Vương Trí Nhàn's Blog, page 68
February 12, 2015
Thạch Lam & những cái tết thanh đạm

trên Ngày Nay số xuân 1940
Nghệ thuật ăn Tết
Hưởng, đấy là khôn ngoan;khiến hưởng, đấy là đức hạnh
(Cách ngôn Ảrập)
Ngày Tết, đối với nhiều người, chỉ có thú vị khi nào nghĩ lại - Người ta thường hay cùng nhau nhắc tới những Tết năm ngoái, năm xưa với một vẻ mến tiếc âu yếm, lẫn với đôi chút ngậm ngùi. Nhất những Tết ngày còn nhỏ… Lúc ấy, cùng với những nỗi vui ngày Tết đã qua, còn vướng niềm thương tiếc tuổi niên hoa, cái tuổi mà người ta nhận là “vô tư lự”, ngây thơ và sung sướng.
Nhưng nỗi nhớ tiếc ấy chẳng ích lợi gì, mà lại ngăn chúng ta không toàn hưởng được thời khắc hiện giờ. Đậm đà, mạnh mẽ hơn bao nhiêu là sự hưởng thụ ngay hiện tại, thêm vào cái thú hưởng những giờ vui, cái thú vô song của sự mình biết mình đương hưởng.
Ngày còn ít tuổi, tôi không hiểu biết được cái thú uống trà. Chén trà thơm lúc đó như sao bằng được những mộng đẹp tôi đang mơ tưởng trong lòng. Bây giờ tôi đã có biết rồi - và thỉnh thoảng một buổi sớm hay trưa, nâng chén trà lên để nhìn qua hương khói. Hưởng hương vị chén trà thì ít, nhưng hưởng cái thú ở đời, và nhất là hưởng cái giờ khắc nghỉ ngơi, nhàn nhã, mà tự mình cho phép -(người ta chỉ có thể hưởng được cái khoái lạc của nghỉ ngơi, khi biết cái nghệ thuật nghỉ ngơi cũng như biết cái nghệ thuật làm việc).
Tôi hiểu là vô ích và điên dại cuộc theo đuổi mộng ảo không cùng, việc lần để ngày lại ngày hạnh phúc. Tôi hiểu rằng hoa nở sớm nay cũng tươi đẹp chẳng kém hoa nở ngày mai, thời tiết xuân nay êm dịp hơn xuân bao giờ hết, và trời trong cùng ánh nắng kia hiện giờ đã đẹp vô ngần…
Tết! Còn dịp nào trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày Tết nhắc ta nhớ lại những Tết đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái Tết bây giờ. Đêm giao thừa “thời gian qua nghỉ bước trên từng cao” là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi thơm thuỷ tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao. Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần, trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng.
Rượu sánh trong cốc pha lê trong trộn mùi khói pháo với hương thuỷ tiên. Tiếng pháo nổ vui từ nhà nọ sang nhà kia, liên tiếp, đi mãi vào trong đêm để làm vang động bầu không khí xuân của khắp cả các gia đình. Đó là tiếng hiệu lệnh của sự thông đồng chung hưởng.
Lúc đó mỗi nhà đều uống rượu thưởng năm mới. Rồi chiếc bánh chưng đầu năm mang lên, xanh mịn trên đĩa trắng. Bánh chưng gói khéo thì vuông và chắc rắn: gạo mềm và nhiễn, nhân đậu và mỡ quánh vào nhau. Chỗ nạc thì tơi ra như bông gạo. Có nhà gói lắm nạc, nhưng nhiều mỡ vẫn ngon hơn: mỡ phần, chỗ giọi, lúc chín thì trong, và không có thớ. Bánh chưng kể mặn là phải vị. Nhưng có dăm bảy chiếc gói ngọt cũng hay. Chỉ khó làm sao cho đừng sượng, và đường với đậu phải biến với nhau mà thôi.
Tưởng lúc xén đũa đưa miếng bánh chưng lên, thoảng mùi lá dong thơm và mùi nếp cái, ăn với dưa hành trong như ngọc thạch, hoặc với củ cải đậm và ròn như pháo xuân! Đó là tất cả hương vị của cái tết Annam, ngày nay và ngày xưa.
Sáng mồng một, chúng ta uống rượu và ăn mứt. Rượu hẳn là phải rượu tây: những thứ vang cũ ngọt như Porto, nồng chua như Vermouth, hay say như Cognacq. Uống những thứ ấy thích hơn liqueurs. Nhưng sao ta không có rượu ngon của ta? Tiếc vì bây giờ cái gì của người mình cũng vụng về và giả dối. Còn đâu thứ rượu cau có tiếng ở Hoàng Mai, thứ rượu cúc nổi danh ở tỉnh Bắc? Cái hào nhoáng, cái lộng lẫy bề ngoài đã thay cái chân thực, cái cẩn thận của người xưa. Đơn sơ và cẩu thả đã cướp chỗ của tốt bền, ở tất cả những sản phẩm của nước mình.
Mứt ngày trước cũng ngon và khéo léo hơn mứt bây giờ. May gần đây, sự làm đã khá. Đã có mứt sen Cự Hương, mứt khoai Việt Hương, vị cũng nhã, mà trình bày lại sạch sẽ, tinh tươm. Đem làm quà ngày Tết kể cũng tạm được.
Mứt phải đủ ngũ vị: ngọt, bùi, đậm, béo và cay. Thứ mứt gừng cay là quý nhất. Chỉ tiếc thay mứt gừng ngoài Bắc thô và mạnh quá. Tôi ước ao được một ngành mứt gừng ở trong Trung - mứt gừng của Huế, làm bằng mầm gừng non và cả nhánh, trong như ngọc và cay, mềm dịu cũng như con gái Huế.
Thế rồi đi du xuân ngày mồng một, nhìn cây nêu phấp phới trước các nhà, tiếng khánh sành reo theo gió. Một cuộc hoà nhạc của sắc màu: quần áo mới của bầy trẻ, xác pháo đỏ trên gạch rêu, màu hồng nhạt hay đỏ tươi của câu đối giấy dán trên cổng, và màu củ cẩm (hay cánh sen) trên những tranh tết - nhất cái màu tím mát ấy, màu của đất nước Annam, của thời xưa chân thật mà không bao giờ nhìn tôi không thương nhớ ngậm ngùi…
Trong lúc đó, trời xuân đầy mây thấp và gần gụi, thời tiết êm ả như đợi chờ, gió xuân nhẹ như hơi thở, và cây cối đều nở mầm non, lộc mới - tất cả cái gì như đầm ấm, như dịu dàng. Còn hưởng cái thú nào man mác và thanh cao hơn nữa?
Cho nên ngày Tết, tôi mong các bạn cùng vui vẻ tươi sáng như ánh mùa xuân, trong khi lần giở những trang của tập báo vì các bạn này.
Ngày tết trong văn Thạch Lam
Sự tiết chế, sự điềm đạm vốn là một đặc điểm thấy rõ ở văn chương cũng như con người Thạch Lam (1910-1942).
Biết điều đó, người ta sẽ không ngạc nhiên, khi nghe ông kể rằng ông
thường đón Tết một cách không mấy vồ vập, đúng hơn là đơn sơ thanh đạm. “Tết
của nhà nghệ sĩ vốn giản dị… một chai rượu mùi, một gói kẹo, một gói
thuốc lá, thế là đủ. Chẳng phải vì nghệ sĩ không ước ao hơn, nhưng vì
nghệ sĩ vốn nghèo”
Có
điều, trong khi đứng tách riêng ra không chịu đua đả với mọi người về
những tiện nghi vật chất, thì nhà văn ấy lại vẫn mở rộng lòng đón Tết,
và cũng đủ hồi hộp rung động trước cảnh xuân sang.
Qua văn ông, người ta đọc ra những cảm giác thiêng liêng mà có lẽ người
Việt nào cũng trải qua, cái thiêng liêng nảy sinh trước tiên do bắt gặp
những vận động tự nhiên của trời đất, nhưng lại càng thiêng liêng vì
được cùng với người thân sống lại những phong tục tập quán đã được cộng
đồng dân tộc hình thành qua ngàn năm lịch sử.
Những chiếc bánh chưng hay là nét đẹp của phong tục
Những ai từng đọc Hà Nội băm sáu phố phường
hẳn nhớ những tinh tế của ngòi bút nhà văn trong việc ghi lại các món
ẩm thực hình thành của người dân thường Hà Nội. Trong khi quan sát mọi
người chuẩn bị đón Tết, Thạch Lam cũng không quên nhắc lại những phong
tục có tự ngàn đời, như việc gói bánh chưng chẳng hạn.
“Ồ,
chiếc bánh chưng vuông vắn và đầy đặn, màu xanh như mạ non, gạo nhiễn
ra như bông tuyết và giữ trong lòng bao nhiêu quý báu của miếng ngon:
lượt đậu mịn và vàng đậm, những miếng mỡ trong như hổ phách, những miếng
nạc mềm lấm tấm hạt tiêu. Và thoang thoảng một một chút mùi cà cuống,
gắt như cô gái chua, sắc như mũi kim lạnh ”.
Trong những đoạn văn như thế, người ta không chỉ thấy sự thành thạo
trong chuyện ăn uống, mà còn bắt gặp sự nhạy cảm riêng của tác giả trước
cái quan niệm hàm chứa đằng sau các món ăn: Với người Hà Nội thanh
lịch, mọi chuyện không được phép qua loa lấy lệ, hoặc xô bồ tuỳ tiện thế
nào cũng được, mà phải kỹ lưỡng thận trọng, tuân theo những luật lệ
nghiêm khắc và chắc chắn, bao giờ cũng gửi vào đấy một ý niệm về vẻ đẹp.
Từ đấy, toát ra cái tinh thần của một nền văn hoá độc đáo mà theo tác giả, nếu không bảo nhau giữ gìn, ta sẽ đánh mất.
Phố xá với những sắc màu đa dạng
Sau khi tự nhận rằng chỉ chuẩn bị cho Tết ở mức tối thiểu, Thạch Lam kể:

“Thế rồi hai tay bỏ trong túi áo - và cầu trời cho thời tiết hơi rét và hơi mưa bụi, tôi lẫn trong đám đông xuôi ngược trên hai bên hè phố”.
Nói cách khác, niềm vui của ông là được đi ngắm cảnh thiên hạ đón Tết.
Trong tầm nhìn của ông, có cây cảnh phố xá, lại có đủ loại mặt người.
Trầm lặng và như muốn lẫn đi giữa chung quanh, song con người ông vẫn có
sức bao dung rất lớn.
Qua những truyện ngắn như Cô hàng xén,
ta biết rằng Thạch Lam rất hay nói tới sự nhẫn nại, sự hy sinh. Thì
ngay khi đi trên đường phố nhộn nhịp, ông cũng không quên điều đó.
“Các thiếu nữ trong ngày sắm Tết có
rất nhiều vẻ đáng yêu. Đi đâu mà vội vàng thế? Về chậm sợ mẹ mắng hay
sao? áo quần không kịp trang điểm, mái tóc không kịp vuốt ve, cho nên có
một vẻ lơ đễnh, một vẻ xuềnh xoàng khả ái! Giờ này là giờ các cô đảm
đang, đi mua đi bán, đem cái vui vẻ cho em trai và mẹ già, các cô hết
lòng lắm. Chen lấn vào đàm đông, không sợ bị chèn ép xô đẩy. Đi guốc cao
cho khỏi lấm gấu quần. Và nhất là tự nhiên và dung dị”.
Với tư cách tác giả Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam dành ít dòng để nói về Tết của người nghèo:
“…ở ngoài bãi sông, Tết lại có một vẻ
riêng đặc biệt. Trông đứa bé đội mũ bông, áo mới dài và rộng, đeo chiếc
khánh mạ vàng, nhặt ngòi pháo đốt, thấy cả cái Tết ái ngại và nho nhỏ
của cả một vùng”.
Và đây nữa, một nét Tết Hà Nội, dưới con mắt Thạch Lam:
“Đêm 29 Tết, vào giờ trước giao thừa…
có ai lên trước chợ Đồng Xuân, để nhìn những cái gì còn lại, những cái
gì bị khinh bỉ từ chiều? Những cành đào xấu xí, ít hoa; những bát thuỷ
tiên tơi tả, đã chuyền tay hết người này sang người khác mà không được
ai mua, những chậu cây cúc và thược dược rã rời và lấm đất. Dưới mưa
bụi, bùn đã vấy lên trên những cành đào, mai rải rác trên đường, bao
nhiêu bàn chân dày xéo (…). Để trang điểm cho những căn buồng tiều tuỵ,
những căn nhà lá nghèo nàn ở các ngoại ô đối với nhiều người, tuy xấu xí
tơi tả mặc dầu, những thứ ấy cũng vẫn là biểu hiện của ước mong, của
trông đợi”.
Một nét thần thái
Rồi
bao nhiêu chuẩn bị đã xong, điều mọi người háo hức chờ đợi, mùng một,
mùng hai, những ngày Tết thực thụ đã tới với bức tranh thiên nhiên
thoảng qua một chút xao động lẫn những cảnh tượng sinh hoạt như ngàn đời
vẫn vậy: Thạch Lam không nói gì khác những điều ai cũng biết, ấy vậy mà
đọc ít dòng ghi chép của ông, người ta vẫn cảm thấy như tất cả vừa được
nhận ra lần đầu.
“Qua bãi cát rộng, con sông ngày Tết
từ từ trôi mấy bông hoa nát không biết ở đâu về. Đây Tết rải rải khắp
ven bờ. Một cái bến vài con thuyền đỗ, thế là cũng có khói hương cũng có
hoa đào và xác pháo (…)
Ngoài trời lại mưa bụi. Xuân có vẻ đè nén, bao bọc và dằng dai:
Ngõ trúc lùn tùn tun ngọn trúc
Mưa xuân lún phún lụn ngày xuân.
Không hiểu tại sao hai câu thơ không nhớ của ai ấy thật đúng cái cảm giác tôi có lúc mùa xuân”.
Câu
chuyện về những ngày Tết dưới con mắt Thạch Lam tới đây đã có thể dừng
lại. Song có một điều người đọc không khỏi vương vấn:
Hình như nhân nói về một ngày lễ cổ truyền, Thạch Lam vừa động chạm tới
một cái gì lớn hơn thuộc về thần thái của sinh hoạt cộng đồng, nghĩa là
những yếu tố trường tồn trong thời gian. Và ai cũng muốn thử cắt nghĩa tại sao đến nay nhiều người còn rất thích văn Thạch Lam, có
lẽ phần nào tìm được câu giải đáp: Lớn lên trong cảnh đất nước bị thực
dân thống trị, song lại tiếp nhận được một cách nhuần nhị nền văn hoá
Pháp, Thạch Lam (cũng như nhiều đồng nghiệp đương thời) đã biết hướng
toàn bộ tâm tình vào việc yêu mến, tìm hiểu, khám phá cốt cách dân tộc.
Mà cái cách trở về với dân tộc của Thạch Lam thì chân thành và cảm động.
ở đây mọi tình cảm không ồn ào song lại rất thấm thía, càng hiểu cái
nghèo túng chật vật của hoàn cảnh người ta cảm thấy nặng lòng với đất
nước đã nuôi nấng mình lớn lên. Đó là cách nhìn, là tấm lòng của những
trí thức chân chính.
Đã in trong Chuyện cũ văn chương dưới nhan đề
Những ngày tết dưới con mắt một người Hà Nội lịch lãm
Published on February 12, 2015 17:27
February 4, 2015
Cái vội của người mình
Năm 1982, Larry Dossey, một bác sĩ người Mỹ đã đặt ra thuật
ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều đang ám ảnh nhiều người. Những
người này thường tự nhủ: “Thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và
bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới bắt kịp nó”.
Sau khi dẫn lại một nhận
xét tổng quát như thế, Carl Honoré (tác giả cuốn Ngợi ca sống chậm - bản dịch
của Nhà xuất bản Phụ nữ ) tự đặt cho mình một loạt câu hỏi: Vì sao chúng ta
luôn vội vã như vậy? Đâu là nguyên nhân tâm lý? Liệu có thể - và có nên ao ước
- sống chậm lại?
Những căn bệnh được tác giả miêu tả đủ loại, ăn nhanh, đi vội, sống gấp, làm việc đến kiệt sức, hưởng thụ ngoài sức tưởng tượng.
Bởi ở mọi nơi mọi chỗ, chúng ta khao khát tốc độ, nên đã tự làm hỏng cuộc đời đi, ông bảo vậy. “Thời đại của sự rồ dại”, - tinh thần của khái quát đó trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm.
Từ đó, ông giới thiệu một giải pháp ngược lại, đã tự phát hình thành trong thực tế và ngày càng được tin theo, đó là sẵn sàng sống chậm, cốt tìm tới sự hài hòa.
Những biện pháp nêu ra, như bớt thời giờ xem ti vi, để thêm thời gian đọc sách và làm vườn hoặc đan lát... chỉ là gợi ý.
Trước tiên người ta phải nhận thức được rằng cố sao cho nhanh thường đồng nghĩa với vội vàng, hời hợt nôn nóng, đặt số lượng lên trên chất lượng. Đó là thứ tư duy đã lỗi thời. Còn chậm nghĩa là thư thái cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo. Nhanh và chậm chỉ là tương đối. Cái chính là mỗi người tìm cho mình một nhịp sống hợp lý.
Từ chuyện
bên Tây quay về Việt Nam, thấy chúng ta cũng đang bị cái vội cuốn đi
thật. Một nhịp sống gấp gáp lôi cuốn. Gấp gáp đến liều lĩnh. Và vội vàng
đến bất cẩn. Đường sá quay cuồng. Công việc cứ rối tung cả lên mà vẫn
chẳng việc gì ra việc gì.
Một người bạn tôi mới đây dẫn ra nhận xét của một người dân Singapore có dịp sống ở vài thành phố lớn của ta:
-
Người Việt các anh đã mất hết tính kiên nhẫn rồi hay sao? Nên biết là
ngay ở Singapore, việc chờ taxi mất nửa tiếng với chúng tôi cũng là
chuyện thường.
Vấn đề bây giờ chỉ còn là giải
thích tại sao chúng ta lại sống vội như vậy và xem xem có phải là cái
vội bộc lộ một cái gì to lớn hơn, cần phải gạt bỏ.
Tôi
sống trong nghề viết văn, viết báo liên tục đã bốn chục năm nay và có
dịp chứng kiến hai giai đoạn nghề nghiệp.
Từ 1986 trở về trước, ở Hà Nội
báo lom đom dăm bảy tờ, sách viết xong không chắc đã có giấy để in. Thế
là không ai bảo ai, viết cái gì cũng đận đà chậm chạp, không thiếu nhà
thơ để cả tuần tính một hai chữ trong thơ.
Còn nay thì làm ăn như ăn
cướp, vừa nghĩ ra cái đầu đề đã ngồi ngay vào bàn, bản thảo chưa hoàn
thành (nói như ngày xưa chữ chưa ráo mực) đã giục nhà xuất bản xin phép
cho in.
Lúc đầu tưởng phải viết cho nhanh mới giải phóng hết được sức
sáng tạo. Sau nhìn lại cái đống viết ra hổ lốn hỗn tạp - bằng chứng là
bạn đọc ngày càng xa lánh - mới hiểu rằng mình đã rơi vào vòng tay của
sự làm liều làm ẩu lúc nào không biết. Chậm mới hợp với trình độ của
mình. Nhanh là ảo tượng giả tạo, bỏ mồi bắt bóng.
Khốn khổ có riêng nghề của bọn tôi đâu, nghề nào bây giờ chẳng vậy!
Xưa
nay dân ta ít ai để ý tới chuyện cười cợt của người mình. Tới những
thập niên đầu thế kỷ hai mươi, Nguyễn Văn Vĩnh mới đọc ra trong đó cả
một triết lý sống. Trong bài Gì cũng cười, viết trên Đông dương tạp chí,
nhà văn này giả định, “Trong cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình
độc ác: có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên
trí không phải nghe hết lời người ta mà đã gièm trước ý tưởng người ta,
không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta”.
Học
theo Nguyễn Văn Vĩnh, tôi cũng muốn nói rằng trong sự nóng vội người
đời bây giờ có cái hạn hẹp trong tầm nghĩ, chỉ thấy đời sống trước mắt
mà không thấy đời sống thâm nghiêm lâu dài; có cái tự ti, biết rằng mình
đã quá lạc hậu với thế giới nên phải lo truy đuổi trong tuyệt vọng; có
cái hỗn loạn trong cảm giác về giá trị, từ đó tạo nên ám ảnh lấy thịt đè
người, chỉ có nhanh mới hốt được của thiên hạ.
Với
một số người, vẻ vội vàng mà họ biểu hiện như vậy là cả một lời tố cáo.
Rằng đời sống tinh thần họ tầm thường.
Rằng họ không biết mình là ai
trong thế giới này.
Thậm chí ở một số trường hợp vội vàng đồng nghĩa với
gian manh, cố tình tạo ra tình trạng hỗn loạn để đẩy đi thứ hàng kém
cỏi mình làm, cái cuộc sống vớ vẩn mình muốn áp đặt cho kẻ khác. Vội
trong trường hợp này là để lấp đi cái trống rỗng, mà cũng là cái bế tắc
của tình thế.
Hồi còn bao cấp, tôi thường
hình dung cái vội của dân mình như người có cái xe đạp đã tàng đã cũ, cứ
phải rướn cổ cò mà đạp trên con đường quê gồ ghề. Còn ngày nay thường
đến với tôi là hình ảnh những người chạy xe gắn máy rồ ga bóp còi inh
ỏi, đưa xe lên cả vỉa hè, nhưng chẳng để làm gì ngoài việc lăn từ đám
tắc đường này sang đám tắc đường khác. Mà cả thành phố thì trì trệ ì
ạch, dấu hiệu còn lại của thời buổi kinh tế thị trường chỉ là một sự
nhốn nháo.
In lần đầu trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn , 28/12/2008.
In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại ,nxb Trẻ 2009
ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều đang ám ảnh nhiều người. Những
người này thường tự nhủ: “Thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và
bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới bắt kịp nó”.
Sau khi dẫn lại một nhận
xét tổng quát như thế, Carl Honoré (tác giả cuốn Ngợi ca sống chậm - bản dịch
của Nhà xuất bản Phụ nữ ) tự đặt cho mình một loạt câu hỏi: Vì sao chúng ta
luôn vội vã như vậy? Đâu là nguyên nhân tâm lý? Liệu có thể - và có nên ao ước
- sống chậm lại?
Những căn bệnh được tác giả miêu tả đủ loại, ăn nhanh, đi vội, sống gấp, làm việc đến kiệt sức, hưởng thụ ngoài sức tưởng tượng.
Bởi ở mọi nơi mọi chỗ, chúng ta khao khát tốc độ, nên đã tự làm hỏng cuộc đời đi, ông bảo vậy. “Thời đại của sự rồ dại”, - tinh thần của khái quát đó trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm.
Từ đó, ông giới thiệu một giải pháp ngược lại, đã tự phát hình thành trong thực tế và ngày càng được tin theo, đó là sẵn sàng sống chậm, cốt tìm tới sự hài hòa.
Những biện pháp nêu ra, như bớt thời giờ xem ti vi, để thêm thời gian đọc sách và làm vườn hoặc đan lát... chỉ là gợi ý.
Trước tiên người ta phải nhận thức được rằng cố sao cho nhanh thường đồng nghĩa với vội vàng, hời hợt nôn nóng, đặt số lượng lên trên chất lượng. Đó là thứ tư duy đã lỗi thời. Còn chậm nghĩa là thư thái cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo. Nhanh và chậm chỉ là tương đối. Cái chính là mỗi người tìm cho mình một nhịp sống hợp lý.
Từ chuyện
bên Tây quay về Việt Nam, thấy chúng ta cũng đang bị cái vội cuốn đi
thật. Một nhịp sống gấp gáp lôi cuốn. Gấp gáp đến liều lĩnh. Và vội vàng
đến bất cẩn. Đường sá quay cuồng. Công việc cứ rối tung cả lên mà vẫn
chẳng việc gì ra việc gì.
Một người bạn tôi mới đây dẫn ra nhận xét của một người dân Singapore có dịp sống ở vài thành phố lớn của ta:
-
Người Việt các anh đã mất hết tính kiên nhẫn rồi hay sao? Nên biết là
ngay ở Singapore, việc chờ taxi mất nửa tiếng với chúng tôi cũng là
chuyện thường.
Vấn đề bây giờ chỉ còn là giải
thích tại sao chúng ta lại sống vội như vậy và xem xem có phải là cái
vội bộc lộ một cái gì to lớn hơn, cần phải gạt bỏ.
Tôi
sống trong nghề viết văn, viết báo liên tục đã bốn chục năm nay và có
dịp chứng kiến hai giai đoạn nghề nghiệp.
Từ 1986 trở về trước, ở Hà Nội
báo lom đom dăm bảy tờ, sách viết xong không chắc đã có giấy để in. Thế
là không ai bảo ai, viết cái gì cũng đận đà chậm chạp, không thiếu nhà
thơ để cả tuần tính một hai chữ trong thơ.
Còn nay thì làm ăn như ăn
cướp, vừa nghĩ ra cái đầu đề đã ngồi ngay vào bàn, bản thảo chưa hoàn
thành (nói như ngày xưa chữ chưa ráo mực) đã giục nhà xuất bản xin phép
cho in.
Lúc đầu tưởng phải viết cho nhanh mới giải phóng hết được sức
sáng tạo. Sau nhìn lại cái đống viết ra hổ lốn hỗn tạp - bằng chứng là
bạn đọc ngày càng xa lánh - mới hiểu rằng mình đã rơi vào vòng tay của
sự làm liều làm ẩu lúc nào không biết. Chậm mới hợp với trình độ của
mình. Nhanh là ảo tượng giả tạo, bỏ mồi bắt bóng.
Khốn khổ có riêng nghề của bọn tôi đâu, nghề nào bây giờ chẳng vậy!
Xưa
nay dân ta ít ai để ý tới chuyện cười cợt của người mình. Tới những
thập niên đầu thế kỷ hai mươi, Nguyễn Văn Vĩnh mới đọc ra trong đó cả
một triết lý sống. Trong bài Gì cũng cười, viết trên Đông dương tạp chí,
nhà văn này giả định, “Trong cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình
độc ác: có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên
trí không phải nghe hết lời người ta mà đã gièm trước ý tưởng người ta,
không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta”.
Học
theo Nguyễn Văn Vĩnh, tôi cũng muốn nói rằng trong sự nóng vội người
đời bây giờ có cái hạn hẹp trong tầm nghĩ, chỉ thấy đời sống trước mắt
mà không thấy đời sống thâm nghiêm lâu dài; có cái tự ti, biết rằng mình
đã quá lạc hậu với thế giới nên phải lo truy đuổi trong tuyệt vọng; có
cái hỗn loạn trong cảm giác về giá trị, từ đó tạo nên ám ảnh lấy thịt đè
người, chỉ có nhanh mới hốt được của thiên hạ.
Với
một số người, vẻ vội vàng mà họ biểu hiện như vậy là cả một lời tố cáo.
Rằng đời sống tinh thần họ tầm thường.
Rằng họ không biết mình là ai
trong thế giới này.
Thậm chí ở một số trường hợp vội vàng đồng nghĩa với
gian manh, cố tình tạo ra tình trạng hỗn loạn để đẩy đi thứ hàng kém
cỏi mình làm, cái cuộc sống vớ vẩn mình muốn áp đặt cho kẻ khác. Vội
trong trường hợp này là để lấp đi cái trống rỗng, mà cũng là cái bế tắc
của tình thế.
Hồi còn bao cấp, tôi thường
hình dung cái vội của dân mình như người có cái xe đạp đã tàng đã cũ, cứ
phải rướn cổ cò mà đạp trên con đường quê gồ ghề. Còn ngày nay thường
đến với tôi là hình ảnh những người chạy xe gắn máy rồ ga bóp còi inh
ỏi, đưa xe lên cả vỉa hè, nhưng chẳng để làm gì ngoài việc lăn từ đám
tắc đường này sang đám tắc đường khác. Mà cả thành phố thì trì trệ ì
ạch, dấu hiệu còn lại của thời buổi kinh tế thị trường chỉ là một sự
nhốn nháo.
In lần đầu trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn , 28/12/2008.
In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại ,nxb Trẻ 2009
Published on February 04, 2015 18:08
February 3, 2015
Thế giới hôm qua
Khi thử
áp dụng cái nhìn xã hội học vào việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, người ta sẽ
bắt gặp một huyền thoại và về nông
thôn Việt Nam và cả những lý do dẫn đến sự ra đời của huyền thoại ấy
Vào thời điểm Nguyễn Bính lớn lên và bắt đầu làm thơ -
tức là những năm 30 của thế kỷ XX – quá
trình Âu hóa của xã hội Việt Nam đã qua được một chặng đường khá dài.
Chung quanh bộ
máy cai trị của thực dân đã thấy hình thành nhiều trung tâm hành chính và buôn
bán lớn.
Một tầng lớp
công chức mới ra đời mà với họ cách sống tối rượu sâm banh sáng sữa bò trở
thành tự nhiên, tưởng như bao đời vốn vậy.
Ngày một quen hơi bén tiếng với văn
minh phương Tây, người ta dễ dàng cảm thấy mình gần với các đô thị tư bản hơn
là các phố chợ phong kiến.
Và chính lúc đó, nhiều người bắt đầu nhớ nhung tới cái cội nguồn nông thôn hôm
qua của mình.
Không gì khác,
giọng thơ Nguyễn Bính được yêu mến, nhiều bài thơ của ông được người đương thời
thuộc lòng, bởi nó đáp ứng được sự lưu luyến thường trực của những cư dân thành
thị với cội rễ hôm qua của họ.
Có thể nói rõ sự ưu ái của dư luận đối với một số bài
thơ của Nguyễn Bính trong Lỡ bước sang ngang, Mây tần, Mười hai bến nước… đã
đánh dấu sự trở về của một thời với những gì mà con người thời đó vừa đánh mất.
Và do chỗ đây chỉ là sự trở về trong tâm tưởng, lại ở lĩnh vực thơ ca, cho nên
cái nó hướng tới không phải là một nông thôn có thực mà là một nông thôn
trong hoài niệm, một nông thôn đã được lý tưởng hóa ít nhiều.
Hơn thế nữa, đồng thời với sự trở về trong không gian
còn có sự đi ngược thời gian, để tìm tới tận cái nông thôn thanh bình thời xưa.
Trước mắt chúng ta, xảy ra một quá trình hoài niệm
song đôi, hoài niệm kép, nên tự
nhiên là nó nối tiếp miên man, không biết đến đâu là dứt.
Cuộc sống thanh bình êm ả
Trước tiên, cái cuộc sống nông thôn mà những vần thơ
Nguyễn Bính đưa người ta trở lại là một cuộc sống hài hòa, êm đẹp. Trời đất
thiên nhiên yên lành, thanh sạch, còn con người thì bình thản mà sống, tự tin
mà sống.
Công việc, người ta tự nguyện nhận làm.
Bổn phận, người ta sẵn sàng gánh vác.
Và ai nấy dường như đều luôn luôn biết tìm ra trong
nhịp sống hàng ngày những niềm vui, những điều tốt đẹp. Và con người lao động ở
đây không có cái vẻ lam lũ nhọc nhằn, ngược lại ở họ luôn luôn toát lên vẻ đẹp,
cùng sự ý nhị, duyên dáng.
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván có ao cấy cần
Hoa đỗ vẫn nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng lứa cần năm năm
Ngoài cuộc sống hàng ngày, ở con người nông thôn (xin
nhắc lại đây là hình ảnh con người nông thôn qua sự lý tưởng hóa của cả kẻ ở lại
làng quê lẫn kẻ xa quê) lại không thiếu những phút thăng hoa cao đẹp.
Đó là tình yêu của họ với làng xóm, những xúc động
thuần phác trong quan hệ của họ với tự nhiên, mà nảy nở đầy đặn nhất là vào
những ngày hội hè, đình đám.
Hoặc mở ra giữa những đêm trời cao gió cả, trăng
như ban ngày, hoặc khai trương mùa diễn vào những ngày xuân mưa bụi, hội hè
thường khi là những dịp để con người thoát ra khỏi bao lo buồn hằng ngày, mà
yên tâm sống, sống thật hồn nhiên, thật cởi mở với mọi tình cảm có thật trong
mình. Nói chung, trong tâm thức con người nông thôn thì cuộc sống bao giờ cũng
vận động theo vòng quay đều đặn của tự nhiên. Sẽ không có thay đổi gì thật lớn!
Cũng không có những tai họa bất thường đổ sụp xuống đầu người ta!
Sự ưu thắng của những giá trị tinh
thần
Một khía cạnh khác làm nên sắc thái riêng của cái nông
thôn lý tưởng Nguyễn Bính đưa ta trở lại: ấy là nếp sống đậm chất Nho giáo.
Đây không phải
thứ đạo Nho trung hiếu tiết nghĩa hà khắc của người có học theo lối chính quy và
học để đi làm quan, mà là một ít quy định, một ít giả thiết, một ít niềm tin...
về một cuộc sống lý tưởng mà người ta noi theo, nó khiến cho những sinh hoạt
hàng ngày được chiếu rọi một ánh sáng mới, có thêm những nét trau chuốt hơn,
tinh tế hơn mà đôi khi cũng rạng rỡ hơn.
Xã hội trong thơ Nguyễn Bính là một xã hội có sự phân
công rõ rệt.
Nếu người phụ nữ tượng trưng cho cuộc sống cần cù,
chăm chỉ, và cả những khao khát tốt đẹp, thì những người đàn ông chính là kẻ
thực hiện những khao khát đó.
Bao nhiêu công
phu bỏ ra, những người mẹ, người chị, người vợ cũng không ngại, miễn sao các
anh học trò yên tâm dùi mài kinh sử.
Họ - đám học trò dài lưng tốn vải – sẽ phải học hành
trong sự thúc đẩy ngấm ngầm của những người thân ấy.
Và họ sẽ phải đi thi để những mơ ước dai dẳng kia có
ngày trở thành sự thực. Hầu như bất cứ bài thơ nào của Nguyễn Bính mà có chút
hơi hướng liên quan tới sự lập nghiệp trong tương lai, đều có nhắc đến chữ trạng.
Anh lái đò mơ đỗ trạng, cô gái chăn tằm ước ao chồng mình có ngày thành
trạng, cho đến các cô gái tước đay dệt võng thì cũng chỉ chăm chăm có một
điều là đay này dệt võng để các ông trạng vinh qui.
Khoảng cách tưởng là xa vời – từ cái ngày thường hàn
vi, đến một ông trạng hay chữ nhất nước – hóa ra lại rất gần gũi trong tâm khảm
mọi người đến mức tưởng như ai cũng có thể trở thành trạng được, nếu như chăm
chỉ, cần cù, và có ... một người vợ hiền thúc đẩy. Lạ một điều là cái sự đỗ
trạng ở đây không đi kèm với tiền bạc, hay quyền bính, hay sự hưởng thụ. Nó chỉ
là một thứ giá trị tinh thần, và cả người nhận, lẫn chung quanh, đều lấy làm đủ
mà không thắc thỏm gì thêm.
Từ khía cạnh này mà xét, phải nhận cái thế giới hôm
qua Nguyễn Bính ca tụng là một thế giới cao thượng. Ở đó, cái chiếm vị trí ưu
thắng không phải là vật chất, mà là tinh thần.
Văn chương như một cách thế vượt
lên đau khổ
Không chỉ Nguyễn Bính, thật ra trong văn học tiền
chiến có cả một mạch văn đi vào nuối tiếc và luôn luôn hoài niệm cái không khí
thanh đạm của thời quá khứ. Nguyễn Nhược Pháp có Ngày xưa, Vũ Đình Liên
có Ông đồ, Lưu Trọng Lư gợi lại một thời đã mất trong Khói lam chiều,
trong Chiếc cáng xanh. Đến cả Xuân Diệu “tây” là thế, mới mẻ là thế,
mà cũng sớm quay về sống lại không khí cổ xưa qua những phác họa đời sống tinh
thần lúc ấy:
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như huyền
Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
Dẫu sao, phải nhận rằng so với mọi người thì niềm hoài
vọng này ở Nguyễn Bính vừa dai dẳng, lại vừa tự nhiên hơn.
Tại sao lại như vậy? Chẳng những nhiều lần dông dài
với Nguyễn Bính trong những chuyến giang hồ vặt kiếm ăn, Tô Hoài còn đã có dịp
trở lại với làng quê Nguyễn Bính nữa. Và đây, dưới con mắt Tô Hoài, mảnh đất
chôn nhau cắt rốn của tác giả Lỡ bước sang ngang hiện lên với vẻ trần
trụi vốn có :
Làng Thiện Vinh thật có giữa vùng chiêm khê mùa thối
đất Nam Định, Thái Bình. Đâu đâu cũng xơ xác. Nước trắng đồng, gió lùa sóng
đồng cồn lên, quần lại, lật thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết
đuối. Mỗi năm mất mùa, biết bao người đã bỏ làng đi tha phương.
(Lời
giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính,
1986)
Sau khi cực tả như thế, Tô Hoài đi vào cắt nghĩa: tại
sao trên cái thực đến se lòng đó, lại nảy sinh thơ Nguyễn Bính:
Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại.
Mùa này mất trắng lại mong cho đến mùa sau lại được thấy mặt hạt thóc. Cái củi
rều trôi quá ngoài sông, không vớt được cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ
ôm mặt than thở: “Giá
như ngày ấy theo cái người dưới Đông thì chẳng đến nỗi nào, khổ cái thân tôi…”.
Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã sinh ra từ những như thế. Người
ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước ao, ở giữa làng mà tưởng ra quê mình tận
đâu đâu kia.
Với tư duy sắc sảo của người viết văn xuôi, Tô Hoài
thật đã chạm tới một vấn đề lớn của các sáng tác văn chương trong quá khứ.
Chúng ta đều biết tuy cái tình cảnh vùng đất đồng
chiêm trũng nói ở đây, là riêng của quê hương Nguyễn Bính, song nhìn rộng ra,
nó là nét phổ biến trong xã hội trung đại Việt Nam, và kéo dài cho tới đầu thế
kỷ này.
Khắp đồng bằng Bắc bộ, do nơi quan hệ sản xuất không
hợp lý, và kỹ thuật canh tác cổ lỗ, ngay cả những nơi đồng đất mỡ màu, thiên
nhiên ưu đãi, đâu đâu cũng là một đời sống khó khăn, xã hội thì im lìm bất
động, sự trì trệ kéo dài đến mức trở thành một ám ảnh, và người ta không thể
nghĩ được điều gì tốt đẹp, ngoài cái cảm giác chung rằng cuộc đời mãi mãi là
thế này, không thể thay đổi. Và để tự vệ, để tìm thấy niềm vui sống, người ta
phải dựng tạo cho mình một cõi tâm linh riêng, đó là cái thế giới mộng mơ với
bao điều tốt đẹp.
Bởi lẽ, niềm mơ
ước ấy là của chung mọi người, nên nó dễ dàng lan tỏa, nó được hầu như mọi
người chia sẻ.
Như thuật ngữ bây giờ hay nói, rồi từ cái đời sống bế
tắc đó, một huyền thoại được hình thành, huyền thoại về một cuộc sống
hài hòa êm đẹp, có chỗ cho tất cả mọi người. Không ít sáng tác dân gian – một
kho tàng nghệ thuật phong phú ở đồng bằng Bắc bộ – đã nảy sinh trên cơ sở huyền
thoại dai dẳng kia. Nó trở thành một bộ phận của đời sống người ta, vỗ về an ủi
người ta.
Và nó lưu
truyền qua nhiều thế hệ.
Đến lượt mình, các sáng tác của Nguyễn Bính chính là
bước tiếp nối cái mạch của người đi trước và nâng nó đến độ hoàn chỉnh, tức tạo
ra cho nó một vẻ đẹp vốn chỉ có ở các
vần thơ dân gian ưu tú nhất .
Đã
in trong Cánh bướm và đóa hướng dương,1999
áp dụng cái nhìn xã hội học vào việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, người ta sẽ
bắt gặp một huyền thoại và về nông
thôn Việt Nam và cả những lý do dẫn đến sự ra đời của huyền thoại ấy
Vào thời điểm Nguyễn Bính lớn lên và bắt đầu làm thơ -
tức là những năm 30 của thế kỷ XX – quá
trình Âu hóa của xã hội Việt Nam đã qua được một chặng đường khá dài.
Chung quanh bộ
máy cai trị của thực dân đã thấy hình thành nhiều trung tâm hành chính và buôn
bán lớn.
Một tầng lớp
công chức mới ra đời mà với họ cách sống tối rượu sâm banh sáng sữa bò trở
thành tự nhiên, tưởng như bao đời vốn vậy.
Ngày một quen hơi bén tiếng với văn
minh phương Tây, người ta dễ dàng cảm thấy mình gần với các đô thị tư bản hơn
là các phố chợ phong kiến.
Và chính lúc đó, nhiều người bắt đầu nhớ nhung tới cái cội nguồn nông thôn hôm
qua của mình.
Không gì khác,
giọng thơ Nguyễn Bính được yêu mến, nhiều bài thơ của ông được người đương thời
thuộc lòng, bởi nó đáp ứng được sự lưu luyến thường trực của những cư dân thành
thị với cội rễ hôm qua của họ.
Có thể nói rõ sự ưu ái của dư luận đối với một số bài
thơ của Nguyễn Bính trong Lỡ bước sang ngang, Mây tần, Mười hai bến nước… đã
đánh dấu sự trở về của một thời với những gì mà con người thời đó vừa đánh mất.
Và do chỗ đây chỉ là sự trở về trong tâm tưởng, lại ở lĩnh vực thơ ca, cho nên
cái nó hướng tới không phải là một nông thôn có thực mà là một nông thôn
trong hoài niệm, một nông thôn đã được lý tưởng hóa ít nhiều.
Hơn thế nữa, đồng thời với sự trở về trong không gian
còn có sự đi ngược thời gian, để tìm tới tận cái nông thôn thanh bình thời xưa.
Trước mắt chúng ta, xảy ra một quá trình hoài niệm
song đôi, hoài niệm kép, nên tự
nhiên là nó nối tiếp miên man, không biết đến đâu là dứt.
Cuộc sống thanh bình êm ả
Trước tiên, cái cuộc sống nông thôn mà những vần thơ
Nguyễn Bính đưa người ta trở lại là một cuộc sống hài hòa, êm đẹp. Trời đất
thiên nhiên yên lành, thanh sạch, còn con người thì bình thản mà sống, tự tin
mà sống.
Công việc, người ta tự nguyện nhận làm.
Bổn phận, người ta sẵn sàng gánh vác.
Và ai nấy dường như đều luôn luôn biết tìm ra trong
nhịp sống hàng ngày những niềm vui, những điều tốt đẹp. Và con người lao động ở
đây không có cái vẻ lam lũ nhọc nhằn, ngược lại ở họ luôn luôn toát lên vẻ đẹp,
cùng sự ý nhị, duyên dáng.
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván có ao cấy cần
Hoa đỗ vẫn nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng lứa cần năm năm
Ngoài cuộc sống hàng ngày, ở con người nông thôn (xin
nhắc lại đây là hình ảnh con người nông thôn qua sự lý tưởng hóa của cả kẻ ở lại
làng quê lẫn kẻ xa quê) lại không thiếu những phút thăng hoa cao đẹp.
Đó là tình yêu của họ với làng xóm, những xúc động
thuần phác trong quan hệ của họ với tự nhiên, mà nảy nở đầy đặn nhất là vào
những ngày hội hè, đình đám.
Hoặc mở ra giữa những đêm trời cao gió cả, trăng
như ban ngày, hoặc khai trương mùa diễn vào những ngày xuân mưa bụi, hội hè
thường khi là những dịp để con người thoát ra khỏi bao lo buồn hằng ngày, mà
yên tâm sống, sống thật hồn nhiên, thật cởi mở với mọi tình cảm có thật trong
mình. Nói chung, trong tâm thức con người nông thôn thì cuộc sống bao giờ cũng
vận động theo vòng quay đều đặn của tự nhiên. Sẽ không có thay đổi gì thật lớn!
Cũng không có những tai họa bất thường đổ sụp xuống đầu người ta!
Sự ưu thắng của những giá trị tinh
thần
Một khía cạnh khác làm nên sắc thái riêng của cái nông
thôn lý tưởng Nguyễn Bính đưa ta trở lại: ấy là nếp sống đậm chất Nho giáo.
Đây không phải
thứ đạo Nho trung hiếu tiết nghĩa hà khắc của người có học theo lối chính quy và
học để đi làm quan, mà là một ít quy định, một ít giả thiết, một ít niềm tin...
về một cuộc sống lý tưởng mà người ta noi theo, nó khiến cho những sinh hoạt
hàng ngày được chiếu rọi một ánh sáng mới, có thêm những nét trau chuốt hơn,
tinh tế hơn mà đôi khi cũng rạng rỡ hơn.
Xã hội trong thơ Nguyễn Bính là một xã hội có sự phân
công rõ rệt.
Nếu người phụ nữ tượng trưng cho cuộc sống cần cù,
chăm chỉ, và cả những khao khát tốt đẹp, thì những người đàn ông chính là kẻ
thực hiện những khao khát đó.
Bao nhiêu công
phu bỏ ra, những người mẹ, người chị, người vợ cũng không ngại, miễn sao các
anh học trò yên tâm dùi mài kinh sử.
Họ - đám học trò dài lưng tốn vải – sẽ phải học hành
trong sự thúc đẩy ngấm ngầm của những người thân ấy.
Và họ sẽ phải đi thi để những mơ ước dai dẳng kia có
ngày trở thành sự thực. Hầu như bất cứ bài thơ nào của Nguyễn Bính mà có chút
hơi hướng liên quan tới sự lập nghiệp trong tương lai, đều có nhắc đến chữ trạng.
Anh lái đò mơ đỗ trạng, cô gái chăn tằm ước ao chồng mình có ngày thành
trạng, cho đến các cô gái tước đay dệt võng thì cũng chỉ chăm chăm có một
điều là đay này dệt võng để các ông trạng vinh qui.
Khoảng cách tưởng là xa vời – từ cái ngày thường hàn
vi, đến một ông trạng hay chữ nhất nước – hóa ra lại rất gần gũi trong tâm khảm
mọi người đến mức tưởng như ai cũng có thể trở thành trạng được, nếu như chăm
chỉ, cần cù, và có ... một người vợ hiền thúc đẩy. Lạ một điều là cái sự đỗ
trạng ở đây không đi kèm với tiền bạc, hay quyền bính, hay sự hưởng thụ. Nó chỉ
là một thứ giá trị tinh thần, và cả người nhận, lẫn chung quanh, đều lấy làm đủ
mà không thắc thỏm gì thêm.
Từ khía cạnh này mà xét, phải nhận cái thế giới hôm
qua Nguyễn Bính ca tụng là một thế giới cao thượng. Ở đó, cái chiếm vị trí ưu
thắng không phải là vật chất, mà là tinh thần.
Văn chương như một cách thế vượt
lên đau khổ
Không chỉ Nguyễn Bính, thật ra trong văn học tiền
chiến có cả một mạch văn đi vào nuối tiếc và luôn luôn hoài niệm cái không khí
thanh đạm của thời quá khứ. Nguyễn Nhược Pháp có Ngày xưa, Vũ Đình Liên
có Ông đồ, Lưu Trọng Lư gợi lại một thời đã mất trong Khói lam chiều,
trong Chiếc cáng xanh. Đến cả Xuân Diệu “tây” là thế, mới mẻ là thế,
mà cũng sớm quay về sống lại không khí cổ xưa qua những phác họa đời sống tinh
thần lúc ấy:
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như huyền
Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
Dẫu sao, phải nhận rằng so với mọi người thì niềm hoài
vọng này ở Nguyễn Bính vừa dai dẳng, lại vừa tự nhiên hơn.
Tại sao lại như vậy? Chẳng những nhiều lần dông dài
với Nguyễn Bính trong những chuyến giang hồ vặt kiếm ăn, Tô Hoài còn đã có dịp
trở lại với làng quê Nguyễn Bính nữa. Và đây, dưới con mắt Tô Hoài, mảnh đất
chôn nhau cắt rốn của tác giả Lỡ bước sang ngang hiện lên với vẻ trần
trụi vốn có :
Làng Thiện Vinh thật có giữa vùng chiêm khê mùa thối
đất Nam Định, Thái Bình. Đâu đâu cũng xơ xác. Nước trắng đồng, gió lùa sóng
đồng cồn lên, quần lại, lật thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết
đuối. Mỗi năm mất mùa, biết bao người đã bỏ làng đi tha phương.
(Lời
giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính,
1986)
Sau khi cực tả như thế, Tô Hoài đi vào cắt nghĩa: tại
sao trên cái thực đến se lòng đó, lại nảy sinh thơ Nguyễn Bính:
Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại.
Mùa này mất trắng lại mong cho đến mùa sau lại được thấy mặt hạt thóc. Cái củi
rều trôi quá ngoài sông, không vớt được cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ
ôm mặt than thở: “Giá
như ngày ấy theo cái người dưới Đông thì chẳng đến nỗi nào, khổ cái thân tôi…”.
Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã sinh ra từ những như thế. Người
ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước ao, ở giữa làng mà tưởng ra quê mình tận
đâu đâu kia.
Với tư duy sắc sảo của người viết văn xuôi, Tô Hoài
thật đã chạm tới một vấn đề lớn của các sáng tác văn chương trong quá khứ.
Chúng ta đều biết tuy cái tình cảnh vùng đất đồng
chiêm trũng nói ở đây, là riêng của quê hương Nguyễn Bính, song nhìn rộng ra,
nó là nét phổ biến trong xã hội trung đại Việt Nam, và kéo dài cho tới đầu thế
kỷ này.
Khắp đồng bằng Bắc bộ, do nơi quan hệ sản xuất không
hợp lý, và kỹ thuật canh tác cổ lỗ, ngay cả những nơi đồng đất mỡ màu, thiên
nhiên ưu đãi, đâu đâu cũng là một đời sống khó khăn, xã hội thì im lìm bất
động, sự trì trệ kéo dài đến mức trở thành một ám ảnh, và người ta không thể
nghĩ được điều gì tốt đẹp, ngoài cái cảm giác chung rằng cuộc đời mãi mãi là
thế này, không thể thay đổi. Và để tự vệ, để tìm thấy niềm vui sống, người ta
phải dựng tạo cho mình một cõi tâm linh riêng, đó là cái thế giới mộng mơ với
bao điều tốt đẹp.
Bởi lẽ, niềm mơ
ước ấy là của chung mọi người, nên nó dễ dàng lan tỏa, nó được hầu như mọi
người chia sẻ.
Như thuật ngữ bây giờ hay nói, rồi từ cái đời sống bế
tắc đó, một huyền thoại được hình thành, huyền thoại về một cuộc sống
hài hòa êm đẹp, có chỗ cho tất cả mọi người. Không ít sáng tác dân gian – một
kho tàng nghệ thuật phong phú ở đồng bằng Bắc bộ – đã nảy sinh trên cơ sở huyền
thoại dai dẳng kia. Nó trở thành một bộ phận của đời sống người ta, vỗ về an ủi
người ta.
Và nó lưu
truyền qua nhiều thế hệ.
Đến lượt mình, các sáng tác của Nguyễn Bính chính là
bước tiếp nối cái mạch của người đi trước và nâng nó đến độ hoàn chỉnh, tức tạo
ra cho nó một vẻ đẹp vốn chỉ có ở các
vần thơ dân gian ưu tú nhất .
Đã
in trong Cánh bướm và đóa hướng dương,1999
Published on February 03, 2015 22:11
Hai cuốn tiểu thuyết Nguyễn Bính viết thời tiền chiến
Nhiều
nhà thơ nổi tiếng thời kỳ 1940-1945 đồng thời có viết văn xuôi. Thâm Tâm đã viết Thuốc mê. Trần Huyền Trân đứng tên sau
các tiểu thuyết Sau ánh sáng, Bóng người
trên gác kinh. Anh Thơ có Răng đen.
Về phần mình, Nguyễn Bính từng cho in nhiều kỳ trên
báo rồi in thành sách hai cuốn là Ngậm miệng
và Hai người điên giữa kinh thành.
Ngoài ra theo một số bạn bè tác giả kể lại ông còn có cuốn Không nhan sắc; nhưng tôi chưa biết, nên ở đây chỉ nói tới hai cuốn
trên.
Ngậm miệng (tròn 100 trang khổ sách
thông thường ) là một thứ tiểu thuyết độc thoại. Nhân vật xưng tôi trong truyện
tự kể lại mối tình của mình với một cô gái tên là Oanh. Nhưng đó là tình yêu một
phía, tình không được đáp lại.
Thậm chí người con trai cũng chưa một lần dàn mặt trò
chuyện với người mình yêu.
Hết đứng đón để được thấy bóng dáng của nàng, chàng lại
qua nhà đêm tối, trời mưa cũng đứng gần nhà nàng, chờ trong nhà... tắt đèn.
Giận dỗi vì bất
lực, hai lần chàng bỏ đi. Lần lên Thái Nguyên rồi ốm tương tư đã gần chết. Lần
vào tận đồng đất Nam bộ xa xôi.
Nhưng đi xa ít
lâu chàng lại về trong tuyệt vọng. Vì Oanh vẫn không hề đoái hoài. Đúng ra,
Oanh không thể gọi là một nhân vật trong Ngậm
miệng đơn giản là vì Oanh không tự thân xuất hiện.
Phần đầu tác phẩm, có đoạn tả Oanh đi lấy chồng, khiến
nhân vật xưng tôi đứng nhìn mà xiết bao đau đớn. Nhưng đó không phải cảnh thật
mà chỉ do chàng yêu quá, ngồi tưởng tượng ra.
Gần cuối truyện có chương Động phòng hoa chúc dạ, tả ngày cưới của hai người nhưng chẳng qua
cũng là câu chuyện ở trong giấc mơ, khi một mình chàng thi sĩ đang lăn lóc ở
nơi phương trời xa lạ nằm mơ rồi vẽ ra trong đầu.
Cuối truyện, nhân vật xưng tôi giận dữ nói với một người
bạn:
--Nếu bây giờ tôi gặp Oanh, câu đầu tiên của tôi là bảo
với nàng rằng: “Oanh ơi! Oanh có biết không? Quả thật tôi không yêu Oanh một tí
nào cả”.
***
Hai
người điên giữa kinh thành Hà Nội dài hơn (139 trang) và
có vẻ nhiều chất tiểu thuyết hơn.
Hai nhân vật chính trong truyện là Tuấn và Điệp. Cả
hai là những thi sĩ trẻ, nhưng đã trải qua nhiều đau đớn trên đường tình ái,
nên rất bi quan mỗi khi bàn về phụ nữ.
Theo Điệp và Tuấn
“linh hồn họ đục như bùn và lòng họ đen như than” (họ đây là phụ nữ nói chung!)
Một lần, chán quá, hai người nghĩ ra trò chơi kỳ cục:
mua hoa xuống nghĩa trang thành phố - bấy giờ là nghĩa trang P.T ( Phúc Thiện
?) ở gần Bạch Mai để xem có cô gái trẻ nào mới chết thì... đặt hoa lên mộ.
Từ đó, cả Tuấn và Điệp đều hết lòng yêu Hoàng Lan, cô
gái mà họ không hề biết mặt và đã chết từ mấy tháng trước. Điều này khiến bạn
bè của họ như thi sĩ Trần, Quang... đều bảo họ điên.
Tình cờ, một lần xuống mộ, hai chàng gặp mẹ và em gái
Hoàng Lan. Họ mời Tuấn cùng Điệp đến chơi, rồi về gia đình trọ luôn thể.
Nhưng đang sống trong mộng, bỗng nhiên một lần Điệp bắt
gặp trong tấm gối cũ của Hoàng Lan - mà chàng thường gối - một xấp thư và ảnh.
Hoá ra, trước khi chết, Hoàng Lan đâu phải trong trắng như Điệp đã tưởng.
Báo tin cho Tuấn
biết chuyện này mà lòng Điệp đau như dao cắt.
***
Đương thời, mối tình si của Nguyễn Bính với một cô gái
tên là Oanh ở Hà Đông đã được nhiều người chứng kiến.
Trong hồi ký Những gương mặt, ở bài viết về Trúc Đường,
Tô Hoài kể: “Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố Hàng Bông, Nguyễn Bính bấm
tôi: Oanh đấy! Oanh đấy! Tôi nhìn sang bên kia hè. Trời ơi! Oanh! (...) Một cô
gái mặt tròn như chiếc bánh đúc chít khăn sa tanh đen kiểu các cô bán cau khô,
hàng xén chợ tỉnh. Mà cái chàng “khách thơ” Nguyễn Bính đâu có quen biết gì người
ta cho cam! Hình như chỉ biết là con một ông ách ông quản gì đó ở Hà Đông. Thế
mà cứ rối cả lên”.
Nhưng ở đây,
chúng ta không bàn đến chuyện nhân vật Oanh trong đời thường xấu hay đẹp, Oanh có yêu
Nguyễn Bính hay không.
Điều quan trọng
hơn đối với người nghiên cứu lịch sử văn học: con người Nguyễn Bính bộc lộ qua
mối tình này ra sao.
Nếu sự vắng bóng của Oanh trong Ngậm miệng
có vẻ làm hại tới tác phẩm về mặt tiểu thuyết, thì để bù lại, nó tạo ra một khoảng
trống để buộc Nguyễn Bính khai thác bản thân tỉ mỉ hơn.
Qua thiên truyện này, ta được đọc những trang ông tự kể
về quê quán ông (làng Thiện Vinh, có “thổ sản” rau cần và chuyên nghề làm bún),
gia cảnh ông (mẹ mất sớm, thiếu người chăm sóc, lúc nào cũng cảm thấy “bị chôn
sống giữa một gia đình hiu quạnh như bãi tha ma”).
Lá thư nhân vật xưng tôi gửi cho ông anh Hữu Cương -
có thể hiểu là thư Nguyễn Bính gửi cho nhà viết kịch Trúc Đường - là một đoạn tự
bạch thành thực và cảm động. Trong khoảng 8 trang sách, Nguyễn Bính đã nói gần
như đầy đủ về mình và gia đình mình.
Ngoài ra, trong nhiều trang sách, người ta bắt gặp những
ý tứ mà sau này Nguyễn Bính sẽ đưa vào thơ.
Chẳng hạn ở trang 22 tiểu thuyết Ngậm miệng Nguyễn Bính viết: “Tôi phụng
thờ nàng hơn các vị tăng ni phụng thờ đức Phật, tôi tôn sùng nàng gấp mấy người
ta tôn sùng một tôn giáo. Tôi luôn luôn tụng kinh vì nàng, nhưng là tụng kinh
ân ái”.
Đọc đoạn này, người ta không khỏi nhớ tới mấy câu kết bài Lời yêu đương.
Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là nàng.
***
Chất mơ mộng vu vơ của Ngậm miệng cũng thấy rõ trong tiểu thuyết Hai người điên giữa kinh
thành.
Tuy nhiên, cuốn sau cũng có một số nét khác , đáng gọi là bổ sung cho cuốn trước.
Nhà thơ Hoàng Tấn cho biết, Nguyễn Bính thường tự nhận tiền thân của mình là bướm,
và từng lấy bút hiệu là Điệp Lang. Trong thơ ông, mô típ con bướm nhởn nhơ
phong tình thường trở đi trở lại. Nhân vật Điệp trong Hai người điên giữa kinh thành có nhiều nét nhang nhác con người
Nguyễn Bính hàng ngày:
--cũng lối dễ xúc động “trông người con gái nào cũng
thấy đẹp”, “gặp người con gái nào cũng nói ầm cả lên là yêu tha thiết yêu mặn
mà”;
-- cũng những cảm giác sâu nặng về xã hội truyền thống,
vừa nhìn rặng hoa hoè điểm chấm vàng đã nhớ ngay chuyện ngày xưa sĩ tử đi thi
ra sao.
Vậy đã rõ Điệp chính là Nguyễn Bính. Thế còn Tuấn, và Trần, Quang, hai người bạn
làm thơ khác?
Theo chúng tôi tìm hiểu, Tuấn ở đây chắc chắn là hình ảnh của Thâm Tâm.
Tên thật
của Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình, thì chữ Tuấn chắc rút ở đấy ra, đấy là một lẽ.
Lẽ thứ hai quan trọng hơn:
Tuấn ở đây, cũng như Thâm Tâm ở ngoài đời, đều là loại người khắc khổ, nhìn đời
một cách bi quan. Tuấn cũng từng yêu một
cô gái trẻ, tên là Khánh, trong tình yêu cũng xen vào hình ảnh những bông hoa
ti-gôn “dáng như tim vỡ”, rồi cô gái cũng bỏ đi lấy chồng, khiến Tuấn đời đời
ôm hận.
Toàn
là chi tiết mượn từ đời riêng Thâm Tâm, trong đó có mối tình Thâm Tâm với
T.T.Kh.
Còn Trần thì không ai khác, là Trần Huyền Trân. Bộ ba
Nguyễn Bính- Thâm Tâm- Trần Huyền Trân gắn bó với nhau từ hồi viết Tiểu thuyết thứ năm và báo Bắc Hà, một mối
gắn bó mà Nguyễn Bính từng mô tả “không đào viên kết nghĩa - nhưng cũng thành
tam anh”.
Vả chăng, thời tiền chiến nếu có một thi sĩ nào mà thơ
“điêu luyện, cổ kính, đẹp như một bức tranh Tàu”, như Nguyễn Bính tả trong Hai người điên giữa kinh thành, thì người
đó phải là Trần Huyền Trân.
Sau hết, còn ai là Quang, một người bạn nữa của Tuấn
và Điệp, chỉ hiện ra với mấy nét thoáng qua trong tác phẩm? Tác giả cho biết
“Quang có gia đình êm ấm ở Hà Nội, nhưng lại thích đi giang hồ. Giang hồ đây chỉ
có nghĩa là đi liêu biêu, nay đây mai đó để được làm thơ nhớ quê hương, nhớ mẹ,
nhớ chị, nhớ tình nhân và nhớ hết mọi người.”
Đây nữa, là chi
tiết “thân hình anh to nhớn như voi, nhưng tính khí lại như đàn bà, rất hay
khóc”.
Nhà văn Tô Hoài nói với tôi: Quang đây là Phạm Quang Hoà một cây bút của
nhóm Bắc Hà.
***
Ngoài tiểu thuyết, Nguyễn Bính còn viết truyện ngắn. Tôi
chưa được đọc , nhưng nghe một nhà nghiên cứu cho biết, thì năm 1944, trong thời
gian ở Sài Gòn, Nguyễn Bính có truyện ngắn Không
đất cắm dùi in ở tờ báo Thanh niên Đông Pháp, được báo này tặng giải nhất
trong một cuộc thi.
Trước đó, hồi nhà thơ đang ở Hà Nội, tác phẩm văn xuôi
ký tên Nguyễn Bính in rải rác trên các báo cũng có khá nhiều. Bản thân chúng
tôi mới sưu tầm được một truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Bính mang tên Nước hồ sen. Tác giả đề rõ mình viết
truyện này ở đền Yên Phú, Hà Đông và cho in năm 1940.
Nhưng hãy trở lại với Ngậm miệng và Hai người điên giữa kinh thành. Bất kể chất lượng nghệ thuật thế nào, cả hai cuốn tiểu thuyết này là những tài liệu quý. Giá trị của chúng là giúp ta hiểu
thêm Nguyễn Bính và bạn bè cùng làm văn nghệ đương thời.
Ở một nước như nước Nga trước 1991, các tác giả
lớn thường được làm riêng những bộ toàn
tập, có tính hàn lâm, trong đó in lại từ các dị bản khác nhau của các tác phẩm,
các bản nháp, các sổ tay ghi chép hàng ngày của ông nhà văn lớn kia.
Chỉ những bộ sách ấy mới dành chỗ cho loại tiểu
thuyết như Ngậm miệng và Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội
nói trong bài này.
Ở ta chưa ai nghĩ cần làm những loại toàn tập đó cả, nên loại
sách tương tự như hai cuốn nói trên của Nguyễn Bính chắc vẫn chỉ nằm nguyên
trong một bộ sưu tập nào đó.
In lần đầu trong Chuyện cũ văn chương 2001
nhà thơ nổi tiếng thời kỳ 1940-1945 đồng thời có viết văn xuôi. Thâm Tâm đã viết Thuốc mê. Trần Huyền Trân đứng tên sau
các tiểu thuyết Sau ánh sáng, Bóng người
trên gác kinh. Anh Thơ có Răng đen.
Về phần mình, Nguyễn Bính từng cho in nhiều kỳ trên
báo rồi in thành sách hai cuốn là Ngậm miệng
và Hai người điên giữa kinh thành.
Ngoài ra theo một số bạn bè tác giả kể lại ông còn có cuốn Không nhan sắc; nhưng tôi chưa biết, nên ở đây chỉ nói tới hai cuốn
trên.
Ngậm miệng (tròn 100 trang khổ sách
thông thường ) là một thứ tiểu thuyết độc thoại. Nhân vật xưng tôi trong truyện
tự kể lại mối tình của mình với một cô gái tên là Oanh. Nhưng đó là tình yêu một
phía, tình không được đáp lại.
Thậm chí người con trai cũng chưa một lần dàn mặt trò
chuyện với người mình yêu.
Hết đứng đón để được thấy bóng dáng của nàng, chàng lại
qua nhà đêm tối, trời mưa cũng đứng gần nhà nàng, chờ trong nhà... tắt đèn.
Giận dỗi vì bất
lực, hai lần chàng bỏ đi. Lần lên Thái Nguyên rồi ốm tương tư đã gần chết. Lần
vào tận đồng đất Nam bộ xa xôi.
Nhưng đi xa ít
lâu chàng lại về trong tuyệt vọng. Vì Oanh vẫn không hề đoái hoài. Đúng ra,
Oanh không thể gọi là một nhân vật trong Ngậm
miệng đơn giản là vì Oanh không tự thân xuất hiện.
Phần đầu tác phẩm, có đoạn tả Oanh đi lấy chồng, khiến
nhân vật xưng tôi đứng nhìn mà xiết bao đau đớn. Nhưng đó không phải cảnh thật
mà chỉ do chàng yêu quá, ngồi tưởng tượng ra.
Gần cuối truyện có chương Động phòng hoa chúc dạ, tả ngày cưới của hai người nhưng chẳng qua
cũng là câu chuyện ở trong giấc mơ, khi một mình chàng thi sĩ đang lăn lóc ở
nơi phương trời xa lạ nằm mơ rồi vẽ ra trong đầu.
Cuối truyện, nhân vật xưng tôi giận dữ nói với một người
bạn:
--Nếu bây giờ tôi gặp Oanh, câu đầu tiên của tôi là bảo
với nàng rằng: “Oanh ơi! Oanh có biết không? Quả thật tôi không yêu Oanh một tí
nào cả”.
***
Hai
người điên giữa kinh thành Hà Nội dài hơn (139 trang) và
có vẻ nhiều chất tiểu thuyết hơn.
Hai nhân vật chính trong truyện là Tuấn và Điệp. Cả
hai là những thi sĩ trẻ, nhưng đã trải qua nhiều đau đớn trên đường tình ái,
nên rất bi quan mỗi khi bàn về phụ nữ.
Theo Điệp và Tuấn
“linh hồn họ đục như bùn và lòng họ đen như than” (họ đây là phụ nữ nói chung!)
Một lần, chán quá, hai người nghĩ ra trò chơi kỳ cục:
mua hoa xuống nghĩa trang thành phố - bấy giờ là nghĩa trang P.T ( Phúc Thiện
?) ở gần Bạch Mai để xem có cô gái trẻ nào mới chết thì... đặt hoa lên mộ.
Từ đó, cả Tuấn và Điệp đều hết lòng yêu Hoàng Lan, cô
gái mà họ không hề biết mặt và đã chết từ mấy tháng trước. Điều này khiến bạn
bè của họ như thi sĩ Trần, Quang... đều bảo họ điên.
Tình cờ, một lần xuống mộ, hai chàng gặp mẹ và em gái
Hoàng Lan. Họ mời Tuấn cùng Điệp đến chơi, rồi về gia đình trọ luôn thể.
Nhưng đang sống trong mộng, bỗng nhiên một lần Điệp bắt
gặp trong tấm gối cũ của Hoàng Lan - mà chàng thường gối - một xấp thư và ảnh.
Hoá ra, trước khi chết, Hoàng Lan đâu phải trong trắng như Điệp đã tưởng.
Báo tin cho Tuấn
biết chuyện này mà lòng Điệp đau như dao cắt.
***
Đương thời, mối tình si của Nguyễn Bính với một cô gái
tên là Oanh ở Hà Đông đã được nhiều người chứng kiến.
Trong hồi ký Những gương mặt, ở bài viết về Trúc Đường,
Tô Hoài kể: “Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố Hàng Bông, Nguyễn Bính bấm
tôi: Oanh đấy! Oanh đấy! Tôi nhìn sang bên kia hè. Trời ơi! Oanh! (...) Một cô
gái mặt tròn như chiếc bánh đúc chít khăn sa tanh đen kiểu các cô bán cau khô,
hàng xén chợ tỉnh. Mà cái chàng “khách thơ” Nguyễn Bính đâu có quen biết gì người
ta cho cam! Hình như chỉ biết là con một ông ách ông quản gì đó ở Hà Đông. Thế
mà cứ rối cả lên”.
Nhưng ở đây,
chúng ta không bàn đến chuyện nhân vật Oanh trong đời thường xấu hay đẹp, Oanh có yêu
Nguyễn Bính hay không.
Điều quan trọng
hơn đối với người nghiên cứu lịch sử văn học: con người Nguyễn Bính bộc lộ qua
mối tình này ra sao.
Nếu sự vắng bóng của Oanh trong Ngậm miệng
có vẻ làm hại tới tác phẩm về mặt tiểu thuyết, thì để bù lại, nó tạo ra một khoảng
trống để buộc Nguyễn Bính khai thác bản thân tỉ mỉ hơn.
Qua thiên truyện này, ta được đọc những trang ông tự kể
về quê quán ông (làng Thiện Vinh, có “thổ sản” rau cần và chuyên nghề làm bún),
gia cảnh ông (mẹ mất sớm, thiếu người chăm sóc, lúc nào cũng cảm thấy “bị chôn
sống giữa một gia đình hiu quạnh như bãi tha ma”).
Lá thư nhân vật xưng tôi gửi cho ông anh Hữu Cương -
có thể hiểu là thư Nguyễn Bính gửi cho nhà viết kịch Trúc Đường - là một đoạn tự
bạch thành thực và cảm động. Trong khoảng 8 trang sách, Nguyễn Bính đã nói gần
như đầy đủ về mình và gia đình mình.
Ngoài ra, trong nhiều trang sách, người ta bắt gặp những
ý tứ mà sau này Nguyễn Bính sẽ đưa vào thơ.
Chẳng hạn ở trang 22 tiểu thuyết Ngậm miệng Nguyễn Bính viết: “Tôi phụng
thờ nàng hơn các vị tăng ni phụng thờ đức Phật, tôi tôn sùng nàng gấp mấy người
ta tôn sùng một tôn giáo. Tôi luôn luôn tụng kinh vì nàng, nhưng là tụng kinh
ân ái”.
Đọc đoạn này, người ta không khỏi nhớ tới mấy câu kết bài Lời yêu đương.
Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là nàng.
***
Chất mơ mộng vu vơ của Ngậm miệng cũng thấy rõ trong tiểu thuyết Hai người điên giữa kinh
thành.
Tuy nhiên, cuốn sau cũng có một số nét khác , đáng gọi là bổ sung cho cuốn trước.
Nhà thơ Hoàng Tấn cho biết, Nguyễn Bính thường tự nhận tiền thân của mình là bướm,
và từng lấy bút hiệu là Điệp Lang. Trong thơ ông, mô típ con bướm nhởn nhơ
phong tình thường trở đi trở lại. Nhân vật Điệp trong Hai người điên giữa kinh thành có nhiều nét nhang nhác con người
Nguyễn Bính hàng ngày:
--cũng lối dễ xúc động “trông người con gái nào cũng
thấy đẹp”, “gặp người con gái nào cũng nói ầm cả lên là yêu tha thiết yêu mặn
mà”;
-- cũng những cảm giác sâu nặng về xã hội truyền thống,
vừa nhìn rặng hoa hoè điểm chấm vàng đã nhớ ngay chuyện ngày xưa sĩ tử đi thi
ra sao.
Vậy đã rõ Điệp chính là Nguyễn Bính. Thế còn Tuấn, và Trần, Quang, hai người bạn
làm thơ khác?
Theo chúng tôi tìm hiểu, Tuấn ở đây chắc chắn là hình ảnh của Thâm Tâm.
Tên thật
của Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình, thì chữ Tuấn chắc rút ở đấy ra, đấy là một lẽ.
Lẽ thứ hai quan trọng hơn:
Tuấn ở đây, cũng như Thâm Tâm ở ngoài đời, đều là loại người khắc khổ, nhìn đời
một cách bi quan. Tuấn cũng từng yêu một
cô gái trẻ, tên là Khánh, trong tình yêu cũng xen vào hình ảnh những bông hoa
ti-gôn “dáng như tim vỡ”, rồi cô gái cũng bỏ đi lấy chồng, khiến Tuấn đời đời
ôm hận.
Toàn
là chi tiết mượn từ đời riêng Thâm Tâm, trong đó có mối tình Thâm Tâm với
T.T.Kh.
Còn Trần thì không ai khác, là Trần Huyền Trân. Bộ ba
Nguyễn Bính- Thâm Tâm- Trần Huyền Trân gắn bó với nhau từ hồi viết Tiểu thuyết thứ năm và báo Bắc Hà, một mối
gắn bó mà Nguyễn Bính từng mô tả “không đào viên kết nghĩa - nhưng cũng thành
tam anh”.
Vả chăng, thời tiền chiến nếu có một thi sĩ nào mà thơ
“điêu luyện, cổ kính, đẹp như một bức tranh Tàu”, như Nguyễn Bính tả trong Hai người điên giữa kinh thành, thì người
đó phải là Trần Huyền Trân.
Sau hết, còn ai là Quang, một người bạn nữa của Tuấn
và Điệp, chỉ hiện ra với mấy nét thoáng qua trong tác phẩm? Tác giả cho biết
“Quang có gia đình êm ấm ở Hà Nội, nhưng lại thích đi giang hồ. Giang hồ đây chỉ
có nghĩa là đi liêu biêu, nay đây mai đó để được làm thơ nhớ quê hương, nhớ mẹ,
nhớ chị, nhớ tình nhân và nhớ hết mọi người.”
Đây nữa, là chi
tiết “thân hình anh to nhớn như voi, nhưng tính khí lại như đàn bà, rất hay
khóc”.
Nhà văn Tô Hoài nói với tôi: Quang đây là Phạm Quang Hoà một cây bút của
nhóm Bắc Hà.
***
Ngoài tiểu thuyết, Nguyễn Bính còn viết truyện ngắn. Tôi
chưa được đọc , nhưng nghe một nhà nghiên cứu cho biết, thì năm 1944, trong thời
gian ở Sài Gòn, Nguyễn Bính có truyện ngắn Không
đất cắm dùi in ở tờ báo Thanh niên Đông Pháp, được báo này tặng giải nhất
trong một cuộc thi.
Trước đó, hồi nhà thơ đang ở Hà Nội, tác phẩm văn xuôi
ký tên Nguyễn Bính in rải rác trên các báo cũng có khá nhiều. Bản thân chúng
tôi mới sưu tầm được một truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Bính mang tên Nước hồ sen. Tác giả đề rõ mình viết
truyện này ở đền Yên Phú, Hà Đông và cho in năm 1940.
Nhưng hãy trở lại với Ngậm miệng và Hai người điên giữa kinh thành. Bất kể chất lượng nghệ thuật thế nào, cả hai cuốn tiểu thuyết này là những tài liệu quý. Giá trị của chúng là giúp ta hiểu
thêm Nguyễn Bính và bạn bè cùng làm văn nghệ đương thời.
Ở một nước như nước Nga trước 1991, các tác giả
lớn thường được làm riêng những bộ toàn
tập, có tính hàn lâm, trong đó in lại từ các dị bản khác nhau của các tác phẩm,
các bản nháp, các sổ tay ghi chép hàng ngày của ông nhà văn lớn kia.
Chỉ những bộ sách ấy mới dành chỗ cho loại tiểu
thuyết như Ngậm miệng và Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội
nói trong bài này.
Ở ta chưa ai nghĩ cần làm những loại toàn tập đó cả, nên loại
sách tương tự như hai cuốn nói trên của Nguyễn Bính chắc vẫn chỉ nằm nguyên
trong một bộ sưu tập nào đó.
In lần đầu trong Chuyện cũ văn chương 2001
Published on February 03, 2015 21:02
Từ những xúc động trước vẻ đẹp hồn nhiên đến nỗi buồn bẽ bàng chua chát --xuân và tết trong thơ Nguyễn Bính

Mỗi lần tết đến, những người yêu thơ dễ nhớ tới Nguyễn Bính ( 1918–1966). Con người từng viết nên nhiều bài thơ về xuân và tết ấy qua đời vào một dịp người xưa rất kỵ – những ngày tất niên theo âm lịch.
Mang tâm tình của một con người từ nông thôn lên thành phố, cả đời thơ thời tiền chiến của ông, mặc dù thường được miêu tả là một cuộc lỡ bước sang ngang, buồn nhiều hơn vui, vui giả mà buồn thật… song nhìn kỹ lại là phần còn lại rõ rệt nhất. Chứ nếu tính riêng quãng đời sau 1945 thì người ta lại thấy thật ra ông là một điển hình về sự không hợp thời. Và lần này thì ông gần như mất là chính, mất cả thơ và mất cả cuộc sống. Nên các dẫn chứng thơ ông tôi cũng chỉ lấy từ sáng tác thời tiền chiến.
Được khởi đăng từ khoảng hai chục năm trước, chùm sáu bài viết ngắn giới thiệu trên blog lần này bao gồm các chủ đề khác nhau: về xuân và tết, về tình yêu và phụ nữ trong Nguyễn Bính ; về quan hệ của ông với thời đại và nghệ thuật; ngoài ra còn có bài riêng nói về hai cuốn tiểu thuyêt của tác giả mà ít người biết.
XUÂN & TẾT TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH TIỀN CHIẾN
Sự đa dạng
Thử ghi lại tên một số bài thơ mà Nguyễn Bính đã viết, trong đó có nói
đến xuân và tết.
Trong tập Lỡ bước sang ngang: Mưa xuân.
Tập Tâm hồn tôi:
Xuân về.
Tập Một nghìn cửa số: Thơ xuân, Mùa xuân xanh.
Tập Mười hai bến
nước: Xuân tha hương.
Tập Mây tần: Tết của mẹ tôi
Đây nữa, các bài thơ lẻ mới đăng báo mà chưa in vào tập nào: Vườn xuân,
Xuân thương nhớ, Tết biên thuỳ.
Tiếp đó, nếu dừng lại kỹ hơn ở các bài thơ khác không thật trực tiếp
song vẫn nói đến cùng một đề tài (như Cô lái đò, Quán trọ, Khăn hồng,
Vài nét rừng) thì người ta phải công nhận với nhau rằng Nguyễn Bính,
trong số các nhà thơ hiện đại, là một trong những người viết nhiều về
xuân và tết hơn ai hết.
Nếu lại biết rằng Nguyễn Bính qua đời vào một ngày cuối tháng giêng
1966, tức cuối năm Ất Tỵ, trước khi chuyển sang năm Bính Ngọ, thì người
ta càng có quyền để cho sự liên tưởng được đẩy đi xa hơn nữa.
Giai thoại
Nguyễn Bính kể: một người bạn của Nguyễn Bính là Trần Lê Văn cho rằng
tác giả Lỡ bước sang ngang đã tiên liệu trước cái chết của mình ngay từ
thời viết mấy câu thơ trong bài Nhạc xuân:
Năm mới tháng giêng mùng một tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.
Chúng ta có thể không hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn song phải nhận là
giữa Nguyễn Bính với cái thời khắc trời đất giao hoà này, đúng là có mối
duyên nợ thầm kín nào đó.
Mùa xuân và tết đã được Nguyễn Bính miêu tả như thế nào?
Ở bài Xuân về, ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa
cam, cánh bướm.
Ở bài Vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, búp non.
Khi tả tết (như ở các bài Tết của mẹ tôi, Tết biên thuỳ) Nguyễn Bính lại
cũng nói đến pháo, hoa, rượu, những nét son trên môi thiếu nữ.
Đại khái, đó là những chi tiết thông thường mà mỗi chúng ta hình dung
ra, khi nghe nói đến xuân và tết.
Về mặt thi liệu mà xét, chúng không có
cái lạ, cái choáng ngợp, của những gì thật mới, thật độc đáo. Chỉ có
điều là những chi tiết đơn sơ ấy được Nguyễn Bính thổi vào một sức sống,
khiến nó hiện lên thành những bức tranh tự nhiên, đồng thời gợi lên
trong lòng người đọc những xúc động mà hầu như ai cũng có, nhưng lại
không hay biết.
Ý nghĩa mà mùa xuân và tết
để lại trong lòng người.
Bài Thơ xuân nhắc đến đủ loại người, và ở mỗi loại xuân lại có một ý
nghĩa riêng.
Với các em nhỏ, xuân là đùa vui nhí nhảnh.
Với các cô gái,
xuân gợi chuyện ái ân. Với các chàng trai, ngày xuân cũng là những ngày
bắt đầu của một mơ ước cao rộng: thi cử, đỗ đạt.
Ngược lại, với các cụ
già, xuân là thời gian để chiêm nghiệm việc đời.
Có thể dự đoán một bài như bài thơ Thơ xuân được viết để “góp tên góp
tuổi góp chất lượng” cho một số báo tết của một cố nhân nào đó trong
làng báo, nên nặng tính cách giao đãi (tất nhiên, giao đãi của Nguyễn
Bính, thì cũng đã rất tài).
Còn như muốn tìm cái phần thật là chân chất
của Nguyễn Bính, cái phần xuân và tết riêng của ông, thì không gì bằng
đọc lại những bài như Mưa xuân.
Mượn lời tâm sự của một cô gái đi xem
chèo không gặp người yêu, bài thơ cô kết lại ở những cảm giác âm thầm và
rạo rực mà mùa xuân mang lại trong lòng mỗi người. Đây là thời gian của
gieo cấy ấp ủ, của tin yêu và chờ đợi. Sau cái mưa bụi kia, trong không
khí lành lạnh của những thoáng mùa đông đang còn sót lại, thực ra là
bao hy vọng mơ hồ được đánh thức, nó làm cho mỗi con người, nhất là
những người tuổi trẻ “ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng”, và mặc
dù đôi khi dó chỉ là những hy vọng hão, những ước mong không được đáp
ứng, song nó vẫn bền chặt trong lòng người, cả đến khi đau đớn, con
người ở đây vẫn không nản lòng, vẫn gắng công chờ đợi, vì ngày xuân còn
dài, và theo nhịp tháng năm, sau xuân này còn có những xuân khác.
Xuân tha hương
Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính đã viết khi mới từ nông thôn
lên thành thị, mới bắt đầu cuộc đời của một thi sĩ với bao náo nức.
Chỉ vài năm sau thôi, khi gió bụi kinh thành mang lại cho Nguyễn
Bính nhiều chua xót, và những ngày giang hồ đôi khi đồng nghĩa với cuộc
lưu đày bất dắc dĩ, thì một mô típ khác bắt đầu xuất hiện: xuân và tết
gắn liền nỗi nhớ quên, nhớ những kỷ niệm êm đẹp ngày trước.
Giờ đây,
nhìn ngày vui của mọi người, chàng thi sĩ chợt nhận ra mình quá đơn độc.
Sống giữa cái tết của người ta, chàng mong những cái tết của mình.
Và
trước khi làm thơ xuân cho người, chàng làm cho mình những vần thơ xuân
thật đau đớn, thật tê tái.
Đấy là âm hưởng toát ra qua những bài thơ như
Xuân tha hương, Quán trọ, Bài hành phương Nam viết sau 1940.
Nếu trước đây, thơ xuân Nguyễn Bính thường nói đến những buổi sáng, thì
nay trong thơ xuân của con người ấy có những buổi chiều, những đêm tối.
- Thơ suông rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều
-
Đây lời tâm sự cùng ai tỏ
Một lạnh đêm xuân chiếu lạnh giường.
Theo hướng phát triển này, giọng thơ Nguyễn Bính có dịp tự đổi khác khá
bất ngờ.
Trước đấy, thơ như một thứ quà tặng mà thiên nhiên ban phát cho
người nghệ sĩ tài ba, và chàng chỉ việc giơ tay ra là hái ngay được để
trao tặng cho đời.
Nay ta bắt gặp một sự dụng công hơn và những gì tâm
huyết hơn - thơ là sản phẩm của chính con người Nguyễn Bính, kết quả của
sự từng trải riêng Nguyễn Bính mới có, thơ như những giọt nước mắt đã
cố kìm giữ mà cứ trào ra trên gương mặt phong trần của chàng thi sĩ.
Có
thể nói, những vần thơ đanh quánh rắn rỏi có hơi hướng thơ biên tái (một
dòng trong thơ Đường) này như là trình ra một Nguyễn Bính mới, và cái
điều mà Nguyễn Bính vẫn tự hào, là được theo đòi bút nghiên, học chữ Hán
từ lúc nhỏ, điều đó đã được chứng thực .
Những gì còn lại
Nhưng có lẽ những bài thơ xuân tha hương buồn bã chỉ có tiếng vang trong
lòng một lớp công chúng chật hẹp.
Với đa số bạn đọc, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những câu thơ đắm say
tha thiết với mưa xuân, những câu thơ chúng chiều chuộng người ta mơn
trớn người ta, và phải nói là khá phù hợp với những ảo tưởng tốt đẹp mà
mùa xuân thường gợi ra trong lòng bất cứ ai, kiểu như:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Trời ở trên cao lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Hoặc:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.
Người ta biết rằng Nguyễn Bính, con người rất nhạy cảm với phụ nữ, -- dễ
yêu và cũng rất dễ là khổ vì phụ nữ này--, trong đời riêng, khá bất hạnh.
Cái
hạnh phúc thông thường - một tình yêu chân chất, kết thúc bằng một cuộc
hôn nhân bền chặt - nhiều người bình thường có thể có, song chính
Nguyễn Bính lại không có.
Có lẽ vì thế người thi sĩ của chúng ta không
khỏi có lúc muốn tìm tới trong thơ cái điều không đạt tới trong cuộc
đời: trong cơn say sưa đã mấy lần ông gọi mùa xuân là một người con gái,
và sẵn sàng đi đến cùng, trong mối quan hệ với người con gái ấy.
Nhân
trò chuyện với người chị ở xa là chị Trúc, ông cả quyết:
Chị ơi em cưới mùa xuân nhé!
Để rồi một dịp khác ông sẽ diễn tả những luống cuống trong tình yêu và
niềm khao khát tận hưởng tình yêu với người con gái - mùa xuân trong
những câu thơ thuộc loại hay nhất của mình.
Xuân đến tình tôi náo nức quá
Như người giai tế tối tân hôn
Vì say sưa quá, cho nên đã
Đánh đổ trời xuân xuống suối hồn.
Nguyên là bài Chị ơi! em cưới mùa xuân nhé !
In trong Chuyện
cũ văn chương, 2001
Đã đưa trên blog này ngày 23-1-2009
Published on February 03, 2015 07:47
January 30, 2015
Tô Hoài, cuộc phiêu lưu dài dài và một định hướng chắc chắn
Nguyên là bài Tô Hoài,
người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình
đã đưa lên mạng ngày 05-10-2014, có bổ sung và sửa chữa
Lời dẫn – Một ví dụ về sức đề kháng của các
nhà văn miền Bắc
Trong bài Nhân
một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 viết ngày 19-12 -2014, khi nói về văn
học Hà Nội sau 1945, tôi có viết:
“Tôi không nói tất
cả, tôi chỉ nói rằng vượt lên trên một số đông tầm thường và xu thời, vẫn có
những cây bút miền Bắc tin ở sứ mệnh cầm bút của mình.
Ở những người này có rất
nhiều mâu thuẫn, cũng có lúc họ đã chùn tay, đã đầu hàng, nhưng rồi tiếp sau
đó, bên cạnh đó, lại vẫn giữ được cái phần lương tâm lương tri của một người
viết văn chân chính.
Nỗ lực đó của họ còn được ghi lại trong các trang sách”.
Một số bạn đọc tỏ ý nghi
ngờ, ngụ ý là cố tìm cũng chẳng thấy ai có được cái phần lương tri đó,
không ai có dịp bộc lộ điều đó qua tác phẩm.
Tôi cho đó là một
cách nhìn quá đơn giản.
Trong khoa học có khái niệm
sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật. Người ta không nên sợ bệnh tật.
Miễn còn sức đề kháng (cũng gọi là khả năng miễn dịch) thì người ta vẫn còn có
thể tìm được cách gì đó để chống lại mọi tác động xấu từ bên ngoài, chống lại số
phận.
Khi nói về cách
tồn tại của các nhà văn miền Bắc sau 1945, có lẽ phải dùng tới khái niệm
đề kháng trên. Để có sức thuyết phục, người ta sẽ phải dừng lại kỹ hơn ở
các trường hợp khá phức tạp như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu …Nhưng nếu cần một người theo đuổi lẽ sống của mình một cách kiên trì dai dẳng hơn cả, theo
tôi có thể lấy ngay Tô Hoài,.
Vào dịp 100 ngày qua đời của Tô Hoài , tôi đã viết bài dưới đây,
sơ bộ phác ra cái mạch sáng tác của tác giả Dế
mèn phiêu lưu ký. Nay nhân dịp nghĩ về định hướng tư tưởng của các nhà văn
miền Bắc nói chung, xin giới thiệu lại. Cố nhiên mọi điều đều cần nghĩ tiếp.
Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh
1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người viết văn
gợi cho tôi nhiều liên tưởng.
Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy
nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Lê Bá Thự dịch
Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết
vào dịp tác giả Tadeusz Rozewicz chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.
Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi rằng
nhà văn này có một cách nhìn
chính thống
Năm 1992, hồi ký Cát Bụi
Chân Ai của ông đã gây ồn
ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ
đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề
được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.
Tôi cho đây là một lời đánh giá thiếu chính xác nếu không
nói là không thật hiểu về các nhà văn Hà Nội sau 1945.
Tối sáng lẫn lộn…
Những cách tồn tại khó khăn...
Những tiếng nói lắp bắp
Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe nhoẹt…
Chúng tôi là thế. Nhưng ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?
Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay
người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi
tiếng là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục,
thì về chính trị nhiều khi ông cũng cẩu thả, cơ hội, dám làm đủ thứ việc mà
chính ông rất khinh bỉ.
Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn
Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến mà -- để khỏi dùng chữ điếm -- tôi tạm gọi là lang chạ
đó (xem Chất lang chạ trong
mỗi chúng ta trên blog này ngày 18-2-2012 ). Cái chất lang chạ này
trong Tô Hoài cũng rất sẵn.
Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết
rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không
phải chỉ luôn luôn có hai con người như nhiều người khác, rõ nhất là
Nguyễn Khải, là Chế Lan Viên… Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ
đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về
các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa
sợ.
Ông cũng không manh động chọc ngoáy liều
lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông có sự tính toán hợp lý của mình. Thời
gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ ráo riết trong tư duy ông, khiến người
ta có cảm tưởng ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.
Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite VN nói về Tô Hoài khi ông qua đời là khá
chính xác:
Là nhà văn tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều
thập kỷ được rèn giũa kỹ năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc
chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư
tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng
tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá bằng
những bài phê bình gay gắt.
Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên
tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát
bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về
những năm tháng cay nghiệt của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường
lối vô sản, cải cách ruộng đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản”
trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.
Bút pháp hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện
thực giễu nhại cùng song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một
cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng
bằng. Có thể nói Tô Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình
và cho bạn đọc.
Trong nhiều lần trò
chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc
nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn
Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào
cũng trở thành nhà văn.
Hiếm hoi lắm, lại có những
lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi.
Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ
Hồ Biểu Chánh mà cái lần vào Dầu Tiếng 1942, ông đã ’”xông” tới tận nhà. Khoảng
cuối 1975, vào Nam, nếu như Nguyễn Tuân từ chối thì ông thản nhiên đến thăm Vũ
Bằng. Sau khi đi cải tạo về, ghé qua Hà Nội, Doãn Quốc Sỹ có đến tìm ông.
Ông đã gặp nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên này bên kia. Ông cho
người ta cảm tưởng là ông mãi coi những người ấy là đồng nghiệp, muốn tên tuổi
mình về sau được đặt bên các vị đó.
Tôi biết là khi đề cập tới các mối quan hệ
này, trong tâm trí Tô Hoài đang theo đuổi một ý niệm riêng về cách tồn
tại của người cầm bút. Ở cái quan niệm riêng đó có phần chung nhưng cũng
có phần xa lạ với cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách
hiểu của ông cha ta trong quá khứ.
Vậy là ông muốn mình không chỉ thuộc
về đương thời mà còn thuộc về lịch sử.
Cuộc đời ấy bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong
bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra mấy câu gọi là cảm đề hoặc một thứ nhại một thứ
lẩy Kiều mà người xưa hay dùng:
Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là kẻ tự buộc dây vào mình
Ông vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì
đến cùng
Ông tham gia vào sự lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự
lừa dối
Bao phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng
thẳng
Ông đã ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao
giờ người ta vẫn phải kể tên ông.
Đoạn tin trên báo
TT&VH sau đây của nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi
nó là cái tin ngắn hay nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:
Trong những năm cuối đời, viết văn vẫn là
cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống xung quanh.
Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ
tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình.
Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm,
gửi cho dì ghẻ.
Hỏi vì sao viết vậy, [ trong nguyên văn dùng chữ lão VTN xin phép bỏ ] nhà văn chỉ cười.
Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu
thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng
Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần
chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo
đang lúng túng không biết chọn đường nào (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha...
n20140707073753506.htm )
Mấy năm cuối đời Tô Hoài, tôi có ít
gặp ông, nhưng nhớ loáng thoáng là trong những dịp ấy, cũng đã mấy lần được
nghe ông nhắc tới cái ý định viết lại về Cách mạng. Và đúng là viết với
cái nhìn “kiểu Dế mèn” như nhà báo trên TT&VH vừa nói.
Tôi nhớ lại tiểu thuyết Mười năm.
Nhất là tôi nhớ lại tạp chí Tiên phong. Đây là tạp chí của Hội Văn hóa cứu
quốc in ra trong khoảng từ 11/1945 tới 12/46. Thời gian đó Tô Hoài là
phóng viên của tờ Cứu quốc,
nhưng cũng hay viết sang Tiên
phong. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn
Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách
phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực
ra lúc đó cái chính là các ông đã sống cái cảm giác ngao du lang bạt đầy
chất yêng hùng.
Còn như nhìn vào mấy cuốn sách cuối đời của Tô Hoài:
--Cát bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những
năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp
người cầm bút cũ hồi Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba
người khác viết về Cải cách
ruộng đất. Trong tháng mười 2014, nhân triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang
của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký
Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.
Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã
hiểu con người nhất quán trong Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra,
chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ở mỗi thời điểm,
ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra.Việc nắm bắt cơ hội ở ông
đã thành một thứ năng khiếu.
Nhà nghiên cứu người Nga M.M. Bakhtin
thường cho rằng muốn hiểu biết một hiện tượng nảo đó, ta không được đứng từ xa
và có con mắt kính cẩn; mà phải có lối tiếp cận suồng sã.
Cách tiếp cận đó được M.Bakhtin gán riêng cho tiểu thuyết, song sự thực nó đúng cho mọi kiểu nhận thức.
Chữ suồng sã ở đây
không phải là đùa tếu lăng nhăng mà chính là buộc người ta phải gần gũi với hiện
tượng, đối thoại với chính các đối tượng mà người ta cần hiểu, -- bất chấp đó là đối tượng
nào, cao cả hay thấp hèn, kể cả những cái mà thường bị xép vào hạng cấm kỵ, tức các nhân vật và
các hiện tượng lịch sử.
Một số tác phẩm nêu trên của Tô Hoài được coi như thành công,
chính là nhờ ông đã có lối tiếp cận suồng sã rất nghiêm chỉnh mà Bakhtin khởi
xướng.
Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc
thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần
xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi
chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả
những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của
đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa
của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái
xác.
Riêng với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra
đi, tôi thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.
người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình
đã đưa lên mạng ngày 05-10-2014, có bổ sung và sửa chữa
Lời dẫn – Một ví dụ về sức đề kháng của các
nhà văn miền Bắc
Trong bài Nhân
một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 viết ngày 19-12 -2014, khi nói về văn
học Hà Nội sau 1945, tôi có viết:
“Tôi không nói tất
cả, tôi chỉ nói rằng vượt lên trên một số đông tầm thường và xu thời, vẫn có
những cây bút miền Bắc tin ở sứ mệnh cầm bút của mình.
Ở những người này có rất
nhiều mâu thuẫn, cũng có lúc họ đã chùn tay, đã đầu hàng, nhưng rồi tiếp sau
đó, bên cạnh đó, lại vẫn giữ được cái phần lương tâm lương tri của một người
viết văn chân chính.
Nỗ lực đó của họ còn được ghi lại trong các trang sách”.
Một số bạn đọc tỏ ý nghi
ngờ, ngụ ý là cố tìm cũng chẳng thấy ai có được cái phần lương tri đó,
không ai có dịp bộc lộ điều đó qua tác phẩm.
Tôi cho đó là một
cách nhìn quá đơn giản.
Trong khoa học có khái niệm
sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật. Người ta không nên sợ bệnh tật.
Miễn còn sức đề kháng (cũng gọi là khả năng miễn dịch) thì người ta vẫn còn có
thể tìm được cách gì đó để chống lại mọi tác động xấu từ bên ngoài, chống lại số
phận.
Khi nói về cách
tồn tại của các nhà văn miền Bắc sau 1945, có lẽ phải dùng tới khái niệm
đề kháng trên. Để có sức thuyết phục, người ta sẽ phải dừng lại kỹ hơn ở
các trường hợp khá phức tạp như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu …Nhưng nếu cần một người theo đuổi lẽ sống của mình một cách kiên trì dai dẳng hơn cả, theo
tôi có thể lấy ngay Tô Hoài,.
Vào dịp 100 ngày qua đời của Tô Hoài , tôi đã viết bài dưới đây,
sơ bộ phác ra cái mạch sáng tác của tác giả Dế
mèn phiêu lưu ký. Nay nhân dịp nghĩ về định hướng tư tưởng của các nhà văn
miền Bắc nói chung, xin giới thiệu lại. Cố nhiên mọi điều đều cần nghĩ tiếp.
Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh
1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người viết văn
gợi cho tôi nhiều liên tưởng.
Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy
nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Lê Bá Thự dịch
Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết
vào dịp tác giả Tadeusz Rozewicz chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.
Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi rằng
nhà văn này có một cách nhìn
chính thống
Năm 1992, hồi ký Cát Bụi
Chân Ai của ông đã gây ồn
ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ
đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề
được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.
Tôi cho đây là một lời đánh giá thiếu chính xác nếu không
nói là không thật hiểu về các nhà văn Hà Nội sau 1945.
Tối sáng lẫn lộn…
Những cách tồn tại khó khăn...
Những tiếng nói lắp bắp
Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe nhoẹt…
Chúng tôi là thế. Nhưng ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?
Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay
người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi
tiếng là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục,
thì về chính trị nhiều khi ông cũng cẩu thả, cơ hội, dám làm đủ thứ việc mà
chính ông rất khinh bỉ.
Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn
Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến mà -- để khỏi dùng chữ điếm -- tôi tạm gọi là lang chạ
đó (xem Chất lang chạ trong
mỗi chúng ta trên blog này ngày 18-2-2012 ). Cái chất lang chạ này
trong Tô Hoài cũng rất sẵn.
Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết
rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không
phải chỉ luôn luôn có hai con người như nhiều người khác, rõ nhất là
Nguyễn Khải, là Chế Lan Viên… Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ
đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về
các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa
sợ.
Ông cũng không manh động chọc ngoáy liều
lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông có sự tính toán hợp lý của mình. Thời
gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ ráo riết trong tư duy ông, khiến người
ta có cảm tưởng ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.
Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite VN nói về Tô Hoài khi ông qua đời là khá
chính xác:
Là nhà văn tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều
thập kỷ được rèn giũa kỹ năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc
chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư
tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng
tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá bằng
những bài phê bình gay gắt.
Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên
tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát
bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về
những năm tháng cay nghiệt của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường
lối vô sản, cải cách ruộng đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản”
trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.
Bút pháp hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện
thực giễu nhại cùng song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một
cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng
bằng. Có thể nói Tô Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình
và cho bạn đọc.
Trong nhiều lần trò
chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc
nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn
Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào
cũng trở thành nhà văn.
Hiếm hoi lắm, lại có những
lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi.
Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ
Hồ Biểu Chánh mà cái lần vào Dầu Tiếng 1942, ông đã ’”xông” tới tận nhà. Khoảng
cuối 1975, vào Nam, nếu như Nguyễn Tuân từ chối thì ông thản nhiên đến thăm Vũ
Bằng. Sau khi đi cải tạo về, ghé qua Hà Nội, Doãn Quốc Sỹ có đến tìm ông.
Ông đã gặp nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên này bên kia. Ông cho
người ta cảm tưởng là ông mãi coi những người ấy là đồng nghiệp, muốn tên tuổi
mình về sau được đặt bên các vị đó.
Tôi biết là khi đề cập tới các mối quan hệ
này, trong tâm trí Tô Hoài đang theo đuổi một ý niệm riêng về cách tồn
tại của người cầm bút. Ở cái quan niệm riêng đó có phần chung nhưng cũng
có phần xa lạ với cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách
hiểu của ông cha ta trong quá khứ.
Vậy là ông muốn mình không chỉ thuộc
về đương thời mà còn thuộc về lịch sử.
Cuộc đời ấy bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong
bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra mấy câu gọi là cảm đề hoặc một thứ nhại một thứ
lẩy Kiều mà người xưa hay dùng:
Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là kẻ tự buộc dây vào mình
Ông vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì
đến cùng
Ông tham gia vào sự lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự
lừa dối
Bao phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng
thẳng
Ông đã ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao
giờ người ta vẫn phải kể tên ông.
Đoạn tin trên báo
TT&VH sau đây của nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi
nó là cái tin ngắn hay nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:
Trong những năm cuối đời, viết văn vẫn là
cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống xung quanh.
Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ
tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình.
Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm,
gửi cho dì ghẻ.
Hỏi vì sao viết vậy, [ trong nguyên văn dùng chữ lão VTN xin phép bỏ ] nhà văn chỉ cười.
Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu
thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng
Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần
chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo
đang lúng túng không biết chọn đường nào (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha...
n20140707073753506.htm )
Mấy năm cuối đời Tô Hoài, tôi có ít
gặp ông, nhưng nhớ loáng thoáng là trong những dịp ấy, cũng đã mấy lần được
nghe ông nhắc tới cái ý định viết lại về Cách mạng. Và đúng là viết với
cái nhìn “kiểu Dế mèn” như nhà báo trên TT&VH vừa nói.
Tôi nhớ lại tiểu thuyết Mười năm.
Nhất là tôi nhớ lại tạp chí Tiên phong. Đây là tạp chí của Hội Văn hóa cứu
quốc in ra trong khoảng từ 11/1945 tới 12/46. Thời gian đó Tô Hoài là
phóng viên của tờ Cứu quốc,
nhưng cũng hay viết sang Tiên
phong. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn
Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách
phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực
ra lúc đó cái chính là các ông đã sống cái cảm giác ngao du lang bạt đầy
chất yêng hùng.
Còn như nhìn vào mấy cuốn sách cuối đời của Tô Hoài:
--Cát bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những
năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp
người cầm bút cũ hồi Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba
người khác viết về Cải cách
ruộng đất. Trong tháng mười 2014, nhân triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang
của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký
Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.
Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã
hiểu con người nhất quán trong Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra,
chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ở mỗi thời điểm,
ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra.Việc nắm bắt cơ hội ở ông
đã thành một thứ năng khiếu.
Nhà nghiên cứu người Nga M.M. Bakhtin
thường cho rằng muốn hiểu biết một hiện tượng nảo đó, ta không được đứng từ xa
và có con mắt kính cẩn; mà phải có lối tiếp cận suồng sã.
Cách tiếp cận đó được M.Bakhtin gán riêng cho tiểu thuyết, song sự thực nó đúng cho mọi kiểu nhận thức.
Chữ suồng sã ở đây
không phải là đùa tếu lăng nhăng mà chính là buộc người ta phải gần gũi với hiện
tượng, đối thoại với chính các đối tượng mà người ta cần hiểu, -- bất chấp đó là đối tượng
nào, cao cả hay thấp hèn, kể cả những cái mà thường bị xép vào hạng cấm kỵ, tức các nhân vật và
các hiện tượng lịch sử.
Một số tác phẩm nêu trên của Tô Hoài được coi như thành công,
chính là nhờ ông đã có lối tiếp cận suồng sã rất nghiêm chỉnh mà Bakhtin khởi
xướng.
Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc
thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần
xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi
chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả
những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của
đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa
của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái
xác.
Riêng với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra
đi, tôi thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.
Published on January 30, 2015 22:10
January 29, 2015
L. Aragon và những đau xót của một nhà thơ khi thay đổi niềm tin chính trị
Nói tới Eluard, thì ngay
lập tức người ta phải nghĩ tới L.Aragon (1897-1982).
Trên blog này ngày
1-1-2015, tôi đã nhắc tới nhà thơ này một phần, nay sẽ nói tiếp về ông.
Trước hết xin giới thiệu
một bài thơ của Aragon thường trở lại trong đầu óc tôi, mỗi khi
nghĩ về sự vận động tư tưởng của bản thân và một số bạn bè văn nghệ trong
những năm này.
Tiếp đó là một số
suy nghĩ có liên quan tới bài thơ.
Sau cùng là một bài viết
ngắn về Aragon tôi đã viết từ 1997 .
**** [Không đề ]
Cuộc sống tôi trôi
qua như những luống cày bốc lửa trên bầu trời
Tôi nghe tận đáy sâu
tiếng bước chân mình vọng vang xa ngái
Tiếng hát tôi
tưởng đã hỏng rồi đã xếp xó rồi lại ngân lên lần nữa
Trên đầu ngón tay tôi
lặng lẽ tính những ngày những tháng những năm
Đối với tôi vượt lên sự
dối gian tràn đầy cuộc sống
Chỉ có tình yêu tôi như
một cây sồi đơn độc
Chỉ có tình yêu tôi run
rẩy một trò chơi
Trên đời này,
ngoài nó ra chẳng còn gì, chỉ có nó mà thôi
Tất cả những gì
tôi làm hướng tới em, là để cho em
Người làm vườn mỹ lệ đây
lá cuốn cả vào phòng
Những bài thơ tôi viết,
vẻ dại điên mỗi ngày lại hiện ra khuôn mặt mới
Tất cả để em yêu và mãi
mãi yêu em.
Từ sự tồn tại của tôi,
như một chiếc gai cây, sự thất vọng lớn bật lên
Em làm quà cho tôi một
mặt trời ngữ ngôn sáng chói
Tất cả những gì tôi gọi
lên, có em trong từng bước
Em hồi phục trái tim
tôi, em nặn lại nó rồi
Chuyện thật lạ
lùng hãy nhớ lại xem
Hầu như vào những năm
lớn khôn ai cũng ra đi lần nữa
Để ghi lại những
chuyến đi, có thể vẽ cây vẽ cỏ
Nhưng cần vẽ hơn
cả chính là thế giới bên trong của mỗi con người
Tất cả sự ví von
đều vô hiệu, hình ảnh cần thiết chẳng tìm ra
Nung nóng mọi chữ nghĩa
lên vẫn không đủ nói về ngọn lửa
Có thể kể làm sao
với ai chưa thấy nó bao giờ
Hình như nhiều lúc tôi
quên mình nhiều đau khổ
Thật đau điếng đi,
khi bẻ gẫy tay mình
Tôi ruồng rẫy thơ, như
với bạn bè dứt mọi mối quan hệ
Nhưng con đường rồ dại
đời nào tôi chịu là chẳng có em
Tôi đã nói rằng thế giới
này chẳng có gì kỳ diệu
Cái đích mà tôi đi tới
thì không có tôi mọi người khác cũng đủ lo toan và công việc
Mỗi người trong họ nhìn
tôi như một kẻ bề trên
Vâng tôi đã khóc
vì không có gì khác họ, nhưng là khóc trong tay em
Người ta nói với tôi khi
không có bánh mì câu chuyện về hạnh phúc chỉ chuyện huyên thiên
Bầu trời thấp xuống kia
buồn bã trong những giờ u ám
Và mỗi chúng ta sẽ sống
sao trong những năm cay đắng
Thế đấy
Nhưng tôi nhìn
thấy một bầu trời khác rồi khi ở giữa tay em
Những đau xót của một
nhà thơ
khi buộc phải thay đổi
niềm tin chính trị
Số phận của phần lớn các
nhà thơ hiện đại là phải dính tới chính trị. Aragon lại có cả một mảng thơ lớn liên quan đến sự dấn thân của ông trong chính
trị.
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng –để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu
thơ nào hay hơn câu ấy.
Nhưng rồi, như rất nhiều
người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay
đổi.
Luôn luôn ông là người
của sự quá đáng. Lúc tin ông cũng tin quá đáng, mà sau đó không tin cũng
quá đáng.
Về lý trí, ông chấp nhận
mọi sự thay đổi, trong khi về tình cảm, ông như muốn kêu trời, ông
như chết lặng đi vì sự thay đổi đó với ông là quá sức.
Tôi vốn thích các nhân
vật đương thời coi là phức tạp, nên cứ để ý theo dõi ông mãi.
Từ thời điểm của
thế kỷ XXI này nhìn lại, chúng ta có thể bảo là ông đã rất dũng cảm.
Con tim của ông đã được
một trí tuệ sáng suốt mách bảo để dám vượt qua lòng tin của mình thời trẻ, mà
làm một cuộc đảo ngược thiết yếu.
Nhưng hồi ấy, người ta
đã gán cho các ông đủ thứ tội lỗi, nào là suy đồi nào là phản bội, những cái
tội tầy đình mà một người yếu bóng vía không chịu đựng nổi .
Run rẩy đớn đau,
nhưng Aragon đã thay đổi. Quá trình dằn vặt của ông được miêu tả trong
cái công thức sau đây mà tôi nghe được qua lời kể của Nguyễn Thành
Long một nhà văn đàn anh hay đọc văn học Pháp đương đại “tối nào cũng tính
tới chuyện ra đảng, mà sáng nào lại cũng phải nghĩ lại là phải ở lại đảng để
đấu tranh cho niềm tin mới của mình”.
Từ trước 1975, đọc thơ
Aragon trong giai đoạn ông có những chuyển biến trong niềm tin chính trị
mà bài thơ trên diễn tả, quả thật là tôi -- với tư cách một con người đang sống
ở Hà Nội, cái xứ sở bị bịt kín mọi thông tin đa chiều -- cũng không
biết là ông đúng hay những người chê trách ông đúng nữa.
Nhưng, những năm đó tôi
đã mang máng cảm thấy có lẽ chuyện chính trị ở một nhà thơ chẳng mấy quan trọng
như chúng tôi hằng nghĩ. Mà cái cần được chia sẻ đặc biệt là người nghệ
sĩ đã thể nghiệm sự thay đổi ra sao. Tức là tôi thích tìm trong
những vần thơ ấy ở cái khía cạnh tâm trạng của người đã tiêu hóa sự
thay đổi của mình, cái dấu ấn nó để lại trong tâm trí nhà thơ. Đây mới
chính là những bài học.
Được viết ngay từ
1942, vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được đặt sau một câu đề từ:
Than ôi! Như Tô phải hay
những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với
Đan Thiềm.
Câu nói nổi tiếng tới
mức nhiều người không đọc và không thích vở kịch nữa vẫn cứ hay đọc lại
nó.
Vả chăng sinh thời
Nguyễn Huy Tưởng, ông là một người phụ trách chủ yếu của Hội văn nghệ VN, nên
người ta cũng không bới ra làm gì.
Chứ thử nghĩ kỹ sẽ
thấy, đây là một thứ tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất phi tư tưởng của văn chương.
Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai
lầm của họ.
Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một thứ mùi vị gì .
Trong một lần trò chuyện
với nhà nghiên cứu thông thạo văn học phương Tây hiện đại Đặng Anh Đào, tôi nghe chị nói khẽ, nhưng tha thiết
như một lời tâm niệm:
-- Với các nhân vật lớn,
chính nhân cách lại quan trọng hơn tư tưởng rất nhiều.
Đối chiếu với những vận
động trong tư tưởng của những người trong giới cầm bút chung quanh, tôi chỉ thấy người ta hoặc là
ù lì trơ tráo, bị ép chết trong những niềm tin hồi trẻ, hoặc là chuyển sang cái
trận thế đối ngược một cách quá dễ dàng, dễ dàng như người ta quay ngoắt một
chiếc xe đạp.
Aragon, như trong
bài thơ trên đã bộc lộ ông cho thấy một tâm thế khác.
Rồi ông cũng vượt lên
trên cái sức ép bão bùng cuả chung quanh đối với một người thay đổi. Ông
tìm thấy một chỗ dựa cuối cùng ở tình yêu. Ông bảo tình yêu sẽ cứu rỗi
tất cả. Trong khi bảo mình như kiệt sức như tuyệt vọng, thì ông lại cảm thấy
mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người nhân bản trong ông đã thay thế con
người chiến sĩ. Mà cái phần nhân bản ấy mới là tinh chất làm nên một nhà thơ.
1-2015
Louis Aragon , con người
của những đam mê và lầm lạc
Ngay cả trong thời kỳ
kháng chiến 1946-54, nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo tiếng gọi của kháng chiến
vẫn chuyền tay nhau báo chí sách vở viết bằng tiếng Pháp, để tiếp thêm cho mình
hiểu biết và nghị lực.
Và trong những ngày đó,
bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard v.v... có tên một người
Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam,
đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris đang rên xiết dưới gót
giày phát xít khi "suối đã đục dòng chỉ lệ còn trong"; một
Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng địch hậu chuyền tay
nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp nhất:
Đảng đã cho tôi sáng mắt
sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi
nào biết được
.,.
Đảng đã cho tôi màu sắc
nước non nhà...
Lời thơ có gì gần gũi,
như chính nó được viết bằng tiếng Việt.
Nhưng đó không phải là
hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ sau 1956, khi mà nhiều
trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư tưởng, hoặc nói như chính
Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác lại hiện ra
với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ thánh,
những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng cái
tên của nó, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau
day dứt:
- Tôi chờ đợi
một trùng dương hạnh phúc
Một tình ái không vương
dây trần tục
Suốt bình minh đến chiều
xẩm mơ hồ
Nhưng cuộc đời thực tại
chẳng nghe cho
Đời tạo những diệu kỳ
theo kiểu khác
Đào Xuân Quý dịch
hay:
- Hạnh phúc là
một tiếng vô cùng chua chát
Ma quái nào che giấu
nghĩa làm chi
Tóc ảo mộng và bàn tay
huyền hoặc
Những cặp tình nhân ngày
xưa đã mất
Hạnh phúc như vàng kia
ôi tiếng dị kỳ
Nó lăn trên sàn như
chiếc nhẫn lăn đi
Ai nói đến hạnh phúc mắt
thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi
tuyệt vọng chua cay
Dây đàn dứt trong tay
người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc
con người là có thật
Không phải trong mơ
không phải trong mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên
quả đất này
Tế Hanh dịch
Cũng may là ngay từ
1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự đóng góp của một lớp
nhà thơ Việt Nam thạo tiếng Pháp. Đó là những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Viết Lãm...
Nói may vì từ đó trở đi,
nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ được nhắc tới một cách nhỏ
giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác phẩm đồ sộ của Aragon, thì
chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.
Song cái lạ là ở chỗ ấy,
có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái mà hàng ngày người ta vẫn
thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả những năm về sau, Aragon
trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì làm người chiến sĩ lẫn sự
dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với nghề cầm bút, từng có lúc
trải nghiệm. Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác ởe
việc đi tìm chân lý.
"Tôi biết có những
người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao giờ lầm lạc, vì họ đã
đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì là tốt, từ trước đã
luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không được phát hiện với
tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được giai cấp của gia
đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao tâm tổn trí, tôi
biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có một niềm tin
chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo âu, đau đớn
của từng trải".
Thêm vào đấy, một Aragon
hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với Elsa Triolet, Aragon và
cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu thuyết Giết chết,
Blanche hay lãng quên, bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau để làm nên
Aragon của một tình yêu không dễ dãi.
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên
Aragon. Đây là câu chuyện liên quan đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất
nước đứng lên thuộc loại cán bộ quân đội được điều động trở lại chiến
trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc
nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh,
Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít
sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn
nghệ quân đội là Hà Trì gửi vào năm ấy (trước khi đi chiến
trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả), có một cuốn sách tiếng
Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một chuyến thăm Liên Xô
khoảng 1957-58 gì đó. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển
truyện bỏ dở) trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những
câu khác, đại loại:
Tôi nghe tiếng gà trong
cùng tận đau thương
Trong đổ nát tôi vẫn
mang chiến thắng
Dù xé rách những vì sao
xa vắng
Trong đêm dài tôi vẫn
chói vừng dương
Aragon trong chúng tôi
là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để lại trong tâm hồn ông
và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ là một con người cuồng
nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda phản bội (người ta cố
nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở nên gần gũi.
Sau này tôi còn được
biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống trong thế kỷ XX lớn lao
và đau đớn này.
Có người tỉnh táo
hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác trong sáng và thuần nhất
hơn Aragon.
Nhưng đối với riêng tôi,
tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp thân thiết bậc
nhất. Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu.
Khi giở các trang bách
khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp, thường tôi tìm ngay xem
trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào, dài hay ngắn và lấy đó
làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn sách tra cứu ấy theo
đuổi.
Trong sinh hoạt văn học,
đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những nhà văn được coi là mốt,
để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về đường dài, tôi thường chỉ
đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi, họ ở phía trước của tôi và
có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể theo họ, đó cũng là con
đường để tôi tìm ra chính mình.
1997
lập tức người ta phải nghĩ tới L.Aragon (1897-1982).
Trên blog này ngày
1-1-2015, tôi đã nhắc tới nhà thơ này một phần, nay sẽ nói tiếp về ông.
Trước hết xin giới thiệu
một bài thơ của Aragon thường trở lại trong đầu óc tôi, mỗi khi
nghĩ về sự vận động tư tưởng của bản thân và một số bạn bè văn nghệ trong
những năm này.
Tiếp đó là một số
suy nghĩ có liên quan tới bài thơ.
Sau cùng là một bài viết
ngắn về Aragon tôi đã viết từ 1997 .
**** [Không đề ]
Cuộc sống tôi trôi
qua như những luống cày bốc lửa trên bầu trời
Tôi nghe tận đáy sâu
tiếng bước chân mình vọng vang xa ngái
Tiếng hát tôi
tưởng đã hỏng rồi đã xếp xó rồi lại ngân lên lần nữa
Trên đầu ngón tay tôi
lặng lẽ tính những ngày những tháng những năm
Đối với tôi vượt lên sự
dối gian tràn đầy cuộc sống
Chỉ có tình yêu tôi như
một cây sồi đơn độc
Chỉ có tình yêu tôi run
rẩy một trò chơi
Trên đời này,
ngoài nó ra chẳng còn gì, chỉ có nó mà thôi
Tất cả những gì
tôi làm hướng tới em, là để cho em
Người làm vườn mỹ lệ đây
lá cuốn cả vào phòng
Những bài thơ tôi viết,
vẻ dại điên mỗi ngày lại hiện ra khuôn mặt mới
Tất cả để em yêu và mãi
mãi yêu em.
Từ sự tồn tại của tôi,
như một chiếc gai cây, sự thất vọng lớn bật lên
Em làm quà cho tôi một
mặt trời ngữ ngôn sáng chói
Tất cả những gì tôi gọi
lên, có em trong từng bước
Em hồi phục trái tim
tôi, em nặn lại nó rồi
Chuyện thật lạ
lùng hãy nhớ lại xem
Hầu như vào những năm
lớn khôn ai cũng ra đi lần nữa
Để ghi lại những
chuyến đi, có thể vẽ cây vẽ cỏ
Nhưng cần vẽ hơn
cả chính là thế giới bên trong của mỗi con người
Tất cả sự ví von
đều vô hiệu, hình ảnh cần thiết chẳng tìm ra
Nung nóng mọi chữ nghĩa
lên vẫn không đủ nói về ngọn lửa
Có thể kể làm sao
với ai chưa thấy nó bao giờ
Hình như nhiều lúc tôi
quên mình nhiều đau khổ
Thật đau điếng đi,
khi bẻ gẫy tay mình
Tôi ruồng rẫy thơ, như
với bạn bè dứt mọi mối quan hệ
Nhưng con đường rồ dại
đời nào tôi chịu là chẳng có em
Tôi đã nói rằng thế giới
này chẳng có gì kỳ diệu
Cái đích mà tôi đi tới
thì không có tôi mọi người khác cũng đủ lo toan và công việc
Mỗi người trong họ nhìn
tôi như một kẻ bề trên
Vâng tôi đã khóc
vì không có gì khác họ, nhưng là khóc trong tay em
Người ta nói với tôi khi
không có bánh mì câu chuyện về hạnh phúc chỉ chuyện huyên thiên
Bầu trời thấp xuống kia
buồn bã trong những giờ u ám
Và mỗi chúng ta sẽ sống
sao trong những năm cay đắng
Thế đấy
Nhưng tôi nhìn
thấy một bầu trời khác rồi khi ở giữa tay em
Những đau xót của một
nhà thơ
khi buộc phải thay đổi
niềm tin chính trị
Số phận của phần lớn các
nhà thơ hiện đại là phải dính tới chính trị. Aragon lại có cả một mảng thơ lớn liên quan đến sự dấn thân của ông trong chính
trị.
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng –để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu
thơ nào hay hơn câu ấy.
Nhưng rồi, như rất nhiều
người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay
đổi.
Luôn luôn ông là người
của sự quá đáng. Lúc tin ông cũng tin quá đáng, mà sau đó không tin cũng
quá đáng.
Về lý trí, ông chấp nhận
mọi sự thay đổi, trong khi về tình cảm, ông như muốn kêu trời, ông
như chết lặng đi vì sự thay đổi đó với ông là quá sức.
Tôi vốn thích các nhân
vật đương thời coi là phức tạp, nên cứ để ý theo dõi ông mãi.
Từ thời điểm của
thế kỷ XXI này nhìn lại, chúng ta có thể bảo là ông đã rất dũng cảm.
Con tim của ông đã được
một trí tuệ sáng suốt mách bảo để dám vượt qua lòng tin của mình thời trẻ, mà
làm một cuộc đảo ngược thiết yếu.
Nhưng hồi ấy, người ta
đã gán cho các ông đủ thứ tội lỗi, nào là suy đồi nào là phản bội, những cái
tội tầy đình mà một người yếu bóng vía không chịu đựng nổi .
Run rẩy đớn đau,
nhưng Aragon đã thay đổi. Quá trình dằn vặt của ông được miêu tả trong
cái công thức sau đây mà tôi nghe được qua lời kể của Nguyễn Thành
Long một nhà văn đàn anh hay đọc văn học Pháp đương đại “tối nào cũng tính
tới chuyện ra đảng, mà sáng nào lại cũng phải nghĩ lại là phải ở lại đảng để
đấu tranh cho niềm tin mới của mình”.
Từ trước 1975, đọc thơ
Aragon trong giai đoạn ông có những chuyển biến trong niềm tin chính trị
mà bài thơ trên diễn tả, quả thật là tôi -- với tư cách một con người đang sống
ở Hà Nội, cái xứ sở bị bịt kín mọi thông tin đa chiều -- cũng không
biết là ông đúng hay những người chê trách ông đúng nữa.
Nhưng, những năm đó tôi
đã mang máng cảm thấy có lẽ chuyện chính trị ở một nhà thơ chẳng mấy quan trọng
như chúng tôi hằng nghĩ. Mà cái cần được chia sẻ đặc biệt là người nghệ
sĩ đã thể nghiệm sự thay đổi ra sao. Tức là tôi thích tìm trong
những vần thơ ấy ở cái khía cạnh tâm trạng của người đã tiêu hóa sự
thay đổi của mình, cái dấu ấn nó để lại trong tâm trí nhà thơ. Đây mới
chính là những bài học.
Được viết ngay từ
1942, vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được đặt sau một câu đề từ:
Than ôi! Như Tô phải hay
những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với
Đan Thiềm.
Câu nói nổi tiếng tới
mức nhiều người không đọc và không thích vở kịch nữa vẫn cứ hay đọc lại
nó.
Vả chăng sinh thời
Nguyễn Huy Tưởng, ông là một người phụ trách chủ yếu của Hội văn nghệ VN, nên
người ta cũng không bới ra làm gì.
Chứ thử nghĩ kỹ sẽ
thấy, đây là một thứ tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất phi tư tưởng của văn chương.
Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai
lầm của họ.
Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một thứ mùi vị gì .
Trong một lần trò chuyện
với nhà nghiên cứu thông thạo văn học phương Tây hiện đại Đặng Anh Đào, tôi nghe chị nói khẽ, nhưng tha thiết
như một lời tâm niệm:
-- Với các nhân vật lớn,
chính nhân cách lại quan trọng hơn tư tưởng rất nhiều.
Đối chiếu với những vận
động trong tư tưởng của những người trong giới cầm bút chung quanh, tôi chỉ thấy người ta hoặc là
ù lì trơ tráo, bị ép chết trong những niềm tin hồi trẻ, hoặc là chuyển sang cái
trận thế đối ngược một cách quá dễ dàng, dễ dàng như người ta quay ngoắt một
chiếc xe đạp.
Aragon, như trong
bài thơ trên đã bộc lộ ông cho thấy một tâm thế khác.
Rồi ông cũng vượt lên
trên cái sức ép bão bùng cuả chung quanh đối với một người thay đổi. Ông
tìm thấy một chỗ dựa cuối cùng ở tình yêu. Ông bảo tình yêu sẽ cứu rỗi
tất cả. Trong khi bảo mình như kiệt sức như tuyệt vọng, thì ông lại cảm thấy
mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người nhân bản trong ông đã thay thế con
người chiến sĩ. Mà cái phần nhân bản ấy mới là tinh chất làm nên một nhà thơ.
1-2015
Louis Aragon , con người
của những đam mê và lầm lạc
Ngay cả trong thời kỳ
kháng chiến 1946-54, nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo tiếng gọi của kháng chiến
vẫn chuyền tay nhau báo chí sách vở viết bằng tiếng Pháp, để tiếp thêm cho mình
hiểu biết và nghị lực.
Và trong những ngày đó,
bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard v.v... có tên một người
Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam,
đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris đang rên xiết dưới gót
giày phát xít khi "suối đã đục dòng chỉ lệ còn trong"; một
Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng địch hậu chuyền tay
nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp nhất:
Đảng đã cho tôi sáng mắt
sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi
nào biết được
.,.
Đảng đã cho tôi màu sắc
nước non nhà...
Lời thơ có gì gần gũi,
như chính nó được viết bằng tiếng Việt.
Nhưng đó không phải là
hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ sau 1956, khi mà nhiều
trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư tưởng, hoặc nói như chính
Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác lại hiện ra
với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ thánh,
những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng cái
tên của nó, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau
day dứt:
- Tôi chờ đợi
một trùng dương hạnh phúc
Một tình ái không vương
dây trần tục
Suốt bình minh đến chiều
xẩm mơ hồ
Nhưng cuộc đời thực tại
chẳng nghe cho
Đời tạo những diệu kỳ
theo kiểu khác
Đào Xuân Quý dịch
hay:
- Hạnh phúc là
một tiếng vô cùng chua chát
Ma quái nào che giấu
nghĩa làm chi
Tóc ảo mộng và bàn tay
huyền hoặc
Những cặp tình nhân ngày
xưa đã mất
Hạnh phúc như vàng kia
ôi tiếng dị kỳ
Nó lăn trên sàn như
chiếc nhẫn lăn đi
Ai nói đến hạnh phúc mắt
thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi
tuyệt vọng chua cay
Dây đàn dứt trong tay
người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc
con người là có thật
Không phải trong mơ
không phải trong mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên
quả đất này
Tế Hanh dịch
Cũng may là ngay từ
1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự đóng góp của một lớp
nhà thơ Việt Nam thạo tiếng Pháp. Đó là những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Viết Lãm...
Nói may vì từ đó trở đi,
nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ được nhắc tới một cách nhỏ
giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác phẩm đồ sộ của Aragon, thì
chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.
Song cái lạ là ở chỗ ấy,
có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái mà hàng ngày người ta vẫn
thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả những năm về sau, Aragon
trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì làm người chiến sĩ lẫn sự
dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với nghề cầm bút, từng có lúc
trải nghiệm. Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác ởe
việc đi tìm chân lý.
"Tôi biết có những
người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao giờ lầm lạc, vì họ đã
đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì là tốt, từ trước đã
luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không được phát hiện với
tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được giai cấp của gia
đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao tâm tổn trí, tôi
biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có một niềm tin
chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo âu, đau đớn
của từng trải".
Thêm vào đấy, một Aragon
hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với Elsa Triolet, Aragon và
cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu thuyết Giết chết,
Blanche hay lãng quên, bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau để làm nên
Aragon của một tình yêu không dễ dãi.
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên
Aragon. Đây là câu chuyện liên quan đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất
nước đứng lên thuộc loại cán bộ quân đội được điều động trở lại chiến
trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc
nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh,
Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít
sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn
nghệ quân đội là Hà Trì gửi vào năm ấy (trước khi đi chiến
trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả), có một cuốn sách tiếng
Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một chuyến thăm Liên Xô
khoảng 1957-58 gì đó. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển
truyện bỏ dở) trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những
câu khác, đại loại:
Tôi nghe tiếng gà trong
cùng tận đau thương
Trong đổ nát tôi vẫn
mang chiến thắng
Dù xé rách những vì sao
xa vắng
Trong đêm dài tôi vẫn
chói vừng dương
Aragon trong chúng tôi
là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để lại trong tâm hồn ông
và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ là một con người cuồng
nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda phản bội (người ta cố
nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở nên gần gũi.
Sau này tôi còn được
biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống trong thế kỷ XX lớn lao
và đau đớn này.
Có người tỉnh táo
hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác trong sáng và thuần nhất
hơn Aragon.
Nhưng đối với riêng tôi,
tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp thân thiết bậc
nhất. Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu.
Khi giở các trang bách
khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp, thường tôi tìm ngay xem
trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào, dài hay ngắn và lấy đó
làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn sách tra cứu ấy theo
đuổi.
Trong sinh hoạt văn học,
đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những nhà văn được coi là mốt,
để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về đường dài, tôi thường chỉ
đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi, họ ở phía trước của tôi và
có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể theo họ, đó cũng là con
đường để tôi tìm ra chính mình.
1997
Published on January 29, 2015 03:17
January 22, 2015
Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây
Ghi chép từ cuốn
Lịch sử tự nhiên dân sự và chính
trị xứ Đàng Ngoài
Jerome Richard
-- Paris
1778
Lời dẫn
Trong cuốn Tư liệu
văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho
biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng
Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì Lịch sử
tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài của giáo sĩ Jerome Richard thuộc
loại tài liệu đáng chú ý nhất.
Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc và
thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn
sách đã được biên soạn theo hướng viết lịch sử xã hội là một việc mà ở
ta chưa ai làm, nên càng cần thiết phải đọc.
Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận
xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và thử diễn giải lại
theo cách hiểu của mình. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ
trong khi làm việc, đó là muốn lý giải hiện
tại phải trở lại với lịch sử. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên
ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức.
Phần đầu của cuốn
sách dành để miêu tả chung về nhiệt độ,
khí hậu, cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là có một hòn
đảo, được người Hà Lan đặt tên là Đảo
cướp. Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.
Các "đô thị" - chỉ là để
tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác
nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như bắn tên có
mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.
Người Trung hoa ở đô thị Kẻ
chợ - đông, mạnh; họ cũng có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng.
Các loại phương tiện giao thông
-
Ngựa: quan;
-
chân trần: dân;
-
cáng: nhà giàu, người có địa vị
Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị
phá.
Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở
Trung Hoa đã có lúa vụ ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa.
Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị,
khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.
Cách cư trú, phong
tục
Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.
Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền
giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ
với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm
khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là
H'mông - VTNh)
Tính cách con người
Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu,
cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không
phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó
lại hiếu động hay bị chia rẽ - thường xuyên nổi dậy và mưu phản.
Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò
chơi, hơn là bởi tham vọng hay tư tưởng
về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú
nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.
Đặc tính người bên lương (thờ Phật )
- luôn luôn không hài lòng với hiện trạng
- ham tài sản, độc ác, phản trắc
- coi cuộc đời như một cực hình
- sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.
Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi
tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi
= cuồng tín.
Giao thiệp với người
châu Âu. Triều đình biết quá ít về những lợi ích
của mình nên không buôn bán với người
nước ngoài.
Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất
tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng
thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.
Ăn mặc: không tất,
không giày, không quần lót.
Giày dép là để phân
biệt ngôi thứ:
- dân thường bị cấm.
- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép
- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.
Đời sống tinh thần. Bộ máy quản lý
Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một
bản năng khéo léo, chỉ thiếu khoa học – sinh ra tính ỳ.
Nhưng nghèo khổ quá
khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng
nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ
máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo
tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.
Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết,
họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi
không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.
Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi
phục dịch các đức ông.
Sở dĩ chính sách khắc nghiệt vì người ta cho là phải làm thế mới trị được
một đám dân hiếu động và dễ phản loạn.
Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm
việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
một số người thử vận may trong buôn bán.
Theo những mẫu mực Trung Hoa .
Phong tục Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa.
Người Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân
xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo...Phong
tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.
Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam
gần giống Nho sinh Trung Quốc.
Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết
riêng xuất phát từ Trung Hoa.
Luật pháp
Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ.
Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không
sao.
Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.
(VTNh: Luật
chỉ có tính chất nửa vời)
- ít đi học vì nghèo
- Có hiện tượng bán con vì nghèo
- Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê
Nạn vay nặng lãi phổ biến.
Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ.
Văn hoá giao tiếp
Có sự phân biệt rõ ràng
- dân gian: buông thả
- quý tộc: nghi thức chặt chẽ hơn
Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình
cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng...
Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu
kèm theo hộ vệ.
Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có
tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích -- với
những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết -- chứng tỏ là mình xa hoa sang
trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ
sống.
Người ta quen với
chế độ chính trị chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do
là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.
Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta
hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.
Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể
trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.
Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện
buồn rầu. Không có đồng hồ. Thời gian chỉ được ước tính. Ai cũng vậy.
Lễ hội
Phóng túng
quá đáng ,đến mức suồng sã. Người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết - sợ điều xấu.
Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.
Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo
rất kỳ cục, vay mượn từ Trung Hoa nhưng lại làm xấu đi, quê kệch hơn. Nội
dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện
tình yêu và chuyện phiêu lưu.
Trò chơi - chọi gà, câu cá.
Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người
dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là
thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội
(VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.
Tôn giáo
Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín.
Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại
luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ
báng.
Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì
cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.
Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những
người dân dưới đáy tới vua chúa.
Về Khổng Tử và Nho giáo
Các giáo điều chính:
- lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên
trong về sự vật
- nhấn mạnh chữ tâm
- đề cao lòng thành.
Khoa học, kỹ thuật.
Khoa học - lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên
văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.
- Không hiểu gì về thế giới.
- Giải thích về khí hậu rất nực cười.
Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài
và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.
Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới
những quan nịêm mang tính đạo đức.
Giáo dục và thi cử
Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến là tình trạng chung của
vương quốc.
Do đó các cuộc thi tiến sĩ dù cố tỏ ra nghiêm khắc cũng chỉ vô ích. Học hành chẳng theo chương trình nào. Khả
năng đỗ phụ thuộc trí nhớ (chứ
không phải kiến thức).
Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc
không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định
cho mình.
Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua
có thông ngôn - tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.
Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn
thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc
trông khủng khiếp và kỳ quái.
Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn
giản như làm việc không cần thước.
Nội ngoại thương trong cái bóng của người Hoa
Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ
thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói
quen phụ thuộc tuyện đối, như là cái đảm
bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống
nộp quan trên khá nhiều.
Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân
bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.
Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa
tối cần đối với sự sống còn của vương
quốc.
Trong thương mại
của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán
chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.
Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin
mình không thể làm gì bằng người Hoa.
Nghề người Hoa làm:
- khai thác hầm mỏ
- đúc vàng bạc
- khắc ván in, làm ra những cuốn sách.
Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất
nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người
Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người
cung cấp hàng cao cấp cho chính quyền và
đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các
loại hàng khác cho dân thường.
Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây.
Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ
các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.
Dân nghèo quá, nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu
buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy
hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.
Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị.
Rồi tiền từ Trung Hoa tới -- "hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá
nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy"
Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính
quyền bao nhiêu, là do họ tính.
Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong
buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm,
nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.
Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng
Ngoài chỉ là "những tay buôn vô cùng kém cỏi".Buôn vải, tơ. Buôn quế -
vua độc quyền khiến dân miền núi thành
kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre - tuỳ tiện. Ai
muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc
đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.
Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương
mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ
phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng
chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người châu Âu.
Biến động của quyền lực trong lịch sử
Dù từng là một bộ phận của Trung Hoa, song đây vẫn là
một sắc dân hoàn toàn khác biệt. Trung Quốc gọi họ là man di.
Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ
lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn
của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ
quân). Lê Đại Hành xưng vương…
Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục,
cách làm ăn kiểu Trung Quốc “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống
nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối
thế kỷ XVIII.
Dân chúng dù lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục
và luật lệ của Trung Quốc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do
xa xưa và mong ước trở lại.
Quan hệ Trung Quốc: có triều cống, nhận ấn phong vương
“coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng
không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân
ở đất nước họ.
Nhà Lê suy yếu. Mạc
Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo
sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị
thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.
Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê
nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này.
Ở phương Đông được
làm vua thua làm giặc. Còn ai cũng gian ác. Vua
là một danh nghĩa, giống như một đồ
trang sức.
Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập).
Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn
rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị
đẩy vào cảnh nghèo đói. Một số bị điên.
Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến,
đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng
của vương quốc đã chết.
Lực
lượng quân đội
Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có
được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối.
Luật
pháp.
Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ
luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người
nghèo cũng được bảo vệ.
Nhà vua được xem là người duy nhất
quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú
đến lợi ích của riêng họ. Nhưng
ở thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô
hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất.
Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều
gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức
vụ.
Người hiểu biết phải kinh ngạc vì
bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.
Nhìn
đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn,
và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất
này -- nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa -- lại gian xảo
hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.
Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người
nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng
thái ngờ vực.
Rất nhiều luật lệ, có những điều
luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.
Nhưng không phải chúng được thực
hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua
bán một cách tuỳ tiện.
Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) tuy,
đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ
XVIII (70-80 năm trước khi xuất bản sách
này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực
cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho
đất nước trở nên nghèo đói.
Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu
trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền,
hám quyền của bọn quan lại.
Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ
vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm
xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống
tầm thường quanh mình.
Nhà tù
Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân
chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối,
bùn, và rác. Thường xuyên là người sống sống chung với những xác chết bị thối
một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.
Nhưng đó là một
nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục
và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.
Khả năng tự biến đổi , tự hoàn thiện
Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh
của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng - chẳng hạn hoạt động kinh
doanh-- không bao giờ được nâng lên.
Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ
tội phạm.
Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng
tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc công khai của cả quan chức lẫn dân thường.
Vì rằng mọi tài sản đều là tạm
bợ và những vinh hiển cũng chỉ có lúc,
con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì
cứu được họ.
Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự
hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức
hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội.
Bài đã đưa lần đầu trên blog này , ngày 27-5-2011
Trong những ngày tiếp chúng tôi sẽ có một bài
bàn riêng về
việc sử dụng các tài
liệu nước ngoài khi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt
Lịch sử tự nhiên dân sự và chính
trị xứ Đàng Ngoài
Jerome Richard
-- Paris
1778
Lời dẫn
Trong cuốn Tư liệu
văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho
biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng
Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì Lịch sử
tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài của giáo sĩ Jerome Richard thuộc
loại tài liệu đáng chú ý nhất.
Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc và
thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn
sách đã được biên soạn theo hướng viết lịch sử xã hội là một việc mà ở
ta chưa ai làm, nên càng cần thiết phải đọc.
Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận
xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và thử diễn giải lại
theo cách hiểu của mình. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ
trong khi làm việc, đó là muốn lý giải hiện
tại phải trở lại với lịch sử. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên
ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức.
Phần đầu của cuốn
sách dành để miêu tả chung về nhiệt độ,
khí hậu, cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là có một hòn
đảo, được người Hà Lan đặt tên là Đảo
cướp. Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.
Các "đô thị" - chỉ là để
tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác
nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như bắn tên có
mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.
Người Trung hoa ở đô thị Kẻ
chợ - đông, mạnh; họ cũng có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng.
Các loại phương tiện giao thông
-
Ngựa: quan;
-
chân trần: dân;
-
cáng: nhà giàu, người có địa vị
Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị
phá.
Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở
Trung Hoa đã có lúa vụ ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa.
Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị,
khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.
Cách cư trú, phong
tục
Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.
Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền
giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ
với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm
khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là
H'mông - VTNh)
Tính cách con người
Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu,
cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không
phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó
lại hiếu động hay bị chia rẽ - thường xuyên nổi dậy và mưu phản.
Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò
chơi, hơn là bởi tham vọng hay tư tưởng
về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú
nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.
Đặc tính người bên lương (thờ Phật )
- luôn luôn không hài lòng với hiện trạng
- ham tài sản, độc ác, phản trắc
- coi cuộc đời như một cực hình
- sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.
Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi
tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi
= cuồng tín.
Giao thiệp với người
châu Âu. Triều đình biết quá ít về những lợi ích
của mình nên không buôn bán với người
nước ngoài.
Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất
tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng
thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.
Ăn mặc: không tất,
không giày, không quần lót.
Giày dép là để phân
biệt ngôi thứ:
- dân thường bị cấm.
- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép
- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.
Đời sống tinh thần. Bộ máy quản lý
Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một
bản năng khéo léo, chỉ thiếu khoa học – sinh ra tính ỳ.
Nhưng nghèo khổ quá
khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng
nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ
máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo
tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.
Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết,
họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi
không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.
Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi
phục dịch các đức ông.
Sở dĩ chính sách khắc nghiệt vì người ta cho là phải làm thế mới trị được
một đám dân hiếu động và dễ phản loạn.
Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm
việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
một số người thử vận may trong buôn bán.
Theo những mẫu mực Trung Hoa .
Phong tục Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa.
Người Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân
xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo...Phong
tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.
Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam
gần giống Nho sinh Trung Quốc.
Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết
riêng xuất phát từ Trung Hoa.
Luật pháp
Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ.
Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không
sao.
Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.
(VTNh: Luật
chỉ có tính chất nửa vời)
- ít đi học vì nghèo
- Có hiện tượng bán con vì nghèo
- Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê
Nạn vay nặng lãi phổ biến.
Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ.
Văn hoá giao tiếp
Có sự phân biệt rõ ràng
- dân gian: buông thả
- quý tộc: nghi thức chặt chẽ hơn
Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình
cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng...
Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu
kèm theo hộ vệ.
Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có
tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích -- với
những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết -- chứng tỏ là mình xa hoa sang
trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ
sống.
Người ta quen với
chế độ chính trị chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do
là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.
Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta
hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.
Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể
trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.
Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện
buồn rầu. Không có đồng hồ. Thời gian chỉ được ước tính. Ai cũng vậy.
Lễ hội
Phóng túng
quá đáng ,đến mức suồng sã. Người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết - sợ điều xấu.
Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.
Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo
rất kỳ cục, vay mượn từ Trung Hoa nhưng lại làm xấu đi, quê kệch hơn. Nội
dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện
tình yêu và chuyện phiêu lưu.
Trò chơi - chọi gà, câu cá.
Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người
dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là
thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội
(VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.
Tôn giáo
Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín.
Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại
luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ
báng.
Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì
cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.
Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những
người dân dưới đáy tới vua chúa.
Về Khổng Tử và Nho giáo
Các giáo điều chính:
- lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên
trong về sự vật
- nhấn mạnh chữ tâm
- đề cao lòng thành.
Khoa học, kỹ thuật.
Khoa học - lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên
văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.
- Không hiểu gì về thế giới.
- Giải thích về khí hậu rất nực cười.
Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài
và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.
Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới
những quan nịêm mang tính đạo đức.
Giáo dục và thi cử
Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến là tình trạng chung của
vương quốc.
Do đó các cuộc thi tiến sĩ dù cố tỏ ra nghiêm khắc cũng chỉ vô ích. Học hành chẳng theo chương trình nào. Khả
năng đỗ phụ thuộc trí nhớ (chứ
không phải kiến thức).
Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc
không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định
cho mình.
Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua
có thông ngôn - tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.
Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn
thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc
trông khủng khiếp và kỳ quái.
Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn
giản như làm việc không cần thước.
Nội ngoại thương trong cái bóng của người Hoa
Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ
thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói
quen phụ thuộc tuyện đối, như là cái đảm
bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống
nộp quan trên khá nhiều.
Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân
bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.
Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa
tối cần đối với sự sống còn của vương
quốc.
Trong thương mại
của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán
chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.
Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin
mình không thể làm gì bằng người Hoa.
Nghề người Hoa làm:
- khai thác hầm mỏ
- đúc vàng bạc
- khắc ván in, làm ra những cuốn sách.
Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất
nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người
Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người
cung cấp hàng cao cấp cho chính quyền và
đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các
loại hàng khác cho dân thường.
Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây.
Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ
các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.
Dân nghèo quá, nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu
buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy
hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.
Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị.
Rồi tiền từ Trung Hoa tới -- "hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá
nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy"
Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính
quyền bao nhiêu, là do họ tính.
Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong
buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm,
nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.
Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng
Ngoài chỉ là "những tay buôn vô cùng kém cỏi".Buôn vải, tơ. Buôn quế -
vua độc quyền khiến dân miền núi thành
kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre - tuỳ tiện. Ai
muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc
đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.
Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương
mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ
phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng
chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người châu Âu.
Biến động của quyền lực trong lịch sử
Dù từng là một bộ phận của Trung Hoa, song đây vẫn là
một sắc dân hoàn toàn khác biệt. Trung Quốc gọi họ là man di.
Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ
lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn
của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ
quân). Lê Đại Hành xưng vương…
Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục,
cách làm ăn kiểu Trung Quốc “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống
nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối
thế kỷ XVIII.
Dân chúng dù lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục
và luật lệ của Trung Quốc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do
xa xưa và mong ước trở lại.
Quan hệ Trung Quốc: có triều cống, nhận ấn phong vương
“coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng
không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân
ở đất nước họ.
Nhà Lê suy yếu. Mạc
Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo
sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị
thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.
Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê
nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này.
Ở phương Đông được
làm vua thua làm giặc. Còn ai cũng gian ác. Vua
là một danh nghĩa, giống như một đồ
trang sức.
Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập).
Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn
rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị
đẩy vào cảnh nghèo đói. Một số bị điên.
Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến,
đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng
của vương quốc đã chết.
Lực
lượng quân đội
Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có
được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối.
Luật
pháp.
Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ
luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người
nghèo cũng được bảo vệ.
Nhà vua được xem là người duy nhất
quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú
đến lợi ích của riêng họ. Nhưng
ở thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô
hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất.
Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều
gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức
vụ.
Người hiểu biết phải kinh ngạc vì
bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.
Nhìn
đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn,
và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất
này -- nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa -- lại gian xảo
hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.
Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người
nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng
thái ngờ vực.
Rất nhiều luật lệ, có những điều
luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.
Nhưng không phải chúng được thực
hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua
bán một cách tuỳ tiện.
Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) tuy,
đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ
XVIII (70-80 năm trước khi xuất bản sách
này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực
cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho
đất nước trở nên nghèo đói.
Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu
trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền,
hám quyền của bọn quan lại.
Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ
vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm
xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống
tầm thường quanh mình.
Nhà tù
Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân
chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối,
bùn, và rác. Thường xuyên là người sống sống chung với những xác chết bị thối
một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.
Nhưng đó là một
nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục
và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.
Khả năng tự biến đổi , tự hoàn thiện
Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh
của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng - chẳng hạn hoạt động kinh
doanh-- không bao giờ được nâng lên.
Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ
tội phạm.
Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng
tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc công khai của cả quan chức lẫn dân thường.
Vì rằng mọi tài sản đều là tạm
bợ và những vinh hiển cũng chỉ có lúc,
con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì
cứu được họ.
Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự
hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức
hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội.
Bài đã đưa lần đầu trên blog này , ngày 27-5-2011
Trong những ngày tiếp chúng tôi sẽ có một bài
bàn riêng về
việc sử dụng các tài
liệu nước ngoài khi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt
Published on January 22, 2015 06:26
January 18, 2015
Tội lỗi dồn cả lên đầu những kẻ ưu tú
Thế kỷ XVII – XVIII, là hai thế kỷ mà người
phương Tây vốn len lỏi trên nhiều miền khác nhau của đất nước ta, cả Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, trong đó có một số đáng kể là các giáo sĩ. Năm 2010 nhân dịp ngàn năm Thăng Long một số
các tài liệu được công bố. Đối với một
người không biết tiếng Pháp như tôi, đó
đã là một kho sử liệu quý.
Nay lại có thêm cuốn Thư của các giáo sĩ thừa sai (Trung tâm
nghiên cứu Quốc học và nxb Văn học
2013).
Trong các lá thư gửi về quê hương, những người viết -- vốn là
những trí thức trong thời của mình --
cũng đã có những phân tích nhiều mặt về tình hình xã hội trên những miền đất mà
họ đặt chân tới.
Ở một nước mà ngành sử học
quá yếu kém như ở ta, những lá thư này đáng được xem là những sử liệu quý báu.
Nếu có một sự tìm hiểu công phu, thì chắc qua đây có thể hiểu nhiều về lịch sử
xã hội Việt.
Có điều, cũng giống như số
phận các sử liệu mà người Trung quốc trong các thế kỷ trước viết về ta, các tài
liệu có nguồn gốc phương Tây này ít được giới khoa học ở Hà Nội – và rộng ra là cái dư luận
chính thống ở ta -- hoan nghênh.
Riêng tôi lại thích lần
mò kiếm tìm trong đó những tư tưởng xa lạ và đôi khi tôi đã thấy được cái mà
tôi không hề thấy trong các nguồn tài liệu được đọc từ nhỏ.
Phác
thảo bức tranh tổng quát
Trong lời giới thiệu cuốn sách trên, người dịch là ông Nguyễn Minh Hoàng đã làm công việc hệ thống
hóa những nội dung mà các bức thư trong
sách đề cập tới. Dưới đây, tôi chỉ trích một đoạn.
Thư của giám mục chánh
tòa Reydellet ,
cai quản giáo phận xứ Đoài ở Đông Kinh( tức Đàng ngoài),
viết ngày 7-5-1766,
gửi cho em
hiệu phó trường Dela Marche ở Paris
Miền
xuôi miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh, là một miền rất đông đúc, đời sống người dân nghèo nàn cơ cực vì đất không
nuôi đủ được người. Ngoài ra có nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để trộm cắp ở các nhà, vu
cáo để gây ra chuyện kiện tụng và làm cho người khác phải tán gia bại sản.
Ở xứ này, giàu có nhiều
tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng
sinh sự và hãm hại người giàu mãi
cho tới lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn
quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn thức để canh giữ trong nhà.
Người
Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước
và tiền của nên đều thích làm quan và làm giàu.
Những kẻ có ít chữ nghĩa và
khôn khéo trong việc vu cáo người khác có thể trèo lên tới chức quan.
Do trong
nước không thiếu gì hạng người như vậy, nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nẩy nở vô số ở khắp nơi.
Những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc
được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị, đã làm tình làm tội đám dân đen,
bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp
bóc của cả đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi…
Nhìn
tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn,
rất hợp lý, và được quy định rõ ràng. Chỉ hiềm một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả.
Chính những
người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước mọi người
khác.
Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác.
Dù có là đại
gian hùng, nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính của mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những
kẻ vụng về, ngờ nghệch, nghèo hèn là bị
trừng phạt thôi.( sách đã dẫn trên, tr. 71-72)
Giầu
là có tội
Những ghi nhận của tôi qua đoạn thư trên tập trung
vào ba điểm:
1/ Một xã hội muốn phát triển phải có nhiều người biết làm
giầu. Khổng tử khi được hỏi về công việc của người cai trị nói là giáo dân, phú dân. Mạnh tử cũng bảo có hằng
sản mới hằng tâm.
Mà muốn cả xã hội giầu thì trong xã hội đó phải có những người
đi trước một bước. Họ là những người ưu tú.
Tại sao? Vì chính họ trước tiên đã
phải lao động nhiều hơn và theo những cách
thông minh hơn người khác thì mới có thể khởi nghiệp. Cho đến khi họ thuê mướn
thêm nhân công đi chăng nữa, thì họ cũng phải lao tâm khổ tứ, tổ chức cho các
người mà họ thuê mướn đó làm việc. Câu ca dao mà tôi học từ hồi lớp sáu đã nói
cái ý ấy
Mở mắt
chúa gọi đi cày
Be
bờ cuốc góc nửa ngày chưa tha
Bờ lớn thì phải cuốc ra
Bờ
bé đắp lại cho bà con ơi
…
Chúa trai là chúa hay lo
Đêm
nằm nghĩ việc ra cho mà làm
Xã hội Việt Nam sau 1945 đã có một định hướng mạnh mẽ là tấn công vào những người giàu,
làm cho những người giàu kiệt quệ.
Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là cái phát kiến
riêng của con người hiện đại.
Hóa ra, như trong lá thư trên miêu tả, đó là căn
bệnh vốn có trong tâm lý người Việt từ các thế kỷ trước.
Riêng một câu Ở xứ này giàu có nhiều tiền lắm
bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng sinh
sự và hãm hại người giàu mãi cho tới
lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn
bách thì mới chịu thôi đã đủ cắt nghĩa sự nghèo hèn kéo dài của xã hội
ta từ xưa đến nay.
2/ Một khi đám đông người nghèo đã định hướng vào việc căm ghét người giầu, thì thói quen ăn cướp ăn cắp cũng hình thành
một cách tự nhiên. Người ta lấy việc bôi xấu những người giàu để biện hộ cho những hành động không lương thiện của
mình. Những người nghèo đã lưu manh hóa. Hiện tượng trộm cướp kéo dài triền
miên trong lịch sử xã hội Việt Nam, và nếu kể cả những trường hợp nó được
khoác cho cái áo sang trọng là nông dân khởi nghĩa, thì có thể nói đó đã là một động cơ tạo nên sự
vận động của lịch sử với ý nghĩa một cuộc … chạy tại chỗ.
3/ Do tình trạng tự phát
bao trùm, ở cái xã hội tiểu nông manh mún ấy, người ta không thể thỏa thuận được với nhau để tổ chức nên một cơ cấu hợp lý. Từ cấp thấp đến cấp cao, bộ máy quản lý xã hội rơi vào tay những kẻ không có nghề nghiệp và hiểu biết gì hết về thuật cai trị.
Bộ máy
quan chức càng phình lên thì các thành viên của nó càng ngu dốt thêm.
Thứ luật
pháp sinh ra từ những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, chỉ là công cụ để bọn quan chức làm
giàu và hành hạ dân chúng, mà trước tiên lại là hành hạ cái đám dân đen vốn là
mảnh đất xuất thân của chúng.
Một xã hội như vậy không
bao giờ có sự vận động để thay đổi được.
Chống nhà giàu đồng thời với chống trí thức
Tôi học tiểu học ở vùng Hà Nội tạm chiếm và sau 1954 mới học
trung học mà hồi đó gọi là cấp II ở hệ mười năm.
Ở hệ học sau, có hai mối bức xúc mà tôi cảm thấy khá sớm.
Đến trường kẻ học giỏi bị
làm phiền, gây khó chịu… là một.
Về nhà, sống với gia đình
xóm giềng và ra phố mua bán, tôi thấy những người giỏi giang, biết làm việc,
nhất là biết kiếm tiền, thì bị khinh ghét... là hai.
Do một niềm tin mơ hồ được gia đình truyền lại, bọn tôi lo đi học
và lớn lên vẫn thích đọc sách. Nhưng học xong thấy dại. Kỹ sư ra trường lương
tháng hồi đó cũng chỉ lương hơn sáu chục đồng, chẳng hơn công nhân
lao động đơn giản là bao.
Bao nhiêu nghị lực được dồn hết cả vào khả năng chịu đựng để tồn tại, chúng tôi kéo dài cuộc sống trong mòn mỏi.
Thỉnh thoảng có dịp nhìn lại bản thân, lại ngớ ra. Sao cái phần ưu tú tốt đẹp trong mình luôn trong tâm thế xấu hổ e thẹn? Còn cái phần hoang dại tầm thường lười biếng hư hỏng... cứ nhăm nhe lôi kéo, và chỉ có một sự vượt hẳn lên về trí tuệ mới phần nào giữ được phần thiên lương vốn có.
Tôi có một đứa em và một đứa cháu, đều học rất
giỏi, nhưng sẵn sàng bỏ học để đi làm các nghề khác, dễ kiếm ăn hơn. Nhiều người chung quanh cũng thế. Thoắt cái mà mấy chục năm, thoắt cái là hơn nửa thế kỷ. Theo những cách khác nhau và ở mức độ khác nhau, song sự suy đồi trong nhân cách dần dà đã đến với những kẻ bỏ đạo - ở đây là cái đạo học - chẳng có ai là ngoại lệ.
Muốn chứng minh rằng do định hướng vào sự vô học mà cả xã hội hoàn toàn đi xuống là chuyện không dễ. Nhưng tôi cứ tin một xã hội mà ghét bỏ những
người có học thì không bao giờ phát triển lên được.
Lạ một điều là ngay trong
một nghề cần nhiều đầu óc như nghề văn mà cả đời tôi theo đuổi, ai ít học vẫn
được chiếu cố nhiều hơn và khi chọn vào bộ phận quan chức, vẫn được ưu
tiên hơn hẳn.
Hỏi sang bên khoa học tự nhiên, tình trạng cũng là tương tự.
Trước tôi cho rằng hai
chuyện trên, ghét bỏ người giàu và ghét bỏ người có học là hai chuyện riêng rẽ.
Sau này mới hiểu đó
là xã hội ta – cái xã hội công nông mà chúng tôi được giảng là tốt đẹp nhất trên đời -- thường ghét những người
ưu tú.
Với tư cách là sản phẩm của các xã hội tiểu nông, nhiều truyện cười đã cho thấy thời xưa những người có học bị gán cho đủ tội xấu xa, cũng như cánh nhà giàu toàn
là bọn người tham lam bủn xỉn…
Sang đến thời nay, có cả một sự diễn biến loanh quanh. Đôi khi lối nghĩ đó được bộc lộ trắng trợn hơn. Về sau lại được che đậy khéo léo hơn. Song bên trong vẫn thế.
Người ta chỉ không biết hoặc có biết cũng cố lờ đi không nói với nhau một điều. Rằng không chỉ quy luật tiến hóa nói chung chống lại lối khẳng định đó mà kinh nghiệm
lịch sử ở ta và ở mọi xã hội khác đều rút ra những kết luận ngược lại.
Thử
hình dung về một xã hội
mà
những phần tử ưu tú bị bài bác
Trình độ tư duy hiện nay
cho phép chúng ta thường chỉ hình dung xã hội như một bộ máy. Trong khi đó, trong một
số sách vở mà tôi đọc được, tôi thấy người ta lại nhìn xã hội như một
hiện tượng sinh học.
Mà theo các lý thuyết về sinh học thì sự tiến hóa phải trải qua những đột
biến do những phần tử ưu tú khởi xướng.
Cũng là áp dụng quan niệm sinh học vào cách
nhìn xã hội, một lần tôi thử tìm cách phân biệt các xã hội bình thường và cái xã
hội vừa trải qua những biến động long trời
lở đất ở ta, qua một cặp hình ảnh như sau:
-- các xã hội bình thường
khác ấy như những cánh rừng nguyên sinh có cấu trúc phức tạp, ở đó có cây cao
bóng cả lại có những loại dây leo và các loại cỏ ăn lan trên mặt đất, một sự phân công khoa học.
-- còn xã hội ta hiện nay, sau khi diệt dần diệt mòn các thành phần ưu tú, trên đại thể đang tái sinh như một thứ rừng có gianh. Tư tưởng bình quân đã thấm vào trong cấu trúc cả xã hội lẫn cấu trúc tinh thần mỗi cá nhân. Từng thành viên hết
sức giỏi giang trong việc thích nghi với đời sống, và chống lại mọi sự thâm nhập
từ bên ngoài. Nhưng một quần thể vốn chỉ giỏi là mình, giỏi tự vệ, sùng bái ổn định (= trì trệ) thì lại xa lạ với một sự sống theo nghĩa bình thường.
Qua phim ảnh, và với một số người là những thể
nghiệm cá nhân, chúng ta hẳn đã từng thấy những cánh rừng cỏ gianh ở những
vùng bị bom đạn càn nát trong chiến tranh cũng như bị con người hiện nay -- hung hãn điên
lên trong cơn làm giàu -- tàn phá. Chúng đầy sức sống và cũng đầy khả năng tự vệ. Chỉ riêng khả năng hồi phục để trở thành những
cánh rừng tự nhiên, cũng tức là khả năng tiến hóa theo thời gian vĩ mô, sẽ chẳng
bao giờ trở lại với những rừng cỏ gianh đó cả.
phương Tây vốn len lỏi trên nhiều miền khác nhau của đất nước ta, cả Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, trong đó có một số đáng kể là các giáo sĩ. Năm 2010 nhân dịp ngàn năm Thăng Long một số
các tài liệu được công bố. Đối với một
người không biết tiếng Pháp như tôi, đó
đã là một kho sử liệu quý.
Nay lại có thêm cuốn Thư của các giáo sĩ thừa sai (Trung tâm
nghiên cứu Quốc học và nxb Văn học
2013).
Trong các lá thư gửi về quê hương, những người viết -- vốn là
những trí thức trong thời của mình --
cũng đã có những phân tích nhiều mặt về tình hình xã hội trên những miền đất mà
họ đặt chân tới.
Ở một nước mà ngành sử học
quá yếu kém như ở ta, những lá thư này đáng được xem là những sử liệu quý báu.
Nếu có một sự tìm hiểu công phu, thì chắc qua đây có thể hiểu nhiều về lịch sử
xã hội Việt.
Có điều, cũng giống như số
phận các sử liệu mà người Trung quốc trong các thế kỷ trước viết về ta, các tài
liệu có nguồn gốc phương Tây này ít được giới khoa học ở Hà Nội – và rộng ra là cái dư luận
chính thống ở ta -- hoan nghênh.
Riêng tôi lại thích lần
mò kiếm tìm trong đó những tư tưởng xa lạ và đôi khi tôi đã thấy được cái mà
tôi không hề thấy trong các nguồn tài liệu được đọc từ nhỏ.
Phác
thảo bức tranh tổng quát
Trong lời giới thiệu cuốn sách trên, người dịch là ông Nguyễn Minh Hoàng đã làm công việc hệ thống
hóa những nội dung mà các bức thư trong
sách đề cập tới. Dưới đây, tôi chỉ trích một đoạn.
Thư của giám mục chánh
tòa Reydellet ,
cai quản giáo phận xứ Đoài ở Đông Kinh( tức Đàng ngoài),
viết ngày 7-5-1766,
gửi cho em
hiệu phó trường Dela Marche ở Paris
Miền
xuôi miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh, là một miền rất đông đúc, đời sống người dân nghèo nàn cơ cực vì đất không
nuôi đủ được người. Ngoài ra có nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để trộm cắp ở các nhà, vu
cáo để gây ra chuyện kiện tụng và làm cho người khác phải tán gia bại sản.
Ở xứ này, giàu có nhiều
tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng
sinh sự và hãm hại người giàu mãi
cho tới lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn
quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn thức để canh giữ trong nhà.
Người
Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước
và tiền của nên đều thích làm quan và làm giàu.
Những kẻ có ít chữ nghĩa và
khôn khéo trong việc vu cáo người khác có thể trèo lên tới chức quan.
Do trong
nước không thiếu gì hạng người như vậy, nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nẩy nở vô số ở khắp nơi.
Những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc
được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị, đã làm tình làm tội đám dân đen,
bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp
bóc của cả đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi…
Nhìn
tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn,
rất hợp lý, và được quy định rõ ràng. Chỉ hiềm một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả.
Chính những
người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước mọi người
khác.
Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác.
Dù có là đại
gian hùng, nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính của mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những
kẻ vụng về, ngờ nghệch, nghèo hèn là bị
trừng phạt thôi.( sách đã dẫn trên, tr. 71-72)
Giầu
là có tội
Những ghi nhận của tôi qua đoạn thư trên tập trung
vào ba điểm:
1/ Một xã hội muốn phát triển phải có nhiều người biết làm
giầu. Khổng tử khi được hỏi về công việc của người cai trị nói là giáo dân, phú dân. Mạnh tử cũng bảo có hằng
sản mới hằng tâm.
Mà muốn cả xã hội giầu thì trong xã hội đó phải có những người
đi trước một bước. Họ là những người ưu tú.
Tại sao? Vì chính họ trước tiên đã
phải lao động nhiều hơn và theo những cách
thông minh hơn người khác thì mới có thể khởi nghiệp. Cho đến khi họ thuê mướn
thêm nhân công đi chăng nữa, thì họ cũng phải lao tâm khổ tứ, tổ chức cho các
người mà họ thuê mướn đó làm việc. Câu ca dao mà tôi học từ hồi lớp sáu đã nói
cái ý ấy
Mở mắt
chúa gọi đi cày
Be
bờ cuốc góc nửa ngày chưa tha
Bờ lớn thì phải cuốc ra
Bờ
bé đắp lại cho bà con ơi
…
Chúa trai là chúa hay lo
Đêm
nằm nghĩ việc ra cho mà làm
Xã hội Việt Nam sau 1945 đã có một định hướng mạnh mẽ là tấn công vào những người giàu,
làm cho những người giàu kiệt quệ.
Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là cái phát kiến
riêng của con người hiện đại.
Hóa ra, như trong lá thư trên miêu tả, đó là căn
bệnh vốn có trong tâm lý người Việt từ các thế kỷ trước.
Riêng một câu Ở xứ này giàu có nhiều tiền lắm
bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng sinh
sự và hãm hại người giàu mãi cho tới
lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn
bách thì mới chịu thôi đã đủ cắt nghĩa sự nghèo hèn kéo dài của xã hội
ta từ xưa đến nay.
2/ Một khi đám đông người nghèo đã định hướng vào việc căm ghét người giầu, thì thói quen ăn cướp ăn cắp cũng hình thành
một cách tự nhiên. Người ta lấy việc bôi xấu những người giàu để biện hộ cho những hành động không lương thiện của
mình. Những người nghèo đã lưu manh hóa. Hiện tượng trộm cướp kéo dài triền
miên trong lịch sử xã hội Việt Nam, và nếu kể cả những trường hợp nó được
khoác cho cái áo sang trọng là nông dân khởi nghĩa, thì có thể nói đó đã là một động cơ tạo nên sự
vận động của lịch sử với ý nghĩa một cuộc … chạy tại chỗ.
3/ Do tình trạng tự phát
bao trùm, ở cái xã hội tiểu nông manh mún ấy, người ta không thể thỏa thuận được với nhau để tổ chức nên một cơ cấu hợp lý. Từ cấp thấp đến cấp cao, bộ máy quản lý xã hội rơi vào tay những kẻ không có nghề nghiệp và hiểu biết gì hết về thuật cai trị.
Bộ máy
quan chức càng phình lên thì các thành viên của nó càng ngu dốt thêm.
Thứ luật
pháp sinh ra từ những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, chỉ là công cụ để bọn quan chức làm
giàu và hành hạ dân chúng, mà trước tiên lại là hành hạ cái đám dân đen vốn là
mảnh đất xuất thân của chúng.
Một xã hội như vậy không
bao giờ có sự vận động để thay đổi được.
Chống nhà giàu đồng thời với chống trí thức
Tôi học tiểu học ở vùng Hà Nội tạm chiếm và sau 1954 mới học
trung học mà hồi đó gọi là cấp II ở hệ mười năm.
Ở hệ học sau, có hai mối bức xúc mà tôi cảm thấy khá sớm.
Đến trường kẻ học giỏi bị
làm phiền, gây khó chịu… là một.
Về nhà, sống với gia đình
xóm giềng và ra phố mua bán, tôi thấy những người giỏi giang, biết làm việc,
nhất là biết kiếm tiền, thì bị khinh ghét... là hai.
Do một niềm tin mơ hồ được gia đình truyền lại, bọn tôi lo đi học
và lớn lên vẫn thích đọc sách. Nhưng học xong thấy dại. Kỹ sư ra trường lương
tháng hồi đó cũng chỉ lương hơn sáu chục đồng, chẳng hơn công nhân
lao động đơn giản là bao.
Bao nhiêu nghị lực được dồn hết cả vào khả năng chịu đựng để tồn tại, chúng tôi kéo dài cuộc sống trong mòn mỏi.
Thỉnh thoảng có dịp nhìn lại bản thân, lại ngớ ra. Sao cái phần ưu tú tốt đẹp trong mình luôn trong tâm thế xấu hổ e thẹn? Còn cái phần hoang dại tầm thường lười biếng hư hỏng... cứ nhăm nhe lôi kéo, và chỉ có một sự vượt hẳn lên về trí tuệ mới phần nào giữ được phần thiên lương vốn có.
Tôi có một đứa em và một đứa cháu, đều học rất
giỏi, nhưng sẵn sàng bỏ học để đi làm các nghề khác, dễ kiếm ăn hơn. Nhiều người chung quanh cũng thế. Thoắt cái mà mấy chục năm, thoắt cái là hơn nửa thế kỷ. Theo những cách khác nhau và ở mức độ khác nhau, song sự suy đồi trong nhân cách dần dà đã đến với những kẻ bỏ đạo - ở đây là cái đạo học - chẳng có ai là ngoại lệ.
Muốn chứng minh rằng do định hướng vào sự vô học mà cả xã hội hoàn toàn đi xuống là chuyện không dễ. Nhưng tôi cứ tin một xã hội mà ghét bỏ những
người có học thì không bao giờ phát triển lên được.
Lạ một điều là ngay trong
một nghề cần nhiều đầu óc như nghề văn mà cả đời tôi theo đuổi, ai ít học vẫn
được chiếu cố nhiều hơn và khi chọn vào bộ phận quan chức, vẫn được ưu
tiên hơn hẳn.
Hỏi sang bên khoa học tự nhiên, tình trạng cũng là tương tự.
Trước tôi cho rằng hai
chuyện trên, ghét bỏ người giàu và ghét bỏ người có học là hai chuyện riêng rẽ.
Sau này mới hiểu đó
là xã hội ta – cái xã hội công nông mà chúng tôi được giảng là tốt đẹp nhất trên đời -- thường ghét những người
ưu tú.
Với tư cách là sản phẩm của các xã hội tiểu nông, nhiều truyện cười đã cho thấy thời xưa những người có học bị gán cho đủ tội xấu xa, cũng như cánh nhà giàu toàn
là bọn người tham lam bủn xỉn…
Sang đến thời nay, có cả một sự diễn biến loanh quanh. Đôi khi lối nghĩ đó được bộc lộ trắng trợn hơn. Về sau lại được che đậy khéo léo hơn. Song bên trong vẫn thế.
Người ta chỉ không biết hoặc có biết cũng cố lờ đi không nói với nhau một điều. Rằng không chỉ quy luật tiến hóa nói chung chống lại lối khẳng định đó mà kinh nghiệm
lịch sử ở ta và ở mọi xã hội khác đều rút ra những kết luận ngược lại.
Thử
hình dung về một xã hội
mà
những phần tử ưu tú bị bài bác
Trình độ tư duy hiện nay
cho phép chúng ta thường chỉ hình dung xã hội như một bộ máy. Trong khi đó, trong một
số sách vở mà tôi đọc được, tôi thấy người ta lại nhìn xã hội như một
hiện tượng sinh học.
Mà theo các lý thuyết về sinh học thì sự tiến hóa phải trải qua những đột
biến do những phần tử ưu tú khởi xướng.
Cũng là áp dụng quan niệm sinh học vào cách
nhìn xã hội, một lần tôi thử tìm cách phân biệt các xã hội bình thường và cái xã
hội vừa trải qua những biến động long trời
lở đất ở ta, qua một cặp hình ảnh như sau:
-- các xã hội bình thường
khác ấy như những cánh rừng nguyên sinh có cấu trúc phức tạp, ở đó có cây cao
bóng cả lại có những loại dây leo và các loại cỏ ăn lan trên mặt đất, một sự phân công khoa học.
-- còn xã hội ta hiện nay, sau khi diệt dần diệt mòn các thành phần ưu tú, trên đại thể đang tái sinh như một thứ rừng có gianh. Tư tưởng bình quân đã thấm vào trong cấu trúc cả xã hội lẫn cấu trúc tinh thần mỗi cá nhân. Từng thành viên hết
sức giỏi giang trong việc thích nghi với đời sống, và chống lại mọi sự thâm nhập
từ bên ngoài. Nhưng một quần thể vốn chỉ giỏi là mình, giỏi tự vệ, sùng bái ổn định (= trì trệ) thì lại xa lạ với một sự sống theo nghĩa bình thường.
Qua phim ảnh, và với một số người là những thể
nghiệm cá nhân, chúng ta hẳn đã từng thấy những cánh rừng cỏ gianh ở những
vùng bị bom đạn càn nát trong chiến tranh cũng như bị con người hiện nay -- hung hãn điên
lên trong cơn làm giàu -- tàn phá. Chúng đầy sức sống và cũng đầy khả năng tự vệ. Chỉ riêng khả năng hồi phục để trở thành những
cánh rừng tự nhiên, cũng tức là khả năng tiến hóa theo thời gian vĩ mô, sẽ chẳng
bao giờ trở lại với những rừng cỏ gianh đó cả.
Published on January 18, 2015 20:56
Tội lỗi thuộc về những kẻ ưu tú
Thế kỷ XVII – XVIII, là hai thế kỷ mà người
phương Tây vốn len lỏi trên nhiều miền khác nhau của đất nước ta, cả Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, trong đó có một số đáng kể là các giáo sĩ. Năm 2010 nhân dịp ngàn năm Thăng Long một số
các tài liệu được công bố. Đối với một
người không biết tiếng Pháp như tôi, đó
đã là một kho sử liệu quý.
Nay lại có thêm cuốn Thư của các giáo sĩ thừa sai (Trung tâm
nghiên cứu Quốc học và nxb Văn học
2013).
Trong các lá thư gửi về quê hương, những người viết -- vốn là
những trí thức trong thời của mình --
cũng đã có những phân tích nhiều mặt về tình hình xã hội trên những miền đất mà
họ đặt chân tới.
Ở một nước mà ngành sử học
quá yếu kém như ở ta, những lá thư này đáng được xem là những sử liệu quý báu.
Nếu có một sự tìm hiểu công phu, thì chắc qua đây có thể hiểu nhiều về lịch sử
xã hội Việt.
Có điều, cũng giống như số
phận các sử liệu mà người Trung quốc trong các thế kỷ trước viết về ta, các tài
liệu có nguồn gốc phương Tây này ít được giới khoa học ở Hà Nội – và rộng ra là cái dư luận
chính thống ở ta -- hoan nghênh.
Riêng tôi lại thích lần
mò kiếm tìm trong đó những tư tưởng xa lạ và đôi khi tôi đã thấy được cái mà
tôi không hề thấy trong các nguồn tài liệu được đọc từ nhỏ.
Phác
thảo bức tranh tổng quát
Trong lời giới thiệu cuốn sách trên, người dịch là ông Nguyễn Minh Hoàng đã làm công việc hệ thống
hóa những nội dung mà các bức thư trong
sách đề cập tới. Dưới đây, tôi chỉ trích một đoạn.
Thư của giám mục chánh
tòa Reydellet ,
cai quản giáo phận xứ Đoài ở Đông Kinh( tức Đàng ngoài),
viết ngày 7-5-1766,
gửi cho em
hiệu phó trường Dela Marche ở Paris
Miền
xuôi miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh, là một miền rất đông đúc, đời sống người dân nghèo nàn cơ cực vì đất không
nuôi đủ được người. Ngoài ra có nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để trộm cắp ở các nhà, vu
cáo để gây ra chuyện kiện tụng và làm cho người khác phải tán gia bại sản.
Ở xứ này, giàu có nhiều
tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng
sinh sự và hãm hại người giàu mãi
cho tới lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn
quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn thức để canh giữ trong nhà.
Người
Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước
và tiền của nên đều thích làm quan và làm giàu.
Những kẻ có ít chữ nghĩa và
khôn khéo trong việc vu cáo người khác có thể trèo lên tới chức quan.
Do trong
nước không thiếu gì hạng người như vậy, nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nẩy nở vô số ở khắp nơi.
Những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc
được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị, đã làm tình làm tội đám dân đen,
bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp
bóc của cả đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi…
Nhìn
tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn,
rất hợp lý, và được quy định rõ ràng. Chỉ hiềm một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả.
Chính những
người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước mọi người
khác.
Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác.
Dù có là đại
gian hùng, nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính của mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những
kẻ vụng về, ngờ nghệch, nghèo hèn là bị
trừng phạt thôi.( sách đã dẫn trên, tr. 71-72)
Giầu
là có tội
Những ghi nhận của tôi qua đoạn thư trên tập trung
vào ba điểm:
1/ Một xã hội muốn phát triển phải có nhiều người biết làm
giầu. Khổng tử khi được hỏi về công việc của người cai trị nói là giáo dân, phú dân. Mạnh tử cũng bảo có hằng
sản mới hằng tâm.
Mà muốn cả xã hội giầu thì trong xã hội đó phải có những người
đi trước một bước. Họ là những người ưu tú.
Tại sao? Vì chính họ trước tiên đã
phải lao động nhiều hơn và theo những cách
thông minh hơn người khác thì mới có thể khởi nghiệp. Cho đến khi họ thuê mướn
thêm nhân công đi chăng nữa, thì họ cũng phải lao tâm khổ tứ, tổ chức cho các
người mà họ thuê mướn đó làm việc. Câu ca dao mà tôi học từ hồi lớp sáu đã nói
cái ý ấy
Mở mắt
chúa gọi đi cày
Be
bờ cuốc góc nửa ngày chưa tha
Bờ lớn thì phải cuốc ra
Bờ
bé đắp lại cho bà con ơi
…
Chúa trai là chúa hay lo
Đêm
nằm nghĩ việc ra cho mà làm
Xã hội Việt Nam sau 1945 đã có một định hướng mạnh mẽ là tấn công vào những người giàu,
làm cho những người giàu kiệt quệ.
Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là cái phát kiến
riêng của con người hiện đại.
Hóa ra, như trong lá thư trên miêu tả, đó là căn
bệnh vốn có trong tâm lý người Việt từ các thế kỷ trước.
Riêng một câu Ở xứ này giàu có nhiều tiền lắm
bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng sinh
sự và hãm hại người giàu mãi cho tới
lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn
bách thì mới chịu thôi đã đủ cắt nghĩa sự nghèo hèn kéo dài của xã hội
ta từ xưa đến nay.
2/ Một khi đám đông người nghèo đã định hướng vào việc căm ghét người giầu, thì thói quen ăn cướp ăn cắp cũng hình thành
một cách tự nhiên. Người ta lấy việc bôi xấu những người giàu để biện hộ cho những hành động không lương thiện của
mình. Những người nghèo đã lưu manh hóa. Hiện tượng trộm cướp kéo dài triền
miên trong lịch sử xã hội Việt Nam, và nếu kể cả những trường hợp nó được
khoác cho cái áo sang trọng là nông dân khởi nghĩa, thì có thể nói đó đã là một động cơ tạo nên sự
vận động của lịch sử với ý nghĩa một cuộc … chạy tại chỗ.
3/ Do tình trạng tự phát
bao trùm, ở cái xã hội tiểu nông manh mún ấy, người ta không thể thỏa thuận được với nhau để tổ chức nên một cơ cấu hợp lý. Từ cấp thấp đến cấp cao, bộ máy quản lý xã hội rơi vào tay những kẻ không có nghề nghiệp và hiểu biết gì hết về thuật cai trị.
Bộ máy
quan chức càng phình lên thì các thành viên của nó càng ngu dốt thêm.
Thứ luật
pháp sinh ra từ những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, chỉ là công cụ để bọn quan chức làm
giàu và hành hạ dân chúng, mà trước tiên lại là hành hạ cái đám dân đen vốn là
mảnh đất xuất thân của chúng.
Một xã hội như vậy không
bao giờ có sự vận động để thay đổi được.
Chống nhà giàu đồng thời với chống trí thức
Tôi học tiểu học ở vùng Hà Nội tạm chiếm và sau 1954 mới học
trung học mà hồi đó gọi là cấp II ở hệ mười năm.
Ở hệ học sau, có hai mối bức xúc mà tôi cảm thấy khá sớm.
Đến trường kẻ học giỏi bị
làm phiền, gây khó chịu… là một.
Về nhà, sống với gia đình
xóm giềng và ra phố mua bán, tôi thấy những người giỏi giang, biết làm việc,
nhất là biết kiếm tiền, thì bị khinh ghét... là hai.
Do một niềm tin mơ hồ được gia đình truyền lại, bọn tôi lo đi học
và lớn lên vẫn thích đọc sách. Nhưng học xong thấy dại. Kỹ sư ra trường lương
tháng hồi đó cũng chỉ lương hơn sáu chục đồng, chẳng hơn công nhân
lao động đơn giản là bao.
Bao nhiêu nghị lực được dồn hết cả vào khả năng chịu đựng để tồn tại, chúng tôi kéo dài cuộc sống trong mòn mỏi.
Thỉnh thoảng có dịp nhìn lại bản thân, lại ngớ ra. Sao cái phần ưu tú tốt đẹp trong mình luôn trong tâm thế xấu hổ e thẹn? Còn cái phần hoang dại tầm thường lười biếng hư hỏng... cứ nhăm nhe lôi kéo, và chỉ có một sự vượt hẳn lên về trí tuệ mới phần nào giữ được phần thiên lương vốn có.
Tôi có một đứa em và một đứa cháu, đều học rất
giỏi, nhưng sẵn sàng bỏ học để đi làm các nghề khác, dễ kiếm ăn hơn. Nhiều người chung quanh cũng thế. Thoắt cái mà mấy chục năm, thoắt cái là hơn nửa thế kỷ. Theo những cách khác nhau và ở mức độ khác nhau, song sự suy đồi trong nhân cách dần dà đã đến với những kẻ bỏ đạo - ở đây là cái đạo học - chẳng có ai là ngoại lệ.
Muốn chứng minh rằng do định hướng vào sự vô học mà cả xã hội hoàn toàn đi xuống là chuyện không dễ. Nhưng tôi cứ tin một xã hội mà ghét bỏ những
người có học thì không bao giờ phát triển lên được.
Lạ một điều là ngay trong
một nghề cần nhiều đầu óc như nghề văn mà cả đời tôi theo đuổi, ai ít học vẫn
được chiếu cố nhiều hơn và khi chọn vào bộ phận quan chức, vẫn được ưu
tiên hơn hẳn.
Hỏi sang bên khoa học tự nhiên, tình trạng cũng là tương tự.
Trước tôi cho rằng hai
chuyện trên, ghét bỏ người giàu và ghét bỏ người có học là hai chuyện riêng rẽ.
Sau này mới hiểu đó
là xã hội ta – cái xã hội công nông mà chúng tôi được giảng là tốt đẹp nhất trên đời -- thường ghét những người
ưu tú.
Với tư cách là sản phẩm của các xã hội tiểu nông, nhiều truyện cười đã cho thấy thời xưa những người có học bị gán cho đủ tội xấu xa, cũng như cánh nhà giàu toàn
là bọn người tham lam bủn xỉn…
Sang đến thời nay, có cả một sự diễn biến loanh quanh. Đôi khi lối nghĩ đó được bộc lộ trắng trợn hơn. Về sau lại được che đậy khéo léo hơn. Song bên trong vẫn thế.
Người ta chỉ không biết hoặc có biết cũng cố lờ đi không nói với nhau một điều. Rằng không chỉ quy luật tiến hóa nói chung chống lại lối khẳng định đó mà kinh nghiệm
lịch sử ở ta và ở mọi xã hội khác đều rút ra những kết luận ngược lại.
Thử
hình dung về một xã hội
mà
những phần tử ưu tú bị bài bác
Trình độ tư duy hiện nay
cho phép chúng ta thường chỉ hình dung xã hội như một bộ máy. Trong khi đó, trong một
số sách vở mà tôi đọc được, tôi thấy người ta lại nhìn xã hội như một
hiện tượng sinh học.
Mà theo các lý thuyết về sinh học thì sự tiến hóa phải trải qua những đột
biến do những phần tử ưu tú khởi xướng.
Cũng là áp dụng quan niệm sinh học vào cách
nhìn xã hội, một lần tôi thử tìm cách phân biệt các xã hội bình thường và cái xã
hội vừa trải qua những biến động long trời
lở đất ở ta, qua một cặp hình ảnh như sau:
-- các xã hội bình thường
khác ấy như những cánh rừng nguyên sinh có cấu trúc phức tạp, ở đó có cây cao
bóng cả lại có những loại dây leo và các loại cỏ ăn lan trên mặt đất, một sự phân công khoa học.
-- còn xã hội ta hiện nay, sau khi diệt dần diệt mòn các thành phần ưu tú, trên đại thể đang tái sinh như một thứ rừng có gianh. Tư tưởng bình quân đã thấm vào trong cấu trúc cả xã hội lẫn cấu trúc tinh thần mỗi cá nhân. Từng thành viên hết
sức giỏi giang trong việc thích nghi với đời sống, và chống lại mọi sự thâm nhập
từ bên ngoài. Nhưng một quần thể vốn chỉ giỏi là mình, giỏi tự vệ, sùng bái ổn định (= trì trệ) thì lại xa lạ với một sự sống theo nghĩa bình thường.
Qua phim ảnh, và với một số người là những thể
nghiệm cá nhân, chúng ta hẳn đã từng thấy những cánh rừng cỏ gianh ở những
vùng bị bom đạn càn nát trong chiến tranh cũng như bị con người hiện nay -- hung hãn điên
lên trong cơn làm giàu -- tàn phá. Chúng đầy sức sống và cũng đầy khả năng tự vệ. Chỉ riêng khả năng hồi phục để trở thành những
cánh rừng tự nhiên, cũng tức là khả năng tiến hóa theo thời gian vĩ mô, sẽ chẳng
bao giờ trở lại với những rừng cỏ gianh đó cả.
phương Tây vốn len lỏi trên nhiều miền khác nhau của đất nước ta, cả Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, trong đó có một số đáng kể là các giáo sĩ. Năm 2010 nhân dịp ngàn năm Thăng Long một số
các tài liệu được công bố. Đối với một
người không biết tiếng Pháp như tôi, đó
đã là một kho sử liệu quý.
Nay lại có thêm cuốn Thư của các giáo sĩ thừa sai (Trung tâm
nghiên cứu Quốc học và nxb Văn học
2013).
Trong các lá thư gửi về quê hương, những người viết -- vốn là
những trí thức trong thời của mình --
cũng đã có những phân tích nhiều mặt về tình hình xã hội trên những miền đất mà
họ đặt chân tới.
Ở một nước mà ngành sử học
quá yếu kém như ở ta, những lá thư này đáng được xem là những sử liệu quý báu.
Nếu có một sự tìm hiểu công phu, thì chắc qua đây có thể hiểu nhiều về lịch sử
xã hội Việt.
Có điều, cũng giống như số
phận các sử liệu mà người Trung quốc trong các thế kỷ trước viết về ta, các tài
liệu có nguồn gốc phương Tây này ít được giới khoa học ở Hà Nội – và rộng ra là cái dư luận
chính thống ở ta -- hoan nghênh.
Riêng tôi lại thích lần
mò kiếm tìm trong đó những tư tưởng xa lạ và đôi khi tôi đã thấy được cái mà
tôi không hề thấy trong các nguồn tài liệu được đọc từ nhỏ.
Phác
thảo bức tranh tổng quát
Trong lời giới thiệu cuốn sách trên, người dịch là ông Nguyễn Minh Hoàng đã làm công việc hệ thống
hóa những nội dung mà các bức thư trong
sách đề cập tới. Dưới đây, tôi chỉ trích một đoạn.
Thư của giám mục chánh
tòa Reydellet ,
cai quản giáo phận xứ Đoài ở Đông Kinh( tức Đàng ngoài),
viết ngày 7-5-1766,
gửi cho em
hiệu phó trường Dela Marche ở Paris
Miền
xuôi miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh, là một miền rất đông đúc, đời sống người dân nghèo nàn cơ cực vì đất không
nuôi đủ được người. Ngoài ra có nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để trộm cắp ở các nhà, vu
cáo để gây ra chuyện kiện tụng và làm cho người khác phải tán gia bại sản.
Ở xứ này, giàu có nhiều
tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng
sinh sự và hãm hại người giàu mãi
cho tới lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn
quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn thức để canh giữ trong nhà.
Người
Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước
và tiền của nên đều thích làm quan và làm giàu.
Những kẻ có ít chữ nghĩa và
khôn khéo trong việc vu cáo người khác có thể trèo lên tới chức quan.
Do trong
nước không thiếu gì hạng người như vậy, nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nẩy nở vô số ở khắp nơi.
Những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc
được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị, đã làm tình làm tội đám dân đen,
bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp
bóc của cả đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi…
Nhìn
tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn,
rất hợp lý, và được quy định rõ ràng. Chỉ hiềm một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả.
Chính những
người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước mọi người
khác.
Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác.
Dù có là đại
gian hùng, nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính của mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những
kẻ vụng về, ngờ nghệch, nghèo hèn là bị
trừng phạt thôi.( sách đã dẫn trên, tr. 71-72)
Giầu
là có tội
Những ghi nhận của tôi qua đoạn thư trên tập trung
vào ba điểm:
1/ Một xã hội muốn phát triển phải có nhiều người biết làm
giầu. Khổng tử khi được hỏi về công việc của người cai trị nói là giáo dân, phú dân. Mạnh tử cũng bảo có hằng
sản mới hằng tâm.
Mà muốn cả xã hội giầu thì trong xã hội đó phải có những người
đi trước một bước. Họ là những người ưu tú.
Tại sao? Vì chính họ trước tiên đã
phải lao động nhiều hơn và theo những cách
thông minh hơn người khác thì mới có thể khởi nghiệp. Cho đến khi họ thuê mướn
thêm nhân công đi chăng nữa, thì họ cũng phải lao tâm khổ tứ, tổ chức cho các
người mà họ thuê mướn đó làm việc. Câu ca dao mà tôi học từ hồi lớp sáu đã nói
cái ý ấy
Mở mắt
chúa gọi đi cày
Be
bờ cuốc góc nửa ngày chưa tha
Bờ lớn thì phải cuốc ra
Bờ
bé đắp lại cho bà con ơi
…
Chúa trai là chúa hay lo
Đêm
nằm nghĩ việc ra cho mà làm
Xã hội Việt Nam sau 1945 đã có một định hướng mạnh mẽ là tấn công vào những người giàu,
làm cho những người giàu kiệt quệ.
Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là cái phát kiến
riêng của con người hiện đại.
Hóa ra, như trong lá thư trên miêu tả, đó là căn
bệnh vốn có trong tâm lý người Việt từ các thế kỷ trước.
Riêng một câu Ở xứ này giàu có nhiều tiền lắm
bạc là một tội to. Ai cũng sẵn sàng sinh
sự và hãm hại người giàu mãi cho tới
lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn
bách thì mới chịu thôi đã đủ cắt nghĩa sự nghèo hèn kéo dài của xã hội
ta từ xưa đến nay.
2/ Một khi đám đông người nghèo đã định hướng vào việc căm ghét người giầu, thì thói quen ăn cướp ăn cắp cũng hình thành
một cách tự nhiên. Người ta lấy việc bôi xấu những người giàu để biện hộ cho những hành động không lương thiện của
mình. Những người nghèo đã lưu manh hóa. Hiện tượng trộm cướp kéo dài triền
miên trong lịch sử xã hội Việt Nam, và nếu kể cả những trường hợp nó được
khoác cho cái áo sang trọng là nông dân khởi nghĩa, thì có thể nói đó đã là một động cơ tạo nên sự
vận động của lịch sử với ý nghĩa một cuộc … chạy tại chỗ.
3/ Do tình trạng tự phát
bao trùm, ở cái xã hội tiểu nông manh mún ấy, người ta không thể thỏa thuận được với nhau để tổ chức nên một cơ cấu hợp lý. Từ cấp thấp đến cấp cao, bộ máy quản lý xã hội rơi vào tay những kẻ không có nghề nghiệp và hiểu biết gì hết về thuật cai trị.
Bộ máy
quan chức càng phình lên thì các thành viên của nó càng ngu dốt thêm.
Thứ luật
pháp sinh ra từ những kẻ nghèo khổ và trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, chỉ là công cụ để bọn quan chức làm
giàu và hành hạ dân chúng, mà trước tiên lại là hành hạ cái đám dân đen vốn là
mảnh đất xuất thân của chúng.
Một xã hội như vậy không
bao giờ có sự vận động để thay đổi được.
Chống nhà giàu đồng thời với chống trí thức
Tôi học tiểu học ở vùng Hà Nội tạm chiếm và sau 1954 mới học
trung học mà hồi đó gọi là cấp II ở hệ mười năm.
Ở hệ học sau, có hai mối bức xúc mà tôi cảm thấy khá sớm.
Đến trường kẻ học giỏi bị
làm phiền, gây khó chịu… là một.
Về nhà, sống với gia đình
xóm giềng và ra phố mua bán, tôi thấy những người giỏi giang, biết làm việc,
nhất là biết kiếm tiền, thì bị khinh ghét... là hai.
Do một niềm tin mơ hồ được gia đình truyền lại, bọn tôi lo đi học
và lớn lên vẫn thích đọc sách. Nhưng học xong thấy dại. Kỹ sư ra trường lương
tháng hồi đó cũng chỉ lương hơn sáu chục đồng, chẳng hơn công nhân
lao động đơn giản là bao.
Bao nhiêu nghị lực được dồn hết cả vào khả năng chịu đựng để tồn tại, chúng tôi kéo dài cuộc sống trong mòn mỏi.
Thỉnh thoảng có dịp nhìn lại bản thân, lại ngớ ra. Sao cái phần ưu tú tốt đẹp trong mình luôn trong tâm thế xấu hổ e thẹn? Còn cái phần hoang dại tầm thường lười biếng hư hỏng... cứ nhăm nhe lôi kéo, và chỉ có một sự vượt hẳn lên về trí tuệ mới phần nào giữ được phần thiên lương vốn có.
Tôi có một đứa em và một đứa cháu, đều học rất
giỏi, nhưng sẵn sàng bỏ học để đi làm các nghề khác, dễ kiếm ăn hơn. Nhiều người chung quanh cũng thế. Thoắt cái mà mấy chục năm, thoắt cái là hơn nửa thế kỷ. Theo những cách khác nhau và ở mức độ khác nhau, song sự suy đồi trong nhân cách dần dà đã đến với những kẻ bỏ đạo - ở đây là cái đạo học - chẳng có ai là ngoại lệ.
Muốn chứng minh rằng do định hướng vào sự vô học mà cả xã hội hoàn toàn đi xuống là chuyện không dễ. Nhưng tôi cứ tin một xã hội mà ghét bỏ những
người có học thì không bao giờ phát triển lên được.
Lạ một điều là ngay trong
một nghề cần nhiều đầu óc như nghề văn mà cả đời tôi theo đuổi, ai ít học vẫn
được chiếu cố nhiều hơn và khi chọn vào bộ phận quan chức, vẫn được ưu
tiên hơn hẳn.
Hỏi sang bên khoa học tự nhiên, tình trạng cũng là tương tự.
Trước tôi cho rằng hai
chuyện trên, ghét bỏ người giàu và ghét bỏ người có học là hai chuyện riêng rẽ.
Sau này mới hiểu đó
là xã hội ta – cái xã hội công nông mà chúng tôi được giảng là tốt đẹp nhất trên đời -- thường ghét những người
ưu tú.
Với tư cách là sản phẩm của các xã hội tiểu nông, nhiều truyện cười đã cho thấy thời xưa những người có học bị gán cho đủ tội xấu xa, cũng như cánh nhà giàu toàn
là bọn người tham lam bủn xỉn…
Sang đến thời nay, có cả một sự diễn biến loanh quanh. Đôi khi lối nghĩ đó được bộc lộ trắng trợn hơn. Về sau lại được che đậy khéo léo hơn. Song bên trong vẫn thế.
Người ta chỉ không biết hoặc có biết cũng cố lờ đi không nói với nhau một điều. Rằng không chỉ quy luật tiến hóa nói chung chống lại lối khẳng định đó mà kinh nghiệm
lịch sử ở ta và ở mọi xã hội khác đều rút ra những kết luận ngược lại.
Thử
hình dung về một xã hội
mà
những phần tử ưu tú bị bài bác
Trình độ tư duy hiện nay
cho phép chúng ta thường chỉ hình dung xã hội như một bộ máy. Trong khi đó, trong một
số sách vở mà tôi đọc được, tôi thấy người ta lại nhìn xã hội như một
hiện tượng sinh học.
Mà theo các lý thuyết về sinh học thì sự tiến hóa phải trải qua những đột
biến do những phần tử ưu tú khởi xướng.
Cũng là áp dụng quan niệm sinh học vào cách
nhìn xã hội, một lần tôi thử tìm cách phân biệt các xã hội bình thường và cái xã
hội vừa trải qua những biến động long trời
lở đất ở ta, qua một cặp hình ảnh như sau:
-- các xã hội bình thường
khác ấy như những cánh rừng nguyên sinh có cấu trúc phức tạp, ở đó có cây cao
bóng cả lại có những loại dây leo và các loại cỏ ăn lan trên mặt đất, một sự phân công khoa học.
-- còn xã hội ta hiện nay, sau khi diệt dần diệt mòn các thành phần ưu tú, trên đại thể đang tái sinh như một thứ rừng có gianh. Tư tưởng bình quân đã thấm vào trong cấu trúc cả xã hội lẫn cấu trúc tinh thần mỗi cá nhân. Từng thành viên hết
sức giỏi giang trong việc thích nghi với đời sống, và chống lại mọi sự thâm nhập
từ bên ngoài. Nhưng một quần thể vốn chỉ giỏi là mình, giỏi tự vệ, sùng bái ổn định (= trì trệ) thì lại xa lạ với một sự sống theo nghĩa bình thường.
Qua phim ảnh, và với một số người là những thể
nghiệm cá nhân, chúng ta hẳn đã từng thấy những cánh rừng cỏ gianh ở những
vùng bị bom đạn càn nát trong chiến tranh cũng như bị con người hiện nay -- hung hãn điên
lên trong cơn làm giàu -- tàn phá. Chúng đầy sức sống và cũng đầy khả năng tự vệ. Chỉ riêng khả năng hồi phục để trở thành những
cánh rừng tự nhiên, cũng tức là khả năng tiến hóa theo thời gian vĩ mô, sẽ chẳng
bao giờ trở lại với những rừng cỏ gianh đó cả.
Published on January 18, 2015 20:56
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
