Vương Trí Nhàn's Blog, page 71
October 21, 2014
Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của nhà nước Nga Xô Viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954
Tập tiểu
luận Về
trí thức Nga ( La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009) gồm có nhiều bài viết xuất sắc
+ Chân lý của triết học và sự thật của người
trí thức
+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp
trí thức cả hai cùng của tác giả N.A. Berdaev
+ Tầng lớp kỹ giả -- Alekssandr Solzhenítsyn
+ Phẩm tính trí thức -- Dmitri Likhachev
Riêng bài Bàn về
số phận của tầng lớp có học ở Nga của Sergey Kirilov thì bàn sâu vào
lớp trí thức Nga sau 1917. Tầng lớp này đã được quan niệm như thế nào, nhà nước xô viết
đã hình thành họ theo những cách thức ra sao, tại sao giới trí thức Nga lại có bộ mặt như chúng ta đang thấy, tại sao trong
thời đại mới, đa số những người này dừng
lại ở cái trình độ thảm hại và kèm theo
những suy đồi về đạo đức quá rõ
so với trí thức Nga trước Cách mạng.
Chúng tôi lược
thuật bài này, cốt để các bạn xa gần qua
đó, từ trí thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí thức được đào tạo ở
Hà Nội sau 1954.
Trong cơn thức tỉnh
sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường hay chê trách lớp trí thức này về mọi mặt.
Nhưng nếu hiểu được người trí thức ở ta là
thế và được nhào nặn như thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ hơn với nghĩa… bớt hy
vọng ở họ hơn.
Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền
văn hóa Nga trước 1917 mang tính thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể
làm được việc mà đa số không thể làm nổi. Trí thức nói chung chỉ chiếm tối đa
10%, còn thấp nhất là 2 - 3%. Ở các cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng
vậy.
Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo
việc đào tạo, đó là tạo nên giới tri thức không có sự tách biệt với dân chúng
như thời Nga hoàng. Để làm được việc đó, người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần
thiết, tạo ra một lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập mà phụ
thuộc nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung thành với nhà nước. Tầng lớp trí
thức này luôn luôn được bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng công nông,
cho nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị phá vỡ.
Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và
thay thế bằng trí thức mới
Chính quyền Xô Viết có một niềm căm
ghét đặc biệt đối với nền văn hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó một
giai tầng có học mang tính hiện đại. Do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những
năm đầu, họ phải sử dụng tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần
dần thủ tiêu những người này -- cả với
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là làm biến chất họ --, thay vào đó là những người của
mình.
Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt
trí thức đồng thời tiêu diệt văn hóa cũ.
Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến
không nhiều, nhưng đại diện của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90% những
người chống đối việc thiết lập chế độ Bolsevik. Lúc ấy một phần lớn trí thức Nga là người trong quân đội.
Vào năm 1917, tất cả những người có học,
trong độ tuổi nghĩa vụ, đều là sĩ quan.
Những người Bolsevik nhận thức rõ kẻ thù thật sự của họ trong cuộc nội chiến
không phải là bọn tư sản và địa chủ, mà chính là tầng lớp trí thức có quân hàm
hoặc không đeo quân hàm.
Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm
vào tầng lớp trí thức ấy.
Các lãnh tụ Bolsevik coi việc giai cấp vô sản đã bẻ gãy được ý chí của tầng lớp
trí thức là sự bảo vệ tốt nhất cho thắng lợi của cách mạng trong tương lai. Và
cái mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho những hành động phản tiến hóa của
họ.
Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch
– vốn là hậu quả của cách mạng – làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt mạng, một số
thì lưu vong.
Những người còn sống sót thì bị thù
ghét. Họ không có chỗ đứng trong các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm vướng
cẳng các lí thuyết gia mác - xit. Theo quan niệm của những người xây dựng xã hội
mới thì trong tương lai tầng lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục
đích tạo ra “một sự đồng nhất về mặt xã hội” (tương tự như Việt Nam từng có khẩu hiệu Trí thức hóa công nông và công nông hóa trí thức -- VTN)
Đào tạo lớp người thay thế.
Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp
chất lượng
Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có
số lượng tương đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân số.
Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát
triển trí thức lại có tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự phát triến
nhanh chóng và giả tạo số người có học.
Tại sao cần vậy?
Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận
ra những chuyên gia nổi loạn.
Nảy sinh nhu cầu thay thế.
Nhưng cái mà người không thể làm được
là chất lượng.
Vậy phải bù vào bằng sự dư thừa số lượng để tạm an lòng.
Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch
sử, người ta đều cố gắng thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát triển hệ
thống trường học. Mục đích là “biến tất cả mọi người thành trí thức” và không để
cho giai tầng này được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo kỹ sư và
chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của nền kinh tế và được quyết định
chủ yếu bởi nhu cầu chính trị và tuyên truyền.
Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người
có học diễn ra trong những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một chục năm lớp
người này đã gia tăng gần 300%, riêng số người có bằng đại học và trung học
chuyên nghiệp gia tăng 360%.
Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm
1950 – 1960, lúc đó trong một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong có
một chục năm.
Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng
nổ này là lớp tri thức mới có trình độ
thấp hơn rất nhiều so với chuẩn mực trên thế giới.
Những trí thức xa lạ với văn hóa
Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87
triệu chuyên gia, trong đó 16 triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một
cách vô giới hạn tầng lớp tri thức dẫn đến hiện tượng giả tạo là mặc dù mức độ
phát triển khoa học kĩ thuật và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các
nước phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng bác sĩ kỹ sư cán bộ
nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn đứng đầu tỉ
lệ trí thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này lại được trả lương ở
mức thấp nhất. Sự thấp kém nói ở đây không phải về giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn so với mức lương trung bình của cả nước.
Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và
mới. Nét đặc biệt của người trí thức mới là họ phải phủ nhận bản chất tinh hoa
của mình. Kết quả là không có gì chung giữa tầng lớp có học hiện nay với lớp
tri thức của nước Nga xưa.
Trong xã hội Xô Viết, một người bình
thường (không phải nhân vật mà nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền thống
hơn là người có học kiểu Xô Viết.
Người bình thường ấy còn giữ khái niệm
về một nền văn hóa chân chính.
Nhưng người bình thường ấy lại không
phải là nhân vật chủ đạo của xã hội.
Người có học thời Xô Viết không hiểu
gì về người trí thức trước cách mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn hóa cổ
điển. Họ bịa đặt ra một số nét đặc thù của văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn
hóa bị hạ thấp và đứng ngoài mọi chuẩn
mực.
Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới
quan chức.
Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng
nhanh sinh viên, người ta còn đề cử những người không có bằng cấp làm những việc
đòi hỏi trí thức, bằng cách đó tạo ra một sự hỗn loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới
có.
Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự
phình ra vô tội vạ. Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng tính tới 1917 là
576.000, tới 1923 – 1925 con số quan chức
đã lên tới 2.230.000.
Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến
thường xuyên, nhưng sát nhập, giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể tưởng tượng nổi
chế độ Xô Viết mà không có quá trình quan liêu hóa.
Việc làm giảm trình độ giới trí thức
nói chung còn được thúc đẩy bởi việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học
theo lối hàm thụ cũng được đề bạt đặc cách.
Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại
học, việc này tạo ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.
Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi
đó là nghề lao động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của
Việt Nam VTN).
Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện
tượng có những người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay sở bằng được
lấy bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là đồng
lương chết đói ( nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ. VTN)
Sự tầm thường đã đến với lớp người vốn được coi là cao quý
Người ta đã học như thế nào?
Phần lớn giới trí thức Liên Xô được
đào tạo rất hời hợt. Nguyên tắc lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm thường hóa
lao động trí óc, tầm thường hóa quá trình đào tạo những kẻ muốn phát triển về mặt trí tuệ.
Trong những năm 1920 – 1930 người ta
sử dụng rộng rãi phương pháp “học theo đội”, chỉ cần một sinh viên trả lời đúng
là cả nhóm được cho qua kỳ kiểm tra. Các chuyên gia được đào tạo theo kiểu đó vốn
có trình độ khá thấp ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được
với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung, nhất là trình độ các
môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà trường Liên Xô đào tạo không những đơn sơ
cổ lỗ mà còn sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến thức văn hóa thực thụ, mà
đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng của đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ
sở văn hóa tổng quát được dạy rất ít. Các trường đại học khoa học tự nhiên
không có môn này, còn trong các trường khoa học xã hội nhân văn thì sinh viên lại
được học một số kiến thức giống như thần học.
Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất
quý phái, tức là sang trọng vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu dưỡng nhiều
đời, có sự tham gia của kiến thức sách vở.
Tất cả những người có học đều có phẩm
chất quý tộc ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc kế thế, nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa ổn định.
Có chân trong giới thượng lưu, người
ta dễ dàng giữ được sự độc lập về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật của
mình, và giữ được tính độc lập trước mọi hệ thống quyền lực. Có điều lạ là cả một
giáo sư đại học lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác tự hào
mà trí thức vốn có. Khi người trí thức không có cảm giác về thân phận cao quý của
mình thì họ cho phép mình làm bậy.
Ở trên chúng ta đã xét tới việc học
ngày nay. Học như thế thì làm sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái
mà trí thức cũ đã có.
Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức
không quên nguồn gốc công nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp trên bị
hạ nhục, bị làm phiền: người ta chỉ muốn họ quên họ từ đâu tới.
Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp,
ưu tiên giai cấp, cho phép tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người thuộc
giai cấp công nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.
Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân
từ tầng lớp có học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.
Tới 1923, số này chỉ còn lại ½
Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 –
10%.
Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng
F1 mới từ công nông lên. Đó là các trí thức một đời. Người trí thức khộng có
khái niệm về sự cao quý của mình, về lòng tự trọng.
Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu
thế bành trướng
Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ
cao trong bộ máy nhà nước không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao gấp
vài chục lần người lao động chân tay.
Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ
nhỉnh hơn chút ít so với thu nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là “phúc
lợi xã hội” cũng được tái phân phối theo hướng có lợi cho công nhân thì cho đến
năm 1980, mức sống của tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống của
công nhân.
Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu
học còn đỡ; lớp dạy đại học chỉ được nhận 20% mức lương trước cách mạng. Từ đó
nảy sinh trong tầng lớp trí thức xu thế quan liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức
trong giới của mình thì mới có thể có mức thu nhập cao.
Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô
Viết tiến hành theo nguyên tắc phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú, lại
cất nhắc những kẻ tồi tệ. Quá trình chọn lựa kéo dài hơn một nửa thế kỉ, những
kẻ xấu xa nhất được nâng đỡ, việc này đã dẫn đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo chính trị chóp
bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền lực, đều nhung nhúc những
kẻ không ra gì.
Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về
nguyên tắc là không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay đổi.
Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực
quản lí trước cách mạng bao gồm những người được giáo dục và có học vấn tốt nhất
trong thời đại của mình, và tầng lớp tinh hoa chính trị trong các nước châu Âu
ngày nay cũng bao gồm chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học
uy tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.
Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất
gần như là những người có trình độ học vấn văn hóa kém nhất trong số những người
lao động trí óc.
Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại học có chất
lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt nghiệp các trường đại học như thế được
gia nhập vào bộ phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp quản lí thường
chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường đại học tỉnh lẻ cộng với các trường
Đảng cao cấp, nghĩa là những trường đại học có trình độ văn hóa thấp nhất nếu
không nói là giả đại học.
Trình độ học vấn kém cỏi của giới
quan chức dẫn đến sự đối lập quan chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời Khruchev
là một ví dụ tiêu biểu của chất lượng giáo dục khi họ tham gia vào việc quản
lí.
Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa
giáo dục đại học đạt đến đỉnh điểm. Lạm phát trí thức bùng nổ với nghĩa hàng chục trường đại học
không đủ điều kiện đã được thành lập.
Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ
sở cho việc sản xuất thừa các chuyên gia.
Kết quả và quá trình bành trướng số người lao
động trí óc đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao động trí óc.
Tương lai của khoa học cũng gánh chịu những hậu quả nặng nề. Biên chế của các
viện nghiên cứu khoa học tăng theo cấp số nhân.
Kể cả những kẻ tầm thường vốn
không thể có hi vọng và bản thân không hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng
trở thành các “nhà khoa học”.
Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến
cho những dự định cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế nữa, lúc đó do quá
trình thay đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí
lãnh đạo trong khoa học và thực hiện chính sách tri thức dội từ trên xuống theo
đúng bản chất của mình.
Kết cục khó tránh
Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn
đấu đã gần đạt được thành công trong việc loại bỏ tầng lớp trí thức như một hiện
tượng xã hội đặc thù, như một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được
đặc trưng mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt về trình độ
học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám quần chúng được gọi là nhân dân.
Có những khó khăn nhất định ngăn cản
không cho tầng lớp có học hiện nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã hội của
mình. Cơ sở tư tưởng của chế độ toàn trị cộng sản là sự sùng bái “con người
bình thường”. Sau hàng chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu
óc và đầu óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức là lớp trí thức -- đã
quen dần với định đề phản tự nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng tư duy
của mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để khẳng định vai trò
của mình trong xã hội.
Những thành quả sáng chói của nền
khoa học và văn hóa Nga thế kỉ XIX được tạo nên bởi những con người sinh ra
trên những nguyên tắc có nguồn gốc từ sự phát triển xã hội ba thế kỉ trước.
Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của
trí thức và tiêu diệt trên thực tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn từ sự
trì trệ trong vận động lịch sử của những thập kỉ gần đây.
Kết quả là chúng ta có một tầng lớp
có học nhưng không có khả năng thực hiện các thiên chức của nó.
Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ
có một chút ngoại lệ là các nhà trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự, vốn
được đào tạo như một khu vực tách rời khỏi xã hội. Sau năm 1991, chính bộ phận
này khi ra nước ngoài đã hòa nhập được với giới khoa học của các nước phương
Tây.
Muốn thay đổi được thực trạng nói
trên thì chính nhà nước phải có một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải
công nhận rằng trong xã hội Xô Viết đã hình thành một lớp kỹ giả ngu dốt – vô
năng. Đoạn tuyệt với họ rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không
thể lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi trường kinh doanh vốn đầy
tính chất mafia của Nga.
Tầng lớp tinh hoa trí thức như một
giai tầng xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ động
của nhà nước. Phải bắt đầu bằng sự phủ nhận rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo
sai thì sau đó mới có thể bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế,
đất nước trong trường hợp tốt nhất chỉ biến thành người cung cấp chuyên gia cho
các nước khác mà thôi.
luận Về
trí thức Nga ( La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009) gồm có nhiều bài viết xuất sắc
+ Chân lý của triết học và sự thật của người
trí thức
+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp
trí thức cả hai cùng của tác giả N.A. Berdaev
+ Tầng lớp kỹ giả -- Alekssandr Solzhenítsyn
+ Phẩm tính trí thức -- Dmitri Likhachev
Riêng bài Bàn về
số phận của tầng lớp có học ở Nga của Sergey Kirilov thì bàn sâu vào
lớp trí thức Nga sau 1917. Tầng lớp này đã được quan niệm như thế nào, nhà nước xô viết
đã hình thành họ theo những cách thức ra sao, tại sao giới trí thức Nga lại có bộ mặt như chúng ta đang thấy, tại sao trong
thời đại mới, đa số những người này dừng
lại ở cái trình độ thảm hại và kèm theo
những suy đồi về đạo đức quá rõ
so với trí thức Nga trước Cách mạng.
Chúng tôi lược
thuật bài này, cốt để các bạn xa gần qua
đó, từ trí thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí thức được đào tạo ở
Hà Nội sau 1954.
Trong cơn thức tỉnh
sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường hay chê trách lớp trí thức này về mọi mặt.
Nhưng nếu hiểu được người trí thức ở ta là
thế và được nhào nặn như thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ hơn với nghĩa… bớt hy
vọng ở họ hơn.
Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền
văn hóa Nga trước 1917 mang tính thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể
làm được việc mà đa số không thể làm nổi. Trí thức nói chung chỉ chiếm tối đa
10%, còn thấp nhất là 2 - 3%. Ở các cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng
vậy.
Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo
việc đào tạo, đó là tạo nên giới tri thức không có sự tách biệt với dân chúng
như thời Nga hoàng. Để làm được việc đó, người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần
thiết, tạo ra một lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập mà phụ
thuộc nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung thành với nhà nước. Tầng lớp trí
thức này luôn luôn được bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng công nông,
cho nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị phá vỡ.
Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và
thay thế bằng trí thức mới
Chính quyền Xô Viết có một niềm căm
ghét đặc biệt đối với nền văn hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó một
giai tầng có học mang tính hiện đại. Do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những
năm đầu, họ phải sử dụng tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần
dần thủ tiêu những người này -- cả với
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là làm biến chất họ --, thay vào đó là những người của
mình.
Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt
trí thức đồng thời tiêu diệt văn hóa cũ.
Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến
không nhiều, nhưng đại diện của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90% những
người chống đối việc thiết lập chế độ Bolsevik. Lúc ấy một phần lớn trí thức Nga là người trong quân đội.
Vào năm 1917, tất cả những người có học,
trong độ tuổi nghĩa vụ, đều là sĩ quan.
Những người Bolsevik nhận thức rõ kẻ thù thật sự của họ trong cuộc nội chiến
không phải là bọn tư sản và địa chủ, mà chính là tầng lớp trí thức có quân hàm
hoặc không đeo quân hàm.
Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm
vào tầng lớp trí thức ấy.
Các lãnh tụ Bolsevik coi việc giai cấp vô sản đã bẻ gãy được ý chí của tầng lớp
trí thức là sự bảo vệ tốt nhất cho thắng lợi của cách mạng trong tương lai. Và
cái mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho những hành động phản tiến hóa của
họ.
Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch
– vốn là hậu quả của cách mạng – làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt mạng, một số
thì lưu vong.
Những người còn sống sót thì bị thù
ghét. Họ không có chỗ đứng trong các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm vướng
cẳng các lí thuyết gia mác - xit. Theo quan niệm của những người xây dựng xã hội
mới thì trong tương lai tầng lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục
đích tạo ra “một sự đồng nhất về mặt xã hội” (tương tự như Việt Nam từng có khẩu hiệu Trí thức hóa công nông và công nông hóa trí thức -- VTN)
Đào tạo lớp người thay thế.
Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp
chất lượng
Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có
số lượng tương đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân số.
Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát
triển trí thức lại có tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự phát triến
nhanh chóng và giả tạo số người có học.
Tại sao cần vậy?
Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận
ra những chuyên gia nổi loạn.
Nảy sinh nhu cầu thay thế.
Nhưng cái mà người không thể làm được
là chất lượng.
Vậy phải bù vào bằng sự dư thừa số lượng để tạm an lòng.
Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch
sử, người ta đều cố gắng thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát triển hệ
thống trường học. Mục đích là “biến tất cả mọi người thành trí thức” và không để
cho giai tầng này được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo kỹ sư và
chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của nền kinh tế và được quyết định
chủ yếu bởi nhu cầu chính trị và tuyên truyền.
Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người
có học diễn ra trong những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một chục năm lớp
người này đã gia tăng gần 300%, riêng số người có bằng đại học và trung học
chuyên nghiệp gia tăng 360%.
Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm
1950 – 1960, lúc đó trong một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong có
một chục năm.
Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng
nổ này là lớp tri thức mới có trình độ
thấp hơn rất nhiều so với chuẩn mực trên thế giới.
Những trí thức xa lạ với văn hóa
Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87
triệu chuyên gia, trong đó 16 triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một
cách vô giới hạn tầng lớp tri thức dẫn đến hiện tượng giả tạo là mặc dù mức độ
phát triển khoa học kĩ thuật và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các
nước phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng bác sĩ kỹ sư cán bộ
nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn đứng đầu tỉ
lệ trí thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này lại được trả lương ở
mức thấp nhất. Sự thấp kém nói ở đây không phải về giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn so với mức lương trung bình của cả nước.
Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và
mới. Nét đặc biệt của người trí thức mới là họ phải phủ nhận bản chất tinh hoa
của mình. Kết quả là không có gì chung giữa tầng lớp có học hiện nay với lớp
tri thức của nước Nga xưa.
Trong xã hội Xô Viết, một người bình
thường (không phải nhân vật mà nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền thống
hơn là người có học kiểu Xô Viết.
Người bình thường ấy còn giữ khái niệm
về một nền văn hóa chân chính.
Nhưng người bình thường ấy lại không
phải là nhân vật chủ đạo của xã hội.
Người có học thời Xô Viết không hiểu
gì về người trí thức trước cách mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn hóa cổ
điển. Họ bịa đặt ra một số nét đặc thù của văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn
hóa bị hạ thấp và đứng ngoài mọi chuẩn
mực.
Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới
quan chức.
Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng
nhanh sinh viên, người ta còn đề cử những người không có bằng cấp làm những việc
đòi hỏi trí thức, bằng cách đó tạo ra một sự hỗn loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới
có.
Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự
phình ra vô tội vạ. Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng tính tới 1917 là
576.000, tới 1923 – 1925 con số quan chức
đã lên tới 2.230.000.
Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến
thường xuyên, nhưng sát nhập, giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể tưởng tượng nổi
chế độ Xô Viết mà không có quá trình quan liêu hóa.
Việc làm giảm trình độ giới trí thức
nói chung còn được thúc đẩy bởi việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học
theo lối hàm thụ cũng được đề bạt đặc cách.
Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại
học, việc này tạo ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.
Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi
đó là nghề lao động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của
Việt Nam VTN).
Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện
tượng có những người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay sở bằng được
lấy bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là đồng
lương chết đói ( nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ. VTN)
Sự tầm thường đã đến với lớp người vốn được coi là cao quý
Người ta đã học như thế nào?
Phần lớn giới trí thức Liên Xô được
đào tạo rất hời hợt. Nguyên tắc lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm thường hóa
lao động trí óc, tầm thường hóa quá trình đào tạo những kẻ muốn phát triển về mặt trí tuệ.
Trong những năm 1920 – 1930 người ta
sử dụng rộng rãi phương pháp “học theo đội”, chỉ cần một sinh viên trả lời đúng
là cả nhóm được cho qua kỳ kiểm tra. Các chuyên gia được đào tạo theo kiểu đó vốn
có trình độ khá thấp ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được
với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung, nhất là trình độ các
môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà trường Liên Xô đào tạo không những đơn sơ
cổ lỗ mà còn sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến thức văn hóa thực thụ, mà
đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng của đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ
sở văn hóa tổng quát được dạy rất ít. Các trường đại học khoa học tự nhiên
không có môn này, còn trong các trường khoa học xã hội nhân văn thì sinh viên lại
được học một số kiến thức giống như thần học.
Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất
quý phái, tức là sang trọng vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu dưỡng nhiều
đời, có sự tham gia của kiến thức sách vở.
Tất cả những người có học đều có phẩm
chất quý tộc ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc kế thế, nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa ổn định.
Có chân trong giới thượng lưu, người
ta dễ dàng giữ được sự độc lập về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật của
mình, và giữ được tính độc lập trước mọi hệ thống quyền lực. Có điều lạ là cả một
giáo sư đại học lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác tự hào
mà trí thức vốn có. Khi người trí thức không có cảm giác về thân phận cao quý của
mình thì họ cho phép mình làm bậy.
Ở trên chúng ta đã xét tới việc học
ngày nay. Học như thế thì làm sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái
mà trí thức cũ đã có.
Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức
không quên nguồn gốc công nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp trên bị
hạ nhục, bị làm phiền: người ta chỉ muốn họ quên họ từ đâu tới.
Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp,
ưu tiên giai cấp, cho phép tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người thuộc
giai cấp công nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.
Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân
từ tầng lớp có học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.
Tới 1923, số này chỉ còn lại ½
Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 –
10%.
Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng
F1 mới từ công nông lên. Đó là các trí thức một đời. Người trí thức khộng có
khái niệm về sự cao quý của mình, về lòng tự trọng.
Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu
thế bành trướng
Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ
cao trong bộ máy nhà nước không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao gấp
vài chục lần người lao động chân tay.
Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ
nhỉnh hơn chút ít so với thu nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là “phúc
lợi xã hội” cũng được tái phân phối theo hướng có lợi cho công nhân thì cho đến
năm 1980, mức sống của tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống của
công nhân.
Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu
học còn đỡ; lớp dạy đại học chỉ được nhận 20% mức lương trước cách mạng. Từ đó
nảy sinh trong tầng lớp trí thức xu thế quan liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức
trong giới của mình thì mới có thể có mức thu nhập cao.
Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô
Viết tiến hành theo nguyên tắc phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú, lại
cất nhắc những kẻ tồi tệ. Quá trình chọn lựa kéo dài hơn một nửa thế kỉ, những
kẻ xấu xa nhất được nâng đỡ, việc này đã dẫn đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo chính trị chóp
bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền lực, đều nhung nhúc những
kẻ không ra gì.
Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về
nguyên tắc là không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay đổi.
Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực
quản lí trước cách mạng bao gồm những người được giáo dục và có học vấn tốt nhất
trong thời đại của mình, và tầng lớp tinh hoa chính trị trong các nước châu Âu
ngày nay cũng bao gồm chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học
uy tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.
Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất
gần như là những người có trình độ học vấn văn hóa kém nhất trong số những người
lao động trí óc.
Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại học có chất
lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt nghiệp các trường đại học như thế được
gia nhập vào bộ phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp quản lí thường
chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường đại học tỉnh lẻ cộng với các trường
Đảng cao cấp, nghĩa là những trường đại học có trình độ văn hóa thấp nhất nếu
không nói là giả đại học.
Trình độ học vấn kém cỏi của giới
quan chức dẫn đến sự đối lập quan chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời Khruchev
là một ví dụ tiêu biểu của chất lượng giáo dục khi họ tham gia vào việc quản
lí.
Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa
giáo dục đại học đạt đến đỉnh điểm. Lạm phát trí thức bùng nổ với nghĩa hàng chục trường đại học
không đủ điều kiện đã được thành lập.
Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ
sở cho việc sản xuất thừa các chuyên gia.
Kết quả và quá trình bành trướng số người lao
động trí óc đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao động trí óc.
Tương lai của khoa học cũng gánh chịu những hậu quả nặng nề. Biên chế của các
viện nghiên cứu khoa học tăng theo cấp số nhân.
Kể cả những kẻ tầm thường vốn
không thể có hi vọng và bản thân không hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng
trở thành các “nhà khoa học”.
Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến
cho những dự định cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế nữa, lúc đó do quá
trình thay đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí
lãnh đạo trong khoa học và thực hiện chính sách tri thức dội từ trên xuống theo
đúng bản chất của mình.
Kết cục khó tránh
Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn
đấu đã gần đạt được thành công trong việc loại bỏ tầng lớp trí thức như một hiện
tượng xã hội đặc thù, như một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được
đặc trưng mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt về trình độ
học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám quần chúng được gọi là nhân dân.
Có những khó khăn nhất định ngăn cản
không cho tầng lớp có học hiện nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã hội của
mình. Cơ sở tư tưởng của chế độ toàn trị cộng sản là sự sùng bái “con người
bình thường”. Sau hàng chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu
óc và đầu óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức là lớp trí thức -- đã
quen dần với định đề phản tự nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng tư duy
của mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để khẳng định vai trò
của mình trong xã hội.
Những thành quả sáng chói của nền
khoa học và văn hóa Nga thế kỉ XIX được tạo nên bởi những con người sinh ra
trên những nguyên tắc có nguồn gốc từ sự phát triển xã hội ba thế kỉ trước.
Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của
trí thức và tiêu diệt trên thực tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn từ sự
trì trệ trong vận động lịch sử của những thập kỉ gần đây.
Kết quả là chúng ta có một tầng lớp
có học nhưng không có khả năng thực hiện các thiên chức của nó.
Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ
có một chút ngoại lệ là các nhà trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự, vốn
được đào tạo như một khu vực tách rời khỏi xã hội. Sau năm 1991, chính bộ phận
này khi ra nước ngoài đã hòa nhập được với giới khoa học của các nước phương
Tây.
Muốn thay đổi được thực trạng nói
trên thì chính nhà nước phải có một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải
công nhận rằng trong xã hội Xô Viết đã hình thành một lớp kỹ giả ngu dốt – vô
năng. Đoạn tuyệt với họ rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không
thể lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi trường kinh doanh vốn đầy
tính chất mafia của Nga.
Tầng lớp tinh hoa trí thức như một
giai tầng xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ động
của nhà nước. Phải bắt đầu bằng sự phủ nhận rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo
sai thì sau đó mới có thể bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế,
đất nước trong trường hợp tốt nhất chỉ biến thành người cung cấp chuyên gia cho
các nước khác mà thôi.
Published on October 21, 2014 20:30
October 19, 2014
Ghi chép trong tuần ( 13-19/10/2014)
14-10
MỘT BÀI THƠ CHÍN ĐẸP
CỦA MỘT GIAI ĐOẠN VĂN HỌC PHỤC HƯNG
Nửa đầu tháng mười tôi ở Hà Nội. Thường hay nhớ lại một bài thơ của Tế Hanh mà nay đã quên cả tên:
Em lại về trong ngày hội lớn
Trong khi mùa lại đón thu sang
Thủy tinh trong suốt từng không khí
Rót mật bầy ong tải nắng vàng
Trời xanh êm soi nước xanh êm
Mây như lụa mỏng gió tơ mềm
Tiếng ai thầm gọi trong trăng sáng
Một ánh mong chờ gợn mắt em
--Anh lớn ơi hồi chưa Cách mạng
Mùa thu có đẹp thế này không?
-- Thu nay đẹp lắm ơi em nhỏ
Đời cũng như em má ửng hồng
Trong đời sống văn học Hà Nội 1945-75, giai đoạn 1958- 1964 là một giai đoạn có thể gọi là chín, thuần thục. Sau những bước trồi sụt từ 1957 về trước, nay đến lúc phục hưng. Phục hưng với nghĩa, về mức độ hoàn thiện, gợi cho người ta nhớ tới thời kỳ tiền chiến.
Về sau, mỗi khi cần nghĩ tới những điều tốt đẹp để động viên mình sống và viết, tôi thường nhớ lại những sáng tác hồi đó, cả thơ lẫn nhạc. Ví dụ bài hát như Bài ca hy vọng của Văn Ký. Ví dụ như bài thơ trên của Tế Hanh. Mỗi lần đọc lại, tôi cảm thấy như được sống trong một khung cảnh thanh sạch,cho phép mình một thứ mơ mộng phải chăng – tất cả cái ngây thơ hồi ấy sau bị chiến tranh tàn phá nên coi như mãi mãi phôi pha không bao giờ trở lại.
Tôi đã từng nói cái nhận xét về chất phục hưng của giai đoạn 58-64 theo nghĩa trên với Tế Hanh lúc ông còn khỏe. Là người đã sống những năm tháng huy hoàng của tiền chiến, Tế Hanh bảo là cũng thấy như tôi.
15-10
DANH NGÔN HIỆN ĐẠI
Từ điển danh ngôn thế giới do Lưu Văn Hy biên soạn bản của nhà Tổng hợp TP HCM 2006 có một ưu điểm, so với một số cuốn khác tôi đã đọc -- tác giả chọn được ra nhiều câu thú vị có liên quan đến đời sống chính trị hiện đại.
Một câu của nhà văn Mỹ Henry Brooks Adams (1838 – 1918)
Làm chính trị, trên thực tế, bất luận trong lĩnh vực nào, luôn luôn là việc tổ chức một cách có hệ thống lòng căm thù.(Tr 12)
Câu của tiểu thuyết gia Anh Elizabeth Gaskell (1810 -1865)
Nội dung cơ bản của loại chủ nghĩa ái quốc ấy là ghét bỏ mọi quốc gia khác (tr 129)
Câu sau đây liên quan tới Henry Reed nhà thơ Anh (1914-1986). Nghiên cứu về hồi ký của một viên tướng Mỹ thời kỳ nội chiến Nam Bắc, ông nhắc lại một câu của viên tướng đó:
Trong một cuộc nội chiến, một viên tướng cầm quân phải biết – bằng vào bản năng hơn là thực hành – phải biết chính xác khi nào ngả sang phe bên kia. (Tr 283)
Theo tôi hiểu ở đây người ta muốn nói, trong một cuộc nội chiến, không phải phe này hay phe kia chiến thắng mà hãy nghĩ và hành động sao để cả dân tộc chiến thắng, nghĩa là tránh được chiến tranh, vãn hồi hòa bình, ở đó người ta bàn bạc với nhau về vận mệnh Tổ quốc.
Lòng trung thành với quốc gia phải đặt cao hơn lòng trung thành với phe phái mà mỗi người là một thành viên.
Nhìn vào các cuốn từ điển danh ngôn, phần bàn về nội dung chính trị, tôi nhận thấy không có tác giả người Việt. Ở cuốn này cũng vậy. Nhưng rồi tôi tự hỏi, nếu mình biên soạn mình biết chọn ra câu danh ngôn nào của Việt Nam bây giờ. Không có! Người mình không có những nhà chính trị có tư tưởng mà khi phát biểu ra, thiên hạ phải chịu rằng những tư tưởng này cũng đúng với trường hợp xứ họ.
16-10
KHI DỐI TRÁ, CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN DẠNG
Ngoài việc viết báo, Trần Đĩnh còn là một dịch giả. Một trong những bản dịch tôi đã đọc của ông là cuốn Trương Nhung -- "Những con chim hồng hộc", nxb Phụ nữ, 2008
Đây là đoạn viết về Trương Nhung trong Wikipedia
Trương Nhung (Trung văn giản thể: 张戎; Trung văn phồn thể: 張戎; bính âm: Zhāng Róng; Wade–Giles: Chang Jung, Phát âm tiếng Trung: [tʂɑ́ŋ ɻʊ̌ŋ], tiếng Anh: Jung Chang, sinh 25 tháng 3, 1952) là một nhà văn quốc tịch Anh sinh tại Trung Quốc và hiện đang sống ở Luân Đôn. Bà nổi tiếng với cuốn truyện viết về gia đình mình
"Wild Swans" đã bán trên 10 triệu bản khắp thế giới nhưng bị cấm tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Cuốn tiểu sử Mao Trạch Đông dày 832 trang, "Mao: The Unknown Story", của bà viết cùng chồng là sử gia Anh Jon Halliday, đã được xuất bản tại Anh tháng 6 năm 2005.
Trương Nhung sinh ra tại Nghi Tân, Tứ Xuyên ngày 25 tháng 3 năm 1952. Cha mẹ bà là viên chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cha của bà là người đam mê văn chương. Từ khi còn nhỏ bà đã có tình yêu với việc đọc và viết, sáng tác thơ văn.
Là cán bộ Đảng, gia đình bà có cuộc sống tương đối tốt. Cha mẹ bà lao động cần cù và cha bà là một tuyên truyền viên có uy tín tại địa phương. Ông là "cán bộ cấp 10", có nghĩa rằng ông là một trong 20.000 cán bộ quan trọng bậc nhất của Trung Quốc. Đảng Cộng sản cấp cho gia đình bà một chỗ ở trong khu nhà có tường bao và được canh gác, một người giúp việc, một tài xế, cùng với một vú nuôi cho năm anh chị em của bà. Những đặc quyền này là phi thường tại Trung Quốc những năm 1950 còn rất nghèo khó.
Nhưng gia đình bà cũng đã tan nát vì cách mạng văn hóa, chỉ may mắn sống sót và có dịp làm ăn trở lại khi ra định cư ở nước ngoài
"Mao: The Unknown Story" từng được nhà báo Bùi Tín làm bản tóm tắt in nhiều kỳ trên mạng.
"Wild Swans" mà Trần Đĩnh dịch là "Những con chim hồng hộc", có khi còn được dịch là "Những con thiên nga dại".
Xin chép lại một đoạn Trương Nhung kể lại đời sống tinh thần của con người thời công xã nhân dân.
Mùa hè ấy, Trung quốc được gom lại thành những đơn vị mới, mỗi công xã có từ 2.000 đến 20.000 hộ. Một trong những nơi đi đầu của phong trào này là Tú Thủy ở tỉnh Hà Bắc và nó liền được Mao ca ngợi đánh bóng.
Để tỏ ra xứng đáng với sự quan tâm của Mao, đảng bộ địa phương tuyên bố sản lượng hạt cốc của họ tăng hơn trước mười lần.
Phần lớn dân chúng bị cuốn vào cái thế giới viển vông điên rồ này.
Nhiều người kể cả những nhà nông học và lãnh đạo cao cấp của Đảng nói họ đã chứng kiến các phép lạ này.
Những ai không ứng hợp kịp với các tuyên bố hoang đường của người khác thì bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình và tự phê bình là bảo thủ.
Dưới một nền độc tài như chế độ của Mao, nơi người ta giấu và chế biến thông tin, rất khó tìm thấy một người bình thường mà còn tin vào kinh nghiệm hay kiến thức của chính mình.
Lờ hiện thực đi rồi đơn giản đặt niềm tin vào Mao thì dễ sống. Ngừng lại để suy nghĩ hay ngờ vực thì có nghĩa là chuốc rắc rối vào người
Sau khi kể lại một cuộc đấu tố ngắn gọn trong thời kỳ này, tác giả bình luận tiếp:
Người dân đã học được cách bất chấp lý tính mà đi đóng kịch mần tuồng.
Ngôn ngữ của họ dần thoát ly hiện thực trách nhiệm và ý nghĩ thực của con người. Cả nước trượt vào lối nói nước đôi.
Người ta nói dối nói dá dẻo quẹo bởi vì chữ đã mất nghĩa và chẳng còn có ai coi lời người khác nói là nghiêm chỉnh nữa.
Sau đó bệnh dối trá lại được củng cố bởi quy chế quân ngũ hóa xã hội.
Khi cho tổ chức ra những công xã đầu tiên, Mao nói cái lợi chính của nó là giúp cho việc kiểm soát dân chúng dễ dàng, vì từ nay nông dân thôi sống riêng lẻ mà được đặt vào một hệ thống tổ chức chặt đến không ai cựa nổi.
Một cách quân ngũ hóa nữa là đặt ra các nhà ăn tập thể.
Trích từ "Những con chim hồng hộc"
bản dịch Trần Đĩnh,Tr203- 205
17/10
NHỮNG TAI HẠI DO KHÔNG NGHIÊN CỨU
VÀ GIẢNG DẠY NGHIÊM TÚC TIẾNG HÁN VIỆT
Trong buổi cà phê ở chỗ anh Dương Thụ thứ bảy 18-11 này, bọn tôi sẽ được nghe ông Hoàng Dũng nói về chủ đề:
"Ứng xử của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại"
Đọc lời dẫn thấy diễn giả viết:
Tiếng Hán Việt rất quan trọng, không chỉ vì tiếng Việt đã du nhập một số lượng lớn từ Hán Việt, mà còn vì chúng có vai trò đặc biệt, không thể thay thế, trong việc cấu tạo các thuật ngữ khoa học và các diễn ngôn quan phương. Tiếng Hán Việt hoạt động theo quy tắc nào? Đó có phải là biệt lệ so với các ngôn ngữ Sino-xenic (các ngôn ngữ có số lượng lớn từ vay mượn tiếng Hán như tiếng Nhật, tiếng Hàn) và rộng ra là sự vay mượn phổ quát xảy ra giữa các ngôn ngữ có quan hệ tiếp xúc hay không? Thái độ đúng đắn là đề cao khuynh hướng "giữ gìn sự trong sáng" (purism) hay tôn trọng hiện thực?
Đọc lời dẫn giải ấy, tôi hiểu đây là buổi nói về vai trò, về tầm hoạt động và ý nghĩa của tiếng Hán Việt.
Tôi đã viết ngay trong email cho người bạn trẻ Linh Thoại “tiếng Hán Việt quan trọng vì nó liên quan tới sự phát triển trí tuệ của cộng đồng và là phương tiện băt buộc để người Việt hội nhập với quốc tế. Điều đó đúng trong lịch sử lai càng đúng với xã hội hôm nay”
Trong lúc chuẩn bị để viết một bài kỹ lưỡng hơn, tôi tìm thấy đoạn ghi chép cũ ghi từ mấy năm trước:
Trong cuốn sách "Việt Nam và Pháp, bạn hay thù" tác giả Philippe Devillers, nxb Tổng hợp TPHCM , 2006 các trang 288-290 - có một đoạn kể lại những tính toán của người Pháp sau khi chiếm được các tỉnh miền Tây, cuối thế kỷ XIX , muốn xác định nền giáo dục ở các xứ bảo hộ để phục vụ cho nền cai trị của họ ra sao.
Lúc bấy giờ đô đốc Bonard còn phân vân không biết nên dạy cho người bản xứ là chữ Hán hay chữ Quốc ngữ. Nhưng các cha cố thì kiên quyết là dạy ngay chữ Quốc ngữ vì nó rất cần cho việc giảng đạo của họ mà lại học được nhanh.
Ở chỗ này, tôi thấy Bonard là một người rất sâu sắc. Ông ta bảo rằng đúng là học chữ Quốc ngữ thì nhanh biết chữ thật nhưng chỉ tạo ra những con vẹt; có điều do nhu cầu của việc bình định, ông ta vẫn đồng ý với việc dạy chữ Quốc ngữ.
Sau này, tôi có đọc được trong một cuốn sách của Nguyễn Văn Trung về chữ quốc ngữ, cuốn này vì in ra từ cuối 1974 đầu 1975 nên ít người biết. Ở đó Nguyễn Văn Trung có dẫn lại ý của một người Pháp nói rằng là từ sau khi việc dạy chữ Quốc ngữ được phổ biến thì mặt bằng đạo đức xã hội của các tỉnh miền Tây thời đó thấp hẳn xuống.
Cái lạ ở đây là sự xuất hiện của nhóm từ "mặt bằng đạo đức".
Như vậy, ngôn ngữ không phải là một công cụ vô can? Ngôn ngữ có liên quan tới sự định hình đời sống tinh thần và trình độ làm người của các dân tôc?
Hôm nay giở lại cuốn sách của Philippe Devillers, thấy ở tr 289 có chép lại những lời giảng giải của một người Pháp là Luro về sự khác nhau giữa việc học chữ Hán và việc học chữ quốc ngữ:
Biết đọc và biết viết, trong tiếng Trung Hoa, có nghĩa là đã để vài năm ở tuổi thanh niên của mình dừng lại trên những cuốn sách đạo lý, lịch sử, đã nghiên cứu và thấu hiểu các cuốn sách đó. Như vậy là đã nhận được cả sự học vấn và sự giáo dục(…). Còn với hệ thống của chúng ta [với tiếng quốc ngữ mà chúng ta dạy] đứa trẻ ra khỏi trường mà chẳng có chút kiến thức về đạo lý tức là chẳng được giáo dục gì cả.
Tôi rất thích cái ý tưởng này bởi lẽ, ngược với ý kiến nhiều người quá tự hào về chữ quốc ngữ và việc dạy chữ quốc ngữ từ 1945 tới nay, tôi thấy việc bỏ qua không dạy tiếng Hán Việt – dạy một cách khoa học, cẩn trọng nghiêm túc – đã là cản trở cho sự phát triển của xã hội VN, nhất là khi ta bước sang thời hậu chiến.
19/10
Một câu ghi được từ cuốn Người Nhật của Pronikov & Ladanov, Nxb Tổng hợp TP HCM, tr 264
Kẻ nào đã dám cắn vào tay người đã cho hắn ăn, kẻ đó tất sẽ liếm ngay đế giày kẻ vừa chà đạp hắn.
MỘT BÀI THƠ CHÍN ĐẸP
CỦA MỘT GIAI ĐOẠN VĂN HỌC PHỤC HƯNG
Nửa đầu tháng mười tôi ở Hà Nội. Thường hay nhớ lại một bài thơ của Tế Hanh mà nay đã quên cả tên:
Em lại về trong ngày hội lớn
Trong khi mùa lại đón thu sang
Thủy tinh trong suốt từng không khí
Rót mật bầy ong tải nắng vàng
Trời xanh êm soi nước xanh êm
Mây như lụa mỏng gió tơ mềm
Tiếng ai thầm gọi trong trăng sáng
Một ánh mong chờ gợn mắt em
--Anh lớn ơi hồi chưa Cách mạng
Mùa thu có đẹp thế này không?
-- Thu nay đẹp lắm ơi em nhỏ
Đời cũng như em má ửng hồng
Trong đời sống văn học Hà Nội 1945-75, giai đoạn 1958- 1964 là một giai đoạn có thể gọi là chín, thuần thục. Sau những bước trồi sụt từ 1957 về trước, nay đến lúc phục hưng. Phục hưng với nghĩa, về mức độ hoàn thiện, gợi cho người ta nhớ tới thời kỳ tiền chiến.
Về sau, mỗi khi cần nghĩ tới những điều tốt đẹp để động viên mình sống và viết, tôi thường nhớ lại những sáng tác hồi đó, cả thơ lẫn nhạc. Ví dụ bài hát như Bài ca hy vọng của Văn Ký. Ví dụ như bài thơ trên của Tế Hanh. Mỗi lần đọc lại, tôi cảm thấy như được sống trong một khung cảnh thanh sạch,cho phép mình một thứ mơ mộng phải chăng – tất cả cái ngây thơ hồi ấy sau bị chiến tranh tàn phá nên coi như mãi mãi phôi pha không bao giờ trở lại.
Tôi đã từng nói cái nhận xét về chất phục hưng của giai đoạn 58-64 theo nghĩa trên với Tế Hanh lúc ông còn khỏe. Là người đã sống những năm tháng huy hoàng của tiền chiến, Tế Hanh bảo là cũng thấy như tôi.
15-10
DANH NGÔN HIỆN ĐẠI
Từ điển danh ngôn thế giới do Lưu Văn Hy biên soạn bản của nhà Tổng hợp TP HCM 2006 có một ưu điểm, so với một số cuốn khác tôi đã đọc -- tác giả chọn được ra nhiều câu thú vị có liên quan đến đời sống chính trị hiện đại.
Một câu của nhà văn Mỹ Henry Brooks Adams (1838 – 1918)
Làm chính trị, trên thực tế, bất luận trong lĩnh vực nào, luôn luôn là việc tổ chức một cách có hệ thống lòng căm thù.(Tr 12)
Câu của tiểu thuyết gia Anh Elizabeth Gaskell (1810 -1865)
Nội dung cơ bản của loại chủ nghĩa ái quốc ấy là ghét bỏ mọi quốc gia khác (tr 129)
Câu sau đây liên quan tới Henry Reed nhà thơ Anh (1914-1986). Nghiên cứu về hồi ký của một viên tướng Mỹ thời kỳ nội chiến Nam Bắc, ông nhắc lại một câu của viên tướng đó:
Trong một cuộc nội chiến, một viên tướng cầm quân phải biết – bằng vào bản năng hơn là thực hành – phải biết chính xác khi nào ngả sang phe bên kia. (Tr 283)
Theo tôi hiểu ở đây người ta muốn nói, trong một cuộc nội chiến, không phải phe này hay phe kia chiến thắng mà hãy nghĩ và hành động sao để cả dân tộc chiến thắng, nghĩa là tránh được chiến tranh, vãn hồi hòa bình, ở đó người ta bàn bạc với nhau về vận mệnh Tổ quốc.
Lòng trung thành với quốc gia phải đặt cao hơn lòng trung thành với phe phái mà mỗi người là một thành viên.
Nhìn vào các cuốn từ điển danh ngôn, phần bàn về nội dung chính trị, tôi nhận thấy không có tác giả người Việt. Ở cuốn này cũng vậy. Nhưng rồi tôi tự hỏi, nếu mình biên soạn mình biết chọn ra câu danh ngôn nào của Việt Nam bây giờ. Không có! Người mình không có những nhà chính trị có tư tưởng mà khi phát biểu ra, thiên hạ phải chịu rằng những tư tưởng này cũng đúng với trường hợp xứ họ.
16-10
KHI DỐI TRÁ, CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN DẠNG
Ngoài việc viết báo, Trần Đĩnh còn là một dịch giả. Một trong những bản dịch tôi đã đọc của ông là cuốn Trương Nhung -- "Những con chim hồng hộc", nxb Phụ nữ, 2008
Đây là đoạn viết về Trương Nhung trong Wikipedia
Trương Nhung (Trung văn giản thể: 张戎; Trung văn phồn thể: 張戎; bính âm: Zhāng Róng; Wade–Giles: Chang Jung, Phát âm tiếng Trung: [tʂɑ́ŋ ɻʊ̌ŋ], tiếng Anh: Jung Chang, sinh 25 tháng 3, 1952) là một nhà văn quốc tịch Anh sinh tại Trung Quốc và hiện đang sống ở Luân Đôn. Bà nổi tiếng với cuốn truyện viết về gia đình mình
"Wild Swans" đã bán trên 10 triệu bản khắp thế giới nhưng bị cấm tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Cuốn tiểu sử Mao Trạch Đông dày 832 trang, "Mao: The Unknown Story", của bà viết cùng chồng là sử gia Anh Jon Halliday, đã được xuất bản tại Anh tháng 6 năm 2005.
Trương Nhung sinh ra tại Nghi Tân, Tứ Xuyên ngày 25 tháng 3 năm 1952. Cha mẹ bà là viên chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cha của bà là người đam mê văn chương. Từ khi còn nhỏ bà đã có tình yêu với việc đọc và viết, sáng tác thơ văn.
Là cán bộ Đảng, gia đình bà có cuộc sống tương đối tốt. Cha mẹ bà lao động cần cù và cha bà là một tuyên truyền viên có uy tín tại địa phương. Ông là "cán bộ cấp 10", có nghĩa rằng ông là một trong 20.000 cán bộ quan trọng bậc nhất của Trung Quốc. Đảng Cộng sản cấp cho gia đình bà một chỗ ở trong khu nhà có tường bao và được canh gác, một người giúp việc, một tài xế, cùng với một vú nuôi cho năm anh chị em của bà. Những đặc quyền này là phi thường tại Trung Quốc những năm 1950 còn rất nghèo khó.
Nhưng gia đình bà cũng đã tan nát vì cách mạng văn hóa, chỉ may mắn sống sót và có dịp làm ăn trở lại khi ra định cư ở nước ngoài
"Mao: The Unknown Story" từng được nhà báo Bùi Tín làm bản tóm tắt in nhiều kỳ trên mạng.
"Wild Swans" mà Trần Đĩnh dịch là "Những con chim hồng hộc", có khi còn được dịch là "Những con thiên nga dại".
Xin chép lại một đoạn Trương Nhung kể lại đời sống tinh thần của con người thời công xã nhân dân.
Mùa hè ấy, Trung quốc được gom lại thành những đơn vị mới, mỗi công xã có từ 2.000 đến 20.000 hộ. Một trong những nơi đi đầu của phong trào này là Tú Thủy ở tỉnh Hà Bắc và nó liền được Mao ca ngợi đánh bóng.
Để tỏ ra xứng đáng với sự quan tâm của Mao, đảng bộ địa phương tuyên bố sản lượng hạt cốc của họ tăng hơn trước mười lần.
Phần lớn dân chúng bị cuốn vào cái thế giới viển vông điên rồ này.
Nhiều người kể cả những nhà nông học và lãnh đạo cao cấp của Đảng nói họ đã chứng kiến các phép lạ này.
Những ai không ứng hợp kịp với các tuyên bố hoang đường của người khác thì bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình và tự phê bình là bảo thủ.
Dưới một nền độc tài như chế độ của Mao, nơi người ta giấu và chế biến thông tin, rất khó tìm thấy một người bình thường mà còn tin vào kinh nghiệm hay kiến thức của chính mình.
Lờ hiện thực đi rồi đơn giản đặt niềm tin vào Mao thì dễ sống. Ngừng lại để suy nghĩ hay ngờ vực thì có nghĩa là chuốc rắc rối vào người
Sau khi kể lại một cuộc đấu tố ngắn gọn trong thời kỳ này, tác giả bình luận tiếp:
Người dân đã học được cách bất chấp lý tính mà đi đóng kịch mần tuồng.
Ngôn ngữ của họ dần thoát ly hiện thực trách nhiệm và ý nghĩ thực của con người. Cả nước trượt vào lối nói nước đôi.
Người ta nói dối nói dá dẻo quẹo bởi vì chữ đã mất nghĩa và chẳng còn có ai coi lời người khác nói là nghiêm chỉnh nữa.
Sau đó bệnh dối trá lại được củng cố bởi quy chế quân ngũ hóa xã hội.
Khi cho tổ chức ra những công xã đầu tiên, Mao nói cái lợi chính của nó là giúp cho việc kiểm soát dân chúng dễ dàng, vì từ nay nông dân thôi sống riêng lẻ mà được đặt vào một hệ thống tổ chức chặt đến không ai cựa nổi.
Một cách quân ngũ hóa nữa là đặt ra các nhà ăn tập thể.
Trích từ "Những con chim hồng hộc"
bản dịch Trần Đĩnh,Tr203- 205
17/10
NHỮNG TAI HẠI DO KHÔNG NGHIÊN CỨU
VÀ GIẢNG DẠY NGHIÊM TÚC TIẾNG HÁN VIỆT
Trong buổi cà phê ở chỗ anh Dương Thụ thứ bảy 18-11 này, bọn tôi sẽ được nghe ông Hoàng Dũng nói về chủ đề:
"Ứng xử của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại"
Đọc lời dẫn thấy diễn giả viết:
Tiếng Hán Việt rất quan trọng, không chỉ vì tiếng Việt đã du nhập một số lượng lớn từ Hán Việt, mà còn vì chúng có vai trò đặc biệt, không thể thay thế, trong việc cấu tạo các thuật ngữ khoa học và các diễn ngôn quan phương. Tiếng Hán Việt hoạt động theo quy tắc nào? Đó có phải là biệt lệ so với các ngôn ngữ Sino-xenic (các ngôn ngữ có số lượng lớn từ vay mượn tiếng Hán như tiếng Nhật, tiếng Hàn) và rộng ra là sự vay mượn phổ quát xảy ra giữa các ngôn ngữ có quan hệ tiếp xúc hay không? Thái độ đúng đắn là đề cao khuynh hướng "giữ gìn sự trong sáng" (purism) hay tôn trọng hiện thực?
Đọc lời dẫn giải ấy, tôi hiểu đây là buổi nói về vai trò, về tầm hoạt động và ý nghĩa của tiếng Hán Việt.
Tôi đã viết ngay trong email cho người bạn trẻ Linh Thoại “tiếng Hán Việt quan trọng vì nó liên quan tới sự phát triển trí tuệ của cộng đồng và là phương tiện băt buộc để người Việt hội nhập với quốc tế. Điều đó đúng trong lịch sử lai càng đúng với xã hội hôm nay”
Trong lúc chuẩn bị để viết một bài kỹ lưỡng hơn, tôi tìm thấy đoạn ghi chép cũ ghi từ mấy năm trước:
Trong cuốn sách "Việt Nam và Pháp, bạn hay thù" tác giả Philippe Devillers, nxb Tổng hợp TPHCM , 2006 các trang 288-290 - có một đoạn kể lại những tính toán của người Pháp sau khi chiếm được các tỉnh miền Tây, cuối thế kỷ XIX , muốn xác định nền giáo dục ở các xứ bảo hộ để phục vụ cho nền cai trị của họ ra sao.
Lúc bấy giờ đô đốc Bonard còn phân vân không biết nên dạy cho người bản xứ là chữ Hán hay chữ Quốc ngữ. Nhưng các cha cố thì kiên quyết là dạy ngay chữ Quốc ngữ vì nó rất cần cho việc giảng đạo của họ mà lại học được nhanh.
Ở chỗ này, tôi thấy Bonard là một người rất sâu sắc. Ông ta bảo rằng đúng là học chữ Quốc ngữ thì nhanh biết chữ thật nhưng chỉ tạo ra những con vẹt; có điều do nhu cầu của việc bình định, ông ta vẫn đồng ý với việc dạy chữ Quốc ngữ.
Sau này, tôi có đọc được trong một cuốn sách của Nguyễn Văn Trung về chữ quốc ngữ, cuốn này vì in ra từ cuối 1974 đầu 1975 nên ít người biết. Ở đó Nguyễn Văn Trung có dẫn lại ý của một người Pháp nói rằng là từ sau khi việc dạy chữ Quốc ngữ được phổ biến thì mặt bằng đạo đức xã hội của các tỉnh miền Tây thời đó thấp hẳn xuống.
Cái lạ ở đây là sự xuất hiện của nhóm từ "mặt bằng đạo đức".
Như vậy, ngôn ngữ không phải là một công cụ vô can? Ngôn ngữ có liên quan tới sự định hình đời sống tinh thần và trình độ làm người của các dân tôc?
Hôm nay giở lại cuốn sách của Philippe Devillers, thấy ở tr 289 có chép lại những lời giảng giải của một người Pháp là Luro về sự khác nhau giữa việc học chữ Hán và việc học chữ quốc ngữ:
Biết đọc và biết viết, trong tiếng Trung Hoa, có nghĩa là đã để vài năm ở tuổi thanh niên của mình dừng lại trên những cuốn sách đạo lý, lịch sử, đã nghiên cứu và thấu hiểu các cuốn sách đó. Như vậy là đã nhận được cả sự học vấn và sự giáo dục(…). Còn với hệ thống của chúng ta [với tiếng quốc ngữ mà chúng ta dạy] đứa trẻ ra khỏi trường mà chẳng có chút kiến thức về đạo lý tức là chẳng được giáo dục gì cả.
Tôi rất thích cái ý tưởng này bởi lẽ, ngược với ý kiến nhiều người quá tự hào về chữ quốc ngữ và việc dạy chữ quốc ngữ từ 1945 tới nay, tôi thấy việc bỏ qua không dạy tiếng Hán Việt – dạy một cách khoa học, cẩn trọng nghiêm túc – đã là cản trở cho sự phát triển của xã hội VN, nhất là khi ta bước sang thời hậu chiến.
19/10
Một câu ghi được từ cuốn Người Nhật của Pronikov & Ladanov, Nxb Tổng hợp TP HCM, tr 264
Kẻ nào đã dám cắn vào tay người đã cho hắn ăn, kẻ đó tất sẽ liếm ngay đế giày kẻ vừa chà đạp hắn.
Published on October 19, 2014 21:31
October 12, 2014
Quản lý Hà Nội sau 10-1954 -- một cách hiểu về dân chủ quá dung tục
Trong các nhận xét của Nguyễn Huy Tưởng mà tôi đã nêu ở bài trước Những thay đổi đã đến với Hà Nội từ sau 1954:Tính nghiệp dư trong quản
lý, thì cái nhận xét
có liên quan đến nhân sự “con sen trở thành đại biểu khu phố”có lẽ là quan trọng
nhất. Nó đề cập tới nhân tố hàng đầu khiến cho Hà Nội từ một thành phố thanh lịch
văn minh trở thành một thành phố nham nhở nhếch nhác, một thành phố tầm thường và
đi đầu trong việc học đòi ăn chơi như chúng tôi đã nói.
Người ta
có thể bảo sự tức giận của Nguyễn Huy Tưởng là hoàn toàn có lý nếu đứng trên
bình diện cảm tính – nghĩa là một người có lương tri bình thường cũng dễ cảm thấy.
Nhưng điều
này cũng đúng nếu dùng đầu óc để suy đoán và truy tìm lại sách vở kim cổ để có
chỗ dựa.
Những cảnh báo đã có từ … triết học Hy lạp cổ đại
Hai chữ con sen mà Nguyễn Huy Tưởng đã dùng có
thể được hiểu là những người không có trình độ hiểu biết, những người mà ở Hà Nội
sau 1954 được gọi là dân nghèo thành thị, hoặc một chữ sang hơn, nhân dân lao động.
Trong ý tưởng của tác giả Sống mãi với Thủ đô, lớp người này mãi mãi chỉ là người cần được hướng
dẫn giáo dục lãnh đạo; nếu được sử dụng vào việc quản lý họ sẽ trở thành một thứ
nghiệp dư xoàng xĩnh.
Nhưng việc đề cao nhân dân lao động, đưa họ
vào hàng ngũ những người cầm quyền , thật ra lại là một nguyên tắc bao trùm của
xã hội hôm nay.
Ý chúng tôi
muốn nói tới thể chế dân chủ mà chúng ta tự hào.
Trong cái vẻ cụ thể của nội dung khái niệm chứ
không phải chữ nghĩa bề ngoài, nguyên tắc dân chủ ở ta bao gồm cả hai khía cạnh:
Một là tổ chức những cuộc bầu cứ phổ
thông đầu phiếu một cách hình thức.
Và hai là đưa những người thuộc về nhân dân
lao động vào bộ máy quản lý.
Tôi thuộc
vào thế hệ học sinh trung học ở Hà Nội sau 1954, nên cố nhiên không biết triết
lý Hy La là gì. Thỉnh thoảng có thấy nói lướt qua thì nghe như ở đó toàn bàn về
những điều trừu tượng duy tâm duy vật chả có gì thiết thực.
Lớn lên
đi làm báo làm xuất bản, cố nhiên không bao giờ có dịp quay về, và giờ đây, lại
càng không đủ trình độ để đọc vào nguyên bản.
Chỉ còn
có cách đọc qua trung gian.
May mà loại
sách này ở miền Nam trước kia không thiếu.
Điều thú
vị tôi phát hiện ra là mấy ông như Platon lại nói nhiều ý dính ngay đến điều
chúng ta đang quan tâm.
Trong cuốn
Câu chuyện triết học của Will Durant,
bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, in ra, tức tái bản, ở nxb Văn hóa thông tin 2008, ở các trang 29-30, người ta có thể đọc được
những lời dẫn giải sau:
Về sự tham gia của đám đông vào việc quản
lý xã hội
Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát
một số, trục xuất một số, và cho tất cả mọi người tự do bình đẳng.
Nhưng chính thể dân chủ tự phá hủy vì [ bề ngoài] quá dân chủ.
Họ -- đây muốn chỉ những người đề xuất chính thể dân chủ -- muốn rằng tất
cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia.
Sau khi bảo rằng mới xem qua thì việc
bầu cử phổ thông – tức là cho tất cả mọi người tham gia vào việc lựa chọn các
thành viên của bộ máy quyền lực --, là một lý tưởng quá ư tốt đẹp, W. Durant
cài ngay vào đấy cái ý của Platon cảnh báo rằng thực ra việc đó vô cùng nguy hiểm.
Vì dân chúng không được giáo dục để có thể
lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và tìm ra đường lối thích hợp nhất.
“Dân chúng không có kiến thức, họ
chỉ lặp lại những điều nhà cầm quyền nói với họ”.
Phát triển ý của Platon, Durant
cũng đi guốc vào bụng các nhà chính trị khi chỉ rõ cái chiến thuật xoàng xĩnh: muốn
ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch [hiểu theo nghĩa
rộng những tác phẩm văn nghệ] trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ
trích hoặc cổ võ, rồi trình bày trước
công chúng.
Thế là tha hồ dắt mũi họ.
….
Tổng kết về chuyện bầu bán, W.
Durant viết:
Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót; những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ,
tự gán cho mình cái nhãn hiệu bảo vệ dân chúng [nói lên tiếng nói dân chúng] thường
được mở ra cả cơ hội lớn để nắm quyền lực tối cao.
Chính Platon đã tỏ ra kinh ngạc về
sự điên rồ khi giao cho quần chúng [đang còn là đám đông những kẻ chưa trưởng thành] trọng
trách chọn người cầm giềng mối quốc gia.
Về
sự có mặt của một vài đại biểu đám đông trong bộ máy quyền lực
Đây mới là chỗ liên quan tới những con sen của Nguyễn Huy Tưởng.
Theo W. Durant, Platon phàn nàn rằng đối với một
việc nhỏ như việc đóng giày, may quần áo, người ta còn phải lựa chọn những người
thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực có tầm ảnh hưởng
rộng lớn, người ta có thể tin rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu [hậu quả
của việc được bảo kê hoặc giỏi tiếp thị trước công chúng] đều biết cách trị nước
an dân.
Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta không kiếm những thày thuốc đẹp trai hoặc
những thày thuốc dẻo mồm khoe khoang mà mời bằng được những y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và học tập.
Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy chúng ta không tìm tới những người khôn ngoan nhất đức hạnh nhất?
Rút lại, theo W.Durant, ý của Platon là:
Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì để cho con thuyền quốc gia lướt
trong vùng bão tố, miệng lưỡi bọn chính trị gia càng làm mặt nước nổi sóng và
có thể lật ngược cả hướng đi của con thuyền.
Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ rơi vào con đường độc
tài.
Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất
tài và bịp bợm ra khỏi bộ máy quyền lực.
Chọn lựa cho được những kẻ tài cao đức trọng.
Đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
Trở
lại với chuyện Hà Nội
Dưới dạng
đối thoại, chúng ta sẽ bàn tiếp về câu chuyện “những con sen trở thành đại biểu
khu phố“, ở khía cạnh sự có mặt của nhân dân lao động trong việc quản lý các
thành phố hiện đại.
--Nguyễn
Huy Tưởng chỉ nói về một hai trường hợp cá biệt. Anh đẩy lên quá đáng và đưa ra
những khái quát non.
-- Không
đúng. Sau 30-4, vừa vào Sài Gòn mấy ngày, Nguyễn Khải đã kể với tôi một chuyện đang bàn ở gia
đình ông. Bà chị họ của ông than phiền nhiều lần rằng giải phóng sao mà kỳ quá,
sao mấy ông mới vào lại đưa con bé giúp việc nhà bà ra làm tổ trưởng dân phố,
nó có biết gì đâu.…
-- Sau đó, họ đã đi học, đã có bằng cấp.
-- Đi học Bổ
túc công nông, năm lên ba lớp chứ gì? Rồi thời nay là lấy bằng tiến sĩ bằng
cách cho người đi học thuê chứ gì?
-- Thế tức là anh cho rằng nhân dân lao động không
thể tham gia vào việc quản lý thành phố? Cũng như Hà Nội thứ thiệt phải là người
đã sinh sống ở đây nhiều đời chứ không thể là dân các tỉnh đổ về?
-- Không đúng. Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Hà Nội
cũng biết rằng ngày trước 1945, Hà Nội luôn luôn được bổ sung bằng dân nhập cư.
Nhưng đó là những người ưu tú của các địa phương, những người thợ giỏi, những
người buôn bán giỏi, những học trò xuất sắc từng đỗ đạt có thứ hạng cao trong
các cuộc thi nghiêm chỉnh.
Thời xưa ấy,
cái loại người tay nghề loàng xoàng, những kẻ lười biếng và dốt nát không bao
giờ tìm được chỗ đứng ở Hà Nội.
Cũng
tương tự như vậy, cách tổ chức bộ máy quan lại của Trung Hoa với Việt Nam xưa
là sử dụng những cuộc thi để tuyển chọn nhân tài.
Xưa còn có lối cấm đoán không cho con nhà hạ
lưu đi thi.
Sau cái lệ
ấy đã bỏ.
Người ta
bình đẳng với nhau trước các kỳ thi, và khi đã qua khảo hạch, tức là người ta
đã trở thành kẻ trí thức, sống theo lễ nghĩa biết ăn biết ở. Người ta không còn
là dân “chân đất mắt toét” “ ba xoa hai đập”, giống như số đông những anh cốt
cán trong cải cách, lấy việc hận thù ghen ghét những người ưu tú, tố điêu và nịnh
bợ làm đường tiến thân.
Đấy là nói
chung về chỗ khác nhau giữa việc tuyển lựa quan chức thời nay và thời xưa, bao
gồm cả thời phong kiến lẫn thời Pháp thuộc.
Riêng với
quan chức Hà Nội, thì ngay từ thời xưa, người ta phải có hiểu biết thế nào là
đô thị, và người đô thị, vai trò của các thành thị trong sự phát triển kinh tế
và văn hóa của quốc gia xứ sở; người ta không thể lúc nào cũng giữ nguyên mọi
cách xử thế và các phong tục tập quán của các làng quê trì trệ, rồi lại còn tự
hào rằng cái làng tôi xưa nay vẫn thế, tôi phải giúp cho quê hương tôi mở mày mở
mặt với thiên hạ.
lý, thì cái nhận xét
có liên quan đến nhân sự “con sen trở thành đại biểu khu phố”có lẽ là quan trọng
nhất. Nó đề cập tới nhân tố hàng đầu khiến cho Hà Nội từ một thành phố thanh lịch
văn minh trở thành một thành phố nham nhở nhếch nhác, một thành phố tầm thường và
đi đầu trong việc học đòi ăn chơi như chúng tôi đã nói.
Người ta
có thể bảo sự tức giận của Nguyễn Huy Tưởng là hoàn toàn có lý nếu đứng trên
bình diện cảm tính – nghĩa là một người có lương tri bình thường cũng dễ cảm thấy.
Nhưng điều
này cũng đúng nếu dùng đầu óc để suy đoán và truy tìm lại sách vở kim cổ để có
chỗ dựa.
Những cảnh báo đã có từ … triết học Hy lạp cổ đại
Hai chữ con sen mà Nguyễn Huy Tưởng đã dùng có
thể được hiểu là những người không có trình độ hiểu biết, những người mà ở Hà Nội
sau 1954 được gọi là dân nghèo thành thị, hoặc một chữ sang hơn, nhân dân lao động.
Trong ý tưởng của tác giả Sống mãi với Thủ đô, lớp người này mãi mãi chỉ là người cần được hướng
dẫn giáo dục lãnh đạo; nếu được sử dụng vào việc quản lý họ sẽ trở thành một thứ
nghiệp dư xoàng xĩnh.
Nhưng việc đề cao nhân dân lao động, đưa họ
vào hàng ngũ những người cầm quyền , thật ra lại là một nguyên tắc bao trùm của
xã hội hôm nay.
Ý chúng tôi
muốn nói tới thể chế dân chủ mà chúng ta tự hào.
Trong cái vẻ cụ thể của nội dung khái niệm chứ
không phải chữ nghĩa bề ngoài, nguyên tắc dân chủ ở ta bao gồm cả hai khía cạnh:
Một là tổ chức những cuộc bầu cứ phổ
thông đầu phiếu một cách hình thức.
Và hai là đưa những người thuộc về nhân dân
lao động vào bộ máy quản lý.
Tôi thuộc
vào thế hệ học sinh trung học ở Hà Nội sau 1954, nên cố nhiên không biết triết
lý Hy La là gì. Thỉnh thoảng có thấy nói lướt qua thì nghe như ở đó toàn bàn về
những điều trừu tượng duy tâm duy vật chả có gì thiết thực.
Lớn lên
đi làm báo làm xuất bản, cố nhiên không bao giờ có dịp quay về, và giờ đây, lại
càng không đủ trình độ để đọc vào nguyên bản.
Chỉ còn
có cách đọc qua trung gian.
May mà loại
sách này ở miền Nam trước kia không thiếu.
Điều thú
vị tôi phát hiện ra là mấy ông như Platon lại nói nhiều ý dính ngay đến điều
chúng ta đang quan tâm.
Trong cuốn
Câu chuyện triết học của Will Durant,
bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, in ra, tức tái bản, ở nxb Văn hóa thông tin 2008, ở các trang 29-30, người ta có thể đọc được
những lời dẫn giải sau:
Về sự tham gia của đám đông vào việc quản
lý xã hội
Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát
một số, trục xuất một số, và cho tất cả mọi người tự do bình đẳng.
Nhưng chính thể dân chủ tự phá hủy vì [ bề ngoài] quá dân chủ.
Họ -- đây muốn chỉ những người đề xuất chính thể dân chủ -- muốn rằng tất
cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia.
Sau khi bảo rằng mới xem qua thì việc
bầu cử phổ thông – tức là cho tất cả mọi người tham gia vào việc lựa chọn các
thành viên của bộ máy quyền lực --, là một lý tưởng quá ư tốt đẹp, W. Durant
cài ngay vào đấy cái ý của Platon cảnh báo rằng thực ra việc đó vô cùng nguy hiểm.
Vì dân chúng không được giáo dục để có thể
lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và tìm ra đường lối thích hợp nhất.
“Dân chúng không có kiến thức, họ
chỉ lặp lại những điều nhà cầm quyền nói với họ”.
Phát triển ý của Platon, Durant
cũng đi guốc vào bụng các nhà chính trị khi chỉ rõ cái chiến thuật xoàng xĩnh: muốn
ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch [hiểu theo nghĩa
rộng những tác phẩm văn nghệ] trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ
trích hoặc cổ võ, rồi trình bày trước
công chúng.
Thế là tha hồ dắt mũi họ.
….
Tổng kết về chuyện bầu bán, W.
Durant viết:
Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót; những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ,
tự gán cho mình cái nhãn hiệu bảo vệ dân chúng [nói lên tiếng nói dân chúng] thường
được mở ra cả cơ hội lớn để nắm quyền lực tối cao.
Chính Platon đã tỏ ra kinh ngạc về
sự điên rồ khi giao cho quần chúng [đang còn là đám đông những kẻ chưa trưởng thành] trọng
trách chọn người cầm giềng mối quốc gia.
Về
sự có mặt của một vài đại biểu đám đông trong bộ máy quyền lực
Đây mới là chỗ liên quan tới những con sen của Nguyễn Huy Tưởng.
Theo W. Durant, Platon phàn nàn rằng đối với một
việc nhỏ như việc đóng giày, may quần áo, người ta còn phải lựa chọn những người
thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực có tầm ảnh hưởng
rộng lớn, người ta có thể tin rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu [hậu quả
của việc được bảo kê hoặc giỏi tiếp thị trước công chúng] đều biết cách trị nước
an dân.
Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta không kiếm những thày thuốc đẹp trai hoặc
những thày thuốc dẻo mồm khoe khoang mà mời bằng được những y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và học tập.
Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy chúng ta không tìm tới những người khôn ngoan nhất đức hạnh nhất?
Rút lại, theo W.Durant, ý của Platon là:
Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì để cho con thuyền quốc gia lướt
trong vùng bão tố, miệng lưỡi bọn chính trị gia càng làm mặt nước nổi sóng và
có thể lật ngược cả hướng đi của con thuyền.
Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ rơi vào con đường độc
tài.
Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất
tài và bịp bợm ra khỏi bộ máy quyền lực.
Chọn lựa cho được những kẻ tài cao đức trọng.
Đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
Trở
lại với chuyện Hà Nội
Dưới dạng
đối thoại, chúng ta sẽ bàn tiếp về câu chuyện “những con sen trở thành đại biểu
khu phố“, ở khía cạnh sự có mặt của nhân dân lao động trong việc quản lý các
thành phố hiện đại.
--Nguyễn
Huy Tưởng chỉ nói về một hai trường hợp cá biệt. Anh đẩy lên quá đáng và đưa ra
những khái quát non.
-- Không
đúng. Sau 30-4, vừa vào Sài Gòn mấy ngày, Nguyễn Khải đã kể với tôi một chuyện đang bàn ở gia
đình ông. Bà chị họ của ông than phiền nhiều lần rằng giải phóng sao mà kỳ quá,
sao mấy ông mới vào lại đưa con bé giúp việc nhà bà ra làm tổ trưởng dân phố,
nó có biết gì đâu.…
-- Sau đó, họ đã đi học, đã có bằng cấp.
-- Đi học Bổ
túc công nông, năm lên ba lớp chứ gì? Rồi thời nay là lấy bằng tiến sĩ bằng
cách cho người đi học thuê chứ gì?
-- Thế tức là anh cho rằng nhân dân lao động không
thể tham gia vào việc quản lý thành phố? Cũng như Hà Nội thứ thiệt phải là người
đã sinh sống ở đây nhiều đời chứ không thể là dân các tỉnh đổ về?
-- Không đúng. Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Hà Nội
cũng biết rằng ngày trước 1945, Hà Nội luôn luôn được bổ sung bằng dân nhập cư.
Nhưng đó là những người ưu tú của các địa phương, những người thợ giỏi, những
người buôn bán giỏi, những học trò xuất sắc từng đỗ đạt có thứ hạng cao trong
các cuộc thi nghiêm chỉnh.
Thời xưa ấy,
cái loại người tay nghề loàng xoàng, những kẻ lười biếng và dốt nát không bao
giờ tìm được chỗ đứng ở Hà Nội.
Cũng
tương tự như vậy, cách tổ chức bộ máy quan lại của Trung Hoa với Việt Nam xưa
là sử dụng những cuộc thi để tuyển chọn nhân tài.
Xưa còn có lối cấm đoán không cho con nhà hạ
lưu đi thi.
Sau cái lệ
ấy đã bỏ.
Người ta
bình đẳng với nhau trước các kỳ thi, và khi đã qua khảo hạch, tức là người ta
đã trở thành kẻ trí thức, sống theo lễ nghĩa biết ăn biết ở. Người ta không còn
là dân “chân đất mắt toét” “ ba xoa hai đập”, giống như số đông những anh cốt
cán trong cải cách, lấy việc hận thù ghen ghét những người ưu tú, tố điêu và nịnh
bợ làm đường tiến thân.
Đấy là nói
chung về chỗ khác nhau giữa việc tuyển lựa quan chức thời nay và thời xưa, bao
gồm cả thời phong kiến lẫn thời Pháp thuộc.
Riêng với
quan chức Hà Nội, thì ngay từ thời xưa, người ta phải có hiểu biết thế nào là
đô thị, và người đô thị, vai trò của các thành thị trong sự phát triển kinh tế
và văn hóa của quốc gia xứ sở; người ta không thể lúc nào cũng giữ nguyên mọi
cách xử thế và các phong tục tập quán của các làng quê trì trệ, rồi lại còn tự
hào rằng cái làng tôi xưa nay vẫn thế, tôi phải giúp cho quê hương tôi mở mày mở
mặt với thiên hạ.
Published on October 12, 2014 09:16
October 11, 2014
Những thay đổi đã đến với Hà Nội từ sau 1954: Tính nghiệp dư trong quản lý.
Sau Cải cách ruộng đất, nhiều
nông dân được chia quả thực, có khi là cả
một phần những cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng mật của địa chủ.
Nhưng nhiều người trong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những người chưa có của cải bao giờ, họ
không biết làm chủ.
Không những dốt nát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở,
mà có khi một số người này còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa
và đẩy vợ con vào cảnh nghèo khó như cũ.
Nếu sự phá sản nói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều chắc là những người mới phất lên này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng -- mà họ được chia --- một cách hiệu quả, như những
người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được những tài sản ấy.
Với chúng ta, những người chủ của
Hà Nội sau 10-10-54, cũng vậy.
Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ là con
em của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính
cũ của Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại quay về lãnh chức vụ cũ.
Thế nhưng, đó chỉ là xét về bề
ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là dân cũ Hà Nội, mà có còn chăng
nữa, họ đã bị nông dân hóa.
Còn với bác sĩ Trần Duy Hưng. Sự tồn tại của ông chỉ là trên danh
nghĩa, bởi toàn bộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh thần
chỉ đạo hoạt động của bộ máy đã hoàn toàn thay đổi, nếu không nói là lật ngược
lại.
Từ các ghi nhận của Ph. Papin và Nguyễn Huy Tưởng
Dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long,
nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của người nước ngoài đã được dịch ra tiếng
Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người ta lại hiểu về Hà Nội hơn tất cả các
sách vở mà các nhà nghiên cứu Việt Nam đã viết.
Lịch sử
Hà Nội của Philippe Papin là một trường hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống
Hà Nội sau 10-10-54, nhà nghiên cứu này viết:
Thành phố giờ đây được điều hành theo tư tưởng của những cán bộ lãnh đạo từ
chiến khu trở về.
Họ không được
người Hà Nội nể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái
vai quản lý của các quan chức này.
Họ vốn chỉ là những nông dân thô lỗ được thăng
quan tiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ nóng tính dốt nát song lại ưa sử
dụng những ngôn từ to tát, những khái niệm
mác xít chưa thuần thục.
(Philippe Papin Lịch sử Hà Nội Mạc Thu Hương
dịch từ tiếng Pháp, nhà xuất bản Mỹ thuật 2010, trang 293-294 )
Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà
văn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, sau 10-1954 lại trở về với tư cách chủ
nhân của cái thành phố thân yêu.
Ngay từ 1956 - 57, trong nhật ký của
mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô đã
ghi lại những hiện tượng báo trước một tình trạng băng hoại lâu dài. Đây
cũng là những bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên của
Ph.Papin.
--(21-6-1956) Mậu
dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối, hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu
các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt, có đến triệu viên. ( Nhật ký Nguyễn
Huy Tưởng
bản của nhà Thanh Niên 2006, ba tập, tập 3, Tr 106 )
-- (11-9-1956 ) Đại
biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đi vận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành
phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.
Tư sản làm tốt không dùng. Sợ đề cao tư sản (sđd Tr 138 )
--- (13-4-1957)
Cái láo xược của cơ quan Bưu điện Bờ Hồ. Chẳng coi trọng gì quần chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4 đề biển
Vì bận học nên nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ.
Và sáng hôm nay, khi khách đã đứng đầy ngoài cửa, bọn công nhân
viên vẫn ngồi thảo luận, mặc kệ khách. Một người thấy chướng
quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận (như
trên
tr
241).
Tính nghiệp dư thành xu thế kéo dài
Trong các bộ sử Việt nam của các tác giả
phương Tây viêt về Việt Nam tôi đọc được một nhận xét tổng quát về Nguyễn Ánh Gia Long thế
kỷ XIX: ông là người sinh ra để chiếm lại
đất nước, là người chiến thắng sau những cuộc nội chiến --, chứ không phải người
sinh ra để cai trị đất nước.
Gia Long là nhân vật lịch sử quan trọng bị
nền sử học chính thống ở miền Bắc sau 1945 bôi nhọ một cách thậm tệ, đến mức không thể xấu hơn.
Thế
nhưng qua cách miêu tả như trên, hóa ra --
trong
cái sứ mạng chủ yếu làm nên tính chính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa ông và
chúng ta hôm nay giống nhau như hai giọt nước.
Từ những quan sát của Nguyễn Huy Tưởng, tôi thử bình luận thêm về cách quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm
ấy.
--
Có của trong tay cũng không biết giữ. Trao cho những người chỉ quen
trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dăm miếng cau khô mấy lọ phẩm
hồng"( thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thành phố hiện đại.
--
Mang cách sống cách làm việc của cuộc chiến tranh nhân dân dầm dề chậm
chạp vào việc quản lý cuộc sống năng động trong hòa bình. Phá vỡ nhịp
điệu bình thường của một thành phố hiện đại.
--
Không quan niệm rằng quản lý là một công việc cần
phải học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi. Các loại
công việc liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp bị đặt vào
tay những người không có hiểu biết gì về xã hội.
Cần
nói thêm rằng cái chuyện nghiệp dư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành hành và sống
khá dai dẳng đến vậy bởi lẽ:
-- nó là cái tinh thần chi phối từ đào tạo con người, sử
dụng nhân tài, tổ chức guồng máy nói chung.
-- nó cũng là nguyên tắc có mặt trên tất cả
mọi phương diện đời sống, cả trong sản xuất, kinh doanh lẫn trong sáng tác văn
hóa nghệ thuật và các hoạt động tinh thần.
-- nó được áp dụng ở tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nội không được coi là ngoại lệ.
Sở dĩ một người như Nguyễn HuyTưởng không
chịu được vì nó xa lạ những nguyên tắc chi phối xã hội hiện đại mà ông tiếp nhận
được từ nền văn hóa phương Tây.
Nhưng rồi cũng như mọi người dân Hà Nội
khác ông phải chấp nhận.
Từ 1960 Nguyễn Huy Tưởng đã
qua đời, nhưng nếu sống thêm ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của những nguyên tắc
quản lý cổ lỗ, xa lạ với tinh thần hiện đại, khiến cho Hà Nội có nhiều nét trở
lại như các thành phố quê mùa thời trung đại.
Rõ nhất, nó đang có cái nhịp sống tận trong hồn cốt chẳng khác bao so với cái kinh thành Đông Đô hồi vua Lê chúa Trịnh
thế kỷ XVIII mà chúng ta biết được qua Hoàng
Lê nhất thống chí của các tác giả trong Ngô gia văn phái và Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
nông dân được chia quả thực, có khi là cả
một phần những cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng mật của địa chủ.
Nhưng nhiều người trong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những người chưa có của cải bao giờ, họ
không biết làm chủ.
Không những dốt nát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở,
mà có khi một số người này còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa
và đẩy vợ con vào cảnh nghèo khó như cũ.
Nếu sự phá sản nói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều chắc là những người mới phất lên này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng -- mà họ được chia --- một cách hiệu quả, như những
người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được những tài sản ấy.
Với chúng ta, những người chủ của
Hà Nội sau 10-10-54, cũng vậy.
Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ là con
em của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính
cũ của Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại quay về lãnh chức vụ cũ.
Thế nhưng, đó chỉ là xét về bề
ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là dân cũ Hà Nội, mà có còn chăng
nữa, họ đã bị nông dân hóa.
Còn với bác sĩ Trần Duy Hưng. Sự tồn tại của ông chỉ là trên danh
nghĩa, bởi toàn bộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh thần
chỉ đạo hoạt động của bộ máy đã hoàn toàn thay đổi, nếu không nói là lật ngược
lại.
Từ các ghi nhận của Ph. Papin và Nguyễn Huy Tưởng
Dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long,
nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của người nước ngoài đã được dịch ra tiếng
Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người ta lại hiểu về Hà Nội hơn tất cả các
sách vở mà các nhà nghiên cứu Việt Nam đã viết.
Lịch sử
Hà Nội của Philippe Papin là một trường hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống
Hà Nội sau 10-10-54, nhà nghiên cứu này viết:
Thành phố giờ đây được điều hành theo tư tưởng của những cán bộ lãnh đạo từ
chiến khu trở về.
Họ không được
người Hà Nội nể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái
vai quản lý của các quan chức này.
Họ vốn chỉ là những nông dân thô lỗ được thăng
quan tiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ nóng tính dốt nát song lại ưa sử
dụng những ngôn từ to tát, những khái niệm
mác xít chưa thuần thục.
(Philippe Papin Lịch sử Hà Nội Mạc Thu Hương
dịch từ tiếng Pháp, nhà xuất bản Mỹ thuật 2010, trang 293-294 )
Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà
văn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, sau 10-1954 lại trở về với tư cách chủ
nhân của cái thành phố thân yêu.
Ngay từ 1956 - 57, trong nhật ký của
mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô đã
ghi lại những hiện tượng báo trước một tình trạng băng hoại lâu dài. Đây
cũng là những bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên của
Ph.Papin.
--(21-6-1956) Mậu
dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối, hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu
các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt, có đến triệu viên. ( Nhật ký Nguyễn
Huy Tưởng
bản của nhà Thanh Niên 2006, ba tập, tập 3, Tr 106 )
-- (11-9-1956 ) Đại
biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đi vận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành
phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.
Tư sản làm tốt không dùng. Sợ đề cao tư sản (sđd Tr 138 )
--- (13-4-1957)
Cái láo xược của cơ quan Bưu điện Bờ Hồ. Chẳng coi trọng gì quần chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4 đề biển
Vì bận học nên nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ.
Và sáng hôm nay, khi khách đã đứng đầy ngoài cửa, bọn công nhân
viên vẫn ngồi thảo luận, mặc kệ khách. Một người thấy chướng
quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận (như
trên
tr
241).
Tính nghiệp dư thành xu thế kéo dài
Trong các bộ sử Việt nam của các tác giả
phương Tây viêt về Việt Nam tôi đọc được một nhận xét tổng quát về Nguyễn Ánh Gia Long thế
kỷ XIX: ông là người sinh ra để chiếm lại
đất nước, là người chiến thắng sau những cuộc nội chiến --, chứ không phải người
sinh ra để cai trị đất nước.
Gia Long là nhân vật lịch sử quan trọng bị
nền sử học chính thống ở miền Bắc sau 1945 bôi nhọ một cách thậm tệ, đến mức không thể xấu hơn.
Thế
nhưng qua cách miêu tả như trên, hóa ra --
trong
cái sứ mạng chủ yếu làm nên tính chính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa ông và
chúng ta hôm nay giống nhau như hai giọt nước.
Từ những quan sát của Nguyễn Huy Tưởng, tôi thử bình luận thêm về cách quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm
ấy.
--
Có của trong tay cũng không biết giữ. Trao cho những người chỉ quen
trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dăm miếng cau khô mấy lọ phẩm
hồng"( thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thành phố hiện đại.
--
Mang cách sống cách làm việc của cuộc chiến tranh nhân dân dầm dề chậm
chạp vào việc quản lý cuộc sống năng động trong hòa bình. Phá vỡ nhịp
điệu bình thường của một thành phố hiện đại.
--
Không quan niệm rằng quản lý là một công việc cần
phải học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi. Các loại
công việc liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp bị đặt vào
tay những người không có hiểu biết gì về xã hội.
Cần
nói thêm rằng cái chuyện nghiệp dư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành hành và sống
khá dai dẳng đến vậy bởi lẽ:
-- nó là cái tinh thần chi phối từ đào tạo con người, sử
dụng nhân tài, tổ chức guồng máy nói chung.
-- nó cũng là nguyên tắc có mặt trên tất cả
mọi phương diện đời sống, cả trong sản xuất, kinh doanh lẫn trong sáng tác văn
hóa nghệ thuật và các hoạt động tinh thần.
-- nó được áp dụng ở tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nội không được coi là ngoại lệ.
Sở dĩ một người như Nguyễn HuyTưởng không
chịu được vì nó xa lạ những nguyên tắc chi phối xã hội hiện đại mà ông tiếp nhận
được từ nền văn hóa phương Tây.
Nhưng rồi cũng như mọi người dân Hà Nội
khác ông phải chấp nhận.
Từ 1960 Nguyễn Huy Tưởng đã
qua đời, nhưng nếu sống thêm ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của những nguyên tắc
quản lý cổ lỗ, xa lạ với tinh thần hiện đại, khiến cho Hà Nội có nhiều nét trở
lại như các thành phố quê mùa thời trung đại.
Rõ nhất, nó đang có cái nhịp sống tận trong hồn cốt chẳng khác bao so với cái kinh thành Đông Đô hồi vua Lê chúa Trịnh
thế kỷ XVIII mà chúng ta biết được qua Hoàng
Lê nhất thống chí của các tác giả trong Ngô gia văn phái và Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Published on October 11, 2014 20:01
October 9, 2014
Hà Nội và một số nhà văn các thế hệ trước 1986
Cái thể loại mà tôi "bịa" ra để gọi Một số nhà văn Việt Nam hôm nay với Hà Nội, làm năm 1986, là kể chuỵện đời sống văn học.
Ở đây, tôi có ý đi vào tìm hiểu ảnh
hưởng của Hà Nội đối với đời sống các nhà văn Việt Nam mà tôi đọc nhiều và với một số lớn, có quen biết riêng .
Qua các tài
liệu văn học sử cũng như qua các hồi ức, kỷ niệm của các đương sự, và chủ yếu là
qua chuyện trò trực tiếp với các đồng nghiệp đó, tôi muốn ghi lại tình cảm thiêng liêng của nhiều nhà văn với Hà Nội:
-- đây là nơi họ học
nghề, trưởng thành dần về nghề nghiệp.
-- đây cũng là nơi họ có
dịp tiếp xúc với các vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, từ đó xác định cho
mình hướng phát triển về mọi mặt.
Có những nhà văn chưa viết gì trực tiếp về Hà
Nội, nhưng vẫn có thể nói cùng với Hà Nội mà mình đã trưởng thành.
Bạn đọc qua đây có dịp biết thêm
một số nét tiểu sử cũng như tác phẩm của hơn 50 nhà văn thuộc các thế hệ khác
nhau,
từ Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Xuân Diệu,
qua Đoàn Giỏi , Trần Huyền Trân, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Chính Hữu, Hồ Phương, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long
tới Bùi Minh Quốc, Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, v.v…
Cuốn sách đã được đưa lại đầy đủ trên http://vuongtrinhan.wordpress.com/ Dưới đây là phần dẫn luận đặt ở đầu sách
I
Những ngày cuối tháng chạp 1972 bắt
đầu sang đầu xuân 1973, sau khi đánh thắng B52 của giặc Mỹ, Hà Nội lấy lại nhịp
sinh hoạt bình thường. Các thư viện vẫn mở cửa, các buổi nói chuyện được tiếp
tục. Và một trong những buổi sinh hoạt văn học kiểu đó là buổi nói chuyện của
nhà văn lão thành Nguyễn Tuân tại Thư viện Hà Nội.
Đặt cái mũ sắt ngay bên cạnh
ngọn đèn trên bàn diễn giả – chiếc mũ sắt đã theo ông suốt những ngày chống B52
và hình ảnh ông đội mũ sắt từng được ghi lại qua một bức ảnh trên báo Văn
Nghệ – Nguyễn Tuân nói tới rất nhiều xúc động đến với ông hôm đó, nhưng tôi
nhớ hơn cả là cái ý ông dùng vào đề cho bài nói chuyện của mình:
- Các nhà văn hãy viết thêm về Hà
Nội.
- Ở nước nào cũng vậy, thủ đô là một
đề tài rất quen thuộc trong văn học. Những nhà văn lớn của một nước ít nhiều
vẫn viết về “trái tim lớn” của nước đó.
- Và Hà Nội đáng để chúng ta viết,
còn nhiều điều để viết.
Mười mấy năm đã trôi qua, kể từ ngày
nghe Nguyễn Tuân nói chuyện. Giá đi vào đọc hết mọi sáng tác đã đăng trên báo
chí và in thành sách, tôi tưởng cái đề tài Hà Nội những năm qua cũng đáng được
dành riêng trong một công trình nghiên cứu.
Nếu điểm qua các sáng tác về thủ đô
đã in ra suốt từ xưa đến nay, chắc lại càng nhiều điều lý thú nữa.
Nhưng có một
khía cạnh chúng tôi cũng thấy rất tâm đắc, nhân nghe Nguyễn Tuân nói chuyện, đó
là mối liên hệ rằng rịt giữa nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ nước ta với thủ đô
Hà Nội.
Trong trường kỳ lịch sử cũng như hôm nay, đó là một mối liên hệ vững
vàng, ổn định.
Sở dĩ chúng ta có thể và còn cần
viết nhiều về Hà Nội, bởi trong cuộc đời chúng ta, Hà Nội vốn đóng một
vai trò lớn lao, đôi khi lớn lao hơn nhiều, so với chúng ta vẫn tưởng.
+
+ +
Mở đầu chương một cuốn sách viết về
Cao Bá Quát mới in ra 1982, nhà nghiên cứu Nguyễn Nghiệp viết: “Dưới triều
Nguyễn, Thăng Long không còn là đất kinh kỳ nữa. Cảnh vật Thăng Long cũng do đó
mà trải nhiều phen biến đổi…”
Tiếp đó là những đoạn mô tả khá kỹ
về thành quách, nhà cửa, sinh hoạt ở Thăng Long. Sở dĩ phải làm như vậy, vì
theo Nguyễn Nghiệp, trong giai đoạn đầu trong cuộc đời Cao, từ đó hình thành tính
cách Cao Bá Quát, “ông vẫn là một nhân vật của Thăng Long”, “lớn lên với Thăng
Long”.
Có thể dễ dàng đồng tình với nhận
định về cách làm như trên, bởi trong lịch sử văn học Việt Nam, trường hợp như
Cao Bá Quát rất phổ biến.
Vào cái thời mà Hà Nội còn là mảnh đất nhỏ hẹp, quê
hương của nhiều danh nhân văn hoá nước ta còn chính thức thuộc về các tỉnh lân
cận Bắc Ninh, Sơn Tây, Hà Đông, Hưng Yên… Hà Nội vẫn được nhắc nhở trong các
tiểu sử của họ, bởi đây là nơi họ học hành để khôn lớn nên người.
Xã hội phong
kiến Việt Nam phát triển thoi thóp suốt đêm trường trung cổ, không đủ tạo ra
được những thành thị lớn, từ đó hình thành nên giới trí thức chuyên nghiệp.
Nhưng trong cái đêm ròng đen tối đó, giữa bao nhiêu làng xóm bịt bùng, Hà Nội
vẫn luôn luôn là một thứ đốm sáng, ảnh hưởng toả rộng ra các vùng lân cận.
Từ
cuối đời Trần, ngôi trường bên sông Tô của Chu Văn An, đã là một thứ “Trung tâm
đào tạo trí thức”.
Về sau dưới triều Lê, hoặc sang đầu triều Nguyễn, bao nhiêu
nhà trường của ông đồ Cao Huy Giảng (thân sinh ra Cao Bá Quát) vẫn giữ được
nhịp sinh hoạt đều đặn, tiếng bình văn sang sảng của Bùi Huy Bích, Nguyễn Văn
Siêu… nổi tiếng một thời, khiến nhiều gia đình từ các làng xóm xa xôi cũng cố
gửi con cái đến học, và trong giới “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” đó, không
thiếu những người sau này ở lại với lịch sử văn học.
Các tài liệu viết về “Bà chúa
thơ nôm” đều có ghi rõ: tuy ông Hồ Phi Diễn, thân sinh ra Hồ Xuân Hương, quê ở
tận Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh, nhưng từ lâu, ông đã ra Bắc dạy học kiếm sống. Trước khi
sinh Hồ Xuân Hương, gia đình ông đồ Diễn sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh
Thuận, phía bắc thành phố, gần khu vực Hồ Tây.
Lúc Hồ Xuân Hương lớn lên, gia
đình lại dọn về thôn Tiên Thi, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, tức là mạn gần
Hồ Gươm.
Và như vậy, thì mặc dù có trôi nổi đi đến đâu nữa, Hồ Xuân Hương của
chúng ta cũng Hà Nội “từ đầu đến chân”, từ thời con gái đi học, bên cạnh nhiều
học trò con trai, đến lúc trở thành nhân vật được nhiều người biết tiếng, và
cảm thấy mọi vui buồn của cuộc đời có lẽ cũng chỉ là chuyện thường tình.
Êm ái chiều xuân tới khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Từ đầu thế kỷ XX, Hà Nội tiếp tục
đóng vai trò trung tâm của văn hoá, giáo dục cả nước, học sinh người các tỉnh
khác về học ở Hà Nội càng nhiều, không phải ngẫu nhiên những Tú Mỡ, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Ngọc Phan… ít nhiều đều có quen biết nhau từ thời đi học. Dù nguyên
quán nơi đâu, mỗi người trong họ đều coi Hà Nội là quê hương thứ hai của mình,
sống và viết với tư cách người Hà Nội.
Một vai trò khác mà thủ đô có được
trong cuộc đời của nhiều nhà văn: sau khi đã học hành đầy đủ ở quê nhà, họ lên
Hà Nội lập nghiệp; ba mươi sáu phố phường vừa là môi trường mở ra cho họ “kiếm
sống” , vừa là “những trường đại học” của họ, và chính ở đó, tài năng của ngòi
bút mỗi người có dịp nảy nở đầy đặn hơn cả.
“Góc thành Nam, lều một gian”, nơi
ấp ủ những suy nghĩ của Nguyễn Trãi trước khi vào Thanh Hoá với Lê Lợi là Đông
Quan.
Suốt thời Lê Mạt, Nguyễn Sơ, cha con anh em nhà họ Ngô Thì nhào về quê ít
lâu lại bổ ra Thăng Long, nên mới chứng kiến được nhiều cảnh, nhiều “pha” đáng
nhớ, trong thời ly loạn, như họ từng ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Trong cuộc đời toàn tâm toàn ý nghiên cứu y học để lo trị bệnh cứu người,
chuyến lên kinh chẩn bệnh cho chúa Trịnh không thể phai mờ trong ký ức Hải
Thượng Lãn Ông, khiến ông phải dành cho nó một thiên ký sự riêng.
Còn Nguyễn
Du? Chỉ với một bài Long thành cầm giả ca, đánh dấu hưng vong của thời
đại, ta đủ hiểu tình yêu của ông đối với Hà Nội sâu sắc biết là ngần nào. Trong
khói lửa chinh chiến liên miên, với Nguyễn Du, cũng như với nhiều nhà văn, nhà
thơ xưa, Hà Nội vừa là cái gì luôn đổi thay, vừa là cái gì đó còn mãi.
Nhân đây, có thể nói thêm rằng cái
ảnh hưởng mà thủ đô để lại trong đời văn của một người không chỉ do bằng thời
gian người đó ở thủ đô dài hay ngắn. Có khi, chỉ một hay vài chuyến đi ngắn
ngủi thôi cũng đã gây ra một “tình yêu sét đánh” – cố nhiên là tình yêu giữa
nhà văn với thủ đô – để rồi cả đời văn của người đó thay đổi.
Xưa đã như thế,
ngày nay cũng như thế.
Mà trong sự bừng tỉnh của con người, thì thời gian không
được đo tính bằng những thước đo thông thường: nó phải được đo bằng những thay
đổi to lớn để lại trong tâm trí người ta.
II
Trong lời bạt viết cho cuốn Sống
mãi với thủ đô (tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng) in ra 1961, nhà văn Nguyễn
Tuân từng đưa ra một nhận xét chung:
“Hình như hầu hết danh nhân, anh
hùng cổ kim nước ta đều là những con người Hà Nội. Các vị ấy có thể quê quán
gốc tích ở “ngũ tỉnh đàng trong, tứ tỉnh đàng ngoài!” nhưng cái đoạn trội nhất
của các bậc ấy vẫn là diễn ra trên mảnh đất thủ đô.
… Cũng là một điều đúng vậy, khi mọi
người bảo rằng thủ đô là cái nơi kết tinh mọi phong vị nhân tài của một dân tộc
đời này qua đời khác. Cho nên những con người Thủ đô bao giờ cũng bén nhậy sắc
cạnh hơn những người khác với tất cả những ưu điểm và nhược điểm của nó, với
tất cả cái trí cái dũng, cái tài, cái tật của nó”.
Ngay từ 1943, nhà văn Vũ Ngọc Phan
trong cuốn Chuyện Hà Nội (Nhà xuất bản Bách Việt) cũng có những
nhận xét tương tự. Ông nhắc tới một tình cảm của người đương thời là đi đâu
cũng nhớ Hà Nội.
“Nhiều ông từ mãi Cà Mâu, từ Sài Gòn, từ Quy Nhơn, từ Quảng
Nam hay từ Huế lù lù dẫn ra Hà Nội, người ở đôi ba tháng, kẻ ở vài ba năm, có
người chỉ vẻn vẹn dăm ba ngày, cũng mắc cái bệnh nhớ nhung Hà Nội, như những
người đã quen sống, quen chết ở Hà Nội rồi”.
Trong những lý do nảy sinh tình
cảm đó, có lý do chân chính sau đây: Hà Nội là nơi người ta có thể học hỏi dễ
dàng. “Những người ở Huế, Sài Gòn ra chơi đều thán phục Hà Nội về những cửa
hàng sách…. Người ta khen Hà Nội là một nơi mà người thiếu niên ham muốn quốc
văn dễ học, dễ khảo cứu, dễ tìm tòi…” Sau khi “nhại” ca dao cổ bằng hai câu lục
bát mới:
Mười năm bút mực giang hồ
Có về Hà Nội cơ đồ mới nên.
Vũ Ngọc Phan lấy giọng người trong
cuộc để nói về vai trò của Thủ đô với người cầm bút bấy giời: “ông muốn viết
hay, viết tài đến đâu thì viết, tha hồ ông vẽ rồng, vẽ phượng, tha hồ ông nhả
ngọc phun châu, nhưng nếu ông cứ yên chí ông là một nhà đại văn hào hay một nhà
đại ngôn luận, rồi ông viết những sách những báo chí lưu hành quanh quẩn trong
một vài tỉnh xa lắc mà Hà Nội không biết đến, tôi đố ông có thể trở nên một nhà
văn hay một nhà báo có tên tuổi trên văn đàn hay trong báo giới Việt Nam”.
Vậy là Hà Nội còn có vai trò trọng
tài, vai trò khẳng định các giá trị.
Một ví dụ: trước năm 1933, Thiếu
Sơn vốn người Bắc vào Sài Gòn làm công chức bưu điện, và có viết một số bài phê
bình trên báo Phụ nữ tân văn. Nhưng khi tập hợp các bài phê bình đó lại,
làm nên tập Phê bình và cảo luận thì Thiếu Sơn cảm thấy phải gửi ra Hà
Nội mới yên tâm. Một nhà xuất bản thủ đô đã in cuốn sách này của ông: Nhà Nam
Ký.
Một ví dụ khác: tập thơ đầu tay của Chế Lan Viên, tập Điêu tàn
cũng in ra ở Hà Nội, dù tác giả không sống hẳn ở ngoài này. Có thể nói, cho tới
trước 1945, vai trò của Hà Nội với tư cách một trung tâm văn học, hoàn toàn
được nhất trí, suốt từ Nam đến Bắc.
Từ 1946 đến 1954, đất nước trải qua
cuộc kháng chiến trường kỳ, đầu não chỉ huy kháng chiến ở Việt Bắc: đời sống
văn học cũng nảy nở từ đấy. Nhưng từ 1955 trở đi, thì ở miền Bắc, vai trò của
Hà Nội lại được khôi phục.
Chỉ có điều cách hiểu về văn học bây giờ đã khác.
Ngoài lớp nhà văn cũ, một lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng chiến, nhiều
người trong họ từ Việt Bắc theo đoàn quân chiến thắng tiến về Hà Nội, chứ không
phải từ quê nhà lên học hành lập nghiệp ở thủ đô như xưa.
Các tiêu chuẩn về văn
học được xác lập lại.
Nhà văn ngày nay không thể quanh quẩn viết về sinh hoạt
Hà Nội mà phải đến với đồng ruộng, công xưởng trên cả nước.
Nhưng Hà Nội vẫn là
nơi để các nhà văn học tập về nghề nghiệp, trau dồi bản lĩnh. Dư luận văn học ở
Hà Nội vẫn là dư luận thông minh và đáng tin cậy nhất. Vẫn có thể nói là giữa
đời văn của nhiều người và Hà Nội có một mối quan hệ tốt đẹp.
Tóm lại, nhìn vào thực tế trước cũng
như sau 1945, người ta đều có thể nhận ra một sự thực: Hà Nội có vai trò đáng
kể trong việc hình thành giới trí thức, từ đó, tạo ra bề rộng và bề sâu của
sinh hoạt văn hoá trong cả nước. Đây là “sân khấu chính” của mọi diễn biến văn
học, là nơi ủ ấp mọi thí nghiệm, nâng đỡ mọi tài năng, mà cũng là nơi nói lên
tiếng nói cuối cùng nhằm đánh giá chất lượng sáng tác. Đặt một đời văn trên
khung cảnh Hà Nội, người ta dễ dàng nhận ra những đường nét chủ yếu của đời văn
đó.
III
Ngoại trừ những bài nghiên cứu có
tính chất phê bình văn học hoặc văn học sử, đời sống văn học ở nước ta thường
ít được nhận diện bằng những trang sách miêu tả cụ thể.
Đến sinh hoạt văn học
của cả một thời, một giai đoạn cũng ít được phác ra đầy đủ, đừng nói hình tích
hành trạng của từng nhà văn. Tư liệu thiếu, vì không ai để công góp nhặt.
Ví dụ
như chung quanh mối liện hệ giữa các nhà văn và Hà Nội như nói ở trên, hiện
chưa có ai tập hợp cho được đầy đủ.
Chỗ thiếu hụt ấy, hoạ may có trí
tưởng tượng mới bù đắp nổi.
Tôi ước ao đến một lúc nào đó, có
một nhà văn để công làm một tập truyện ngắn chung quanh câu chuyện quan hệ giữa
các tác giả văn học và Hà Nội.
Một buổi sáng nào đó trong gió rét, Nam Cao ra
bến sông Hồng trở về quê, theo sau có thằng nhỏ nhà người quen gánh hộ mấy cái
ghế mây mà ông tả trong Trăng sáng.
Buổi tối trước khi Nguyễn Huy Tưởng
từ giã Hà Nội để lên chiến khu dự Quốc dân đại hội.
Hoặc lùi về trước sau những
chuyến đi xa. Hồ Xuân Hương trở lại Hồ Tây; Còn Cao Bá Quát cũng lần chần ở Hà Nội
vui với bạn bè vài ngày, trước khi lên nhậm chức giáo thụ Quốc Oai, để rồi tham
gia vào một cuộc khởi nghĩa.
Cái đêm mất ngủ của Nguyễn Du, sau khi gặp lại
“Người gẩy đàn đất Long Thành”;
một buổi chiều Tản Đà ngồi dịch Đường thi và
viết thuê câu đối, v.v…
Những tình tự ấy, mỗi cái đáng để viết thành một truyện
ngắn, tất cả xâu chuỗi lại với nhau, tạo nên những chân dung văn học thú vị.
Phần tôi, trong cuốn sách này, tôi
muốn ghi nhận một ít điều có thực trong số những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại
trong đời văn, một số nhà văn hôm nay.
Anh đến Hà Nội từ năm nào?
Những suy
nghĩ của anh về đời sống văn học Hà Nội xưa và nay?
Trong sinh hoạt nói chung
và sinh hoạt văn học Hà Nội nói riêng, anh muốn tiếp nhận điều gì là chủ yếu,
đâu là những điều thiếu đi, anh sẽ cảm thấy toàn bộ đời văn của mình thay đổi?
v.v…
Cuốn sách do vậy mang dáng dấp một thứ “câu chuyện nghề nghiệp”, chứ không
phải một công trình nghiên cứu văn học.
Song đó là ước muốn!
Còn khi thực hiện, ngay từ khâu sưu
tầm tài liệu, chúng tôi đã gặp phải những hạn chế không dễ gì vượt qua được.
Thoạt đầu, trong ý định chúng tôi dự
tính làm những cuộc phỏng vấn với hàng loạt nhà văn. Ai dè, một việc tưởng là
thật dễ dàng, lúc bắt tay vào làm mới thấy nảy sinh nhiều khó khăn. Không phải
nhà văn nào cũng thấy cách làm việc đó là cần thiết!
Một số khác không đồng
tình với tất cả các câu hỏi của chúng tôi, mà chỉ muốn đi vào một số khía cạnh
bản thân coi là quan trọng.
Có những nhà văn do tính chất của sáng tác có
liên quan nhiều đến Hà Nội, lẽ ra cần được nói kỹ, nhưng lại thường rất bận
rộn hoặc đang ở xa, thành thử chúng tôi không thể tiếp xúc trực tiếp, mà phải
thông qua các bài phát biểu, trả lời phỏng vấn trên báo chí, hoặc lời kể của
bạn bè, rồi tổng hợp tất cả để viết lại.
Hình thức cuốn sách do đó không thể
thuần nhất, trước khi đưa ra những cuộc phỏng vấn với tính cách một ít trường
hợp tiêu biểu, phần chính trong mỗi chương sách là những đoạn do người viết
sách đứng ra kể.
Nhân đây, cho phép chúng tôi có được
ít dòng xin lỗi: một số chi tiết đời riêng, hoặc những câu trò chuyện bâng quơ
khi bạn bè gặp nhau ít nhiều có được khai thác. Dụng ý của chúng tôi chỉ là
muốn giúp bạn đọc hiểu đời sống văn học trong vẻ sinh động của nó.
Mặc dù đã hết sức cố gắng tìm tòi
tài liệu và khai thác những phương tiện hỗ trợ khác, song công việc của chúng
tôi còn bị hạn chế về nhiều mặt. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay chúng ta có
khoảng gần bốn trăm cây bút đã là Hội viên Hội Nhà văn, ngoài ra còn rất nhiều
cây bút khác đang là Hội viên các hội văn nghệ các tỉnh và có nhiều người đang
viết rất khoẻ, biết đâu sẽ thành chủ lực trong đội quân sáng tác nay mai.
Mỗi
đời văn đó, có cách hình thành riêng, và nói hẹp ra, thì cũng tiếp nhận toàn
cảnh văn học theo những cách riêng, để làm nên bản lĩnh của mình.
Trong khi đó,
cuốn sách của chúng tôi chỉ giới hạn trong những câu chuyện liên quan đến vài
chục người và nhân đó nhắc thêm vài chục người khác.
Chắc chắn đó là một thiếu
sót, rất mong các đồng nghiệp và bạn đọc lượng thứ.
Published on October 09, 2014 19:11
October 7, 2014
Hà Nội mất & được
Đã
thành một thói quen, dân ta do đời sống quá buồn nên rất ngại nói chuyện buồn, và càng giả vui để tự lừa mình, thì cuộc sống lại càng buồn hơn.
Vào những dịp phải vui -- như dịp đầu năm của cái năm chuẩn bị kỷ niệm Thăng
Long ngàn tuổi, hoặc lúc nhìn lại Hà Nội từ 10-1954 tới nay --, mà kể những chuyện buồn của Hà Nội chắc một số
người e ngại.
Nhưng
không chỉ riêng Nam Cao quan tâm tới Chuyện
buồn giữa đêm vui ( tên ông đặt cho một truyện ngắn). Mà đó là tâm trạng phải đến với bất cứ ai khi muốn thẳng thắn đối diện với thời gian.
Hôm nay tôi muốn nhắc lại một ít chuyện
buồn đã đến với Thủ đô trong quá khứ để thêm bằng lòng với Hà Nội đã là một cái
gì không tách khỏi cuộc đời mình. Một tình yêu có nhiều trắc trở khó khăn,
nhiều khi, lại mới là tình yêu sâu sắc.
Trong lịch sử có không ít trang
bi đát
Các nhà lịch sử Thủ đô thời nay thường chỉ ghi
những ngày đẹp trời. Nhưng đọc một bộ sử giá trị bậc nhất của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, – theo tôi tầm vóc của nó đáng được so sánh cỡ như Truyện Kiều --, chúng ta đã có thể biết
tới nhiều thời điểm buồn của Thăng Long.
Thuở quân Nguyên xâm lược, từ năm 1285
đến năm 1288, ba lần giặc chiếm kinh thành, vua quan và dân chúng ba lần rút ra
các vùng ngoại vi rồi ba lần trở lại.
Cuối thời Trần, quân Chiêm Thành từ
phía nam đánh lên đốt phá.
Suốt chiều dài lịch sử, có thể đọc ra
mức độ mọi biến động trong lòng Hà Nội qua sự bám trụ của bộ máy quyền lực nơi
triều đình.
Hồ Quý Ly khi chuẩn bị chiếm ngôi, lập ra hẳn
Tây Kinh (để đối lập với Đông Kinh tức Đông Đô ) và cho rời xa giá về đó.
Sau này, khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi,
Thanh Hóa lại là căn cứ tạm thời của các thế lực phù Lê, và chiến công trở lại
Đông Đô được nhắc lại kèm với những cái tên như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm để rồi mở
đầu cho cả trăm năm nội chiến.
Nhân đây xin phép tạt ngang để nhắc
lại một nhận xét tổng quát. Cái mạch chính làm nên lịch sử Việt Nam chủ yếu
không phải là lịch sử chống ngoại xâm mà là lịch sử những cuộc nội chiến liên
miên đến mức có những lúc người ta đã tưởng đất nước này không sao thống nhất
nổi. Số phận Hà Nội là một chứng minh cho kết luận đó
Buồn nhất là suốt cả thế kỷ XIX, nhà
Nguyễn dời đô về Phú Xuân, biến Hà Nội thành nơi cố quận. Đó cũng là thời mà trên đất Hà thành, mọi tầng lớp lưu manh bao gồm
cả dân có cả một chút học hành như Ba Giai Tú Xuất mặc sức tung hoành.
Chỉ đến thế kỷ XX — do những tác động của người Pháp mà ngày nay lịch sử chính thống cứ cố tình lảng tránh và miêu tả một cách lệch lạc -- mới thấy hình thành dần Hà Nội như hôm nay chúng ta hay nghĩ và tự hào.
+ Hà Nội là nơi tụ họp tinh hoa bốn
phương như người viết Chiếu dời đô
năm 1010 ao ước.
+ Hà Nội đảm nhận vai trò của một đầu
mối, để trên con đường hiện đại hóa, người Việt tự làm mới mình theo những
chuẩn mực thế giới.
Không phải chỉ là vai trò của trái tim đất
nước như nhiều người vẫn nghĩ. Mà cùng với thời gian, từ ấy, Hà Nội còn vai trò
của một bộ óc.
Đằng
sau cái được ngày hôm nay đã có không ít cái mất. Cái mất chốc lát và cái được
lâu dài. Có vẻ như Hà Nội sở dĩ trở thành Hà Nội vì không gì có thể thay thế.
Một niềm tự hào rất khó khăn
Một khía cạnh khác của chuyện Hà Nội được mất tôi muốn nói hôm nay liên quan tới quan niệm
về người Hà Nội thời đương đại.
Bây giờ kể lại chắc nhiều bạn trẻ không tin,
nhưng quả thật là trong ký ức của lớp dân đã sinh sống ở Thủ đô hai ba đời, có một giai đoạn nay nghĩ
lại phải gọi là hơi… buồn cười, cố nhiên là cười ra nước mắt.
Đó là những năm 50-60 của thế kỷ trước.
Từ những bài học trên ghế nhà trường và trong dư luận xã hội, điều mà lớp trẻ
mới lớn lên những năm đó như chúng tôi tiếp nhận được là một cái gì hơi khó
nói, phảng phất có ý phủ nhận.
Trong khi toàn dân kháng chiến, thì những năm 1946-1954, Hà Nội trong vòng tay chiếm đóng của người Pháp.
Dưới con mắt của lớp người từ Việt Bắc mới về, những năm ấy Hà Nội đã đóng quá lâu cái
vai trò của một thành phố tiêu thụ, với bao nếp sống kẻ chợ hư hỏng. Thấp
thoáng trong lòng mỗi người dân Hà Nội cũ có một chút như là xấu hổ lại như là có lỗi.
"Hà Nội phải trở thành một thành phố của sản xuất". Đằng sau cái khẩu hiệu ấy là một mệnh lệnh, Hà Nội phải trở nên nham nhở nhếch nhác như mọi nơi khác.
Những người Hà Nội cũ không có quyền và do đó không dám sống theo cái nếp
thanh lịch mà xã hội hiện đại đã rèn rũa cho họ.
Đóng
vai trò chủ đạo của đời sống Thủ đô những năm ấy là lớp người mới nhập cư,
những công dân Hà Nội thế hệ thứ nhất. Cùng với họ, một thứ khí hậu nông thôn bao
trùm trong sinh hoạt ăn uống đi lại và trở thành một thứ chuẩn mực ngày hôm
nay vẫn còn để lại di lụy.
Thời ấy, khái niệm người Hà Nội
nếu không bị phá vỡ thì cũng bị nhôm nhoam tầm thường hóa đi nhiều.
Đấy là một cái mất rõ rệt, mặc dù nhiều
khi người ta cũng không biết mất gì nữa: những mày nét khía cạnh của người Hà
Nội lâu nay thực ra mới chỉ được cảm thấy chứ đâu đã được tổng kết .
Mơ về một Hà Nội sang trọng
Nhưng rồi cái được lại tới. Cùng với thời
gian, chính lớp người mới nhập cư những năm ấy lại thấy nhớ tới Hà Nội hôm qua
hơn cả.
Sau khi đã đi tới đủ mọi miền đất nước, nhất là được tiếp xúc với Sài gòn mà sự phát triển là ở trình độ cao hơn hẳn, người ta bắt đầu thấy phải trả
về cho Hà Nội cái tinh thần của một thành phố hiện đại -- tức cũng là cái Hà Nội được gạn lọc, Hà Nội của tinh hoa, trí thức, Hà
Nội quý phái sang trọng, rút ra từ kinh nghiệm sống của bao lớp người nhập cư
các thế kỷ trước.
Một
ý niệm mới về người Hà Nội lý tưởng bắt đầu hiện lên mờ ảo như một ước mơ,
nhưng lại không thể xa rời tâm trí. Nó có mặt trong mỗi nghĩ suy của người ta về tương lai sẽ đến.
Tôi
thầm ước ao có lúc nào đó rồi người ta phải viết về những thăng trầm của Hà Nội
như vậy -- thăng trầm như số phận của cái đẹp trong lịch sử.
Giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ
trước cũng là thời thịnh trị của nghệ thuật chèo ở Việt Nam. Hồi đó có một diễn viên rất
chín trong nghề là bà cả Tam.Theo như sự phân tích của các nhà nghiên cứu chèo
như Hà Văn Cầu, Trần Bảng thì trong diễn xuất của bà Cả có một cái gì lung linh
huyền ảo.
Có lần
bà từng phát biểu một nguyên tắc làm nghề mà cũng là một nguyên tắc chi phối cách nhìn đời :
” Trong cái
được có cái mất, trong cái vui có cái buồn, trong cái vô vọng có cái hy vọng.”
Nói theo chữ của triết học, đó là một khái
quát đầy chất biện chứng.
Câu nói thường trở lại trong tâm trí tôi
mỗi lần nghĩ về Hà Nội.
Sự sang trọng của Thủ đô mà tôi nói ở
trên đang được tìm lại, gây dựng lại.
Ít
ra người ta cũng thấy nó là cần thiết, phải được mơ tới nghĩ tới.
Còn Hà Nội có chiêu tuyết được không, đó lại
là một chuyện khác. Nhỡ chúng ta đã bị làm hỏng tới mức không bao giờ có thể tạo ra một hình ảnh tốt đẹp tương đương với chính mình trong qúa khứ thì sao?
Vốn là bài in báo Thời đại
số tết Canh Dần 2010
Bản 2014 có sửa chữa và bổ sung
thành một thói quen, dân ta do đời sống quá buồn nên rất ngại nói chuyện buồn, và càng giả vui để tự lừa mình, thì cuộc sống lại càng buồn hơn.
Vào những dịp phải vui -- như dịp đầu năm của cái năm chuẩn bị kỷ niệm Thăng
Long ngàn tuổi, hoặc lúc nhìn lại Hà Nội từ 10-1954 tới nay --, mà kể những chuyện buồn của Hà Nội chắc một số
người e ngại.
Nhưng
không chỉ riêng Nam Cao quan tâm tới Chuyện
buồn giữa đêm vui ( tên ông đặt cho một truyện ngắn). Mà đó là tâm trạng phải đến với bất cứ ai khi muốn thẳng thắn đối diện với thời gian.
Hôm nay tôi muốn nhắc lại một ít chuyện
buồn đã đến với Thủ đô trong quá khứ để thêm bằng lòng với Hà Nội đã là một cái
gì không tách khỏi cuộc đời mình. Một tình yêu có nhiều trắc trở khó khăn,
nhiều khi, lại mới là tình yêu sâu sắc.
Trong lịch sử có không ít trang
bi đát
Các nhà lịch sử Thủ đô thời nay thường chỉ ghi
những ngày đẹp trời. Nhưng đọc một bộ sử giá trị bậc nhất của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, – theo tôi tầm vóc của nó đáng được so sánh cỡ như Truyện Kiều --, chúng ta đã có thể biết
tới nhiều thời điểm buồn của Thăng Long.
Thuở quân Nguyên xâm lược, từ năm 1285
đến năm 1288, ba lần giặc chiếm kinh thành, vua quan và dân chúng ba lần rút ra
các vùng ngoại vi rồi ba lần trở lại.
Cuối thời Trần, quân Chiêm Thành từ
phía nam đánh lên đốt phá.
Suốt chiều dài lịch sử, có thể đọc ra
mức độ mọi biến động trong lòng Hà Nội qua sự bám trụ của bộ máy quyền lực nơi
triều đình.
Hồ Quý Ly khi chuẩn bị chiếm ngôi, lập ra hẳn
Tây Kinh (để đối lập với Đông Kinh tức Đông Đô ) và cho rời xa giá về đó.
Sau này, khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi,
Thanh Hóa lại là căn cứ tạm thời của các thế lực phù Lê, và chiến công trở lại
Đông Đô được nhắc lại kèm với những cái tên như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm để rồi mở
đầu cho cả trăm năm nội chiến.
Nhân đây xin phép tạt ngang để nhắc
lại một nhận xét tổng quát. Cái mạch chính làm nên lịch sử Việt Nam chủ yếu
không phải là lịch sử chống ngoại xâm mà là lịch sử những cuộc nội chiến liên
miên đến mức có những lúc người ta đã tưởng đất nước này không sao thống nhất
nổi. Số phận Hà Nội là một chứng minh cho kết luận đó
Buồn nhất là suốt cả thế kỷ XIX, nhà
Nguyễn dời đô về Phú Xuân, biến Hà Nội thành nơi cố quận. Đó cũng là thời mà trên đất Hà thành, mọi tầng lớp lưu manh bao gồm
cả dân có cả một chút học hành như Ba Giai Tú Xuất mặc sức tung hoành.
Chỉ đến thế kỷ XX — do những tác động của người Pháp mà ngày nay lịch sử chính thống cứ cố tình lảng tránh và miêu tả một cách lệch lạc -- mới thấy hình thành dần Hà Nội như hôm nay chúng ta hay nghĩ và tự hào.
+ Hà Nội là nơi tụ họp tinh hoa bốn
phương như người viết Chiếu dời đô
năm 1010 ao ước.
+ Hà Nội đảm nhận vai trò của một đầu
mối, để trên con đường hiện đại hóa, người Việt tự làm mới mình theo những
chuẩn mực thế giới.
Không phải chỉ là vai trò của trái tim đất
nước như nhiều người vẫn nghĩ. Mà cùng với thời gian, từ ấy, Hà Nội còn vai trò
của một bộ óc.
Đằng
sau cái được ngày hôm nay đã có không ít cái mất. Cái mất chốc lát và cái được
lâu dài. Có vẻ như Hà Nội sở dĩ trở thành Hà Nội vì không gì có thể thay thế.
Một niềm tự hào rất khó khăn
Một khía cạnh khác của chuyện Hà Nội được mất tôi muốn nói hôm nay liên quan tới quan niệm
về người Hà Nội thời đương đại.
Bây giờ kể lại chắc nhiều bạn trẻ không tin,
nhưng quả thật là trong ký ức của lớp dân đã sinh sống ở Thủ đô hai ba đời, có một giai đoạn nay nghĩ
lại phải gọi là hơi… buồn cười, cố nhiên là cười ra nước mắt.
Đó là những năm 50-60 của thế kỷ trước.
Từ những bài học trên ghế nhà trường và trong dư luận xã hội, điều mà lớp trẻ
mới lớn lên những năm đó như chúng tôi tiếp nhận được là một cái gì hơi khó
nói, phảng phất có ý phủ nhận.
Trong khi toàn dân kháng chiến, thì những năm 1946-1954, Hà Nội trong vòng tay chiếm đóng của người Pháp.
Dưới con mắt của lớp người từ Việt Bắc mới về, những năm ấy Hà Nội đã đóng quá lâu cái
vai trò của một thành phố tiêu thụ, với bao nếp sống kẻ chợ hư hỏng. Thấp
thoáng trong lòng mỗi người dân Hà Nội cũ có một chút như là xấu hổ lại như là có lỗi.
"Hà Nội phải trở thành một thành phố của sản xuất". Đằng sau cái khẩu hiệu ấy là một mệnh lệnh, Hà Nội phải trở nên nham nhở nhếch nhác như mọi nơi khác.
Những người Hà Nội cũ không có quyền và do đó không dám sống theo cái nếp
thanh lịch mà xã hội hiện đại đã rèn rũa cho họ.
Đóng
vai trò chủ đạo của đời sống Thủ đô những năm ấy là lớp người mới nhập cư,
những công dân Hà Nội thế hệ thứ nhất. Cùng với họ, một thứ khí hậu nông thôn bao
trùm trong sinh hoạt ăn uống đi lại và trở thành một thứ chuẩn mực ngày hôm
nay vẫn còn để lại di lụy.
Thời ấy, khái niệm người Hà Nội
nếu không bị phá vỡ thì cũng bị nhôm nhoam tầm thường hóa đi nhiều.
Đấy là một cái mất rõ rệt, mặc dù nhiều
khi người ta cũng không biết mất gì nữa: những mày nét khía cạnh của người Hà
Nội lâu nay thực ra mới chỉ được cảm thấy chứ đâu đã được tổng kết .
Mơ về một Hà Nội sang trọng
Nhưng rồi cái được lại tới. Cùng với thời
gian, chính lớp người mới nhập cư những năm ấy lại thấy nhớ tới Hà Nội hôm qua
hơn cả.
Sau khi đã đi tới đủ mọi miền đất nước, nhất là được tiếp xúc với Sài gòn mà sự phát triển là ở trình độ cao hơn hẳn, người ta bắt đầu thấy phải trả
về cho Hà Nội cái tinh thần của một thành phố hiện đại -- tức cũng là cái Hà Nội được gạn lọc, Hà Nội của tinh hoa, trí thức, Hà
Nội quý phái sang trọng, rút ra từ kinh nghiệm sống của bao lớp người nhập cư
các thế kỷ trước.
Một
ý niệm mới về người Hà Nội lý tưởng bắt đầu hiện lên mờ ảo như một ước mơ,
nhưng lại không thể xa rời tâm trí. Nó có mặt trong mỗi nghĩ suy của người ta về tương lai sẽ đến.
Tôi
thầm ước ao có lúc nào đó rồi người ta phải viết về những thăng trầm của Hà Nội
như vậy -- thăng trầm như số phận của cái đẹp trong lịch sử.
Giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ
trước cũng là thời thịnh trị của nghệ thuật chèo ở Việt Nam. Hồi đó có một diễn viên rất
chín trong nghề là bà cả Tam.Theo như sự phân tích của các nhà nghiên cứu chèo
như Hà Văn Cầu, Trần Bảng thì trong diễn xuất của bà Cả có một cái gì lung linh
huyền ảo.
Có lần
bà từng phát biểu một nguyên tắc làm nghề mà cũng là một nguyên tắc chi phối cách nhìn đời :
” Trong cái
được có cái mất, trong cái vui có cái buồn, trong cái vô vọng có cái hy vọng.”
Nói theo chữ của triết học, đó là một khái
quát đầy chất biện chứng.
Câu nói thường trở lại trong tâm trí tôi
mỗi lần nghĩ về Hà Nội.
Sự sang trọng của Thủ đô mà tôi nói ở
trên đang được tìm lại, gây dựng lại.
Ít
ra người ta cũng thấy nó là cần thiết, phải được mơ tới nghĩ tới.
Còn Hà Nội có chiêu tuyết được không, đó lại
là một chuyện khác. Nhỡ chúng ta đã bị làm hỏng tới mức không bao giờ có thể tạo ra một hình ảnh tốt đẹp tương đương với chính mình trong qúa khứ thì sao?
Vốn là bài in báo Thời đại
số tết Canh Dần 2010
Bản 2014 có sửa chữa và bổ sung
Published on October 07, 2014 21:21
October 4, 2014
Tô Hoài, người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình
Mới
đấy mà đã sắp được 100 ngày kể từ khi tác gỉả Dế mèn qua đời
Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh 1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người
viết văn gợi cho tôi nhiều liên tưởng.
Nhà thơ
là ai
Nhà thơ
là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ
là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ
là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ
là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ
là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy
nhà thơ
là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Lê Bá Thự dịch
Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011.
Nghĩa là nó được viết vào dịp tác giả chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.
Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi khơi rằng nhà văn này có một cách nhìn chinh thống
Năm 1992,
hồi ký Cát Bụi Chân Ai của ông
đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng
'vai vế'.
Trong hồi
ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là
nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là
chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.
Tôi cho đây là một lời đánh giá không chính
xác nếu không nói là không hiểu gì về các nhà văn Hà Nội sau 1945.
Tối sáng lẫn lộn…
Những cách tồn tại khó khăn...
Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe
nhoẹt…
Chúng tôi đã sống một cuộc đời như thế.
Ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?
Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về
những cái dở của Tô Hoài, xưa nay người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu
trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi tiếng
là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục, thì về
chính trị nhiều khi ông dám làm đủ thứ việc mà chính ông rất khinh bỉ.
Có
lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh
phổ biến đó (xem Chất lang chạ trong mỗi
chúng ta trên blog này ngày 18-2-2012
) Cái chất lang chạ này trong Tô Hoài cũng rất sẵn.
--
Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ
lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không phải chỉ luôn luôn có hai con người như
Nguyễn Khải, Chế Lan Viên. Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ đợi
thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông
không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông
không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa sợ.
Ông
cũng không manh động chọc ngoáy liều lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông
có sự tính toán hợp lý của mình. Thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ
ráo riết trong tư duy ông, khiến ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.
Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite với Tô Hoài là khá chính xác:
Là nhà văn
tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều thập kỷ được rèn giũa kỹ
năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc chỉnh huấn tư tưởng, nhưng
Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng
gió tự do tư tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông,
giúp ông sáng tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá
bằng những bài phê bình gay gắt.
Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên tiếp ba cuốn
truyện ký làm chấn động dư luận: Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba
người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về những năm tháng cay nghiệt
của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường lối vô sản, cải cách ruộng
đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản” trong hàng ngũ trí thức, nhà
văn.
Bút pháp
hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện thực giễu nhại cùng
song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một cảm hứng bột khởi,
bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng bằng. Có thể nói Tô
Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình và cho bạn đọc.
Trong nhiều lần trò chuyện với tôi, Tô Hoài
hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc nhiều nhà văn khác sẽ đi làm
nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường
trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào cũng trở thành nhà văn.
Hiếm
hoi lắm, lại có những lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi. Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ Hồ
Biểu Chánh mà ông đã ’”xông” tới găp cái lần vào Dầu Tiếng. Nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên
này bên kia. Ông cho người ta cảm tưởng là ông muốn tên tuổi mình được đặt bên
các vị đó.
Tôi biết là trong tâm
trí Tô Hoài, ý niệm nhà văn có một nghĩa riêng. Ở đó có phần chung nhưng cũng có phần xa lạ với
cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách hiểu của ông cha
ta trong quá khứ.
Vậy là cuộc đời ông bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn
mượn ý tứ trong bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra một bài thơ cảm đề hoặc đơn giản
là một bản phỏng dịch tùy tiện:
Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là kẻ tự buộc dây vào mình
Ông vốn dễ dãi
và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì đến cùng
Ông tham gia vào sự
lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự lừa dối
Bao phen ông
gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng thẳng
Ông đã ra đi, nhưng -- nếu có một vài
nhà văn thời này còn lại -- bao giờ người ta vẫn phải kể tên ông.
Đoạn tin trên báo TT&VH sau đây của nhà báo
Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi nó là cái tin ngắn hay nhất có
liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:
Trong
những năm cuối đời, viết văn vẫn là cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống
xung quanh.
Ở
tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình. Ở đó, Mỵ Châu không
chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô
Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm, gửi cho dì ghẻ.
Hỏi
vì sao viết vậy, [lão VTN
xin phép bỏ chữ lão] nhà văn chỉ cười.
Rồi,
ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ
cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần
chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo
đang lúng túng không biết chọn đường nào” (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha...
n20140707073753506.htm )
Nếu người nào muốn kiểm tra -- xem Tô Hoài định viết
về cách mạng như thế thật hay chỉ là
khoe khoang làm phách – xin mời hãy đọc lại tạp chí Tiên phong hai năm 1945-46. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư
cách phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực ra các ông đã sống cái cảm giác ngao du
lang bạt đầy chất yêng hùng.
Nhìn vào mấy cuốn sách cuối cùng của Tô Hoài:
--Cát
bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những
năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp người cầm bút cũ hồi
Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba người khác viết về Cải cách ruộng đất. Trong cả tháng nay, nhân
triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần
Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.
Bây
giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã hiểu con người nhất quán trong Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra, chắc
không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ông cảm được rất sớm
cái khoảng trống vừa được mở ra ngày hôm nay. Việc nắm bắt cơ hội ở ông đã
thành một thứ năng khiếu
Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc
thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần
xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi chỉ hùa theo mọi
người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả những người có tài
nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của đám người
đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa của họ đã
chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái xác.
Riêng
với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra đi, tôi
thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.
Published on October 04, 2014 20:33
Người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình
Mới
đấy mà đã sắp được 100 ngày kể từ khi Tô Hoài qua đời
Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh 1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người
viết văn gợi cho tôi nhiều liên tưởng.
Nhà thơ
là ai
Nhà thơ
là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ
là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ
là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ
là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ
là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy
nhà thơ
là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Lê Bá Thự dịch
Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011.
Nghĩa là nó được viết vào dịp tác giả chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.
Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi khơi rằng nhà văn này có một cách nhìn chinh thống
Năm 1992,
hồi ký Cát Bụi Chân Ai của ông
đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng
'vai vế'.
Trong hồi
ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là
nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là
chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.
Tôi cho đây là một lời đánh giá không chính
xác nếu không nói là không hiểu gì về các nhà văn Hà Nội sau 1945.
Tối sáng lẫn lộn…
Những cách tồn tại khó khăn...
Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe
nhoẹt…
Chúng tôi đã sống một cuộc đời như thế.
Ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?
Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về
những cái dở của Tô Hoài, xưa nay người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu
trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi tiếng
là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục, thì về
chính trị nhiều khi ông dám làm đủ thứ việc mà chính ông rất khinh bỉ.
Có
lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh
phổ biến đó (xem Chất lang chạ trong mỗi
chúng ta trên blog này ngày 18-2-2012
) Cái chất lang chạ này trong Tô Hoài cũng rất sẵn.
--
Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ
lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không phải chỉ luôn luôn có hai con người như
Nguyễn Khải, Chế Lan Viên. Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ đợi
thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông
không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông
không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa sợ.
Ông
cũng không manh động chọc ngoáy liều lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông
có sự tính toán hợp lý của mình. Thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ
ráo riết trong tư duy ông, khiến ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.
Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite với Tô Hoài là khá chính xác:
Là nhà văn
tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều thập kỷ được rèn giũa kỹ
năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc chỉnh huấn tư tưởng, nhưng
Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng
gió tự do tư tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông,
giúp ông sáng tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá
bằng những bài phê bình gay gắt.
Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên tiếp ba cuốn
truyện ký làm chấn động dư luận: Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba
người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về những năm tháng cay nghiệt
của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường lối vô sản, cải cách ruộng
đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản” trong hàng ngũ trí thức, nhà
văn.
Bút pháp
hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện thực giễu nhại cùng
song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một cảm hứng bột khởi,
bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng bằng. Có thể nói Tô
Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình và cho bạn đọc.
Trong nhiều lần trò chuyện với tôi, Tô Hoài
hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc nhiều nhà văn khác sẽ đi làm
nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường
trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào cũng trở thành nhà văn.
Hiếm
hoi lắm, lại có những lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi. Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ Hồ
Biểu Chánh mà ông đã ’”xông” tới găp cái lần vào Dầu Tiếng. Nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên
này bên kia. Ông cho người ta cảm tưởng là ông muốn tên tuổi mình được đặt bên
các vị đó.
Tôi biết là trong tâm
trí Tô Hoài, ý niệm nhà văn có một nghĩa riêng. Ở đó có phần chung nhưng cũng có phần xa lạ với
cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách hiểu của ông cha
ta trong quá khứ.
Vậy là cuộc đời ông bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn
mượn ý tứ trong bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra một bài thơ cảm đề hoặc đơn giản
là một bản phỏng dịch tùy tiện:
Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là kẻ tự buộc dây vào mình
Ông vốn dễ dãi
và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì đến cùng
Ông tham gia vào sự
lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự lừa dối
Bao phen ông
gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng thẳng
Ông đã ra đi, nhưng -- nếu có một vài
nhà văn thời này còn lại -- bao giờ người ta vẫn phải kể tên ông.
Đoạn tin trên báo TT&VH sau đây của nhà báo
Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi nó là cái tin ngắn hay nhất có
liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:
Trong
những năm cuối đời, viết văn vẫn là cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống
xung quanh.
Ở
tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình. Ở đó, Mỵ Châu không
chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô
Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm, gửi cho dì ghẻ.
Hỏi
vì sao viết vậy, [lão VTN
xin phép bỏ chữ lão] nhà văn chỉ cười.
Rồi,
ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ
cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần
chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo
đang lúng túng không biết chọn đường nào” (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha...
n20140707073753506.htm )
Nếu người nào muốn kiểm tra -- xem Tô Hoài định viết
về cách mạng như thế thật hay chỉ là
khoe khoang làm phách – xin mời hãy đọc lại tạp chí Tiên phong hai năm 1945-46. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư
cách phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực ra các ông đã sống cái cảm giác ngao du
lang bạt đầy chất yêng hùng.
Nhìn vào mấy cuốn sách cuối cùng của Tô Hoài:
--Cát
bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những
năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp người cầm bút cũ hồi
Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba người khác viết về Cải cách ruộng đất. Trong cả tháng nay, nhân
triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần
Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.
Bây
giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã hiểu con người nhất quán trong Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra, chắc
không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ông cảm được rất sớm
cái khoảng trống vừa được mở ra ngày hôm nay. Việc nắm bắt cơ hội ở ông đã
thành một thứ năng khiếu
Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc
thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần
xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi chỉ hùa theo mọi
người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả những người có tài
nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của đám người
đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa của họ đã
chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái xác.
Riêng
với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra đi, tôi
thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.
Published on October 04, 2014 20:33
September 27, 2014
Trở lại với các danh nhân lịch sử để hiểu các VIP hiện thời
Do
những cấm kỵ không được viết về các danh nhân hiện đại,
giới
sử học của ta cũng lảng tránh luôn
không
viết về các danh nhân trong quá khứ
Những
trang sử học không có con người --Sử Việt Nam được lưu
hành chính thức hiện nay có ba chỗ dở khiến nó không còn là sử nữa. Ba chỗ dở
đó là
1/ Chỉ viết về lịch sử tồn tại của dân tộc mà không
biết tới lịch sử phát triển. Quá chú trọng việc viết về chống ngoại
xâm mà không viết về các cuộc đấu tranh nội bộ. Quá chú trọng quân sự mà không
có sự nghiên cứu đầy đủ về kinh tế. Chỉ
viết về mặt sáng của lịch sử không viết về chỗ tối.
2/ Không có ngôn ngữ của sử học. Tức không có cảm
giác về thời gian trong quá khứ
3/Không có nhân vật lịch sử
Dưới đây chỉ xin nói về điểm thứ ba.
Nhiều lần đi lại trên
đường phố Sài Gòn, tôi gặp những cái tên phố rất lạ, một người như tôi tra vấn trí nhớ mãi cũng không thể biết
đó là ai.
Nhưng nghĩ kỹ, tự nhiên thấy vui, không trách mình nữa.
Đó là khi nhớ ra rằng cả với nhân vật đã quen, được coi là những nhân vật lớn
nhất trong lịch sử, -- và thường dùng để làm tên gọi những đại lộ, những con phố
chủ yếu của các thành phố lớn nhỏ -- , chúng ta cũng chả biết gì về họ cả.
May
mà những năm ngoài năm mươi tuổi, tự nhiên trong tôi nổi hứng là đi tìm lại các
bộ sử cổ nhất của nước mình. Ngoài Đại Việt sử ký toàn thư, đọc thêm Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký
tục biên, Lê Quý kỷ sự… Và đọc thêm sách một số nhà sử học nước ngoài viết về VN. Khi bắt đầu có ý niệm về các nhân vật
lịch sử được viết trong những bộ sử ấy,
tôi mới có điều kiện để nghĩ về các nhân vật lịch sử đương đại. Trên đường tìm
hiểu thêm cái thời mà mình đang sống, tôi cảm thấy có thêm sự hào hứng và những
kích thích để suy nghĩ.
Sự đa dạng của thế giới danh nhân --Nếu muốn kể ra một sử học hoàn hảo
tôi vẫn muốn gọi ra sử học Trung quốc.
Các nhà sử học xứ này rất thông thạo
về các danh nhân của họ. Sự ham mê viết về danh nhân kéo dài từ thời Tư Mã
Thiên đến ngày nay. Tới thế kỷ XX, loại sử này càng phổ biến, một số đã được
dịch ra tiếng Việt.
Trong số ví dụ dễ kiếm, tôi muốn
kể tới cuốn 100 danh nhân có ảnh
hưởng đến lịch sử Trung quốc (bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Văn
Dương 2002) . Sách này phân loại nhân vật lịch sử như sau.
Chương I, dành cho các nhân vật ngoại hạng, như Khổng Tử, Lão Tử, Tần Thủy
Hoàng, Mao Trạch Đông.
Cũng được coi là ngoại
hạng, có Từ Quang Khải, chỉ làm quan tới Thượng thư bộ Lễ, song lại chuyên về nghiên
cứu khoa học. Ở một nước có tinh thần dân tộc rất cao, đóng góp chính của ông
lại là thúc đẩy sự hấp thu nền văn hóa phương Tây.
Chương II, các vị đế vương các lãnh
tụ vĩ đại, trong đó xếp cả Lưu Bang, Hán Cao Tổ, Võ Tắc Thiên, sau đó là Tôn
Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch.
Chương III, các nhà tư tưởng v.v…
Chương IV , các nhà văn nhà thơ.
…
Đọc qua cả sách, tôi nhận ra một
điểm. Dù phân chia thế nào thì có một nguyên tắc chung chi phối bộ mặt các danh
nhân – tôi tin là không chỉ đúng Trung quốc với danh nhân Trung quốc mà còn
đúng với danh nhân VN. Họ là những nhân cách đa dạng phức tạp nhiều chiều
cạnh; ở họ mặt tối lẫn với mặt sáng,
cái độ người ở họ được cô kết hơn hẳn đám chúng sinh mặt trắng chúng ta .
Hãy viết cả về các bạo chúa , nhưng là viết với quan niệm
hiện đại--Tiếp tục câu chuyện về cuốn 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc.
So với các sách khác, sách này có
thêm có phần phụ lục về 10 đại hôn quân bạo chúa và bề tôi gian nịnh, bao gồm
vua Trụ, Tùy Dạng Đế, Từ Hy thái hậu, Tần Cối, Đổng Trác và Viên Thế Khải…
Cùng cách làm vậy, trong ngăn lịch
sử đương đại ở các hiệu sách Trung quốc, người ta đã bầy những cuốn viết về mấy
người tạm gọi là bạo chúa đương đại như Khang Sinh truyện, Giang
Thanh truyện…
Tôi thấy có lẽ phải đi sâu thế mới
gọi là làm sử.
Bởi viết lịch sử không chỉ có nghĩa
là tìm ra những tấm gương để người đời noi theo. Lịch sử còn hấp dẫn và cần
thiết cho người ta qua việc miêu tả những nhân vật đã có ảnh hưởng tới sự vận
động của xã hội dân tộc thời đại cả theo chiều thuận lẫn theo chiều nghịch.
Tôi ước ao có người nào đó khi viết
quá khứ nước Việt sẽ đi vào cuộc đời cả những bạo chúa và bề tôi gian nịnh. Qua
các nhân vật này tôi sẽ hiểu thêm về những mặt tối những khía cạnh tiêu cực,
những phần gọi là ma quỷ trong tính cách người Việt.
Một anh
bạn trẻ hàng xóm vừa tặng tôi cuốn Tào
Tháo-Thánh nhân đê tiện của Vương Hiểu Lỗi Trung quốc, công ty alphabooks xuất bản. Nhìn qua bìa 4,
thấy trích một câu của Mao Trạch Đông “Tôi thích thơ của Tào Tháo, khí phách
hùng vĩ, khẳng khái mà cô tịch, là nam tử hán đại trượng phu, văn chương xuất
chúng” đã thấy lạ. Lật lại bìa 1, đọc đầu đề cuốn sách càng nghĩ càng sốc. Đã thánh nhân sao lại còn đê tiện đươc? Rồi
nhớ lại cuốn Hậu hắc học của Lý
Tôn Ngô, trong đó khái quát gần như không có ngoại lệ rằng danh nhân Trung quốc đều hoặc là mặt dày hoặc là tim đen. Chẳng nhẽ các danh nhân Việt Nam thuộc một loại siêu phàm khác? Hay các nhà
sử học Việt Nam lâu nay chỉ cho chúng ta biết những hình nộm? Và quan niệm về
con người ở xã hội Việt Nam tới hôm nay nhìn chung là quá cổ lỗ?
những cấm kỵ không được viết về các danh nhân hiện đại,
giới
sử học của ta cũng lảng tránh luôn
không
viết về các danh nhân trong quá khứ
Những
trang sử học không có con người --Sử Việt Nam được lưu
hành chính thức hiện nay có ba chỗ dở khiến nó không còn là sử nữa. Ba chỗ dở
đó là
1/ Chỉ viết về lịch sử tồn tại của dân tộc mà không
biết tới lịch sử phát triển. Quá chú trọng việc viết về chống ngoại
xâm mà không viết về các cuộc đấu tranh nội bộ. Quá chú trọng quân sự mà không
có sự nghiên cứu đầy đủ về kinh tế. Chỉ
viết về mặt sáng của lịch sử không viết về chỗ tối.
2/ Không có ngôn ngữ của sử học. Tức không có cảm
giác về thời gian trong quá khứ
3/Không có nhân vật lịch sử
Dưới đây chỉ xin nói về điểm thứ ba.
Nhiều lần đi lại trên
đường phố Sài Gòn, tôi gặp những cái tên phố rất lạ, một người như tôi tra vấn trí nhớ mãi cũng không thể biết
đó là ai.
Nhưng nghĩ kỹ, tự nhiên thấy vui, không trách mình nữa.
Đó là khi nhớ ra rằng cả với nhân vật đã quen, được coi là những nhân vật lớn
nhất trong lịch sử, -- và thường dùng để làm tên gọi những đại lộ, những con phố
chủ yếu của các thành phố lớn nhỏ -- , chúng ta cũng chả biết gì về họ cả.
May
mà những năm ngoài năm mươi tuổi, tự nhiên trong tôi nổi hứng là đi tìm lại các
bộ sử cổ nhất của nước mình. Ngoài Đại Việt sử ký toàn thư, đọc thêm Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký
tục biên, Lê Quý kỷ sự… Và đọc thêm sách một số nhà sử học nước ngoài viết về VN. Khi bắt đầu có ý niệm về các nhân vật
lịch sử được viết trong những bộ sử ấy,
tôi mới có điều kiện để nghĩ về các nhân vật lịch sử đương đại. Trên đường tìm
hiểu thêm cái thời mà mình đang sống, tôi cảm thấy có thêm sự hào hứng và những
kích thích để suy nghĩ.
Sự đa dạng của thế giới danh nhân --Nếu muốn kể ra một sử học hoàn hảo
tôi vẫn muốn gọi ra sử học Trung quốc.
Các nhà sử học xứ này rất thông thạo
về các danh nhân của họ. Sự ham mê viết về danh nhân kéo dài từ thời Tư Mã
Thiên đến ngày nay. Tới thế kỷ XX, loại sử này càng phổ biến, một số đã được
dịch ra tiếng Việt.
Trong số ví dụ dễ kiếm, tôi muốn
kể tới cuốn 100 danh nhân có ảnh
hưởng đến lịch sử Trung quốc (bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Văn
Dương 2002) . Sách này phân loại nhân vật lịch sử như sau.
Chương I, dành cho các nhân vật ngoại hạng, như Khổng Tử, Lão Tử, Tần Thủy
Hoàng, Mao Trạch Đông.
Cũng được coi là ngoại
hạng, có Từ Quang Khải, chỉ làm quan tới Thượng thư bộ Lễ, song lại chuyên về nghiên
cứu khoa học. Ở một nước có tinh thần dân tộc rất cao, đóng góp chính của ông
lại là thúc đẩy sự hấp thu nền văn hóa phương Tây.
Chương II, các vị đế vương các lãnh
tụ vĩ đại, trong đó xếp cả Lưu Bang, Hán Cao Tổ, Võ Tắc Thiên, sau đó là Tôn
Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch.
Chương III, các nhà tư tưởng v.v…
Chương IV , các nhà văn nhà thơ.
…
Đọc qua cả sách, tôi nhận ra một
điểm. Dù phân chia thế nào thì có một nguyên tắc chung chi phối bộ mặt các danh
nhân – tôi tin là không chỉ đúng Trung quốc với danh nhân Trung quốc mà còn
đúng với danh nhân VN. Họ là những nhân cách đa dạng phức tạp nhiều chiều
cạnh; ở họ mặt tối lẫn với mặt sáng,
cái độ người ở họ được cô kết hơn hẳn đám chúng sinh mặt trắng chúng ta .
Hãy viết cả về các bạo chúa , nhưng là viết với quan niệm
hiện đại--Tiếp tục câu chuyện về cuốn 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc.
So với các sách khác, sách này có
thêm có phần phụ lục về 10 đại hôn quân bạo chúa và bề tôi gian nịnh, bao gồm
vua Trụ, Tùy Dạng Đế, Từ Hy thái hậu, Tần Cối, Đổng Trác và Viên Thế Khải…
Cùng cách làm vậy, trong ngăn lịch
sử đương đại ở các hiệu sách Trung quốc, người ta đã bầy những cuốn viết về mấy
người tạm gọi là bạo chúa đương đại như Khang Sinh truyện, Giang
Thanh truyện…
Tôi thấy có lẽ phải đi sâu thế mới
gọi là làm sử.
Bởi viết lịch sử không chỉ có nghĩa
là tìm ra những tấm gương để người đời noi theo. Lịch sử còn hấp dẫn và cần
thiết cho người ta qua việc miêu tả những nhân vật đã có ảnh hưởng tới sự vận
động của xã hội dân tộc thời đại cả theo chiều thuận lẫn theo chiều nghịch.
Tôi ước ao có người nào đó khi viết
quá khứ nước Việt sẽ đi vào cuộc đời cả những bạo chúa và bề tôi gian nịnh. Qua
các nhân vật này tôi sẽ hiểu thêm về những mặt tối những khía cạnh tiêu cực,
những phần gọi là ma quỷ trong tính cách người Việt.
Một anh
bạn trẻ hàng xóm vừa tặng tôi cuốn Tào
Tháo-Thánh nhân đê tiện của Vương Hiểu Lỗi Trung quốc, công ty alphabooks xuất bản. Nhìn qua bìa 4,
thấy trích một câu của Mao Trạch Đông “Tôi thích thơ của Tào Tháo, khí phách
hùng vĩ, khẳng khái mà cô tịch, là nam tử hán đại trượng phu, văn chương xuất
chúng” đã thấy lạ. Lật lại bìa 1, đọc đầu đề cuốn sách càng nghĩ càng sốc. Đã thánh nhân sao lại còn đê tiện đươc? Rồi
nhớ lại cuốn Hậu hắc học của Lý
Tôn Ngô, trong đó khái quát gần như không có ngoại lệ rằng danh nhân Trung quốc đều hoặc là mặt dày hoặc là tim đen. Chẳng nhẽ các danh nhân Việt Nam thuộc một loại siêu phàm khác? Hay các nhà
sử học Việt Nam lâu nay chỉ cho chúng ta biết những hình nộm? Và quan niệm về
con người ở xã hội Việt Nam tới hôm nay nhìn chung là quá cổ lỗ?
Published on September 27, 2014 21:32
September 24, 2014
"Đèn Cù" và việc viết về các nhân vật chính trị tầm cỡ quốc gia
Những
chân dung chính trị đầy ấn tượng
Tôi muốn dùng lại cái cụm từ hai trong một để
chỉ Đèn cù.
Đây là một cuốn tự truyện
của một trí thức. Người trí thức này làm cái nghề mà ở Việt Nam dễ đánh mất
mình nhất là nghề làm báo.
Nhưng anh là một nhà báo theo cái nghĩa mà ở các nước
hiện đại người ta vẫn hiểu. Nhờ làm báo anh biết rất nhiều và có nhiều điều về
chính mình khi về già muốn chia sẻ với bạn đọc. Và rộng ra, chia sẻ với thời đại.
Trong phần khắc họa lại khuôn mặt của nhiều nhân vật
cao cấp mà mình đã được gặp và có khi là cùng làm việc, cuốn sách đưa ra những
phác họa chân dung chính trị.
Nếu cắt riêng các đoạn viết về từng người, rồi gộp lại, và bổ sung như thế nào đó làm nên một chỉnh thể hợp lý, ta sẽ có một cuốn sách riêng, với giá trị riêng.
Về chất tự truyện của Đèn cù, tôi sẽ đề cập tới trong một dịp
khác. Hãy nói cái điểm thứ hai. Đây cũng là điểm làm nên sức thu hút của tác phẩm.
Ta hãy chú ý, sau khi học ở Trung quốc về, tác giả được phân công
chuyên đi theo Hồ Chí Minh để viết về ông cụ. Rồi về sau, do những vướng mắc về
lý lịch nên mới bị mất cái chân ai cũng thèm muốn ấy. Nhưng những cảm tình với các thần tượng của mình thời trẻ như Hồ Chí Minh, Trường Chinh... thì dù có phai lạt song không bao giờ mất đi trong tâm trí tác giả. Không thấy điều này tức là chưa hiểu Trần Đĩnh.
Ở các nước trên thế giới hiện nay chung quanh các
nhân vật quan trọng – các VIP - bao gồm từ các chính khách các nghệ sĩ lớn, các
cầu thủ bóng đá, luôn luôn có những người đi kèm để viết tiểu sử của họ.
Hình như ở ta, các nhân vật chính trị lúc đầu cũng định làm vậy. Nhưng về sau, cách mạng càng ngày càng gặp khó, các VIP càng
ngày càng sống trong bí mật không muốn ai biết về cuộc sống riêng của mình.
Rút cuộc
chính trị ở ta là một vùng cấm, nhân vật chính trị là một thứ người ở trên trời.
Mà cánh nhà báo nhà văn được phân công đưa tin vể các vị ấy thì chỉ viết ra những bài báo vô cảm.
Có thể ban đầu, tác giả Đèn cù,
cũng chỉ lo việc làm báo. Nhưng đây là một
đầu óc thường xuyên đọc báo chí sách vở chính trị quốc tế, lại có con mắt quan sát, đưa những chi tiết lên tầm khái quát theo cách của một nhà văn. Khi viết lại tự truyện, anh mang tất cả những kinh nghiệm đó vào tác phẩm một cách tự nhiên. Đèn cù gợi ra cái định đề rằng
giới nhà văn nhà báo phải coi việc viết
về các VIP là nghĩa vụ trước lịch sử.
Hai
ví dụ
Cầm Đèn cù
trên tay tôi nhớ ngay hai tác giả Nga và Trung Hoa.
Ông người Nga là Roy
Medvedev. Theo Encyclopedia Britanica,
phần đưa trên mạng, thì ông sinh
1925. Cha ông cũng từng bị bắt năm 1938, bị chết khi đi cải tạo vào năm
1941.
Tấn kịch này đã khiến R. Medvedev rất quan tâm tới hệ thống chính trị và
lịch sử chế độ xô viết.
Ông từng là nhà nghiên cứu giáo dục và lấy bằng phó
tiến sĩ ở Viện hàn lâm khoa học giáo dục Moskva 1958. Có thời gian làm Tổng
biên tập nhà xuất bản Giáo dục.
Vào Đảng năm 1956 — sau Đại hội 20 --, ông bị trục xuất khỏi
Đảng năm 1969. Ông được phương Tây coi như một nhà sử học độc lập.
Tác phẩm chính của ông gồm có Khrushchev: Những năm cầm quyền( 1976), Khrushchev
(1983), và Khrushchev:một cuốn tiểu
sử chính trị (1986) ...
Hồi 1986 ở Nga tôi đã thấy giới trí thức truyền
tay nhau cuốn tiểu sử Stalin do Medvedev viết.
Ngoài ra ông còn có một cuốn sách khác, mang tên Họ vây quanh Sta lin, dịch sang tiếng
Anh là All Stalin’s Men (1984) viết
về một chùm, những Malenkov, Molotov, Kalinin…Tôi từng đọc cuốn này khi in nhiều
kỳ trên tờ Iunost, và có cắt ra mang
từ Nga vể, sau có tặng lại cho anh Lê Tuấn Huy.
Ông người Tàu (lục địa)
thì là Diệp Vĩnh Liệt, tác giả của nhiều cuốn tiểu sử những Mao Trạch Đông,
Giang Thanh, Khang Sinh, Tưởng Giới Thạch...
Tạm kể một ví dụ một cuốn mang tên Các bí thư của Mao Trạch Đông,
bản tiếng Việt gần đây của Minh Khai book,
Nguyễn Thu Hiền biên dịch.
Đây là đoạn quảng cáo tôi sao chép lại từ trên mạng, dán lên đây để giúp hiểu cách làm việc của Diệp Vĩnh Liệt
Thực tế đã có rất nhiều thư ký làm việc bên Mao Trạch
Đông. Cuốn Các Bí Thư Của Mao
Trạch Đông viết lại những hồi
ức và những nghiên cứu về con người Mao Trạch Đông bằng một góc nhìn đặc thù,
góc nhìn nhận của chính các thư ký đối với Mao Trạch Đông.
Cuốn sách này viết về 6 vị thư ký: Hồ Kiều Mộc,
Trần Bá Đạt, Điền Gia Anh, Gianh Thanh và hai thư ký cơ yếu của Mao Trạch Đông
đó là Cao Trí và Lô Quang Lộc.
Tác giả cuốn sách này đã trực tiếp phỏng vấn Trần Bá Đạt, Cao Trí và Lô Quang Lộc,
đồng thời cũng phỏng vấn hai vị phu nhân: bà Cốc Vũ - vợ Hồ Kiều Mộc và bà Đổng
Biên - vợ Điền Gia Anh - cùng rất nhiều những người bạn quên biết với Giang
Thanh.
Ngoài ra, trong sách còn có thêm những ghi chép thực tế khi tác giả phỏng vấn
hai nhân vật khác. Một là, đội trưởng đội cảnh vệ Trung ương Trương Diêu Từ;
hai là Lô Địch - người đọc giảng thơ văn cho Mao Trạch Đông. Tất cả đều có giá
trị tham khảo quan trọng trong việc nghiên cứu và tìm hiểu về Mao Trạch Đông.
Một kho hồi ký đáng ra phải có.
Cả Medvedev lẫn
Diệp Vĩnh Liệt đều viết như là những nhà nghiên cứu, còn Trần Đĩnh – TĐ trong Đèn cù chứ không phải trong mấy tài liệu
theo đơn đặt hàng của tuyên huấn -- thì viết về các VIP như là một phần tự truyện,
như là hồi ký về các vị ấy.
Đọc Đèn cù tự
nhiên tôi ước ao giá kể công việc của Trần Đĩnh được
nhiều người khác cùng gánh vác.
Trong Đèn cù,
mỗi khi nói tới Mao Trạch Đông, tác giả thường láy lại một số chi tiết lấy từ
cuốn hồi ký của Lý, một bác sĩ chuyên lo chăm sóc sứ khỏe của Mao.
Chung quanh các lãnh tụ của VN, cũng có bao nhiêu người từng là bác sĩ là thư ký riêng,
là dân tay hòm chìa khóa luôn luôn phải lo phục vụ từ việc công tới việc tư. Nếu
những người này có cách nhìn riêng bản
lĩnh riêng nhớ lại người mình từng có dịp gần gũi miêu tả một cách chi tiết, từ hành động tư tưởng tới đời sống riêng tư của các vị VIP ấy, cả những phần hay lẫn những phần dở... thì chúng ta sẽ có bao nhiêu trang sách thú vị.
Rồi xã hội sẽ kiểm tra sàng lọc.
Những gì sai lạc sẽ bị dỡ bỏ. Những gì đúng đắn sẽ được phổ biến rộng rãi.
Ở trên, tôi đã nói tới Diệp Vĩnh Liệt. Sách của ông này được xuất bản chính thức ở Trung quốc, được nhà nước cho phép thì mới có dịp dịch sang Việt Nam.
Trước mắt ta hãy làm được như Diệp Vĩnh Liệt cũng đã tốt rồi.
Cố nhiên, trong các nước xã hội chủ nghĩa, đôi khi đây là một việc nguy hiểm.
Nguyễn Khải từng kể với tôi là hồi hòa đàm ở Yalta
sau Đại chiến thứ hai, sau khi họp kín với Churchill, Roosevelt, nhà
độc tài Stalin có nói với người phiên dịch của mình:
-- Mày biết nhiều quá,
tao muốn mượn luôn cái đầu của mày quá!
Người trong cuộc dễ chuốc lấy tai vạ khi viết. Nhưng công chúng thì hưởng lợi.
Một xã hội hiện đại là một xã hội trong đó người làm
chính trị dù ở cấp nào trên nguyên tắc cũng vẫn chỉ là một thứ công chức và cũng phải chịu sự quản lý của
pháp luật.
Ngược lại thì đó là xã hội trung cổ.
Nên có sách dẫn
Trở lại Đèn cù.
Trong đời làm văn làm sách của mình, tôi thấy dễ
chưa có tác phẩm nào được đọc nhiều như thế. Trong số những điều gọi là phản hồi của độc giả, có
chi tiết vui vui sau đây.
Sau khi Đèn cù được tung lên mạng theo dạng tháo
khoán, một bạn đọc đang ở hải ngoại tâm sự: Tôi
đã đọc bản điện tử, tôi vẫn tính chuyện phải mua thêm một bản giấy. Nghĩa
là bạn đọc ấy tính còn phải đọc lại. Nghe có tự hào rằng mình chịu chơi. Nhưng trong đó chẳng phải
không có một hai phần trăm nào đó tiếc tiền(?)
Vốn làm nghề xuất bản
tôi rất hiểu sự cạnh tranh của sách in trên giấy và các ebook.
Tôi muốn mách nước anh Đĩnh và nhà xuất bản thứ nhất tác giả nên bắt tay ngay vào việc
chỉnh lý những thiếu sót trong bản đầu.
Thứ
hai,
với tư cách một cuốn khảo cứu chính trị, và với dung lượng lớn các nhân vật được
nói tới trong tác phẩm như Đèn cù,
biên tập viên và nếu chính tác giả làm thì càng tốt nên làm một thứ sách dẫn – index - ở cuối sách. Ở cả hai
loại:
1/ index về chủ đề
2/ index về nhân vật
Ở nhiều nước văn minh, cả các cuốn sách khảo cứu bình thường cũng đã có kèm theo các index loại đó.
Published on September 24, 2014 20:08
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
