơm chiều tẻ nhạt, có đi đâu một lát thì cuối cùng ông cũng phải trở về với dãy phố chỉ có hàng sấu lá reo, với cái cầu thang mênh mông mà bóng ông không bao giờ lấp kín.

Trong khi đó, không cần tưởng tượng phong phú gì lắm, cũng có thể hình dung ra cảnh các đồng nghiệp của mình đang vợ con ríu rít như thế nào - tất cả những chuyện này, đối với Thanh Tịnh lặp đi lặp lại hàng ngày, và một tâm hồn nhạy cảm như ông làm sao không cảm thấy xót xa cho được?

Chẳng ai có lỗi trong nỗi bất hạnh này của Thanh Tịnh cả - chẳng qua đất nước chia cắt, ông lập gia đình sớm, mà giờ vợ con lại ở tận trong kia, trong khi bọn chúng tôi trẻ hơn, bấy giờ mới bén mùi hạnh phúc riêng tư, nên tự nhiên là có cuộc sống khác hẳn ông như vậy.

Tuy nhiên sáng sáng, nỗi hào hứng của bọn tôi khi được bắt tay vào một ngày mới, đến với cơ quan với bao náo nức, quả thực là có xẹp đi ít nhiều, khi chợt thấy người đồng nghiệp đồng đội già của mình lầm lũi xách một xô nước, từ bể chứa dưới nhà lên gác hai. Chính chúng tôi cũng muốn lẩn tránh ông, chứ không phải riêng ông muốn tránh chúng tôi. Lấy đâu ra lời lẽ, để ngày nào cũng an ủi nhau, và an ủi làm sao nổi - chúng tôi tự nhủ.

Chỉ hoạ hoằn lắm, có đợt cả loạt anh em cơ quan cùng đi công tác, những lần ấy, mọi người như đều bình đẳng với nhau trong sự xa nhà của mình, và những buổi tối, ở nhà khách tỉnh ủy Hà Giang, hay cơ quan Hội văn nghệ Tuyên Quang gì đó, chúng tôi cùng quây quần nghe chuyện Thanh Tịnh - chỉ lúc bấy giờ, cái con người lớn tuổi nhất cơ quan mới có sự hào hứng, sự thích thảng mà ở Hà Nội, ông không bao giờ có.



Về lý thuyết mà xét, thì sự cô đơn có thể là điều kiện làm việc lý tưởng cho những ai có niềm say mê lớn. Nhưng khốn nỗi, quả thật đấy là chuyện lý thuyết, còn trong thực tế những người cầm bút ở ta hiện nay, một sự cân bằng trong tình cảm, lại là một bảo đảm tự nhiên cho sáng tác và nghĩ tới một người xa gia đình như Thanh Tịnh ai cũng hiểu ngay là “nhiều khi rỗi rãi mà không biết làm gì”. Chẳng những thế, lại phải biết thêm là sinh hoạt văn học từ sau 1954, nhất là từ 1958-60 trở đi, rồi trong chiến tranh, có một vẻ tấp nập riêng chỉ nó mới có. Các nhà văn Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Hải Hồ, Nguyễn Trọng Oánh, lúc ấy mới trên 30, đi khoẻ, viết khoẻ, tháng trước vừa theo đơn vị này đi tiễu phỉ ở Hà Giang, về viết một hai tuần nộp bài cho cơ quan xong, tháng sau lại có thể theo một đơn vị khác làm kinh tế, và trở về, lại có bài ngay để nộp, cả toà soạn như một đàn ong cần cù, hàng ngày hàng giờ toả đi khắp nơi để viết, viết ngay về cái thực tế sôi động của miền Bắc lúc ấy.

Còn Thanh Tịnh của chúng tôi thì sao?

Ngoảnh đi ngoảnh lại tuổi 50 đã đến với ông từ lúc nào. Ông không thể xông xáo như mọi người, mà có lao đi khắp nơi, trở về, ông cũng không thể viết nhanh viết khoẻ như họ. Hơn thế nữa ở đây, không khỏi còn những phân cách trong thói quen, trong quan niệm. Một bên là lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng chiến, lòng đầy tự tin, và cái háo hức chủ yếu, là háo hức làm nên một nền văn học trước đây chưa từng có; còn bên kia là Thanh Tịnh dẫu sao cũng là còn hơi hướng tiền chiến, nghĩa là thuộc về một quá khứ người ta đang muốn chôn vùi. Và thứ văn chương như Quê mẹ, dẫu sao cũng là thứ văn hiu hắt buồn tẻ của một thời đã xa lắm rồi, một người đã viết nên thứ văn như thế, làm sao có thể bắt ngay vào cái nhịp sống mới.

Tuy không ai nói ra, nhưng hồi ấy, hầu như tất cả nghĩ thế.

Mỗi lần bàn về Thanh Tịnh, thường mọi người thầm bảo nhau: Thôi thì cứ để “cụ” tuỳ nghi viết gì thì viết, còn phần công việc chủ yếu, sẽ phải là do lớp trẻ gánh vác.



Nhưng khi đã nghĩ như vậy, tức là mọi người không còn coi Thanh Tịnh như một chiến sĩ bình đẳng với mình.

Ông đã sớm trở thành một thứ cựu chiến binh ngay trong thời gian tại ngũ.

Có cái rỗi rãi của người được chiều.

Có cái tuỳ nghi của người không bị ràng buộc.

Rỗi rãi tùy nghi đồng nghĩa với lạc lõng.

Tiếng thở dài hàng ngày của ông - ông tập thở theo lối dưỡng sinh - vẫn cất lên đều đều khi bước chân nặng nề đưa ông từ gác xuống nhà, từ nhà lên gác, song đáp lại tiếng ngân vang của nó, chỉ có một sự im lặng buồn tẻ.

Kể ra, những người chung quanh đã cố giữ gìn kín đáo để sự xa cách trong lối sống của ông khỏi trở thành lộ liễu. Là những cây bút đầy tài năng và hiểu biết, những Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyễn Khải... đối với Thanh Tịnh vẫn có cái tình riêng. “Ông viết văn từ khi ta còn học tiểu học”, “và bây giờ trong lúc ta vợ con đầm ấm, thì ông cô độc cô quả, xa nhà xa vợ con” - hầu như bất cứ ai cũng có lần tự nhủ vậy, để đối với Thanh Tịnh thật gượng nhẹ.

Riêng Nguyễn Minh Châu lại có cái gì hơn thế. Hình như với cái cốt cách riêng của mình, Nguyễn Minh Châu cứ có sự bùi ngùi thương cảm riêng với các bậc đàn anh tiền chiến và thường xuyên dậy lên trong ông một tình cảm giống như sự biết ơn chân thành. Một lần nào đó, viết xong một truyện ngắn, bên cạnh nhan đề Những lá thư vui, Nguyễn Minh Châu trang trọng chua thêm mấy dòng “Kính tặng bác Thanh Tịnh” (như ngày xưa, Thanh Tịnh đã viết Con so về nhà mẹ để “Kính tặng hương hồn anh Thạch Lam”). Lại một lần khác, sau nhiều dịp trò chuyện với Thanh Tịnh, Nguyễn Minh Châu đóng vai nhà báo, viết hẳn một bài phỏng vấn giúp cho Thanh Tịnh giãi bày đủ điều với mọi người.

Nhưng cuộc đời không phải chỉ có những cái đó.

Cuộc đời trước tiên là một nhịp sống bình thường. Hàng ngày cơ quan chúng tôi túm tụm, người đi thực tế về, người mới đọc được quyển sách hay, người có cái tin sốt dẻo, cứ gặp nhau là dính với nhau, tiếng cười vang lên trong các gian phòng đóng kín, khiến người qua lại phải giật mình.

Trong những hội vui đó, không có Thanh Tịnh.



Tôi nghĩ rằng một người nhạy cảm như tác giả Quê mẹ rất biết tình thế của mình.

Ông không chống chọi nổi với thời gian, song ông hiểu.

Bằng cái từng trải của một con người nhiều năm sống trong lang bạt, không phải ông không thấy mọi người có lý.

Thành thử, ông cũng không buồn vất vả xoay xoả viết lấy được - một việc có lẽ ông cho là vô ích.

Mà cùng với những bế tắc trong hoàn cảnh riêng, ông sống như sống cho xong, buông thả, vui chơi qua ngày, đến đâu thì đến.



Những ấn tượng trên đến với tôi ngay từ những ngày mới đặt chân về công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, tức khoảng 1968.

Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu mươi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều. Hồi ấy, một tờ báo ra hàng tháng như chúng tôi chưa có ô tô riêng, bởi vậy, trừ những trường hợp đi các tỉnh xa, xin được xe Tổng cục, còn đi đâu loanh quanh Hà Nội, thì các thủ trưởng tới các nhân vật trụ cột trong cơ quan "vua biết tên chúa biết mặt" cũng cứ xe đạp cá nhân mà đạp.

Thanh Tịnh - người cao tuổi nhất cơ quan - cũng không ra khỏi thông lệ đó.

Với một xe đạp cũ, ông tự mình có mặt ở khắp nơi, buổi họp này, dịp vui kia, và mặc dù đi bên cạnh mọi người, song cái dáng cao lớn trên cái xe loại vành 680 lại cứ làm cho ông tách hẳn ra.



Nhưng muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào, phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, dưới những hàng sấu cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn. Không trù tính định liệu, không ham muốn, ông nhìn thẳng về phía trước mà hoá ra chẳng nhìn gì cả. Đến cả bước chân của ông cũng không ai nghe tiếng nữa. Chỉ có tiếng thở dài của ông là có thật.



Trong các hồi ký, nhiều người đã nói về khả năng hài hước của Thanh Tịnh. Tất cả đều nói đúng, và chỉ quên một điều: đấy là cái hài hước của một người đã quá buồn! Con người vốn được nuông chiều, mà nay phải sống xa gia đình. Con người vốn ham chơi, mà nay phải sống trong không khí khổ hạnh. Trước khi chọc ghẹo thiên hạ, ông cần làm cho mình vui cái đã. Ông cười, cũng y như ông làm báo tết ở trên tôi nói, tất cả là để tạo nên một chút vang động giữa cái vắng lặng mà ông đã triền miên phải chịu.



Nhìn ông vọc vạch những bài báo tết - mấy đoạn ca dao nôm na dễ hiểu, mấy mẩu đố vui, cũng như nhìn ông phát biểu giữa đám đông -, đôi khi tôi nhớ tới một hình ảnh mà những ai ở Hà Nội từ 1960 về trước đều biết. Đó là những ông già ngồi nặn những Tôn Ngộ Không, Quan Công, Trương Phi, bằng các loại bột xanh đỏ cắm trên một chiếc tăm tre, bán cho bọn trẻ nhỏ.

Những ông già ấy làm vui cho mọi người, cốt để khuây khỏa nỗi buồn trước sự xô đẩy của thời gian, và Thanh Tịnh của chúng tôi cũng thế.

Tôi nhớ những ngày mùa rét, Thanh Tịnh hay bận ra ngoài một cái áo dạ màu cổ vịt, một màu rất chua, và chói hẳn lên giữa đám người nâu sồng hoặc toàn quần áo màu xám chung quanh. Đấy cũng là một cách để tỏ rõ cái khác biệt với chung quanh chăng? Cũng có thể Thanh Tịnh không cố ý, nhưng cái cách của ông cứ xui người chung quanh nghĩ thế. Vả chăng, cái con người thật của chính mình, thì mỗi người làm sao giấu được!

Một cảm tưởng chung chúng tôi vẫn hay trao đổi với nhau: Ngoài mùi cao Sao vàng hắc hắc - cái mùi phổ biến của những người già - riêng ở Thanh Tịnh tuổi sáu mươi hồi ấy lại còn thường hay bốc lên mùi nước hoa. Chắc chắn đó là thứ nước hoa thật rẻ, anh em nhà văn đi nước ngoài (chủ yếu hồi ấy là đi Liên Xô) gửi tặng. Thứ xa xỉ phẩm này, cũng như màu áo cổ vịt, khiến cho Thanh Tịnh nổi bật lên giữa những người khác. Trước mặt Thanh Tịnh nhiều người khen lấy lòng: “Anh Tịnh vẫn galant quá”, nhưng sau lưng, tôi biết người ta vẫn thầm thì với nhau: cụ phải làm thế vì già rồi, lại dân nghiện cũ, lâu không tắm, không đổ nước hoa lên quần áo thì còn dám đi đâu nữa!



Phần lớn các thiên truyện Thanh Tịnh viết trong Quê mẹ là những truyện buồn.

Cô Duyên trong Bên con đường sắt chịu sự đàm tiếu của mọi người mà đâu có hạnh phúc. Cô Sương trong Tình thư không nuôi nổi mối tình thuần hậu qua những bức thư. Cô Hoa trong Con so về nhà mẹ thường xuyên sống trong cái tâm trạng chán nản rồi ao ước hão. Ở nơi này thì bảo rằng ở nơi kia khá hơn.

Cho đến cô Thảo trong Quê mẹ cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà sống, luôn luôn ra vẻ rằng mọi người trong gia đình mình quý mến nhau lắm.

Nhưng có lẽ thiên truyện gần với con người Thanh Tịnh về sau, mà cũng là đậm chất Huế của quê hương ông là truyện Con ông Hoàng. Trước cảnh gia đình túng đói, ông Hậu, con ông Hoàng vẫn phải cố giữ lấy chút tiếng hão.

Tương tự như ông Hậu con ông Hoàng, Thanh Tịnh của chúng tôi cũng không bao giờ có thể sống hết cái con người buồn rầu đau đớn của mình. Ông phải giữ tiếng cho mình và cho mọi nguời, vì cái tiếng của ông đã quá lớn. Chung quanh và chính ông đã ép ông thành một thứ phượng hoàng nhồi rơm nhồi trấu rồi treo trên tường, ông phải giữ lấy cái vai đã có.



Lại nhớ cái phòng bảo tàng những thứ cổ vật mà Thanh Tịnh xây dựng cho mình, trên cái phòng số 14 gác 2 nhà số 4 Lý Nam Đế những năm ấy. Nghèo thế, Thanh Tịnh của chúng tôi lấy đâu ra tiền để mua cổ vật? Mà cũng buồn thế, cô độc thế, một người ít nghị lực như Thanh Tịnh lấy đâu sức lực để mang lại cho bộ sưu tầm của mình một vẻ hoàn thiện dù là chỉ trên phương diện công phu thuần túy? Chẳng qua buồn tình quá, ông nhặt nhạnh một ít đồ cũ, xếp cho ra bộ, trong lúc không ai biết chơi thì cách chơi của ông đã là độc đáo, thế thôi.

Song giá kể chỉ dừng lại ở chỗ ấy, thì Thanh Tịnh lại đi hơi quá: Từ lúc nào không biết, một cách tự nhiên, ông hay kể lể về cái bộ sưu tầm của mình. Toàn đám tinh ma, cố nhiên là chúng tôi có biết cái sự tô vẽ của Thanh Tịnh. Nhưng sự lịch sự tối thiểu không cho phép ai nói chuyện đó ra trước mặt ông làm gì.

Rút cuộc là một cuộc chung sống hoà bình, Thanh Tịnh cứ nhặt nhạnh và mang ra khoe, nghĩ chẳng ai tin thì cũng buồn quá, nên tự nhủ rằng biết đâu sự bày biện rất thành thực của mình vẫn có tác dụng. Còn chúng tôi thì lúc nghe ông nói, phải giữ bộ mặt nghiêm trang cho khỏi bật cười, và lâu dần, việc đó cũng chẳng khó khăn gì với chúng tôi, vì ra ngoài, chúng tôi lại giễu ông ngay lập tức.

Trò chơi hơi buồn!

Nhưng nó là trò chơi duy nhất một ông già tạo ra được cho mình, và cũng là trò chơi độc đáo, dù không được đẩy đến cùng. Nó không làm hại làm phiền ai cả. Nó có thể được chấp nhận, ngay cả lúc người ta quá bận rộn.



Không rõ bây giờ có ai đang làm việc cho những tập hồi ký viết về những năm chống Mỹ. Nhưng dăm bảy năm trở lại đây, có dịp sống với cái tốc độ chóng mặt và những chương trình quảng cáo gây ấn tượng đậm của kinh tế thị trường, lớp người cả một thời trai trẻ sống trong chiến tranh và bom đạn như bọn tôi càng hay nhớ về những năm ấy. Hà Nội trong chống Mỹ là một cái gì lạ lắm, không phải là một thủ đô hoà bình - tất nhiên rồi, nhưng một thủ đô của chiến tranh cũng không hẳn.

Tuy mấy năm 1966-67, thỉnh thoảng cũng có bom Mỹ bắn phá, nhưng với cái tính nông nổi của người Hà Nội thì không thấm thía gì hết. Rồi từ cuối 1968, mọi chuyện đâu đóng đấy, chúng tôi nhởn nhơ sống, trẻ con vẫn đi học, người lớn vẫn “tất cả cho sản xuất”, mà vẫn vui vầy sống đủ mọi hệ luỵ của kiếp người.

Ngoài kia là mặt trận, mọi người đều có con em mình ở ngoài ấy, và có thể mai kia đây, đến lượt mình đi, có sao!

Nhưng hôm nay, hãy cứ vui vẻ với cái hạnh phúc trần thế mà mình đang có.

Tôi đạp xe với bạn dong nhan các phố.

Anh nhâm nhi vại bia bên mấy củ lạc.

Anh kia nữa thành kính ngồi nghe một bài hát dân ca theo chương trình ca nhạc theo yêu cầu thính giả sáng chủ nhật của Đài tiếng nói Việt Nam.

Vào những ngày tết, bên cạnh bánh chưng xanh và những hộp mứt ọp ẹp cung cấp theo ô phiếu, thì lại vẫn còn những cành hoa đào Nhật Tân bán trên Hàng Lược, nó là một thứ xa xỉ được chiến tranh cho phép, bởi nó là dấu hiệu về một đời sống bình thường, mà mọi người thấy cần tỏ ra cho kẻ thù biết.

Có lẽ đời sống văn nghệ của chúng tôi mà được phát triển, thì lý do cũng tương tự thế chăng, chỉ biết trông vào những số báo tết, cũng có chút tươi tỉnh lên thật.

Trên trang thơ của Văn Nghệ, Xuân Diệu cho đăng những bài thơ tình tha thiết và đôi khi hơi buồn nữa, mà có thể là ông làm đã từ lâu, nhưng chỉ vào các dịp Tết mới tìm thấy lý do công bố. Tế Hanh đứng tên sau các bài thơ viết về con.

Còn nhà hùng biện Chế Lan Viên thì trưng ra một nét mặt mới: thay cho các bài thơ chính trị, là thơ về hoa, về quả, hoặc thơ về... thơ.

Chính trên cái nền rộng rãi ấy mà Thanh Tịnh trong những dịp Tết trở lại với cái nghề cũ của mình là nghề làm báo, và đặt bên cạnh bọn ngọng nghịu chúng tôi, thì đấy vẫn là một tay nghề có hạng.

Hoàn cảnh những năm chiến tranh đã tập cho chúng tôi một thói quen là không sưu tầm gìn giữ gì hết, gia đình tôi cũng chật hẹp như mọi nhà, nên chả làm sao giữ được những số Văn nghệ Quân đội mà tôi đã góp phần làm trong hơn chục năm từ 1968 đến 1979 (và suốt thời gian ấy, mỗi tháng, tôi được phát hai số), nhưng mỗi lần có dịp thấy lại những số báo ấy, nhất là những số Tết dày dặn hơn một chút, màu sắc loè loẹt hơn một chút, thì tôi lại nhớ ngay đến Thanh Tịnh. Chút quà mọn là những số báo của chúng tôi, hình như là quá bé bỏng so với cái vóc vạc cao lớn của ông, nhưng ông đã đổ vào đấy tất cả tâm sức, và bên tai tôi lại vẳng lên tiếng nắc nỏm của Nguyễn Minh Châu:

- Trông kìa, cụ Tịnh chắc đã viết được hơn chục bài rồi... Ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!



Đã in Cây bút đời người 2002 , và trên blog này ngày 11-12-2011
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 29, 2014 16:51

December 26, 2014

Tội làm hư dân ( bản bổ sung thêm 724 chữ)



Một số trang mạng đồng nghiệp vừa giới thiệu lại bài viết này của tôi.

Để tiện cho bạn nào thấy cần, tôi xin tải lại nguyên văn bài in

trên trang của tôi ngày 28-1-2013
, có kèm thêm

một số ý mới bổ sung ở phần cuối mới viết 26-12-14)




Đại Đường Tây vực ký của nhà sư Huyền Trang từng được dịch ra tiếng Việt (NXB Phương Đông, 2007). Trong thiên bút ký này, Đường Tăng ghi lại ấn tượng sau khi đi qua 138 nước nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ (có thời gộp chung là Tây vực). Đoạn tổng thuật về địa khu Tốt Lợi kể “Người Tốt Lợi phong tục kiêu ngoa, chuyên môn lừa đảo, tham lam hám lợi, giữa cha con với nhau cũng tính toán hơn thua chẳng cần người tốt kẻ xấu, cứ nhiều tiền là được quý trọng… Cư dân một nửa làm ruộng, một nửa chuyên đi trục lợi ”.



Tôi ghi lại đoạn này bởi lẽ nó góp phần gạt đi trong đầu một phân vân khi nhận thức.

Từ nhỏ bọn tôi đã được học rằng chỉ có các cá nhân xấu, chứ nhân dân lao động nơi đâu cũng tốt. Hóa ra không phải vậy! Tùy hoàn cảnh mà con người biến đổi. Và là biến đổi trên diện rộng. Tục ngữ ta xưa cũng có câu “bạc như dân bất nhân như lính “. Đọc lại lịch sử thấy nhận xét chua chát đó không hoàn toàn sai.

Thế còn bây giờ ? Một lần, chập choạng tối, tôi đang đi trên đoạn đường gần ngã tư Hàng Chiếu – Đồng Xuân Hà Nội thì gặp mưa, đành tính chuyện lánh tạm vào một mái hiên. Bất ngờ nghe người ở trong nhà nói hắt ra:

-- Biến đi cho người ta còn bán hàng.

Trời ơi! Con người đô thị bây giờ càn rỡ và bất nhân ngoài sức tưởng tượng !

Ở các tỉnh xa, các vùng kinh tế, thì sự hư hỏng lại mang sắc thái khác. Có lần trên một tờ báo, đọc thấy tin ở huyện Tam Nông Đồng Tháp nhiều người lấn chiếm đất công rừng công, bất tuân pháp luật.

Lần khác xem ti vi, lại thấy dân một xã của Quảng Trạch Quảng Bình đua nhau chặt rừng phòng hộ ven biển bán cho tư thương, huyện xã đã tìm đủ cách ngăn chặn nhưng không nổi.

Đủ chuyện đã xảy ra, dân ăn cướp, dân ăn cắp, dân ăn vạ, dân xà xẻo của công và tiếp tay cho kẻ xấu, dân làm hại lẫn nhau … thiên hình vạn trạng không xếp loại được.

Vấn đề còn lại chỉ là cắt nghĩa tại sao lại xảy ra cái chuyện chẳng ai muốn đó ?

Trở lại việc dân ở huyện Tam Nông Đồng Tháp nói trên. Đọc kỹ các bài viết liên quan thì thấy trước khi dân hư, có chuyện ông phó chủ tịch huyện phá rừng. Người dân chung quanh thấy ông cán bộ to hành xử như trên (chặt tràm đào ao làm thành lãnh địa riêng ), bảo nhau ùa vào làm bậy.

Đây cũng là diễn biến thấy ở nhiều nơi khác.

Trong phần lớn trường hợp, tình trạng dân hư liên quan tới hiện tượng nhức nhối là chuyện cán bộ kiếm chác vô nguyên tắc, tư lợi vô cảm, gộp chung là thoái hóa biến chất.

Đáng lẽ phải gương mẫu tuân thủ pháp luật thì họ lại tự đặt mình cao hơn luật, phá luật để trục lợi.

Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư vô. Chúa đã chết rồi ! Ai muốn làm gì thì làm ! Bởi cảm thấy trên đời này không còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hãn.

Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn.

Tự cho phép mình hư!

Nhìn nhau để yên tâm mà hư!

Khuyến khích nhau hư thêm, càng đông người hư càng thích!

Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì có thể giữ con người lại nữa.

Đó là phản ứng phổ biến sau cú hích của đám dân chi phụ mẫu (nói theo cách nói thẳng của ngày xưa) hoặc các vị công bộc (theo cách nói dối trắng trợn của thời nay).

Ta chưa có thói quen đánh giá bộ máy quan chức nên tưởng việc này là khó. Sự thực việc đánh giá này khá đơn giản. Muốn biết giới quan chức một địa phương ra sao, cứ xem dân ở đấy thì biết. Dân ngoan làm ăn tử tế tức là bộ máy làm việc tạm gọi là chấp nhận được, người ta còn tin. Còn dân hư, nhất định là những người quản lý họ có vấn đề, không tham nhũng thì cũng kém cỏi trong quản lý. Chỉ cần chịu tìm sẽ thấy ai có lỗi.

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức, một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy và dung túng dân làm bậy. Tội làm hư dân.

Nhà xuất bản Tri thức từng cho in một cuốn sách thuộc loại kinh điển. Đó là cuốn Chính thể đại diện của John Stuard Mill ( nguyên bản được viết từ năm 1861). Ở trang 82, tôi đọc được một câu đại ý như sau “ Người ta phán xét một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Cụ thể là có thể và nên xét xem nó tạo nên những công dân như thế nào, nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi ”. Đúng là có liên quan tới vấn đề chúng ta đang bàn.





in lần đầu TBKTSG 15-5 2008,

in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009



Viết thêm 28-1-2013, và chữa lại đoạn cuối phần bổ sung này ngày 26-12-14



Muôn hình vạn trạng những đau khổ của người dân đang là câu chuyện đầu miệng ở xã hội VN hôm nay.

Những đau khổ này không phải từ đâu mang lại, cũng không phải là tội của thực dân đế quốc như các tài liệu chính trị vẫn rao giảng. Mà tất cả bắt đầu từ chính chúng ta, trong đó có những nguyên nhân sâu xa từ sự hư hỏng sự tha hóa của con người nói chung mà chúng tôi đã đề cập tới trong một số bài phiếm luận in gần đây.

Mục đích bài viết bạn đọc vừa đọc ở trên là tìm hiểu trách nhiệm của những người quản lý xã hội trong việc làm hư dân.

Người viết mới chỉ dừng lại ở tình trạng giới quan chức tham nhũng bất chấp luật lệ cho phép mình làm bậy, chính họ đầu têu cho người dân thường bắt chước theo.

Trong thực tế, có thể thấy cách làm hư dân của bộ máy quan chức rất đa dạng. Cũng giống như việc cha mẹ quá chiều chuộng khiến con cái không nên người, chỉ cần nhà cầm quyền dễ dãi vô nguyên tắc bỏ mặc cho dân muốn làm gì thì làm thì cái việc có vẻ nhân nghĩa này đã là nguồn gốc dẫn tới sự hư hỏng của đám đông. Họ sẽ tùy tiện làm ăn gian dối, rồi lừa lọc nhau, ăn cắp ăn cướp của nhau, như chúng ta đang chứng kiến.

Mở rộng ra, cần nghiên cứu sự hình thành tầng lớp quan chức trong lịch sử và văn hóa quản lý xã hội ở ta trước nay ra sao.

Ví dụ, cần đi vào chi tiết việc quản lý các làng xã xưa, nơi đó bọn cường hào thao túng cuộc sống người dân và kìm hãm họ trong cảnh trì trệ.

Hoặc là theo dõi sự vận hành của bộ máy quyền lực những thời gần với xã hội hôm nay như xã hội thời Lê Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII- XVIII.

Khi mà người ta làm kinh tế theo kinh nghiệm của những người chỉ quen chinh chiến và quản lý xã hội theo kiểu trại lính thì sự nghiêm túc chỉ là bề ngoài, bên trong là hỗn loạn thối nát.



Tôi muốn nói thêm đến tội làm hư dân của một hoạt động xã hội đặc thù: công việc của những người làm văn học nghệ thuật.

Vào các thế kỷ XVII-XVIII, văn nghệ vẫn là một thứ tiếng nói của nhân dân, dù chỉ là một thứ tiếng nói chuệch choạc.

Thời đó văn nghệ được dùng để nói lên nỗi đau khổ của nhân dân. Nó vẫn được xem là khá tỉnh táo.



Ngày nay, trong thể chế của chúng ta, một bộ phận chủ đạo trong giới văn nghệ không còn là tiếng nói của dân nữa, họ là một thành phần của giới quan liêu. Có thể chỉ là một cách tự phát - bí quá thì làm liều -, nhưng bộ phận văn nghệ này lại đang đi vào làm cái việc rất tội lỗi là kích động khuyến khích sự chơi bời - hưởng lạc - lười biếng - gian dối, tức sự hư hỏng của con người.

Làm thế để dân quên đi những vấn đề chủ yếu làm nên cuộc sống của họ.

Trong trường hợp này, trang sách viết ra - cũng như bài hát viết ra, vở kịch diễn ra, thước phim làm ra -- không còn đóng vai giáo hóa như thường thấy trong xã hội cũ, mà chính là lại mắc vào cái tội chúng ta đang nói — tội làm hư dân.



Khi con người đau khổ thì còn có cách tổ chức lại đời sống để họ biết làm biết nghĩ, biết rõ chính mình, và hướng phấn đấu của chính mình, nó là tiền đề để họ trở nên hoàn thiện, theo một nghĩa nào đó, trở nên hạnh phúc.

Nhưng khi con người đã hư hỏng mà không tự biết sự hư hỏng của mình, rồi lại được kẻ khác khuyến khích để hư hỏng thêm, thì thật hết đường cứu vãn.

Nhưng nhân dân đang không biết trông cậy vào ai! Lấy ai là người hướng dẫn bảo ban khuyên nhủ họ bây giờ?
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 26, 2014 03:29

December 18, 2014

Nhân một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75

Một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 vừa được
tổ chức ở bên Mỹ. Tôi hơi thất vọng vì ba lẽ:




1/ các đồng nghiệp của
tôi ở hải ngoại vẫn bị cảm xúc chi phối quá nặng. Bây giờ mà các anh vẫn nhắc
nhở đến những đánh giá bất công của mấy ông X, Y. Z., những ý kiến cực đoan tồn
tại từ đã trên dưới ba chục năm trước. Vào thời điểm này trong nước có mấy ai còn nghĩ
như thế?


Theo sự nhìn nhận của tôi,
thì hiện nay nghiên cứu văn học trong nước đang ở thế bế tắc đến cùng cực. Nhiều việc cần làm mà không ai đủ sức làm. Với
cả nền văn học Hà Nội từ sau 1945 cũng không ai có được phát hiện gì mới.

Chính
là lúc này, một số bạn trẻ rất có năng lực ở Hà Nội có, ở Sài Gòn Huế có, đang âm thầm hướng tới những Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ
Khắc Khoan… để hy vọng qua kinh nghiệm của các nhà văn bậc thầy ấy, may ra hé lộ con đường đi tới của văn chương nước nhà. Sao các anh
không tính chuyện thảo luận cùng họ, cộng tác với họ?

Các anh than thở “Văn học miền Nam (VHMN) từ 54-75 là
một trong những nền văn học bất hạnh nhất trong lịch sử văn học Việt Nam” với
nghĩa nó bị cấm đoán, nó không được thu thập đầy đủ. Cái đó có, nhưng tình cảnh
đâu đến nỗi bi đát lắm, hiện nay nó đang được khôi phục dần dần.




Nếu muốn dùng chữ bất hạnh,
tôi nghĩ tới cả nền văn học dân tộc nói chung, bao gồm cả văn học miền Bắc. 

Nhưng hiểu theo nghĩa này, thì cứ gì văn học VN. Mà văn
học Trung Hoa lục địa cũng bất hạnh, văn học Nga xô viết cũng bất hạnh. 

Nay là
lúc chúng ta  cùng nên gạt những cảm xúc
bi lụy ấy đi.

 May mà những năm ấy, còn có văn học miền Nam!

 Nay là lúc chúng ta
phải nhìn về nó với niềm tự hào và gắng đi tìm ra những bài học của nó, để tiếp
tục làm văn học trong hoàn cảnh mới và giúp cho văn học trong nước cùng phát
triển.




2/ Xin phép nói một cảm
tưởng sau khi đọc các bài tham luận. Gạt đi mọi khách sáo,  tôi muốn được thẳng thắn mà nói rằng cách tôn
vinh VHMN của các anh rất nhiệt tình đấy, nhưng còn thiếu sức khai phá gợi mở.

 Theo tôi hiểu,
các phương pháp tiếp cận văn học trên thế giới hiện nay đủ mạnh để  phát huy hiệu quả cả với văn học các nước Đông Nam Á, các nước Ả Rập…(nói
chung là những nền văn học bên ngoài văn
học phương Tây). Lâu nay đọc các anh viết trên mạng,  các cuốn sách các anh mới  in, tôi 
biết rằng trong mấy chục năm qua, ở xứ người, các anh đã học hỏi được rất nhiều.

 Thế mà nhìn vào những nhận xét các anh nêu lên trong hội thảo này, tôi chưa thấy được cái mới đó -- các anh chưa mở ra được cái phương hướng mới đủ sức giúp bạn đọc hôm nay hiểu thêm về một nền văn học mà mọi người cùng yêu mến.






3/ Khi nói về văn học miền
Nam, lẽ tự nhiên người ta phải đả động đến văn học miền Bắc.

 Đã có lần, trong một
cuộc phỏng vấn của một đồng nghiệp, tôi nói rằng một trăm năm sau, khi nói tới
thế kỷ XX, người ta không bỏ được nền văn học miền Nam, cũng như không thể bỏ
được văn học miền Bắc.

 Dù phân lượng không đồng đều, song mỗi bên có đóng góp
riêng vào việc ghi lại đời sống tinh thần dân tộc, không bên nào thay thế được
bên nào. 

Đến hôm nay, tôi vẫn nghĩ thế, và tôi muốn các anh cùng chia sẻ. 

Làm
sao trong khi đề cao VHMN 54-75, các anh có thể sổ toẹt cái phần thành tựu
theo một cách riêng
 của văn học miền
Bắc trong thời gian đó.

 Tôi không nói tất cả, tôi chỉ nói rằng vượt lên trên một số đông tầm thường và xu thời, vẫn có những cây bút miền Bắc tin ở sứ mệnh cầm bút của mình.

 Ở những người này
có rất nhiều mâu thuẫn, cũng có lúc họ đã chùn tay, đã đầu hàng, nhưng rồi tiếp
sau đó, bên cạnh đó, lại vẫn giữ được cái phần lương tâm lương tri của một người viết văn chân chính. 

Nỗ lực đó của họ còn được ghi lại trong các trang sách. 

Đối lập và tuyệt đối
hóa những khác biệt văn học giữa hai miền chẳng những là bất cận nhân tình mà
còn là phản khoa học.

 Nó ngăn cản người ta đi dần tới một cách hiểu đúng đắn về
mỗi bên.

Chính
ra là trong sự phát triển của mình, văn học hai miền thời gian 1954-75 đã có sự
nhìn vào nhau, đối thoại ngấm ngầm với nhau.

Việc nghiên cứu trở lại cuộc đối thoại xảy ra trong những năm đó là một trong những  phương cách thiết yếu để đẩy tới cuộc đối thoại giữa văn học trong nước và văn học hải ngoại hôm nay.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 18, 2014 09:31

December 15, 2014

Sách cũ sách mới



Sự có mặt của các tác phẩm cổ điển

Trên các trang báo, thường người ta chỉ thấy những lời giới thiệu về sự có mặt của các tác phẩm mới in ở phương Tây, nhất là các tác phẩm được giải nọ giải kia. Khi đọc những bài ấy, tôi nhận ra một nỗi hào hứng ở nhiều người viết: với những cuốn sách mới toanh thế này, hình như về văn hóa và nói chung là về cách sống -- chúng ta đang nhịp bước cùng thế giới hiện đại bên Anh, bên Mỹ.

Qua báo Tuổi trẻ 27-10-14, lâu lắm tôi mới lại thấy một bài có cách suy nghĩ ngược lại, đó là trường hợp nhà văn Trầm Hương giới thiệu tiểu thuyết Một cuộc đời của G. de Maupassant.

Được nhấn mạnh rõ nhất trong bài báo này là sự khốn khó khôn lường trong việc vận dụng tình yêu, kể cả tình yêu của một bà mẹ với đứa con trai.

Câu hỏi đặt ra là cha mẹ yêu con sao cho đúng? Phải chăng trong tình mẫu tử, chúng ta không chỉ cần có tình cảm, sự hết lòng mà còn cần cả sự sáng suốt, trí tuệ?

Đi theo sự dắt dẫn của Trầm Hương trong bài Cảnh giác với bà mẹ "một cuộc đời”, do đó, người ta thấy ngày nay các tác phẩm cổ điển còn có thể mang lại cho chúng ta nhiều bài học.

Lại cũng có thể nói là nhiều lúc chúng ta cứ ảo tưởng mà bảo nhau rằng xã hội đã sang quá trình phát triển hiện đại, thật ra cuộc sống xã hội VN hôm nay chỉ đang là phiên bản nhòe nhoẹt của xã hội Âu Mỹ các thế kỷ XX, XIX…



Những bóng ma trên bãi tha ma của sách

Thỉnh thoảng vẫn nghe tin có những khu đất không người lai vãng ngay giữa thành phố, hoặc những kho hóa chất trong rừng.

Ở các thư viện lớn, có những cuốn sách mà không bao giờ có người đọc tới.

Và bây giờ là cuốn Từ điển tiếng Việt dùng cho học sinh của tác giả Vũ Chất.

-- Tại sao một cuốn sách như thế mà đến nay người ta mới phát hiện ra sai lầm không thể tha thứ của nó?

--Phải chăng điều này có nghĩa là trong khâu chuẩn bị cho nó xuất xưởng, các biên tập viên đứng tên ở các trang cuối không hề đọc nó, ông Tổng biên tập cũng không hề giở qua vài trang của nó trước khi ký giấy cho in.

--Và sau khi in ra nó không hề được bất cứ nhà giáo cũng như em học sinh nào sử dụng?

Tóm lại trên bãi tha ma sách vở chung quanh ta, lại thêm một hồn ma—không, có lẽ là một bóng ma vờ vật –ngay từ lúc ra đời đã nằm ép xác ở các ngăn tủ nào đó, chờ ngày trở thành sách cũ mang bán đồng nát, nghĩa là trở thành tro bụi—tro bụi không mang một nghĩa bóng gió nào hết.



Trí thức phương Tây và VN những năm chiến tranh

Trên một trang mạng, thấy đưa tin một nhà văn ta vừa lặn lội sang tận Anh mới tìm thấy phóng sự Việt Nam nhìn từ bên trong của G. Márquez, viết sau chuyến thăm Việt Nam tháng 7-1979.

Tôi chợt nhớ ra, hồi chiến tranh, ở Hà Nội có nhiều nhân vật trong giới trí thức phương Tây đã tới Hà Nội.Loáng thoáng tạm kể mấy người.

Trước tiên là M. MacCarty mà hồi ấy một số nhà văn tôi quen đã biết ở phương Tây được gọi là người đàn bà thông minh nhất nước Mỹ. Bà này có lần nói đại ý các trí thức phương Tây chỉ lo mách nước cho Nixon về việc rút quân, có biết đâu cái này tổng thống Mỹ nào cung biết thừa, chỉ có điều họ có định rút hay không thôi.



Một nhà văn Mỹ là S. Sontag, nghe nói bà này không chỉ nói về chiến tranh mà còn có những nhận xét thú vị về người mình. Cố nhiên hồi ấy bọn tôi không được giới thiệu. Mãi hơn ba chục năm sau, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng.



Lại còn Peter Weiss nhà văn Đức. Ông này cũng có nhiều nhận xét liên quan tới đời sống bình lặng ở Bắc Việt Nam lúc đó. Ông bảo rằng ở đây có một cái gì quá ư đơn điệu, nhìn quanh chỉ thấy một đường mờ mờ ở chân trời, ở đây không có cái gì liên quan đến độ cao.

Đã bao nhiêu đầu óc thông minh của thời đại đã qua VN.

Nếu biết lắng nghe lời phát biểu của họ thì chẳng những chúng ta sớm ra khỏi chiến tranh mà còn biết phát triển hợp lý trong hòa bình.

Đằng này không.

Đại khái lối tiếp nhận ý kiến của nhà cầm quyền Hà Nội với khách nước ngoài hồi đó thực dụng đến thô thiển. Ai ca ngợi ta và khuyến khích chúng ta đánh nhau thì ta đưa lên tận mây xanh, và nhắc đi nhắc lại cho toàn dân được biết. Ai nói hơi khác là ta lảng, nếu nói ngược là ta cấm cửa không cho vào. Nếu ngoài những ý kiến về chiến tranh, người nói có đả động chút nào đến tình hình chung của VN (mà như tôi vừa dẫn là những ý kiến đáng quý giúp cho việc tự nhận thức của xã hội VN thời hậu chiến) thì đều bị vứt bỏ không thương tiếc.



Những trang ghi chép âm thầm

Nhân đây xin dẫn lại một tin trên mạng hải ngoại, có liên quan tới chuyện viết hồi ký về quãng đời đã qua .

dutule.com (ngày 1 tháng 4-2014): Một thành viên gia đình của cố nhà văn Mai Thảo cho hay: Khi soạn lại những vật dụng, tài liệu, bản thảo của nhà văn Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý, để cất vào một nơi thích hợp, họ đã tình cờ tìm thấy trong một hộp giấy được dán kín bởi băng keo, những trang hồi ký của ông.

Vẫn theo nhân vật này thì đó là những trang giấy viết tay về những ghi nhận của họ Nguyễn liên quan tới những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, cùng thời với ông, như Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Bùi Giáng v.v… Điều đáng ngạc nhiên ở chỗ đó là những nhận định hoàn toàn trái ngược với những gì ông đã viết xuống thuở sinh tiền.




Tôi ghi nhận lại tin này để củng cố thêm cho một ý tưởng ngày càng ăn sâu trong tâm trí. Chúng ta thường mải lo phát biểu về các vấn đề trước mắt, trong khi có bao nhiêu vấn đề của quá khứ chưa được nhận thức, thậm chí đã nhận thức rồi vẫn không dám nói ra.

Ngoài ra, trong tập di cảo mang tính hồi ký này, cũng có những trang ông viết về các mối tình hay những người phụ nữ đã đi qua, hoặc có liên hệ với ông từ những năm tháng quê nhà và hải ngoại.

Các thành viên trong gia đình cố nhà văn Mai Thảo cũng cho biết thêm, họ chưa quyết định sẽ phổ biến hay không, tập hồi ký “nhậy cảm” này của ông.


Đọc tới phần cuối mẩu tin nói trên có thể có người nghĩ các hồi ký đã viết ở ta nhiều khi quá sa vào chuyện riêng tư, nhưng theo tôi, nay đã đến lúc mọi chuyện riêng tư đều có thể được đọc theo một cách nào đó để có ý nghĩa chung. Nếu cứ đòi hỏi cái gì thật có ý nghĩa mới đưa vào hồi ký thì rồi chả còn gì đáng công bố nữa. Stefan Zweig là người viết tiểu sử Marie Antoinette. Trong hồi ký Thế giới hôm qua, ông kể rằng ông đã từng đọc qua cả những hóa đơn ghi số tiền bà hoàng hậu này chi khi đi chợ.



Đi mua sách giáo khoa cũ ở Sài Gòn

Trong thời gian chữa bệnh ở Sài Gòn, một trong những công việc vào mỗi tuần tôi dành cho một buổi, là đi lục mua sách cũ.

Hồi trước, tức là những năm đầu tiên sau 75, bọn tôi chỉ biết đi kiếm các bản dịch tiểu thuyết nước ngoài.

Rồi có thời gian đi tìm sách triết.

Giờ đây, tôi lại thích đi tìm các loại sách giáo khoa dạy trong các nhà trường ở Sài Gòn cũ, nhất là phần khoa học xã hội.

So với những giáo trình đại học mà tôi đã được đọc ở Hà Nội, tôi thấy những cuốn sách dạy văn cho các lớp tú tài ở đây lại nghiêm túc và có giá trị hơn. Giá trị không phải ở sự phân tích tỉ mỉ, mà ở cái nhìn toàn cục, do đó giúp tôi có một cái nhìn đầy đủ hơn cả văn học Việt Nam trung đại lẫn văn học tiền chiến.



Các cuốn Quốc văn 12 ABCD bao giờ cũng có phần lý thuyết đi vào các tư tưởng lớn trong văn chương Việt Nam, bao gồm cả tư tưởng bình dân lẫn các tư tưởng tiếp thu từ các nước phương Đông cũng như phương Tây.

Phần lịch sử các bộ môn văn học bên cạnh lịch sử thi ca lịch sử tiểu thuyết có thêm phần lịch sử báo chí -- báo chí liên quan tới văn học - là cái phần Hà Nội lảng tránh.

Khi đọcViệt Nam văn học sử giản ướctân biên của Phạm Thế Ngũ, tôi đã rất thích thú khi thấy trong số các tác giả được viết thành chương riêng thì Phạm Quỳnh được viết kỹ nhất,chiếm nhiều trang nhất, khiến ta ngầm hiểu rằng Phạm Quỳnh thực đáng gọi là nhà văn quan trọng nhất của văn học Việt Nam.

Nay đọc các tác giả khác, trong các sách quốc văn dành cho cả trung học đệ nhất cấp lẫn trung học đệ nhị cấp, tôi đều thấy một tinh thần tương tự.



Như trên vừa nói một chỗ yếu của các giáo trình đại học phần viết riêng về văn học tiền chiến 1932 - 1945, là không nhìn thấy sự phát triển của báo chí, nên cũng bỏ qua luôn cả sự phát triển của tư tưởng Việt Nam mà trong bước tập tành ban đầu, thể hiện chủ yếu qua các ấn phẩm định kỳ.

Ngược lại trong một cuốn mà tôi tạm lấy làm ví dụ, cuốn Giảng văn lớp chín của Nguyễn Quảng Tuân, Trường Thi xuất bản 1970, thấy có cả một phần gọi là HỢP THÁI, nơi tập hợp những bài nghị luận luân lý và văn chương trích trong các tạp chí.

Ở các sách khác, thì phần này được rải đều ra, chứ không tập trung, nhưng người ta luôn luôn làm nổi một sự thật là đời sống tư tưởng trước 1945 khá đa nguyên đa dạng, chứ không có dòng nào độc tôn như thường thấy được viết trong sách vở Hà Nội.



Các cuốn sách giáo khoa viết về sử và luân lý đạo đức thì lại có rất nhiều tài liệu mới.

Chẳng hạn, trong cuốn Việt sử và thế giới sử của Nguyễn Văn Mùi nhà xuất bản Thăng Long Sài Gòn 1960 thấy công bố bản hiến pháp được thông qua ở Sài Gòn năm 1956.

Còn trong cuốn Đạo đức học 12 ABCD của Vĩnh Đề, Nguyễn Văn Đa, Lê Tấn Lộc, in năm 1973, trong chương V còn chép ra đầy đủ -- và chắc là với chất lượng dịch hoàn hảo - cả bản tuyên bố về nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948.



Điều đáng kể hơn: Ta biết rằng bao nhiêu năm nay sinh viên văn sử ở Hà Nội đều không hề biết đến lịch sử văn hóa dân tộc. Lịch sử Việt Nam tóm lại toàn là lịch sử nông dân khởi nghĩa, lịch sử các triều vua, lịch sử nội chiến (tuy không gọi sự vật bằng tên của nó, nhưng đúng là toàn lịch sử nội chiến).

Trong khi đó, thì trong các sách sử địa dành cho lớp 12 ở Sài Gòn, bao giờ cũng phần viết về văn minh Việt Nam.

Ở các phần này, người học sinh trước khi ra trường, sau phần lịch sử hình thành, và các ảnh hưởng, được học cả ba phương diện, sinh hoạt chính trị, sinh hoạt kinh tế xã hội, sinh hoạt tinh thần làm nên văn minh Việt Nam.



...và sách cũ Hà Nội

So với ở Sài Gòn thì việc tìm mua sách cũ ở Hà Nội nhiều khi trông vào sự ăn may. Vì các hàng sách cũ ở Hà Nội phần nhiều vốn liếng ít hơn, làm ăn nghiệp dư tài tử hơn.

Sách quý ở Sài Gòn phần nhiều là sách ở các gia đình.

Sách quý ở Hà Nội phần nhiều là sách do các thư viện thanh lý, hoặc sách do các tư nhân nghèo quá, nhà không đủ chỗ chứa sách, nên bán bừa cho xong.

Lâu nay ở Hà Nội có một hiện tượng phải nói là quái gở.

Có một số sách về khoa học xã hội có quan điểm chính trị mới mẻ do nước ngoài đề nghị cũng đã được in.

Vốn đã không thích, song vì muốn kiếm lợi trên phương diện ngoại giao người ta buộc lòng phải in.

Có điều chỉ in với số lượng thấp và không muốn cho những đầu óc độc lập có dịp tiếp xúc.

Chỉ đến hiệu sách không bao giờ người ta tìm được các cuốn loại đó. Mà chỉ hy vọng là cơ quan nào đó hoặc ông cốp nào đó được biếu lại không dùng, đem bán đồng nát.

Tôi không phải loại chơi sách, nên chỉ lần mò ở một số hiệu sách cũ, với hy vọng có được các cuốn sách loại đã in ra mà chưa bao giờ sống này.



Việc tái bản những cuốn sách có giá trị

Thường đi hiệu sách nhiều khi với tôi cũng là dịp để mà buồn. Bao nhiêu sách mới ra đời mà riêng mình thì không có mặt. Bao nhiêu đầu sách tầm thường, nhạt nhẽo được tái bản, trong khi sách của mình đã hết mà nói với đầu nậu in cho thì họ bảo không ai đọc. Và họ nói cũng có lý thật. Bây giờ nghiên cứu phê bình bán được chủ yếu là sách giúp cho đi thi. Mình trong việc này, chả cần cho ai cả.

May lắm chỉ còn chút an ủi thật ra còn biết bao sách hay trên đời nữa mà cũng chỉ xuất hiện một, hai lần rồi các thế hệ sau cũng không thể tìm sách mà đọc.

Một trong những ví dụ mà chính tôi có liên quan là trường hợp cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski.

Bây giờ thì Bakhtin cũng đang thành mốt.

Nhiều anh em nghiên cứu trẻ hỏi mượn tôi về cuốn sách đó. Bản thân tôi đã có lần đề nghị với anh Trần Đình Sử là bảo NXB Giáo Dục in lại, hoặc nếu không thì cho các NXB khác in.

Nhưng rồi chả bao giờ lời đề nghị của tôi được đáp ứng. Trong những lúc bi quan nhất, tôi nghĩ không chừng càng những cuốn sách tốt thì người ta càng không muốn cho in. Để mà giữ độc quyền của những người đi trước.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 15, 2014 05:09

December 10, 2014

Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc

Đã in  tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN


 số 7-8 (114-115).2014, 

số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)




Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong
cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được
phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm. 

Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi
không thể bằng lòng với cách làm như vậy. 

Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học
hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế
giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu
văn học miền Nam được.

 Đối với
giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo
dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.

 Tuy
nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo
dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy  ở GDMN một điểm đối chiếu.

Lúc cảm
nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là
lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán.
Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã
hấp thụ. 

Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện  giáo dục Hà Nội  từ 1975 về trước  qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài
Gòn.






                                KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH       

 Chỗ khác
nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục
đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.

Ngay từ những năm 1948 - 50, nền giáo dục tự
phát trước tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ
Việt Bắc, những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ,
rồi  tập trung và có ý nghĩa nhất với
tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành, các trường sở… về
sau.

Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự
kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh. 

Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học
được trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được
một số hiệu quả nào đó.

Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ
là chỉ một hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ
kháng chiến tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động
được đặt lại trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế.
Quan niệm giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.

 Giáo dục
chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn
phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng .

 Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền
giáo dục như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ
trước cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau
này chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.

 Đối tượng
của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá khác nhau, còn phải
nghiên cứu công phu,  ý kiến của chúng
tôi chỉ mới là những phác thảo sơ bộ.                               

                                   

                                                    
CHUẨN VÀ  PHI CHUẨN

Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng
chiến đã trở về Hà Nội  cái tinh thần
giáo dục phi tiêu chuẩn  hôm qua cần phải
vượt qua, thì -- như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận -- nó
lại ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của
GDMB

Nói quá
lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc,
tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành
nhân dạng
.

 Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là
chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm -- rồi để yên lòng nhau, sẽ viện
ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.




Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ
bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các
nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một
bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những
trường tương tự… trở  về.

Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này
để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.

 Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những
người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm
việc, chứ thực tế  thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.

Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở
vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.

 Rồi rộng hơn câu chuyện của  riêng
ngành đại học là chuyện của mọi cấp học. 

Tính phi chuẩn  bao trùm trong mọi lĩnh
vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới
chất lượng dạy và học.

 Sau mấy
chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy
được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả,
khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các
trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam
phải theo.

 Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi
người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi,
chứ đâu có đứng yên.







                                       KHÁC
BIỆT TRONG  QUAN
NIỆM  




Về bộ
máy giáo dục


Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và
nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân
giáo dục là một hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con
người riêng của nó.

 Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn
Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện
tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay
không làm gì chỉ về mở trường trong vùng. 

Còn các chức danh đốc học, giáo thụ,
huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện -- là người do triều
đình cử, chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử
thì triều đình cũng phải duyệt.

Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những
người thành thạo chuyên môn quyết định.

 Còn ở miền Bắc  thì hoàn toàn ngược lại. 

Nhiều vị sư do địa
phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với
chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền
theo nghĩa đen.

Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.

Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.

Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi
cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công
cho những người kém thế lực và kém năng lực.

Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc
quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.

Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở 
thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong
chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. 

Nhưng về sau, do sinh
viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp
Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại
học số một của Pháp.

Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc
phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh
chạy chọt, như hiện nay.

Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp
quan chức của giáo dục.



Một trong những chuyện vui vui  xảy ra với
nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh
nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc
thi.

Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che
giấu như thế nào.

Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của
nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi,
người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.



Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô
thiển. Những năm 55 – 58,  tôi học cấp II
Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài
tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra
đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.

Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là
công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.

Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường.
Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần
biết.




Những
nguyên tắc căn bản của giáo dục


Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở
nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.

Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền
giáo dục mà đến nay ít được biết tới.




Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà giáo dục đồng thời trước
đây là một quan chức trong nghề (như trên đã nói, quan chức giáo dục ở miền
Nam khác hẳn quan chức miền Bắc
), ông 
Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới
nhân bản khai phóng dân tộc những
nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp VNCH 1967.




Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy
đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được
giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB
không  có một ý niệm gì hết.




Về tính dân tộc

 Ta hãy đọc
lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo đảm tính dân tộc,
phát triển tinh thần quốc gia của học sinh 
có nghĩa




giúp học
sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân;
giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh
thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc;
giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả;
giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú
của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những
truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có
tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-gi...




 Các nhà
giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn thì khác. Trong cách
giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc trước tiên là việc dân
mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo
dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì  nhiều với nền giáo dục  mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại.
Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc địa.

 Đây là
cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và được coi là tư tưởng
chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.

 Một khía
cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc. Không phải là những người
làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự trấn an, người ta biện hộ rằng
trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như GDMB đang trở lại với nền giáo dục
của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ cốt phát huy tinh thần hiếu học của
con người. 

Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm
ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.

 Cũng chính là những lý do được viện dẫn
khi, trong đời sống văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với  các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín đến
một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.

Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc
được các nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.




Về tính nhân bản

 Trên giấy
tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản,
tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.

 Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu
tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến
tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.

Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà
tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo
dục phải có nhiệm vụ hướng tới.

 Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ
nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ
nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất
công”.

 Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái
tim ta
của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người
ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:

--Miền
Nam ta ơi


Cái hầm chông là điều
nhân đạo nhất


– Ngọn súng trường ta
ơi ngọn súng rất nhân tình


Giới giáo dục miền Bắc cũng  theo sự chỉ đạo đó.

Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền
Nam ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu
của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.

  Hãy thử
đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục
của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in
ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.

 Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ
mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được
dịch có.

 Khi bàn
về  mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:




Mục đích
tối thượng  của giáo dục là làm thế nào
giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình, hầu có thể  sống trọn kiếp nhân  sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện  được con người của mình  trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại
thế, một hữu thể có  lý trí và tự do, vừa
suy tư vừa hành động”.

Lê Thanh
Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo
dục
nxb Trẻ,1970 tr 209




  Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề
lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi Hà Nội được
tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954),  không làm gì có những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc
về một giai cấp do đó họ phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp
của họ. Cách
hiểu của GDMN:




chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận
việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ
thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý
nhân bản, mọi người có giá trị như
nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-gi...




 dù có được
coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm
ngược.

  Trước sau,
với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và đặt vấn đề  tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một chuyện quá phiền phức, giá có
công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời không cho phép người ta tuân thủ. 

Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.

Thế
thì làm  sao có thể tính chuyện nghiên
cứu về con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có
trong họ được! 

Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền
Nam




Triết lý
nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy
con người làm gốc
, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu
cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất
cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.

 Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/




phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy
thì cần phê phán.




Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có
tính chỉ đạo đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc chiến đấu trước
mắt được nhấn mạnh.  Chỉ xin lưu ý một điểm,
đó không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà  còn là nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước
mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết. 

Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục
nxb Trẻ đã nói, có một  phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài,
cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ
và Pháp  mà viết lại. Phần viết về giáo dục
Nga kết lại như sau:




--Xét
chung thì nền giáo dục ở Nga  rất thực tiễn
và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành
một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu - VTN] tới mức tối đa. Một khi con
người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó
chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng
lại phi nhân tính. (Sđd tr. 228)




Có thể mượn để nói về GDMB.




Về tính khai phóng

Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong
các tài liệu GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi,  chữ khai phóng là hơi lạ.

Mở Hán Việt
tân từ điển
 của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai trí 
S.1975),  thấy ghi  khai phóng tức mở mang và buông thả, ý nói
làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ,  mà
trái lại, muốn giúp đỡ cho tiến xa hơn
.

Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào
đó,  khai phóng có vẻ gần với khái niệm
hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong kinh tế lẫn
giáo dục.

Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các
nguyên tắc căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với  khái niệm cơ bản của nhân học hiện đại là tự
do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.

Trong cuốn Chân
dung  những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu
trên thế giới,
do tổ chức Unesco
bảo trợ biên soạn và chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết về Thái
Nguyên Bồi (1868-1940),  có đoạn dẫn lại
mấy ý của vị Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới  phương hướng phát triển  giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.




  Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do
ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình
tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới  những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những
tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng
đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d tr138 )




 Giáo dục 
giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và hoàn thiện tính cách
cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại. 
Bởi vậy giáo dục không hể  trở
thành công cụ đặc biệt  giúp cho những kẻ
muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà trường  phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr
143).  

                            

Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một
khía cạnh chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.

 Tinh thần
khai phóng này cũng chi phối  cách các
nhà GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB  chấp nhận. 


Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập
đến rất sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:




Tinh thần
dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại,
giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa
nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội
tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.

http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-gi...




 là theo
tinh thần khai phóng vừa nói.

  Với
GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính là cần khai
phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.

Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở Sài Gòn đã nói cũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm
chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.




  Hẳn là
không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới và GDMN là khai
phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các mục đích trước mắt
– một tinh thần thiển cận sát mặt đất--, thì tinh thần khai phóng mà GDMN muốn
xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.

Trong cuốn Các
vấn đề giáo dục
đã nói, ở tr  204 tập
I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:




 Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ  không phải chỉ nhằm vào sự thành công của
chúng trong tình trạng xã hội hiện tại 
mà nhằm một tình trạng có thể  tốt
đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).




GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB
thì không.




                                                               ĐOẠN KẾT




Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục
ở miền Bắc đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.

Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều
nước trên thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét
theo cả chặng đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của
mình, hóa ra lại chẳng tuân theo quy luật 
nào cả.

 Nếu GDMN
được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới hiện đại thì GDMB lại
có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.




 Cần nói
thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những người làm giáo dục ở
miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang làm một cuộc cách mạng
trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục tiên tiến.

 Đó là một
ý nguyện chính đáng.

Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín.
Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới,
làm gì có chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.

Cuộc sống trì trệ kéo dài. 

Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường
phổ thông và sau này từng coi là phương
hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt
với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới
. Đủ hiểu tại sao sau khi
đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền
Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội
nhập rất tự nhiên và hiệu quả.






Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác,
nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy 
thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn
kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều
tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học.
Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản
của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục,
và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã
được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.

















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 10, 2014 02:17

December 8, 2014

Kinh nghiệm khai thác những dòng chảy ngầm trong văn học Nga thời kỳ xô viết

Các nhà nghiên cứu văn học
 Nga - xô viết mà tôi có quen đều đến với
nghề này do đi học ở các trường đại học Liên xô về. Họ sẽ viết ra những điều
họ từng được nhà trường Liên xô dạy và cấp cho họ các loại học vị.

Tôi thì đến với văn học Nga thời kỳ này vì một lý do khác.

Khoảng 1968, tôi chính thức về làm việc ở một trong hai tờ báo chủ yếu của văn học Hà Nội những năm chiến
tranh, tờ Văn Nghệ Quân Đội. 

Do muốn làm tốt phần việc của mình mà tôi thấy
cần phải học. Nói đúng ra, tôi muốn tìm hiểu thế nào là văn học, đâu mới là cái
mà văn học hiện đại hòa nhập vào dòng chung của văn học mọi thời đại.
Sở dĩ những người như tôi
có thể kiên trì trong việc tìm ra những dòng nước ngược trong văn học xô viết,
lý do là vì trong mỗi người vốn có sẵn một niềm tin: Người ta không thể giết chết
một nền văn học bằng cách quàng cho nó một hệ tư tưởng duy nhất và bắt nó trở
thành một bánh xe nhỏ phục vụ mọi phong trào đang rầm rộ trong xã hội.


Văn học phải hướng về những
cái lâu dài, những cái nhân bản.

 Luôn luôn còn có những dòng chảy ngầm.

 Văn học ở Liên xô cũng thế, ở các nước Đông Âu cũng thế
mà ở Trung Quốc cũng thế.




***

Trước tiên tôi lo đọc báo.
Báo chí ở đây cũng nhiều loại. Thuộc về Hội nhà văn Liên xô thôi, ngoài tờ báo Văn học đâu khoảng 20 chục trang khổ lớn,
còn hàng loạt tạp chí Thế giới mới, Ngôi
sao, Lá cờ, Tình hữu nghị giữa các dân tộc, Moskva…


Báo chí văn nghệ VN hồi
tôi vào nghề chủ yếu chỉ đăng sáng tác.

 Ngược lại, ở Liên xô, cái phần làm nên nội dung
chủ yếu của báo chí là đời sống văn học. Tờ nào cũng được lấp đầy bởi những sổ
tay ghi chép bình luận mà ở trên tôi vừa nói.

Chỉ đời sống sinh động trên mặt
báo mới cho ta thấy mọi dòng chảy khác nhau của đời sống, cả xuôi cả ngược.
Còn khi vào đến nhà trường nó chỉ còn là một xác ép, minh họa cho những tư tưởng
đang thống trị xã hội.

Cái gì mà người ta muốn
giấu lớp trẻ, tôi lại muốn biết.




Trong việc mò mẫm vào hậu
trường của giới văn học Liên xô, quyển sách ảnh hưởng nhiều đến tôi là Con người năm tháng cuộc đời của Ilya
Ehrenburg.

Ở đó tôi tìm thấy nhiều
thứ.

Những sự kiện xã hội liên
quan đến xã hội như chiến tranh, thời hậu chiến mà người ta vẫn mệnh danh là một
thứ chiến tranh lạnh… tác động của nó đến văn học được một người  như Ehrenburg miêu tả khá rành mạch.

Thú vị nhất -- một khối lượng
đáng kể trong hồi ký của ông -- là phần chân dung các nhà văn, nhất là những người đóng
vai trò chủ chốt trong Ban lãnh đạo Hội nhà văn Liên xô những thời điểm khác nhau.

Sau này, tôi được biết ở
phương Tây có nhiều người không ưa Ehrenburg, họ bảo ông là một thứ tay sai của
nhà nước, một thứ cơ hội chủ nghĩa hưởng lợi từ cả hai bên.

 Nhưng có hề gì, những
gì được viết trong Con người năm tháng cuộc
đời
chỉ là một cách nghĩ mà tôi có thể tham khảo. 

Sau khi đọc ông, tôi còn tìm được hàng loạt hồi ký xuất sắc khác, kể cả những cuốn xuất bản ở nước ngoài, sau 1991 mới được in lại ở Nga, như cuốn Tôi nhấn mạnh ( Kursiv moi) của N.Berberova. 

Theo
cái mạch Ehrenburg gợi ra, tôi phác họa cho mình cả một loạt những cách tồn tại của các nhà văn Nga trong thời xô viết: loại cán bộ trung thành, loại quan chức mới phất, loại có chân tài, loại sống bám vào nghề văn để kiếm chác, giá chuyển sang các nghề khác chỉ có chết đói.  Mỗi người mỗi số phận, nhưng người nào cũng cung cấp cho các lớp hậu sinh những bài học cần
thiết.

 Điều này rất có ích cho tôi trong việc tìm hiểu các nhà văn Việt Nam đương thời.




  ***

 Nghề chính của tôi không phải là sáng tác mà
là nghiên cứu. Bởi vậy việc tìm  hiểu giới
nghiên cứu văn học Liên xô với tôi là một nhiệm vụ thiết cốt.

Trên nét lớn, tôi sớm biết rằng, trong những đồng nghiệp người Nga, kể cả những người đang giảng dạy ở các nhà trường, có sự định hướng rõ rệt.


-- Những người giỏi nhất
thường đi vào nghiên cứu văn học Nga, chỉ những người kém cỏi mới đi vào văn học
xô viết.

-- Những người trường lực
và có tham vọng lớn thường muốn bao quát không chỉ văn học mà còn cả các ngành
nghệ thuật khác; nói chung họ không chịu dừng lại ở bình diện tư tưởng mà muốn
đặt văn học trên cái nền rộng lớn của các vấn đề văn hóa.

Dù vất vả đến mấy tôi cũng phải cố đọc họ.




Còn về lý luận,-- thực ra
là quan niệm về văn học nói chung – con đường riêng của tôi bắt nguồn từ những
ngán ngẩm mà tôi phải chịu đựng khi học bộ môn này trong trường đại học.

 Tôi muốn
đi tìm thứ lý luận phi chính thống, thường được che giấu, nhưng là thứ quan niệm
văn học đập cùng một nhịp với nghiên cứu văn hóa Âu Mỹ.

Thuộc loại lý luận này  có hai cuốn để lại ảnh hưởng  trong tôi nhiều nhất:  Những vấn
đề thi pháp Dostoievsky
của M. Bakhtin, và Những phạm trù văn hóa trung thế kỷ của Ju. Gurevich.




***

Bên
cạnh văn học cổ điển Nga, một khu vực nữa thu hút các nhà nghiên cứu ưu tú ở
Moskva Léningrad lúc đó là lĩnh vực nghiên cứu văn học Âu Mỹ, bao gồm cả văn học
cổ điển từ XIX về trước lẫn văn học đương đại. Các nhà nghiên cứu xô viết ở đây
không dừng lại ở đối tượng trong nước.

  Họ
biết rằng cả các đồng nghiệp bên Paris London cũng sẽ đọc họ và sẽ cười vào mũi
họ nếu họ nói những điều ngớ ngẩn. 

Vì thế họ có sự vươn lên vượt bậc. 

May quá, nhờ
sớm tìm thấy thích thú khi đọc các tác giả này, tôi cũng biết sơ sơ về văn học
phương Tây hiện đại.

Nhất là tôi không chỉ dừng lại trong biên giới của nước
Nga mà còn có khả năng đặt tư tưởng văn học nẩy sinh trên đất Nga vào những hệ
quy chiếu khác.

Từ
sau 1991, có một số giáo sư người Nga dạy văn học phương Tây được mời sang giảng
dạy ở nhiều nước trên thế giới, điều không hề xảy ra với giới nghiên cứu văn học
xô viết.




***

Trong
nhưng năm chiến tranh, ở Hà Nội thứ ngoại ngữ mà các nhà văn Việt Nam lớp trước
sử dụng thành thạo là tiếng Pháp, sách báo nhập vào và được các nhà văn truyền
tay,  bên cạnh mấy tờ báo của Đảng Cộng sản
Pháp, là sách báo bên Moskva dịch ra tiếng Pháp.

Việc
này ngẫu nhiên có một cái lợi. Trong việc đánh giá văn học xô viết đương thời,
người ta vẫn chịu sự hướng dẫn của giới văn học Pháp.

 Nói nôm na là mặc sự tung
hô của Moskva thế nào, chỉ những cuốn sách được bên Paris tiếp nhận và giới thiệu
mới được các nhà văn Việt Nam lúc ấy thừa nhận.




Việc
này cũng mở ra cho tôi một phương hướng.  Công việc của tôi, gồm mấy công đoạn. Thoạt đầu
là nghe những bậc đàn anh như Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khải, Huy Phương kể rằng
bên Pháp người ta đang đề cao các nhà văn này nhà văn kia. Sau đó ra thư viện mở
mấy cuốn từ điển của phương Tây kiểm tra lại. Gọi là kiểm tra cho oai thực tế
là tôi chỉ cần tra sơ sơ, để biết chính xác tên tuổi các nhà văn nhà lý luận xô
viết  mà sách báo phương Tây đề cao, thế
là tôi sẽ quay về mầy mò các văn bản tiếng Nga  có liên quan tới tác phẩm của họ và cách đánh giá họ của xã hội xô viết.




Trong số các nhà văn Nga- xô viết viết sau 1945, J. Trifonov là người tôi cảm thấy đặc biệt gần gũi. Ông không phải loại tài năng sáng chói, nhưng nhờ kiên trì làm việc, trung thực với mình và với nền văn hóa Nga kỳ vĩ mà ông tiếp thu được, Trifonov đã có sự chuyển biến tư tưởng đáng kể, như một bước rẽ ngang thầm lặng. 

Sau tác phẩm đầu tay Những sinh viên, được giải thưởng Stalin 1951, ông đã trầm trầm lặng lẽ từ bỏ con đường phải đạo để làm lại mình. Những mảng mầu xám của đời sống xô viết mà ông vẽ ra dần dần dành được sự  tán thưởng thầm lặng của công chúng. 

Từ bên ngoài, chính là các nhà nghiên cứu Âu Mỹ cũng góp phần vào việc phát hiện ra ông và tôi đã bằng vào sự mách bảo của họ mà tìm được và yêu J.Trifonov, nhờ đó thêm gần gũi với văn học xô viết, -- cố nhiên là ở cái phần dòng ngầm của nó. 




***

 Trước 1975, ở Sài Gòn, các tạp chí văn học chủ yếu như Bách Khoa hoặc bán nguyệt san Văn
cũng thường dựa vào các tài liệu bên phương Tây để giới thiệu các nền văn học khác ngoài phương Tây, trong đó có văn học Nga xô viết. 

Trên đường tìm hiểu những dòng chảy ngầm của văn học xô viết, đây  cũng là một nguồn tài liệu mà tôi có may mắn phát hiện cho mình và liên tục tìm đọc.

Trước
tháng sáu 1972, lang thang trong các căn nhà đổ nát ở Quảng Trị sau khi các sư đoàn miền Bắc đánh vào thị xã, tôi tìm thấy một chồng lớn các số Văn, trước sau 1970, trong đó có một số dành đăng trọn vẹn bài Tự truyện viết sớm của Evtouchenko. Bài
báo được viết khi ông nhà thơ nghịch tử này qua thăm Pháp. Bản dịch là của Vũ Đình Lưu, một dịch giả  tới sau 1975 thì qua đời khi vượt biên.

Tôi
đã xé bài viết  trong số tạp chí Văn đó, đặt vào giữa đám quần áo trong
ba lô cóc. Mang về Hà Nội tôi cho đánh máy lại và đưa các bạn thân truyền tay
nhau.





Các nhà văn trẻ ở ta mới xuất hiện gần đây hầu như không biết gì về văn học xô viết, các bạn coi
là không cần, không đáng đọc. 

Riêng tôi lại thấy rất biết ơn những các thế hệ những kẻ nghịch tử trong văn học xô
viết mà tôi đã tiếp xúc qua sách báo. Nhờ họ mà tôi mới tìm ra con đường đi của mình.

Trên nguyên tắc tôi cho rằng, do quá khứ nặng nề của mình, chúng ta hôm nay muốn đến với văn học Anh Mỹ đi nữa, phải qua những trung gian như văn học Nga, văn học Trung quốc.

 Tối thiểu là phải biết nhìn vào họ, soi mình vào họ, rồi có làm gì hãy làm.

 Nhưng tôi biết chẳng ai chấp nhận con đường vòng đó.

 Đã mấy lần tôi định đưa lại Tự truyện viết sớm lên mạng, nhưng nghĩ rằng lúc này, hóa ra một việc lạc lõng, nên lại thôi.

                 

Phụ lục      Một truyện tiếu lâm xô viết

Trên
mấy báo mạng, trong đó có tờ Văn hóa Nghệ An, tháng 10 -11/2014, anh Lã Khắc Hòa vừa cho
in một số giai thoại có tính cách tiếu lâm về Stalin và sự chỉ đạo của Stalin với
văn học. 

Tôi nhớ một chuyện cũng liên quan đến đề tài này.




Một
lần Stalin tổ chức một cuộc gặp mặt với các nhà văn mới nổi, và đang được xem
là có triển vọng nên cần giúp đỡ.

 Người thứ nhất than phiền vì căn hộ chật hẹp.

 Người thứ hai báo cáo ông ta cần một chiếc ô-tô đi lạị giữa tờ báo  trong thành phố
ông ta làm việc, và cơ sở nông trang ông ta đang bám trụ, để theo đuổi những biến đổi của
nông thôn mới. 

 Người thứ ba ngần ngừ một
lúc rồi đề đạt nguyện vọng là muốn có một
chuyến tham quan học tập ở nước ngoài.

 Người thứ tư lại càng ngần ngừ hơn. Hỏi tại sao,
ông ta trả lời trong thổn thức:

    -- Thưa đồng chí Stalin, tôi có một nguyện vọng
quá lớn đến mức  không đủ dũng cảm để
trình bày với đồng chí.

     -- Nguyện vọng gì vậy?

    --- Cả đời tôi  chỉ mong có một cuốn Những vấn đề chủ nghĩa Lénin có chữ ký của tác giả. Tôi sẽ đặt nó
bên bàn viết. Tác phẩm sẽ soi sáng tư tưởng của tôi khi viết.

    Bốn người ra về. Nguyện vọng của hai người
đầu được đáp ứng lập tức. Người thứ ba—xin đi nước ngoài—sau một số kiểm tra,
cũng được thỏa mãn.



   Riêng người thứ tư thì -- đúng như nguyện vọng
mà ông đã khó nói nên lời -- được tặng một bản Những vấn đề chủ nghĩa Lénin, loại đặc
biệt có kèm thêm chữ ký của tác giả, tức là đồng chí J.Stalin kính mến.

   Ngoài ra, nhà văn thứ tư này còn được tặng thưởng kèm theo một chiếc ô-tô, một căn
hộ và một chuyến đi nước ngoài, nghĩa là bằng ba người trước cộng lại.





Trích Hồi ký
đang soạn

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 08, 2014 03:17

November 29, 2014

Mấy điều vân vi khi nhớ lại một lời ai điếu vay mượn

Hồi tướng Giáp qua đời, giáo sư Vũ Khiêu có
mấy câu khóc thảm thiết bằng văn chương, khiến nhiều người cảm động, trong đó có
đoạn:

“Sinh ra tôi là cha mẹ, hiểu biết tôi lại là anh. Tấm lòng tri ngộ ấy tôi biết
lấy gì báo đáp? Mấy hôm nay tôi ngồi khóc viết mấy lời trên, từ đỉnh trời cao
anh có thấu hiểu lòng tôi?”


Không hiểu sao lúc ấy tôi đọc đã ngờ ngợ, hình như cách nói này
mình đã được nghe ở đâu đó.

 Cho tới mấy hôm đi lục sách báo cũ ở
Sài Gòn, thấy có cuốn Thành ngữ điển tích của Diên Hương, nhxb Tổng Hợp Đồng
Tháp 1992, trong đó ở mục TRI KỶ có ghi lại mối tình bạn giữa hai nhân vật thời
Đông Chu bên Tầu là Bão Thúc Nha và Quản Trọng.

Bão Thúc Nha là người từ nhỏ đã buôn chung
với Quản Trọng sau lại là người giúp Quản Trọng rất nhiều trên đường công danh.

Tổng kết lại, Quản Trọng bảo “Cho nên ta
biết rằng sinh ra ta là cha mẹ ta, còn biết ta là Bão Tử mà thôi”.

Lúc lên mạng, ở mục Quản Trọng và Bão Thúc
Nha, thấy các bài đều có ghi lại mẩu chuyện trên và cái câu nói có cánh dẫn
trên. Đây là một địa chỉ:

.



                                                     Nhìn
sự việc dưới góc độ lịch sử văn hóa

Xin phép được bình luận thêm

1/ Đầu tiên  tôi chỉ nghĩ cụ giáo sư khinh bọn hậu sinh quá. Sau nghĩ thế là cụ khinh thường cả cái dư luận ở xứ mình, nên cũng không lấy gì làm buồn nữa.

Rồi nghĩ tiếp “Tài liệu trên mạng còn ghi Vũ Khiêu sinh
1916. Ở tuổi ấy, người ta đã già, dễ quên, dễ lẫn”.  Có
thể nêu một giả thiết như thế về lời ai điếu ở trên chăng?


Cũng đã tuổi ngoại bẩy mươi, tôi muốn chúng ta 
cùng có một cái nhìn  thông cảm như
vậy.



Còn như, nếu xét về lý, trong trường hợp này, phải
quy trách nhiệm của  cả giới làm văn làm
báo nước ta. Lẽ nào trong việc công bố một ý tưởng như trên vừa dẫn các nhà
biên tập ở đài ở báo đều vô can?

Rộng hơn trường hợp Vũ Khiêu, cần phải nghĩ
chung về các bậc thầy văn hóa VN hôm nay. Cả họ nữa, họ cũng phải chịu trách
nhiệm về những dốt nát và vay mượn của các thế hệ tiếp theo.





Từ xưa đã thế, nhiều người Trung quốc, ở cả
đại lục lẫn hải ngoại, rất giỏi tiếng Việt và thường xuyên theo dõi sinh hoạt
tinh thần ở VN. Anh Tạ Ngọc Liễn ở Viện Sử có lần nói với tôi là riêng ở Đại
học Trịnh Châu tỉnh Hà Nam (một tỉnh có các thành phố kinh đô cổ Lạc Dương và
Khai Phong), đã có khoảng 500 nhà nghiên cứu Trung quốc chuyên về Việt Nam học.
Đọc những lời ai điếu loại như của Vũ Khiêu,
họ sẽ nghĩ về giới trí thức VN, và cả văn hóa VN xưa và nay ra sao? Liệu chúng
ta có đủ sức bác bỏ những kết luận của họ không?





2/
Cũng theo hướng suy diễn rộng ra một chút, tôi nhớ tới hai trường hợp. 

Một là
câu thơ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa của
Cao Bá Quát.

 Và hai là  bài ca dao Cày đồng đang buổi ban trưa

                                Mồ hôi thánh
thót như mưa ruộng cày 


                                Ai ơi bưng bát cơm đầy/

                                Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn
phần.


Khi có người tố lên rằng
thật ra đó là những câu thơ Trung Hoa cổ được vay mượn nguyên văn hoặc được dịch
lại, thì nhiều người lý sự thế này:

-- cỡ như Cao Bá Quát
không thể có chuyện vay mượn được.

-- nông thôn Việt Nam
là thành lũy của tinh thần phi Hán hóa ở người Việt, không thể có chuyện ca dao
về làm ruộng lại dịch từ Trung quốc được.

May quá có thêm trường
hợp Vũ Khiêu. Đến trong thời đại kỹ thuật tra cứu phát triển như hiện nay mà
còn có chuyện nhầm lẫn, thì nhìn vào người xưa, có thấy điều tương tự, cũng
không phải lạ.




Anh Dương Trung Quốc có
lần bảo tôi, thời phong kiến, có
hai thứ hàng các vị quan chức( = các trí thức lớn của đất nước) đi sứ được mang
về là sách và thuốc.

 Nhưng nhớ có lần đọc Đại
Việt sử ký toàn thư
, thấy có chuyện có mấy cuốn sách sứ Tầu mang biếu, vua
cho các quan mượn xem, có nhiều ông giữ lại luôn làm của riêng. Chắc về làm tài
liệu để chọe nhau.

(Lúc này tôi không tra cứu kịp để ghi lại số trang Đại Việt sử ký toàn thư có chép chi tiết
trên, xin hẹn dịp khác).




Trong văn học hiện đại,
nhà văn Nguyễn Đình Thi của chúng tôi nổi tiếng là người thông thạo văn hóa thế
giới, mỗi lần nghĩ tới ông tôi cứ thấy xấu hổ cho các thế hệ về sau.

 Nhưng trong
một lần hơi say say, nhà văn Kim Lân nói với tôi về ông Thi:

-- Ừ thì người anh em ăn
nói viết lách Tây cũng phải chịu thật. Nhưng tôi ngờ là có khối thứ bố ấy đọc,
bố ấy khoắng luôn, rồi đưa vào thơ vào truyện. Bố ai biết được ma ăn cỗ.



Tôi không rõ đầu đuôi
thế nào, chỉ nhân câu chuyện về Vũ Khiêu nên chép lại ở đây. 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 29, 2014 19:29

Mấy nét sơ lược về ý niệm thời gian ở chúng ta hôm nay

Cái
đồng hồ của người Việt Nam
là tên một bài báo của Phan Khôi in trên Phụ nữ
tân văn
1931. Trong bài viết ấy, nhà báo họ Phan cho rằng nhiều người hồi
bấy giờ dùng đồng hồ chẳng qua bắt chước người Âu - Mỹ để trưng diện ra cho đẹp, chứ
chẳng mấy khi coi giờ: nói chung, với người Việt Nam đầu thế kỷ XX thì giờ ( = thời gian ) không phải là
chuyện đáng để ý, ai ai cũng một tâm lý cơm vua ngày trời, được đến đâu hay đến
đấy.

thời
gian của sự bình lặng, thời gian tính bằng tháng năm


Những
nhận xét của ông nhà báo nổi tiếng là gàn bởi hay nói thẳng này không phải là
vô lý.

 Sự bình lặng là đặc điểm chủ yếu làm nên nhịp
sống của xã hội Việt Nam thời trung đại và nó cũng còn kéo dài cho đến thời
Pháp thuộc.


Trong
hoàn cảnh một nền kinh tế tiểu nông, sự làm ăn trông chờ cả vào mưa thuận gió
hoà, người ta không thể nào có được một thái độ tự giác về thời gian, như ở các
nước công nghiệp phát triển. Ngày tháng trôi qua đều đều, hôm qua đã vậy, mà
mai đây cũng vậy, năm trước là hình ảnh gợi ý của năm sau.

Cảm
giác này còn thấy rõ khi đọc lại nhiều tác phẩm văn chương tiền chiến. Chẳng
hạn, trong Cô hàng xén, Thạch Lam ghi lại ý nghĩ của cô Tâm. “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu
kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi: chịu khó, chịu khó, từng
tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi, Tâm thấy ngày
nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng
chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều nhau
”.

Còn
trong Hai đứa trẻ, tác giả cũng phác ra cho thấy cả một nhịp sống chậm
chạp, con người lấy việc làm theo nếp ngày hôm qua là chuyện tự nhiên. Thời
gian đi qua, nó không để lại dấu ấn gì rõ rệt ngoài lời hứa hẹn rằng tương lai
vẫn thế.

Xét
về tầm vóc lớn lao và mức độ tác động tới xã hội, thì cuộc Cách mạng tháng Tám
và hai cuộc kháng chiến tiếp theo là những sự kiến lớn làm thay đổi cả hướng đi
của lịch sử dân tộc.

Thế
nhưng điều kỳ lạ là ở chỗ con người làm nên những biến chuyển đó bằng một tâm
lý rất thoải mái. Khẩu hiệu trường kỳ kháng chiến thấm vào tâm thức mọi người.
Sự từ tốn bền bỉ được khai thác để chống lại sức mạnh của máy bay trọng pháo.
Ngành nào cũng có những người đi bộ hàng tháng trời từ khu Bốn, khu Năm ra Việt
Bắc họp, rồi lại đi bộ hàng tháng trời trở về công tác bình thường.

Thời
gian lúc ấy hình như tính bằng năm tháng chứ không tính bằng giây phút.

Cho đến thời kỳ chống Mỹ, tâm lý
đó vẫn còn phổ biến. Tôi nhớ có lần cánh phóng viên chiến trường bọn tôi từ mặt
trận B5 qua trạm T.70 miền Tây Vĩnh Linh đi bộ ra Hà Nội. Chúng tôi hoàn toàn
hiểu rằng đoạn đường mà sau này tính lại, đi mất gần một tháng - cánh lái xe
giỏi chỉ đi trong một ngày.


để quên đi những mệt nhọc trên đường, chỉ còn có cách đùa bỡn:

-
Gớm cái “nước” Quảng Bình này rộng quá, đi mấy ngày không hết!

-
Có lẽ tới đây cũng phải mất từng ấy ngày để qua “nước” Nghệ An rồi mới sang
“nước” Thanh Hoá.


một lý do khiến cho ngày ấy, không ai cảm thấy sốt ruột: ai cũng tính được là
có về đến Hà Nội thì vẫn sống theo một nhịp điệu nhẩn nha như vậy.

Đại
khái xếp hàng mua gạo cho gia đình mất cả buổi sáng là chuyện thường tình, mà
nếu không xếp hàng thì cũng chỉ ngồi họp hoặc đọc báo. Hà Nội hồi những năm
chiến tranh và cả chục năm sau đó là một thành phố rất thanh vắng, xe bò còn là
phương tiện vận tải được phép lưu thông ngay trên một số phố chính, và những
đôi tình nhân có thể đạp xe thong thả trò chuyện với nhau trên đường mà không
sợ làm phiền đến ai cả.

Quả
thực, giờ đây nghĩ lại, bên cạnh một thoáng cười mỉm về cái thuở ấu trĩ đã qua,
nhiều người vẫn không khỏi thèm nhớ sự thanh thản không biết vội của thời ấy.

thời gian nay là
tiền bạc ; hối hả, chụp giật, nhưng...


Bước
sang thời phát triển hỗn hào hiện nay, cuộc sống đã trở thành khác.

Một
nhịp điệu khác hình thành.


một ý niệm khác về thời gian chi phối.

Báo
chí đưa tin Việt Nam trở thành một trong những nước tiến nhanh nhất trong việc
tăng số máy điện thoại trên đầu dân.

Nhìn
ra ngoài đường, vai trò của cái xe đạp hôm qua nay thuộc về cái xe máy mà tốc
độ, trên lý thuyết, có thể gần ngang với ô-tô. Không chỉ khách nước ngoài phàn
nàn, mà cả người trong nước, nhất là những người già, cũng đang e ngại về nỗi
xe máy ở ta đi cả trên vỉa hè và thường phóng nhanh đi sát tới chỗ gây tai nạn.
Ở nhiều ngã tư rất dễ bắt gặp cảnh xe máy cố vượt lên khi tín hiệu đèn đỏ đã
bật: với nhiều người, chưa bao giờ thời gian trở nên bức xúc như bây giờ!

Từ
chỗ là một thứ của kho vô tận và thuộc về mọi người, như khí trời, như nước
sạch, nay thời gian đã trở thành một thứ sở hữu cá nhân, nó được ý thức như một
giá trị to lớn và là ngọn nguồn của mọi giá trị khác. Cái câu cổ nhân xưa từng
nói thì giờ là tiền bạc, nay nhiều người mới thật thấm thía.

Tuy
nhiên, sẽ là vội vàng nếu như nói rằng một ý thức hoàn toàn mới về thời gian đã
ngự trị. Tốc độ cho phép của xe máy lên tới 50-60 km, nhưng ở thành phố, xe chỉ
chạy khoảng 20-30km gì đấy.

 Từng người cố đi nhanh nhưng sự vận động của
cả khối người trên đường chẳng hơn xưa là bao.

 Vả chăng nhiều người phóng xe máy như điên,
chẳng qua chỉ cốt để kịp có mặt trong một bữa nhậu, hoặc một buổi họp nhạt
nhẽo, và giá theo dõi một thanh niên luồn lách trên đường, vượt cả đèn đỏ ngã
tư, lát sau sẽ thấy anh ta ngồi hàng tiếng đồng hồ trong quán karaokê.

Sự chuyển pha còn dang dở: hiểu rằng thời gian là quý nhưng làm sao để
biến thời gian ấy thành giá trị thực sự, nhiều người vẫn không biết.


Nay
là lúc thấy thịnh hành ở cả giới buôn bán lẫn giới lao động trí óc (chẳng hạn,
các nhà sáng tác văn chương hoặc các cán bộ nghiên cứu khoa học) một lối làm ăn
tạm gọi là chụp giật. Hàng ngày chơi dài, chỉ thỉnh thoảng mới bắt tay vào
việc, song đã làm là tốc chiến tốc thắng, làm ù một cái cho xong.

Hãy
nhớ lại thời xưa, có những người cả đời chỉ theo đuổi một công việc chuyên môn
nào đó, và họ kiên trì làm đến cùng.


cảm tưởng như họ cầm nắm được thời gian, cảm nghe được sự liên tục của nó, biết
hướng mình sống hoà thuận với nó. Nói như cách nói của sách vở: họ tin rằng
thời gian ủng hộ họ.

Cảm
giác ấy, niềm tin ấy, nhiều người ngày nay không có!.

thời
gian và đời sống tinh thần của xã hội


Nếu
như ở mỗi cá nhân, ý niệm về thời gian chủ yếu liên quan đến việc sử dụng ngày
tháng sao cho hữu hiệu, thì xét ở phạm vi cộng đồng, điều này chủ yếu bộc lộ
qua ý niệm về quá khứ hiện tại và tương lai mà cộng đồng đó đã và sẽ sống, từ
đó toát lên quan niệm về sự phát triển của bản thân cộng đồng trong quá trình
lịch sử.

Đây
là một vấn đề quá lớn, trong phạm vi của mình, chúng tôi chỉ xin nêu một nhận
xét nhỏ:

--
với người Việt hôm nay, thời gian vẫn đang được đơn thuần xem như một sự kéo
dài liên tục, hiện tại là sự kéo dài của quá khứ, và tương lai là sự kéo dài
của hiện tại.

--
Quá khứ chỉ được xác định một lần và cứ
thế mãi mãi tồn tại
. Trong đời sống tinh thần chung của xã hội, cả quá khứ
gần (thời chống Pháp chống Mỹ) lẫn quá khứ xa xưa (thời Hùng Vương hoặc thời Lý
Trần) luôn luôn có mặt, nó đem lại cho hiện tại vừng hào quang sức nặng và lòng
tự tin và nó sẽ là nhân tố chủ yếu quy định tương lai.

        - Ơi kháng chiến! Mười
năm qua như ngọn lửa,


         Nghìn năm sau còn đủ sức
soi đường.


                                                             Chế
Lan Viên

Chính
trên cái mạch nghĩ chung ấy, quá khứ thường được hình dung bằng những phạm trù
giống như hiện tại, và nếu như trong các sáng tác văn nghệ, những anh hùng dân
tộc trong quá khứ có suy nghĩ nói năng hệt như con người thế kỷ XX thì cũng là
điều dễ hiểu.

Khó
mà tìm được một tiêu chí khắc hoạ đầy dủ bản chất của văn hoá, như khái niệm
thời gian. Trong khái niệm ấy, thấy thể hiện đầy đủ cảm quan của thời đại về
thế giới, hành vi và ý thức của con người, nhịp điệu của cuộc sống”.


 Một nhà nghiên cứu văn hoá người Nga, ông
A.Ju.Gurevich trong cuốn Những phạm trù văn hoá trung thế kỷ (đã có bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc Hiến, nhưng chưa bao giờ được giới nghiên cứu khoa học xã hội ở ta xem trọng)  đã rất có
lý khi viết như vậy.

Do
chỗ ý niệm về thời gian liên quan đến văn hoá, nên chúng ta hiểu tại sao nhiều
người nước ngoài đến Việt Nam có ngay nhận xét về cách sử dụng thời gian của
người Việt.

 Xu hướng chung ở đây là họ - nhất là người ở các nước Tây Âu - tỏ
ra khó thích ứng với cái kiểu tuỳ tiện “gặp đâu hay đấy”, “nước đến chân mới
nhảy” của chúng ta. 

Nhưng gần đây, cũng đã bắt đầu thấy có xu hướng ngược lại.
Một hoạ sĩ người Đức kể lại rằng lúc đầu mới học làm sơn mài, bà thấy quá nặng
nhọc vì phải kiên nhẫn chờ đợi và đặc biệt phải nhạy cảm với những thay đổi bất
ngờ của màu sắc. Mãi sau bà mới phát hiện: qua quá trình lao động khá đơn điệu
đó, bà có điều kiện để “thấy thời gian thực sự là hiện hữu”. Đi xa hơn một bước
nữa, người phụ nữ này còn lấy cách nhìn của người Việt Nam hiện thời để quay
lại đánh giá cách sử dụng thời gian ở phương Tây. Bà tâm sự: “Sau khi được sống
trong một cuộc sống đầy màu sắc sinh động ở Hà Nội, chúng tôi cũng cảm thấy sẽ
có phần nào tẻ nhạt nếu trở lại những thành phố quê hương với lối sống quá công
nghiệp, quá khắc nghiệt về thời gian. Ở đó thậm chí chúng tôi chẳng có đủ thì
giờ quan tâm tới cái chết của người thân quen nữa”. (xem báo Thể thao và văn
hoá
, số ra 24.11.2000).

Qua
người mà hiểu mình, cái quy luật có tính chất chủ đạo ấy trong nghiên cứu văn
hoá lần này lại được chứng nghiệm. Chép lại mẩu chuyện này ở đây, chúng tôi
chưa dám nói ngay rằng nhận xét của người hoạ sĩ kia đã chính xác hay chưa mà
chỉ nhằm lưu ý là chúng ta cần phải lắng nghe, phải đối chiếu so sánh rất
nhiều, phải biết thêm những cách nhìn khác về chính mình, thì mới đi tới chỗ tự
nhận thức một cách chính xác.

 Trên báo Ngày nay số ra 12.9.1937, nhà
văn Thạch Lam trong một bài báo ngắn, sau khi kể lại rằng một người Pháp rất
khen tục thờ cúng ở ta, đã nói thêm “ cái đó là tuỳ ông thôi, còn chúng tôi,
chúng tôi thấy chúng tôi quá trọng người chết, quên hẳn mất việc sống (...)
chen chúc nhau mà chết đói chứ không chịu đi đến những nơi khác để chen vai
thích cánh với người ta”.



đây, nhân bàn về một ý kiến người ngoài, Thạch Lam đã bắt đầu nhìn ra cái “thời gian lớn” là chuyện sống chết, và xem mục đích sử dụng là một trong những dấu hiệu làm nên ý niệm thời gian của một cộng đồng … Nhưng câu chuyện đã  chuyển  sang phạm vi triết học, chúng tôi chỉ
ghi lại như trên mà chưa biết bao giờ đủ sức để bàn tiếp.







Vốn là bài SỰ  CHUYỂN PHA CÒN DANG DỞ,



  in trong Nhân
nào quả ấy
 H. 2004 , có viết lại mấy
câu cuối.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 29, 2014 01:29

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.