Vương Trí Nhàn's Blog, page 66

May 18, 2015

Mai Thảo - khao khát và bất lực

Tìm lại Mai Thảo qua một số bài viết trên Sáng tạo, 
Khởi hành , Vấn đề





 Khoảng
những năm 73-74, kho báo chí văn nghệ Sài Gòn ở Thư viện quân đội  Hà Nội chỉ có hai tạp chí Bách khoaVăn, vì thế văn học miền Nam với tôi lúc ấy chủ yếu là Nguyễn Hiến Lê,
Võ Phiến, Vũ Hạnh, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác, Ngụy Ngữ, Trần Thị Ng.H...


Tới mấy tháng hè 1976, khi
vào Sài Gòn tìm lại báo cũ ở một kho Thư viện… tôi mới có dịp đọc rộng hơn. Đọc
Khởi hànhThời tập, làm quen với Vũ Khắc Khoan, Viên Linh, Nguyễn Nhật Duật, Cao
Huy Khanh. Trở lại Sáng tạoNghệ thuật, biết thêm các tác giả lớp
trước, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp.

 Mai Thảo 1973-75 là một cái gì đã thành hình
và lẫn đi giữa những người khác. Một người từ xa nhìn vào và chỉ đọc lõm bõm như
tôi không có ấn tượng gì rõ rệt.

 Nhưng trở về thời 1968-70, nhất là đặt ông
trong cái mạch chung văn học miền Nam “thời kỳ góp đá”, mới thấy Mai Thảo rõ
hơn.


        Đọc ông ở Hà Nội trong chiến tranh - tức là
đọc trong ám ảnh của tiếng súng, các đợt đi B, các chiến dịch-- điều mà tôi cảm
thấy rõ nhất chỉ là những tiếng nói gay gắt của con người trước sự xô đẩy của
hoàn cảnh, nó là một thứ phản ứng của người ta trước tình hình thời sự.

       Với những gì đọc được về sau thì không chỉ có
thế.

     Cộng thêm với những hiểu biết về các
tác giả nữ Nhã Ca, Thụy Vũ, Trùng Dương, cộng thêm với những tác giả không
thuộc nhóm phái nào rõ rệt như Nhật Tiến, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, hoặc lùi về trước cả Vũ Bằng…, tôi nhận ra
là  có cả một nền văn học mà người ta đã đặt
vào đó nhiều tâm huyết để dày công xây dựng. Người ta đã học hỏi, đã chăm chỉ
viết lách và trước khi chán chường xoay ra đùa bỡn, người ta vẫn làm được một
cái gì đó ở cái mức tối ưu mà hoàn cảnh cho phép.

Riêng về sáng tác, thú thực là tôi không thấy
hấp dẫn bởi một cuốn tiểu thuyết nào của Mai Thảo.

 Nhà phê bình Thụy Khuê có lần cho biết là tác giả Để tưởng nhớ mùi hương thường chẳng giữ lại bất cứ cuốn
sách nào, lý do tôi hiểu chính là ở cái quan niệm về người làm nghề của ông
cũng như cách ông tự đánh giá mình. Hình như bốn năm chục cuốn tiểu thuyết ông
chỉ viết cho vui, viết để lấp đầy những trang báo mà ông tham gia chủ trì mà
cũng là cái cớ để đi lại với bạn bè.

Sự có mặt của ông hiện ra theo
một cách khác. Những tùy bút của Mai Thảo, các bài viết có tính tuyên ngôn các
bài viết về bạn bè của ông thì tuyệt. Tuyệt cả trong những ý tưởng nồng nhiệt
về việc xây dựng một nền văn nghệ lẫn lối hành văn lôi cuốn, cứ như kéo người
ta vào với trang viết.

Tôi cảm thấy phải gọi Mai
Thảo là một nhà hoạt động văn học hàng đầu mới đúng. Ông là người cầm cờ, nhà đạo diễn. Ông sống chân tình kỹ
lưỡng với những đồng nghiệp. Lại có thể nói, với đời sống văn học thời ấy, đó là “đầu tầu’ (chữ của Thụy Khuê) là một
thứ sếp sòng một thứ ông chủ.

 Vào thời điểm tất cả còn đang nhộn nhạo và
lòng người thì đang phân tán, con người từng trải lịch lãm ấy đứng đó để bày tỏ
quan niệm và hướng dẫn  thúc đẩy đồng
nghiệp mỗi người một việc. Sau những ngày sống  bơ vơ và nhiều mặc cảm tại Hà Nội trước 1954,
nay những người như ông đàng hoàng cảm thấy có một trường hoạt động mới và muốn
chung tay xây dựng một nền văn nghệ mới.

 Phóng về
phía trước, kiến thiết xây dựng làm ra chính mình và một nền văn nghệ của mình
…ông
tạo ra cả một khí hậu cho nhiệt tình cho ham muốn. Phải làm vậy, phải làm những
việc mà ông bảo là Hà Nội đáng làm mà lại không làm. Có lần Mai Thảo  viết thẳng trên trên Sáng tạo  là hãy lo tạo
ra  Sài
Gòn  thủ đô văn hóa Việt Nam
.

 Và Mai Thảo có đủ cả nhiệt tình lẫn kiến thức
làm việc đó. Con mắt ông nhìn thấu tiền chiến lại nhìn rộng ra tương lai. Cái
đích mà ông muốn hướng tới thì cao đẹp ngang tầm lịch sử.

      Đến
thời kỳ sau, thời thế chẳng được như ý muốn, Mai Thảo lại là người nói hay nhất
về những cay đắng bất mãn bất lực mà con người miền Nam lúc ấy nhất là các văn
nghệ sĩ tâm huyết phải chịu. Trong cái việc bơi ngược dòng đời con người ấy vẫn
giữ nguyên khí phách và sự sáng suốt.

       Kể cả những con người ở những phương
trời  khác vẫn có thể tìm thấy ở Mai Thảo
những bài học về việc làm người một cách tích cực.

    

      Một sức ám ảnh nữa của Mai Thảo đối với tôi
đến từ bút pháp của ông, dấu ấn của một người Hà Nội.

     Cuối 1976 tôi có may mắn được
gặp Nguyễn Hiến Lê (do Nguyễn Mộng Giác dẫn tới). Nhân hỏi ông Nguyễn về đủ chuyện nghề nghiệp,
tôi cũng nhân dịp  bầy tỏ sự khâm phục về
đặc sắc của các cây bút miền Nam. Và tôi không khỏi đả động tới Mai Thảo,
cái hơi văn mãnh liệt, những đoạn văn chất ngất cảm xúc và cái cú pháp trùng
điệp của Mai Thảo. Khi đọc nhà văn này, những cảm giác về một Hà Nội hào hoa lịch
sự và cả đàng điếm nữa, luôn trở lại trong tôi. Nên dùng chữ gì để tả cái bút
pháp ấy – tôi mang câu hỏi vẫn đặt ra cho mình ra hỏi ông Nguyễn:

-     
Thưa bác liệu có
thể  dùng chữ kiêu sa?

-     
Được có thể được.

So với cái bút pháp tối xám
và cái giọng văn có vẻ hơi khô khan  như Cát lầy của Thanh Tâm Tuyền thì cái hồn
hển nhiệt tình và cả cái bay bướm làm dáng của Mai Thảo có vẻ như không được
hiện đại lắm. Nó nhiều lời quá nồng nã quá. Nó gợi nhớ tới một cách nói chanh
chua điệu đàng như ở Nguyễn Tuân ngày nào. Giữa thời chiến nó là cái gì lạc
lõng. Nó đã lỗi mốt.  Nhưng có hề gì. Nhờ
thế người ta lại không quên được Mai Thảo, thế là được rồi.

Mươi năm gần đây, các đồng nghiệp
trẻ của tôi bên Viện văn học  và các
trường đại học say lý luận khi tìm cách thoát ra giọng văn quê mùa và cái khô
cứng một thời thường ngong ngóng hướng về các thứ lý luận phương Tây.  Hướng về văn học Sài Gòn, các bạn để hết tâm trí
vào cách tân nghệ thuật của các nhà văn trong ấy. Thanh Tâm Tuyền  chẳng hạn, trở thành một kho tàng vô giá. Và
cây bút của Dzư Văn Tâm xứng với  điều
đó.

 Phần tôi, tìm về văn học miền Nam nói chung, tôi
thấy gần gũi hơn ở cái ý thức làm người ý thức làm nghề của các nhà văn trong
ấy. Luôn luôn tôi nhìn các nhà văn SG trước 1975 như là một sự nối dài của cái
thời tiền chiến huy hoàng.

Trong đời làm nghề cũng
nhiều cay đắng buồn phiền của mình, tôi sẵn sàng đọc đi đọc lại những đoạn văn
hay nhất của Mai Thảo. Tôi tìm thấy ông một trong những định nghĩa về nghề văn
ở VN mà bọn tôi luôn luôn kiếm tìm. Có thể người ta có một thứ năng khiếu trời
phú nào đó có thể không, nhưng để làm nghề này, người ta phải biết khao khát,
phải có mong mỏi. Phải say, phải muốn. Nồng nhiệt khôn cùng. Bao nhiêu cũng là
không đủ. Và trước đó, phải biết thật nhiều, biết cái hơn cái kém của những
người đi trước mình cùng là cái mạnh cái yếu của chính mình. Giữa cái thời của
những người đọc bận bịu, sẵn sàng phủi tay rời bỏ trang sách, phải có cái giọng
văn níu kéo người ta lại để người ta không thờ ơ bỏ qua những trang viết của mình. Phải viết như xiết
ngòi bút trên trang giấy và để lại một vết hằn lên trong văn học. Mai Thảo là
thế.







Những đoạn văn sau đây
là  trích ra  từ những ghi chép trong  sổ tay khi đọc Sáng tạo Nghệ thuật Vấn đề…  ở một thư viện Sài gòn mà trên đây đã kể.

Xuất xứ không đầy đủ. Đôi
khi có thể là một hai câu chữ không chính xác.



Ba mươi chín năm trước,
trong hoàn cảnh đơn độc của một người mới tới một thành phố xa lạ và làm cái
công việc thuộc loại không được phép, tôi tránh sao khỏi những  giây phút bao gồm sợ hãi, ngại ngần lúng túng
và cả tự ngờ vực nữa. Nhưng tôi còn nhớ những trang viết của những nhà văn trên
Sáng tạo, Nghệ thuật, Khởi hành Thờ tập ,
Vấn đề…
đã giữ cho tôi bình tĩnh trở lại. Nên mặc dầu là những trang  tôi chép ngày ấy còn khá nhiều lỗi, song khi
đọc lại, tôi tin là cái hơi văn của những ngòi bút như Mai Thảo thì tôi vẫn giữ
được. Công việc tạm thời chỉ là sơ bộ chỉnh lý lại và đặt cho các đoạn văn ấy
những đầu đề  ngắn gọn.




                                               NHỮNG
PHÁC HỌA CHÂN DUNG

 Thói quen nhìn thấy Mai Thảo xuất hiện trên
trang báo nào phải cố tìm đọc ngay đến với tôi bắt đầu từ những chân dung các
đồng nghiệp mà ông phác họa.             




Về Vũ Khắc Khoan






Vũ Khắc Khoan. Một mái tóc đã chiều của một tâm hồn
còn sớm. Những buổi chiều Sài Gòn buồn bã. Những buổi chiều Đà Lạt mù sương.
Mỗi ngày qua thêm một sợi bạc. Âm thầm đe doạ, lặng lẽ tràn đầy. Ly rượu nửa
khuya là ly thứ mấy. Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu. Muốn một thời đại hoàng
kim. Thêm một tấm lòng bè bạn. Mỗi cơn say là một cảm khái ngà ngà, Vũ Khắc
Khoan! Của một tự hỏi, tự hoài nghi và tự bâng khuâng lắm lắm về cái bình sinh
mà mình chưa đạt. Ta đã dùng chi đời ta chưa?


Ai đã dùng chi đời ta chưa?

       
 Ngó ra cái chung, cái đại cuộc
cái toàn thể, nhìn trở vào cái riêng tây, rừng ấy mung lung, núi ấy chập chờn,
nghe từng phiến đá tâm linh rụng dần những giấc mơ không thành tựu. Và tôi, một
trong ít những người bạn của Vũ Khắc Khoan, tôi muốn nhìn ngắm anh như một cần
thiết. Trong cuộc sống hàng ngày thôi, có rất nhiều những giờ phút buồn bã của
chúng tôi có Vũ, người ta nhớ thêm được những điều đáng nhớ, quên mau được
những điều đáng quên và cuộc đời xem được là nhẹ hơn hoặc với đời là nặng hơn
cái trọng lượng tầm thường và phí lý của nó.





 Cả về con người lẫn tư tưởng của Vũ Khắc Khoan
đến bây giờ, tôi cũng chưa đọc gì và hiểu gì. Nhưng đọc đoạn văn trên, tôi thấy
gần ngay với Vũ Khắc Khoan như đã thấy gần Mai Thảo.










Về Trần Huyền Trân






                         Phượng  hoàng
gẫy cánh
.

Đời sống của những người viết văn chúng ta là cái hình
ảnh đó của một vụ mùa những hạt giống sớm, những nhánh mạ đầu có thể rất non
xanh, những mùa nửa chừng mùa, không rực rỡ vàng thành cái nườm nượp mênh mông
cánh đồng lúa chín. Người viết tích luỹ vào hồn mình một vốn sống đầy như biển
đầy, nhưng cái vốn sống kia chưa thể buông thành một ngọn triều vượt thoát khỏi
những bến bờ nội giới, tiếng nói đã tắt, cây bút đã rơi, tròng mắt đã khép, hơi
thở đã đứt, người viết đã chết. Thực tế của người viết đất Việt là một thực tế
mẹ kiếp. Muốn chửi thề. Muốn văng tục. Muốn nhỏ lệ.





Thuế sống rồi con đóng nặng nề

Rồi con viết mướn hay may thuê

Tìm đâu nương náu đi đâu thoát.

Hay sớm lang thang tối ngủ hè





Trần Huyền Trân không tìm được nương náu ở đâu hết.
Không đi đâu thoát hết. Kẻ thù của những người viết văn đất Việt không thoả
hiệp trước hết là thực tế khốn nạn quật đập tàn nhẫn, và thực tế đắc thắng ngửa
cổ cất cao điệu cười khả ố mất dạy. Hai năm nay tôi tìm tài liệu viết cho một
chương trình vô tuyến về thơ và con người Trần Huyền Trân mà không được. Lả tả
những đề tài vụn vặt. Một vài câu thơ, người này còn nhớ, dăm bảy câu khác
người nọ may quá chưa quên. Chỉ có thế. Một hành tinh lạc lõng bay vút qua một
vòm trời nhân thế lạnh lùng, một ánh lân tinh chìm, một vỗ cánh vào hư vô trắng
và trống và phẳng. Đó, những Trần Huyền Trân của chúng ta. Xâu chuỗi những sớm
khuất phi lý là một xâu chuỗi dằng dặc hứa hẹn nối dài, không có dấu dứt. Đời
ngắn quá chừng đời. Đời ngắn không thành đời. Khổng Dương. Leiba. Quách Thoại.
Nguyễn Nhược Pháp. Nhớ thêm nữa, đầu óc choáng váng sẽ chỉ còn là một chất ngất
mộ đầy. Hằng hà âm điệu vàng  ngọc chưa
kịp thoát bay ra ngoài cổ động chồng chồng giấy trắng mực đen có lửa, có hồn,
có đời sống bắt sóng được, có ngôn ngữ làm mới, có bút pháp làm chủ sẽ được
chuyên chở vào kho tàng văn học chúng ta. Nếu những Thoại, Dương, Pháp  kia được sống qua một mùa xuân kia, thêm một
mùa hạ ấy.








Thơ Trần Huyền Trân

Tiếng thơ
Trần Huyền Trân nhọn hoắt của một mũi nhọn ý thức đâm suốt vào hình hài dầy đặc
những ung nhọt rức buốt là xã hội tiền chiến.


Lên thang nghe gió như mưa
thầm

Gác trọ không đèn hết cố
nhân

Nhấc chén nghĩ khinh người
chiến quốc

Phù hoa thường đổi lấy tri
âm




Về Thâm Tâm

Thơ Thâm Tâm
không nhiều
nhưng bài
thơ nào mang trên Thâm Tâm cũng mang tên


Thời thế tối
xám


Phẫn nộ cao
lớn


Sầu hận ngút
ngàn


Cảm khái chất
ngất





Cười vang ném chén tan tành

Khoái nghe vỡ cái bất bình
thành thơ




Thơ Thâm Tâm
chính là sự ném vỡ thời thế khốn nạn.


Thâm Tâm sống

Ngạo nghễ mà
đau đớn


Trầm tĩnh mà
nung nấu.





Về Thạch Lam

… Không hiểu ở đâu, trong một truyện ngắn nào tôi nhớ
và yêu mãi câu văn này của Thạch Lam "
Chàng thấy mình bé quá và lại đi xa"



Thạch Lam đã đi xa. Và ngoài yêu mến cái bút pháp
chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến ấy hẳn muốn
nhận lấy câu văn này của Thạch Lam vào hồi tưởng, câu văn kết thúc một truyện
ngắn tả mối tình đầu như một loài hoa. 


Mỗi mùa, nàng lại cài một bông hoàng lan lên mái
tóc, để tưởng nhớ mùi hương.



(Còn tiếp)

















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 18, 2015 03:30

May 12, 2015

Lưu Quang Vũ và những bài thơ "viển vông cay đắng u buồn" viết trong những năm chiến tranh

Lời dẫn

 Năm 1993, Bầy ong trong đêm sâu  tập hợp những bài thơ Lưu Quang Vũ mà trước đó ít người biết tới  được xuất bản. 

Sở dĩ một tiếng nói mà suốt những năm chiến tranh bị vùi dập bị quên lãng nay được khôi phục, đó cũng là  nhờ vào uy tín của tác giả bên sân khấu. Thêm nữa, cái chết bất ngờ của Vũ và gia đình lại càng làm cho người ta muốn biết thêm về cả những bước đường đời đã qua.

Bản thân tôi có may mắn được viết ít dòng dùng làm lời bạt cho tập thơ. Bài bạt Lưu Quang Vũ và những bài thơ "viển vông cay đắng u buồn" viết trong những năm chiến tranh này  sau đó đã  đổi tên thành Lưu Quang Vũ và một mảng đời một mảng thơ thường bị quên lãng được đưa vào  tập Cây bút đời người 2002.      

Với bản thân tôi và một số bạn bè khác, chính ra, những vần thơ mà Lưu Quang Vũ làm không để đăng báo, làm cho riêng mình, làm trong lúc bĩ này  mới lại là phần sáng giá nhất trong sự nghiệp của anh. Năm 1993 tôi đã nghĩ thế và nay, 40 năm sau chiến tranh, vẫn nghĩ thế. 

Chúng tôi sẽ trở lại với đề tài này trong một bài viết tiếp.

                                                                                                                     



Trước
khi vùng vẫy tung hoành trên sân khấu, Lưu Quang Vũ đã được biết tới như một
người làm thơ. Ấy là một nhà thơ thuộc loại bẩm sinh, dễ dàng giãi bày mọi vui buồn
của mình trên trang giấy. Những lúc mở lòng ra chan hoà tâm tình với người
thân, với bè bạn, với cuộc đời, anh đã có thơ; những lúc buồn bã quay về một
mình đơn độc, anh lại cũng chỉ có cách tìm tới thơ để tự an ủi. Nhất là khoảng
từ đầu những năm 1970 trở đi, trong khi cuộc đời đa đoan phiền phức của mình
gặp nhiều khó khăn, Vũ đã làm thơ như ghi nhật ký, làm khá nhiều. Vì những
nguyên cớ khác nhau, các bài thơ hồi đó chưa được công bố, nhưng một số vẫn
được ghi trong sổ tay và nhất là đi về trong trí nhớ của bè bạn



Hôm
nay đây, đối diện với những bài thơ sống sót, những bài thơ từ cõi im lặng bước
ra ấy, tôi có cảm tưởng như được thấy lại những vật kỷ niệm của chính mình. Tôi
nhớ lại một thời Hà Nội và một thời văn nghệ mà mình và bạn bè đã chứng kiến,
đã sống. Quả thật là đặt bên cạnh những bài thơ đã biết, cả những bài rất hay
của thời chiến, thì những dòng thơ riêng tư của Vũ có được cái vẻ độc đáo không
gì thay thế được. Chúng – và những gì tương tự như chúng – là một phần cuộc đời
ta, vì lý do nào đó, có lúc ta đã phải lảng tránh, phải lãng quên, nhưng không
phải vì thế mà nên chối bỏ chúng mãi mãi! Ở đây chúng ta bắt gặp một Lưu Quang
Vũ khác với thông thường mọi người vẫn nghĩ. Vũ của dằn vặt, đau xót, lầm lỡ,
cô đơn, mà cũng là Vũ của những tha thiết muốn vượt lên trên mọi mệt mỏi, mọi
hoài nghi để sống, để tồn tại. Hai chặng khác nhau nhưng đều là của một con
người thống nhất.

*

* *

Những
bài thơ đầu tay của Lưu Quang Vũ được tập hợp lại thành phần Hương cây và
ra chung với Bếp lửa của Bằng Việt vào cuối năm 1968. Dù có
chóng quên đến đâu, thì những ai đã sống qua thời đó ở Hà Nội đều biết rằng đại
khái đó là thời mà mọi sinh hoạt còn rất đạm bạc, chẳng hạn, với một cán bộ nhà
nước, việc mua được chiếc xe đạp phải được xem là một việc lớn trong đời, và
chỉ những gia đình có máu mặt, mới có chiếc radio Melodia Liên
Xô nặng nề, hoặc chiếc Orionton của Hungary xách tay được để nghe
ca nhạc.

 Không thể tưởng tượng nổi là một tập thơ lúc ấy lại gây chấn động đến
như thế nào. 

Bọn tôi, một số anh em mới viết, muốn ướm thử đời mình vào nghề
văn, chúng tôi nghĩ rằng một tập sách, nó là cái danh thiếp tốt nhất, để người
ta tự giới thiệu với chung quanh, để khẳng định mình, để có bạn. 

Với
việc có một tập sách, chính là Vũ, cùng với Bằng Việt – trong Bếp lửa
Hương cây; cùng với Đỗ Chu – trong tập truyện ngắn Phù sa, – là
những bạn đầu tiên trong chúng tôi thành người. Thành nhà văn nhà thơ. Thành
tác giả. Thành tất cả những gì, mà chúng tôi hằng ao ước. Làm sao mà không cảm
động cho được!



Lúc
bấy giờ, nhà Vũ đã ở căn gác 96 phố Huế như hiện nay. Trong cảnh sơ tán, thành
phố những năm đầu mới chuyển sang thời chiến lại có vẻ thưa vắng đáng yêu riêng
của nó. Phố xá sạch sẽ. Người không phải chen với người. Dắt cái xe đạp qua
cổng, có thể khoá tạm rồi lên gác hai, không lo suy suyển gì hết. Giữa cái
không khí dễ chịu ấy, căn phòng của người làm thơ trẻ Lưu Quang Vũ là một tổ ấm
đích thực. Tôi nhớ đã gặp ở đấy rất nhiều người quen. Các bậc đàn anh: Trần
Việt Phương, Nguyễn Khải, Chính Hữu. Các bạn trẻ hơn, Nguyễn Xuân Thâm, Tạ Vũ,
Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn… Rồi Nghiêm Đa Văn, Quốc Anh ở khu Bốn ra,
Phạm Tiến Duật ở chiến trường về, Thi Hoàng ở Hải Phòng lên… 

Các bậc đàn anh
đến có việc mà cũng là để xem xem lớp trẻ ra sao. 

Còn các bạn làm thơ trẻ, thì
đến để gặp Vũ mà cũng là để gặp nhau, thời nào mà lớp trẻ chẳng ồn ào và thích
đi thành lũ thành bọn!

 Đám cưới Vũ – Tố Uyên chỉ gồm có ít bạn quen, mà sao vui
vẻ lạ! Trong trí nhớ của nhiều người, đám cưới ấy đồng nghĩa với hạnh phúc, thứ
hạnh phúc bé nhỏ và trong sáng, mà thời chiến còn dành cho chúng tôi. 

Với vẻ
mãn nguyện không che giấu, Vũ tận hưởng sự chiều đãi của mọi người chung quanh
và gửi gắm niềm tin yêu đời sống của mình vào những bài thơ bồi hồi “hương cây
hương đất”, thoang thoảng “lá bưởi lá chanh”:

Ta
đi giữ nước yêu thương lắm

Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình

Đọc
trong sự tha thiết của Vũ một vẻ gì rất thành thật, người ta đã tưởng tất cả Vũ
chỉ có vậy.

Nhưng
chúng tôi, đám bạn bè thường vẫn đàn đúm với nhau, biết nhau không chỉ qua thơ
mà cả những gì sau các câu thơ, chúng tôi sớm mang máng nhận ra rằng không hẳn
vậy. 

Mặc dù trẻ nhất “hội”, nhưng bên cạnh con người ngây thơ trong trắng, ở Vũ
còn có con người của thành thạo, từng trải. 

Từ nhỏ, trong gia đình, Vũ đã sống
hết với mọi ấm lạnh của giới văn nghệ. 

Cái nhìn của Vũ về sự đời vượt xa tầm
hiểu biết của một thanh niên 19-20 thông thường.



- Chuyện nhân thế nhờ em anh biết
được

Anh nhìn đời theo con mắt của em



- Hỡi em của anh em của anh chỉ em là còn lại

Trong hoàng hôn buồn bã của cuộc đời


Khi anh mất cả dòng thơ êm ái

Cả dòng đời cả tiếng nói niềm vui

Vì anh muốn tiếng yêu em anh nhắc lại

Tiếng mới đau sao khi thiếu mất em rồi




Những
câu thơ ấy là của L. Aragon và do các nhà thơ Tế Hanh, Nguyễn Viết Lãm dịch ra
tiếng Việt. Ở Hà Nội năm ấy, việc giới thiệu văn học nước ngoài còn rất hạn
chế, Aragon được dịch đã là may, chứ có ai để công kể với đám trẻ chúng tôi về
con người tác giả (vốn mang tiếng là phức tạp) hoặc giảng giải kỹ chung quanh
một ít câu thơ chứa chất những vui buồn của cả đời người như vậy.

 Một người
nông nổi như tôi đã bỏ qua những câu thơ sâu sắc ấy, để rồi mãi lúc được Vũ chỉ
cho, tôi mới ngớ ra vì sự khờ khạo của mình.

- Tôi thở ra làm nhiều người không
sống được

Giấc ngủ chừng khuấy động bởi âu lo

Hình như thơ tôi vang tiếng đồng tiếng sắt

Làm đứng lên những người chết trong mồ




Tôi nói tình yêu tình tôi làm các ông nhăn nhó

Tôi nói trời trong, các ông bảo trời mưa

Các ông nói đồng tôi nhiều hoa quá


Đêm tôi lắm sao trời tôi chẳng xanh vừa



- Tôi nghe tiếng gà trong cùng tận đau thương

Trong đổ nát tôi vẫn mang chiến thắng

Dù khoét mắt những vì sao xa vắng

Trong đêm dài tôi vẫn chói vừng dương




Aragon
là vậy, si mê, cuồng nhiệt, sẵn sàng gây sự thách thức mọi người. Aragon luôn
có chút gì đó quá đáng. Và, Vũ của chúng tôi, thường cũng quá đáng. Tôi có cảm
tưởng rằng sau giai đoạn thơ mộng (mang dấu vết của thơ tiền chiến), trong
những bài thơ đau đớn của Lưu Quang Vũ về sau, luôn luôn có cái âm hưởng mà
Aragon đã để lại trong tâm hồn anh.





không chỉ thơ, mà cả cuộc đời Vũ cũng giống như thơ Aragon, cũng là minh chứng
cho sự đa đoan phức tạp của cuộc đời, mặc dù lý do khiến cho có sự phức tạp ấy
thì khác hẳn.

Những
phiền toái đã đến với Vũ khá nhanh chóng, những phiền toái do lỡ lầm hư hỏng
của chính anh gây ra cũng có, mà do cái ngặt nghèo của hoàn cảnh cũng có.

Tôi
không nhớ thật rõ, nhưng hình như ngay vào khoảng đầu những năm 70, khi Vũ mới
22-23, trong đầu óc một số chúng tôi, cái hình ảnh mơ mộng của một nhà thơ được
ái mộ nơi anh đã nhoà đi gần hết. 

Thay vào đấy là hình ảnh một kẻ long đong
giữa cuộc đời vô định.

 Những hoang tưởng ngớ ngẩn đã đẩy Vũ đến chỗ vượt ra
khỏi những quy định thông thường mà một người làm thơ trẻ phải tuân thủ.

 Và Vũ
bị trả giá đích đáng.

 Báo chí không in thơ Vũ nữa. 

Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu
như lạc lõng giữa dòng người sôi nổi.



 Một điều khốn khổ nữa là chính lúc ấy,
cái gia đình riêng của Vũ cũng rạn vỡ. Nếu hồi trước với Lưu Quang Vũ, ngày nào
cũng là ngày vui, sau khi đèo người vợ mới cưới đi làm, chàng thi sĩ trẻ rẽ vào
một quán cà phê sang trọng, ngồi làm thơ, đến giờ lại rẽ lên Xưởng phim đón vợ
về, thì về sau, tất cả đã thay đổi. Nơi người ta thường gặp anh là những quán
nghèo “quán cà phê dưới gầm cầu xe lửa”, người con gái đi bên cạnh anh
là một cô bạn gày guộc “em gầy như huệ trắng xanh”, cô gái như hiện thân
của cuộc đời vất vả phiền phức mà Vũ không thể lìa bỏ. Và “phố Hạ Hồi bữa ấy
mưa rơi” – những ngày ấy sao mà trời hay mưa:

- Thành phố nghèo mù mịt những mưa
rơi

Cánh hoa nhoè trong mưa tơi tả

- Chiều nay bốn bề mưa xám

- Nay một mình trở lại ngoại ô mưa

- Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa

Xoá nhoà hết những điều em hứa.




Trong
các thi sĩ đương thời, Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai
hết. Ở anh, mưa cho thấy sự trôi qua của thời gian mà con người bất lực, không
sao níu kéo nổi. Mưa làm cho hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ
mờ, không xác định. Sở dĩ Vũ nói nhiều đến mưa vì cảm giác bao trùm trong anh
lúc này là ngán ngẩm, thất vọng, không tin vào điều gì, không biết hướng đời
mình vào việc gì.

- Thành phố thời anh 17 tuổi

Viển vông cay đắng u buồn


Tôi
còn nhớ rất rõ cái cảm tưởng nước đôi giày vò bản thân mình khi nghe những bài
thơ đó của Vũ: một mặt e ngại, cảm thấy nó đi ngược với tâm trạng chung, cái
lạc quan chung nên không cần ai bảo, đã thấy là không phải. Nhưng mặt khác lại
thích thú, cảm thấy ở đó có một phần vui buồn của mình nên tìm kiếm vụng trộm,
tán thành vụng trộm, thèm muốn trở lại với những dòng thơ đó, như thèm muốn
nhìn thấy chính hình ảnh của mình. 



Từ đầu 1970, cuộc sống Hà Nội đã bắt đầu phô
ra tất cả cái khó khăn phiền phức mà thời chiến phải có. Thành phố như một
người ngấm bệnh. Mỗi lần còi báo động, phố xá hiện ra đơn côi bé nhỏ đã đành,
ngay những lúc yên lành, thành phố tài hoa của chúng tôi cũng quá lầm lụi nhem
nhuốc. 

Các tường nhà lâu không quét lại, phô ra hết vẻ mốc meo. Những hầm cầu
thang trú ẩn tăm tối. Túp lều che tạm trên gác thượng, tơi tả trong gió. Chỉ có
trời mây trong xanh, nhưng trời mây xa xôi quá, có ích lợi gì đâu trong việc
giải quyết những việc lặt vặt hàng ngày!

 Đáng sợ hơn nữa là cũng do cuộc sống
khó khăn, những thói xấu cố hữu của con người như nhút nhát tham lam vụ lợi có
dịp thức dậy, càng giấu giếm càng đê tiện. Từ đủ mọi phía, hoài nghi len lỏi
tới, những hoài nghi đủ sức làm bủn rủn con người và không cho người ta vững
tâm làm việc gì cả. Thơ Vũ bắt lấy những cái đó rất nhanh. Từ hoàn cảnh riêng,
Vũ suy ra cả cuộc đời chung và diễn tả những tan nát đổ vỡ với tất cả cái đắm
đuối của tuổi trẻ. Chúng tôi đã thử tìm cách chống lại thứ thơ ấy. Chẳng phải là
đôi lúc, Vũ đã không khỏi có chút huênh hoang? Đã vay mượn chắp vá? Đã tố cái
khốn khó của mình lên? Đã rên rỉ nhiều hơn là kiên nhẫn chịu đựng và dìm nỗi
đau của mình trong nước lạnh? Chúng tôi biết cả.

 Nhưng tận trong thâm tâm, mỗi
người vẫn biết là có lòng mình, tâm trạng của mình ở trong những dòng thơ rách
xé đó. 

Vốn xa lạ với mọi thứ giáo huấn, dạy bảo, Vũ không hẳn cố ý làm lây
truyền cái nôn nao buồn bã của mình. Nhưng có lẽ chính vì thế mà tiếng kêu của
anh càng tội nghiệp. Nó giống như một tiếng nức nở.




đây, sở dĩ đôi lúc người viết bài này xưng “chúng tôi” bởi lẽ: do cái cái giọng
riêng độc đáo của những dòng Vũ viết lúc ấy, thơ anh đã được mang ra để anh em
bạn bè cùng lứa bàn bạc tranh cãi. Làm sao không luôn luôn nghĩ về nhau được
khi hàng ngày gặp gỡ chia sẻ mọi vui buồn, và hiểu nhau từ mọi chuyện nhỏ nhặt
trong gia đình đến những dự định ao ước lớn lao? Tôi nhớ một lần nào đó, Vũ
Quần Phương khái quát:

-
Nổi lên ở Vũ là một cái gì rất đau đớn, thấy cuộc đời cay cực mà vẫn yêu đời và
quyết bám lấy cuộc đời thô nhám này.

Xuân
Quỳnh – khi đó còn là một người hàng xóm, một đồng nghiệp – Xuân Quỳnh thông
cảm:

-
Giá kể Vũ thích một cái gì đó thì có thể Vũ cũng làm được. Đằng này Vũ không
thích gì hết, đấy mới là điều đáng sợ.

Với
bản tính chừng mực, đi sát với một quan niệm trung dung, Bằng Việt chép miệng:

-
Ông Vũ này, lúc chiều đời quá lúc khinh bạc quá, đều là không phải. Thực ra,
cuộc sống luôn luôn là một cái gì cân bằng, phải chăng…

Bàn
bạc vậy thôi, song các ý nghĩ đều để ngỏ, và một điều mà mọi người thường xót
xa trong lòng, khi nghĩ đến Vũ, là thấy Vũ già đi rất nhanh.



Dáng
người béo đậm, Vũ của tuổi 19, môi đỏ, má lông tơ, hiện thân của một tuổi thanh
xuân đầy thơ mộng. 

Nay bước sang tuổi 20 - tuổi hai mươi khốn khổ của
tôi ơi / Tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài; trong một bài thơ nào đó,
hình như nay đã thất lạc, Vũ viết vậy – bước sang tuổi 20, giờ đây người anh
đanh lại, xạm đi, trên nét mặt nhiều khoảng tối u uất. Lúc nào Vũ cũng như đăm
chiêu không bằng lòng một điều gì, để rồi khi chịu không được, lại buột ra một
câu thật suồng sã, láo lếu. 

Ngay ngồi giữa đám đông mà trong Vũ vẫn có những
thoáng buồn xa vắng. May là ngoài đám bạn thơ quen từ mấy năm trước, từ đầu
1970, Vũ có thêm nhiều bạn thơ mới. 

Hải Phòng lúc ấy là một thứ Sài Gòn bây
giờ. Hải Phòng là một cái gì đó, không phải Hà Nội, nhưng sẵn sàng chào đón
người ta, khi người ta muốn từ bỏ Hà Nội. 

Hải Phòng có cuộc sống của than bụi,
lại có biển, có trùng khơi, rất hợp với Vũ. 

Ở Hải Phòng, Vũ tìm thấy những
người bạn vừa phóng túng, vừa bao dung, như đạo diễn điện ảnh Đào Nguyễn (Đào
Trọng Khánh), như Nguyễn Khắc Phục. Nhiều bài thơ Vũ làm hồi này nhắc tới Hải
Phòng, hổn hển kể chuyện Hải Phòng, là từ những chuyến lãng du đất Cảng với các
bạn ấy.



 Còn ở Hà Nội, người bao dung hơn cả, là Nguyễn Lâm. Căn phòng nhỏ của
Lâm ở Triệu Việt Vương là nơi Vũ thường xuyên lui tới. Những lúc vui, Vũ đi
những đâu đâu, khi buồn quá, lại trở về với Lâm. 

Lâm có thể nghe Vũ kể đủ
chuyện, có thể nghe Vũ chửi bới kêu than, lại có thể lặng đi chờ đợi khi Vũ đờ
đẫn không nói gì. 

Lần ra ga Hàng Cỏ cùng Vũ trong một đêm trời lạnh, đó là Lâm. 

Ngồi xe xích lô cùng Vũ đi rong, để rồi lại trở về trầm ngâm bên chiếc điếu cày
hay chén rượu nhạt, lại cũng là Lâm, ”Lâm rùa” như chúng tôi đã đặt tên.

 Bao nhiêu
ngang ngược của Vũ, Lâm chịu được hết.

 Trong những năm tháng tơi tả của Vũ, Lâm
là hiện thân của sự chứa chấp thông cảm mà Vũ khao khát, nhưng lại thường tự
đánh mất. 



Cố nhiên, nói về thơ Vũ lúc này, còn phải nói về gia đình và những
người đàn bà, nơi nương tựa về tâm lý của Vũ, những khi đặc biệt cơ cực. Đó là
những chuyện mà ở ta ít có thói quen nói ra công khai, song thật ra, lại liên
quan trực tiếp đến nhiều sáng tác cụ thể của các nghệ sĩ nói chung và Lưu Quang
Vũ nói riêng.

 Đọc những bài thơ tình hay nhất của Vũ viết khoảng sau 1970, tôi
nhớ tới lời tự thú của Picasso: “Cũng như tất cả các hoạ sĩ khác, tôi trước
tiên là hoạ sĩ của phụ nữ, và với tôi, phụ nữ trước tiên là một cơ chế của sự
đau khổ”.

*

* *

Vào
thuở mới bắt tay viết lách, phần lớn những người cầm bút ở ta đều có làm thơ,
sau đó mới bỏ đi sang các nghề khác. Vì những lý do gì mà bỏ? Có thể mỗi người
là một trường hợp riêng, ở mỗi người có nguyên cớ riêng. Như với Nghiêm Đa Văn
– một người bạn chung của chúng tôi, cũng có làm thơ vào những năm 1965-70, sau
đi viết chuyện thiếu nhi, và làm nhiều nghề đa tạp khác – ngay từ trước 1975,
một lần tình cờ, tôi nghe Nghiêm Đa Văn trầm ngâm kể:

-
Một trong những thằng khiến tao bỏ làm thơ là Lưu Quang Vũ.

Ý
Văn muốn nói tài năng ở Vũ có một vẻ gì tự nhiên, mà không sự dụng công nào có
được, và ai không có, thì nên từ giã thơ cho sớm.



Về
phần mình, tôi có những kỷ niệm yêu thơ Vũ theo một cách khác. Cũng như
nhiều người, trong tâm trí tôi, thỉnh thoảng lại vang lên những câu thơ đâu
đâu, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, không cần nhớ tên tác giả, không thuộc cả bài,
nhưng cứ nhớ và khi gặp hoàn cảnh tương đồng thì lại ngâm ngợi.

Một
kỷ niệm tưởng không đâu mà lưu luyến mãi trong lòng:

- Có lẽ nào có thể quên được nhỉ

Cuộc đời mình còn có cỏ tóc tiên

Những lúc run rẩy xúc động:

- Trời xanh quá, tim tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình

Nỗi
ước nguyền được hết lòng cho một người con gái:

- Không làm thơ, anh sẽ làm lá cỏ

Chỉ xanh thôi, cũng mát mắt em nhìn

Từ
một chi tiết có vẻ nhỏ nhặt:

-
Ngày hạnh phúc có nụ cười mỏi mệt

Đến
một cái gì giống như là cảm giác chung về cuộc đời này, nó đã làm khổ ta, mà ta
không dứt bỏ được :

- Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi

Về cuộc đời ghê gớm ta yêu

Tất
cả những câu thơ đó là Lưu Quang Vũ, Lưu Quang Vũ của Hương cây và
nhất là Lưu Quang Vũ sau Hương cây, Lưu Quang Vũ của những năm bảy
mươi hào hùng và cay đắng.



 Nên đánh giá những bài thơ này của Vũ như thế nào?
Tôi nhớ một câu nói của Chế Lan Viên đại ý: nếu tất cả văn học chúng ta viết
như Nguyễn Tuân thì chắc chắn không được, thậm chí còn phát chán nữa. Nhưng nếu
trong toàn bộ nền văn học, không có một Nguyễn Tuân, thì cũng rất thiếu sót.

 Cũng tương tự như vậy, báo chí những năm chiến tranh không thể cho in những
dòng thơ mang tâm sự cá nhân, điều ấy là đúng, giọng thơ chủ yếu của những năm
chiến tranh phải là giọng thơ hùng tráng. Nhưng cùng với sự lùi xa của thời
gian, sẽ là công bằng hơn nếu giờ đây chúng ta dành “một chỗ đứng dưới ánh mặt
trời” cho những bài thơ xé lòng lâu nay chỉ chép trong sổ tay của nhiều người –
đại loại như những bài thơ của Vũ.

Nói
bản chất của con người là luôn luôn vươn tới sự hoàn thiện, niềm vui, ánh sáng
tức cũng có nghĩa con người không bao giờ thoát khỏi lầm lỗi, nỗi buồn, bóng
tối, nhất là đôi khi trong những hoàn cảnh đặc biệt, ánh sáng càng rực rỡ, thì
bóng tối càng nặng nề và trông thấy ánh sáng trước mắt đấy mà con người vẫn
không vươn tới được.

 Có lẽ vì rất hiểu điều đó, nên một người như thi hào Đức
B. Brecht, trong bài thơ nổi tiếng mang tên Gửi người mai sau đã
nói rất hay về sự độ lượng. 

Sau khi kể lại những nỗi khốn khổ mà thế hệ mình
phải gánh chịu, nào nạn đói hoành hành, nào con người cướp giật của nhau để
sống, nhiều người lang bạt “thay đổi nước như thay đổi giày” nhất là sau khi kể
lại những yếu hèn của thế hệ mình, Brecht viết tiếp:

Nhưng các anh, khi đã đến cái thời
ao ước đó

Khi con người là bạn của con người

Hãy nghĩ đến chúng tôi

Cho độ lượng

Ngay
từ những năm chiến tranh, sống trong cái tranh tối tranh sáng nửa hậu phương,
nửa chiến trường của Hà Nội, đám bạn mới bắt đầu làm văn chương thuở ấy, khi
nghĩ về thơ Vũ đã thường tìm chỗ dựa ở bài thơ nói trên của Brecht. Còn như giờ
đây khi mà những người 20-25 hôm qua đã sang tuổi 50-60, cái ý tưởng về sự độ
lượng càng có sức kêu gọi, như một ám ảnh: Chúng ta vốn chẳng giàu có gì, đừng
làm cho chúng ta nghèo thêm đi một lần nữa, ngay trên phương diện tinh thần.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2015 21:15

May 3, 2015

Thực trạng nghiên cứu văn hóa VIỆT NAM thời gian qua





Mạng Văn hóa Nghệ An vừa giới thiệu bài trao đổi với chúng tôi về công tác nghiên cứu hiện nay.

http://vanhoanghean.com.vn/…/nghien-c...

Đối tượng nói tới trong bài đó, là cả hai mảng nghiên cứu văn học và nghiên cứu văn hóa, vì thế không mảng nào thật kỹ.

Chúng tôi dự định tách bài phỏng vấn đó ra làm hai và viết lại mỗi phần,khi nào xong sẽ đưa lên mạng một thể.



Riêng về văn hóa, từ 2-10-2009, trên blog này chúng tôi đã có bài viết mang tên

Tìm hiểu thực trạng công tác nghiên cứu văn hóa VN hiện thời và một đề xuất cụ thể

Dưới đây xin giới thiệu lại.



Xã hội Việt Nam đang trong một quá trình phát triển tự phát mà thiếu vai trò hướng dẫn của trí tuệ, của nghiên cứu khoa học.

Quá trình hiện đại hóa đã được khởi động từ đầu thế kỷ XX, nhưng lúc đó đất nước đang còn là một xứ thuộc địa, cộng đồng chưa trải qua một cuộc tự nhận thức thực sự mà mọi dân tộc bước vào thời hiện đại phải trải qua ( so với Trung quốc, chúng ta chưa có một phong trào có tính chất bước ngoặt như cỡ Ngũ tứ vận động 1919). Tiếp sau giai đoạn chiến tranh nặng nề, đến giai đoạn hiện nay, chúng ta chỉ lo đuổi kịp thế giới bằng mọi giá, nhiều vấn đề chiến lược không được đặt ra, đúng hơn chỉ đặt ra chiếu lệ.




Thiếu sót đến ngay từ quan niệm

1/ Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám, một trong những thành viên của mặt trận Việt Minh là Hội văn hóa cứu quốc. Tới 1948, còn có Đại hội văn hóa toàn quốc. Nhưng sau đó, Hội văn hóa bị giải thể thay vào đấy là những hội văn nghệ, hội sử, các hội khoa học kỹ thuật … Từng hội hoạt động rời rẽ riêng biệt. Con người nhà văn hóa trong các trí thức bị đẩy lùi xuống, thay vào đấy là vai trò người chiến sĩ.

Thay cho văn hóa chỉ thấy nhấn mạnh tư tưởng (là phương diện mà người Việt vốn yếu nhất và hầu như là đi vay mượn từ nước ngoài)

Văn hóa là tất cả cái phần làm nên giá trị của một dân tộc. Nghĩa của văn hóa rất rộng. Văn hóa là cái cách sống cách quan hệ với thiên nhiên, cách làm ăn sinh sống ( văn hóa nông nghiệp, văn hóa cư trú …); là các hoạt động tinh thần ( văn hóa tôn giáo, văn hóa dạy dỗ giáo dục con người ). Lại có văn hóa quyền lực, văn hóa hành chính, văn hóa quan hệ đối ngoại. Có văn hóa ý thức ; có văn hóa thể chế ; có văn hóa vật chất. Văn hóa bao trùm lên cả kinh tế chính trị pháp luật … Nhưng một cách hiểu như thế hiện không thông dụng.



Trong thực tế, cách hiểu về văn hóa ở ta hiện triển khai theo hai hướng:

Một là đẩy nó lên thành một cái gì trừu tượng, và mọi người kính nhi viễn chi, bằng lòng với những ý niệm chung chung.

Hai là thu hẹp văn hóa trong các hoạt động tâm linh, chủ yếu là phần sáng tác thơ văn và một ít thành tựu nghệ thuật như sân khấu âm nhạc, các phong tục, các lễ hội. Thực tế là nhiều khi văn hóa bị hạ xuống một thứ “ cờ đèn kèn trống”, nặng về vai trò tô điểm cho một đời sống nặng nề và không thấy triển vọng thay đổi.



Có thể nói do chúng ta không hiểu văn hóa, mà việc nghiên cứu văn hóa đân tộc bị hạn chế và nhiều mặt để ngỏ .



2/ Trong khi được hình dung một cách trừu tượng chung chung, đồng thời văn hóa được quan niệm như một cái gì nhất thành bất biến. Lịch sử phát triển của nó không được chú trọng, không cần tìm hiểu.

Quá trình văn hóa Việt Nam trở thành một cái gì đơn điệu, trở đi trở lại, tẻ nhạt.

Con người ở ta bị tách rời ra thành một cái gì chơi vơi không chằng không rễ, không thấy mình có những mối liên hệ với thời gian và không gian (theo nghĩa rộng của những từ này) . Trong khi luôn miệng nói phải nhớ tới quá khứ, thì chúng ta lại thiêng liêng hóa nó một cách vụng về, làm cho nó –quá khứ-- mất đi ý nghĩ lẽ ra phải có.



Lịch sử dân tộc rút lại chỉ là lịch sử chính trị, quân sự -- lịch sử cứu nước giành lại đất nước – mà không phải lịch sử dựng nước, tức là lịch sử hình thành cá nhân và tổ chức xã hội, lịch sử văn hóa.

Văn hóa dân tộc rút lại với nhiều người chỉ còn là cái gì mơ hồ, việc nghiên cứu quy về những lời ca tụng chung chung, sáo rỗng, không thuyết phục được ai. Đây cũng là một biểu hiện khác của việc không hiểu thế nào là văn hóa, không thấy sự chi phối của nó với đời sống .



3/ Một căn bệnh nặng nề khác của hoạt động nghiên cứu văn hóa vài chục năm gần đây, khiến nó dừng lại ở trình độ thô sơ: tính vụ lợi.

Tính vụ lợi có nghĩa là chỉ xem cái gì có lợi trước mắt thì làm, dù là về lâu dài nó có hại cũng mặc kệ. Nó là con đẻ của tình trạng khó khăn kéo dài, khiến cho người ta chỉ biết tới một tầm nhìn hạn hẹp. Chưa nghiên cứu đã khai thác. Việc vận dụng “ lấy xưa phục vụ hôm nay’’ được làm quá thô thiển.

Đã có lúc chúng ta đã đặt chân tới cách hiểu đúng nhưng rồi lại từ bỏ. Chúng ta thường xuyên lấy điều mà ta mong muốn thay cho sự thực.



Đây là một đoạn quan trọng trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam mà nhà mác – xít Trường Chinh trình bày tại Đại hội văn hóa toàn quốc 1948:

Ông cha ta, hàng chục thế kỷ, học Tàu viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu;

pháp luật mô phỏng Tàu;

học triết học Tàu;

theo lễ giáo Tàu, về tín ngưỡng theo cả Tàu và Ấn;

khoa học độc lập không tiến;

nghệ thuật âm nhạc kém phát triển;

lối ăn mặc ở hủ lậu bảo thủ thiếu khoa học.


Nói theo cách nói hiện nay, Trường Chinh đã nhấn rất rõ và rất chính xác trình độ non yếu, chất vay mượn phụ thuộc, thậm chí cả tình trạng”second hand” của văn hóa ta.




Nhưng những nhận định như thế, nay bị bỏ qua.

Đoạn trích nói trên là dẫn theo phần Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam in trong Kỷ yếu Đại hội văn hóa toàn quốc 1948, bản in trên rừng, phải dùng giấy bản.

Trong các lần xuất bản về sau, cái ý tưởng sáng suốt này bị làm nhẹ đi, lảng tránh, coi là ngẫu nhiên không quan trọng.

Trong các tài liệu chính thức, kể cả trong các nhà trường, chỉ thấy nhấn mạnh điều ngược lại rằng “nước ta có một nền văn hóa phát triển rực rỡ độc lập không kém gì bất cứ nước nào“ và công thức này được nói đi nói lại, không cho phép ai dám sai trệch; nó ràng buộc mà không mở đường cho sự suy nghĩ tiếp.

Hoạt động nghiên cứu văn hóa lê lết trong một tình trạng trì trệ .



4/ Trong quá trình phát triển, quan hệ của Việt Nam với thế giới nói chung cụ thể là quan hệ với khu vực có nhiều khía cạnh không bình thường. Khi nói về mình, chúng ta không đặt mình vào sự phát triển của thế giới. Sự hiểu biêt của chúng ta về các dân tộc khác suốt trường kỳ lịch sử quá đơn sơ và bị thành kiến nhiều đời chi phối.



Mối quan hệ văn hóa nước ngoài vốn có một vai trò quan trọng sống còn với mọi quốc gia, nhưng ở ta do tình trạng chống ngoại xâm liên miên, nên vấn đề tiếp nhận bị gán cho nhiều tội lỗi. Trong chiến tranh tình trạng này có cái lý của nó. Song nó cứ thế kéo dài mãi. Cho đến trước hội nhập, xu thế chi phối trên phạm vi vĩ mô là một xu thế tự cô lập và đến nay trong thực tế lúc nào cũng bảo nhau hòa nhập mà không hòa tan. Thực tế là vấn đề hội nhập văn hóa không được xử lý thích đáng.



Trong thực tế, xảy ra tình trạng lưỡng phân. Một mặt, ta cứ học đòi bắt chước, tiếp nhận không thiếu thứ gì. Mặt khác, nhìn chung lại thì vẫn là làm ăn luộm thuộm không đâu vào đâu, cái hay không tiếp nhận mà nhiều khi lại mang về cái dở.

Điều này là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tới kết quả tai hại là hạn chế luôn việc hình thành nên một cái nhìn chính xác về dân tộc. Dân ta thường cho rằng người ngoài ta không hiểu ta, chỉ ta mới hiểu ta ( thậm chí có người cho rằng không phải người Việt thì không sao hiểu được người Việt văn hóa Việt )

Việc thiếu một phương pháp luận đúng đắn, ở đây là thiếu điểm nhìn đúng, khiến cho nghiên cứu văn hóa không đạt tới trình độ khoa học cần thiết.



5/ Khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, đã có cuộc thảo luận về Quốc học, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu. Lý do là vì tự ta cũng thấy văn hóa của chúng ta yếu nhất là phần học thuật .

Từ hồi đặt vấn đề hội nhập, nhân tố văn hóa có được nói tới nhiều. Song nó chỉ được quan niệm như một cái gì khiến chúng ta khác người. Vì mục đích thiển cận nào đó ( chẳng hạn để kêu gọi du lịch ), tính độc đáo bị tô vẽ quá đáng.

Khi nghiên cứu văn hóa mang nặng tính cách vụ lợi, nó đã phát triển theo những phương hướng cổ lỗ và sai lệch như vậy.

Nhiều người nước ngoài cũng biết điều đó. Tại Hội thảo quốc tế về Việt nam học lần II (2004), Oscar Salemink, bộ môn Nhân học Xã hội, ĐH Tự do Amsterdam (Hà Lan) cũng phải kêu lên đại ý : Nhiều người Việt Nam luôn luôn nói văn hoá Việt Nam khác với văn hoá các nước khác. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ, so sánh với văn hoá các nước khác thì có rất nhiều biểu hiện giống nhau. Trước những nhận xét như thế thông thường là ta lảng tránh.

Sự hạn chế trong tiếp cận và so sánh, đã không giúp ta hiểu ta tốt hơn.



Những khó khăn đã đến với người nghiên cứu

văn hóa Việt Nam ở trong nước hiện nay


Theo chúng tôi, khó khăn lớn nhất của việc nghiên cứu về VN hôm nay là chúng ta xuất phát từ một quan niệm thiển cận về văn hóa như trên vừa trình bày. Những lý luận mới mẻ và đầy sức thuyết phục về văn hóa, từ lâu đã hình thành ở các nước phương Tây, nay được giới thiệu kỹ càng rộng rãi ở Nga và Trung Hoa lục địa, thì ở xứ ta vẫn còn xa lạ.

Với sự thiển cận kéo quá dài, các khó khăn càng chồng chất.



Một đặc điểm cũa xã hội VN là cái gì cũng có, nhưng cái gì cũng không đạt chuẩn mực. Chúng ta không có thành thị tuy qúa trình đô thị hóa đang diễn ra ồ ạt, bừa bãi. Chúng ta không có các trường đại học theo đúng chuẩn mực quốc tế -- và không biết bao giờ có nổi, trong khi đại học đang được mở ra đại trà.

Hoạt động nghiên cứu văn hóa cũng vậy.

Trong khi văn hóa Việt Nam rất được đề cao, thì các thiết chế nghiên cứu lại chưa hình thành .

Về mặt phương pháp, văn hóa dân tộc chưa được nghiên cứu như một thực thể thống nhất mà bị chia nhỏ cắt khúc ra thành nhiều mảng rời rạc.

Nếu biết rằng đây cũng là tình trạng thấy ở khoa học xã hội Nga thời xô viết và ở Trung Hoa đại lục từ 1976 trở về trước, thì người ta có thể yên tâm rằng tình hình không thể khác được.



Chính những người phương Tây – xin được nói thẳng như vậy -- lại đi đầu trong việc nghiên cứu VN như một toàn bộ. Thuật ngữ Việt Nam học được du nhập từ nước ngoài vào. Cho tới những năm tám nươi của thế kỷ XX, thuật ngữ này vẫn không được công nhận.

Gần đây tình hình thay đổi, giới khoa học xã hội trong nước muốn làm nhưng lại không có người biết nghiên cứu.

“Các nhà Việt Nam học “ nội địa thường chỉ được hiểu là các nhà nghiên cứu từng ngành riêng rẽ được gộp lại theo phép cộng đơn giản.



Đã có các cuộc Hội thảo quốc tế về VN học (1998 và 2004 11-2008), nhưng từ đây, lại thấy nổi bật lên một hiện trạng đáng xấu hổ:

Trong hoạt động nghiên cứu cụ thể, các nhà khoa học nước ngoài làm tốt hơn người trong nước. Sự hơn này là ở mọi mặt. Họ cần cù. Họ có công cụ tốt. Nhiều người Nhật người Mỹ nghiên cứu Việt Nam đọc được cả các văn bản bằng chữ Hán cổ (là điều càng ngày càng ít nhà nghiên cứu VN làm nổi) .

Họ làm công tác nghiên cứu với tinh thần khoa học thực sự chứ không biến đây thành công tác tư tưởng. Họ không bị ràng buộc bởi những cấm kỵ.



Trong lúc chúng ta quen nói về tình trạng thống nhất thì họ nói về những vùng văn hóa khác nhau tồn tại lặng lẽ trong lịch sử.

Trong lúc chúng ta chỉ thích nhấn mạnh sự độc lập với Trung Hoa cổ thì họ vạch rõ chúng ta đã học đòi và dễ dãi với mọi sự bắt chước xoàng xĩnh.

Với một thứ chữ nôm mà chúng ta tự hào, có nhà khoa học Nhật đã gọi là một thứ bánh vẽ, việc sử dụng có nhiều bất tiện.



Điều đáng tiếc là những công trình nghiên cứu này không được giới thiệu đầy đủ vào Việt Nam. Trong những trường hợp may mắn đươc giới thiệu thì theo lối cắt xén và tìm mọi cách hạn chế tầm tác dụng. Thường chúng bị giam lại trong những cuốn sách in với số lượng hạn chế mà không có được khả năng thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội để thúc đẩy một sự đồng cảm và đi tiếp .



Một việc có thể làm ngay



Đời sống tinh thần của xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp mà người ta chỉ có thể hiểu được và gỡ rối được nếu trở lại với cả quá khứ của dân tộc. Nói như B. Russel “ Đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “ ( sử học nói ở đây hàm nghĩa là việc nghiên cứu văn hóa nói chung).

Gần đây đã có bạn trẻ thắc mắc vì sao sinh viên nước ngoài đến VN thì được học những khóa trình về văn hóa VN, mà sinh viên VN thì không.

Nhưng chúng ta vẫn chưa sẵn sàng cho việc này. Tự nhận thức chưa trở thành một nhu cầu của xã hội. Người biết nghiên cứu và có khả năng nghiên cứu không có. Trình độ của ngành khoa học xã hội trong nước quá thấp và không dễ gì thay đổi.

Thậm chí không ai dám tin là sắp tới có một cơ chế nghiên cứu thích hợp tương xứng phần nào với đòi hỏi của tình hình.

Đã có lúc chúng tôi đi tới ý nghĩ là phải “ quốc tế hóa “ công việc tức là dựa chủ yếu vào thành tựu của giới nghiên cứu nước ngoài. Song lại cũng biết ngay là điều này đi ngược với thói quen suy nghĩ của người đương thời và chắc chắn là chưa thể làm được trong thời gian tới.



Trước mắt chỉ xin có một đề nghị cụ thể, là cần lập ra những trung tâm thông tin tư liệu về Việt Nam học( tối thiểu là một, càng có nhiều càng tốt).

Các trung tâm này có nhiệm vụ thu thập tất cả những gì người trong nước và nước ngoài đã viết về con người và xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Có một phần là nguồn từ sách báo người Việt viết ở Sài Gòn trước 1975 và các trí thức đang sống ở hải ngoại.

Phần khác bao gồm từ thư tịch cổ của người Trung Hoa, sổ tay nhật ký của các nhà buôn các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam các thế kỷ trước, sách báo viết về Đông dương của người Pháp (kể cả các viên chức hành chính cấp cao, những “ thực dân cáo già “ như chúng ta vẫn nói) cho tới các công trình nghiên cứu đang hàng ngày hàng giờ xuất hiện trong các trường đại học ở Mỹ và Nhật, Úc và Hà Lan.



Thu thập các tài liệu đã có cập nhật hóa nó bằng cách đưa lên mạng … việc này đòi hỏi nhiều công phu, nhưng vẫn là dễ làm nhất và nên được xem là cú hích mở đầu cho một quá trình tự nhận thức mà nếu không tiến tới một cao trào thì xã hội Việt Nam không bao giờ tạo ra được một bước ngoặt trong sự phát triển.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 03, 2015 04:20

April 26, 2015

Việc kiếm sống của người mình, thời chiến và hậu chiến



Phần đầu của bài viết này đã từng đưa trên blog này.

Nhưng để độc giả có thể hiểu phần thứ hai mới bổ sung,

xin được giới thiệu lại một lần nữa,

người viết rất mong được lượng thứ.





KIẾM SỐNG VỚI BẤT CỨ GIÁ NÀO !

Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá !

Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh.

Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.

Mấy người dạy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ đến cả rổ.

Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại.

Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu !

Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước, thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi ni - lông trong tay ông gìa sột soạt.

Có thế chứ ! Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước!

Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị:

Tay trắng lập nghiệp.

Nghề ngỗng chẳng có.

Đồ nghề không tức là công cụ không.

Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước dành hết cả rồi. Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.

Trách họ thì oan cho họ quá.

Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái “triết lý” toát lên từ cái việc kiếm sống đơn giản này.

Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường.

Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên ném xuống hồ, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu ?

Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?

Nhưng tôi không mở miệng nổi.

Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá môi trường sống chung quanh đến như thế nào.

Lại nhớ nhà văn Nga Tchékhov (1860 – 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hoả thì đi bộ đã chết ai ? --ông ta lý sự.

Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.

Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa cái hành động của người mugich Nga thế kỷ XIX với việc người Việt thế kỷ XXI đã và đang làm:

*rải đinh trên đường cao tốc,

*bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,

*đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,

rồi chặt phá rừng vô tội vạ, rồi mua bán bằng cấp và chức sắc, rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng,

rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm...

các hành động ấy bắt nguồn từ những ý nghĩ có khác nhau là bao?

Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta hôm nay.

Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại?





VAI TRÒ CỦA CÁCH KIẾM SỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

Từ trường hợp của những ông già ném cá ở phần trên, tôi xin thử nêu lên một vài đặc điểm làm nên cách kiếm sống dân ta xưa và nay:

1-- Trong cuộc mưu sinh, dân ta còn đang dừng lại ở tư duy hái lượm tức là sẵn có cái gì của thiên nhiên thì nhặt lấy mang về. Năng lực của cộng đồng trong việc chủ động tổ chức ra một xã hội sản xuất, năng lực đó còn hạn chế... Con người trong xã hội ta đa số là vô nghề nghiệp và không đạt tới đỉnh cao trong việc làm nghề. Các ngành nghề không được chăm lo cải tiến nên chỉ có giậm chân tại chỗ.

Khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác chúng ta lại không chịu học hỏi đàng hoàng kỹ lưỡng nên cứ kém mãi.



2-- Chiến tranh là nhân tố chủ yếu chi phối khuôn mặt của xã hội VN trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong các thế kỷ trước, nhất là hai thế kỷ XVII – XVIII sa vào nội chiến, ở ta, việc sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển trong mức độ bảo đảm cho các cuộc chiến tranh giữa các phe phái được duy trì . Vậy mà nạn đói vẫn luôn luôn xảy ra. Còn sự phát triển các ngành công thương nghiệp là hết sức kém cỏi thì cũng là lẽ tự nhiên.

Điều này càng rõ nếu xét tình hình từ 1945 tới nay.Trong chiến tranh bao nhiêu con người giỏi giang đổ hết cả ra mặt trận. Đến cả lương thực cho người dân miền bắc cũng phải nhập của nước ngoài. Súng ống đạn dược xe pháo dùng trong chiến tranh là của ngoại nhập. Ở hậu phương mọi công việc như xây dựng nhà cửa hoàn toàn ngưng trệ.

Sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp.

Các quan chức cũng hoàn toàn vô nghệ nghiệp. Từ những người chỉ quen “đánh đồn diệt viện”, nay phải lo quản lý đủ mọi ngành nghề hiện đại, làm sao không dẫn tới tình trạng làm đâu hỏng đấy.





3- Sau khi đọc phần trên của tôi, có bạn nói rằng giá ông già kia có đồng lương hàng tháng bốn năm triệu thì ông không phải làm thế.

Tôi xin trả lời rằng đó là chỉ nhìn bề ngoài.

Còn nhớ có lần trên mạng thấy loan tin các cơ quan khoa học người ta đánh giá rằng nước mình là một xứ mà việc quản lý các tài nguyên khoáng sản là loại đội sổ, kém nhất thế giới.

Không cần có mặt ở các loại mỏ, chỉ từ tình hình chung cũng đoán ra hết.

Những người chủ trì công việc làm ăn ở các vùng tài nguyên đó, theo sự nhìn nhận của tôi thật cũng chẳng khác gì ông già ném cá hàng xóm của tôi bao nhiêu.

Nghĩa là thấy của một đống trước măt mình đấy thì bất chấp quy trình ký thuật cần thiết, cha con chỉ lo đào cho được rồi bán tống bán táng ra nước ngoài lấy tiền. Tiền này đi đâu thì ai cũng biết rồi -- nộp cho ngân quỹ nhà nước thì ít, đút vào túi mình thì nhiều.

Ta chỉ trách những quan chức này là họ tham nhũng.

Ta quên rằng họ cũng đang là những người kiếm sống không có nghề ngỗng gì hết, và kiếm sống với bất cứ giá nào.

Trong khi khai thác tài nguyên theo kiểu thổ phỉ vậy, tự họ đã tước đi khả năng tồn tại và phát triển của cái nguồn lực đáng lẽ nuôi sống cộng đồng và chính họ trong một thời gian lâu dài. Họ cũng từ bỏ luôn cái cơ hội tốt để họ và con cháu họ tử tế nên người.



4-- Tôi xin đặc biệt lưu ý tới một đặc điểm khác trong việc kiếm sống của người mình, nhất là con người hiện đại.

Là ta có lối suy nghĩ rất thiển cận, trong khi phấn đấu để vượt lên số phận nghèo khó đã không chịu học không chịu chuyên môn hóa …mà lại chỉ nhăm nhăm tính toán sao cho có thể đạt đến mọi mục đích tầm thường của mình bằng con đường nhanh nhất.

Nhân danh nghèo khó, cho là mình có quyền làm mọi điều xấu xa và sẽ chẳng có thần phật nào trừng trị chúng ta cả.

Tiếp đó là bày ra đủ thứ lý luận để cãi trắng cho sự hư hỏng của mình. Cả một đội quân tuyên truyền góp phần vào việc tự biện hộ này. Chúng ta đã đi tới sự tự lừa dối tự lúc nào không biết.

Đến lúc này thì người ta nói rằng con người đã vô phương cứu chữa.

Nhưng đây là một khía cạnh khác nó làm nên một xu hướng phát triển của con người thời nay là sự tha hóa.

Lâu nay ta chỉ nghĩ người giàu mới tha hóa.

Nhưng 40 năm sau chiến tranh, người nghèo cũng đang tha hóa.

Cố nhiên, vì chạm đến đồng tiền và quyền lực nên quan chức thì tha hóa nhanh nhất.

Xưa ta hay có thói quen nói rằng giai cấp thống trị xấu xa là vua quan thời phong kiến có lẽ là người nước nào đó chứ không phải người Việt.

Nay thì chắc các quan chức -- cả bộ phận tha hóa lẫn bộ phận còn đang chống chọi lại xu thế chung đó -- cùng có lý do để nhận họ là những người Việt thứ thiệt.
















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2015 06:12

April 20, 2015

Vài điều suy nghĩ về lớp trẻ hiện thời

Bài
trả lời phỏng vấn này được đưa lên mạng VNN ngày 22-10-2007.


Đường link của nó là



http://vnn.vietnamnet.vn/giaoduc/2007... 





Gần
tám năm sau đọc lại, điều đầu tiên tôi nhận ra là cái tiêu đề Lớp trẻ cần
tự hình thành hệ thống giá trị mới,
 mà nó mang lúc đầu,  không thể được coi là
một lời đề nghị nghiêm chỉnh.



Trong
những năm qua từ gia đình tới xã hội, chúng ta ngày càng rơi vào tình trạng thoái hóa đảo điên,  lớp trẻ mới lớn thiếu hẳn khả năng tự xác lập,
nên bây giờ nếu thiếu đi sự hướng dẫn cần thiết – một sự hướng dẫn với ý nghĩa
hiện đại của nó --, họ làm sao tự xác định con đường đi tới của mình cho được.

 Mà lớp già chúng
tôi lo thay đổi cho kịp với hoàn cảnh cũng không xong, làm sao dám tự coi là đủ
năng lực tiếp sức cho họ? 

Họ đang bơ vơ hết sức.



Tuy nhiên, đó là vấn đề quá lớn, cần được mang ra bàn luận rộng rãi.

Về phần mình,  sau khi xem lại tôi thấy phần lớn các ý
trong bài trả lời phỏng vấn này vẫn tạm dùng được, nên cứ đưa lại nguyên văn, chỉ có vài cách nói rải rác ở  các phần, và vài chi tiết ở phần cuối,   có được bổ  sung, để làm rõ ý.

Còn như một sự bổ sung thiết yếu hơn, do chỗ
rất nhiều, và cần đưa lên một trình độ mới, nên sẽ phải tiếp tục trong một dịp khác, hoặc theo các hình thức khác.






(VietNamNet) - "Lớp trẻ hiện nay
mang trong mình cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm
tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra...
Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta luôn đón chờ những tài
năng trẻ". Nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn chia sẻ.






Lanh, khôn, nhưng thiếu chắc chắn





















- Có nhiều ý kiến khác nhau về lớp trẻ bây giờ: cả lạc quan lẫn
bi quan. Còn ông, ấn tượng chung về họ ở ông ra sao?


- Ở
bạn trẻ bây giờ, cảm giác tự do rất mạnh. Hơn hẳn cái đó ở bọn
tôi. Thời trước, chúng tôi rón rén, khép nép, cái gì cũng sợ. Có những điều rất giản dị rất tự nhiên chúng tôi
chờ đợi cho phép mới được làm... mà vẫn vui vẻ  chờ đợi.

Các
bạn giờ sống với cả thế giới rộng lớn, nhiều bạn có cảm giác mình là
công dân thế giới.

 Chúng tôi xưa quanh quẩn trên mảnh đất quen
thuộc. Nhớ lần đầu đi qua biên giới thì tim đập thình thịch.



Song
đằng sau vẻ rất lanh, rất khôn, tiếp cận và hiểu biết nhiều, lớp trẻ bây giờ
lại gợi trong tôi một cảm giác thiếu chắc chắn, trên đại thể lại lờ mờ, thiếu
ước mơ lớn. 

Hình như đằng sau những lời huyênh hoang, trong thâm tâm họ quá hiểu mình, nên có cảm giác bi quan, cho rằng mình không bao giờ đạt được lý tưởng
cao cả nữa.

Họ
có thể phóng đi rất nhanh để rồi chả biết làm gì ở cái nơi vừa đến. Đằng sau
cái vẻ vội vã của họ hình như ẩn giấu một nỗi thèm thuồng, chỉ sợ
không được hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Trong sự vội vã ấy, họ lại không có
khả năng dò vào chiều sâu của cuộc sống.

Tôi
đã nói người mình là một khối tự phát và lớp trẻ thường là lớp người
nhạy cảm nhất, dễ gây bất ngờ nhất. Lớp trẻ hiện nay mang trong nó
cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả mọi dạng tai hoạ bất ngờ. Nếu không biết định hướng, thật khó đoán biết  điều gì sẽ xảy ra.



- Ông có thể cắt nghĩa hiện tượng này?

-
Tuổi trẻ bao giờ cũng bị ảnh hưởng theo chiều ngang, ảnh hưởng bởi tinh thần thời đại nhiều hơn là
ảnh hưởng dọc từ thế hệ cha ông. Mà thời đại ta nói chung là thời đại của cái
gì đó vỡ ra dang dở và chưa được sắp xếp lại.

Nước
ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là
trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi
khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự
ti quá. Cái này thấy rõ ở giới trẻ.

 Tôi nhớ một nhân viên tuyển dụng nước
ngoài thường tiếp xúc với SV mới ra trường, có nhận xét, SV ta nhiều khi
nói nhiều điều mà mình không biết, đến lúc hỏi kỹ thì lại trở nên lúng túng.



So
với lớp trước, lớp trẻ hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc
điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất phương hướng, không xác định được
mình.

Trong
nhiều trường hợp, họ hiểu rất sai về tự do. Tự do không phải là bột phát,
muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về hoàn cảnh
và cách sống thích hợp với hoàn cảnh, đồng thời khẳng định bản thân mình.

Tự
do cao nhất là tự do về mặt tinh thần, liên quan đến nội lực con người, sự
phong phú trong tinh thần của họ, chứ tự do không phải là lăn ra đường để
khẳng định cái tôi. Đa số giới trẻ hiện nay, tự do bề ngoài thì có nhưng sâu
sắc bên trong thì không. Điều này dẫn đến việc họ không tìm được cách khẳng
định mình, mà trút cái gọi là khao khát tự do vào những hành động ngông cuồng bề ngoài.



- Nói một chút về sự mất phương hướng của lớp trẻ. Ở Mỹ
từng có một "thế hệ vứt đi" sau Thế chiến I, và một thế hệ
hippy trong chiến tranh Việt Nam,
mất niềm tin vào cuộc sống. Ở Nhật cũng có một thế hệ khủng hoảng niềm
tin... VN trải qua một cuộc chiến lâu dài, đang trên đường phát triển và
sẽ phải đối mặt với cả những hiện tượng xã hội đi kèm. Ông có nghĩ một điều
tương tự ở đây?  


-
Bất cứ một xã hội nào, sau thời gian chiến tranh, con người
cũng đều cảm thấy đời là trống rỗng... Đây là bệnh chung của xã hội thời
hậu chiến. 

Còn xã hội hiện đại mà phát triển nóng quá, giới trẻ chịu áp lực
thì cũng dễ gây những hiệu ứng tâm lý. 

Ngay cái ham hưởng thụ, sống gấp...
cũng là một biểu hiện.

So
với các nước cũng trải qua chiến tranh, tôi cho là ở VN, các bệnh trạng tương tự
còn trầm trọng hơn nhiều. Thiếu một sự quan tâm thường xuyên,
thiếu một cái nhìn kỹ lưỡng, thiếu một sự nhận chân, như thế này sẽ
luôn luôn có scandal chờ sẵn.

Tuy
nhiên, ở VN, lối phản ứng của con người không bao giờ quyết liệt cả, mà
thường tản mát, tự bó hẹp, làm nghèo mình đi, do đó những chuyển đổi cơ bản rất khó xảy tới. Chúng ta sẽ cứ nhùng nhằng như thế này mãi.





Không nên dạy trẻ về một xã hội ảo tưởng
















- Nếu làm phép so sánh tương quan với các thế hệ trước, ông đánh
giá lớp trẻ bây giờ nằm ở vị trí nào?


-
So với lớp cha anh thì họ đã có nhiều cái mới.

 Nhưng, so với yêu cầu thời đại
thì còn đòi hỏi một sự phấn đấu cao hơn hẳn.



Đầu
thế kỷ XX, nước ta có  sự hội nhập mạnh mẽ với thế
giới, với văn minh  phương Tây.

Cả một
lứa như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan
Anh, Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiền, Hoàng Xuân Hãn ... thực sự tạo dựng được một nền tảng học thuật vượt
xa các bậc tiền bối.

Trong
văn học nghệ thuật, một thế hệ  các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà
văn... để lại dấu ấn mạnh mẽ.



Lấy
đơn cử, các tác giả thời ấy như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam... có số lượng người  đọc đông đảo, trước họ chưa từng
có. Tức là sức ảnh hưởng  vào thời đại của họ cũng rất lớn.

Thời
Pháp thuộc, 15-16 tuổi người ta đã đi làm công chức và đã có sự trưởng thành
về mặt xã hội. Không ai có thể nghĩ là Vũ Trọng Phụng chết non được, vì
tuy mới 27 tuổi ông đã có  một sự nghiệp hoàn chỉnh.




Sau
đó, thế hệ thanh niên sinh khoảng trước sau 1930 và bắt đầu
lập nghiệp từ sau giai đoạn Cách mạng tháng 8 1945 cũng để lại
trong tôi một ấn tượng rõ rệt. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, các
nhạc sĩ như Nguyễn Đức Toàn, Huy Du… làm nên một bước chuyển mới trong sinh
hoạt văn nghệ. Các tác phẩm để đời của họ thường được viết ngay khi
họ mới 20-25, thậm chí còn trẻ hơn nữa.



- Thế còn thế hệ các ông, thế hệ thanh niên trong chiến tranh
chống Mỹ, cũng là một thế hệ ưu tú mà nhiều người thường nhắc đến
với một sự hoài niệm tự hào?


- Các bạn cứ khen quá vậy. Hay là vẫn bị các ông bạn tôi úm? Đừng có tin họ.

 Đặt trong toàn cảnh lịch sử các thế hệ tiếp nối nhau trong thế kỷ qua , thì thế hệ tôi là một thế hệ chỉ đóng vai trò thực hiện  lời chỉ bảo các bậc đàn anh, chứ chẳng làm được gì mới so với lớp người đi trước.



 Nhìn vào văn học nghệ thuật cũng thấy rất rõ.

 Trong chiến tranh các đồng nghiệp của tôi có làm được một ít việc đáp ứng nhu cầu chiến tranh, nhưng sang thời hậu chiến chẳng ai làm được gì thêm đáng kể. Mà cái họ đã làm được trong chiến tranh cũng đi vào quên lãng. Họ đã già đi quá sớm.

Cái đó một phần cũng do hoàn cảnh chiến tranh, mà điều cần lưu ý nhất là chiến tranh ở VN nó ghê gớm lắm, nó hủy diệt con người khủng khiếp lắm, nhất là với lớp người lúc ấy chỉ là anh lính. 



Một mặt phải nói cuộc chiến tranh vắt kiệt sức của một thế hệ, đồng thời, nó cũng
tạo động lực để thế hệ ấy phát huy được tốt nhất tinh hoa của mình.

Mặt khác phải thấy khơi dậy nội lực theo cách này giống như khai hoang, chỉ được một lần.
Vấn đề là chúng ta phải thâm canh. Chúng ta phải đào tạo ra những người luôn
có thể tiếp tục trưởng thành khi đã bốn mươi năm mươi. Ở ta làm gì có chuyện đó?



- Vậy, theo ông, làm sao để "thâm canh" trên thế hệ
trẻ hiện tại một cách tốt nhất?


- Đã qua rồi cái thời xây dựng thông điệp qua những thi đua với lại điển hình.

Qua rồi cả cách tư duy cổ lỗ của thời chiến.

Trước
đây, chúng ta cứ hay dạy trẻ "ở hiền gặp lành"... bây giờ phải có
những câu khác, ở hiền đôi khi vẫn gặp ác như thường. Không nên dạy cho lớp
trẻ về một xã hội ảo tưởng, mà nên phản ánh đúng thực tế của nó.

Thêm
nữa, giới trẻ luôn tích tụ khối năng lượng lớn, làm sao để hướng cho họ sử
dụng tốt nguồn năng lượng này. 

Ngay đằng sau những cuộc đập phá mà nhiều
người lên án, phải thấy là một cảm giác muốn tự khẳng định. Mà xã hội chúng ta chưa chỉ
cho họ con đường chân chính để làm việc này. 

Điều kiện để họ phát triển -
 trước tiên là một nền giáo dục hiện đại mang tinh thần nhân bản - thì
lại càng chưa có.

Sau khi có phương hướng đúng, điều
quan trọng nhất là cho họ thấy mọi nỗ lực chính đáng của họ sẽ được khẳng
định.

 Nếu chỗ nào họ cũng cảm thấy bí, bị chặn lại... bởi những điều tiêu cực
giới hạn như trong chuyện học hành, công việc... thì họ sẽ dễ nản.  Hiện trong xã
hội, vẫn đầy rẫy nạn tham nhũng, vẫn đánh giá nhau chỉ bằng tuổi tác kinh nghiệm, sống lâu
lên lão làng... Điều này cũng làm sự vận động xã hội nói chung chậm lại.



- Có phải ý ông muốn nói những quy tắc
xã hội chưa chạy theo kịp sự vận động của thời đại?


- Vâng, ta chưa theo kịp ở cái cơ bản nhất , là nhận thức tổng quát về thời đại.

  Lev Landau là  nhà vật lý xô viết  có nhiều đóng góp cho vật lý lý thuyết, nhất là khu vực vật lý lượng tử. Ông Landau này từng nói: "Thời đại của chúng ta là thời
đại của những nghịch lý".

 Trong xã hội hiện đại mọi sự đều thay đổi  như
vậy, không thể giữ mãi một kiểu nghĩ cũ.

Theo
tôi, thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết. Nay
là lúc mọi chuyện tốt xấu nên công khai ra, công nhận nó, chứ đừng đẩy nó vào
bóng tối, lại làm phát triển ngầm hơn.

Tôi
ví dụ, ở một  số nước, người ta cho phép hoạt động mại dâm công khai
miễn là có quản lý chặt chẽ. Còn ở ta, cho rằng mại dâm là trái với thuần
phong mỹ tục, với quan niệm truyền thống phương Đông nên ta chỉ có cấm. Nhưng
ai cũng thấy chỉ cấm được trên danh nghĩa, còn trong thực tế lại để lan tràn.




Hiện
tại chúng ta vẫn duy trì nhiều sự quá khắt khe, mà tiếc thay, cái khắt khe ấy
chỉ ở trên bề nổi, trong thực tế của chúng ta vẫn đầy rẫy những chuyện ta cấm ấy.
Đấy là một biểu hiện của sự giả dối.

Trong
mắt tôi, vụ NSƯT Lê Vân thẳng thắn nhìn nói lên những gì chưa được trong gia
đình là một tín hiệu tốt. Tất nhiên, chẳng có gì là trọn vẹn cả, được cái này
hỏng cái khác. Người Việt hay thích tròn trịa, mà chính vì sự tròn trịa này
nó làm ta bớt sắc đi.



- Sự phát triển kinh tế, xã hội luôn phải đối mặt với sự thay
đổi các giá trị văn hoá. Theo ông thì làm gì để điều tiết cân bằng hiện tượng
này, để giới trẻ dễ đi giữa hai làn đường này?


-
Trong văn hóa học, giá trị có hai dạng. Các giá trị nhân bản thì thời nào cũng
có, như sự tôn trọng xã hội, sống lương thiện, tự do... Lại có những giá trị
chỉ thích hợp với từng thời đại  Một số bài học truyền thống ta đang
giáo dục cho lớp trẻ như phải biết vâng lời hoặc “tốt đẹp phô ra xấu xa
đậy lại”... giờ không thích hợp nữa.





Lớp trẻ cần tự hình thành một hệ thống giá trị mới

- Ông đánh giá cao điều gì nhất ở  lớp người trẻ?

-
Thứ nhất là khả năng dám nghĩ khác và thứ hai là sự thẳng thắn.

Tôi
nhớ mãi câu nói của một thanh niên. Ta hay khuyên họ “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây". Nhưng cậu bạn trẻ này "lý luận", quan hệ mua bán là quan hệ bình đẳng chứ
không phải mang ơn, hệ luỵ: "nhờ tôi mua quả bà trồng bà mới sống
được". 

Cảm giác biết ơn là một giá trị truyền thống. 

Tôn trọng lao
động của nhau, mỗi người có một giá trị đóng góp là một giá trị
hiện đại, hợp thời.

Trong
cách nghĩ ấy, rõ ràng là đã thấy một lớp người khác.



Trong số các phẩm chất cần thiết cho các bạn trẻ, tôi thấy cũng cần đề cao khả năng có những khoảng thời gian đơn độc
với chính mình. Người Việt Nam
thường rất sợ sống một mình. Việc ít đọc sách, ít nghiên cứu cũng là một
biểu hiện. Điều này thể hiện tính bầy đàn cao. Muốn có trí tuệ thì phải dám
đơn độc.



- Hiện tại, xã hội Việt Nam đã phát triển nhiều so với trước,
nhưng một cách thẳng thắn, chúng ta vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, bị thế
giới bỏ xa khá lớn. Theo ông thì có hướng nào để nhanh thu hẹp khoảng cách
này không?


-
Có những người chủ trương như đi tắt, đón đầu. Tôi không ủng hộ. Vì tôi không tin. Chúng ta
cũng phải xác định thẳng với người dân là hò hét mấy cũng không bao giờ đón
đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả
giá.

Chúng
ta đang phát triển nóng quá. Nếu cả  xã hội sống tỉnh táo, bình tĩnh, tự
nhận thức chính xác về mình, làm gì đó theo đúng chuẩn mực, thì bằng những
bước đi chắc chắn , chúng ta sẽ giúp cho lớp trẻ một cơ hội thuận lợi.



- Gác qua những điều kiện hỗ trợ của xã hội, vậy thì bản
thân giới trẻ phải đáp ứng những yêu cầu gì để có thể thực hiện nhiệm vụ thời
đại của mình?


-
Thời đại đòi hỏi ở lớp trẻ một trí tuệ cao lắm. Lớp trẻ hiện tại cũng đang
thiếu một khát vọng lớn lao, thiếu sự nghĩ rằng, mình phải ngang hàng
với các dân tộc trên thế giới.

Tôi
nghe kể một câu chuyện đàm đạo về giấc mơ. Người Việt bảo, mơ
có một cái honda, ô tô. Người Nhật bảo: Tôi có ước mơ là thực hiện được
ước mơ của bạn. Chuyện phiếm thôi, nhưng nó phản ánh tâm lý  của người mình hôm nay là không lo làm chỉ lo hưởng.

Chúng
ta phải có một cuộc tự vấn rộng lớn, xã hội đặt câu hỏi với chính mình, mà từng cá nhân cũng đặt yêu cầu cao với mình. Luôn phải nghĩ
rằng, mọi vấn đề đều có thể có cách làm khác.



- Sự tự vấn ấy được thực hiện dưới hình thức nào?

-
Chúng ta nên có nhiều những cuộc đối thoại với lớp trẻ. Từ chuyện của Lê Vân,
tôi thấy cần có sự đối thoại thường xuyên trẻ - già trong từng gia đình và cả trên phạm vi xã hội. Đặt mình vào
địa vị của nhau, lớp già thì nên biết điều hơn, đừng dạy dỗ nhiều, lớp trẻ
nên thông cảm hơn, hiểu những khó khăn ngày hôm qua...



- Dẫu sao, ông vẫn đặt niềm tin vào giới trẻ chứ?

-
Hồi ở Văn nghệ quân đội, ông  Nguyễn Khải hay bảo tôi, nói chuyện
với lớp trẻ là khó nhất, nhưng chinh phục được "hội nó" lại là thú
vị nhất. 

Khi trưởng thành lên, tôi cũng thấy thế.

 Trong những cuộc đối thoại,
được giới trẻ khen tôi cảm thấy yên tâm, không chừng mình còn sống được với
tương lai.



Tôi
đang viết đều chuyên mục "Thói hư tật xấu người Việt" trên báo Thể
thao - Văn hoá. Tòa soạn bảo chính độc giả trẻ lại quan tâm  hơn, điều
đó động viên tôi rất nhiều.      



Lúc tôi mới vào nghề, người phụ trách trực tiếp tôi là nhà văn Nhị
Ca từng  bảo một câu mà tôi nhớ như chôn vào ruột: "Nhất định các cậu phải làm được hơn chúng mình". 

Câu
ấy không làm cho tôi kiêu căng, mà giúp tôi phải phấn đâu hết mình để đạt được kỳ
vọng. Kỳ vọng của tôi mà cũng của Nhị Ca.

 Ngày nay tôi cũng thường nói thầm như thế với các bạn trẻ xa gần.

Tôi
muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Khi những nỗ lực đã đưa ta đạt tới chuẩn mực thế giới thì  sẽ chẳng ai gạt bỏ nổi.



Lấy một ví dụ thô thiển tôi hay nói với các cháu trong gia đình. Ngành nào cũng vậy mà nhất là ở những ngành thơm tho như ngân hàng tài chính,hoặc ngoại giao "ngoại thớt" " người ta hay xí riêng làm của riêng của ngành mình, tức là đặc biệt ưu tiên cho con cháu các cụ.

Thế nhưng trong sự phát triển và hội nhập hiện nay, các cơ quan đó làm sao chỉ vận động bằng đám trẻ quý tộc chỉ biết ăn hại? Họ cũng rất cần những người thật giỏi.



Bên văn học của chúng tôi thì có hai trường hợp là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Người ta đã tìm đủ mọi cách để gạt bỏ họ. 

Người ta chưa bao giờ cho họ một giải thưởng nào cả, hoặc có lần đã cho rồi lại đòi lại. 

Người ta nhất định không đưa họ vào giảng dạy ở nhà trường. 

Người ta không muốn cho bạn đọc nước ngoài  tiếp xúc với họ dịch họ.

 Thế  nhưng tới nay bất chấp mọi nỗ lực từ phía chính thống, cả trong nước và quốc tế đều công nhận họ xem họ thuộc về những hiện tượng quan trọng nhất của văn học VN sau chiến tranh. Các nhà xuất bản vẫn luôn phải in lại tác phẩm của họ. Các bạn đọc trẻ thì đọc lần đầu. Lớp già như bọn tôi thì đọc đi đọc lại.




Một xã hội nếu như  chưa muốn tự tử thì phải luôn đón chờ những tài năng trẻ.

Tuy
nhiên, hiện giờ vẫn chưa hình thành được hệ thống giá trị mới. Lớp trẻ cần tự
hình thành cho mình. Phấn đấu trong sự đơn độc, cũng như khi bơi ngược dòng, thật ra lại có niềm vui riêng của nó.

- Cảm ơn ông.


Hoàng Lê (thực
hiện) 






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2015 05:23

April 16, 2015

Nhân hai cuốn sách dịch của nhà xuất bản "Kim Đồng"



Bàn về sự khốn cùng của tri thức triết học ở ta hôm nay và

nhu cầu vượt thoát khỏi sự khốn cùng đó




Đã đưa trên FB của tôi 14 và 16-4 thành hai đoạn ngắn,

nay cả hai nhập một




HAI CUỐN SÁCH VIẾT VỀ CÁC VÂN ĐỀ TRỪU TƯỢNG MÀ LẠI DÀNH CHO BẠN ĐỌC NHỎ TUỔI



Nhân đi mua sách cho hai cháu nội, tôi thấy có hai cuốn có những cái tên khá dài, nội dung thì hình như quá cao, quá trừu tượng

-- Cuốn sách về những sự trái ngược mang tính triết học

-- Những câu hỏi hóc búa về đức tin




Cuốn trên -- liên quan nhiều đến triết học -- vốn của nhà xuất bản Nathan bên Pháp, và cuốn dưới -- liên quan tới các vấn đề tôn giáo --- do bộ phận làm sách thiếu nhi của tập đoàn Macmillan bên Anh xuất bản.

Bản quyền bản tiếng Việt của cả hai cuốn trên đều thuộc nhà Kim Đồng.



Hôm nay, tôi mới liếc qua được cuốn thứ nhất.

Chữ nghĩa viết ra không nhiều, nhưng nhìn đầu đề các phần đã thấy đặc sệt chất triết học:

Nhất thể và phức thể

Hữu hạn và vô hạn

...

Thời gian và vĩnh cửu

Tôi và người khác




Đây là cái câu coi như đặt vấn đề về sự cần thiết của cuốn sách

"Tại sao phải suy nghĩ về những điều trái ngược?"

"Bởi thiếu những điều trái ngược, chúng ta sẽ không thể tư duy?"



Câu mở đầu cho đoạn 3 chương Tôi / người khác cũng có cái ý đầy thách thức:



"Mỗi chúng ta đều là duy nhất với bản sắc riêng cần được công nhận và tôn trọng"



Trong chương Lý trí/ đam mê có một câu hỏi.

" Ta nên làm theo lý trí hay theo đam mê?"



Hình ảnh dùng làm minh họa trong sách thì được hình thành và liên kết lại theo những quy luật chi phối ngôn ngữ tạo hình trong nghệ thuật hiện đại. Có thể nhìn qua đã hiểu, xem đi xem lại nhiều lần càng hiểu và càng thích thú hơn.



Tôi không chắc là đám cháu trên dưới mười tuổi của tôi có thể thích được hai cuốn này.

Nhưng tôi cứ mua về để một là tự mình học hỏi thêm, và hai là dần dần bằng cách nào đó, trong những dịp thuận lợi cho các cháu làm quen.

Biết đâu -- trong muôn một - các cháu sẽ tò mò đọc tiếp nghĩ tiếp.



Khi lo làm sách hướng tới một tầng lớp bạn đọc ở lứa tuổi nào đó, người ta thường chỉ tự hạn chế trong cái đối tượng đông đảo tức bộ phận gọi là trung bình. Không ai nhớ rằng còn có một lớp bạn đọc ưu tú vượt lên trên trình độ thông thường, và xã hội cần phải tính tới việc phục vụ họ.



Nhớ những khi đọc loại sách tiểu sử các vĩ nhân -- chẳng hạn cuốn Napoléon Bonaparte của Tarle -- tôi thấy người ta đều viết rằng từ lúc học tiểu học các nhân vật này đã có dịp đọc các loại sách kinh điển của thế giới, kể cả các loại khoa học xã hội.



Lẽ nào chúng ta chỉ chấp nhận rằng trong tương lai người Việt sẽ chẳng có ai vượt lên trên trình độ trung bình thông thường?





NẾU tin rằng chỉ khi có một bộ phận ưu tú xuất hiện -- người xưa gọi là lớp trí thức thượng lưu -- xã hội mới tiến lên được

THÌ hãy tự hỏi ta đã làm gì để chuẩn bị cho những phần tử ưu tú đó?



Trong hoàn cảnh hiện nay, không thể trông chờ vào nền giáo dục do nhà nước đảm nhiệm.

Tùy tâm tùy sức, lớp người lớn tuổi chúng ta phải lo trở thành những nhà giáo dục của con em mình.

Không chừng nhờ thế, một cách ngẫu nhiên, ta lại giúp đỡ cho trẻ ở cả các gia đình khác.





TẠI SAO TÔI LẠI ĐỀ NGHỊ CÁC BẬC PHỤ HUYNH

HƯỚNG DẪN CON EM MÌNH ĐỌC CẢ NHỮNG SÁCH TRIẾT HỌC ?





Vào khoảng 1975 về trước, lực lượng sáng tác của tạp chí Văn Nghệ quân đội ( nơi tôi công tác lúc trẻ ) chủ yếu là các cây bút sinh khoảng trước sau 1930, mới trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, mọi người vừa viết vừa lo nhận thức về nghề của mình.

Chính từ những buổi trò chuyện với các nhà văn hết lòng với nghề như Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu, tôi hiểu về nghề cầm bút ở ta nói chung và trường hợp của lớp người cầm bút ở Hà Nội sau 1945 nói riêng.



Việc đó đã giúp tôi hiểu đươc nghề văn và trước hết là viết được bài về nghề, trong đó có bài báo mang tên Công việc viết văn nhìn dưới góc độ nghề nghiệp đã đưa vào tập Phê bình & tiểu luận của tôi và đưa trên blog của tôi ở địa chỉ

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013...

Trong bài ấy tôi đã ghi lại một câu tôi không rõ lúc đầu ai nói ra, song tất cả đều thấy đúng

"Ở nước Việt Nam hôm nay, trẻ con làm văn nghị luận, người lớn làm văn miêu tả"

Lý do khiến chúng tôi rút ra một nhận thức đau xót như thế, chính là một sự thực: người viết văn ở Việt Nam không được khuyến khích để tìm tòi về mặt tư tưởng.

Cấp trên chỉ khuyến khích chúng tôi viết sao cho mùi mẫn, sinh động, còn về tư tưởng, các nhân vật của chúng tôi và trước hết là bản thân chúng tôi, không cần tìm tòi gì cả chỉ cần minh họa cho các tư tưởng đã được giáo huấn là đủ.

Nhưng chúng tôi không lấy đó làm buồn quá lâu.

Vì chỉ cần nhìn ra chung quanh thì lĩnh vực nào cũng thế. Công nông cơ bản hay trí thức lao động trí óc cũng thế, học tắt trong nước hay học ở nước ngoài cũng thế, trong suốt cuộc đời làm dân hoặc làm cán bộ của mình, chúng tôi chỉ lo quán xuyến các tư tưởng dội từ trên xuống.

Ở các nước khác, học sinh những năm cuối tú tài đã được học triết học với tất cả những nội dung mà triết học thời nay quan niệm.

Còn ở ta thì -- cả sinh viên đại học và những lớp sau đại học -- tuy cũng có được học cái gọi là triết học đấy, nhưng chỉ rất sơ sài, phần chủ yếu cũng là Mác- Lê, mà lại là Mác Lê theo cách hiểu riêng ở VN hôm nay.

Đến bây giờ thì chắc bạn đọc đã hiểu tại sao tôi lại hết sức sung sướng khi nhận ra và vồ vập tìm mua mấy cuốn

-- Cuốn sách về những sự trái ngược mang tính triết học

-- Những câu hỏi hóc búa về đức tin


nói ở đoạn trên.

Tôi cũng không ngại ngần tìm cách tuyên truyền để các bạn khác mua về, trước tiên là cho mình đọc và sau đó là tìm cách giúp con em trong gia đình mình cùng đọc.

Ở tuổi trên 70, điều tôi tha thiết nhất trong lúc này là muốn các bạn đọc thân mến của mình cùng chia sẻ cái cảm tưởng là chúng ta không thể sống mãi trong cảnh dốt nát hư hỏng. Có thể nguyên nhân không phải tại ta, chúng ta bị xã hội này đẩy tới. Nhưng khi đã biết rằng mình đang trong tình trạng bi đát thế nào, thì sự vượt lên lại là bắt buộc. Chúng ta phải hiểu cho được cái kiếp làm người của mình và mong rằng con em mình không phải sống như mình và có khi còn tồi tệ hơn mình nữa.

Một lần nữa, tôi muốn dùng lại cái câu mà nhiều người đã nói trong trường hợp này: “Phải tự cứu lấy mình”.

Bằng sự học, và ở ta lúc này, trước tiên là tự học, cố nhiên.



PHỤ LỤC

Dưới đây, xin dẫn lại một đoạn trong bài Công việc viết văn nhìn dưới góc độ nghề nghiệp nói ở trên. Đặt làm phụ lục với nghĩa chỉ dành cho bạn nào có thời giờ và muốn quan tâm đến nghề viết văn. Tôi thành thực cám ơn nếu đọc xong đoạn này bạn có thể tìm đọc cả bài.



Trong một bài báo viết trước khi mất, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận xét: "Một thời gian có lẽ cũng khá dài, hoặc ngay cả bây giờ, trong xã hội ta có một thứ quan niệm: làm nhà văn chỉ cần viết câu cho gãy gọn, đúng văn phạm, khéo hơn một chút nữa là viết cho dí dỏm…". Ý ông muốn nói do quan niệm như thế, nên không bao giờ lớp nhà văn trẻ trưởng thành nổi.

Nếu được gọi sự vật bằng tên của nó, thì theo chúng tôi, quan niệm mà Nguyễn Minh Châu chỉ trích ở đây là quan niệm tước đi cốt cách trí thức ở nhà văn.

Viết văn chỉ là một hành động tự phát, thấy đời đẹp thì ngứa cổ hót chơi. Mà ở thời đại này lịch sử đã quá nhiều kỳ tích, trong nhân dân đã quá nhiều mẫu người đẹp, hào hùng, nên nhà văn không cần suy nghĩ gì thêm, cứ ghi chép về họ cũng đủ.

Một quan niệm như thế đẻ ra kiểu nhà văn có tính chất nghệ nhân, hoặc ca ngợi hoặc than vãn (khi thấy có một số mặt tiêu cực như hiện nay thì than vãn) mà không bao giờ hiểu bản chất đời sống.

Đó là loại nhà văn giống như xẩm chợ, thiên về nói leo, phát biểu một thứ phản xạ tức thời và nông nổi trước đời sống hơn là chiêm nghiệm suy nghĩ thành thế giới nghệ thuật độc đáo của riêng mình.

Xẩm thì cũng cần, chắc có người nói thế, được công nhận là xẩm tức cũng phải có năng khiếu, có lao động, và như thế là được rồi!

Nhưng ở thời đại nào cũng vậy, điều mà đất nước và nhân dân đòi hỏi là những nghệ sĩ hành nghề một cách tự giác.

Ở những nghệ sĩ này, bên cạnh năng khiếu còn cần nhiều phẩm chất khác: trình độ văn hoá (văn hoá theo nghĩa rộng, chứ không phải bằng cấp của người đi học), khả năng vừa đi vào đời sống vừa đơn độc suy nghĩ, thậm chí không ngại dấn thân vào những khu vực thoạt nhìn tưởng là trừu tượng siêu hình, nhưng nằm trong bản chất của sự sống, những điều hình như không dây dưa gì đến đời thường, nhưng một lúc nào đó, những người bình thường lại rất cần.

Tóm lại cần tạo ra những nhân cách lớn, mà phần vốn liếng tinh thần bao gồm cả quan sát thể nghiệm lẫn kiến thức do sách vở mang lại, từ đó có thói quen sống làm việc của một trí thức. Chỉ những người như thế mới có khả năng vừa nói một cách đầy đủ về đời sống, vừa nâng người đọc lên tầm tư duy mới.

Đó cũng là những người dám lên tiếng về các vấn đề lớn lao của nhân dân đất nước và khi cần, lấy uy tín danh dự của mình ra, bảo đảm cho điều mình nói. Cái cốt cách trí thức ấy cũng chính là tiền đề gốc, để tạo ra những giá trị có tính chất nhân bản sâu sắc.



















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 16, 2015 08:29

April 5, 2015

Bị cầm tù bởi quá khứ



Do nhu cầu làm báo, mấy chục năm liền trước khi về hưu, tôi thường phải đọc lại báo chí tiền chiến ngày Tết để làm hàng phục vụ người đón xuân thời nay.

Nay đã đến lúc đọc lại chính cái viết về Tết của thời mình – tức là các bài báo tết từ sau 1945 tới nay, nhất là từ sau 1975 --, ấn tượng chính còn lại trong đầu óc tôi là một sự khác biệt:

-- người viết văn viết báo tiền chiến thường đứng trên góc độ của con người hiện đại, trở về với dân tộc hết sức thiết tha, nhưng bao giờ cũng có sự phê phán. Hoặc nếu không thì cũng cảm thấy quá khứ là một cái gì tốt đẹp nhưng đã vĩnh viễn qua rồi không bao giờ còn trở lại nữa, người ngày nay phải sống khác.

Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ .. là những người nói đến cùng cái tầm thường dung tục của cách ăn tết ngày xưa.

Còn Thạch Lam mở ra một cách nhận thức mẫu mực, vừa thấy nét đẹp cổ điển của Tết, vừa khẳng định rằng thời đại của những cái Tết cổ truyền đã qua xã hội đang tìm tới cách đón tết thời cũ chưa từng biết.

-- Trong khi đó, nhiều bài báo Tết thời nay gần nhau ở cái điểm phục cổ: chỉ thuần một giọng ca ngợi những cái Tết xưa, ra cái điều rằng ở đó tất cả là tốt đẹp, chúng ta phải gắng làm theo, không cần cải tiến thay đổi chi hết.

Không những đối với Tết mà với nhiều phong tục tập quán thời xưa, chúng ta cũng có thái độ như vậy.

Lý tưởng hóa quá khứ đang là khuynh hướng bao trùm tâm lý con người, chi phối sự phát triển xã hội.

Đáng lẽ phải thấy quá khứ có nhiều khuôn mặt thì ta lại chỉ cho nó có một khuôn mặt duy nhất. Trong khi giải quyết các vấn đề xã hội ta chỉ nhăm nhăm dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ coi đó là thư thuốc bách bệnh.



Tôi tự giải thích về tình hình ấy như sau:

Chiến tranh kéo chúng ta lại Sự kiện lớn nhất chi phối đời sống gần ba phần tư thế kỷ nay vẫn là chiến tranh ba mươi năm.

Trước chiến tranh, chúng ta có một xã hội đang hiện đại hóa mà do chỗ nó được tiến hành dưới sự bảo trợ của người Pháp nên chúng ta vẫn không chịu công nhận nó là văn minh tiến bộ, vẫn xem xã hội đó không phải là của mình.

Nếu được gọi sự vật bằng cái tên của nó, phải nói cuộc chiến tranh mà chúng ta tự nguyện tiến hành đã đập vỡ cái xã hội ấy ra. Chỗ này chỗ kia có thể khác, nhưng trên đại cục thì xã hội trước 1945 đã bị giải cấu trúc. Hệ thống quốc gia được tổ chức theo kiểu một đạo quân và hậu phương của đạo quân đó tuy còn gọi là xã hội song chỉ còn là cái vỏ ngoài, ngoài những bộ phận bảo đảm cho hàng ngũ người mặc áo lính chiến đấu, thì mọi thiết chế khác đều đã phá sản.

Cái xã hội đi dần sang hướng hiện đại thời Pháp thuộc bị chúng ta đơn giản hóa và đưa nó về tình trạng tiền hiện đại. Trong bộ phận chủ đạo, bộ phận sau này trở thành bên thắng cuộc, có người hiểu cái giá mình phải trả, nhưng vì nhu cầu trước mắt không thể làm khác. Mọi lý lẽ được huy động để chứng minh việc trước mắt là duy nhất đúng.

Hiểu biết Sau chiến tranh mặc dù tuyên bố là đặt mình vào công cuộc phát triển, nhưng thế nào là phát triển thì chúng ta không biết.

Cái khuôn mẫu mà sau chiến tranh chúng ta muốn xây dựng chỉ là khuôn mẫu mà chúng ta đã phá, thậm chí về nhiều mặt đưa tới tình trạng tiền hiện đại như trên vừa nói. Mọi sự gọi những là hội nhập là ra với thế giới chỉ là trong thế bức bách phải làm. Đội quân cũ được phân công đi làm kinh tế đi làm giáo dục. Mọi khái niệm về văn minh văn hóa chi phối con người sau chiến tranh chỉ là những cái thời tiền chiến ta còn nhớ được, cộng với những cái mới lõm bõm học được từ nước ngoài.

Niềm tin Không chỉ có cách sống mà cả trong tư duy, ở những con người từng hết lòng vì chiến tranh cũng thấy có sự trở lại với những khuôn khổ của cái tư tưởng đã hướng dẫn người ta làm cuộc chiến tranh. Khía cạnh thứ nhất, mà cũng là khía cạnh bao trùm trong suy nghĩ con người lúc này: quá khứ là muôn vàn tốt đẹp.

Chỉ có quá khứ có giá trị.

Tương lai sẽ giống như quá khứ, trên cái mạch của quá khứ.

Lẽ tự nhiên một tâm thế nhất quán là sự sùng bái quá khứ được hình thành. Từng con người tự nguyện sống lại quá khứ, mà cả xã hội cũng không mong mỏi gì khác.

Trong chiến tranh cả xã hội sống bằng một niềm tin trung cổ kiểu như “chân cứng đá mềm” “có công mài săt có ngày nên kim”, “Dù có bao nhiêu gian khổ, chính nghĩa sẽ thắng”.

Khi sự kiên trì giữ vững niềm tin đó được kết thúc bằng một sự kiện mà ta ao ước và gọi chung là chiến thắng thì cũng là lúc tâm trí chúng ta đã đông cứng lại trong một niềm tự tin cao độ, rất gần với sự tự lừa dối.

Ta tin tưởng rằng đã đánh nhau được thì làm gì cũng được. Vốn đã quá mệt mỏi vì chiến tranh chúng ta không muốn tìm tòi gì nhiều. Tương lai tìm trong quá khứ một hình bóng phát triển duy nhất. Mọi cảm tình được dành cho quá khứ, cái quá khứ bị lý tưởng hóa và chỉ có một nghĩa duy nhất. Một cách tự nhiên, những con người hậu chiến thực ra đã trở lại với cái nếp sống trung cổ lúc nào không biết. Mọi phương tiện được huy động để phủ lên sự nhốn nháo bên trong một vẻ ổn định bề ngoài.

Đã từng có những cách nghĩ khác Không chỉ riêng ta, nhiều cộng đồng khác, nhiều dân tộc khác, nhất là những dân tộc từng có một quá khứ anh hùng cũng đang trong một tình trạng dằng xé như vậy. Chẳng hạn như ở nước Nga. Ở bên ấy, cả trong thời xô viết lẫn thời gian sau 1991, sức níu kéo của quá khứ đều khủng khiếp. Để biện hộ cho sự trì trệ trong tư duy, người ta lớn tiếng lên án những kẻ muốn thay đổi, cho đó là sự vong ân bội nghĩa.

Và sự bảo thủ đã được đúc kết thành những câu nói có cánh. Như cái câu mà người ta thường bảo là của Rasul Gamzatov "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào bạn bằng đại bác" .

Trong khi đó, trong một bài bình luận chính trị gần đây, bài Những xiềng xích của lịch sử Đông Á (http://nghiencuuquocte.net/2015/01/26... ) tôi thấy tác giả Brahma Chellaney dẫn lại một câu ngạn ngữ : “Quên đi quá khứ thì mù một mắt, sống trong quá khứ thì mù cả hai”.

Mà đó lại là một câu ngạn ngữ của chính người Nga.



Ở ta cũng có tình trạng tương tự. Chúng ta có một xã hội ta chỉ chấp nhận có một cách nghĩ của đa số, xem đó là cách nghĩ duy nhất, còn mọi ý tưởng xa lạ với cái chính thống đó, nếu không bị phê phán thì cũng bị bỏ qua. Cách làm lịch sử lại cũng theo kiểu đó mà tiến hành. Khi đọc lại sách báo cũ, những người làm sử hiện đại chỉ chọn ra những gì hợp với thời mình, minh họa cho “giai điệu chính” đang được mọi người công nhận. Còn như mọi ý nghĩ ngẫu nhiên bột phát có thể không đúng trong tình hình ấy song lại đúng về sau - thì chẳng ai buồn nhớ.

Với một sự sáng suốt và phục thiện tối thiểu, mọi người chúng ta -- tôi tin là vậy - đều có thể tìm ra trong ký ức của mình những điểm sáng mà lâu nay bị gọi là lạc dòng nên đẩy vào trong quên lãng.

Phần tôi, dưới đây tôi dẫn lại một bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh làm trong khoảng thời gian tạm gọi là mười năm đen tối 1975-1985.

Vào một dịp khác tôi sẽ đặt bài thơ trong quá trình phát triển của xã hội hậu chiến và sự phát triển tư tưởng của tác giả; ở đây chỉ xin nêu lên một khía cạnh chủ yếu mà nhà thơ -- trong khi bám chắc vào cách dẫn dắt của một bài thơ tình — thật ra đã chạm tới cả một vấn đề lớn làm nên định hướng của xã hội:

-- công nhận là quá khứ tốt đẹp thật nhưng trong đó rất nhiều điều ngây ngô đơn giản và nếu làm lại ta sẽ chẳng làm như thế.

-- dù quá khứ tốt đẹp đến đâu thì nó cũng không phải là cái mẫu chúng ta làm theo. Mỗi thời mỗi khác, chúng ta phải biết tự khác đi trong hoàn cảnh.



CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ

Có một thời vừa mới bước ra

Mùa xuân đã gọi mời trước cửa

Chẳng ngoái lại vết chân trên cỏ

Vườn hoa nào cũng ở phía mình đi.



Đường chẳng xa, núi không mấy cách chia.

Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn

Trang nhật ký xé trăm lần lại viết

Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau.



Có một thời ngay cả nỗi đau

Cũng mạnh mẽ ồn ào không giấu nổi

Mơ ước viển vông, niềm vui thơ dại

Tuổi xuân mình tưởng mãi vẫn tươi xanh



Và tình yêu không ai khác ngoài anh

Người trai mới vài lần thoáng gặp



Luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng

Tôi đã cười đã khóc những không đâu

Một vầng trăng niên thiếu ở trên đầu

Một vạt đất cỏ xanh rờn trước mặt...



Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc

Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa

Chi chút thời gian từng phút từng giờ

Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt

Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết

Hôm nay non, mai cỏ sẽ già.



Tôi đã đi mấy chặng đường xa

Vượt mấy núi mấy rừng qua mấy biển

Niềm mơ ước gửi vào trang viết

Nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư



Em yêu anh hơn cả thời xưa

(Cái thời tưởng chết vì tình ái)

Em chẳng chết vì anh, em chẳng đổi

Em cộng anh vào với cuộc đời em

Em biết quên những chuyện đáng quên

Em biết nhớ những điều em phải nhớ



Hoa cúc tím trong bài hát cũ

Dẫu vẫn là cung bậc của ngày xưa

Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ

Nhưng đâu phải là điều em luyến tiếc.




Bài thơ làm 11-1984, in lần đầu trong số tết của báo Phụ nữ Việt Nam 1985 và có in lại trong các tuyển tập của tác giả, nhưng thường ít được chú ý. Ngày nay, người ta có xu hướng coi Xuân Quỳnh xa lạ với các vấn đề xã hội và chỉ là nhà thơ của tình yêu.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 05, 2015 08:28

March 31, 2015

Sự đỏng đảnh của mùa xuân trên đồng bằng Bắc bộ



Ở cơ quan tạp chí Văn nghệ quân đội trước 1975, Nguyễn Minh Châu nổi tiếng là … hay sổ ra những câu ngược đời.

Chẳng hạn trong khi ai cũng nói là mùa xuân đẹp mùa xuân mơn mởn sức sống, thì có lần ông cho mọi người thất vọng bằng một câu xanh rờn:

-- Chính ra ở mình, mùa xuân lại là mùa bẩn nhất. Đấy các ông thử nhìn xem đường xá lầy lội có kinh không? Làng nào còn ít bụi tre, thì xuân này lá tre rụng đầy đường, mà chính các thân tre lại xơ xác trông gớm chết đi được !





Quá nhiều bất trắc

Lúc nghe, vì quá sốc nên chúng tôi gần như lặng đi không nói gì.

Chỉ khổ một nỗi về sau nghĩ kỹ lại, thấy đúng.

Không ai dám nói tuột ra như Nguyễn Minh Châu, nhưng đúng có lúc ngại xuân thật !

Mưa phùn gió bấc, hơi một tí thì lạnh, hơi một tí lại nóng.

Vừa trở gió, cửa nhà đã nhoe nhoét vì nồm. Muỗi ở đâu ra mà dầy như trấu. Nỗi sợ viêm họng với sợ sưng phổi làm người ta quên cả ngắm cảnh đẹp.

May lắm thì chúng tôi chỉ còn tự an ủi rằng phải nói mùa xuân quá nhiều vẻ. Nó mang trong mình quá nhiều tiềm năng. Cũng giống như việc đời, nó đỏng đảnh, nó bất trắc. Tức là luôn luôn có thể thế này và có thể thế khác, đẹp đấy mà cũng nhếch nhác ngay đấy.



Nham nhở pha tạp

Mấy hôm mùng một mùng hai bận bịu vì nghi thức và ăn uống, chính ra vẻ không khí Tết hơn cả lại là rằm tháng giêng.

Lễ tết quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng. Từ nhỏ tôi đã được nghe nói như vậy, và càng lớn càng thấy nó đã ăn sâu vào tâm lý mọi người đến như thế nào. Người đi lễ nườm nượp từ sáng đến tối.

Tết Đinh Tỵ (1977) lúc đã muộn, khoảng mười giờ đêm, tôi mới đi bộ ra đền Quan Thánh ( vì Văn nghệ quân đội gần đấy), trở về chỉ nhớ hai chi tiết.

Một là nhiều người đến chậm, không chen được vào cắm hương, quay ra cắm cả vào các ngách tường gốc cây ngoài sân; hai là sau khi khách đến lễ ra về, các vị hành nghề ở đền ( chữ gọi là thủ từ ) để đỡ mệt mỏi, quay ra xả hơi bằng cách … mở băng Sơn ca 7 của Trịnh Công Sơn.

Hôm sau kể với Nguyễn Khải, ông cười sặc sụa, bảo là bịa, nhất định không tin.

Tôi thì tôi nghĩ, chẳng qua nó chỉ cho thấy một tình trạng hỗn độn mà lớp người cũ như chúng tôi không quen. Hỗn độn, nham nhở, pha tạp, không thuần khiết, những cái chả ăn nhập gì với nhau lại đặt cạnh nhau …, đó là tình trạng có thể gặp ở bất cứ đâu trong mùa xuân.



Thần thánh cũng đỏng đảnh

Nhân chuyện lễ bái ngày tết, còn nhớ một câu tục ngữ:

Ăn trộm ăn cướp thành Phật thành tiên

Đi chùa đi chiền bán thân bất toại.


Hình như có một thời xã hội có sự phân chia rành mạch. Đã ăn cắp thì không dám tính chuyện đi đền đi chùa. Ngược lại lễ bái là cả một việc thiêng liêng mà chỉ những người tin chắc ở sự lương thiện của mình mới thành tâm theo đuổi.

Hai loại người hai cách sống, rành mạch đâu ra đấy.

Còn ngày nay, càng những người “có chuyện“, bao gồm từ đám buôn bán bất chính giả dối lừa lọc cho tới các loại hối lộ, tham ô ăn cắp ( nói nôm na thì tham nhũng cũng chỉ là một loại ăn cắp ) lại càng kỹ càng trong việc cúng bái.

Thành ra cuộc đời cứ nháo nhào cả lên. Về mặt ý nghĩa, tình trạng đỏng đảnh ở đây cảnh báo một sự thật: mọi chuyện không phải bao giờ cũng công bằng, sự thành tâm không phải bao giờ cũng tương ứng với hậu quả, không riêng gì con người mà thiên nhiên và thần thánh cũng đỏng đảnh, và đấy chính là sự hấp dẫn của những thế lực siêu phàm ấy.



Cái mong mỏi thành cái đáng sợ

Mỗi đợt chuyển mùa lại cho người ta thấy một sự bất ngờ mới của thiên nhiên.

Như mùa đông năm ấy, 2006. Ba bốn tháng liền, gần như không mưa.

Trời đẹp, nhiều hôm nghe mục thời tiết trên truyền hình “Chúc các bạn có những ngày nghỉ cuối tuần tuyệt vời“ cứ thấy nao nao.

Vẫn biết nắng vàng trời hanh thì thú vị thật, nhưng tận trong đáy lòng, vẫn nhớ những ngày mưa, hình như mình quen với mưa hơn.

Cầu được ước thấy, cả tuần trước tết Nguyên tiêu, không có lấy một ngày nắng trọn vẹn.

Lúc nào bầu trời trên đầu cũng lảng vảng những đám mây.

Lúc nào trời cũng ủ mưa. Cái nẳng thoang thoáng. Có thể sắp nắng bừng lên nữa. Mà cũng không chừng lại sắp mưa.

Rồi mưa thật, nhưng là mưa đến phát ngán.

Mưa gợi cảm giác trốn đâu cũng không thoát.



Những ngày khô hạn đã dạy cho tôi biết thế nào là sự quyết liệt của đời sống.

Đành an ủi rằng mấy năm nay, cả trái đất nóng lên.Nhiều thành phố nằm sát mép nước biển bên Italia có khả năng bị nước tấn công. Năm ngoái năm kia bên Paris khối cụ già chết vì nắng cơ mà.



Những quy luật mới

Bây giờ cái gì cũng thái quá.

Chuyện mưa thuận gió hòa chắc chỉ còn trong sách vở.

Những ngày dở dang mưa nắng lại càng dạy tôi tập quen với mọi diễn biến sắp tới.

Điều gì cũng có thể xảy ra, kể cả những điều xấu nhất lẫn những điều tốt nhất.

Đấy là quy luật của đời sống hiện đại.

Một nỗi buồn dù to lớn đến đâu, khi ta nhận thức được thì tự nó cũng mang lại một niềm vui chân chính.

Câu nói đã thành công thức ấy, hôm nay với tôi vẫn là một phát hiện



Đã in trong Những chấn thương tâm lý hiện đại,2009
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2015 08:21

March 26, 2015

Vũ Hùng và những trang sách không chỉ dành cho bạn đọc nhỏ tuổi




Lời giới thiệu viết cho bộ sách 

các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Vũ Hùng 

 nxb Kim Đồng,  2014







Thiên
nhiên dữ dội , thiên nhiên hùng tráng 


 Cũng như các bạn trẻ bây giờ, các cuốn tiếng
Việt  mà tôi học ở tiểu học cũng có nhiều
bài nói về thiên nhiên cây cỏ. Nhưng thiên nhiên trong những bài đó thường chỉ
thu vào những cảnh tượng đơn sơ nhỏ hẹp.
Những cánh đồng phì nhiêu, cây đa đầu làng, dòng sông bến nước --,cảnh vật  gợi ra một cảm giác êm đềm thơ mộng nhưng đơn
sơ quanh quẩn.



Trong các câu chuyện mà
tôi được nghe người trong gia đình kể lại, thiên nhiên lại còn là một cái gì khủng
khiếp. Mưa to gió lớn mà bọn tôi sống trong những căn nhà dột nát, làm sao
không thấy ghê sợ. Nghĩ tới những miền đất xa xôi người lớn trong nhà thường gọi
đường rừng thường kèm thêm với mấy
chữ ma thiêng nước độc, lại thấy con
người mình như nhỏ bé quá.



 Những ấn tượng ấy còn theo tôi khi  đi học và bắt đầu tiếp xúc với sách vở. Lúc học
tiểu học tôi chưa được biết tới Đất rừng
phương Nam
của Đoàn Giỏi, Hương rừng
Cà Mâu
của Sơn Nam, mà chỉ biết tới một số tác phẩm như Truyện đường rừng của Thế Lữ, cảm tưởng
chính về rừng rú vẫn là tăm tối bí hiểm và gợi nhiều đe dọa.

Giới thiệu tác phẩm của
Vũ Hùng mà các bạn sắp đọc, trước tiên tôi muốn nói là vào đây các bạn sẽ gặp một thứ thiên nhiên muông thú cây
cỏ khác.

Nhà tiểu thuyết Nguyên Hồng từng viết nên những câu
thơ kỳ lạ, nói rất trúng cái thần của một vùng thiên nhiên Miên - Lào mà ông chỉ
biết do đọc sách chứ chưa hề đặt chân tới


Kông chảy

Cây lao đá đổ

Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương

Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn


Ngẫm
nghĩ voi đi

Thác Khôn cười trắng xóa


Trong việc miêu tả thiên nhiênVũ Hùng cũng đi theo mỹ
cảm  tương tự. 

Thiên nhiên trong văn ông
có một vẻ đẹp nhưng là cái đẹp nam tính, cái đẹp khỏe mạnh. Tiếp xúc với một
thiên nhiên như vậy, con người ban đầu có thể hoảng sợ, nhưng khi đã hiểu đã  gắn bó rồi lại thấy như có thêm sức mạnh và muốn
vươn lên sống ngang tầm với thiên nhiên đó.




 Nói về tính hai mặt của rừng, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của
nhà R. Laffon bên Pháp ( bản dịch của Nxb Đà Nẵng 2002), viết rằng -- cũng như
tất cả những biểu hiện mạnh mẽ của đời sống -- rừng là nơi sản sinh ra  vừa sự lo lắng lẫn sự bình tâm, sự ức hiếp và
lòng thiện cảm.
  Vũ Hùng cũng chia sẻ với
ta cái cảm giác hai mặt đó.




Cái cảm tưởng đêm ngủ rừng
nói sau đây đúng là cảm tưởng của một thanh niên mới lớn, đang trên đường tìm
hiểu và chinh phục thiên nhiên:

“Lửa bốc mạnh. Lửa càng bốc,
bóng tối càng như dày đặc. Cây cối mang từng vệt lửa đỏ vặn mình ngả nghiêng.
Con suối đánh đàn thánh thót dưới chân. Rừng đêm lạ lùng như vậy: Bóng tối làm
ta lo sợ  nhưng con suối thì vẫn diụ dàng
êm ái“
(Giữ lấy bầu mật).

Từ toàn bộ tác phẩm của
Vũ Hùng thấy toát lên hình ảnh cao đẹp của con người  chinh phục hoàn toàn tự nhiên. Vượt lên trên mọi
sự hoang dã,  chính họ sẽ trở nên hoàn
thiện và tràn trề hạnh phúc.

 

Những
quần thể động vật biết sống hài hòa


Điều quyến rũ thứ hai mà
tôi từng tìm thấy ở các tác phẩm Vũ Hùng là cuộc sống của một bộ phận lớn làm
nên cái thiên nhiên hoang dã nói trên– đó là cái sinh hoạt của các động vật
trong rừng-- các giống muông thú.

Từ Dế mèn phiêu lưu ký đến các nhân vật trong O chuột của Tô Hoài rồi trong này là  Văn Ngan
tướng công, Cái tết của mèo con…
, nhiều loại vật đã nhiều đời trở thành
nhân vật của các truyện .

Thông thường, các truyện
đưa ta vào trong thế giới hiền hậu đáng yêu của những con vật chúng nhỏ bé. Còn
những con lớn thường bị đổ cho đủ mọi thói xấu. Sống bên những  loài bị coi là độc ác hung dữ đó, còn các
loài thú nhỏ muốn tồn tại phải tinh ranh nhiều khi đến mức gian trá.

 Tại sao lại có tình trạng như vậy? Chúng ta là
một cộng đồng xa rừng nhạt biển. Trong cơ cấu nông nghiệp cuả ta, nghề chăn
nuôi không phát triển, chỉ có dạng nuôi nhỏ lẻ trong các gia đình, lấy thịt ăn.
Chăn nuôi các gia súc lớn là chuyện hiếm hoi. 
Việc thuần dưỡng các loại thú vật hoang dã để phục vụ cho lao động con
người ở ta không có.

  

Trong cách miêu tả của Vũ Hùng, giới động vật
miền rừng hoàn toàn có đặc điểm mà các thế hệ người Việt ít biết.  

Chúng mang tất cả những đặc điểm của thiên
nhiên vừa nói ở trên. 

Và cũng như thiên nhiên chúng trở nên gần gũi với con người. 

Sau đây là mấy nét  chủ yếu về thế giới
các động vật tổng hợp từ các trang viết của Vũ Hùng về các loài thú:

-- Mỗi loài sinh ra như
có cái lý riêng của nó, mỗi loài có cái hay này đỡ cho chỗ dở kia, mỗi loài
mang vào thiên nhiên một khía cạnh làm giàu cho thiên nhiên. Các loài lớn như voi
như hổ không hề phung phí sức lực để khoe khoang và làm hại các loài khác. Còn
các loại thú nhỏ và ít khả năng tự vệ như một loài chim mấy anh em nhà hươu thì
lại khôn ngoan với nghĩa biết điều và  biết
tìm ra một không gian sống của riêng mình.

--  Sự thông minh của mỗi loài tập trung vào hai
khía cạnh, kiếm ăn và duy trì nòi giống.

-- Trong một loài, luôn
luôn có mối quan hệ tốt đẹp con nọ chung sống với con kia, kẻ yếu được kẻ mạnh
che chở. Ngay giữa các loài  khác nhau
cũng vậy, mối quan hệ là đùm bọc che chở, là “cùng tồn tại một cách hòa bình”,
như khao khát của con người đương đại về tình hữu ái giữa người với người.

-- Nhưng trong cuộc sống
luôn luôn cũng kèm thêm những tai họa. 

Chú ngựa non  Antai cùng bè bạn bị những bày sói đến
rình.

Trên đường đi tìm một miền đất
sinh sống, Sao Sao và Nai bông, bị cọp rình mò, Nai bông phải hy sinh để cứu bạn.

 Hình như mỗi con thú thông minh đều biết rằng trong những trường hợp hiểm nguy,
sự hy sinh là cần thiết, kẻ sống sẽ thay kẻ chết tiếp tục đưa cả cộng đồng tới
đích.




Ấn tượng nhất đối với tôi là những trangVũ Hùng viết về
voi.

Voi như tượng trưng cho thiên
nhiên hoang dã. Voi sống thành từng bầy, trong mỗi bày luôn luôn có một trật tự
ngự trị.  Để kiếm ăn trên một không gian
rộng lớn, bao gồm cả những ngày dài phải chuyển vùng  đi lại, các đàn voi  có cách tổ chức riêng , cách quan hệ riêng với
nhau, giống như một thứ pháp luật mà mọi thành viên cùng tôn trọng. 




Có hai lầnVũ Hùng miêu tả
cái chết của voi. Một lần là hành vi tự sát của một con voi không chịu thuần phục
mà chỉ muốn sống đời hoang dã. Và một là cái chết chung của một gã voi đực từng
có thời gian rất oai hùng. Cả hai đều là những cái chết bi tráng.

Tổng hợp lại, tác giả viết:
"Không bao giờ con voi già chịu chết dễ dàng,
bác Bun Mi nói. Có lần
tôi đã thấy xác một
con voi già chân đạp
lên xác một con hổ và bên cạnh nó là một con báo đang hấp hối.
Cái vòi con voi bị những chiếc vuốt
cào rách bươm nhưng con hổ thì mang hai vết ngà sâu hoắm ở ngực
còn con báo thì bị quật gãy xương sống. Con voi già đã chết
sau trận thắng cuối
cùng."

Trong
rừng gần như mọi con voi đực đều đi
đến cái kết thúc bi thảm
đó. Chúng không bao giờ được
sống trọn tuổi già, không bao giờ được
chết một cái chết bình yên”.

Đọc những đoạn như thế này, tôi  thấy nao nao trong lòng, tự cảm thấy có một sự
kính phục như khi được biết về những bậc anh hùng cái thế.




  Con người
như một bộ phận  của thiên nhiên   


 Hồi kháng chiến chống Pháp, những người lính
tình nguyện Việt Nam sống trên đất Lào có một cuộc sống đặc biệt mà có lẽ các
thế hệ ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Là một người lính quân báo, Vũ Hùng
và đồng đội sống giữa lòng dân, hành quân di chuyển  do người dân hướng dẫn, vào đồn thu thập tài
liệu phục vụ mặt trận xong có khi lại về nghỉ ngơi sinh hoạt cùng với dân.

Từ đó hình thành tình yêu
của tác giả với những con người của xứ sở Triệu Voi, một tình yêu bền bỉ bao gồm
cả kính trọng sâu sắc. 

 Họ là người Lào, người Miên và ở ven Trường
Sơn, là người Khạ, người Maca. Các dân tộc  chung  một
tình yêu mến đồng loại  cũng như yêu mến
mảnh đất đã nuôi sống mình.

Trên cái nền thiên nhiên hùng
tráng dữ dội như đã nói, con người không tìm cách lảng tránh mà nhập vào như một
bộ phận hòa hợp. Họ vừa biết khai thác thiên nhiên một cách thông minh để phục
vụ cho cuộc sống trước mắt, lại vừa  biết
giữ gìn và bồi dưỡng  thiên  nhiên để tạo nên sự trường tồn .

 Trải qua nhiều đời, ở họ đã hình thành những
phẩm chất cần thiết. Nhìn nhận thiên nhiên một cách hợp lý. Khiêm tốn xem mình
như một bộ phận của thiên nhiên để mà tìm ra một cách sống hài hòa với hoàn cảnh.
Học hỏi thiên nhiên để tổ chức chính cuộc sống của mình.




Trong việc miêu tả con
người bản địa Vũ Hùng có một sự quan tâm đặc biệt tới những người làm nghề
thành thạo. Nổi bật  lên trong cộng đồng
người Lào bình thương là các bác thợ săn. 

Là ông Pôông và em Bru trong Mùa săn trên núiGiữ lấy bàu mật.  Đặc biệt là
bác Bun Mi trong Phía Tây Trường Sơn
 Sống giữa bầy voi .

Chẳng những giỏi săn voi
mà còn  hết sức thông minh  trong việc chăm sóc và thuần dưỡng voi. Chẳng
những thông thạo quy luật chung của cả bầy đàn mà  biết cách đối xử với  các loại voi Cá biệt. Đó là bác Bun Mi. 

Trong
một con người bác như thấy kết tinh những kinh nghiệm sống và làm người của nhiều
thế hệ.

Có lần người quản tượng Bun Mi nói với tác giả:

--Hãy đối xử với bầy voi, những kẻ giúp việc ta, như đối
xử với con  người.

 Khi tìm hiểu
quan niệm và  cách đối xử với các loài động
vật của bác thợ săn này , ta sẽ hiểu ra mối quan hệ giữa người với người trong
xã hội Lào.




Các
hồi ký hay là cuộc sống làm người  thời
gian đất nước thanh bình


Những năm tám mươi của thế
kỷ trước, đọc Vũ Hùng, tôi sớm nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên hùng tráng và cuộc
sống hài hòa của những loài thú, kể cả các loài hoang dã. 

 May mắn cho tôi là, nếu mấy chục năm trước
cùng đọc với con trai, thì hôm nay lại có dịp 
đọc với các cháu nội.

 Ở tuổi 70,  tôi vẫn bị Vũ Hùng lôi cuốn  từ tập này tới tập khác. Và tôi chợt nhận
ra  ở trang sách của Vũ Hùng còn có một bề
sâu khác, đó là chiều sâu nhân bản, nó bao quát từ những mảng miêu tả thiên nhiên muông thú mà ở trên đã nói
cho tới những con người như một bộ phận chủ đạo mang lại cho thiên nhiên một sự
định hướng .

Thiên nhiên trong Vũ Hùng
có tính hợp lý cao độ. Đó không phải là một thiên nhiên hỗn độn. Ngược lại ở
đây  luôn luôn ngự trị trật tự và một cái
gì đó giống như sự lương thiện.

Khi viết về loài nào, Vũ
Hùng cũng thường chú ý tới việc chúng được  cha mẹ 
hướng dẫn  ra sao khi bước vào đời.
 Trường học đầu tiên là các gia đình. Ngựa
An tai học làm ngựa trong sự hướng dẫn ân cần của mẹ.  Hươu sao được cha mẹ đặc biệt khuyến khích
trên đường đi tìm những vùng đất mới. Các gia đình không níu kéo và bênh vực những
trẻ lười biếng, trái lại muốn đào tạo chúng thành những con thú tự tin tự trọng,
dám đối mặt với mọi thách thức của đời sống.

 Tại sao lại có một thiên hướng rõ rệt đó, từ
lâu tôi đã tự hỏi mà không biết. Chỉ  đến
 thời gian gần đây, đọc các đoạn hồi ký Vũ
Hùng viết về gia đình mình trong Mái nhà
xưa,
thì tôi mới thật hiểu. Chính Vũ Hùng đã được giáo dục trong một môi
trường nhân bản mà ông đã miêu tả.




 Qua  những
trang phác họa của Vũ Hùng về song thân của ông, người chị cả, người anh lớn,
những người hàng xóm như một bác già nuôi chim và bán chim, một chị vú em…người
đọc các thế hệ sau có thêm hiểu biết về con người Việt Nam trong  một giai đoạn lịch sử thanh bình thịnh trị.

 Đó là thời con người sống biết điều và nhân hậu, phân biệt thiện ác rõ ràng, biết
cái tốt phải theo và cái xấu phải từ bỏ.

 Từ trong việc kiếm sống, việc học hỏi
và giáo dục bọn trẻ, việc đối xử với thiên nhiên..  mọi người đều tự nguyện tuân theo những
nguyên tắc nhân bản cao cả, nhờ thế họ luôn tìm được niềm vui sống đơn sơ mà chắc
chắn. 

Về sau trong hoàn cảnh tàn phá của chiến tranh, các gia đình đó những con
người vẫn  đứng vững và những kinh nghiệm
sống còn nguyên giá trị với các thế hệ tiếp tức là chúng ta hôm nay.




 Ngòi bút tri thức

 Không phải 
chỉ ở Việt Nam mà với nhiều nước, truyện viết về thiên nhiên loài vật không
được chú ý đúng mức và thường có sự phát triển thiên lệch. 

Theo nhận xét  Ernst Thompson Setor (1860-1946) là một nhà
văn người Canada gốc Anh, “Từ trước tới nay, người ta  mới biết những câu chuyện ngụ ngôn, những
truyện cổ tích về các con vật, những câu chuyện mà loài vật nói với nhau, xử sự
với nhau chẳng khác gì những con người – trong trường hợp này chúng chẳng qua
là những con người được bộ lông áo của loài vật
” (Dẫn theo lời giới thiệu trong
cuốn Ernst Thompson Setor --Truyện loài vật—nxb
Văn học H. 2011)

 Thompson Setor đã mang lại cái mới bằng cách đối
xử với thế giới động vật một cách nghiêm túc đồng nghĩa với một tinh thần
nghiên cứu công phu về đối tượng và   nhìn nhận chúng theo những nguyên tắc thiêng
liêng của sự sống.

Mọi sự so sánh đều khập khiễng, tuy nhiên tôi cứ nhớ tới
nhà văn Canada vừa dẫn  khi tiếp xúc với
con người và những trang sách của Vũ Hùng.




Đọc tác phẩm viết cho thiếu
nhi ở nhiều nhà văn khác, ta chỉ có cảm tưởng tác giả giỏi quan sát. Vũ Hùng
cũng giỏi quan sát và có những trang văn tinh nghịch hợp với tuổi trẻ. Nhưng vẻ
tươi trẻ ở các trang sách trong Mùa săn
trên núi, Sống giữa bầy voi
 không đồng
nghĩa với vẻ nhí nhảnh giả bộ ngây thơ mà ngả sang cái gì trầm hùng. Miêu tả ở Vũ
Hùng là kết quả của cả đọc lẫn nghĩ.

Người ta thường chỉ xếp
Vũ Hùng vào khu vực văn học thiếu nhi. Tuy nhiên gần đây  có dịp đọc lại,
tôi nhận ra rằng, có một số cuốn, một số trang sách của ông cũng là dành cho cả
các bạn đọc lớn tuổi.




Dưới hình thức ghi chép, Sống
giữa bày voi
 giống như một khảo luận công phu về mọi hoạt động không
chỉ của loài thú và những người săn thú.  Tôi thường 
đọc đi đọc lại  nhiều đoạn trong
cuốn sách đó, nhất là cái đoạn ông khái quát về những quy luật của rừng.
Các  đoạn văn  ấy theo tôi là sự kết
hợp cả hai:

-- kinh nghiệm sống của
những người dân Lào bình thường.

-- cái vốn văn hóa nhân
bản mà ông đã tiếp nhận được từ văn hóa phương Tây, cái phần mà ông đã học được
từ những năm học ở ngôi trường danh giá là Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo
hộ) nay là trường  Chu Văn An
 Hà Nội.

Ông như nhắn nhủ chúng ta:
phải biết đến với thiên nhiên từ văn hóa.




Cố nhiên điểm bộc lộ cao
nhất của tính chất trí thức ở Vũ Hùng chính là cái tinh thần nhân bản  nó chi phối mọi trang viết của ông, từ việc
mô tả mối quan hệ giữa các loài vật cho đến mọi ghi nhận về cách sống của những
con người khi họ biết sống hòa hợp với thiên nhiên hoang dã.




Đọc Vũ Hùng, tôi hiểu thêm một câu nói của nhà văn
Pháp J. de La Bruyere (1645- 1696):

--Có những chỗ làm cho người ta thích nhìn ngắm; có những
chỗ làm cho người ta rung cảm; có những chỗ làm cho người ta ham sống. Đó mới
là bộ mặt đầy đủ của thiên nhiên.

Đến đây bạn có thể đặt câu hỏi:

--Đây là trời đất thiên nhiên phong cảnh của nước Lào,
có gì gần với tôi. Tôi chỉ cần đọc những trang sách viết về thiên nhiên cây cỏ ở
Việt Nam chứ cần gì phải biết những chuyện bên Miên bên Lào.

Tôi xin đáp một cách ngắn gọn:

-- Bạn không thể thu hẹp cuộc đời của mình lại như vậy.
Cái mà ta phải biết là cả thế giới. Cái mà ta phải học hỏi để tìm ra cách sống
hợp lý là kinh nghiệm của mọi dân tộc khác.






Sài
Gòn, tháng 10 - 2014
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 26, 2015 00:40

March 21, 2015

Tinh thần Diên Hồng nên được hiểu ra sao?

Phòng họp chính của Quốc
hội  ngày nay gọi là Phòng Diên Hồng.

 Chuyện
này báo chí đã đưa từ cuối năm ngoái,(ví dụ http://vov.vn/blog/tan-trao-va-dien-hong-vao-nha-quoc-hoi-moi-360419.vov
) nhưng mãi tới hôm qua 20-3-2015, xem TV tôi mới biết .

Tiếp tục đọc lại các báo
cũ, thấy chung quanh chuyện này, mọi người rất hỉ hả. Ta đang trở lại với
truyền thống. Ta rất dân chủ.

 Tôi nghĩ đơn giản là HAY ĐẤY. NHƯNG KHÔNG ĐỦ NỮA.


 Theo Wikipedia Hội
nghị Diên Hồng là hội nghị
năm 
1284  do Thượng
hoàng 
Trần Thánh Tông  triệu họp các
phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý, hỏi về chủ trương hòa hay chiến khi quân 
Nguyên Mông  sang xâm lược  Việt Nam   lần thứ 2 .

Hội nghị này
được tổ chức trước thềm 
điện Diên Hồng  vào  tháng chạp  năm  Giáp Thân  1284, hội nghị Diên Hồng không bàn đến
chiến lược, chiến thuật 
quân sự  mà chỉ bàn: nên đánh hay nên hoà.

Hội nghị Diên
Hồng được xem như hội nghị 
dân chủ  đầu tiên trong  lịch sử Việt Nam . Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân.
Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của
chính quyền đến người dân.


 Từ đó suy ra:

-- Hội nghị Diên Hồng là
dành để bàn về việc nước khi xã tắc lâm nguy, quân thù đe dọa sự tồn vong của
quốc gia. 

Ngày nay vấn đề căn bản là tổ chức lại xã hội, bàn chuyện phát triển.

 Hai nhiệm vụ khác nhau, làm sao lấy tinh thần hôm qua gợi ý cho hôm nay được.




-- Hội nghị Diên Hồng triệu
tập toàn các cụ phụ lão, bởi trong các xã hội trung cổ, kinh nghiệm là quan trọng.


Còn trong xã hội hiện đại,
chính là lớp trẻ -- nhất là những trí thức trẻ có kiến thức về khoa học xã hội
được học hành theo đúng chuẩn mực trở thành những chuyên gia ngang tầm quốc tế --
mới đáng được hỏi ý kiến trước tiên.




-- Nhiệm vụ của Hội nghị
Diên Hồng theo như đoạn Wikipedia nói trên 
chỉ là bàn chuyện quyết tâm đánh giặc mà không bàn xem cần đánh giặc ra
sao.

 Họp về, việc các bô lão phải làm là truyền đạt
lại quyết tâm của các  nhà cầm quyền đến
dân.

Thời nay, tinh thần của
các cơ quan lập pháp như Quốc hội phải là bàn cụ thể về cách thức hành động và
các bước đi của bộ máy quản lý xã hội trong công cuộc phát triển. 

Sau đó cơ quan này còn tiếp tục theo dõi (hoặc qua cơ quan
tư pháp mà theo dõi) xem các quyết nghị của họ được hành pháp thực hiện đến đâu.

Quốc hội ngày nay mà chỉ
sống theo tinh thần Hội nghị Diên Hồng thì sao gọi là đủ cho được?




Ta thường hay nói với
nhau trong văn hóa quyền lực ở VN thời xưa đã có yếu tố dân chủ và lấy Hội nghị
Diên Hồng ra làm ví dụ. Nhưng ý niệm dân chủ ấy xem ra là quá sơ lược và có vẻ
như nó đã thuộc về  quá khứ tức là thời
phong kiến.

 Nó không đáp ứng được nhu cầu
thời đại ngày nay.






Không thể sử dụng một
khái niệm theo nghĩa cũ trong hoàn cảnh hiện tại -- trừ trường hợp trong thâm
tâm chúng ta cũng hiểu rằng sau những năm tháng chiến tranh khủng khiếp, thật
ra xã hội chúng ta cũng đang vận hành theo những quy luật của xã hội phong kiến,
và việc chúng ta sử dụng khái niệm dân chủ theo nghĩa ấy là không thể khác.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 21, 2015 03:28

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.