Vương Trí Nhàn's Blog, page 72

September 22, 2014

Bước rẽ ngoặt của Đổi mới văn nghệ -- hai năm 1988 -1989 (I I). Đại hội nhà văn cuối 1989.

Moskva đầu 1989

   

20/1

Ph, một nghiên cứu sinh ở Đôm 5 bảo
báo Văn nghệ sở dĩ bây giờ vẫn còn đọc được, đó là do sự mở ra của
Nguyên Ngọc. Nên việc cách chức ông ta vẫn đánh mạnh vào xu thế dân chủ.

Ph. vẫn không thích những người hăng
hái hôm qua, bây giờ lập tức cộng tác với báo Văn nghệ .



Ví dụ ngay lúc này Nguyễn Đăng Mạnh
đã cho in ngay bài về Xuân Diệu là không nên.

Cố nhiên, vẫn Ph. nói, báo Văn
nghệ
cũng còn đọc được. Có ông Duật làm báo, thì nó mềm mại hơn ông Phạm
Đình Ân hồi trước. Nhưng đúng là phần phê bình đang trở lại tình hình vớ vẩn,
cũ kỹ, bài ông Trần Bạch Đằng, ông Mai Liên chẳng hạn.




 Báo Văn nghệ chán đi
nhiều. Nhất là phần phê bình. Nhưng bài báo  của Lê Đình Kỵ Trần Thanh Đạm
không ra sao. Phạm Tiến Duật khống chế hậu trường.

 Vậy mà Ban phụ trách mới vẫn
có bài tự khen, tuyên bố báo vẫn chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc.




Nghe nói một tờ báo Sài Gòn điểm lại
tình hình năm vừa qua, kể rằng  đây là năm một số người sống, một số người
chết; và có một người dở sống dở chết, đó là Nguyên Ngọc. Nguyễn Khải,
hai năm qua (từ Cái thời lãng mạn), không viết được gì. Lại chưa bao giờ
bị chửi bới như lúc này.



         Cuộc sống ở trong dạng cũ.
Người nọ trị người kia. Cánh bảo thủ thắng cánh muốn thay đổi.

Nhiều người ra sức bảo vệ ngày hôm
qua, vì cho rằng văn học là chuyện riêng của họ, không ai được ngó tới.

Nguyễn Duy kêu lên: ối nước Nga ơi!

Nhân đây nghĩ về đổi mới ở Việt Nam
và ở Liên xô. Bên kia còn có những trí thức nổi lên, và người ta nghĩ đến các
tầng lớp trí thức như một chỗ dựa chắc chắn. Còn ở Việt Nam, chưa có báo chí,
và cũng chưa có trí thức.

22/2

 Có những nỗi buồn cao đẹp,
và những niềm vui đê tiện
-- Ph. nhắc lại một câu của Nguyễn Đình Thi.
Những người như Nguyễn Đình Thi và Chế Lan Viên, Anh Đức và Đào Vũ, Phan Cự Đệ
và Hà Xuân Trường, Bằng Việt và Trần Ninh Hồ, Phạm Tiến Duật và Đỗ Chu… đang có
những niềm vui của họ.  Loại niềm vui nào? Biết trông đợi vào cái gì bây
giờ? Trông đợi có thể hóa giải ở họ chăng, không được.




11/3

  Ông Linh răn đe báo chí,
nói là đang có việc lợi dụng báo chí để chống lại chủ nghĩa xã hội.




3/4

Bằng Việt ném ra một câu khinh bạc,
ỡm ờ “Bây giờ chỉ ông Ngọc muốn đại hội thôi chứ chả ai thiết cả”.

      
 Nguyễn Đình Thi khinh người lắm, mới lấy Bùi Bình Thi làm thư ký toà soạn
cho tờ Tác phẩm văn học.




15/4

Đọc một bài của Bùi Hiển thấy
 ông già lẩm cẩm quá. Ngay đến bài của Đỗ Văn Khang cũng khen. Trong bài,
nhiều câu sai ngữ pháp, nhiều chữ chính trị, và khi cần định nghĩa về nghịch
lý, thì định nghĩa cũng sai. Khi người ta phải viết những điều người ta không
tin thì sinh ra thế chăng.




1/5

 Trong Giấc mộng đêm xuân
của Mai Ngữ một khao khát chân thành như khao khát đổi mới bị mang ra xỉ vả,
bôi nhọ. Tôi nghĩ đến tâm lý của Mai Ngữ.  Có lẽ là vì lão tiếc đời. Đời
lão cũng khôn ngoan thế, mà vẫn chẳng nên cơm nên cháo gì, vẫn bị xã hội này
cầm tù và làm hỏng, cho nên bây giờ lão tiếc, lão cay cú, lão muốn cho thối mãi
đi, thối nữa đi, không ai ngóc đầu lên được.

Có thể có một lý do nữa là sau mấy
chục năm đi với cách mạng, ở Mai Ngữ cũng lây lan cái cách nhìn của cách mạng
hiện nay, vẫn có một chút tuyên huấn trong người cho nên, khi thấy cái đó là có
lợi cho mình, thì con người cán bộ ấy lại xuất hiện.

      Sau
hết, chắc chắn, ở Mai Ngữ, con người cơ hội vẫn còn, nên được dịp xổ ra. Đây
đúng là một dịp tái sinh, một dịp cựa quậy cuối cùng, và sự thật là con người
ta bản chất như thế nào thì cái lần cháy lên cuối cùng này hiện ra thành người
như vậy.

Tôi đã từng nói tới khuôn mặt không
hề thay đổi của Mai Ngữ.  Thời gian không làm cho khuôn mặt ấy già đi
nhưng quả thật, nó đã già đã hỏng từ đầu, không thể hỏng hơn.




18/5

 Định xin phép sứ quán về Hà
Nội dự Đại Hội nhà văn, rồi lại không xin nữa. Lúc đau quá, tôi nghĩ cái Hội
nhà văn ấy, bây giờ gợi ra hình ảnh một đống đổ nát, ở đó, có những thứ người
ta đáng còn dùng được mà đã vứt đi, và toàn bộ thì không ra hình thù gì nữa.

Đọc thư Nguyễn Khải gửi Ban chấp
hành Hội nhà văn càng thấy như vậy. Khải nhìn mọi vấn đề chung từ góc độ quyền
lợi riêng. Cái chất quan chức nó thấm vào tận xương tủy. Nũng nịu, điệu bộ đòi
người khác phải đặc cách kính trọng mình, khỏi để mình bị tai vạ.

Khải không phải người sáng suốt, đến
nay nhận định của Khải về Nhân văn giai phẩm vẫn là hàm hồ. Và nhiều sự
kiện lịch sử từ trước tới nay vẫn được Khải nhìn nhận dưới con mắt giai cấp. Có
lẽ không bao giờ Nguyễn Khải trở nên một nhà văn có con mắt nhân bản chăng?

... Hình như xã hội đã làm hỏng các
nhà văn, không chừa ai cả, và không một nhà văn nào hiểu cái cơ chế này đã hành
hạ họ như thế nào.




Có một số cây bút mới được kết nạp
vào Hội. Người được kết nạp cố nhiên là ủng hộ, cái sự ngăn chặn đổi mới mà họ
vu cho là đổ máu rồi. Khái niệm nhà văn trở nên rẻ rúng. Không bao giờ
 lại hình dung những người như mấy ông như X. Y .Z. cũng là nhà văn.




Dương Thu Hương đưa ra một nhận định
khái quát (trong một lá thư gửi một cậu Đặng Việt Bảo nào đó):

 - Đa số anh em ở nhà đều hoang
mang

- Mong rằng thế hệ sau sẽ khá hơn
thế hệ này.

Nghe tin Đại hội mỹ thuật mất một
ngày bầu chủ tịch đoàn. Chỉ bầu được có 4  ủy viên chấp hành. Quân mất
chức đâu chỉ vì cái câu chó cứ sủa đoàn người cứ tiến ( ý muốn nói giữ
nguyên cách điều khiển Hội như cũ ). Sau khi họp xong, Quân đi viện.




1/7

 Thanh Quế kể (Trần Đình Nam
thuật lại):

-- Ở Hà Nội bây giờ đến Hội Nhà văn,
thằng nào cũng sẵn sàng mời mình chén trà, chén cà phê, để nói xấu những thằng
khác.

-- Làm báo như Hoàng Minh Châu thực
khổ. Cái gì thằng Thỉnh nó cũng có ý kiến. Nó là Phái viên của Ban chấp hành cơ
mà. Ông Thi đã khéo chọn được người của mình. Ấy, nó chỉ đạo mọi thứ thế, nhưng
ký thì Hoàng Minh Châu phải ký, tức chịu trách nhiệm.

 Cả ông Thi, ông Chính Hữu phải
lo làm báo. Chỉ có tờ báo là chỗ tranh luận.  Duật, Hồ đang là 2 con ngựa
khỏe. Đâu Ng ĐThi định đưa Duật lên làm Phó tổng biên tập, nhưng Hồ phản đối.
Bên Tác phẩm văn học, Bùi Bình Thi cũng có thể lên phó tổng biên tập
nữa.




Cảm tưởng của tôi về xã hội, về văn học:
một cái gì  yếu ớt, nhạt nhẽo, mà bên ngoài dơ dáy, nhếch nhác.

Người nói lên tiếng nói cộng đồng
trong lúc này là ai? Là Nguyễn Huy Thiệp, một thứ con hoang, dị dạng. Nhưng còn
là chính lão Đỗ Văn Khang, bạ cái gì cũng dở giọng bàn góp lý sự cùn, nói lấy
được. Văn học là ông Khải muốn thay đổi mà lại muốn giữ nguyên các giá trị như
ngày hôm qua. Là ông Lê Lựu viết những quyển sách rất hay, bằng thứ văn rất dở,
như cho người ta ăn thứ cơm tám thơm đầy sạn, mà bát đũa thì nhơ nhớp.




12/8

Tôi đọc một vài bài tiểu luận về
tình hình văn học gần đây, và thử hình dung ra khuôn mặt một số người.

-  Vũ Tú Nam, một thứ chủ nghĩa
bảo thủ dịu dàng, chừng mực, nhưng bảo thủ tận trong xương tủy. Ta đã XHCN sẵn
rồi, chỉ cần thêm XHCN  chút nữa mà thôi. Ta kết hợp cả hôm qua và hôm
nay. Ta có nhân dân, có đất nước. Làm như ông, chỉ đẻ ra một nền văn chương
nhạt nhẽo.

- Ngô Văn Phú với bài Sự nghiệp
văn chương
trên báo Nhân Dân rõ ra vẻ một ông nông dân, luôn luôn tự
hào, ta chẳng đổi thay gì, xưa nay, ta vẫn là ta, chớ có suy nghĩ gì, làm là
được. Chúng tôi là những người lao động, tôi nắm chân lý. Một thứ hãnh tiến của
một đầu óc cấp huyện!

-  Nguyễn Kiên, có vẻ nhìn xa
hơn một chút và hiểu rằng , có những cái mới, nhưng cũng không đủ sức thay đổi.

- Ma Văn Kháng, trải đời rồi, hết hy
vọng rồi, chỉ còn tin vào chính mình. Và một câu thầm reo trong lòng rồi
hoàn cảnh nào, ta cũng sống được.





Hà Nội
Cuối 1989





16/10

 Chuẩn bị đại hội. Còn có việc
gì quan trọng hơn thế nữa , lúc này?

Lại Nguyên Ân không biết lấy ở đâu ra một danh
sách. Những người không nên đưa vào ban thư ký (Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm); những người không nên đưa vào ban chấp hành mới (Nguyễn Kiên, Giang Nam....); những người nên đưa vào, họ lại đều là Ban chấp hành cũ ( PCĐệ, Xuân
Trường.,..)




Trần Đăng Khoa, từ lúc ở Moskva, đã
kể về 3 loại người không được đưa vào Ban chấp hành: loại phủ nhận, loại công
nhận có 2 thứ bá quyền, loại gây mất đoàn kết

 Ai đã đưa ra những tin đồn
này? Có khi là cấp trên không biết chừng.




17/10

Thay đổi lớn nhất ở Hà Nội mà ở
Moskva tôi không biết —  đã có một Nghị quyết mới về Văn nghệ lật ngược
tình thế. Gọi là Nghị quyết 7.




Chiến tuyến  tập trung cả vào
báo Văn Nghệ.

Báo đăng bài tường thuật cuộc họp
mặt ở Sài Gòn trước đây ít ngày, nhằm tuyên truyền cho Đại Hội theo hướng BCH
hiện nay. Bàì viết đơn giản hơn nhiều so với thực tế. Nghe nói Triều Dương được
giao sứ mệnh vào tổ chức.

Nguyễn Duy là chi nhánh trưởng của
báo ở Sài Gòn, nhưng không được biết gì cả. Bọn Nguyễn Quang Sáng, Lý Văn Sâm,
Vũ Hạnh, Sơn Nam không dự (được giới thiệu là bận công tác không đến được).

Nghe Trần Hữu Tá viết thư ra cho Ng
Đ Mạnh nói rằng người ta, -- những người đứng đắn ở trong đó, dân Sài Gòn cũ, -
cũng thấy kinh hãi về các trí thức xã hội chủ nghĩa, M Liên, Tr Th Đạm v.v..

Lê Trí Viễn gọi đó là văn chương chỉ
điểm. “ Đội hành quyết” thì  gồm có Anh Đức, Phạm Tường Hạnh v.v..

Lúc đó Nguyễn Khải đang ở Sài Gòn.
Trong buổi họp đó, Khải dự nửa chừng rồi bỏ về.

Nhưng báo Văn nghệ số 40,
đăng một bài phát biểu của Nguyễn Khải, có mấy ý quan trọng:

--mọi tội là của lãnh đạo (Nh: ý nói
ông Trần Độ).

--Văn học không thể làm mất lòng tin
của con người. Đổi mới phải từ từ.

-- Nhà văn không ai bị thiệt trong
đổi mới, nên có ai bảo thủ đâu... Không nên chê các bậc đàn anh. Các anh ấy đã
rất vất vả trong việc xây dựng Hội. Có ai được hưởng quyền lợi gì lắm. Cho nên
đừng có tấn công họ.

Ai có thể tưởng tượng đến lúc này,
Nguyễn Khải còn nói như vậy.




Hôm nay thấy Nguyễn Khải đang đi xe
đạp trên đường Lý Nam Đế, dáng béo phị, khệnh khạng, tôi cúi mặt không dám chào
ông nữa. Có cảm tưởng là mất thật rồi, cái con người mà mình xưa nay kính
trọng, thậm chí yêu mến. Nay thì tình yêu đó đã hết, tôi chẳng còn gì để nói
với Nguyễn Khải nữa, ngoài lòng căm giận và sự chán ngán mà tôi phải giấu kín
không thể hiện.




 Võ Văn Trực sang nhà tôi chơi,
kể chuyện. Chán báo Văn Nghệ lắm. Bọn Duật thao túng tờ báo, số nào Duật
cũng có bài. Vì Duật lại phụ trách phần lý luận và thời sự, tức là điểm mũi
nhọn của báo (ở Moskva, Nguyễn Kiên kể rằng bây giờ, bị người ta ghét nhất, có
lẽ là Phạm Tiến Duật).

Một lần Duật làm một trò rất nhọ.
Họp công tác viên, để “quán triệt Nghị quyết 7”. Mời đâu 30, mà chỉ có 13 người
đi, và toà soạn phải huy động ngồi vào đấy cho đủ chỗ. Lần sau, mời 20, đi có
4, rồi xuống nhà thấy có 2 người nữa là 6. Chả mấy ai nói chuyện gì tử tế cả.

Nhưng cũng có người như Phong Lê,
rất căng. Các anh đừng có áp đặt chúng tôi về người nọ người kia...

 Nguyễn Đăng Mạnh bảo vào tai
tôi, Phong Lê còn đang múa máy đấy thôi. Nhưng trên cho người của nó đến, nó
bảo mấy câu là lại co vòi ngay.

 Có một bài viết giọng chỉ đạo
ký Tr P Lộc .Tôi hỏi Võ Văn Trực,  Tr PLộc là ai ? Trực bảo không biết. Cả
báo Văn nghệ chỉ có ba người biết là Hữu Thỉnh, Hoàng Minh Châu và Duật.
Và 3 người đó giữ được bí mật.

Trực kêu không hiểu sao ông Thi ông
ấy lại đi dùng những Duật, Bùi Bình Thi.




Ân nói về bài Khải (Văn nghệ
số 41), không hiểu sao, Khải bây giờ còn cần gì nữa, mà vẫn muốn lấy lòng bọn
Nguyễn Đình Thi. Tôi nghĩ Khải là vậy, phù thịnh, ai lên thì theo. Vì biết rằng
phe của Thi sẽ toàn thắng, nên chịu thua ngay từ bây giờ là xong.

Nguyễn Đăng  Mạnh nhận xét về
Thi.

-- Về học vấn, kiến thức, có thể chê
điều nọ điều kia. Chứ về ứng xử trong chính trị thì tuyệt. Với văn nghệ, đó là
một đao phủ thủ có bàn tay nhung.

Đại hội nhà báo, bầu ra một ban thư
ký mới, trong đó có Kim Hạnh. Cô Hà thư viện bảo, Hội nhà văn nghe tin này
chẳng thú vị gì. Đến cả ông Phạm Hổ cũng khó chịu.




22/10

 Hình như thực chất của Đại hội
là cấp trên thì muốn xiết văn nghệ lại và ở dưới thì  bên cạnh một bọn
hoan hô việc riết lại đó để kiếm chác, một bọn muốn tiếp tục giẫy ra như năm
ngoái năm kia.

Nhưng cấp trên là ai ?

Nghe dân Văn nghệ quân đội
 kể, trong cuộc họp về Nghị quyết 7, ông Nguyễn Nam Khánh chửi bới Nguyễn
Khắc Viện ghê gớm. Đó là con một viên thượng thư từng đàn áp Xô viết Nghệ
Tĩnh đã sang học bên Pháp, nay lại trở về, dạy không chúng ta về Xã hội chủ
nghĩa.


(Nói chung, các nhà lãnh đạo cỡ này,
giọng lưỡi có khác nhau mấy tý).




Nhưng ông Nam Khánh chẳng qua nói
lại lời ông Linh.

Lại nhớ cái lần ông Khải bảo chúng
ta có một ông Tổng bí thư tuyệt với, một Tổng bí thư không nói chuyện cao siêu
mà toàn bàn chuyện cụ thể.

Lại nhớ cái lần Ân viết ngay trong
thư riêng (tức là những ý nghĩ tự nguyện của Ân) Văn nghệ đang đi ngược
lại tinh thần Nghị quyết Đại hội VI...

Chúng ta chưa hiểu cấp trên, cái đó
một phần. Nhưng đáng sợ là cấp trên hay thay đổi.

Nguyễn Đăng Mạnh diễn tả khá hay về
chuyện này:

- Lúc đầu mình tưởng bản chất của
chủ nghĩa xã hội là dân chủ, và làm như vừa rồi là sai, nên mới đề nghị thay
đổi. Còn nay, thì đã hiểu. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ rồi,
còn gì phải nói nữa.




Nhưng bên chính trị cũng có những
chuyện phức tạp của nó. Có một nhân vật mới nổi là Trần Xuân Bách. Trước kia
chửi NVL (Đổi mới là gì, là NVL cộng với mười nhà báo), nay lại cười
giễu việc Việt Nam lo lắng về Ba Lan. Và cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có 2 khả
năng, một là mở rộng dân chủ như Đông Âu, hai là đàn áp như Trung Quốc. Nghe
nói bên trên có một cánh muốn đi với Mỹ, một cánh muốn kiên trì kiểu cũ, hai
bên xung đột với nhau.

Thế thì còn biết đằng mù nào mà lần!

Trở lại chuyện Đại hội. Phe Nguyễn
Đình Thi làm việc ráo riết. Mai Liên ở Sài Gòn ra bảo đã chuẩn bị rồi, loại như
Ngô Thảo mà lên diễn đàn, thì sẽ có ai đáp lại.

Ân đưa tin là không biết chừng, Xuân
Trường lại muốn làm Tổng thư ký hội, và trên lại sẵn sàng giới thiệu (cũng như
Hồng Chương cuối đời về làm báo. H X Trường đã 66 rồi, còn việc gì sang trọng
hơn về nắm Hội nữa).

Rồi Ân kể rằng nghe tin này, Ma Văn
Kháng bảo không thể thế được, phải xáp vô.




 28/10

Chuẩn bị Đại hội Nhà văn, ngày 23 và
24 học Nghị quyết.

Ngày 25 và nửa ngày 26 nghe ông Hai
Tân nói chuyện. Thấy mừng vì Trưởng ban mới không ra mặt áp đặt lắm. Ông kể là
ta không muốn mà phải rút quân Campuchia. Vậy Đảng ta sẽ chấp nhận mọi diễn
biến thực tế.

Bắt đầu có những ý kiến đề xuất việc
này việc nọ. Cao Tiến Lê đề nghị Ban chấp hành có kiểm điểm. Trần Mạnh Hảo than
thở, thân phận văn nghệ bị nghi ngờ quá. Thùy Mai đọc thư đề nghị xét lại
trường hợp Bùi Minh Quốc.




Ngày 26, thảo luận quy chế đại hội,
bầu chủ tịch đoàn. Tô Hoài lai rai, đòi ở chủ tịch đoàn bị Phan Hồng Giang tố
cáo là sắp đi Le Caire, đừng có đòi chủ tịch  đoàn nữa.

 Gạt được Tô Hoài, Phan Tứ đưa
được Lê Minh, Ý Nhi, Cao Tiến Lê vào (một chỗ của Lê Giang).

Bắt đầu những chất vấn ở đại hội.
Phạm Tường Hạnh chất vấn Sông Hương, Tô Nhuận Vỹ trả lời v.v..

Thái Bá Lợi chất vấn báo Văn Nghệ
Trần Phú Lộc là ai, là Trần Trọng Tân hay sao v.v..

Ngày 27, bắt đầu đề cử người vào
chấp hành. Sau đó cãi nhau tiếp. Nhiều người bênh Bùi Minh Quốc.

Sự kiện quan trọng buổi chiều 27:
đọc thư của Trần Độ, đánh giá công tác của ban Văn hoá văn nghệ tham gia vừa
qua.

 Đại ý sau Đại hội 6, tôi (Trần
Độ )đã mang suy nghĩ nhiều về Văn hoá, thấy văn hoá là quan trọng đã suy nghĩ
về trí thức, chắc rõ ta có trí thức tốt, phải giúp họ phát huy sức mạnh giúp
Đảng đưa xã hội tiến lên.Thấy rõ ngoài phần chung của Đảng, của nhà nước, có
phần riêng của mỗi người. Lãnh đạo chỉ nên định hướng rộng, và để nhân dân tự
do chọn món ăn.

Trần Độ tự nhận mình là nông dân là
tiểu trí thức nông thôn, phải học hỏi thêm. Trong thái độ với trí thức, mình có
lúc có thô bạo, nhưng tấm lòng thì vẫn là kính trọng.

... Lá thư 21 trang của Trần Độ được
Nguyễn Văn Hạnh đọc rất đĩnh đạc. Nhiều đoạn vỗ tay. Và sau cùng, vỗ tay kéo
dài. Tôi nói với Nguyễn Đăng Mạnh, ông này có tư tưởng độc lập, tuy vẫn là
người cộng sản chân thành.

(Trần Độ có nói “những ý tưởng của
tôi còn đang là thiểu số nhưng ta sẽ chiến thắng”).

Mạnh bảo ông Độ chịu đọc lắm nên
đáng trọng lắm.

Sau khi đọc lá thư, Nguyễn Văn Hạnh
bốc lên, nói rằng mình chia sẻ với mọi tư tưởng của Trần Độ. Rằng những ý tưởng
của Trần Độ cần được suy nghĩ. Nguyễn Văn  Hạnh tỏ ý tin tưởng ở đổi mới,
ở đại hội nhà văn lần này. Ông còn nói qua mấy ngày chuẩn bị đại hội, thấy rất
đáng mừng. Đây là sự thức tỉnh của lương tri dân tộc.




Gặp nhau sáng 26, 27,  nhiều
người đã rất mừng, rõ ràng đại hội kỳ này dân chủ phe cấp tiến thăng phe bảo
thủ.Thanh Thảo bảo quân ta đã đến Phan Rang rồi. Phải cẩn thận, nhưng nghe đâu,
phe địch đã được lệnh tuỳ nghi di tản.

Tối 26, có buổi nói chuyện về Nguyễn
Huy Thiệp ở Thư viện Hà Nội. Ý Nhi loan báo đại hội rất đáng mừng, rằng chúng
tôi sẽ tính lại chuyện anh Nguyên Ngọc, chuyện Bùi Minh Quốc v.v..

...Nhưng đến sáng 28/10, đúng ngày
Đại Hội khai mạc thì tình hình lại ra chiều ngược lại.

 Đầu tiên là nghe nói đêm hôm
trước có buổi hợp Ban bí thư với các đảng viên trong chủ tịch đoàn + các đảng
viên trong Ban chấp hành khoá cũ.

Đến trưa thì nghe Hữu Thỉnh nói là
sẽ có Hội nghị Đảng viên vào ngày 29/10.




[4/11]

Thì ra tình hình thế này:

Từ mấy hôm trước, bọn Duật, Đỗ Chu,
Đào Vũ... đã lên trên kêu là Đại hội hỏng rồi.

Ban bí thư gặp Ban chấp hành và Chủ
tịch Đoàn (chỉ ai là Đảng viên), ở đó mẹ Tú và mẹ Thường kêu la đủ chuyện.

Thậm chí ông Tân (đúng không?) phê
phán Nguyễn Khoa Điềm. Tại sao ở Hội nghị Ban chấp hành đã đồng ý theo thể thức
Đại hội bầu ban chấp hành, rồi chấp hành bầu Tổng thư ký, đến Đại hội
này lại theo ý kiến anh em, bầu Tổng thư ký trực tiếp.

Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc phải
bênh, không, ra hội nghị thấy anh em nói có lý, nên mới làm như vậy.

 Nhưng điều quan trọng nhất, là
lá thư ông Độ đã truyền bá một quan niệm khác quan niệm của Nghị quyết 7, cho
nên các ông rất không bằng lòng.

Trong số những người đến dự khai
mạc, có ông Sáu Thọ. Nghe nói ông quát hỏi Nguyễn Văn Hạnh.

 “Tại sao anh đọc thư Trần Độ”

 “ Có nhiều người đề
nghị......”

“Tại sao lại bầu Tổng thư ký trực
tiếp”

 “ Anh nên tin ở anh em ”.

Hội nghị đảng viên sáng 29/10 là để
đối phó lại với lá thư ông Trần Độ là chính. Ông ĐDTùng phân tích là lá thư đó
đã hình thành ra sao, ông Độ chỗ nào được, chỗ nào chưa được v.v..

Giá kể hồi trước, có Tố Hữu thì tình
hình đã quay ngoắt lại ngay. Nhưng nay là các ông chính trị chay, nên họ cũng e
dè hơn. Họ chỉ sợ giới  nhà văn nghe ông Độ hơn nghe các đại diện chính
thức của Đảng.

Trên nói ra miệng là không áp đặt
gì. Những người thuộc giới văn nghệ phát biểu cũng không muốn trên áp đặt.

Huy Phương nói rằng mất đoàn kết là
ở Ban chấp hành cũ. Là do bộ máy lãnh đạo cũ tha hoá, trở thành trung gian
không đáng tin cậy.

 Phong Lê – người xưa nay vốn
rất cứng  -- lại lên tiếng tố cáo bài viết của Anh Đức trên báo Nhân
Dân
và một số bài của những người khác, trên báo Văn Nghệ, là có ác
ý, báo động giả.

 Nông Quốc Chấn thì cho
là...không bình thường và hình như Đại hội được tiến hành để tấn công Ban Chấp
hành cũ.

 Nguyễn Đình Thi muốn đẩy quả
bóng lên trên, xin Ban Bí thư có gợi ý. Ông bảo nói như anh Hạnh là không được,
phải nói toàn diện, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thức tỉnh.

Ông Bổng xin lên phát biểu cuối
cùng. Ông bảo Đảng có thể yên tâm vì đây là anh em chiến đấu về cả. Đảng hay
nói anh em là tốt, nhưng đừng bao giờ để anh em lại hiểu rằng nói vậy thôi, còn
bên trong, Đảng vẫn nghĩ khác.

Không, anh em tốt thật, nếu anh em
có chút băn khoăn về Chủ nghĩa xã hội băn khoăn về Đảng, thì đấy cũng là chuyện
bình thường.

Hình như các đồng chí quá lo về
chuyện bầu Tổng thư ký. Nhưng Tổng thư ký bầu ra có sai nữa, thì còn có chi bộ
Hội nhà văn, còn có Đảng bộ, còn có khối Tư Tưởng Văn hóa, còn có Thành uỷ, còn
có Ban chấp hành TW… Có gì mà các đồng chí phải ngại.

Ông Bổng nói rất hay và anh em hoan
nghênh.




Sau đó, Đại hội lại diễn ra bình
thường.

Kể từ ngày trù bị, cho tới ngày Đại
hội, có thể chia làm 2 phái. Phái diều hâu, mà nổi lên có Anh Đức, Phạm Tường
Hạnh, MQLiên, và số đông anh em VNQĐ, được Nguyễn Đình Thi ủng hộ. Lập luận của
họ là vừa rồi ta đã sai, đã làm bậy nhiều. Phải trở về với Nghị quyết 7 ngay
lập tức. “Đấy là cái đang cần cho chúng ta”.

Phạm Tường Hạnh chửi Trần Độ, tố cáo
Sông Hương (bảo là Sông Hương không có bài về Sinh nhật HCT, về
Chế Lan Viên...)

(Người ta nói rằng nhờ có Phạm Tường
Hạnh khiêu khích thế mà bức thư ông Độ mới được công bố.)




Mai Ngữ hiện ra thật kinh khủng. Ông
ta vào chuyện: Người ta nói tới chuyện vụ án. Tôi biết có những vụ án kinh
khủng hơn.

 Năm 76, Hội đang hoạt động
bình thường tự nhiên lập ra Đảng Đoàn, với ông bí thư hách dịch chỉ thích đi
nước ngoài. Từ đó, Tổng thư ký cũ chỉ còn là cái bóng thui thủi...

Rồi đến vụ báo Văn Nghệ, vẫn
con ngựa ấy với người đánh xe ấy. (Trần Độ và Nguyên Ngọc).

Rồi những ngày vừa rồi. Ban Văn hóa
văn nghệ tập hợp tuy - ô của mình, đi gặp đồng chí Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh. Ban văn hoá văn nghệ  đưa ra Ban trù bị, định vô hiệu hoá Ban
chấp hành cũ.

Nhưng tất cả lại đầy tội lỗi, lại
tan nát.

Nghe anh em nói, lúc Mai Ngữ đọc, đã
có nhiều tiếng ở dưới hội trường vọng lên: Đồ chỉ điểm...Đồ chống Đảng. Đọc
xong ông ta đờ đẫn đứng bên cạnh mi - crô, không biết đi về đâu. Nghe
tiếng hét của mọi người, mặt mũi ông ta xám ngoét đi. Ai đó nói rằng bấy giờ
ông ta giống như một tên chiêu hồi, sau khi khai báo xong, tự nhiên sinh ra sợ
hãi thất thần.




Nguyễn Văn Bổng bình luận: Ai nói
những điều xấu xa thì tự người đó xấu thôi.

Sự phản công lại, cũng không lấy gì
làm đẹp lắm. Thu Bồn, Nguyễn Duy nói dông dài không vào vấn đề. Dương Thu Hương
quá cảm động (hay bản chất Hương là vậy), nên nói không hay. Và chẳng những vấn
đề Hương bàn cũng quá rộng không thích hợp với không khí đang giằng co nhau.

Có nhiều sự ngẫu nhiên. Hoàng Quốc
Hải nói gãy gọn về một số yêu cầu pháp luật. Mã A Lềnh đề nghị biểu quyết về
quyết nghị của Ban chấp hành cũ.

Có lúc tôi nghĩ thật tự hào về anh
em mình.

Nhưng đấy là những khi nghe phát
biểu.

Đến lúc đi vào công tác tổ chức thì
các lực lượng cấp tiến rời rã thất bại.

Nghị quyết cũ về Báo Văn nghệ
không bị bác, người ta đã mệt không ai muốn tranh cãi nữa.

 Ngay từ đầu, Hữu Thỉnh đã
trúng số phiếu cao (dù rất nhiều ý kiến phê phán báo Văn nghệ và Thỉnh
ngậm miệng ăn tiền, nhất định không thò ra nhận lỗi).

 Ông Chính Hữu bảo rút không
rút.

Nhất là Nguyễn Khải lì lợm, đợi đến
vòng 2 cũng đợi, không chịu rút. Ai đó bảo mồm Nguyễn Khải bây giờ như đít vịt
ấy mà...

Sở dĩ vậy, vì Nguyễn Khải mấy lần
nói với chung quanh là nhất định phen này lão sẽ rút. Cuộc đời có gì phiền muộn
hơn mình nghĩ. Cuộc đời có gì thật vớ vẩn. Mà cũng đúng thôi! Lúc đổi mới là
như vậy.

Rút cục, ai muốn cái gì được cái ấy.

Phe cũ được quyền lực.  

 Phe mới được tiếng nói.

Sau đại hội, nhiều người vẫn có thể
ngẩng mặt lên mà chửi bọn cơ hội, thế là được lắm rồi. Họ đâu biết rằng ngày
mai sẽ khác.




11/11

Nhớ lại những mẩu chuyện nghe được chung
quanh Đại Hội.

 Vũ Bảo nhớ lại Đại hội 1983
thật là mất dân chủ. Chúng tôi muốn họp đại hội toàn thể. Anh Hoàng Tùng mắng
chúng tôi nhà văn không thể nói ngược. Tôi đáp lại không, chúng tôi nói xuôi,
viết xuôi. Chúng tôi không phải là người ca Liên Xô rồi chửi Liên Xô, ca Trung
Quốc rồi lại chửi Trung Quốc...May mà Đại hội này đã khác.




Cuộc đổi mới, bắt đầu từ lúc bầu Chủ
tịch Đoàn. Cao Tiến Lê bảo nếu có thời gian có thể viết được quyển sách 200
trang về Chủ tịch Đoàn. Mụ Lê Minh và mụ Ý Nhi cái gì cũng có ý kiến, cái gì
không thích thì bỏ ra, nghe được thằng nào xui mấy câu, lại vào lại đòi. Lê
Minh dám gọi mấy ông Trung Ương là thằng, còn sợ ai nữa.

Ý Nhi kể, lúc bàn để thông qua Nghị
quyết về việc mỗi ứng viên ban chấp hành chỉ được 2 khoá, Nguyễn Đình Thi bảo:

-- Nhỡ có những nhà văn làm vinh
dự  cho uy tín dân tộc

Ý Nhi :

-- Không, hãy ra cái đã. Bây giờ
chưa có nhà văn loại đó đâu, mà chỉ có những nhà văn làm ô nhục cho uy tín dân
tộc thôi.

Ông Thi im.

Lại như khi bàn về bản tuyên bố cuối
cùng của Đại hội, trong đó có việc đánh giá Bản báo cáo của Ban chấp hành. Bà
Lê Minh nói rằng bản báo cáo là không chính xác, và Ý Nhi bảo là không trung
thực. Nguyễn Đình Thi đỏ mặt lên vì làm vậy là xúc phạm đến ông ta, xúc phạm
tài năng của một người có tiếng là viết báo cáo giỏi từ xưa tới nay.




Ông Trần Bạch Đằng có lần ra mặt đàn
anh. Anh Thi phải bình tĩnh mới được. Anh có thể ra ngoài 5 phút để nghĩ. Mỗi
người trong chủ tịch đoàn có thể đề nghị một phương án của mình nên có một tuyên
bố như thế nào.

 Rõ ra Trần Bạch Đằng tỏ ý xoa
đầu Nguyễn Đình Thi.

Đỗ Chu đi khắp nơi xin phiếu. Anh
cho em một phiếu. Này, nhớ thêm cho thằng này một phiếu nhé. Chu lại còn đi
viết hộ các cụ và cứ thế, để lại tên mình, tất nhiên.

Đỗ Chu lúc nào cũng tất bật xông ra
với mọi người, muốn hô hoán một điều gì đó với mọi người.

Năm ngoái, Chu từ Bắc Ninh ra ở ngay
trong cơ quan Văn nghệ quân đội, đi tham gia vào vụ đánh dẹp
Nguyên Ngọc, nói Nguyên Ngọc không ra gì.

Năm nay, sau khi Đại hội bầu ra Ban
chấp hành mới, cùng với việc Triều Dương đến chúc mừng Nguyên Ngọc, lại thấy Đỗ
Chu mời Nguyên Ngọc uống bia.

Nghe người ta kể trước lúc ra họp,
Anh Đức đã chuẩn bị làm Tổng thư ký. Đã có diễn văn nhậm chức. Trong khi 
Trần Mạnh Hảo chuẩn bị quần áo để đi tù (vì quyển Ly thân), thì Anh Đức
chuẩn bị quần áo để nhậm chức Tổng thư ký và sẽ ở lại Hà Nội sắp xếp công việc.

Trước khi ra Bắc họp Anh Đức mở tiệc
khao quân ở nhà mình. Trên máy bay, Anh Đức còn hỏi Nguyễn Khải:

-- Ông thấy tôi nên chọn ai làm phó,
Vũ Tú Nam hay Bằng Việt.

Xuân Tùng cung cấp một chi tiết:
Trong thời gian họp, Anh Đức viết cho Ngọc Tú (trong Ban Tổ chức Đại hội) mảnh
giấy, chị sắp xếp cho tôi, anh Bảo Định Giang, anh Phạm Tường Hạnh, Mai
 Liên chúng tôi phải ngồi cạnh nhau để tiện sắp xếp công việc.

Rồi Anh Đức thực hiện đúng như vậy.
Cánh Anh Đức luôn tách ra, ngay khi cả vào nhà ăn. Nhưng anh em họ cũng cho đám
thầy trò này những vố khá đau. Có trưa, thấy mâm Anh Đức còn thiếu người,
 anh em họ vẫn lảng, họ không đến gần. Nhà ăn khá đông, vậy mà thày trò cứ
ngồi trơ ra đấy, chờ người cho đủ mâm. Mấy bữa sau, một người trong bọn phải
báo cháo.

Ai đó kể, Anh Đức với mấy người cùng
đám lên gặp ông Linh. Ông Linh (hay bọn giúp việc) không cho gặp. Anh Đức cằn
nhằn rằng ở Sài Gòn tôi muốn gặp ai, muốn lúc nào cũng được.

Lại lên gặp ông Phạm Văn Đồng. Nhưng
đang đi bộ trong trong vườn, thấy bọn Anh Đức từ xa, ông Đồng đã xua, về mà
giải quyết việc với nhau.

Có bao giờ những điều trong hậu
trường này được viết ra?

Dạo này anh em hay kể về nhật ký
Nguyễn Huy Tưởng. Ở một Đại hội nào đó, ông Tưởng đã ghi “Cụ Hồ đến, Công an
nhan nhản” “ Cụ Hồ lại đọc một bài thơ nhạt thếch! “

Trong Đại hội lần này, anh em kể
dưới gầm bàn chủ tịch đoàn có đặt máy thu. Phòng họp chủ tịch đoàn cũng có máy
thu, Chủ tịch Đoàn nói gì thu vào đấy hết.

Vậy mà có nhiều chuyện rất liều. Cao
Tiến Lê kể Ý Nhi  dám cãi nhau tay đôi với Lê Đức Thọ. Ông kia bảo ”Tại
sao lại bầu Tổng Thư ký. Như thế là không được ?“.”Nhưng anh em thấy được bác
ạ!” Ông Thọ chịu.

Ngô Thế Oanh kể, văn phòng ông Thọ
gửi thư đến, bảo Đại hội nên mời Lê Đức Thọ nói chuyện. Chủ tịch đoàn có bàn
chuyện này. Nguyễn Đình Thi không có mặt hay sao đó. Và Trần Bạch Đằng gợi ý
trả lời

1/ Có nói thì cũng không làm đảo lộn
chương trình nghị sự, vì chương trình đã bố trí chặt.

2/ Chỉ nói trong 10 phút.

Ông Đằng cay vì chuyện chính trị nên
chơi ngang vậy (với Nguyễn Đình Thì, Trần Bạch Đằng căm từ hồi lâu, năm 1974
Nguyễn Đình Thì vào, Trần Bạch Đằng không tiếp mà đẩy đi mặt trận ngay).

         
Sau việc này, không thấy văn phòng Lê Đức Thọ nói gì nữa.




2/12

 Đại hội nhà văn qua đi. Được
cái gì ? hình như không được cái gì. Tôi thấy hụt hẫng.

Tại sao những Hữu Thỉnh Ngọc Tú Hữu
Mai lại được bầu vào Ban Chấp hành. Tại vì họ đã được ông Thi chọn. Nghĩa là
được bộ máy chọn. Bộ máy ấy đã làm việc để nâng cao uy tín của chính những
người đứng máy. Chỉ có tiêu chuẩn cánh vế chính trị chứ không có tiêu chuẩn
chuyên môn chất lượng sáng tác.

Một lý do sâu sắc nữa - ấy là sự ngớ
ngẩn của đám đông - cái đám đông mà tôi đã miêu tả - họ chẳng khác những con
cừu.

Những điều này có liên quan đến sự
định hướng hoạt động của tôi thời gian tới.

Nói chung, cách đi ẩn giữa đời vẫn
là sự lựa chọn tốt nhất.

Dương Thu Hương lên tiếng bảo những Trần
Đại Nghĩa, Kim Ngọc từng kêu gọi Đảng phải biết ơn nhân dân chứ không phải chỉ
có nhân dân biết ơn đảng. Đọc vào tôi đã thầm nghĩ, thật  ngây thơ quá,
nói những sự đơn giản ấy làm gì. Nhưng cùng lúc tôi lại nghĩ, dẫu sao Dương Thu
Hương cũng tốt hơn mình, dũng cảm hơn mình, không có những run rẩy sợ hãi, khi
nói về chuyện đó. Lúc nghe cũng vừa sướng vừa sợ. Tôi ấy!

Lại như khi thấy bọn Lý luận phê
bình bây giờ tranh luận. Trần Hữu Tá lấy nghị quyết 5 ra chống lại Nghị quyết
trung ương 7, Phạm Tường Hạnh lấy cớ nghị quyết 7 ra sau để cãi lại v.v.

Tôi muốn nói một câu đơn giản trước
tiên không được chơi trò này nữa.




21/12

 Trên Bản tin tham khảo
có một bái phân tích Các hội chứng của Chủ nghĩa xã hội hành chính ở Đức

- Tập trung quyền lực trong một nhà độc
tài kiêu ngạo. Điều khiển kinh tế thông qua một trung tâm chỉ huy thiếu hiểu
biết.

- Quy chế hoá và tập trung hoá quan
liêu nền văn hoá. Khoa học và giáo dục đều đã xua đuổi nhiều bộ óc có tính chất
phê phán ra khỏi đất nước

- Áp chế chính trị với công dân,
buộc tội người khác chính kiến

- Biến cảnh quan thông tin đại
chúng thành một sa mạc thông tin ảm đạm, thành một hệ thống đưa tin cung đình
ghê sợ
.

- Gạt bỏ cơ sở Đảng ra khỏi mọi quá
trình bàn bạc...













 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 22, 2014 02:55

September 12, 2014

Bước rẽ ngoặt của Đổi mới văn nghệ -- hai năm 1988 -1989 (I)

Tiếp theo phần
nhật ký 

Chuyện văn nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987

—đưa trên blog
này ngày 22-8-13




Từ
tháng 1-10-1986 tới 30-9-1989, tôi sống chủ yếu ở Moskva, chỉ có một đợt về
phép từ giữa tháng 10 tới giữa tháng 12-1988. Các sự kiện văn nghệ xảy ra hồi đó được tham dự rất ít chủ yếu
chỉ được nghe kể lại. Khi chỉnh lý những trang nhật ký này, tôi cũng không có
điều kiện kiểm tra đối chiếu lại với các nhân chứng là người trong cuộc cũng như mọi số liệu ngày tháng trên báo chí đương thời. Rất
mong các bạn khi  đọc lưu ý và thể tất
cho những bất cập đó
.







Moskva 
nửa đầu 1988


22/2

 Nghe tin Hà Nội
lập ban trù bị cho Đại hội nhà văn, trong danh sách có Nguyễn Đăng Mạnh, Mai
Liên tức lắm.


          - Chọn ai cũng được.
Chọn ông Kỵ là hay rồi. Không có thì chọn ông Hiến, ông Hiến còn có bề dày văn
hoá, chứ cha Mạnh biết gì - nói như Cao Xuân Hạo, tiếng Pháp may chăng biết
được 40 chữ. Thật nhớ lại vụ Cù lao tràm, mình không tức gì
bằng cái ý kiến của Nguyễn Đăng Mạnh “Nguyễn Mạnh Tuấn là nhà tư tưởng”. Khen
thế là khen đến cùng rồi còn gì? Thế là vừa ý Hà Xuân Trường, sau vụ đó, Mạnh
được vào ban LLPB. Bây giờ sang trào mới, thì Mạnh lại có chiêu bài khác. Lại
có câu nổi tiếng "Thời gian vừa qua lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc các văn nghệ
sĩ”. Thằng Hoài Anh nghe câu này nó bảo:”Người ta khinh bỉ sâu sắc loại người
như Nguyễn Đăng Mạnh”. Nhưng Nguyễn Đăng Mạnh lại được cấu tạo vào ban trù bị
đại hội.




Nhàn: tôi vẫn thấy ông
Mạnh được.

Trà: Nhưng anh Mạnh bây
giờ hết vốn rồi.




26/3

 Bằng Việt, Nguyễn
Duy, Ý Nhi, Thanh Thảo, Phạm Vĩnh Cư sang.

Nhìn Nguyễn Duy, thấy
mặt sạm đen đi, lủi thủi đi lại trên đường; Thanh Thảo thì đằng sát khí, nhưng
cũng già; Ý Nhi mặt khô, đanh, gò má  nhô cao -- Mai Liên nói một câu tâm
đắc:

-- Nghe tin họ vào những
ban trù bị đại hội thì cũng tức, nhưng nhìn cả lũ  thảm hại thế này, tự
nhiên không thấy tức nữa. Chả đáng gì.




         Báo Văn
nghệ 
số xuân, có tin phục hồi nhóm Nhân văn Giai phẩm. Ân
kể, trong buổi gặp lại cánh này, ông Thi bảo: “Bây giờ cái mới lại trông vào
những anh em bị oan ức.” Nghe như người nói xuôi nói ngược đằng nào cũng có lý.
Và thấy vớ vẩn nữa.

Nhưng mà thế là mọi việc
cứ trôi qua. Dần dần, mỗi ngày một tí, trong sự nhếch nhác, thảm hại vẫn có cái
khác trước. Đã có bài Phan Ngọc viết về  Đào Duy Anh. Bao giờ lại có bài
về Trần Đức Thảo.

 Mấy hôm trước Ân
viết thư sang bảo những ông Khải, ông Ngọc  là không được. Nay giọng thư
đã vui hơn. Nghe thế, tức là bây giờ lúc nào Ân cũng có bao nhiêu việc để làm.
Nghĩ cũng thèm thật. Nhưng ở xa, lại thấy tình cảnh nó vẫn có cái phía nhảm nhí
của nó.




Ý Nhi kể ở Sài Gòn, ông
Phan Tứ đến chơi, ăn cơm. Ý Nhi bảo nên giải tán cái hội đi cho xong. Thế là
ông Phan Tứ đỏ mặt cãi lại, bảo rằng không được nói thế.

Ông Khải có bài Người
viết với sách in
. Đoạn cần nhắc tên một số nhà văn, toàn thấy kê ra Trần
Thanh Giao, Nguyễn Mạnh Tuấn. Cốt lấy lòng cánh thành phố Hồ Chí Minh.

      
 Mạnh hết lời khen NXB Văn học đã làm tủ sách “tuyển
tập”. Đặc giọng quan chức. Và cũng là dịp khen những tập sách chính mình đã
làm.

     
 Phan Ngọc viết về Đào Duy Anh, vẫn có lối viết nghiêm chỉnh, coi cụ Đào
như một học giả lớn. Mai Liên bình luận thực ra cụ Đào rất dị mọ, người tự học
mà. Có biết gì về Thiền đâu, khi nói Thiền, đến nghe cụ Huy nói, rồi về viết
lại. Người khô khan thế mà dám đi dịch thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, là không
biết điều. Đào Hùng kể bố mình, Đào Duy Anh, và anh mình Đào Thế Tuấn, suốt đời
chửi chế độ, nhưng nghe nói đi gặp ông Phạm Văn Đồng, là sung sướng, cảm động,
thay áo tắm gội mấy ngày chứ tưởng!

Một người như Hồ Ngọc
Đại, nói về giáo dục, cũng thấy không trúng. Chỉ thấy muốn khoe tài khoe giỏi,
trong khi giáo dục ta còn có những căn bệnh trầm trọng hơn thì ông ta không
biết.

Trần Đình Sử: Mọi người
chỉ muốn tính việc chung theo cái phía có lợi cho mình còn cái chung đó như thế
nào, đâu có cần.




Sử  kể về việc gặp
ông Tố Hữu:

- Người nhắn tôi lên là
ông Hoàng Trinh. Tố Hữu gọi cho ông ta mấy lần cơ. Tôi lên. Tặng người quyển
sách nhân thể.

Suốt hai tiếng, ông nói,
và gần như tôi không chen được lời nào. Có chăng chỉ có những lúc ông hỏi, thì
tôi trả lời. Ông nói về tiếng Việt, tiếng Việt ta đẹp lắm, đáng yêu lắm. Ông
nói về ý muốn của ông là viết được về nhân dân đất nước. Đúng, anh nói đúng
đấy, thơ tôi là thơ trữ tình chính trị, và tôi tự hào về nó.

Có lần, trong câu
chuyện, Tố Hữu hỏi tôi quê đâu, tôi nói quê Thừa Thiên. Thế thì sao không nói
bằng giọng quê hương, cái giọng của cha mẹ mình. Tiếng mẹ, lời mẹ dặn v.v. Ra
về, Sử cảm thấy mình nói chuyện với một người thật xa xưa, thật cũ kỹ .

3/3

 Anh em ở Hà Nội
sang kể Hội Nhà văn sẽ bầu tổng thư ký kiểu tổng thống Mỹ. Tức là đại hội vừa
bầu Ban chấp hành, vừa bầu tổng thư ký. Rồi ai trúng tổng thư ký, người đó sẽ
chủ trì cuộc họp của BCH, bầu ra ban thường vụ.

Xuân Đức kể Nguyễn Đình
Thi muốn thôi, nhưng Nguyễn Khải bảo đã có người giới thiệu anh không được
thôi. Như thế là làm cho Nguyễn Đình Thi phơi áo trước dư luận – Xuân Đức giải
thích.

 Đức kể tiếp, không
khí ở 65 Nguyễn Du rất buồn cười. Có một ban thư ký cũ nhưng nay không biết làm
gì. Quyền hành thuộc về Ban trù bị đại hội, đại loại những nhân vật mới như
Nguyễn Khải, Xuân Thiều. Có một đám chông chênh, vẻ đang xuống, suy tàn, vừa
lên đã tàn. Ví dụ như trường hợp Ngọc Tú, Hữu Thỉnh.

Ngọc Tú hoàn toàn đuối
rồi. Hữu Thỉnh đi Liên Xô còn hăng hái. Lúc nghe tin Nguyễn Khoa Điềm không đi
theo đoàn hội nhà văn, mà đi theo AOH ( Viện Hàn lâm khoa học xã hội thuộc
ĐCSLX), Thỉnh viết thư về với ông Chính Hữu để xin cho Chu Lai đi.

Nhàn: Vì Hữu Thỉnh
thương  anh em quân đội mình.

       
Xuân Đức: Không nên nghĩ sai về bạn như vậy. Không nên nghĩ xấu quá, nhưng cũng
không nên nghĩ tốt quá.

Hữu Thỉnh giờ đây chỉ là
một thành viên trong cái ban mà Xuân Thiều làm trưởng ban nên tức là phải. Đâu
như Hữu Thỉnh nói với Khải xin thôi. Khải bảo ừ thì thôi. Nhưng Xuân Thiều
không nghe, Xuân Thiều bảo muốn thôi, anh phải làm cái đơn. Thế có nhục không.
Thỉnh chán, bỏ về nhà trên Vĩnh Phúc.

Tưởng một người khôn như
Hữu Thỉnh đâu đến nước ấy? Mà đấy là chuyện thật. Thế địa vị phó Tổng Biên Tập
của Thỉnh ở VNQĐ thế nào? Cũng chẳng có gì chắc chắn cả, cánh già cũng có thể
lật lại. Hình như sau một thời gian ổn định, VNQĐ lại có cơ trở lại tình hình
loạn lạc như cũ. Hồ Phương xin ra Hội Văn nghệ Hà Nội, không ra nổi. Bọn Bằng
Việt thích lấy Lê Lựu hơn. Hồ Phương đang bị ghét, nhưng cánh sẽ lên là cánh
già, chứ không phải cánh trẻ. Loại như Lê Thành Nghị chưa ăn nhằm gì cả.




Trở lại chuyện Hội, ai
cũng bảo ông Ngọc làm báo Văn nghệ rất đẹp. Người ta đưa ra
danh sách 5 người để bầu Tổng thư ký, thì ngoài Nguyễn Khải, Ngọc được cho là
có triển vọng hơn. Ba người kia là Bùi Đức Ái, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa
Điềm.

Nguyễn Khải lúc nào cũng
sẵn sàng chuồn tuy có lần lại nói rằng, giá vào  nhà đỏ (TW),
sẽ lấy tạp chí VNQĐ sang cho Hội Nhà văn. Tức là ông ta vẫn hiểu có thể mình đi
đến đâu.

Bùi Đức Ái có những tính
toán riêng của một người ở SG mà số đông không ai hiểu.

Còn Nguyễn Khoa Điềm,
đợt vừa rồi Hội văn nghệ Trị Thiên cũng mang tiếng vì vụ ông Đính bị xử sai.
Văn nghệ sĩ họ phẫn nộ lắm. Nhưng tỉnh uỷ, đứng đầu là Vũ Thắng thì không nao
núng chút nào. Mà Nguyễn Khoa Điềm chính là người phát ngôn của tỉnh uỷ!

     
Trà bình luận, thằng Điềm chả có chất văn gì cả. Đến cười nó cũng lười thì được
trò gì.

  
  Nguyễn Khải nhớ lại hồi trước đi với Nguyễn Khoa Điềm một chuyến
qua Nga. Cùng đi với nhau mà người lớn tuổi chuyên môn phải hầu người ít tuổi.
Khải có sang phòng Điềm thì sang, chứ Điềm không sang phòng Khải bao giờ. Người
con nhà quan, nay mai sẽ trở thành quan chức cỡ lớn mà.




26/3

Trần Ninh Hồ kể Khải từ
Sài Gòn ra, tưởng dễ làm, nhưng thấy khó, đang tính chuồn. Mà Khải là người dễ
bị ảnh hưởng, đi với ai ông ấy nói giống người đó, ở với ba thằng thì ông sợ cả
ba, cốt cho vừa lòng mọi người!

Còn Ngọc, Ngọc làm báo
là vừa. Bây giờ mà bỏ đấy, thì không biết giao cho ai nữa. Chín năm sau vụ Đề
dẫn, nay Ngọc là người biết nghe hơn. Sự nghiệp có lẽ ở chỗ làm báo. Giữa ông
Ngọc với mấy ông phó thì đúng là có cả một khoảng cách.

Không khí Hà Nội giờ vui
lắm, vẫn có những anh em bây giờ nó làm thơ hết sức tâm huyết, nó đến, nó đọc
cho mình nghe, mình bảo đừng đọc nữa, nó bảo đọc một bài thôi. Đọc xong, mình
chịu đấy. Y như chúng mình mấy chục năm trước, nhưng tự do hơn.

Có thằng đâu đến tự
nhiên nó ngồi ngay vào chiếu giữa đó là Nguyễn Huy Thiệp. Đoạn cuối Tướng
về hưu
  “Ông lại đi đâu -- Đi ra trận,-- A ông lại ra
trận.  Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Mẹ mày, thằng này láo.”


Cả một thời đi qua. Duật
là một thời. Trong cái thời đó, có tất cả anh em mình.




Nhớ một hôm ngồi ở chỗ
Lý Toàn Thắng.Tự nhiên tôi nghĩ xa xôi, hình như trong cái việc đối xử với Nhân
văn Giai phẩm
, rộng ra là trong những việc làm bậy hôm qua, có lỗi của tất
cả mọi người sống trong thời đó. Giá anh em mình vào cảnh ấy, thì cũng chỉ biết
thụ động như mọi người.

Bằng Việt: Tôi vẫn có
thể chứng minh với ông là trong thời ấy, có những người đứng đắn, không có gì
phải hối hận.

 Thanh Thảo: Với
lại ai làm, kẻ đó chịu chứ.




Trần Ninh Hồ nói về việc
Ng M Châu ốm. Ng Ngọc buồn lắm. Vì cũng phải dựa vào Châu chứ. Chính Châu là
người đầu tiên có ý đưa Ngọc trở lại báo Văn nghệ. Còn bây giờ Ngọc
muốn Châu trở về, nắm tờ Tác phẩm văn học, rồi hai tờ dựa vào nhau
mới sống được.




         Thư Mai Liên sang. Sài Gòn họp, có
loại bảo thủ như Bảo Định Giang, Viễn Phương, Anh Đức, Đoàn Giỏi. Những người
này cho hôm qua đủ lắm rồi, không phải gì thêm nữa.

         Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, nói mấy
câu tiến bộ chẳng qua vì không có quyền.

Ng Quang Sáng khá, Lê
Đình Kỵ khá. Ở Minh Hải, có một cậu Lê Đình Trương họ nhà bà Lê Giang, viết một
truyện tả cái chết của ông ngoại ai đọc cũng kinh. Nhân vật là một người cộng
sản băng hoại về đạo đức và không còn biết sợ là gì.

Hồ Ngọc kể Nguyễn Huy
Thiệp có truyện Không có vua, nói về sự đổ đốn trong một gia đình
tầm thường, thấy rất nhục.  Một nhân vật phụ nữ trong đó nói về cuộc sống:
”Khốn nạn lắm. Nhục lắm. Thương lắm“.




Tiếp chuyện Hồ Ngọc.

Vụ nhạc Trần Tiến. Trần
Tiến có chùm nhạc rất hay, trong đó có bài Trần trụi 87 nghe
phát khóc. Lời có những câu:

Bạn tôi giờ đi buôn ở Nga

Bạn tôi giờ đi xin ở Mỹ

Bà mẹ già tiếp cơm cán
bộ hôm qua


giờ ăn xin lề đường v.v..

Chính giới nhạc sĩ lại
đánh Trần Tiến nhiều. Trần Tiến không sống được ở Sài Gòn, phải ra Hà Nội.
Dương Thu Hương, Hồ Ngọc đưa đến gặp Trần Độ. Trần Độ vào tận Sài Gòn nói mới
đỡ hộ.

Nói chung Trần Độ chủ
trương không đánh ai, không cấm ai, rồi người ta sẽ sàng lọc lấy cái người ta
cần.

        
Hà Nội đang quay sang sùng bái Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm. Nhưng một lần Trần
Dần nói một câu rất hay:

- Bọn này có cái lỗi là
chống cái ác nhưng không đến nơi đến chốn, để nó đánh trả lại cái đẹp đến mức
tàn tệ và anh em về sau không có đường mà tới.

Đúng quá. Vụ Nhân
văn Giai phẩm
 đã qua. Theo Hồ Ngọc, không nên bìu ríu nhau làm gì.

Có một giai thoại.

Tố Hữu: Các ông định
khôi phục lại cho cánh Nhân văn đấy à?

          Trần Độ: Cũng có lúc, chúng ta phải
sám hối chứ!

Tố Hữu: Bọn này chỉ sám
hối là cái lần ấy không cho đánh cho bọn đó tiệt hẳn, không còn một mống nào
sống sót.




         Nghị quyết mới về văn nghệ (do ông Độ
giật dây), bị giới tuyên huấn căm tức, vì tước đi ở họ bao nhiêu quyền hành. Họ
không thể chịu được điều đó.

Cuộc họp ở tạp chí Cộng
sản
 nhạt nhẽo, nặng về thanh minh.  Xuân Trường chỉ nói một điểm
chống Trần Độ. Là chúng ta phải hướng dẫn quần chúng chứ không để họ tự phát
lựa chọn.

Hồ Ngọc: Nói chung Xuân
Trường cũng bất tài, nặng về trị văn nghệ.




Người viết bài chôn Phan
Cự Đệ là Tôn Gia Các, dạy ở Khoa văn Tổng hợp, một người bông đùa và lâu nay
không tham gia viết lách gì. Nhưng hình như đến lúc này, phải lên tiếng. Chỉ
buồn cười, viết xong, lại đến hỏi Ban văn hoá văn nghệ xem là viết thế có được
không ?




Vẫn theo Hồ Ngọc, có sự
suy thoái của một số nhân vật vốn có vai trò chủ đạo trong sinh hoạt văn học.
Ông Tào Mạt đổ đốn. Đi làm thơ ca ngợi Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng.

Thấy Hồn Trương
Ba da hàng thịt 
được khen, Tào Mạt  viết một bài rất nặng đến mức
bọn Lưu Quang Vũ Ng. Đình Nghi doạ đánh cơ mà.

Lưu Quang Vũ vẫn loay
hoay kiếm cơm, còn Xuân Trình rất giàu, mới làm nhà và chỉ mộng làm thứ trưởng.
Có một ông bầu là tay bạn cũ bí thư ở Hà Nam Ninh, nay về làm Phó ban Tổ chức
Trung Ương.

Trần Văn Thủy cũng khệnh
khạng lắm. Đến Đại hội liên hoan phim vừa rồi, không bằng lòng vì người ta chỉ
cho mình giải Hà Nội dưới mắt ai, mà không cho Chuyện tử tế
Thủy làm phách dỗi.

Kịch của Tất Đạt có cảnh
một ông giáo phải xoay đi đạp xích lô, để kiếm sống (nhưng cũng có nét tự nhiên
chủ nghĩa). Các quan chức Hà Nội xem mà không dám cho diễn.

21/4

Ý Nhi vừa viết một thứ thư
ngỏ gửi nhà văn Nguyễn Khải
, lên án chuyện ông Khải “cải chính” ý kiến về
tôn giáo mà ông phát biểu trong buổi họp ở báo Văn Nghệ  rồi
khi đăng không đưa ông xem lại.

Đại khái một đoạn thuyết
lý về tôn giáo. Con người là một sinh vật thiêng liêng nhưng trong con người,
cũng có những nỗi khao khát sợ hãi đáng quý. Ý Nhi nói thêm là Khải sợ quá nên
hóa điếm.

Tôi nghĩ, một người như
Khải ngày hôm qua sống khéo léo như thế, vừa vặn thế, làm sao ngày hôm lại có
thế thành người của cái mới ngay được? Nhưng lộ vở hơi sớm.




Nguyễn Văn Hạnh cũng cho
là Khải tỏ ra không có bản lĩnh lắm.

Ý Nhi: Thời gian ghê
thật. Thời gian làm lộ ra mọi thứ. Giá kể Đại hội Nhà văn xảy ra vào tháng ba,
có khi ông Khải đã trúng TTK rồi đấy.

Nhàn: Thực ra, ông Khải
vẫn có cái chất lưu manh trong người. Nhớ cái lần năm 1979, sau thất bại của
hội nghị Đảng viên, Khải theo hẳn phía kia. Gặp Bùi Bình Thi giữa đường, Khải
nói về một buổi họp sắp tới:

      
--Ngày mai bọn này sẽ rô-ti thằng Ngọc.




Một sự kiện trọng đại
trong dịp này là báo Văn Nghệ 40 tuổi. Người ta xúm vào khen
Nguyên Ngọc (cả đại sứ Liên Xô ở Việt nam  cũng khen!).

 Tôi nghĩ bọn các
ông Ng V Bổng, Đào Vũ chắc thèm lắm.

 Trần Ninh Hồ bảo
Đào Vũ  làm làm sao được! Thèm cũng chịu.




Nhưng trong diễn văn của
ông Thi trong dịp kỷ niệm 40 năm báo Văn nghệ, có đoạn chê ngay là
báo Văn nghệ, biên tập không kỹ. Và áp đặt ý tưởng cho người khác.
Việc này liên quan đến bài phát biểu của Nguyễn Khải về tôn giáo mà lá thư Ý
Nhi đã viết. Khải có gửi thư thanh mình với ông Trần Độ, cho là ông Ngọc biên
tập không kỹ!

Ý Nhi bảo đây là ông Thi
muốn khoét sâu mâu thuẫn giữa ông Ngọc và ông Khải.

Đọc lời phát biểu trên
của ông Nguyễn Đình Thi nhiều người chỉ cho là Nguyễn Đình Thi cay cú. Lai có
người nói là có ai rỉ tai Nguyễn Đình Thi ý đó (loại như Xuân Trường, Lê Đức
Thọ v.v..). Nhưng Nguyễn Đình Thi làm thế chỉ dại, xu thế chung đổi làm sao
được.




Gặp một số ông sang học
lớp AOH. Chuyện của Ng V Hạnh.

-- Cái lần thông qua
Nghị quyết Bộ Chính trị, cũng là may lắm. Đương thời điểm đẹp, bài ông Linh gây
xôn xao. Mà ông Linh phát biểu thế, thì nghị quyết thế là đúng thôi. Bây giờ
thông qua một nghị quyết như vậy có khi lại không được.

-- Bây giờ lại có tín
hiệu ngập ngừng rồi. Chính Khải cũng ngập ngừng. Có lần ông Trần Độ phổ biến
nghị quyết gì đó, bảo cái này tôi đã tham khảo ý kiến ông Tố Hữu. Nguyễn Khắc
Viện nói ngay anh nói làm cho bọn tôi buồn hẳn đi!

-- Một lần ông Hồng
Chương vào Sài Gòn nói gì đó, ở CLB Hội nhà báo. Nửa chừng nghe chán quá, nhiều
anh em bảo thôi ông xuống đi. Quần chúng bây giờ là thế.




  Nguyễn Khoa Điểm
kể ở Huế, rất muốn cấm bộ phim Cô gái trên sông. Nhưng cấm có cái
phiền là rồi có cấm mãi được không. Hay ít lâu lại phải cho chiếu thì dại mặt.




19/5

Vẫn chuyện của Ng V
Hạnh.

           Tình hình dù thay đổi ra
sao, cũng phải chiến đấu cho chân lý. Chứ dễ nản lắm, chính ông Linh cũng nản.
Ông ấy hay nói đến kết thúc có hậu. Và có lần ông ấy nói lại một câu của thằng
Pháp:”Không phải sự thật nào cũng nên nói ra”.

 Qua một bài như
của Trần Bạch Đằng thấy ông này thông minh, sắc sảo, nhưng cũng chỉ đến thế.

Điềm nó có mang ý của
ông ấy (ý gì? về Stalin?) hỏi một ông giáo ở đây Moskva, ông ấy bảo cũng được
thôi, nhưng người giờ còn nói thế là loại chưa trưởng thành về mặt đạo đức và
trí tuệ.




Tôi kể với Hạnh rằng Mai
Liên viết trong thư là Nguyên Ngọc thích nịnh, nó là cái mầm tai họa.

 Ng V Hạnh: Đúng,
phải bảo Nguyên Ngọc.




 Theo Từ Sơn, Đổi
mới khó thắng lắm. Đến Hội Nhà văn, thấy người ngả về Nguyễn Đình Thi đông lên
hàng ngày. Tú Nam cũng ngả rồi. Cả ông Khải nữa. Ông Thi làm hay ai chủ trì Hội
nhà văn cũng được, Khải chả cần, miễn là Khải vẫn được viết.




Bàn về kịch Lưu Quang
Vũ, Trung Đông ở báo Nhân dân bảo sân khấu là cái nơi người
ta  phải đối mặt với đám đông ô hợp. Xưa có một bọn nịnh quần chúng bằng
những câu đùa rẻ tiền, những chuyện tình yêu sướt mướt. Nay lại nịnh quần chúng
bằng việc nêu lên những uất ức làm cho người ta hả dạ. Cả hai có khác gì nhau
đâu? LQV là loại viết mỗi tuần một vở. Làm sao mà có chất lượng được !




1/6

Đi đâu cũng có tin Ng
Khải đã ngả theo ông Thi. Mọi người có vẻ thắc mắc, sao  lại thế? Sao
Nguyên Ngọc hách thế, dại thế? Sao có mấy tay phê bình ở VNQĐ tự nhiên lại đánh
Tôn Gia Các thế?

Tôi nghĩ, thế chứ sao
nữa, cuộc đời vô lối, chúng ta chẳng hiểu sẽ đi đến đâu và chúng ta lấy việc
trị được nhau làm vui.




10/7

Hai mẩu chuyện vừa nghe.

Một bác sĩ làm ở An giê
ri kể, báo Đất Việt của Việt kiều yêu nước đăng tham luận của
Dương Thu Hương khi gặp ông Linh, kèm theo một đoạn NVL kể chúng tôi đã đến
điều tra tận xưởng phim, xem cô này làm sao. May mà xưởng phim nói là “cô nàng”
(chữ của NVL?) đã xung phong ra đi trong đánh Mỹ.

Rồi có lần Hương làm
phim kịch bản không duyệt. Có người xui phải mang đến nhà giáo sư Đ (Đệ
?).  Nhưng DTH không mang. Báo Đất Việt ( hay Đoàn
Kết 
) tỏ ý khen DTH: Phụ nữ có thể cứu nước .Thật là
chả đâu vào đâu.




        Phạm Huy Thông chết. Ai đó đánh. Có lẽ là cướp của. Vì tiền. PHThông có
em ở Nhật, rất giàu. Mà có thể còn vì tình. Ông này hay bồ bịch cướp vợ người
khác lắm. Rồi vì chính trị. Thông hay tranh quyền của người khác, nên bị họ chửi.

Tôi nghĩ đến ba cách
chết khác nhau của ba ông trí thức lớn họ Phạm: Phạm Huy Thông(bị giết), Phạm
Thiều (tự tử) và Phạm Ngọc Thuần (sang Pháp ở lại không về nữa !).

Thời buổi tạp văn đây,
mà chả có ai viết được !

Nghe ông Bùi Hiển kể, ở
Hà Nội, nhiều sinh hoạt nghề nghiệp, mọi người chuyện trò trao đổi. Sau bài
Dương Thu Hương (đòi quyền lãnh  đạo cho lớp 40) Nguyễn Đình Thì có nói
tôi sẽ thôi, nhưng từ giờ đến đại hội, tôi sẽ làm công việc của mình.

20/8

 Đọc thư Lại Nguyên
Ân, thường tôi thấy dội lên nỗi buồn về sự không được tham gia vào đời sống văn
học hôm nay. Rồi lại sợ, do sự thương cảm vô duyên mà mình mất
hết thì giờ. Phải biết làm sao tận dụng được thế ở xa của mình, cái thế của một
người đã biết khá rõ hôm qua, để đoán ra hôm nay.

28/8

 Bà Hương, vợ
Nguyễn Hoành Khung, bảo có lẽ tôi không bao giờ đọc anh Ân được nữa. Đọc bài
trên Văn nghệ quân đội số 5, chỉ nghĩ đúng thật nhưng sao mà
ác. Giá anh Nhàn, hoặc anh Mạnh không bao giờ viết thế.

Lý Toàn Thắng  cũng
không  thể chịu được Lại Nguyên Ân, như không thể chịu được Phẩm
tiết, 
với những chi tiết mà họ cho là bệnh hoạn!

Tôi thì tôi chỉ nghĩ để
đáp trả cái cuộc đời này (với những Đức, Đệ...) phải có những người như Ân!
Những Lại Nguyên Ân, Tôn Gia Các rõ ràng là một thứ đối trọng của tất cả!




Một ý toát ra từ truyện
ngắn Âm vang chiến tranh của Xuân Thiều: Những anh hùng, liệt
sĩ trong chống Mỹ, thường khi là bọn lưu manh mất hết tình người. Bọn vô học
đó, hiện nay lại nắm những cương vị quan trọng, phá hoại xã hội.

Còn truyện ngắn của Lê
Công Thành - Hai trăm bạc : Bộ máy này đã hỏng
rồi, và càng làm nữa, nó càng hỏng. Người lương thiện, không có chỗ đứng. Hiện
đang diễn ra một sự tan rã về tư tưởng và tâm hồn của hàng loạt người bình
thường.




Những lá thư mà Lại
Nguyên Ân gửi sang, nói về tình hình văn nghệ, gợi ra cảm giác chúng ta có một
đám văn nghệ sĩ nhà quê dở công chức dở, không làm gì có ích cho xã hội.

Nhưng làm gì có một đám
văn nghệ sĩ nào khác?!







***


Nội cuối 1988





4/11

Mấy năm trước, giá kể có
ai bảo rằng sẽ có lúc, những Mùa hoa dẻ Sắp cuớiVượt
Côn Đảo
 được in lại chắc nhiều người không tin. Và nếu tin, thì người
ta thả nào cũng chêm một câu “Chắc là lúc ấy tình hình thay đổi nhiều lắm rồi.”

Nay thì cái việc người
ta giả định hôm qua, đã thành chuyện thật. Nhưng có phải vì thế mà đời sống văn
nghệ khá hơn? Đâu có.

Cảm tưởng chính của tôi
là đời sống văn nghệ quanh tôi quá ồn, quá ô nhiễm, quá nhiều trò bẩn thỉu.

Giới quan chức – lớp
người  vốn được coi là ưu tú - chỉ lo quyền lợi của riêng của họ. Bởi vậy
làm gì có thể có một cuộc cách mạng tự bên trong, làm gì có thể thay đổi theo
kiểu perestroika.

Đúng là phải tống hết cả
những người cũ đi cơ. Còn để những người đó cho họ làm lại, thì sớm muộn có
quay về cái cũ, cũng là chuyện bình thường.




         Một con người như Nguyễn
Khải, thật là kỳ lạ.

Mai Ngữ lại cũng nhảy ra
như một nhân vật. Mai Ngữ và Xuân Thiều  mỗi người đang đóng đúng vai của
mình.

Tôi nghĩ, nhiều
người muốn thay đổi hiện nay, khi họ thành công, họ cũng sẽ áp chế mình nặng
nề, như những người khác. Và họ cũng chỉ biết cách làm như hôm qua, hoặc có
“cải tiến” đi chút ít.

...

Nghĩ cho cùng, thấy nản
lòng vì một cuộc sống mà mình nghĩ là không nên có, không đáng để có.

Sao lại có một cuộc sống
tệ hại như cuộc sống dân tộc này.




8/11

Đang thấy mọi người
truyền tay nhau lá thư Chế Lan Viên.

 Những ý chính
trong thư

Sau phần ráo đầu: a/ Tôi
xin rút  b/Tôi là người tiên phong, trong việc đổi mới (viết lời giới
thiệu Hàn Mặc Tử....) , trình bày một số luận điểm.

1/ Nói văn nghệ dự báo
là sai, không đủ báo gì cả, chụp ảnh cũng là tốt rồi, đừng nói phản ánh.

Nói văn nghệ không ca
tụng cũng không đúng. Hugo ca ngợi Chúa.

Nói Văn nghệ thực hơn
chính trị, không đúng. Không có Bác Hồ, Đảng, chúng tôi chỉ có Vàng 
sao, Điêu tàn.


Chống Văn Nghệ khủng bố,
lấy đời tư ra nói, nhét dái vào mồm nhau ( chi tiết trong Vàng lửa của
Ng Huy Thiệp).

Chống văn nghệ tấn công,
ba phải. Đổi mới không phải là đổ máu.Thà phải đạo còn hơn phá đạo.

Cũng chống cả văn nghệ
ba phải. Vẫn phải có lập trường (Pháp không đọc Céline)

Đừng để cho Việt kiều,
người ở ngoài lôi cuốn (đoạn tái bút)

2/ Về một số nhân vật.
Nguyên Ngọc thâm hiểm, tấn công tứ tung, trong đó có tôi (CLV). Nhưng chỉ riêng
tội thảo luận rộng rãi nhiều chuyện gây ra  tình trạng hỗn độn -- báo Văn
Nghệ
 như vô chủ-- cũng đã đáng cách chức.

       
Những tính cách khác. Nguyễn Duy đi đâu cũng nói sắp vào chấp hành hay thư ký.
Thanh Thảo quỵt tiền việc in thơ tình Xuân Diệu (cái này thì Mai Liên đã nói –
VTN).  Lại Nguyên Ân dốt, có chữ gì đó mà dịch là  là thời kỳ bọ
chét, và nói sai về một trăm năm sinh Aragon.

[Tố cáo việc in lại bàn
đề dẫn. Nêu “việc bếp núc” năm 1979, thời kỳ giải toả. Lúc ấy, anh Sáu chỉ đạo
tất cả.] Theo lệnh a Sáu, Nguyên Ngọc còn có bài phê phán Hoàng Ngọc Hiến rất
độc ác, trong khi tôi, sau khi trao đổi, lại rủ Hoàng Ngọc Hiến đi uống nước.
Nếu bây giờ tính lại 79, thì phải đăng cả bài ông Trần Độ, bài ông Xuân Trường
v.v..

Kết luận: Nếu có Đại
hội, chớ dùng loại Nguyên Ngọc, Nguyễn Duy, Thanh Thảo.




 25 - 26 /11  

Hai ngày liền họp ở Đảng
bộ Hội Nhà văn. Hóa ra có nhiều chuyện mình không biết. Sau những vận động hậu
trường, vừa rồi đã có những bước ngoặt. Cấp trên có những chỉ đạo mới. Cao Tiến
Lê bảo rằng, TW  có nhiều người chỉ là đàn em các anh. Những ông như Phạm
Thế Duyệt có gì không hiểu thì các anh phải giảng cho họ biết chứ. Ng Đ Thi bảo
không được Nguyên tắc của Đảng không cho phép. Thật ra thì chính Thi đã đi giật
dây các ông đàn em đó để có cái Nghị quyết mới.




       
Ấn tượng chính là những lời đả kích Nguyên Ngọc. Kim Lân - lâu nay được đưa vào Ban phụ trách Tác phẩm văn học -- chửi ráo riết.

Đỗ Chu cũng chửi từ Đất
nước đứng lên
 trở đi. Phải học là học. Nhưng từ bé, tôi đã khinh
thường cái nhân vật anh hùng Núp được dựng lên đó.  Lại nghe nói ông Fidel
quý tác giả của nó lắm, khi Nguyên Ngọc thăm Cuba, tới ngủ chung giường với
Nguyên Ngọc. Trong bụng nghĩ đúng là một thứ hấp lìm.

     
Không thể để một người như thế thao túng văn học. Đăng những truyện kích động.
Đăng những bài bảo thủ. Gần đây, sau buổi họp Ban Chấp hành, Ng. Ngọc còn giở trò
chống trọi. Từ Sài Gòn ra, bóc bài Bùi Hiển, đăng bài Nguyễn Quang Sáng để bảo
vệ mình. 

       

        Hôm sau Nguyên Ngọc bảo tôi, Kim Lân với Đỗ Chu cùng một ruộc, một loại lưu manh làng, một loại lưu manh phố huyện.




 Huy Phương nói mấy
điều tâm sự. Chúng ta hỏng từ lâu rồi, chế độ bao cấp đẻ ra một lũ quan liêu.
Và trong cuộc đấu tranh giành quyền lợi, mọi người vừa xáp vỗ đánh nhau, vừa sợ
nhau.

 Ông Nguyên Ngọc
luôn luôn cảm thấy cẩn thận không người ta đánh mình. Ông Thi cảm thấy không
cẩn thận người đánh mình. Mỗi người lại có cái ngông ngạo riêng. Nguyên Ngọc
nghĩ mình đã từ chiến trường về, giờ mình cái gì cũng phải. Cốt động cơ mình
trong sáng, còn bài nào mình  đăng cũng đúng. Ng Đ Thi cho mình làm Tổng
Thư ký từng ấy năm, mình phải có trách nhiệm uốn nắn anh em mới.

 Sau nữa, hôm biểu
quyết tại sao ông Nguyên Ngọc lại giơ tay, để bây giờ lại hối hận. (Ý Huy
Phương nhắc lại trước đó BCH có cuộc họp, khi biểu quyết phê bình báo VN,
Nguyên Ngọc cũng giơ tay). Vì vốn thiếu một cuộc sống tình thần riêng mà. Thấy
anh em giơ cả lên, thì mình cũng giơ. Thế thôi.

 Chúng ta sống chán
lắm. Phải làm lại hết cả thì mới được.




… Một nhân vật khiến cho
tôi thấy rõ thời này: Mai Ngữ

Lúc đầu ông ta cũng hăng
hái chạy theo Đổi mới. Viết liên tục Chuyện như đùaLại
chuyện như đùa
.

Viết nhiều bài báo khác.
Bài trên Văn nghệ Quân đội số 6/88, kể ra tình trạng văn học
ta - Văn học không còn là Văn học nữa. Và đổ tất cả lỗi cho phê bình – với
nghĩa là sự chỉ đạo của trên -- đã làm hỏng nền văn nghệ.

Đến bài viết trên Quân
đội nhân dân
, về Nguyễn Huy Thiệp, MN còn giữ được mình một phần. Sửng sốt
vì Nguyễn Huy Thiệp, khi cho Không có vua là rất ghê. Thấy
rằng Nguyễn Huy Thiệp có nói cái gì đó về xã hội ta. Nhưng băn khoăn: đáng mừng
hay đáng sợ?

Có lẽ được Hà Xuân
Trường mơn - nê, đến 10/88, thấy bài  MN trên tạp chí Học
tập
 chửi bới tình hình lộn xộn trong văn học, cho là bây giờ toàn
chuyện nói xấu nhau, chuyện khiêu dâm tục tĩu. Chửi Ban Văn hoá Văn nghệ ( của
Trần Độ) là đã tổ chức một cuộc họp để làm đối trọng với cuộc họp Ban Chấp
hành.

Rồi MN viết những truyện
ngắn đây sẽ đăng trong Văn nghệ quân đội số Tết, tiếp tục chửi
bới Nguyễn Huy Thiệp và trở lại với việc vua Quang Trung.

 Bằng Việt cho biết
bên Hội Hà Nội cũng phải công nhận rằng MN quay cờ rồi, không đăng cái truyện
MN gửi (chính là truyện Giấc mộng đêm xuân sẽ in ở Văn
nghệ quân đội
)

Tôi  còn đọc truyện
ngắn Tôi là ai của MN trên báo Độc lập, số 16
(1988), một truyện  chửi Huy Cận và Xuân Thiêm. Và tôi nghĩ về Mai Ngữ:

Vốn là một người cũng
tinh ma, lọc lõi.

Lại chuyện lý lịch bị
trù dập.

Mấy chục năm nay thất
thế căm ghét người đời.

Nay nhân có lúc thuận
lợi xông ra chửi một trận

Nhưng một là chửi
thế thôi, xong cũng tầm thường như mọi người hai là, vẫn đau đớn,
xót xa vì khổ, vẫn thèm ăn, thèm uống, thèm sống. Và về căn bản, vẫn là người
căm ghét thay đổi xã hội từ trước tới nay, vẫn khinh bạc, trắng trợn. Vì thế,
sẵn sàng làm viết bậy, làm bất cứ cái gì có lợi,--  kể cả làm tay sai cho
kẻ mà mình vốn căm ghét --mà tận đáy lòng, vẫn đơn độc, chua chát.

Loại như M N, vừa là bị
chế độ này áp chế, vừa trở thành một bộ phận vun trồng cho  chế độ đó.




…/11

Họp ở Hội Nhà văn

Nguyễn Văn Bổng bảo đang
có cái mới -- tự do. Phải giữ tự do trong mức độ có thể, không làm hỏng nó đi.
Có tự do chính trị kinh tế, mới có thể tự do trong văn nghệ. Tự do văn nghệ lại
thúc đấy tự do chính trị.

Nhận định về báo Văn
Nghệ
,  Bổng nói tiếp. Nguyên Ngọc làm báo sơ hở vô cùng. Tại sao nói
nhiều về Dương Thu Hương? Ở đời khen quá lối không được. Chê quá lối không
được.Thành vấn đề xã hội, lui hay tiến đều khó.

Ý kiến tôi: Tổng biên
tập báo nên là người của ban thư ký. Bổ sung người cho tổ lý luận phê bình và
văn xuôi.




Ng Văn Hạnh: Với Đảng
ta, năm 1975 không quyết liệt bằng năm 1986. Không thể nói tình hình lộn xộn lý
luận hồ đồ. Bây giờ việc không phải Ban bí thư, mà là  Ban Văn hoá Văn
nghệ, Ban Tuyên huấn, Ban chấp hành.

Đặt vấn đề trước lương
tâm lương tri (Khái niệm cũ: nhân loại ).Tình hình đi tới, sẽ giải quyết được
nếu ta căn cứ lương tâm lương tri.




Nguyễn Đình Thi thoạt
đầu kể lại chuyện cũ nói năm 1974 chính Tố Hữu gạt vụ Cây táo  ông
Lành
 đi.  Phải  ông muốn nói hãy tin tưởng anh em cũ, tất cả
đều muốn đổi mới ?

 Về thể thức tiến
hành đại hội nhà văn: Chúng tôi phát phiếu thăm dò theo gợi ý  Ban Văn hoá
Văn nghệ. Ý của Xuân Trường là chỉ phiếu đúng 44 người mới hợp lệ.




 Rồi Ng Đ Thi giải
thích về Hội nghị Ban chấp hành vừa rồi.

        a/  Là đấu tranh để xác
định thế nào là đổi mới. Ban chấp hành đã phê bình báo Văn nghệ  không
nên độc quyền, không một chiều. Tiếng nói của Ban chấp hành lúc này là hết sức
can đảm.

b/ Làm sao để hoạt động
Ban chấp hành có ý nghĩa. Một đoàn thể, như hội nhà văn, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phải tự chủ trong phạm vi trách nhiệm của mình.

Báo Văn nghệ có
thiên hướng -- tôi nói từ hồi thành lập tạp chí Văn nghệ -- thiên
hướng tách ra. Không được. Mỗi chúng ta cố gắng bỏ cái riêng của mình. Chúng
tôi chỉ chống thả nổi, không chống định hướng rộng.

***







Trở lại Moskva




14/12

Ngồi với anh em ở Mát, nói chuyện về tình hình văn học Hà
Nội. Chỉ thấy nổi nhất là tất cả đều đứng về một phía nào đó để tranh cãi về
Nguyễn Huy Thiệp. Thiệp chia rẽ các gia đình (Cao Xuân Hạo và Văn Tâm) chia rẽ
các đám bạn bè.

 Về Đại hội , thấy không dám nói ai là người hành
động đúng cả.

Sở dĩ một người như Nguyên Ngọc làm việc được, là vì ông
ta có chút điên trong người -- cuồng nhiệt, tự tin (tuy là đầy thói xấu, nhưng
vẫn là một nhân cách cao cả).

Chưa bao giờ con người nhục nhã như lúc này. Cả loại như
Thi, Khải đều thấm nhục.




Một thanh niên: Anh nói thế, bọn em hoang mang chết.

Nhàn: Tùy. Chúng tôi cũng chưa bao giờ hoang mang như bây
giờ. Nhưng nhớ hoang mang mấy cũng phải lo viết. Viết về chính cái hoang mang
của mình. Ghi nó lại. Sau này sẽ cần. Chẳng phải là Hồi Nhân văn, đâu Lê Đạt đã
nói rằng lạc quan cũng sai, bi quan cũng sai, chỉ hoang mang là đúng.




18/12

 Ở Hà Nội mải đi
đấu hót, đi  họp, sang đây mới đọc lại báo Văn nghệ. Thoạt đầu
tôi hơi hoang mang về ông Thi, và bài phỏng vấn. Hình như ông cũng biết điều,
và với ông, không nên diều hâu quá chăng. Nhưng nghĩ kỹ lại, thấy nói như
Nguyễn Đình Thi không  được. Sẽ không là gì cả. Sẽ chỉ là cải lương thôi,
đổi mới mà như thế thì không được.




Nhớ phát biểu ở Hội Nhà
văn, Xuân Thiều tủm tỉm đầy vẻ tự tin, phân tích. Thế nào là làm giàu theo kiểu
tư bản? Khi nào là làm của theo kiểu xã hội chủ nghĩa? Rồi thế nọ thế kia.

 Cũng Xuân Thiều
khi trả lời tạp chí Văn Học: Nhà văn bao giờ cũng là người đổi mới.
Sau nữa ông ta trả lời một nhà báo nước ngoài, chúng tôi còn đang phải suy nghĩ
đểm xem đổi mới là sẽ đi đến đâu ?

LNA : Bọn nhà văn bây
giờ, sẵn sàng nói đổi mới một cách rất bậy bạ.




29/12

Một kỷ niệm sống ở Hà Nội, trong 2 tháng.

 Tại sao có lúc tôi
lại mê Đỗ Chu được nhỉ? Bây giờ Chu đã trở thành một kẻ chuyên môn đi áp phe
tin tức trong cả giới văn nghệ. Tự cho mình quyền dúng mồm vào mọi chuyện. Ngồi
đâu, Chu cũng dạy bảo người khác. Luôn luôn sử dụng lối nói đàn anh áp chế, bắt
nạt.

Một điểm nữa cũng lạ.
Chu rất hiểu về sự kém cỏi đi trong sáng tác của mình, kể cả sự lười lĩnh. Nghe
nói hình như có một lần, Lê Lựu bảo sẽ họp đại hội của những ai làm việc. Ai
không làm không họp. Chu hiểu điều đó là ám chỉ mình, và Chu sừng sộ không thể
như thế được.       

        
 Hôm họp Đảng bộ Hội Nhà văn, Chu nói đến mức tôi phải bỏ ra, vì ghê sợ
quá. Chu biết điều đó, cũng như Chu biết rằng lúc Huy Phương nói, tôi nghe rất
say sưa. Một đoạn đối thoại giữa tôi và Chu hôm sau:

- Các ông cứ nói thế, ai
dám làm  phê bình nữa? Ai làm bây giờ nào?

- Nếu tao làm báo, tao
sẽ lấy mày về. Cậu làm được, nhưng thỉnh thoảng phải trừng mắt thì cậu mới đỡ
lộn xộn.

Chu rất hiểu cái yếu
lòng của tôi.

Nhàn: Mọi chuyện đánh
giá sau sẽ hay.

Chu: Nhưng cậu phải nghe
người ta chứ. Đừng viết như hôm qua nữa.

Nhàn: Nếu viết lại, tôi
vẫn viết như thế.

Chu: Không thể được,
người ta không đăng cho cậu nữa chứ cậu tưởng!

... Đại khái như vậy.




Đề tài để suy nghĩ:

Văn học và chính trị. Chân dung Nguyễn Đình Thi.

Tình hình của giới trí
thức Cuộc vận động cách mạng và sự chính trị hoá trí thức. Bản
chất của người cán bộ. Sự quan liêu hoá như một xu thế không gì cưỡng nổi.

Mèo già hoá cáo. Rút
lại đáng quan tâm nhất chỉ còn những người làm nghề.





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 12, 2014 23:44

September 7, 2014

Một bài thơ thương khóc Liban mà như được viết riêng cho Việt Nam

 Dưới đây
là một bài thơ tôi chép lại từ trên mạng. Vốn có tên là Khốn khổ nước tôi  - nguyên
tác Pity the Nation, tác giả là nhà
thơ Kahlil Gibran, Từ Linh phỏng dịch.

     Không rõ bài thơ  đúng với nước Liban đến đâu nhưng tôi thấy nó
gần đúng với tình cảnh nước Việt ta hôm nay:

Khốn khổ nước tôi


Mê tín thì vô hạn

Tôn giáo thì nông cạn







Khốn khổ nước tôi

Mặc áo mình không dệt

Ăn gạo mình không trồng

Uống rượu mình không làm







Khốn khổ nước tôi

Ca ngợi côn đồ là anh hùng

Gọi kẻ xâm lăng là bạn vàng







Khốn khổ nước tôi

Trong mơ thì ghét cay ghét đắng

Tỉnh dậy lại đầu hàng







Khốn khổ nước tôi

Chỉ dám nói năng khi đưa tang

Chỉ dám khoe khoang di sản hoang tàn

Chỉ dám phản kháng khi đầu sắp lìa khỏi cổ







Khốn khổ nước tôi

Chính khách xảo quyệt như chó sói

Triết gia tung hứng chữ làm xiếc

Nghệ thuật bắt chước chắp và vá




Khốn khổ nước tôi

Kèn loa tưng bừng rước kẻ cai trị mới

Rồi tống cổ chúng bằng la hét phản đối

Rồi lại tưng bừng kèn loa đón kẻ cai trị khác




Khốn khổ nước tôi

Vĩ nhân càng nhiều tuổi càng lú

Thánh nhân chờ mãi chưa ra đời




Khốn khổ nước tôi

Cứ chia năm xẻ bảy chơi

Phe nào cũng xưng mình là nước




Thử cắt nghĩa  sự tương đồng

 nói ở trên




1/

 Ở thời điểm nửa cuối của năm 2014, điều gợi ra
sự chú ý của nhiều người Việt với bài thơ hẳn là mấy đoạn nói về  mối quan hệ của một xứ sở thuộc loại nhược
tiểu với các quốc gia khác. Số phận cái nước
tôi
của K.Gibran  với số phận nước Việt như do
cùng một bàn tay nhào nặn.

Giá có thể
đứng ngoài mà nhìn, ta sẽ thấy ta đang sống như mơ ngủ.

 Ta không có hiểu biết đúng đắn về  các nước lân bang và nói chung là không hiểu mọi
đối tác khác mà chúng ta có quan hệ.

Sai lầm
bắt đầu từ nhận thức. Từ chỗ lẫn lộn các tiêu chuẩn Ca ngợi côn đồ là anh
hùng Gọi kẻ xâm lăng là bạn vàng,
nay là lúc quốc
gia này không tìm ra được một cách ứng xử  hợp lý với các quốc gia khác.

  Không
phải nhiều lúc ta không biết ghê sợ cho tâm địa giảo quyệt của bọn người tự xưng là các bạn vàng. Trước kẻ xâm
lăng, lại cũng nhiều lần ta đã biết vùng dậy. Nhưng trái
đắng bắt đầu cảm thấy rõ nhất là khi xét hiệu quả của sự hy sinh ấy. Phải chăng
chúng ta hăng hái quyết liệt hy sinh cho danh nghĩa
hão bao nhiêu thì lại dễ dãi phù phiếm trong việc xem xét nền độc
lập giành được
bấy nhiêu?

Lý do, xét
thật đơn giản, là ở tình trạng miệng khôn trôn dại, như các cụ xưa nói. Mà lý
do sâu xa hơn, chúng ta thiếu một tầm vóc trí tuệ để hiểu về phương thức tồn
tại của một quốc gia, cũng như thực chất các mối quan hệ quốc tế trong lịch sử
hiện đại.   




2/

Sau hai
câu nói về đời sống tinh thần của cộng đồng, mê tín thì vô hạn / tôn giáo thì nông cạn –  sẽ còn trở lại về sau – tôi đặc biệt thích thú
mấy câu  tiếp khắc họa mấy nét sinh hoạt
vật chất.

Khốn khổ nước tôi

Mặc áo mình không dệt

Ăn gạo mình không trồng

Uống rượu mình không làm

 Trong một ngôn ngữ thơ mà người sành thơ thế kỷ XX hẳn nhớ tới những dòng thơ chính trị của
B. Brecht, --  tác giả vẽ ra cho ta thấy
hình ảnh một cộng đồng hết sức thiếu tự trọng. Bước ra thế giới, miệng hò hét
rõ to, ra cái điều mình chẳng kém ai, nhưng trong bụng thì không biết vị trí
mình là ở chỗ nào. Sống ở đất này nhưng ta luôn luôn mơ tới con người  và sản vật ở các nước khác.




Xưa nay ai
cũng bảo dân ta có thói quen bằng lòng với cuộc sống của mình. Ở Liban thế nào
không rõ chứ ở Việt Nam, nét tâm lý cái
gì đang có cũng chán, cái gì không có cũng thèm
nói trên thật ra chỉ mới
nảy sinh vài chục năm nay. Một quá trình lạ lùng đã xảy ra, tạm phác họa như
sau:

-- Trong những năm tháng chiến tranh, người dân
sống trong sự tách rời với thế giới bên ngoài.

-- Thuở ấy, được bộ máy tuyên truyền phù phép, ai cũng nghĩ dân ta là
thông minh sáng láng nhất trần đời, đánh Mỹ được thì làm gì cũng được.

Cái niềm tin kỳ lạ mang tính ảo tưởng có giải
phóng ở chúng ta một sức mạnh thật —trước tiên là năng lực thích ứng chịu đựng.


-- Thế rồi
sau chiến tranh ngẩng lên nhìn ra thiên hạ, trong mỗi một con người không ai
bảo ai  âm thầm bùng lên một sự hoảng
loạn.

 Nhìn ra thấy các dân tộc khác làm được bao
nhiêu việc, quay lại thấy mình thân tàn ma dại, lùi mãi sau người và nếu cứ kéo
mãi thế này thì chắc chắn là không bao giờ bằng người.

Tâm lý đầu
hàng bất lực buông trôi… ngày một nẩy nở.

Nay là lúc dân ta nhiều người chỉ thèm  thuồng mong được ăn
ngon mặc đẹp, đi những cái xe rất sang, tận hưởng những tiện nghi cuộc sống hiện đại mà người dân các nước được
hưởng. Tinh thần yêu nước, niềm tự hào vì quốc gia xứ sở xét cho kỹ chỉ còn là
những lời nói suông. Những ám ảnh về sự sung sướng hạnh phúc của các dân tộc
khác thường trực trong đầu mọi người. Tinh thần vọng ngoại đã thế chỗ cho tinh
thần bài ngoại.




3/

Ở nhiều
quốc gia, trong những giai đoạn lịch sử khó khăn, thường thấy xuất hiện những
bài thơ ái quốc, trong đó nhân vật trung tâm là nhân dân.

Công cụ chủ yếu được dùng để tuyên truyền là cái lối mị dân, ca
ngợi nhân dân là tốt đẹp và kêu gọi họ đứng lên đánh đổ giai cấp thống trị
đương thời, trong thực tế là mở đường cho một giai cấp thống trị mới.




Bài thơ
của Gibran có hai nét khác:

 -- một là miêu tả sự tầm thường hèn mọn ẩn kín
trong đời sống tinh thần của đa số  dân
chúng. Nó là cái ý được đề cập ngay từ đầu Mê tín thì vô hạn / tôn giáo thì nông cạn.Vâng, bề sâu là vậy, bản
sắc văn hóa là vậy, cái đã kéo dài trong lịch sử là vậy. Mọi sự thiếu ý chí, thiếu nghị lực của con người
cũng bắt đầu từ đây.

--  Hai, cũng quan trọng không
kém, là sự hư hỏng của tầng lớp tinh hoa 

Triết gia tung hứng chữ làm xiếc 

Nghệ
thuật bắt chước chắp và vá.





Nếu hiểu
theo nghĩa rộng thì khái niệm tinh hoa của một xã hội không chỉ là gồm các  triết
gia, các nghệ sĩ mà trước tiên còn bao hàm cả các chính khách, tức là các nhà
hoạt động chính trị

Sau khi xác định bọn này xảo quyệt như chó sói,
tác giả nói rõ hơn về cái đám tinh hoa cao cấp

 Vĩ nhân càng nhiều tuổi càng lú

Thánh nhân
chờ mãi chưa ra đời
.

Nhưng quan trọng hơn là phản ứng của nhân dân trước bọn chính khách nghiệp dư:

Khốn khổ
nước tôi


Kèn loa tưng bừng rước kẻ cai trị mới

Rồi tống cổ chúng bằng la hét phản đối

Rồi lại tưng bừng kèn loa đón kẻ cai trị khác




Rõ ra một
nhân dân nông nổi nhẹ dạ, dễ bị lừa bịp.




 “Nhân
dân như thế nào thì sẽ có một giai cấp thống trị tương xứng
”. Tôi nhớ đã
đọc được đâu đó một nhận xét như vậy, nay lại thấy toát ra ở bài Khốn khổ nước tôi.

 Điều khiến chúng ta khâm phục là cái ý
cuối của Gibran.

Quốc gia
này còn là khốn khổ vì không tìm được những người quản lý xứng đáng.. Trong khi
đánh lộn lẫn nhau, phe chính trị nào cũng tự xưng mình là đại diện chân chính
của quốc gia.

Khốn khổ nước tôi
Cứ chia năm xẻ bảy chơi
Phe nào cũng xưng mình là nước

Nhân dân Tổ quốc  luôn luôn được nêu lên như một thứ bung xung.




Bài thơ
kết thúc ở đây, nhưng nó ở dạng không hoàn thành. Mà như vẫn gợi cho chúng ta nghĩ
tiếp theo cái mạch đã mở.




Phụ lục

* Tôi
biết tới bài thơ này lần đầu qua bài Li-băng
- Trận chiến của những mảng màu Mosaic
 của Nguyễn Thị Phương Mai, in Tia sáng 13/12/2013. Đoạn thơ được trích
ở dạng nguyên văn trước rồi mới kèm theo bản dịch




“Nhiều lúc cứ phải quên đi mà sống
thôi!”




Pity the nation that is full of
beliefs and empty of religion.


Pity the nation that welcomes its new ruler with trumpetings, and farewells
him with hootings,only to welcome another with trumpetings again.Pity the
nation whose sages are dumb with years and whose strong men are yet in the
cradle.


Pity the nation divided into fragments, each fragment deeming itself a
nation.




[Tôi thương đất nước tôi, đầy tín ngưỡng mà chẳng có niềm tin,

Chào đón cả kẻ thù, chán chê mải mê, chỉ để rồi lại tung hô một bầy xâm lấn
khác.


Vị cứu tinh vẫn còn trong nôi, mà những kẻ cầm đầu thì rặt một bầy phụ bạc,

Đất nước tả tơi, mỗi mảnh vụn hả hê tự xưng vương ở một góc trời.]





 Nguyễn Thị  Phương Mai  cũng đưa vào bài của mình cái ghi chú - Khalil [Kahlil] Gibran là nhà thơ tài năng của Li-băng (1883-1931), người có số
lượng tác phẩm thơ xuất bản đứng thứ ba trên thế giới, sau Shakespeare và Lão Tử.





*Đoạn thơ trên sau còn được một số mạng
đưa lại và bình luận. 

Trên mạng Tễu thấy có kèm bản dịch của Nam Long

Buồn cho đất nước, tràn đầy mê muội trống rỗng niềm
tin


Buồn cho đất nước, kẻ cầm quyền được hân hoan chào
đón rồi lại bị la ó đuổi đi; kẻ khác đến quy trình lặp lại


Buồn cho đất nước, sự thông thái bị chôn vùi và anh
hùng mãi ở trong nôi


Buồn cho đất nước 
chia rẽ rã rời, mỗi mảnh ghép tưởng mình là tất cả





* Tiếp theo là nguyên bản tiếng Anh, tôi nghĩ có thể
một  số bạn cần, nên sao chép lại và dán
vào đây.

“Pity the nation that is full of
beliefs and empty of religion.


Pity the nation that wears a cloth
it does not weave,

eats a bread it does not harvest,

and drinks a wine that flows not from its own wine-press.


Pity the nation that acclaims the
bully as hero,

and that deems the glittering conqueror bountiful.


Pity a nation that despises a
passion in its dream,

yet submits in its awakening.


Pity the nation that raises not its
voice

save when it walks in a funeral,

boasts not except among its ruins,

and will rebel not save when its neck is laid

between the sword and the block.


Pity the nation whose statesman is a
fox,

whose philosopher is a juggler,

and whose art is the art of patching and mimicking.


Pity the nation that welcomes its
new ruler with trumpeting,

and farewells him with hooting,

only to welcome another with trumpeting again.


Pity the nation whose sages are dumb
with years

and whose strong men are yet in the cradle.


Pity the nation divided into
fragments,

each fragment deeming itself a nation.”
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 07, 2014 22:01

August 18, 2014

Tố Hữu 1979 ( phần tiếp)

CÁO LỖI Trong lúc vội vã, tôi đã đánh máy nhầm con số trên đề bài. Đề bài cũ ghi là Tố Hữu 1976. Nay xin đổi lại là Tố Hữu 1979. Mong được bạn đọc thứ lỗi.



3-8.

 Vụ trưởng Xuân Trường họp các báo, gợi ý phê phán bản đề dẫn và bài Hoàng Ngọc Hiến. Việc này
do Tố Hữu ra lệnh hay Xuân Trường muốn lập công?



8-8

Nghe là Đảng đoàn họp. Chế Lan Viên từ Sài Gòn ra. Xuân Trường – với vai
trò phái viên cấp trên được mời--mặt hằm hằm bước lên cầu thang.



 Người ta kể rằng với nhiều người, Tố Hữu bề ngoài ngớ ra có gì đâu,
giữa đề dẫn với ý kiến của tôi có gì khác nhau lắm đâu.

 Nhưng bên trong, nói với Thép Mới (Trần Đĩnh nói lại qua Nguyễn Thành
Long) mình đã chỉ thị phải họp Hội nghị đảng viên lại.

Nguyên Ngọc cũng cứng lắm. Hôm nọ
nói ở hội nghị đảng viên là sẽ nghiên cứu nghiêm túc bài nói Tố Hữu, hôm nay
quay về, bảo:

- Giữa ý kiến tôi với ý kiến anh Tố
Hữu phải có người sai người đúng. Chứ hoà cả làng, tôi không chịu.

Nguyên Ngọc cũng không phải không có
thế. Giữa ông với cái ghế trung ương uỷ viên kỳ này, đâu có xa lắm.

Có một cái tội của Tố Hữu mọi người
đều biết và đều hiểu là mức độ nó lớn đến đâu. Tội chửi xét lại khoảng 15 năm
nay. Trong chính trị, Tố Hữu nổi tiếng là học trò, lại lươn lẹo.

 Chính Yên kể  báo Nhân
Dân
đăng bài tính dục, bị ông trên mắng cho một mẻ. Nhưng đó là do Tố Hữu
gợi ý với Thép Mới.

 Hoặc có lần, trong một đêm
pháo hoa. Tố Hữu bảo với Nguyễn Thọ đẹp quá. Như một bức tranh tĩnh vật. Phải
có tĩnh vật chứ! Nhưng lần khác giữa một phòng triển lãm, Tố Hữu quát ầm lên,
sao lắm tĩnh vật thế này.



 11/8

Vụ xuất bản Tuyên Giáo họp, có một
số sách còn bị đánh dấu hỏi: Cha và con và …(Ng Khải), Bông mai mùa
lạnh
  (Lê Phương)

Ông Nguyễn Khải bảo chỗ mình trong
Đảng Đoàn giờ chỉ ngồi một bên mông đít, chỉ chờ người ta bảo một câu là té.

Nhưng ông Khải đang có cái kịch Hành
trình tới tự do
quá tầm thường. Từ vở kịch đó, đến hiện trạng của
Cămpuchia, xa nhau quá.




14/8

Không phải như dự đoán là có xô xát
gì. Cuộc họp Đảng Đoàn khá thuận. Chế Lan Viên hôm trước còn nói với Nguyễn
Thành Long. Tôi phải có ý kiến chứ. Bản đề dẫn kiêu ngạo... Các anh còn bênh nỗi gì?

Mọi người nghe cũng đã hoảng. Vì trong tình thế này, ông Thi là phe nghịch
rồi, chỉ còn ông Chế Lan Viên ở giữa, ông ta ngả về phe nào là phe ấy thắng.
Nay biết ra sao.

Không ngờ, ở hội nghị này, tình thế khác hẳn.

 Chế Lan Viên bảo tôi ủng hộ việc làm của anh Ngọc. Bản đề dẫn có
những sai sót, nhưng tôi và anh Thi từng làm tổ chức đều biết, làm sao tránh
được sai sót...

Tất cả những chuyện này đều do Nguyễn Khải kể. Khải bình luận thêm:

-- Mình mà mềm đi, các ông ấy thương ngay. Trong bụng các ông ấy cũng nghĩ
như mình thôi. Nguyễn Đình Thi cũng bảo nhiệm vụ chính của văn học ta hiện nay
là phải chống tư tưởng Mao Trạch Đông.

Ông Xuân Truờng cũng đến chủ yếu để thanh minh.




Trần Đĩnh hỏi Nguyễn Thành Long:

- Hỏng rồi phải không?

- Hỏng cái gì?

- Đảng Đoàn

- Ai nói thế?

- Quang Thái. Q Thái gặp Nguyễn Khải ở nhà Thợ Rèn. Hỏi thì Nguyễn Khải bảo
Đảng Đoàn đầu hàng rồi. Thế tức là hỏng chứ gì?

 Ng Khải còn kể  với Trần Đĩnh là hôm nọ gặp nhau, Ng Khải đã bảo
Q Thái với tư cách biên ủy báo Nhân Dân:

-- Thôi ông đừng cho đánh bài ông Hiến nhé. Có gì bảo chúng tôi một tiếng.
Chứ Hiến người tốt lắm cơ!

  Nguyên Ngọc vẫn kiên trì lắm thì phải. Hoặc là ông ta đúng, hoặc là
Tố Hữu đúng, giữa hai bên phải có phân định rõ rệt.

  Trần Đĩnh bảo càng ngày càng thấy cái tay Tố Hữu này quá lắm. Trần
Đĩnh nhớ, có lần ông ta nói rất hay:

- Này, đã ai đọc Lucacs chưa. Nói sâu sắc lắm. Ví như, tay ấy bảo chân lý
không phải thuộc về số đông đâu đấy nhớ.

Nhưng hôm sau, mồm ông ta lại dẻo quèo quẹo :

- Tuỳ tiện. Muốn sao muốn vậy, chỉ biết có riêng mình, không đếm xỉa gì tới
tập thể cả....

Cái anh văn nghệ của mình là vậy. Mà cái anh chính trị ở mình cũng là như
vậy cả-- Trần Đĩnh kết luận.

15/8

Ng Ngọc triệu tập các cơ quan hội để phổ biến.

- Không có vấn đề gì lớn sau hội nghị đảng viên. Những ý kiến nói xấu hội
nghị là rất có hại.

- Tiếp tục chuẩn bị  họp Đại hội các hội vào khoảng 10/1979.

Liệu tình hình chính trị có cho phép như vậy??

20/8

Sắp có bài phê bình Hoàng Ngọc Hiến.Ông Mạnh bảo việc gì đúng thì mãi chẳng
làm, việc gì sai thì cứ thấy làm ngay được.

9/9

...Nhưng mà nhập thế làm gì, thất vọng thôi.

Sau một hồi say sưa, ông Nguyên Ngọc hình như đang phục xuống, đầu hàng.
Cái tài của Nguyễn Khải là tài lôi kéo cả Nguyên Ngọc vào lối suy nghĩ thoả
hiệp của mình.  Các ông vừa nhượng bộ nhau vừa đánh phá nhau.

21/9

Không khí chung quanh như chết lặng đi. Nguyên Ngọc và Đảng đoàn mới mất
hết nhuệ khí. Từ mấy tháng trước họ cho phép đăng bài Hoàng Ngọc Hiến. Nay lại
cho Tô Hoài bác lại. Vì trên có chỉ thị phải bác.

30/9

 Không rõ chuyện Tố Hữu gọi Đảng Đoàn lên kiểm điểm có đúng không.
Trước đó đã nghe nói là trong Đảng Đoàn đoàn kết lắm cơ mà, Nguyễn Khải bảo
mình cứ nhận đi là xong. Còn các ông Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên cũng nghệ sĩ
lắm, họ sẽ đỡ cho ngay.

Nay thì không phải. Nhị Ca bảo: Nơi nào đánh nhau thì thằng Khải tìm đến
đầu tiên, rồi cũng bỏ đi đầu tiên.

 Nguyễn Khải bỏ đi thật. Ông sẽ đi sáng tác 2 tháng (tháng 10,11)

Vậy chắc chả đại hội trong năm 1979.

Trung ương vừa có một chỉ thị về chống chiến tranh tâm lý của địch. Tất cả
mâu thuẫn địch ta, nói theo cách nói của các ông ấy, có nguy cơ nuốt hết mâu
thuẫn nội bộ. Báo chí lại ngả cờ hết cả, không thấy hé ra cái gì nữa.Ngô Thảo
bảo Nguyễn Khải không muốn ra khỏi bộ đội nữa vì lão ấy biết ra Hội phải làm.
Mà làm vẫn là chỗ yếu của lão.

Nguyễn Khải ngồi tính:

 - Đã làm được gì đâu. Được mỗi buổi họp, thì nói ra nói vào mãi. Thêm
cả cái tội rủ rê trẻ chống già. Thế thì người đi họp người ta cũng chửi mình còn
gì.

Chuyện giải thưởng. Ông Chu Văn bảo anh định vỗ nợ chúng tôi hay sao. Cả
đời cuối cùng có cuốn Bão biển, anh định lờ đi chắc.




4/11

Báo Văn nghệ đăng bài của ông Tô Hoài phê phán ông Hiến. Xã hội ta
mọi việc đều tốt. Mọi mối quan hệ đều hoà hợp. Không có những hiện tượng cái
cao cả lấn át cái bình thường. Hoàng Ngọc Hiến như vậy, chỉ là thấy cái cá
biệt.

Cái ông Tô Hoài này xưa nay viết cái gì cũng giả. Nay, do phân công mà làm,
do bắt buộc phải làm, tức viết giả, thì cũng chẳng kém gì cái thật ông vẫn
viết. Nghĩa là cũng rối như canh hẹ, chả ra lý luận gì, kể cũng buồn cười.

Nhưng có phải người ta chỉ đánh ông Hiến đâu? Người ta đánh cả Đảng Đoàn.
Người ta muốn bảo không phải Đảng Đoàn làm cái gì cũng đúng.

Dường như xã hội này không có nhu cầu chân lý.

 Ng Khải ngày nào hy vọng như thế, giờ nản lòng rồi. Ai cũng bảo ông
Khải giật dây những chuyện này.” Ông Ngọc thì trong sáng, nhưng...” .Nhưng
 ở đây có nghĩa nhưng Nguyễn Khải thì rất đáng ngờ, Khải bảo. Tôi
là khâu yếu nhất trong Đảng Đoàn. Nên tôi phải đi thôi. Thế là ông Khải cắp đít
vào Sài Gòn, nói là đi thực tế, nhưng thực tế là mang vợ con vào, có thể định
cư ở đấy lâu dài.

Một mặt thì những nguyên tắc vận hành của xã hội là sai lầm nhưng mặt khác,
do đã lâu quá rồi, cái bộ máy hỏng, cho nên nó nghiền hết cả người.

Theo như tôi nhìn nhận, trước mắt chả có ai làm nổi công việc.Ng ĐThi làm
bao nhiêu năm, gần như không làm gì. Mà ông này ăn ở đến mức nào để cho kiện
cáo linh tinh. Bà Lê Minh nhiều mưu đồ. Ông Nguyễn Thành Long, ông Đào Xuân Quý
cũng tham gia rất hăng, người này vợ là cháu ông A người kia đánh trống qua ông
B., cùng hè nhau đòi trên thay ông Thi. Đằng sau lưng hai người ấy là ông Chế
Lan Viên và Tô Hoài, cả hai giấu mặt.

Bây giờ đến lượt mấy ông kế tiếp. Nguyên Ngọc cũng không thể làm gì được.
Đã có lúc, ông hé ra cái ý nghĩ mình lại về sáng tác, hoặc làm gì đó ở bộ đội.
 Nhưng Nguyễn Minh Châu bảo ông Nguyên Ngọc mà không làm bí thư thì biết
làm gì.

19/12

  Nửa năm đã qua. Không có Đại hội gì hết. Mấy tháng trước,
Nguyên Ngọc còn khăng khăng bảo trong đề dẫn không có gì là sai lạc cả. Chỉ có
những điểm nói chưa thoả đáng. Nay phải nhận trong đề dẫn có những sai lầm
nghiêm trọng (Xuân Quỳnh kể là có ai đó còn nói quá lên: ông Tố Hữu cho là
trong đó có những ý kêu gọi lật đổ.)

Học Nghị quyết 5.  Nguyên Ngọc thì cho là anh em văn nghệ sĩ rất 
tốt, chỉ chưa có sáng tác tốt. Chế Lan Viên: Tình hình báo động. Có nhiều việc
rất nguy hiểm.

Dĩ nhiên, một thứ cảnh giác chiến đấu thế, bao giờ cũng được tuyên huấn
hoan nghênh hơn.

Ông Thi sáng tác một cách hậm hụi, như là người có tài bị bỏ quên. Chế Lan
Viên bảo tôi biết làm thế nào để ra tác phẩm lớn, nhưng tôi không có điều kiện
làm.

Người ta cảm thấy trên bợp tai Đảng Đoàn qua việc phê phán bài Hoàng Ngọc
Hiến.

Nhiều người phản đối, cho là ông Tô Hoài dại. Nguyễn Văn Hoàn ở Viện văn
bảo: Trong văn học, ông Tô Hoài to, chứ trong lý luận đâu có to. Trong bài này,
ông ta lại lấy cái  tôi của mình ra để bàn lý luận. Tôi = lý luận, như thế
không ổn.

Chính Yên đến báo Văn Nghệ  làm ầm lên: Tán thành nghị quyết 6
mà các anh còn làm thế à?

Cấp trên ghét bài ông Hiến vì lý luận một phần. Nhưng phần khác, là chuyện
nhân thể cái mà Hoàng Ngọc Hiến tố cáo, người đọc thấy xã hội ta sống rất giả
dối. Con người thường bị khuôn vào những cách xử thế có sẵn.

Một mặt, người ta tỏ ra nuông chiều văn nghệ. Nhưng trong thực tế, lại sợ
lại thù ghét văn nghệ. Một bài phê phán Hoàng Ngọc Hiến trên tạp chí Văn học,
có cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có một thái độ rất dịu dàng với các nhà văn, trong
khi đó lại dám phê phán công chúng, sự thực là dám phê phán những người lãnh
đạo!

...

 Chung quanh câu chuyện văn nghệ, nhiều người (nhất là cán bộ!) để ý
theo dõi rất ghê. Nghe ngóng xem có gì sai – ai sai cũng thế -  là họ thú
vị lắm.




3/2/1980

 Bùi Văn Hoà cắt nghĩa về đoạn kết của Đảng Đoàn. Lúc đầu ông Ngọc rất
găng, không chịu. Có lần ông bảo thẳng ông Thanh, trợ lý lâu năm trên Tuyên
huấn, chuyên theo dõi văn nghệ:

-- Anh về báo cáo anh Lành. Chứ anh làm thế (trong hội nghị đảng viên) là
sỉ nhục tôi.

Mấy ông Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Chế Lan Viên vẫn chưa biết cách nào cho
Nguyên Ngọc một trận, và càng chờ trên đánh xuống.

Rồi những ngẫu nhiên xuất hiện. Chế Lan Viên đến nhà Giang Nam chơi. Giang
Nam lúc này là một thành viên Đảng Đoàn. Giang Nam tâm sự, không biết phải làm
gì bây giờ.  Chế Lan Viên bảo thế thì anh phải lên anh Lành ngay. Nếu rủ
được thằng Ngọc thì càng tốt.

Vội vã, Chế Lan Viên đóng vai trò môi giới thông báo cho cấp trên biết.
Rằng bọn Giang Nam Nguyên Ngọc sẽ lên.

Chế Lan Viên nói từ thứ bảy. Chờ qua ngày chủ nhật, không thấy, thứ hai
không thấy. Tối thứ hai, Giang Nam một minh mò lên chỗ ông Lành:

- Chúng tôi kẹt lắm.

- Phải nói thẳng vừa qua các anh đã sa đoạ về tâm hồn, các anh tưởng các
anh làm loạn được à. Không có các anh, cách mạng vẫn cứ tiến lên. Nếu trong
Đảng Đoàn, đồng chí bí thư có những biểu hiện sai trái, các anh phải đấu tranh
chứ.

Vậy là cấp trên đã bật đèn xanh cho dưới trị nhau rồi.

Nguyên Ngọc hoảng quá, thân cô thế cô, nếu bây giờ không đầu hàng đi, người
ta thay ngay. Tố Hữu đã có ý thay. Vả chăng, thay cũng được, nhưng về làm gì,
sáng tác không hay, quay ra làm cán bộ chính trị, thì sẽ bị nghi ngờ, khinh bỉ.
Ở ta là thế, tiến lên mà thất bại, quay về sẽ bị chèn ép. Vả chăng, còn phong
trào nữa chứ.

Chỉ trong 2 ngày Nguyên Ngọc suy nghĩ rồi quyết định đầu hàng. Nói rằng
mình sai lầm, mình sai lầm nghiêm trọng. Và nhận hết.

Buổi họp gần đây của Ban chấp hành có ra một nghị quyết, đánh dấu sự đầu
hàng hoàn toàn của cánh nhà văn trước Tố Hữu. Thông báo bảo rằng lấy bài nói chuyện
của Tố Hữu làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

 Khải kể mình đã khôn, nhưng ông Tô Hoài còn khôn hơn. Trong thông
báo, ông kể đủ tên Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh vào danh sách những người phát
biểu tốt cho phương hướng nghe theo ông Lành. Trong khi thực tế, họ chẳng phát
biểu gì cả.




Những  ý trên đây là do Hòa nghe từ ông Hoàng Trung Nho kể lại nên
chắc là có thể tin...

Ý Nhi bảo Tố Hữu là cái loại chính trị già đời, ông ta phải đánh cho cấp
dưới mềm xương ra rồi mới dùng.







Vĩ thanh

Trong một buổi chiêu đãi, hay buổi họp nào đấy, Nguyên Ngọc gặp lại Tố Hữu.
Ông kể ông đang hào hứng lắm. Sang làm Phó thủ tướng, bận rộn. Và ông nói với
mình (tức Ng Ngọc) một câu,  mình có thể học được này.

-    --  Cái chính là
mình phải có gan. Có gan làm thì mới được.

Nguyễn Khải thú nhận Đảng Đoàn mới chúng em có 6 tháng đã sợ quá rồi. Thế
mới biết các anh cũ 15 năm chịu đòn giỏi thật.

Tưởng như không có chuyện gì của năm 1979.  Nguyễn Khải cũng ngồi đấy.
Tôi bảo tôi muốn lẩyKiều: Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai.

- Mọi chuyện diễn ra y như trong một truyện ngắn...giỏi hư cấu



- Lại nhớ một lần, có một cậu bạn nhận xét chính đời sống cũng rất sáo.
Cấp trên đánh cấp dưới. Cấp dưới cãi một lúc, rồi đầu hàng. Thấy cấp trên đúng,
chính mình đã sai. Trước gượng gạo sau tin thật. Tôi đã thấy bao nhiêu ca như
vậy rồi. 
Cái ý này từng được Nguyễn Công Hoan dùng làm câu kết cho truyện ngắn Người vợ lẽ bạn tôi.




Viết thêm 7-2-2013

    Như đã nói ở
trên, đây là một cuộc chuyển giao quyền lực sau chiến tranh nhưng đã không
thành. Một sự thay người cần thiết nhưng được làm quá muộn. Mới loanh quanh mấy
khúc dạo đầu thì sự thay đổi đó đã bị đẩy lùi nhanh chóng. Tại sao?

     Trước mắt
chúng ta chỉ là một cuộc đấu tranh giữa những người giống nhau. Chẳng có cái
mới nào xuất hiện.Vì trong chiến tranh cái mới nếu có manh nha đã bị triệt tiêu
từ khi còn trứng nước.

     Cái mới có
khác gì cái cũ! Và nhiều người gọi là mới song cũng rất cũ. Họ vốn chẳng có bài
bản sách lược cho khoa học cho rõ ràng. Lực lượng lại thường chia rẽ.

     Về kinh
nghiệm chính trị thì lớp ở chiến trường đâu có thể so với lớp cũ đã quen chỉ
huy chỉ đạo hơn ba chục năm nay. Thế lực cũ ở đây trước tiên là Tố Hữu, người
đã  bước lên bậc thang quyền lực bằng việc quản lý giới văn nghệ và ngay
sau khi chuyển đi làm kinh tế thì cũng không bao giờ quên văn nghệ là một thứ
sân sau của mình. Thế lực này còn có cả bộ chân rết vững chắc mà sự
trung thành với chúa cũ đã trở thành bản năng. Sự chiến thắng của họ là không
thể khác.   

    Sự kiện  6-
1979 chính là báo trước sự kiện 1986 -1990, một bước đổi mới tự phát rồi
đến  giữa chừng đảo ngược, người trong cuộc vừa khao khát đổi mới vừa muốn
giữ lại cái cũ và rất sợ mất quyền lợi nếu cái mới thắng thế.

    Xin lưu ý thêm là ngoài các
vai kịch đã rõ như Tố Hữu và Nguyên Ngọc, thì  từ Hội nghị nhà văn Đảng
viên 1979, một giai đoạn rất nhiều biến động ngầm trong cuộc đời Nguyễn Đình
Thi đã hình thành: 

--Giai đoạn ông đã bị hất ra song vẫn quyết liệt tìm cách tái
lập quyền lực cho bằng được. 

--Giai đoạn ông kiên trì bám trụ giữ lấy vai trò của
một người đứng đầu giới văn nghệ tới cái mức cho người ta cảm tưởng không ai
thay thế được, -- trong khi Tố Hữu ở một tầm cỡ khác, và cuộc đời Tố Hữu có cái
kết cục buồn hơn nhiều.






GHI
CHÚ CUỐI CÙNG
19-8-2014 

Những ghi chép và cảm tưởng của tôi về các nhân vật
nói trong bài này là thuộc về thời gian từ 2012 trở về trước.



Từ đó đến nay, nhiều nhân vật tôi từng theo dõi đã
thay đổi và bản thân ý nghĩ của tôi về họ cũng thay đổi. Nhưng tôi không thể
khước từ các nhận định hôm qua, vậy nên đã để nguyên như trên. Còn những suy
nghĩ mới,  sẽ xin trình bày vào một dịp
khác. 















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2014 15:04

Tố Hữu 1976 ( phần tiếp)




3-8.

 Vụ trưởng Xuân Trường họp các báo, gợi ý phê phán bản đề dẫn và bài Hoàng Ngọc Hiến. Việc này
do Tố Hữu ra lệnh hay Xuân Trường muốn lập công?



8-8

Nghe là Đảng đoàn họp. Chế Lan Viên từ Sài Gòn ra. Xuân Trường – với vai
trò phái viên cấp trên được mời--mặt hằm hằm bước lên cầu thang.

 Người ta kể rằng với nhiều người, Tố Hữu bề ngoài ngớ ra có gì đâu,
giữa đề dẫn với ý kiến của tôi có gì khác nhau lắm đâu.

 Nhưng bên trong, nói với Thép Mới (Trần Đĩnh nói lại qua Nguyễn Thành
Long) mình đã chỉ thị phải họp Hội nghị đảng viên lại.

Nguyên Ngọc cũng cứng lắm. Hôm nọ
nói ở hội nghị đảng viên là sẽ nghiên cứu nghiêm túc bài nói Tố Hữu, hôm nay
quay về, bảo:

- Giữa ý kiến tôi với ý kiến anh Tố
Hữu phải có người sai người đúng. Chứ hoà cả làng, tôi không chịu.

Nguyên Ngọc cũng không phải không có
thế. Giữa ông với cái ghế trung ương uỷ viên kỳ này, đâu có xa lắm.

Có một cái tội của Tố Hữu mọi người
đều biết và đều hiểu là mức độ nó lớn đến đâu. Tội chửi xét lại khoảng 15 năm
nay. Trong chính trị, Tố Hữu nổi tiếng là học trò, lại lươn lẹo.

 Chính Yên kể  báo Nhân
Dân
đăng bài tính dục, bị ông trên mắng cho một mẻ. Nhưng đó là do Tố Hữu
gợi ý với Thép Mới.

 Hoặc có lần, trong một đêm
pháo hoa. Tố Hữu bảo với Nguyễn Thọ đẹp quá. Như một bức tranh tĩnh vật. Phải
có tĩnh vật chứ! Nhưng lần khác giữa một phòng triển lãm, Tố Hữu quát ầm lên,
sao lắm tĩnh vật thế này.



 11/8

Vụ xuất bản Tuyên Giáo họp, có một
số sách còn bị đánh dấu hỏi: Cha và con và …(Ng Khải), Bông mai mùa
lạnh
  (Lê Phương)

Ông Nguyễn Khải bảo chỗ mình trong
Đảng Đoàn giờ chỉ ngồi một bên mông đít, chỉ chờ người ta bảo một câu là té.

Nhưng ông Khải đang có cái kịch Hành
trình tới tự do
quá tầm thường. Từ vở kịch đó, đến hiện trạng của
Cămpuchia, xa nhau quá.




14/8

Không phải như dự đoán là có xô xát
gì. Cuộc họp Đảng Đoàn khá thuận. Chế Lan Viên hôm trước còn nói với Nguyễn
Thành Long. Tôi phải có ý kiến chứ. Bản đề dẫn kiêu ngạo... Các anh còn bênh nỗi gì?

Mọi người nghe cũng đã hoảng. Vì trong tình thế này, ông Thi là phe nghịch
rồi, chỉ còn ông Chế Lan Viên ở giữa, ông ta ngả về phe nào là phe ấy thắng.
Nay biết ra sao.

Không ngờ, ở hội nghị này, tình thế khác hẳn.

 Chế Lan Viên bảo tôi ủng hộ việc làm của anh Ngọc. Bản đề dẫn có
những sai sót, nhưng tôi và anh Thi từng làm tổ chức đều biết, làm sao tránh
được sai sót...

Tất cả những chuyện này đều do Nguyễn Khải kể. Khải bình luận thêm:

-- Mình mà mềm đi, các ông ấy thương ngay. Trong bụng các ông ấy cũng nghĩ
như mình thôi. Nguyễn Đình Thi cũng bảo nhiệm vụ chính của văn học ta hiện nay
là phải chống tư tưởng Mao Trạch Đông.

Ông Xuân Truờng cũng đến chủ yếu để thanh minh.




Trần Đĩnh hỏi Nguyễn Thành Long:

- Hỏng rồi phải không?

- Hỏng cái gì?

- Đảng Đoàn

- Ai nói thế?

- Quang Thái. Q Thái gặp Nguyễn Khải ở nhà Thợ Rèn. Hỏi thì Nguyễn Khải bảo
Đảng Đoàn đầu hàng rồi. Thế tức là hỏng chứ gì?

 Ng Khải còn kể  với Trần Đĩnh là hôm nọ gặp nhau, Ng Khải đã bảo
Q Thái với tư cách biên ủy báo Nhân Dân:

-- Thôi ông đừng cho đánh bài ông Hiến nhé. Có gì bảo chúng tôi một tiếng.
Chứ Hiến người tốt lắm cơ!

  Nguyên Ngọc vẫn kiên trì lắm thì phải. Hoặc là ông ta đúng, hoặc là
Tố Hữu đúng, giữa hai bên phải có phân định rõ rệt.

  Trần Đĩnh bảo càng ngày càng thấy cái tay Tố Hữu này quá lắm. Trần
Đĩnh nhớ, có lần ông ta nói rất hay:

- Này, đã ai đọc Lucacs chưa. Nói sâu sắc lắm. Ví như, tay ấy bảo chân lý
không phải thuộc về số đông đâu đấy nhớ.

Nhưng hôm sau, mồm ông ta lại dẻo quèo quẹo :

- Tuỳ tiện. Muốn sao muốn vậy, chỉ biết có riêng mình, không đếm xỉa gì tới
tập thể cả....

Cái anh văn nghệ của mình là vậy. Mà cái anh chính trị ở mình cũng là như
vậy cả-- Trần Đĩnh kết luận.

15/8

Ng Ngọc triệu tập các cơ quan hội để phổ biến.

- Không có vấn đề gì lớn sau hội nghị đảng viên. Những ý kiến nói xấu hội
nghị là rất có hại.

- Tiếp tục chuẩn bị  họp Đại hội các hội vào khoảng 10/1979.

Liệu tình hình chính trị có cho phép như vậy??

20/8

Sắp có bài phê bình Hoàng Ngọc Hiến.Ông Mạnh bảo việc gì đúng thì mãi chẳng
làm, việc gì sai thì cứ thấy làm ngay được.

9/9

...Nhưng mà nhập thế làm gì, thất vọng thôi.

Sau một hồi say sưa, ông Nguyên Ngọc hình như đang phục xuống, đầu hàng.
Cái tài của Nguyễn Khải là tài lôi kéo cả Nguyên Ngọc vào lối suy nghĩ thoả
hiệp của mình.  Các ông vừa nhượng bộ nhau vừa đánh phá nhau.

21/9

Không khí chung quanh như chết lặng đi. Nguyên Ngọc và Đảng đoàn mới mất
hết nhuệ khí. Từ mấy tháng trước họ cho phép đăng bài Hoàng Ngọc Hiến. Nay lại
cho Tô Hoài bác lại. Vì trên có chỉ thị phải bác.

30/9

 Không rõ chuyện Tố Hữu gọi Đảng Đoàn lên kiểm điểm có đúng không.
Trước đó đã nghe nói là trong Đảng Đoàn đoàn kết lắm cơ mà, Nguyễn Khải bảo
mình cứ nhận đi là xong. Còn các ông Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên cũng nghệ sĩ
lắm, họ sẽ đỡ cho ngay.

Nay thì không phải. Nhị Ca bảo: Nơi nào đánh nhau thì thằng Khải tìm đến
đầu tiên, rồi cũng bỏ đi đầu tiên.

 Nguyễn Khải bỏ đi thật. Ông sẽ đi sáng tác 2 tháng (tháng 10,11)

Vậy chắc chả đại hội trong năm 1979.

Trung ương vừa có một chỉ thị về chống chiến tranh tâm lý của địch. Tất cả
mâu thuẫn địch ta, nói theo cách nói của các ông ấy, có nguy cơ nuốt hết mâu
thuẫn nội bộ. Báo chí lại ngả cờ hết cả, không thấy hé ra cái gì nữa.Ngô Thảo
bảo Nguyễn Khải không muốn ra khỏi bộ đội nữa vì lão ấy biết ra Hội phải làm.
Mà làm vẫn là chỗ yếu của lão.

Nguyễn Khải ngồi tính:

 - Đã làm được gì đâu. Được mỗi buổi họp, thì nói ra nói vào mãi. Thêm
cả cái tội rủ rê trẻ chống già. Thế thì người đi họp người ta cũng chửi mình còn
gì.

Chuyện giải thưởng. Ông Chu Văn bảo anh định vỗ nợ chúng tôi hay sao. Cả
đời cuối cùng có cuốn Bão biển, anh định lờ đi chắc.




4/11

Báo Văn nghệ đăng bài của ông Tô Hoài phê phán ông Hiến. Xã hội ta
mọi việc đều tốt. Mọi mối quan hệ đều hoà hợp. Không có những hiện tượng cái
cao cả lấn át cái bình thường. Hoàng Ngọc Hiến như vậy, chỉ là thấy cái cá
biệt.

Cái ông Tô Hoài này xưa nay viết cái gì cũng giả. Nay, do phân công mà làm,
do bắt buộc phải làm, tức viết giả, thì cũng chẳng kém gì cái thật ông vẫn
viết. Nghĩa là cũng rối như canh hẹ, chả ra lý luận gì, kể cũng buồn cười.

Nhưng có phải người ta chỉ đánh ông Hiến đâu? Người ta đánh cả Đảng Đoàn.
Người ta muốn bảo không phải Đảng Đoàn làm cái gì cũng đúng.

Dường như xã hội này không có nhu cầu chân lý.

 Ng Khải ngày nào hy vọng như thế, giờ nản lòng rồi. Ai cũng bảo ông
Khải giật dây những chuyện này.” Ông Ngọc thì trong sáng, nhưng...” .Nhưng
 ở đây có nghĩa nhưng Nguyễn Khải thì rất đáng ngờ, Khải bảo. Tôi
là khâu yếu nhất trong Đảng Đoàn. Nên tôi phải đi thôi. Thế là ông Khải cắp đít
vào Sài Gòn, nói là đi thực tế, nhưng thực tế là mang vợ con vào, có thể định
cư ở đấy lâu dài.

Một mặt thì những nguyên tắc vận hành của xã hội là sai lầm nhưng mặt khác,
do đã lâu quá rồi, cái bộ máy hỏng, cho nên nó nghiền hết cả người.

Theo như tôi nhìn nhận, trước mắt chả có ai làm nổi công việc.Ng ĐThi làm
bao nhiêu năm, gần như không làm gì. Mà ông này ăn ở đến mức nào để cho kiện
cáo linh tinh. Bà Lê Minh nhiều mưu đồ. Ông Nguyễn Thành Long, ông Đào Xuân Quý
cũng tham gia rất hăng, người này vợ là cháu ông A người kia đánh trống qua ông
B., cùng hè nhau đòi trên thay ông Thi. Đằng sau lưng hai người ấy là ông Chế
Lan Viên và Tô Hoài, cả hai giấu mặt.

Bây giờ đến lượt mấy ông kế tiếp. Nguyên Ngọc cũng không thể làm gì được.
Đã có lúc, ông hé ra cái ý nghĩ mình lại về sáng tác, hoặc làm gì đó ở bộ đội.
 Nhưng Nguyễn Minh Châu bảo ông Nguyên Ngọc mà không làm bí thư thì biết
làm gì.

19/12

  Nửa năm đã qua. Không có Đại hội gì hết. Mấy tháng trước,
Nguyên Ngọc còn khăng khăng bảo trong đề dẫn không có gì là sai lạc cả. Chỉ có
những điểm nói chưa thoả đáng. Nay phải nhận trong đề dẫn có những sai lầm
nghiêm trọng (Xuân Quỳnh kể là có ai đó còn nói quá lên: ông Tố Hữu cho là
trong đó có những ý kêu gọi lật đổ.)

Học Nghị quyết 5.  Nguyên Ngọc thì cho là anh em văn nghệ sĩ rất 
tốt, chỉ chưa có sáng tác tốt. Chế Lan Viên: Tình hình báo động. Có nhiều việc
rất nguy hiểm.

Dĩ nhiên, một thứ cảnh giác chiến đấu thế, bao giờ cũng được tuyên huấn
hoan nghênh hơn.

Ông Thi sáng tác một cách hậm hụi, như là người có tài bị bỏ quên. Chế Lan
Viên bảo tôi biết làm thế nào để ra tác phẩm lớn, nhưng tôi không có điều kiện
làm.

Người ta cảm thấy trên bợp tai Đảng Đoàn qua việc phê phán bài Hoàng Ngọc
Hiến.

Nhiều người phản đối, cho là ông Tô Hoài dại. Nguyễn Văn Hoàn ở Viện văn
bảo: Trong văn học, ông Tô Hoài to, chứ trong lý luận đâu có to. Trong bài này,
ông ta lại lấy cái  tôi của mình ra để bàn lý luận. Tôi = lý luận, như thế
không ổn.

Chính Yên đến báo Văn Nghệ  làm ầm lên: Tán thành nghị quyết 6
mà các anh còn làm thế à?

Cấp trên ghét bài ông Hiến vì lý luận một phần. Nhưng phần khác, là chuyện
nhân thể cái mà Hoàng Ngọc Hiến tố cáo, người đọc thấy xã hội ta sống rất giả
dối. Con người thường bị khuôn vào những cách xử thế có sẵn.

Một mặt, người ta tỏ ra nuông chiều văn nghệ. Nhưng trong thực tế, lại sợ
lại thù ghét văn nghệ. Một bài phê phán Hoàng Ngọc Hiến trên tạp chí Văn học,
có cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có một thái độ rất dịu dàng với các nhà văn, trong
khi đó lại dám phê phán công chúng, sự thực là dám phê phán những người lãnh
đạo!

...

 Chung quanh câu chuyện văn nghệ, nhiều người (nhất là cán bộ!) để ý
theo dõi rất ghê. Nghe ngóng xem có gì sai – ai sai cũng thế -  là họ thú
vị lắm.




3/2/1980

 Bùi Văn Hoà cắt nghĩa về đoạn kết của Đảng Đoàn. Lúc đầu ông Ngọc rất
găng, không chịu. Có lần ông bảo thẳng ông Thanh, trợ lý lâu năm trên Tuyên
huấn, chuyên theo dõi văn nghệ:

-- Anh về báo cáo anh Lành. Chứ anh làm thế (trong hội nghị đảng viên) là
sỉ nhục tôi.

Mấy ông Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Chế Lan Viên vẫn chưa biết cách nào cho
Nguyên Ngọc một trận, và càng chờ trên đánh xuống.

Rồi những ngẫu nhiên xuất hiện. Chế Lan Viên đến nhà Giang Nam chơi. Giang
Nam lúc này là một thành viên Đảng Đoàn. Giang Nam tâm sự, không biết phải làm
gì bây giờ.  Chế Lan Viên bảo thế thì anh phải lên anh Lành ngay. Nếu rủ
được thằng Ngọc thì càng tốt.

Vội vã, Chế Lan Viên đóng vai trò môi giới thông báo cho cấp trên biết.
Rằng bọn Giang Nam Nguyên Ngọc sẽ lên.

Chế Lan Viên nói từ thứ bảy. Chờ qua ngày chủ nhật, không thấy, thứ hai
không thấy. Tối thứ hai, Giang Nam một minh mò lên chỗ ông Lành:

- Chúng tôi kẹt lắm.

- Phải nói thẳng vừa qua các anh đã sa đoạ về tâm hồn, các anh tưởng các
anh làm loạn được à. Không có các anh, cách mạng vẫn cứ tiến lên. Nếu trong
Đảng Đoàn, đồng chí bí thư có những biểu hiện sai trái, các anh phải đấu tranh
chứ.

Vậy là cấp trên đã bật đèn xanh cho dưới trị nhau rồi.

Nguyên Ngọc hoảng quá, thân cô thế cô, nếu bây giờ không đầu hàng đi, người
ta thay ngay. Tố Hữu đã có ý thay. Vả chăng, thay cũng được, nhưng về làm gì,
sáng tác không hay, quay ra làm cán bộ chính trị, thì sẽ bị nghi ngờ, khinh bỉ.
Ở ta là thế, tiến lên mà thất bại, quay về sẽ bị chèn ép. Vả chăng, còn phong
trào nữa chứ.

Chỉ trong 2 ngày Nguyên Ngọc suy nghĩ rồi quyết định đầu hàng. Nói rằng
mình sai lầm, mình sai lầm nghiêm trọng. Và nhận hết.

Buổi họp gần đây của Ban chấp hành có ra một nghị quyết, đánh dấu sự đầu
hàng hoàn toàn của cánh nhà văn trước Tố Hữu. Thông báo bảo rằng lấy bài nói chuyện
của Tố Hữu làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

 Khải kể mình đã khôn, nhưng ông Tô Hoài còn khôn hơn. Trong thông
báo, ông kể đủ tên Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh vào danh sách những người phát
biểu tốt cho phương hướng nghe theo ông Lành. Trong khi thực tế, họ chẳng phát
biểu gì cả.




Những  ý trên đây là do Hòa nghe từ ông Hoàng Trung Nho kể lại nên
chắc là có thể tin...

Ý Nhi bảo Tố Hữu là cái loại chính trị già đời, ông ta phải đánh cho cấp
dưới mềm xương ra rồi mới dùng.







Vĩ thanh

Trong một buổi chiêu đãi, hay buổi họp nào đấy, Nguyên Ngọc gặp lại Tố Hữu.
Ông kể ông đang hào hứng lắm. Sang làm Phó thủ tướng, bận rộn. Và ông nói với
mình (tức Ng Ngọc) một câu,  mình có thể học được này.

-    --  Cái chính là
mình phải có gan. Có gan làm thì mới được.

Nguyễn Khải thú nhận Đảng Đoàn mới chúng em có 6 tháng đã sợ quá rồi. Thế
mới biết các anh cũ 15 năm chịu đòn giỏi thật.

Tưởng như không có chuyện gì của năm 1979.  Nguyễn Khải cũng ngồi đấy.
Tôi bảo tôi muốn lẩyKiều: Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai.

- Mọi chuyện diễn ra y như trong một truyện ngắn...giỏi hư cấu



- Lại nhớ một lần, có một cậu bạn nhận xét chính đời sống cũng rất sáo.
Cấp trên đánh cấp dưới. Cấp dưới cãi một lúc, rồi đầu hàng. Thấy cấp trên đúng,
chính mình đã sai. Trước gượng gạo sau tin thật. Tôi đã thấy bao nhiêu ca như
vậy rồi. 
Cái ý này từng được Nguyễn Công Hoan dùng làm câu kết cho truyện ngắn Người vợ lẽ bạn tôi.




Viết thêm 7-2-2013

    Như đã nói ở
trên, đây là một cuộc chuyển giao quyền lực sau chiến tranh nhưng đã không
thành. Một sự thay người cần thiết nhưng được làm quá muộn. Mới loanh quanh mấy
khúc dạo đầu thì sự thay đổi đó đã bị đẩy lùi nhanh chóng. Tại sao?

     Trước mắt
chúng ta chỉ là một cuộc đấu tranh giữa những người giống nhau. Chẳng có cái
mới nào xuất hiện.Vì trong chiến tranh cái mới nếu có manh nha đã bị triệt tiêu
từ khi còn trứng nước.

     Cái mới có
khác gì cái cũ! Và nhiều người gọi là mới song cũng rất cũ. Họ vốn chẳng có bài
bản sách lược cho khoa học cho rõ ràng. Lực lượng lại thường chia rẽ.

     Về kinh
nghiệm chính trị thì lớp ở chiến trường đâu có thể so với lớp cũ đã quen chỉ
huy chỉ đạo hơn ba chục năm nay. Thế lực cũ ở đây trước tiên là Tố Hữu, người
đã  bước lên bậc thang quyền lực bằng việc quản lý giới văn nghệ và ngay
sau khi chuyển đi làm kinh tế thì cũng không bao giờ quên văn nghệ là một thứ
sân sau của mình. Thế lực này còn có cả bộ chân rết vững chắc mà sự
trung thành với chúa cũ đã trở thành bản năng. Sự chiến thắng của họ là không
thể khác.   

    Sự kiện  6-
1979 chính là báo trước sự kiện 1986 -1990, một bước đổi mới tự phát rồi
đến  giữa chừng đảo ngược, người trong cuộc vừa khao khát đổi mới vừa muốn
giữ lại cái cũ và rất sợ mất quyền lợi nếu cái mới thắng thế.

    Xin lưu ý thêm là ngoài các
vai kịch đã rõ như Tố Hữu và Nguyên Ngọc, thì  từ Hội nghị nhà văn Đảng
viên 1979, một giai đoạn rất nhiều biến động ngầm trong cuộc đời Nguyễn Đình
Thi đã hình thành: 

--Giai đoạn ông đã bị hất ra song vẫn quyết liệt tìm cách tái
lập quyền lực cho bằng được. 

--Giai đoạn ông kiên trì bám trụ giữ lấy vai trò của
một người đứng đầu giới văn nghệ tới cái mức cho người ta cảm tưởng không ai
thay thế được, -- trong khi Tố Hữu ở một tầm cỡ khác, và cuộc đời Tố Hữu có cái
kết cục buồn hơn nhiều.






GHI
CHÚ CUỐI CÙNG
19-8-2014

Những ghi chép và cảm tưởng của tôi về các nhân vật
nói trong bài này là thuộc về thời gian từ 2012 trở về trước.



Từ đó đến nay, nhiều nhân vật tôi từng theo dõi đã
thay đổi và bản thân ý nghĩ của tôi về họ cũng thay đổi. Nhưng tôi không thể
khước từ các nhận định hôm qua, vậy nên đã để nguyên như trên. Còn những suy
nghĩ mới,  sẽ xin trình bày vào một dịp
khác.













 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2014 15:04

Tố Hữu 1979

CÁO LỖI Trong lúc vội vã, tôi đã đánh máy nhầm con số trên đề bài. Đề bài cũ ghi là Tố Hữu 1976. Nay xin đổi lại là Tố Hữu 1979. Mong được bạn đọc thứ lỗi
Nguyên là
bài Ghi chép từ
Hội nghị nhà văn đảng viên 6-1979
đã in trên blog này 5-2-2013
và 7-2-1913. Nhân thấy bạn đọc quan tâm nhiều tới bài Để hiểu thêm Tố Hữu, xin giới thiệu lại hình ảnh của ông trong một
chiến dịch đặc biệt. Đây có thể xem  như một
chiến công hiển hách của nhà thơ – quan chức cao cấp này trong việc duy
trì sự tồn tại ở đỉnh cao của mình những năm sau chiến tranh, trước khi bị phế
truất 1986.



 Xin lưu ý thêm 
đây là câu chuyện xẩy ra năm 1979, chứ không phải là các sự kiện liên
quan tới công cuộc vẫn được gọi là Đổi mới, thường được xác định là sau 1986.




 Lời
dẫn


      Sự vận động của đời sống
văn nghệ luôn luôn diễn biến theo cùng một nhịp với sự vận động xã hội .


     Sau chiến tranh, có việc thống
nhất đất nước, việc sắp xếp người vào bộ máy mới. Trong văn nghệ cũng có việc
sát nhập các tổ chức văn nghệ, việc kết nạp các hội viên hội văn nghệ giải
phóng vào các hội TW…







      Tuy nhiên, có tác động chi
phối lớn nhất và chiếm vai trò chủ đạo của việc tái cấu trúc lúc ấy -- tái cấu
trúc theo nghĩa dùng đầu thế kỷ XXI -- là việc sắp xếp lại những cương vị chỉ
huy. Theo lô-gich thông thường, người từ mặt trận quay trở về phải được đền đáp
bằng cách nắm các cương vị quan trọng hơn, có tầm tác động lớn hơn. Điều đó
cũng phù hợp với một thực tế là bộ máy TW trong chiến tranh đã già cỗi và trở
nên quan liêu. Mọi người hy vọng lực lượng từ chiến trường về sẽ mang lại cho
sinh hoạt văn nghệ một  nét mặt mới.


     Trong chiến tranh, mọi việc ở
Hội nhà văn quy tụ vào nhà văn Nguyễn Đình Thi. Từ đầu 1979, nhà văn Nguyên
Ngọc được cử làm làm Phó Tổng thư ký, thay thế ông Thi, điều khiển công việc
hàng ngày.


    Trước đó, về phương diện Đảng, một
Đảng Đoàn  mới của Hội nhà văn được chỉ định, có Nguyễn Khải, Giang
Nam…và  Nguyên Ngọc được giao chức bí thư Đảng Đoàn.  Chỉ
chờ Đại hội nhà văn là ông sẽ trở thành Tổng thư ký.


      Nhiều người rỉ tai nhau
sẽ có ngày Nguyên Ngọc đóng vai trò của Tố Hữu.


      Nhưng cuộc chuyển giao
quyền lực không đơn giản.





25/5

Từ khi về nắm Hội, Nguyên Ngọc
thường có mấy nhận xét tổng quát về văn học sau chiến tranh:

- quan liêu hóa, xa đời sống

- có xu thế lảng tránh, khiếp nhược

- Kết quả -- chúng ta có một nền văn
học yếu kém. Vừa thiếu hiện thực, vừa thiếu lý tưởng.

 Hôm nay họp nghe tình hình phê
bình - lý luận, Nguyên Ngọc lại nói văn học ta không có tính tư tưởng. Lùi về
mấy năm 1969-70, ông cho rằng hỏng từ đấy. Nên 1974 mới có vụ này vụ nọ và bây
giờ mọi chuyện mới không ra sao.

( Một người như PTDuật bảo văn nghệ
hỏng từ 1973-74 v.v…Có lẽ điều đó liên quan tới vụ Vòng trắng của
Duật?)

Trong bụng tôi nghĩ, nhưng thấy nói
ra không tiện:

+Là một người tốt, có thiện chí, cho
nên Nguyên Ngọc cảm thấy rõ các nhà văn đang khiếp nhược trước thực tế. Nhà văn
kéo nhau đi làm thuê. Văn chương lẫn lộn hay dở.

+Nhưng là một nhà chính trị, cho nên
Nguyên Ngọc hay cắt nghĩa bằng những nguyên nhân gần.




Nhân ngồi trong phạm vi hẹp mấy anh
em với nhau, tôi nói cảm tưởng chung về văn học ta bây giờ. Một nền văn
học không có tác giả mà như một đám đông, một phong trào. Cũng tức là một nền
văn học không có cấu trúc, từng lớp phân biệt, mà mọi người đều lập nghiệp cùng
một kiểu và làm những việc na ná giống nhau.

Về nội dung chỉ thấy những sự lặp
lại. Cái mô típ ước mong được dùng làm kết luận cho mọi sự biến động.

Không có đóng góp nào mới về mặt
hình thức, mà chỉ có những trò tiểu xảo v.v…

Mấy câu của tôi được xem là quá sốt
sắng, đến mức ông Khải phải bảo Nhàn xem có thể nói điều gì lạc quan hơn không.
Nguyễn Thành Long bảo đúng, nói thế nào không còn cái chung nữa, thì còn đâu
ông Khải với ông Ngọc. Huy Phương tâm sự, chúng ta là những nhà văn sống cầm
hơi, những người hỏng rồi. Nguyễn Kiên an ủi,  chán mãi rồi lại phải
tìm ra cái vui thôi.




3-6

 Theo đề xuất của Nguyên Ngọc,
các cơ quan Hội Nhà văn tập trung lo chuẩn bị Đại hội. Sẽ có đủ thứ thảo luận,
ra mắt.




Trước Hội nghị Đảng viên có hai hội
nghị trù bị.

        Một
 hội nghị Đảng Đoàn gặp
những người chưa phải đảng viên.


         Không
hiểu sao hội nghị này lại thấy nổi cộm vấn đề thế hệ. Tôi ghi được vài ý. Hà
Minh Đức: Bây giờ nhiều người "tiếng cả nhà thanh" vốn liếng không
mấy, tác phẩm không có, nhưng tiếng rất to.Trần Ninh Hồ: Chúng tôi là con em
cách mạng, chúng tôi phải hơn các anh lớp trước chứ.Bùi Bình Thi: Chúng tôi chỉ
kém các anh tí tiếng Tây v.v..

Trần Ninh Hồ nói thêm: Bộ lao động
ký giấy cho 2 vạn học sinh VN ra nước ngoài học nghề một lúc. Sao các anh không
dám cho chúng tôi đi. Chúng tôi quét tuyết cũng được, bồi bàn cũng được, nhưng
sẽ có việc, và về có lúc viết được.




 Hai là cuộc họp
của những người viết văn trong quân đội. 
Cũng lại chuyện nghề nghiệp,
chuyện thế hệ chứ không phải chuyện tư tưởng như ông Ngọc chờ đợi.

Thu Bồn như sấm chớp, lại như cỏ
dại, Thu Bồn bảo các anh có gì để cho tôi tin? Tôi đã phải lo lấy bao nhiêu năm
nay. Xem ông chủ xuất bản nào tới thì làm vừa lòng ông chủ ấy. Thế thôi. Còn
thì nhìn kỹ xem phụ trách lãnh đạo văn học cách mạng chỉ là những con người của
xã hội cũ. Đối với chúng tôi, họ là một thứ cha ghẻ, không bao giờ họ có thể
yêu tôi và lo cho tôi được.

Nguyễn Đức Mậu tuyên bố cần gì phải
học (cả ông Hà Huy Giáp cũng nói thế, -- Nguyễn Đức Mậu nhấn mạnh) chúng tôi
chả kém gì những người đi trước; cứ viết đi, cứ viết đi, kẻ nào mạnh kẻ đó
thắng….




11-13/6

 Trong Hội nghị.

Thoạt đầu, là những lời kêu ca.

Ông Mai Ngữ giống như những bà già ở
nhà quê, suốt đời tham lam vơ vét, nhưng thỉnh thoảng lại ứa nước mắt rên rỉ.
Ông Ngữ bảo, những cái ông để tâm huyết thì chả ai coi ra gì còn những cái ông
viết nhảm thì lại được săn đón. Ông buồn cho cuộc đời của mình. Và ông khóc.

Nhưng rồi bi kịch trở thành hài
kịch, đó là khi ông Mai Ngữ bảo rằng đêm nào ông cũng khóc. Dĩ nhiên, ta phải
hiểu đêm nào ông cũng khóc vì ban ngày ông tham lam, tham mà không được. Thuộc
loại người tự làm hỏng mình, MN là thế, không gì cứu được kể cả thất bại.




Rồi đến những lời tố cáo.

Phan Tứ nhắc lại các luận điểm
của bí thư Đảng Đoàn Văn Nghệ cũ, ông Hà Huy Giáp:

- Xã hội không có bi kịch. Người anh
hùng không băn khoăn.

- Văn học không cần hư cấu. Ngày
trước, thời đại lạc hậu mới cần hư cấu, nay chỉ cần người thực việc thực.

Người biên tập = người lính gác,
người xét chứng minh thư.




Hoàng Ngọc Hiến phát biểu như một
cái nhìn khách quan, nhìn từ bên ngoài :

 - Lý luận là năng lực nhìn sự
việc từ nhìn sự vật từ nhiều góc độ

- Người có lý luận = người có khả
năng tổ chức, kết cấu.

- Nhà trường giúp vào việc đó.

- Nhà trường đại học có khả năng làm
cho con người trở nên ngu xuẩn. Ở ta hôm nay là thế.

Có vẻ như ông Hiến muốn mang lại cái
mà Đảng Đoàn mới đang thiếu – lý luận. Việc này đã bắt đầu từ nhiều ngày trước
và hôm nay ông Hiến chỉ tiếp tục.




Tô Nhuận Vỹ kể chuyện đời sống cơ
cực, các cô gái Huế che mặt đi bán cuốn Từ điển Anh Việt, về lấy
tiền nuôi các em.

 Tô Nhuận Vỹ nói tiếp:

-- So với những năm 60, thì hiện
nay, cái mà chúng tôi thiếu hơn cả là lý tưởng. Các anh bàn chuyện cho chúng
tôi học ngoại ngữ, học trường nọ trường kia. Nhưng làm sao đây, để chúng tôi
thêm giàu có về mặt lý tưởng.

Nguyên Ngọc thích lắm, sau còn nhắc
lại mãi.




Một hội nghị như thế này, có chi là
lý luận đâu. Người ta chỉ chia sẻ với nhau một ít lo toan.

Vài chuyện quá đáng quá, đại loại
như ở Sài gòn, vừa nghe có một vở cải lương mang tên Người tù vượt ngục thế
là chưa biết nội dung ra sao, hãy cấm cái đã. Vì tại sao lại bảo đồng chí mình
người tù.

Tại một tỉnh nọ, người ta dựng một
vở kịch viết về NgĐình Chiểu, tỉnh uỷ chỉ có một đề nghị nhỏ, phải cho Ng Đình
Chiểu thắng, thắng, từ đầu đến cuối.

Ở nước này, rồi mãi người ta vẫn
chưa thôi ngạc nhiên vì sự ngu dốt  và không ai dự đóan hết những hậu
quả của nó.




Ông Phan Tứ tiếp tục câu chuyện về
ông Hà Huy Giáp. Đâu hồi đó họ học nghị quyết X. của Đảng. Trên phát động cho
nói, ba ông trung ương uỷ viên Trần Hữu Dực, Hà Huy Giáp, Hoàng Tùng đến nghe.
Ông Hà Huy Giáp khuyến dụ anh em hãy cứ nói sự thật. Nếu có phải treo cổ, tôi
xin treo cổ bên cạnh các anh.

Hình như sau đó, cấp trên lảng hết,
chả ai giải đáp, tức chả ai đứng ra đối thoại trở lại cả. Tệ hơn nữa, trên báo
chí công khai mở một đợt phê phán văn nghệ, gọi đó là một luồng tử khí chống
Đảng.

Ai cũng biết kịch bản này không phải
của ông Hà (người ta gọi HH Giáp là thế), nhưng ông vẫn phải chịu trách nhiệm.



           Bùi Hiển bảo nói chuyện cũ thì dài dòng lắm, chính trong cái
sân nhà 51 Trần Hưng Đạo đây, bao nhiêu chuyện và mỗi con người có bao nhiêu
nét mặt.

  Bảo Định Giang kể đã có
lần lên tiếng bảo vệ Văn nghệ, bảo vệ Nguyễn Tuân. Hồi ấy, ông Tuân
cho đăng bài viết về Giò lụa trên báo Văn hoá nghệ thuật,
và bị kêu. Bảo Định Giang bảo viết thế chả hay ho gì, nhưng có lẽ cũng không
nên nói là có tội gì!

Ông Bảo Định Giang kể ôngTuân bấy
giờ cũng tâm sự:

- Mình là cái thằng không có gì mà
ăn, nói giò chả trên giấy cho sướng miệng vậy. Nhưng cái thằng ăn giò chả thật
nó lại đánh mình.




Sau buổi họp, Chế Lan Viên bảo mình
già về hưu chắc phải đề nghị Phan Tứ vào Đảng Đoàn. Bởi lẽ hắn đáng sợ quá. Cái
gì hắn cũng nhớ.

Một chuyện khác của Phan Tứ. Hồi ấy
ông đang ở nhà xuất bản Giải phóng. Được lệnh trên, phải làm gấp
một tập người tốt việc tốt của miền Nam. Mấy anh em thức đêm thức hôm để làm,
đâu 4 ngày xong. Chợt có hai ông cán bộ của Cục xuất bản đến bảo: Thôi đi, các
anh không thấy 5 triệu cuốn đang ế xưng ra kia kìa.




Khi Phan Tứ nói, thỉnh thoảng mọi
người lại cười rộ lên, như được xem một tiết mục xiếc, kìa, người đi xiêu vẹo
như vậy, mà không ngã. Lãnh đạo buồn cười thế đấy.

Nghe mọi người cười tôi hơi ghê ghê,
y như sống giữ một bày ma.

Không phải cầu toàn đâu, nhưng tôi
thấy chưa phải là quỷ dữ đã tới. Mà những đổi thay lớn chỉ có thể bắt đầu bằng
sự có mặt của quỷ dữ.

Bà Vũ Thị Thường mắng mấy người
khác, nghe những chuyện như thế này, sao tôi chả thấy ông nào đỏ mặt, tức xấu
hổ. Mà chỉ thấy các ông cười là sao!

Bây giờ đồng chí Hà Huy Giáp đã về
vườn — Phan Tứ tiếp tục -- Nhưng tôi thấy chúng ta không nên đả kích cá nhân
đồng chí Hà Huy Giáp. Chúng ta không nên cười như vậy. Nếu cứ đà này, chúng ta
sẽ cười luôn cả Trung ương không biết chừng.




          Vũ
Đức Phúc mở đầu bài tham luận của mình bằng cách phê phán bản đề dẫn của Nguyên
Ngọc.

1. Nhấn mạnh quá đáng tính sáng tạo.
Bảo rằng văn nghệ học theo đời sống, không phải sao chép đời sống, mà là học
cái tinh thần sáng tạo ở trong đó. Như vậy là rơi vào Garaudi, sáng tạo là sáng
tạo huyền thoại!

2. Chưa lý giải chính xác mối quan
hệ giữa văn nghệ và chính trị. Phải nói tới đường lối của Đảng. Nó như cái
lưới, ta có làm gì thì cũng không thoát khỏi nó, không thóat những vấn đề đã
được nêu lên trong các nghị quyết.

Ví dụ, theo tôi (VĐP), từ lâu, Đảng
đã yêu cầu văn nghệ phải có nhiệm vụ phê phán. Văn nghệ không làm, là khuyết
điểm của ta. Tôi đề nghị thời gian tới, Hội Nhà văn ta mở một chiến dịch chuyên
về việc này.




Về sau, khi phê phán Vũ Đức Phúc,
Nguyễn Chí Trung có một ý rất hay. Theo ông, người ta tuyệt đối hoá chính trị
và coi văn nghệ chỉ là cái thứ hai. Nhưng đâu phải vậy. Tại sao nhiều giai đoạn
lịch sử đã qua đi, mà tác phẩm văn học viết về giai đoạn đó lại còn. Văn nghệ
không phải chỉ là cái quả, có lúc nó còn là cái nhân nữa.

Đặt ra vấn đề con người, câu chuyện không
có gì là siêu hình cả. Chính nó là vấn đề nhân đạo CSCN.

Có điều thực là ngoạn mục: sau khi
tuyệt đối hoá chính trị người ta lại rơi vào chỗ tuyệt đối hoá văn nghệ. Làm
sao mà văn nghệ đơn độc làm được bao nhiêu việc người ta vốn kỳ vọng ở nó.




Tôi nhìn ông Vũ Đức Phúc gầy ốm, như
một ông giáo già ở nông thôn. Sao một con người như vậy, lại có thể gây ra bao
nhiêu sóng gió cho văn học trong vòng hơn chục năm nay. Ông ta vừa như là đao
phủ, muốn khai tử một ít giá trị mà một người như tôi cho là tốt đẹp (đúng hơn
là những cái muốn trở thành giá trị tốt đẹp), vừa như bà đỡ, nâng đỡ cho những
thứ mặt hàng mà một người như tôi cho là hàng giả -- ông khác với tôi quá.

Được cái, theo tôi hiểu, ông không
giả dối. Khác với vài nhân vật đàn em lươn lẹo, ông luôn luôn là mình, kiên
trì, nhạy bén, tỏ ra đầy sức sống trong việc bảo vệ niềm tin. Tôi nể phục cái
sự kiên cường của ông, ông không đầu hàng, không thay đổi, ông ta sống với lòng
tin rằng  mình đang làm những nhiệm vụ lớn.

Vũ Đức Phúc đúng là hạng chiến sĩ trên
mặt trận văn học
 (như tên một tác phẩm của ông đã đề rõ). Chỉ hiềm,
cái quan niệm về người chiến sẽ ấy, theo tôi, cổ rồi. Cái mà một người như tôi
bây giờ  hay nghĩ, người làm công tác văn nghệ trước tiên phải là một
người lao động. Bởi nói tới chiến sĩ, tức nói tới việc chấp hành mệnh lệnh từ
trên ban xuống một cách vô điều kiện, con người lấy đâu ra sự sáng suốt để làm
chủ mình. Với nghĩa vụ chỉ đâu đánh đấy, con người ta vừa quá máy móc lại vừa
quá hèn kém. Còn như nói vai trò của người làm văn nghệ như một người lao động
tôi thấy có gì khả thủ hơn. Mỗi người có thể giỏi có thể kém. Mỗi loại người có
độc giả riêng




 Chế Lan Viên lên tấn công lại
Vũ Đức Phúc một số điểm chủ yếu liên quan đến con người chứ không phải luận
điểm học thuật.

 Nhắc lại câu Vũ Đức Phúc bảo
ông Hà Huy Giáp về vườn, Chế Lan Viên bảo như thế là láo (Vũ Đức Phúc từng nói:
“Ai động vào Trung ương tôi đánh bỏ mẹ “).

Vũ Đức Phúc nói một câu chuyện gì đó
về văn học, hình như là cần khen um mọi chuyện lên, Chế Lan Viên liền bảo như
thế là chưa được, một người làm công tác nghiên cứu văn học chưa được, một Viện
phó lại càng chưa được, tôi đề nghị cách chức Viện phó.

Cuối cùng, Chế Lan Viên còn ngoặc
được vào cái ý là nghiên cứu văn học đến đâu chưa nói, nhưng văn viết ra phải
có văn. Nếu không, tôi đề nghị lập một cái hội lý luận riêng, chứ không để như
thế này mãi được, không để cho các nhà lý luận thô thiển thao túng cả văn
chương… Một đề nghị rất hợp lý đấy. Đến mức, sau khi ông Chế Lan Viên nói xong,
trong hội nghị thấy truyền tay nhau một cái giấy cáo phó, ý như thể là Chế Lan
Viên đã làm một công việc sinh phúc là khai tử cho Vũ Đức Phúc.




 Hoàng Xuân Nhị, không được
triệu tập cũng tới, song nói không được ai để ý. NgKhải bảo thôi hôm nay thì
thầy Nhị của các ông hoàn toàn chết rồi.

Sự kiên trì của mấy ông già thật
đáng sợ. Hôm sau, ông Nhị còn xin xỏ nhiều lần, để cho phép mình phát biểu, và
ông Khải lại gạt đi, rất nhanh nhạy.

Chỉ khi ông Tố Lành đến, HX Nhị mới
hồi sinh. Ông hân hoan ra mặt, ở lại chuyện trò với ông Lành vẻ rất tương đắc.
Những xác chết hôm qua, hôm nay tự nhiên thấy hồng hào tươi tắn hẳn lên--  Ng
Khải nhận xét.




 Tố Hữu đã nói gì?

- Thực tế là muôn vàn tốt đẹp.

- Vấn đề không phải là nhà văn sáng
tạo, nhà văn bịa đặt. Anh cứ ghi chép đúng thôi, nó đã thành ra tác phẩm lớn
rồi.

- Đó là phương hướng công tác văn
nghệ của chúng ta những ngày tới. Bởi đó cũng là phương hướng của ta ngày hôm
qua. Có phải  như đề cương nói, từ đầu những năm 70, Văn nghệ
ta bắt đầu hỏng đi ?  Không, văn nghệ của ta đang ngày một khá hơn
v.v..





   -- Phải biết bằng lòng với những cái đang
có. Khi người ta chưa có hoa hồng hoa cúc, cho người ta chùm hoa sim cũng đã là
nhân văn nhân đạo lắm rồi.

       

       Mấy điểm vừa nêu,
nó là cái luận cương văn nghệ của ta mấy chục năm nay. Hình như người ta không
thể nói gọn hơn.

       Những nguyên tắc
mà cấp trên dạy dỗ chúng tôi hôm nay được nói ra rất đơn giản lại có vẻ đúng
nữa. Đúng với mọi trường hợp. Chỉ nhìn kỹ mọi chuyện, mới thấy nói chuyện không
giản dị như thế. Giản lược quá lại hóa lừa bịp.

       Vừa
nghe ông Tố Hữu nói xong, Ng Đình Thi hào hứng hẳn lên “Các tướng trẻ cứ tưởng
là dễ ăn lắm...”

       Nguyễn
Đức Nam bảo thế này rất khó tổng kết.        

        Nguyên
Ngọc sốt ruột ra mặt. Nguyên Ngọc muốn ông Lành về cho mau còn bàn chuyện tổng
kết hội nghị. Ng Khải thì bề ngoài ngược lại. Về sau, Khải bảo ngồi nghe ông Tố
Hữu nói, thỉnh thoảng mình phải làm bộ há mồm thật to, làm như không hiểu gì
cả.

-- Nhỡ lúc ấy mà cấp trên giở mặt thì
bỏ mẹ mình -- Nguyễn Khải nói thêm khi giữ tôi lại cùng về sau tất cả mọi
người.

 Trong giới ông Khải vẫn được
tiếng là người sắc sảo. Ai cũng bảo là ông Ngọc phải nhờ ông này mới giải quyết
được mọi việc. Đảng Đoàn ông  Khải  đã có tiếng
đồn như vậy. Nghĩ thấy kinh sợ. Lại nhớ có lần Ng Khải bảo: “Viết xong được một
tác phẩm tốt, cho ra mắt, thấy rủn cả người. Vì phải vượt qua nhiều cạm bẫy
quá.”

 Lần này, lúc lấy xe đạp ra về,
Ng Khải bảo nay mai tôi lại đi sáng tác được rồi, chứ còn việc gì phải lo mà làm
tổ chức. Cứ xua anh em đi thực tế là xong. Nhẹ mình. Y như các ông trước.







Với sự xuất hiện của Tố Hữu, hội
nghị như bị dội một gáo nước lạnh. Và không khí đó kéo dài râm ran mãi. NgKhải
hôm trước cổ động hăng hái lắm, bây giờ rụt lại “mình cũng không nên làm cho
cấp trên giận dữ”.

       Ngay
sau Hội nghị Nguyên Ngọc đi vắng, ông Khải ở nhà chạy bao sân chung cả Hội nên
càng hoảng.

    Khải dao
động lắm, Nguyên Ngọc xưa nay vẫn nhận định vậy.

Tuy nhiên, theo Ngọc, Ng Khải lại
được cái giỏi chịu đòn.

Bùi Hòa dẫn một câu tổng kết của anh
em – gọi là nặc danh thôi, chứ chắc từ mồm Chế Lan Viên

Hội nghị đảng viên này:

- Quân sự lấn dân sự

- Bắc Trung lấn Nam.

- Trẻ lấn già.

- Tổ chức lỗi thời.

- Lý luận dài dòng




4/7

 Theo Xuân Trường giao ban ở
trên, cuộc họp hội nghị đảng viên gây cho anh em nhiều hoang mang. Báo cáo của
NgNgọc có một số sơ xuất. Nhưng đấu đá nhau như thế hơi quá, anh em địa phương
có người phát sợ. Riêng việc chỉ triệu tập một số đảng viên đã gây ra thắc mắc.
Trên Vụ Tuyên huấn còn định cho anh em thảo luận về bài Tố Hữu.

Vẫn theo báo cáo của Xuân Trường,
anh em cho là không có tự do sáng tác, nên không thể viết hay được và đấy là lý
do càng phải thảo luận.




       Trước
buổi họp, Hoàng Ngọc Hiến viết một bài đang làm dư luận xôn xao. Nhân chuyện
Nguyễn Minh Châu cho rằng ta thích tả đời sống như ta mong muốn, ta thích hiện
thực phải đạo, ông Hiến nêu một công thức -- ở ta đang có xu hướng cái
cao cả lấn cái bình thường. 
Và cái thói phải đạo kia là nội dung chủ
nghĩa hiện thực ta hay nói. Vậy nên gọi nó là chủ nghĩa hiện thực phải
đạo.


 Thứ hai văn nghệ ta không thật
và  dựa trên một thái độ chung: sống cũng không thật.



        Đọc bài ông Hiến, tôi nghĩ:

        Bảo rằng ở ta  “Nội dung đang lấn hình thức, bản chất
lấn hiện tượng” còn là sang trọng quá.

Với tôi ở ta làm gì có chuyện “nội
dung khá mà hình thức kém” - Chỉ có một nền văn nghệ kém, cấu tạo thấp, tổ chức
thấp. Cả nội dung văn học cũng thấp lè tè. Không miêu tả được hiện tượng chứ đừng nói
rút ra bản chất của hiện tượng.

Nhưng như thế đã đủ để Đảng Đoàn mới thích
thú mà Đảng Đoàn cũ tức giận. Người ta đang định đánh nhà lý luận này.




Loại người như ông Hiến, rất hợp với
ông Nguyên Ngọc. Cả hai đều thuộc loại người thích lý tưởng hóa mọi chuyện. Hay
nói như Hiến , đều nghiêng về phạm trù cái cao cả. Họ đang được coi là loại tân
tiến so với ông Thi và các loại Đức, Đệ . Tôi thì tôi nghĩ họ nhiều ảo tưởng.




Trở lại chuyện quanh buổi họp

Bây giờ mới biết, trước hội nghị
Nguyên Ngọc xin mãi mà không gặp được Tố Hữu.

Tới lúc họp, Nguyên Ngọc vẫn
băn khoăn, làm sao báo cáo cho ông Lành biết.

Sự việc quả nhiên đúng như lo lắng,
ông Lành đến nói ngược hẳn với báo cáo. Nguyên Ngọc như ngồi phải đống lửa, cứ
run lên.

Thật ra, báo cáo của Nguyên Ngọc chỉ
hơi có vẻ bài bản mới mẻ một chút, luận điểm lấy nhiều cái ở trong tài liệu mà lâu nay ông Hiến
vẫn dịch.

Ra vẻ "một bước tiến mới" quá. Tư thế bí thư Đảng Đoàn
nghênh ngang quá. Có lẽ vì vậy, nên bị  Tố Hữu cho một vố.

Có người bảo tại ông Vũ Đức Phúc lên
“ tâu nộp “ ở trên. Nhưng chắc không chỉ một Vũ Đức Phúc.

Một ý kiến khác. Là tại Vụ văn nghệ,
Xuân Trường và các trợ lý.  Ờ, có lý. Người ta vẫn là tai mắt của ông
chủ cũ.

Có những việc, vừa nói hôm trước ở
Hội nghị, -- như  việc ông Ng Đ Thi kể chuyện các nhà văn Liên Xô tự
tử - hôm sau đã đến tai Tố Hữu rồi.

Với sự thành thạo của mình, Nguyễn
Khải hôm sau bảo mấy người bọn tôi, có chỗ Tố Hữu mắng Nguyễn Đình Thi mà các
ông không biết đấy. Liên quan đến đoạn Ng Đ Thi kể chuyện mấy ông nhà văn Liên xô tự
tử vừa nói. Tố Hữu cho là không được cho  anh em nhà văn ta biết điều ấy.




Khi Tố Hữu nói đến chuyện khẳng định
nền văn nghệ ( “Phải cho người ta cột cây số để người ta biết đến đâu mà phấn
đấu chứ. Không cho là ác độc! “) thì Nguyễn Khải ngoảnh lại Chế Lan Viên:

- Tôi sợ các nhà thơ nước ta thật.
Ăn nói ghê gớm đến thế là cùng chứ gì?

- Thì chính mình xưa nay vẫn phải sợ
cái ông này cơ mà.




Theo Nguyễn Quân, ông Phạm Văn Đồng có thể nói việc này Trung ương chịu đấy,
các đồng chí có ý kiến giải quyết thế nào không.

Thậm chí ông Lê Duẩn trong nhiều
cuộc họp vẫn nói ta khó khăn lắm, khó khăn lắm.

 Chỉ có Tố Hữu là lúc nào cũng
bảo các đồng chí yên tâm, đã có cách giải quyết. Cũng như lúc này, trong khi Lê
Đức Thọ bảo chưa bao giờ khó khăn như bây giờ, thì Tố Hữu bảo chưa bao giờ
Trung ương vững như lúc này.

Từ lâu, Tố Hữu đã tự đồng hóa mình
với nền văn nghệ này. Khẳng định nó là khẳng định ông. Mà sổ toẹt nó là sổ toẹt
ông.

  Cách bảo vệ mình của Tố Hữu
đầy tự tin như chỉ có ở các ông chủ.




Trong hội nghị, anh em có truyền tay
nhau một thông tri cáo phó báo tin Vũ Đức Phúc chết. Mà chuyện
này hình như khởi sự từ  Nguyên Hồng.

Ai báo cáo với Tố Hữu không biết,
hôm sau đến, Tố Hữu đã cho Nguyên Hồng một đòn ngay:

--Sao lại để râu thế kia. Trông như
râu giả cắm vào cằm chứ không phải râu thật. Thôi, không khéo ông để râu để
trốn họp rồi.

 Nguyễn Khải:

--  Tinh nhậy quá. Đúng
râu ông Hồng phải nói là trông như râu giả thật.




  Một cán bộ quân sự  từng
kể với tôi Tố Hữu lúc đi vào B2, với tư cách cấp trên thị sát chiến trường,
quát mắng tướng tá ghê lắm!

Kỳ vừa rồi, họp tổng kết đánh Trung
Quốc, cũng chửi cấp dưới sa sả!

Lần này nhìn gần tôi nhận ra một
điều mới. Ông làm chủ tất cả ngôn ngữ cử chỉ của mình Vốn có giọng nói đều đều
nhạt nhạt, vậy mà  đến lúc cần phải quyết liệt, ông bỗng có thể thay
đổi nét mặt thay đổi giọng nói.

 Y như sẽ nói ra những điều đơn
giản lắm mà cấp dưới vì ngu đần quá nên không hiểu. Đúng, bọn chúng ngu đần
quá, thương mãi làm sao đươc!

 Việt Phương kể là ở chỗ khác,
Tố Hữu không nói đến thế đâu! Có lúc, ông ta phải bảo tôi phải đội trên đầu
không biết bao nhiêu người. Chỉ đến với văn nghệ ông mới cao giọng hết cỡ thế.




Nguyên Ngọc ngồi nghe ức lắm, nhưng
là cấp dưới, không biết làm thế nào. Lúc Tố Hữu nói xong, lên phát biểu đại ý
là xin chấp hành chỉ thị của cấp trên, liền bị Tố Hữu gạt ngay:

- Đây tôi cũng phát biểu với tư cách
hội viên Hội Nhà văn luôn thể.

Tối hôm đó, chính mồm Nguyên Ngọc
nói và tôi nghe tiếng, không ngờ cái ông này ác độc thật, ác độc thật.




 23/7

         Ba
tuần đã trôi qua mà vẫn chưa hết bàng hoàng về chuyện cũ.

 Ng Ngọc sau khi bị Tố Hữu át
giọng, rất run. Than thở, năm nay là năm tuổi của mình hay sao mà bị toàn
chuyện tai hoạ.




  Ng Khải đã viết thư xin
ở lại quân đội chứ không  ra ngoài như dự định. Có tin ông  sẽ
làm chủ nhiệm tạp chí.

  Nếu có Đại hội, Khải sẽ
là đầu mối các nơi làm báo cáo đọc trong Đại hội các nhà văn.




Dạo này, VNQĐ lại có thêm một nhà văn
mới Nguyễn Chí Trung. Ông ta  năm mươi tuổi chưa có vợ, bụng phị, từ Đà
Nẵng ra, mang theo cả thanh gỗ đóng bàn ghế, có hôm thấy con Thu Bồn ngồi đấy,
xuýt xoa thương cháu quá, nhưng có quà trong túi nhất định không chịu mang cho.
Ông Chí Trung ấy lâu nay sống như cái bóng của ông Ngọc, đến Hội nghị nhà văn
đảng viên vừa rồi, cũng có chân trong ban lãnh đạo hội nghị. Và ông ta lên phát
biểu, người thì thô lỗ, lại làm ra vẻ trữ tình, nói toàn chuyện cao siêu.

    --Tôi đến Cămpuchia, bụng chỉ nghĩ: con người ta là
thế nào nhỉ? Sao lại đặt ra tên? Sao lại có hàng xóm? Ý ông muốn nói ở
Cămpuchia bọn Pol Pot nó xoá hết.

Ông Tế Hanh phải bảo ông này đang giảng triết học cho chiến sĩ đại đội.







Trong buổi nói chuyện, Tố Hữu kể ở
trên Cao Bằng có một HTX đánh Trung Quốc rất giỏi, thì giữa buổi họp khi sắp
tổng kết, Ngô Thảo bảo  mình đã đến chỗ ấy rồi, họ bịp hết.

Kể về một nơi sản xuất giỏi thực sự
thì Ngô Thảo bảo căn bản nó tự làm, tỉnh chẳng đầu tư gì nên mới được thế. Còn
nếu các ông trên mà lại sờ  tay vào, nó chết bỏ mẹ bây giờ.

Lúc tổng kết, Nguyên Ngọc cố lái mọi
thứ vào theo Tố Hữu nhưng vẫn không khỏi muốn bác bỏ Tố Hữu. Cũng ở xã.. xã...  nơi
đồng chí Tố Hữu thấy vậy, nhưng đồng chí Ngô Thảo thấy khác.

Nhưng có lẽ sau đó sợ, Nguyên Ngọc
phải khẳng định:

- Cố nhiên, cái nhìn của đồng chí Tố
Hữu là tuyệt đối đúng đắn.

Ngô Thảo về sau nhận ra ngay:

--Ông ấy bán mình nhanh gớm! Biến
anh em thành vật hy sinh ngay thôi.




 Nghe Tố Hữu nói, Nguyên Ngọc
trông thất thần ra mặt, nhưng lúc tổng kết, vẫn giữ lấy bình tĩnh, bám vào cái
phao kia, mình nào có khác gì ông Tố Hữu.

 Về sau, lại nghe ông ta bảo Tôi
vẫn kiên trì ý kiến của tôi. Mất tôi chả mất cái gì
.

Tố Hữu còn kiên trì hơn. Ban đầu,
tưởng là ông chỉ đọc bản đề dẫn qua loa. Hoá ra ông đọc rất cẩn thận. Ở hội
nghị trở về, ông sửa, gạch chấm đánh dấu từng chữ. Sang Liên Xô, ông ta còn
điện về hỏi ý kiến của anh em hiện nay ra sao.

Chỉ có điều hay, trước đó, một số
anh em, nhất là lớp cũ (Xuân Diệu, Nguyễn Văn Bổng) rất ghét Bí thư Đảng Đoàn
mới, nay lại đứng về phía Nguyên Ngọc.






 (còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2014 14:49

Tố Hữu 1976

Nguyên là
bài Ghi chép từ
Hội nghị nhà văn đảng viên 6-1979
đã in trên blog này 5-2-2013
và 7-2-1913. Nhân thấy bạn đọc quan tâm nhiều tới bài Để hiểu thêm Tố Hữu, xin giới thiệu lại hình ảnh của ông trong một
chiến dịch đặc biệt. Đây có thể xem  như một
chiến công hiển hách của nhà thơ – quan chức cao cấp này trong việc duy
trì sự tồn tại ở đỉnh cao của mình những năm sau chiến tranh, trước khi bị phế
truất 1986.

 Xin lưu ý thêm 
đây là câu chuyện xẩy ra năm 1976, chứ không phải là các sự kiện liên
quan tới công cuộc vẫn được gọi là Đổi mới, thường được xác định là sau 1986.




 Lời
dẫn


      Sự vận động của đời sống
văn nghệ luôn luôn diễn biến theo cùng một nhịp với sự vận động xã hội .


     Sau chiến tranh, có việc thống
nhất đất nước, việc sắp xếp người vào bộ máy mới. Trong văn nghệ cũng có việc
sát nhập các tổ chức văn nghệ, việc kết nạp các hội viên hội văn nghệ giải
phóng vào các hội TW…






      Tuy nhiên, có tác động chi
phối lớn nhất và chiếm vai trò chủ đạo của việc tái cấu trúc lúc ấy -- tái cấu
trúc theo nghĩa dùng đầu thế kỷ XXI -- là việc sắp xếp lại những cương vị chỉ
huy. Theo lô-gich thông thường, người từ mặt trận quay trở về phải được đền đáp
bằng cách nắm các cương vị quan trọng hơn, có tầm tác động lớn hơn. Điều đó
cũng phù hợp với một thực tế là bộ máy TW trong chiến tranh đã già cỗi và trở
nên quan liêu. Mọi người hy vọng lực lượng từ chiến trường về sẽ mang lại cho
sinh hoạt văn nghệ một  nét mặt mới.


     Trong chiến tranh, mọi việc ở
Hội nhà văn quy tụ vào nhà văn Nguyễn Đình Thi. Từ đầu 1979, nhà văn Nguyên
Ngọc được cử làm làm Phó Tổng thư ký, thay thế ông Thi, điều khiển công việc
hàng ngày.


    Trước đó, về phương diện Đảng, một
Đảng Đoàn  mới của Hội nhà văn được chỉ định, có Nguyễn Khải, Giang
Nam…và  Nguyên Ngọc được giao chức bí thư Đảng Đoàn.  Chỉ
chờ Đại hội nhà văn là ông sẽ trở thành Tổng thư ký.


      Nhiều người rỉ tai nhau
sẽ có ngày Nguyên Ngọc đóng vai trò của Tố Hữu.


      Nhưng cuộc chuyển giao
quyền lực không đơn giản.





25/5

Từ khi về nắm Hội, Nguyên Ngọc
thường có mấy nhận xét tổng quát về văn học sau chiến tranh:

- quan liêu hóa, xa đời sống

- có xu thế lảng tránh, khiếp nhược

- Kết quả -- chúng ta có một nền văn
học yếu kém. Vừa thiếu hiện thực, vừa thiếu lý tưởng.

 Hôm nay họp nghe tình hình phê
bình - lý luận, Nguyên Ngọc lại nói văn học ta không có tính tư tưởng. Lùi về
mấy năm 1969-70, ông cho rằng hỏng từ đấy. Nên 1974 mới có vụ này vụ nọ và bây
giờ mọi chuyện mới không ra sao.

( Một người như PTDuật bảo văn nghệ
hỏng từ 1973-74 v.v…Có lẽ điều đó liên quan tới vụ Vòng trắng của
Duật?)

Trong bụng tôi nghĩ, nhưng thấy nói
ra không tiện:

+Là một người tốt, có thiện chí, cho
nên Nguyên Ngọc cảm thấy rõ các nhà văn đang khiếp nhược trước thực tế. Nhà văn
kéo nhau đi làm thuê. Văn chương lẫn lộn hay dở.

+Nhưng là một nhà chính trị, cho nên
Nguyên Ngọc hay cắt nghĩa bằng những nguyên nhân gần.




Nhân ngồi trong phạm vi hẹp mấy anh
em với nhau, tôi nói cảm tưởng chung về văn học ta bây giờ. Một nền văn
học không có tác giả mà như một đám đông, một phong trào. Cũng tức là một nền
văn học không có cấu trúc, từng lớp phân biệt, mà mọi người đều lập nghiệp cùng
một kiểu và làm những việc na ná giống nhau.

Về nội dung chỉ thấy những sự lặp
lại. Cái mô típ ước mong được dùng làm kết luận cho mọi sự biến động.

Không có đóng góp nào mới về mặt
hình thức, mà chỉ có những trò tiểu xảo v.v…

Mấy câu của tôi được xem là quá sốt
sắng, đến mức ông Khải phải bảo Nhàn xem có thể nói điều gì lạc quan hơn không.
Nguyễn Thành Long bảo đúng, nói thế nào không còn cái chung nữa, thì còn đâu
ông Khải với ông Ngọc. Huy Phương tâm sự, chúng ta là những nhà văn sống cầm
hơi, những người hỏng rồi. Nguyễn Kiên an ủi,  chán mãi rồi lại phải
tìm ra cái vui thôi.




3-6

 Theo đề xuất của Nguyên Ngọc,
các cơ quan Hội Nhà văn tập trung lo chuẩn bị Đại hội. Sẽ có đủ thứ thảo luận,
ra mắt.




Trước Hội nghị Đảng viên có hai hội
nghị trù bị.

        Một
 hội nghị Đảng Đoàn gặp
những người chưa phải đảng viên.


         Không
hiểu sao hội nghị này lại thấy nổi cộm vấn đề thế hệ. Tôi ghi được vài ý. Hà
Minh Đức: Bây giờ nhiều người "tiếng cả nhà thanh" vốn liếng không
mấy, tác phẩm không có, nhưng tiếng rất to.Trần Ninh Hồ: Chúng tôi là con em
cách mạng, chúng tôi phải hơn các anh lớp trước chứ.Bùi Bình Thi: Chúng tôi chỉ
kém các anh tí tiếng Tây v.v..

Trần Ninh Hồ nói thêm: Bộ lao động
ký giấy cho 2 vạn học sinh VN ra nước ngoài học nghề một lúc. Sao các anh không
dám cho chúng tôi đi. Chúng tôi quét tuyết cũng được, bồi bàn cũng được, nhưng
sẽ có việc, và về có lúc viết được.




 Hai là cuộc họp
của những người viết văn trong quân đội. 
Cũng lại chuyện nghề nghiệp,
chuyện thế hệ chứ không phải chuyện tư tưởng như ông Ngọc chờ đợi.

Thu Bồn như sấm chớp, lại như cỏ
dại, Thu Bồn bảo các anh có gì để cho tôi tin? Tôi đã phải lo lấy bao nhiêu năm
nay. Xem ông chủ xuất bản nào tới thì làm vừa lòng ông chủ ấy. Thế thôi. Còn
thì nhìn kỹ xem phụ trách lãnh đạo văn học cách mạng chỉ là những con người của
xã hội cũ. Đối với chúng tôi, họ là một thứ cha ghẻ, không bao giờ họ có thể
yêu tôi và lo cho tôi được.

Nguyễn Đức Mậu tuyên bố cần gì phải
học (cả ông Hà Huy Giáp cũng nói thế, -- Nguyễn Đức Mậu nhấn mạnh) chúng tôi
chả kém gì những người đi trước; cứ viết đi, cứ viết đi, kẻ nào mạnh kẻ đó
thắng….




11-13/6

 Trong Hội nghị.

Thoạt đầu, là những lời kêu ca.

Ông Mai Ngữ giống như những bà già ở
nhà quê, suốt đời tham lam vơ vét, nhưng thỉnh thoảng lại ứa nước mắt rên rỉ.
Ông Ngữ bảo, những cái ông để tâm huyết thì chả ai coi ra gì còn những cái ông
viết nhảm thì lại được săn đón. Ông buồn cho cuộc đời của mình. Và ông khóc.

Nhưng rồi bi kịch trở thành hài
kịch, đó là khi ông Mai Ngữ bảo rằng đêm nào ông cũng khóc. Dĩ nhiên, ta phải
hiểu đêm nào ông cũng khóc vì ban ngày ông tham lam, tham mà không được. Thuộc
loại người tự làm hỏng mình, MN là thế, không gì cứu được kể cả thất bại.




Rồi đến những lời tố cáo.

Phan Tứ nhắc lại các luận điểm
của bí thư Đảng Đoàn Văn Nghệ cũ, ông Hà Huy Giáp:

- Xã hội không có bi kịch. Người anh
hùng không băn khoăn.

- Văn học không cần hư cấu. Ngày
trước, thời đại lạc hậu mới cần hư cấu, nay chỉ cần người thực việc thực.

Người biên tập = người lính gác,
người xét chứng minh thư.




Hoàng Ngọc Hiến phát biểu như một
cái nhìn khách quan, nhìn từ bên ngoài :

 - Lý luận là năng lực nhìn sự
việc từ nhìn sự vật từ nhiều góc độ

- Người có lý luận = người có khả
năng tổ chức, kết cấu.

- Nhà trường giúp vào việc đó.

- Nhà trường đại học có khả năng làm
cho con người trở nên ngu xuẩn. Ở ta hôm nay là thế.

Có vẻ như ông Hiến muốn mang lại cái
mà Đảng Đoàn mới đang thiếu – lý luận. Việc này đã bắt đầu từ nhiều ngày trước
và hôm nay ông Hiến chỉ tiếp tục.




Tô Nhuận Vỹ kể chuyện đời sống cơ
cực, các cô gái Huế che mặt đi bán cuốn Từ điển Anh Việt, về lấy
tiền nuôi các em.

 Tô Nhuận Vỹ nói tiếp:

-- So với những năm 60, thì hiện
nay, cái mà chúng tôi thiếu hơn cả là lý tưởng. Các anh bàn chuyện cho chúng
tôi học ngoại ngữ, học trường nọ trường kia. Nhưng làm sao đây, để chúng tôi
thêm giàu có về mặt lý tưởng.

Nguyên Ngọc thích lắm, sau còn nhắc
lại mãi.




Một hội nghị như thế này, có chi là
lý luận đâu. Người ta chỉ chia sẻ với nhau một ít lo toan.

Vài chuyện quá đáng quá, đại loại
như ở Sài gòn, vừa nghe có một vở cải lương mang tên Người tù vượt ngục thế
là chưa biết nội dung ra sao, hãy cấm cái đã. Vì tại sao lại bảo đồng chí mình
người tù.

Tại một tỉnh nọ, người ta dựng một
vở kịch viết về NgĐình Chiểu, tỉnh uỷ chỉ có một đề nghị nhỏ, phải cho Ng Đình
Chiểu thắng, thắng, từ đầu đến cuối.

Ở nước này, rồi mãi người ta vẫn
chưa thôi ngạc nhiên vì sự ngu dốt  và không ai dự đóan hết những hậu
quả của nó.




Ông Phan Tứ tiếp tục câu chuyện về
ông Hà Huy Giáp. Đâu hồi đó họ học nghị quyết X. của Đảng. Trên phát động cho
nói, ba ông trung ương uỷ viên Trần Hữu Dực, Hà Huy Giáp, Hoàng Tùng đến nghe.
Ông Hà Huy Giáp khuyến dụ anh em hãy cứ nói sự thật. Nếu có phải treo cổ, tôi
xin treo cổ bên cạnh các anh.

Hình như sau đó, cấp trên lảng hết,
chả ai giải đáp, tức chả ai đứng ra đối thoại trở lại cả. Tệ hơn nữa, trên báo
chí công khai mở một đợt phê phán văn nghệ, gọi đó là một luồng tử khí chống
Đảng.

Ai cũng biết kịch bản này không phải
của ông Hà (người ta gọi HH Giáp là thế), nhưng ông vẫn phải chịu trách nhiệm.



           Bùi Hiển bảo nói chuyện cũ thì dài dòng lắm, chính trong cái
sân nhà 51 Trần Hưng Đạo đây, bao nhiêu chuyện và mỗi con người có bao nhiêu
nét mặt.

  Bảo Định Giang kể đã có
lần lên tiếng bảo vệ Văn nghệ, bảo vệ Nguyễn Tuân. Hồi ấy, ông Tuân
cho đăng bài viết về Giò lụa trên báo Văn hoá nghệ thuật,
và bị kêu. Bảo Định Giang bảo viết thế chả hay ho gì, nhưng có lẽ cũng không
nên nói là có tội gì!

Ông Bảo Định Giang kể ôngTuân bấy
giờ cũng tâm sự:

- Mình là cái thằng không có gì mà
ăn, nói giò chả trên giấy cho sướng miệng vậy. Nhưng cái thằng ăn giò chả thật
nó lại đánh mình.




Sau buổi họp, Chế Lan Viên bảo mình
già về hưu chắc phải đề nghị Phan Tứ vào Đảng Đoàn. Bởi lẽ hắn đáng sợ quá. Cái
gì hắn cũng nhớ.

Một chuyện khác của Phan Tứ. Hồi ấy
ông đang ở nhà xuất bản Giải phóng. Được lệnh trên, phải làm gấp
một tập người tốt việc tốt của miền Nam. Mấy anh em thức đêm thức hôm để làm,
đâu 4 ngày xong. Chợt có hai ông cán bộ của Cục xuất bản đến bảo: Thôi đi, các
anh không thấy 5 triệu cuốn đang ế xưng ra kia kìa.




Khi Phan Tứ nói, thỉnh thoảng mọi
người lại cười rộ lên, như được xem một tiết mục xiếc, kìa, người đi xiêu vẹo
như vậy, mà không ngã. Lãnh đạo buồn cười thế đấy.

Nghe mọi người cười tôi hơi ghê ghê,
y như sống giữ một bày ma.

Không phải cầu toàn đâu, nhưng tôi
thấy chưa phải là quỷ dữ đã tới. Mà những đổi thay lớn chỉ có thể bắt đầu bằng
sự có mặt của quỷ dữ.

Bà Vũ Thị Thường mắng mấy người
khác, nghe những chuyện như thế này, sao tôi chả thấy ông nào đỏ mặt, tức xấu
hổ. Mà chỉ thấy các ông cười là sao!

Bây giờ đồng chí Hà Huy Giáp đã về
vườn — Phan Tứ tiếp tục -- Nhưng tôi thấy chúng ta không nên đả kích cá nhân
đồng chí Hà Huy Giáp. Chúng ta không nên cười như vậy. Nếu cứ đà này, chúng ta
sẽ cười luôn cả Trung ương không biết chừng.




          Vũ
Đức Phúc mở đầu bài tham luận của mình bằng cách phê phán bản đề dẫn của Nguyên
Ngọc.

1. Nhấn mạnh quá đáng tính sáng tạo.
Bảo rằng văn nghệ học theo đời sống, không phải sao chép đời sống, mà là học
cái tinh thần sáng tạo ở trong đó. Như vậy là rơi vào Garaudi, sáng tạo là sáng
tạo huyền thoại!

2. Chưa lý giải chính xác mối quan
hệ giữa văn nghệ và chính trị. Phải nói tới đường lối của Đảng. Nó như cái
lưới, ta có làm gì thì cũng không thoát khỏi nó, không thóat những vấn đề đã
được nêu lên trong các nghị quyết.

Ví dụ, theo tôi (VĐP), từ lâu, Đảng
đã yêu cầu văn nghệ phải có nhiệm vụ phê phán. Văn nghệ không làm, là khuyết
điểm của ta. Tôi đề nghị thời gian tới, Hội Nhà văn ta mở một chiến dịch chuyên
về việc này.




Về sau, khi phê phán Vũ Đức Phúc,
Nguyễn Chí Trung có một ý rất hay. Theo ông, người ta tuyệt đối hoá chính trị
và coi văn nghệ chỉ là cái thứ hai. Nhưng đâu phải vậy. Tại sao nhiều giai đoạn
lịch sử đã qua đi, mà tác phẩm văn học viết về giai đoạn đó lại còn. Văn nghệ
không phải chỉ là cái quả, có lúc nó còn là cái nhân nữa.

Đặt ra vấn đề con người, câu chuyện không
có gì là siêu hình cả. Chính nó là vấn đề nhân đạo CSCN.

Có điều thực là ngoạn mục: sau khi
tuyệt đối hoá chính trị người ta lại rơi vào chỗ tuyệt đối hoá văn nghệ. Làm
sao mà văn nghệ đơn độc làm được bao nhiêu việc người ta vốn kỳ vọng ở nó.




Tôi nhìn ông Vũ Đức Phúc gầy ốm, như
một ông giáo già ở nông thôn. Sao một con người như vậy, lại có thể gây ra bao
nhiêu sóng gió cho văn học trong vòng hơn chục năm nay. Ông ta vừa như là đao
phủ, muốn khai tử một ít giá trị mà một người như tôi cho là tốt đẹp (đúng hơn
là những cái muốn trở thành giá trị tốt đẹp), vừa như bà đỡ, nâng đỡ cho những
thứ mặt hàng mà một người như tôi cho là hàng giả -- ông khác với tôi quá.

Được cái, theo tôi hiểu, ông không
giả dối. Khác với vài nhân vật đàn em lươn lẹo, ông luôn luôn là mình, kiên
trì, nhạy bén, tỏ ra đầy sức sống trong việc bảo vệ niềm tin. Tôi nể phục cái
sự kiên cường của ông, ông không đầu hàng, không thay đổi, ông ta sống với lòng
tin rằng  mình đang làm những nhiệm vụ lớn.

Vũ Đức Phúc đúng là hạng chiến sĩ trên
mặt trận văn học
 (như tên một tác phẩm của ông đã đề rõ). Chỉ hiềm,
cái quan niệm về người chiến sẽ ấy, theo tôi, cổ rồi. Cái mà một người như tôi
bây giờ  hay nghĩ, người làm công tác văn nghệ trước tiên phải là một
người lao động. Bởi nói tới chiến sĩ, tức nói tới việc chấp hành mệnh lệnh từ
trên ban xuống một cách vô điều kiện, con người lấy đâu ra sự sáng suốt để làm
chủ mình. Với nghĩa vụ chỉ đâu đánh đấy, con người ta vừa quá máy móc lại vừa
quá hèn kém. Còn như nói vai trò của người làm văn nghệ như một người lao động
tôi thấy có gì khả thủ hơn. Mỗi người có thể giỏi có thể kém. Mỗi loại người có
độc giả riêng




 Chế Lan Viên lên tấn công lại
Vũ Đức Phúc một số điểm chủ yếu liên quan đến con người chứ không phải luận
điểm học thuật.

 Nhắc lại câu Vũ Đức Phúc bảo
ông Hà Huy Giáp về vườn, Chế Lan Viên bảo như thế là láo (Vũ Đức Phúc từng nói:
“Ai động vào Trung ương tôi đánh bỏ mẹ “).

Vũ Đức Phúc nói một câu chuyện gì đó
về văn học, hình như là cần khen um mọi chuyện lên, Chế Lan Viên liền bảo như
thế là chưa được, một người làm công tác nghiên cứu văn học chưa được, một Viện
phó lại càng chưa được, tôi đề nghị cách chức Viện phó.

Cuối cùng, Chế Lan Viên còn ngoặc
được vào cái ý là nghiên cứu văn học đến đâu chưa nói, nhưng văn viết ra phải
có văn. Nếu không, tôi đề nghị lập một cái hội lý luận riêng, chứ không để như
thế này mãi được, không để cho các nhà lý luận thô thiển thao túng cả văn
chương… Một đề nghị rất hợp lý đấy. Đến mức, sau khi ông Chế Lan Viên nói xong,
trong hội nghị thấy truyền tay nhau một cái giấy cáo phó, ý như thể là Chế Lan
Viên đã làm một công việc sinh phúc là khai tử cho Vũ Đức Phúc.




 Hoàng Xuân Nhị, không được
triệu tập cũng tới, song nói không được ai để ý. NgKhải bảo thôi hôm nay thì
thầy Nhị của các ông hoàn toàn chết rồi.

Sự kiên trì của mấy ông già thật
đáng sợ. Hôm sau, ông Nhị còn xin xỏ nhiều lần, để cho phép mình phát biểu, và
ông Khải lại gạt đi, rất nhanh nhạy.

Chỉ khi ông Tố Lành đến, HX Nhị mới
hồi sinh. Ông hân hoan ra mặt, ở lại chuyện trò với ông Lành vẻ rất tương đắc.
Những xác chết hôm qua, hôm nay tự nhiên thấy hồng hào tươi tắn hẳn lên--  Ng
Khải nhận xét.




 Tố Hữu đã nói gì?

- Thực tế là muôn vàn tốt đẹp.

- Vấn đề không phải là nhà văn sáng
tạo, nhà văn bịa đặt. Anh cứ ghi chép đúng thôi, nó đã thành ra tác phẩm lớn
rồi.

- Đó là phương hướng công tác văn
nghệ của chúng ta những ngày tới. Bởi đó cũng là phương hướng của ta ngày hôm
qua. Có phải  như đề cương nói, từ đầu những năm 70, Văn nghệ
ta bắt đầu hỏng đi ?  Không, văn nghệ của ta đang ngày một khá hơn
v.v..





   -- Phải biết bằng lòng với những cái đang
có. Khi người ta chưa có hoa hồng hoa cúc, cho người ta chùm hoa sim cũng đã là
nhân văn nhân đạo lắm rồi.

       

       Mấy điểm vừa nêu,
nó là cái luận cương văn nghệ của ta mấy chục năm nay. Hình như người ta không
thể nói gọn hơn.

       Những nguyên tắc
mà cấp trên dạy dỗ chúng tôi hôm nay được nói ra rất đơn giản lại có vẻ đúng
nữa. Đúng với mọi trường hợp. Chỉ nhìn kỹ mọi chuyện, mới thấy nói chuyện không
giản dị như thế. Giản lược quá lại hóa lừa bịp.

       Vừa
nghe ông Tố Hữu nói xong, Ng Đình Thi hào hứng hẳn lên “Các tướng trẻ cứ tưởng
là dễ ăn lắm...”

       Nguyễn
Đức Nam bảo thế này rất khó tổng kết.        

        Nguyên
Ngọc sốt ruột ra mặt. Nguyên Ngọc muốn ông Lành về cho mau còn bàn chuyện tổng
kết hội nghị. Ng Khải thì bề ngoài ngược lại. Về sau, Khải bảo ngồi nghe ông Tố
Hữu nói, thỉnh thoảng mình phải làm bộ há mồm thật to, làm như không hiểu gì
cả.

-- Nhỡ lúc ấy mà cấp trên giở mặt thì
bỏ mẹ mình -- Nguyễn Khải nói thêm khi giữ tôi lại cùng về sau tất cả mọi
người.

 Trong giới ông Khải vẫn được
tiếng là người sắc sảo. Ai cũng bảo là ông Ngọc phải nhờ ông này mới giải quyết
được mọi việc. Đảng Đoàn ông  Khải  đã có tiếng
đồn như vậy. Nghĩ thấy kinh sợ. Lại nhớ có lần Ng Khải bảo: “Viết xong được một
tác phẩm tốt, cho ra mắt, thấy rủn cả người. Vì phải vượt qua nhiều cạm bẫy
quá.”

 Lần này, lúc lấy xe đạp ra về,
Ng Khải bảo nay mai tôi lại đi sáng tác được rồi, chứ còn việc gì phải lo mà làm
tổ chức. Cứ xua anh em đi thực tế là xong. Nhẹ mình. Y như các ông trước.







Với sự xuất hiện của Tố Hữu, hội
nghị như bị dội một gáo nước lạnh. Và không khí đó kéo dài râm ran mãi. NgKhải
hôm trước cổ động hăng hái lắm, bây giờ rụt lại “mình cũng không nên làm cho
cấp trên giận dữ”.

       Ngay
sau Hội nghị Nguyên Ngọc đi vắng, ông Khải ở nhà chạy bao sân chung cả Hội nên
càng hoảng.

    Khải dao
động lắm, Nguyên Ngọc xưa nay vẫn nhận định vậy.

Tuy nhiên, theo Ngọc, Ng Khải lại
được cái giỏi chịu đòn.

Bùi Hòa dẫn một câu tổng kết của anh
em – gọi là nặc danh thôi, chứ chắc từ mồm Chế Lan Viên

Hội nghị đảng viên này:

- Quân sự lấn dân sự

- Bắc Trung lấn Nam.

- Trẻ lấn già.

- Tổ chức lỗi thời.

- Lý luận dài dòng




4/7

 Theo Xuân Trường giao ban ở
trên, cuộc họp hội nghị đảng viên gây cho anh em nhiều hoang mang. Báo cáo của
NgNgọc có một số sơ xuất. Nhưng đấu đá nhau như thế hơi quá, anh em địa phương
có người phát sợ. Riêng việc chỉ triệu tập một số đảng viên đã gây ra thắc mắc.
Trên Vụ Tuyên huấn còn định cho anh em thảo luận về bài Tố Hữu.

Vẫn theo báo cáo của Xuân Trường,
anh em cho là không có tự do sáng tác, nên không thể viết hay được và đấy là lý
do càng phải thảo luận.




       Trước
buổi họp, Hoàng Ngọc Hiến viết một bài đang làm dư luận xôn xao. Nhân chuyện
Nguyễn Minh Châu cho rằng ta thích tả đời sống như ta mong muốn, ta thích hiện
thực phải đạo, ông Hiến nêu một công thức -- ở ta đang có xu hướng cái
cao cả lấn cái bình thường. 
Và cái thói phải đạo kia là nội dung chủ
nghĩa hiện thực ta hay nói. Vậy nên gọi nó là chủ nghĩa hiện thực phải
đạo.


 Thứ hai văn nghệ ta không thật
và  dựa trên một thái độ chung: sống cũng không thật.



        Đọc bài ông Hiến, tôi nghĩ:

        Bảo rằng ở ta  “Nội dung đang lấn hình thức, bản chất
lấn hiện tượng” còn là sang trọng quá.

Với tôi ở ta làm gì có chuyện “nội
dung khá mà hình thức kém” - Chỉ có một nền văn nghệ kém, cấu tạo thấp, tổ chức
thấp. Cả nội dung văn học cũng thấp lè tè. Không miêu tả được hiện tượng chứ đừng nói
rút ra bản chất của hiện tượng.

Nhưng như thế đã đủ để Đảng Đoàn mới thích
thú mà Đảng Đoàn cũ tức giận. Người ta đang định đánh nhà lý luận này.




Loại người như ông Hiến, rất hợp với
ông Nguyên Ngọc. Cả hai đều thuộc loại người thích lý tưởng hóa mọi chuyện. Hay
nói như Hiến , đều nghiêng về phạm trù cái cao cả. Họ đang được coi là loại tân
tiến so với ông Thi và các loại Đức, Đệ . Tôi thì tôi nghĩ họ nhiều ảo tưởng.




Trở lại chuyện quanh buổi họp

Bây giờ mới biết, trước hội nghị
Nguyên Ngọc xin mãi mà không gặp được Tố Hữu.

Tới lúc họp, Nguyên Ngọc vẫn
băn khoăn, làm sao báo cáo cho ông Lành biết.

Sự việc quả nhiên đúng như lo lắng,
ông Lành đến nói ngược hẳn với báo cáo. Nguyên Ngọc như ngồi phải đống lửa, cứ
run lên.

Thật ra, báo cáo của Nguyên Ngọc chỉ
hơi có vẻ bài bản mới mẻ một chút, luận điểm lấy nhiều cái ở trong tài liệu mà lâu nay ông Hiến
vẫn dịch.

Ra vẻ "một bước tiến mới" quá. Tư thế bí thư Đảng Đoàn
nghênh ngang quá. Có lẽ vì vậy, nên bị  Tố Hữu cho một vố.

Có người bảo tại ông Vũ Đức Phúc lên
“ tâu nộp “ ở trên. Nhưng chắc không chỉ một Vũ Đức Phúc.

Một ý kiến khác. Là tại Vụ văn nghệ,
Xuân Trường và các trợ lý.  Ờ, có lý. Người ta vẫn là tai mắt của ông
chủ cũ.

Có những việc, vừa nói hôm trước ở
Hội nghị, -- như  việc ông Ng Đ Thi kể chuyện các nhà văn Liên Xô tự
tử - hôm sau đã đến tai Tố Hữu rồi.

Với sự thành thạo của mình, Nguyễn
Khải hôm sau bảo mấy người bọn tôi, có chỗ Tố Hữu mắng Nguyễn Đình Thi mà các
ông không biết đấy. Liên quan đến đoạn Ng Đ Thi kể chuyện mấy ông nhà văn Liên xô tự
tử vừa nói. Tố Hữu cho là không được cho  anh em nhà văn ta biết điều ấy.




Khi Tố Hữu nói đến chuyện khẳng định
nền văn nghệ ( “Phải cho người ta cột cây số để người ta biết đến đâu mà phấn
đấu chứ. Không cho là ác độc! “) thì Nguyễn Khải ngoảnh lại Chế Lan Viên:

- Tôi sợ các nhà thơ nước ta thật.
Ăn nói ghê gớm đến thế là cùng chứ gì?

- Thì chính mình xưa nay vẫn phải sợ
cái ông này cơ mà.




Theo Nguyễn Quân, ông Phạm Văn Đồng có thể nói việc này Trung ương chịu đấy,
các đồng chí có ý kiến giải quyết thế nào không.

Thậm chí ông Lê Duẩn trong nhiều
cuộc họp vẫn nói ta khó khăn lắm, khó khăn lắm.

 Chỉ có Tố Hữu là lúc nào cũng
bảo các đồng chí yên tâm, đã có cách giải quyết. Cũng như lúc này, trong khi Lê
Đức Thọ bảo chưa bao giờ khó khăn như bây giờ, thì Tố Hữu bảo chưa bao giờ
Trung ương vững như lúc này.

Từ lâu, Tố Hữu đã tự đồng hóa mình
với nền văn nghệ này. Khẳng định nó là khẳng định ông. Mà sổ toẹt nó là sổ toẹt
ông.

  Cách bảo vệ mình của Tố Hữu
đầy tự tin như chỉ có ở các ông chủ.




Trong hội nghị, anh em có truyền tay
nhau một thông tri cáo phó báo tin Vũ Đức Phúc chết. Mà chuyện
này hình như khởi sự từ  Nguyên Hồng.

Ai báo cáo với Tố Hữu không biết,
hôm sau đến, Tố Hữu đã cho Nguyên Hồng một đòn ngay:

--Sao lại để râu thế kia. Trông như
râu giả cắm vào cằm chứ không phải râu thật. Thôi, không khéo ông để râu để
trốn họp rồi.

 Nguyễn Khải:

--  Tinh nhậy quá. Đúng
râu ông Hồng phải nói là trông như râu giả thật.




  Một cán bộ quân sự  từng
kể với tôi Tố Hữu lúc đi vào B2, với tư cách cấp trên thị sát chiến trường,
quát mắng tướng tá ghê lắm!

Kỳ vừa rồi, họp tổng kết đánh Trung
Quốc, cũng chửi cấp dưới sa sả!

Lần này nhìn gần tôi nhận ra một
điều mới. Ông làm chủ tất cả ngôn ngữ cử chỉ của mình Vốn có giọng nói đều đều
nhạt nhạt, vậy mà  đến lúc cần phải quyết liệt, ông bỗng có thể thay
đổi nét mặt thay đổi giọng nói.

 Y như sẽ nói ra những điều đơn
giản lắm mà cấp dưới vì ngu đần quá nên không hiểu. Đúng, bọn chúng ngu đần
quá, thương mãi làm sao đươc!

 Việt Phương kể là ở chỗ khác,
Tố Hữu không nói đến thế đâu! Có lúc, ông ta phải bảo tôi phải đội trên đầu
không biết bao nhiêu người. Chỉ đến với văn nghệ ông mới cao giọng hết cỡ thế.




Nguyên Ngọc ngồi nghe ức lắm, nhưng
là cấp dưới, không biết làm thế nào. Lúc Tố Hữu nói xong, lên phát biểu đại ý
là xin chấp hành chỉ thị của cấp trên, liền bị Tố Hữu gạt ngay:

- Đây tôi cũng phát biểu với tư cách
hội viên Hội Nhà văn luôn thể.

Tối hôm đó, chính mồm Nguyên Ngọc
nói và tôi nghe tiếng, không ngờ cái ông này ác độc thật, ác độc thật.




 23/7

         Ba
tuần đã trôi qua mà vẫn chưa hết bàng hoàng về chuyện cũ.

 Ng Ngọc sau khi bị Tố Hữu át
giọng, rất run. Than thở, năm nay là năm tuổi của mình hay sao mà bị toàn
chuyện tai hoạ.




  Ng Khải đã viết thư xin
ở lại quân đội chứ không  ra ngoài như dự định. Có tin ông  sẽ
làm chủ nhiệm tạp chí.

  Nếu có Đại hội, Khải sẽ
là đầu mối các nơi làm báo cáo đọc trong Đại hội các nhà văn.




Dạo này, VNQĐ lại có thêm một nhà văn
mới Nguyễn Chí Trung. Ông ta  năm mươi tuổi chưa có vợ, bụng phị, từ Đà
Nẵng ra, mang theo cả thanh gỗ đóng bàn ghế, có hôm thấy con Thu Bồn ngồi đấy,
xuýt xoa thương cháu quá, nhưng có quà trong túi nhất định không chịu mang cho.
Ông Chí Trung ấy lâu nay sống như cái bóng của ông Ngọc, đến Hội nghị nhà văn
đảng viên vừa rồi, cũng có chân trong ban lãnh đạo hội nghị. Và ông ta lên phát
biểu, người thì thô lỗ, lại làm ra vẻ trữ tình, nói toàn chuyện cao siêu.

    --Tôi đến Cămpuchia, bụng chỉ nghĩ: con người ta là
thế nào nhỉ? Sao lại đặt ra tên? Sao lại có hàng xóm? Ý ông muốn nói ở
Cămpuchia bọn Pol Pot nó xoá hết.

Ông Tế Hanh phải bảo ông này đang giảng triết học cho chiến sĩ đại đội.







Trong buổi nói chuyện, Tố Hữu kể ở
trên Cao Bằng có một HTX đánh Trung Quốc rất giỏi, thì giữa buổi họp khi sắp
tổng kết, Ngô Thảo bảo  mình đã đến chỗ ấy rồi, họ bịp hết.

Kể về một nơi sản xuất giỏi thực sự
thì Ngô Thảo bảo căn bản nó tự làm, tỉnh chẳng đầu tư gì nên mới được thế. Còn
nếu các ông trên mà lại sờ  tay vào, nó chết bỏ mẹ bây giờ.

Lúc tổng kết, Nguyên Ngọc cố lái mọi
thứ vào theo Tố Hữu nhưng vẫn không khỏi muốn bác bỏ Tố Hữu. Cũng ở xã.. xã...  nơi
đồng chí Tố Hữu thấy vậy, nhưng đồng chí Ngô Thảo thấy khác.

Nhưng có lẽ sau đó sợ, Nguyên Ngọc
phải khẳng định:

- Cố nhiên, cái nhìn của đồng chí Tố
Hữu là tuyệt đối đúng đắn.

Ngô Thảo về sau nhận ra ngay:

--Ông ấy bán mình nhanh gớm! Biến
anh em thành vật hy sinh ngay thôi.




 Nghe Tố Hữu nói, Nguyên Ngọc
trông thất thần ra mặt, nhưng lúc tổng kết, vẫn giữ lấy bình tĩnh, bám vào cái
phao kia, mình nào có khác gì ông Tố Hữu.

 Về sau, lại nghe ông ta bảo Tôi
vẫn kiên trì ý kiến của tôi. Mất tôi chả mất cái gì
.

Tố Hữu còn kiên trì hơn. Ban đầu,
tưởng là ông chỉ đọc bản đề dẫn qua loa. Hoá ra ông đọc rất cẩn thận. Ở hội
nghị trở về, ông sửa, gạch chấm đánh dấu từng chữ. Sang Liên Xô, ông ta còn
điện về hỏi ý kiến của anh em hiện nay ra sao.

Chỉ có điều hay, trước đó, một số
anh em, nhất là lớp cũ (Xuân Diệu, Nguyễn Văn Bổng) rất ghét Bí thư Đảng Đoàn
mới, nay lại đứng về phía Nguyên Ngọc.






 (còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2014 14:49

August 15, 2014

Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm và đời sống tinh thần người Việt sau chiến tranh




In lần đầu trên mạng Talawas  23-6-2008





In lại trên blog này ngày
07-05-2009.

























Từ một quan niệm kéo dài trong lịch
sử


 và đã trở thành tâm thức dân gian…



Qua một chương trình phim truyền hình thời sự, có lần tôi được thấy cảnh những
người lính Nga trở về từ chiến tranh, một số còn sống đến tận cuối thế kỷ XX,
đầu XXI. Điều khiến tôi lạ nhất là cuộc sống hoà bình với nhiều người trong họ
hình như không còn thích hợp. Chỉ làm việc để đủ sống tàm tạm, ngoài ra như đã
bị chiến tranh lấy hết hồn vía, mỗi người là một cái bóng.



Tình hình ở Việt Nam ít nhiều có khác. Trong số những người trở về sau chiến
tranh, lác đác cũng có ít người rơi vào tâm trạng buông trôi bất lực. Nhưng số
đó quá ít và gần như lạc lõng trong cộng đồng. Phổ biến hơn là một tình trạng
ngược lại. Sống sót sau những năm tháng khốc liệt, ý nghĩ đầu tiên của người ta
là làm gì đó để cứu gia đình khỏi cảnh đói rét đã kéo dài. Cởi quân phục là vớ
lấy chiếc xe đi buôn. Hoặc xông vào tìm bằng được một chỗ đứng trong các cơ
quan nhà nước, nhân danh người đã có công đòi lấy một vị trí thuận lợi để kiếm
ra tiền, bù đắp lại những ngày bị thiệt.



Trong sự mải miết sống với quá khứ, những con người Nga có mặt trong chiến
tranh trở về kia dành hẳn một phần tâm trí của mình cho các đồng đội đã hy
sinh. Tôi nhớ một chiến binh chỉ ngồi loay hoay với những đài kỷ niệm cho từng
người bạn. Làm cho thằng Boris mô hình một cái lò rèn. Đắp cho thằng Ivan một
cái cối xay gió thay cho đài tưởng niệm… Người chết không chết, vì đồng đội vẫn
đang trò chuyện với họ, như những người sống.



Còn ở Việt Nam? Không phải người ta đã quên hẳn những năm chiến tranh và người
thân đã nằm xuống ở những mảnh đất xa lạ. Nhưng việc đó được làm theo một cách
riêng, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh một đất nước trường kỳ nghèo đói và đã gắng
gỏi chống lại chiến tranh hiện đại bằng một nền kinh tế tiểu nông, và cuộc sống
con người thì luôn luôn đặt trên ranh giới mong manh của sự sống và cái chết.



Việc thu thập tin tức về những người đã mất tích trong chiến tranh đến nay vẫn
còn đang được tiếp tục. Đã có những gia đình bỏ ra bạc tỷ nhiều năm lặn lội để
đi tìm hài cốt của con cái.



Dù thế chăng nữa, phải nhận cách làm của người Việt chú trọng lễ nghi mà không
mấy tỉ mỉ. Sau khi biết đích xác người thân đã hy sinh ở đâu, cái mà người ta
cần là mang về một ít bằng chứng chắc chắn để đòi lấy sự công nhận của cộng
đồng, những lời biết ơn nồng nhiệt, những đền bù cho sự hy sinh. Sau đó làm đám
giỗ để bà con làng xóm cùng xác nhận và kiếm được một tấm ảnh đẹp để vào chỗ
trang trọng trong gia đình, thế là đã mãn nguyện lắm.



Các di vật, nếu có, cũng được chú ý mang về. Nhưng phải nói thực, việc bảo quản
các di vật ấy không phải nằm trong dự tính. Phần vì điều kiện khó khăn. Phần
chủ yếu vì sự chi phối của thói quen tâm lý.



Một cái nhà tươm tất cho người sống ở còn chưa có, lấy đâu chỗ để đồ cho người
chết? Các bảo tàng của nhà nước chưa xây và nếu xây xong thì còn đang tranh cãi
xem nên bày cái gì. Các di vật thiêng liêng đấy mà cũng vô nghĩa ngay đấy. Xếp
xó là chuyện bất đắc dĩ, nhưng đành phải làm.



Nói to lên cho rõ ràng rằng “làm cho xong chuyện” thì không ai dám, nhưng trong
thâm tâm đều hiểu cho nhau là vậy.



Giữa bề bộn công việc hậu chiến, việc trở lại với cuộc đời người đã khuất trong
chiến tranh không được đặt thành vấn đề, nếu không muốn nói gần như lảng tránh.
Những gì làm nên cuộc sống thực của người đã khuất bị đẩy lên thành huyền
thoại, với nghĩa “kính nhi viễn chi”.



Xét từ căn nguyên sâu xa, ở đây có vai trò của hai ý niệm quan trọng là ý niệm
về lịch sử và ý niệm về cái thực. Cả hai ý niệm này ở người Việt đều lờ mờ mây
khói.



Đến thăm nhiều đình đền ở Hà Nội và nói chung là ở Bắc Bộ, người ta thấy người
giữ đền lưu ý rằng ngôi đền này rất thiêng. Nhưng thờ ai và sự tích thế nào thì
họ chỉ biết mang máng và nhầm lẫn lung tung cả.



Thể tiểu thuyết lịch sử cũng như các loại phim lịch sử ở Việt Nam hình thành
rất khó khăn, một phần là vì bản thân lịch sử chỉ được hiểu là những sự tích
anh hùng. Cái gọi là sinh hoạt đời thường gần như chưa bao giờ trở thành đối
tượng của lịch sử ở Việt Nam. Còn các sự kiện xã hội chính trị thì thường bị tô
vẽ theo phương châm “Tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”. Đây là cách nghĩ thấm vào
trong tư duy dân gian và âm thầm chi phối xã hội.



Trong số các nhà văn Việt Nam đương đại, Nguyễn Minh Châu là một trong những
người đi sâu nhất vào chiến tranh. Trong bài “Viết về chiến tranh” in trên tạp
chí Văn nghệ Quân đội năm 1978 [1] ,
ông ngẫm nghĩ và ghi nhận một cách nghĩ phổ biến như sau:



Từ ngàn năm xưa, người Việt Nam đã mang một quan niệm “phàm cái gì đem chép vào
sách vở thì không thể dung tục như đời sống bình thường hàng ngày được, mà phải
là những điều tốt đẹp tinh khiết.”



Bằng giọng hơi đùa đùa, ông giải thích thêm “Đồng bào mình bây giờ thấy anh nhà
văn nhà báo tả mình như thực thì không ưng. Lên tivi, lên phim, dù đang lao
động cũng phải ăn mặc đẹp, mặt mũi cũng phải sạch sẽ, sáng sủa tươi cười”. Làm
ăn đã vậy trong chiến tranh cũng vậy: đánh giặc giữ nước là một việc cao cả; “chuyện
những người anh hùng vì nước xưa nay được coi như chuyện thần thánh” - nên
không thể có một mảy may dung tục.



Nguyễn Minh Châu tiếp tục câu chuyện bằng cách so sánh tâm lý đọc sách viết về
chiến tranh với tâm lý người dân khi chụp ảnh. Ai mà chẳng có cái mặt thực của
mình. Nhưng mỗi lần chụp ảnh, chỉ những khuôn mặt trẻ hơn đẹp hơn mới là cái mà
người ta chờ đợi.



Toàn bộ lối suy nghĩ như thế này đối với quá khứ là ổn định và kéo dài cho tới
hôm nay. Và cái tâm thức dân gian này sẽ được nâng lên để trở thành định hướng
của nhà nước.





…tới một lối viết kéo dài từ thời chiến tới hậu chiến



Tôi nhập ngũ ngày 5-8-1964, và tới đầu 1968 thì được chuyển về tạp chí Văn
nghệ Quân đội
. Nói theo thuật ngữ chính thống, tôi được chính thức gia nhập
vào đội ngũ những người làm công tác tư tưởng. Viết văn làm thơ hay chụp ảnh
viết báo cũng như tuyên truyền cổ động đều là công tác tư tưởng cả. Có thể tóm
tắt quy phạm chính chi phối ngành này như sau:


Làm gì viết gì thì cũng phải hướng về phục vụ người
lính, khiến họ hào hứng phấn khởi xông lên. Để họ nản lòng là có tội.
Cái cần viết không phải là chiến tranh, mà là chiến
công.
Không có cái gọi là chiến tranh chung chung. Tôi nhớ
hồi đó bản thân hai chữ chiến tranh cũng không dùng. Để thay thế, phải nói
cuộc chiến đấu, hàm nghĩa chiến tranh ở Việt Nam khác hẳn mọi cuộc chiến
tranh trên thế giới.


Những quy phạm này có thể thấy rõ
trong nghệ thuật nhiếp ảnh.



Ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện có một bảo tàng được nhiều người nước ngoài tới
thăm là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Nhưng ở đó, những bức ảnh có ý nghĩa
nhất lại là của các phóng viên nước ngoài.



Một người bạn tôi là anh Đoàn Công Tính, một phóng viên nhiếp ảnh trong quân
đội, đã giúp tôi hiểu tình thế ngược đời này. Theo Tính, ngay trong những năm
chiến tranh, chính những bức ảnh bám sát chiến trường và làm rõ “sự thật chiến
hào” của các phóng viên chiến trường lại không được toà soạn ưa thích. Được ưu
ái nhất phải là những bức ảnh nêu khí thế chiến thắng. Giữa hai phạm trù chân
thực
với mang khí thế chiến thắng, không phải bao giờ cũng có
sự trùng khớp, nếu không muốn nói là thường xung đột nhau. Và không phân vân gì
hết, trong mọi trường hợp người ta chọn cái thứ hai. Nếu thích hợp với việc
tuyên truyền cho chiến tranh, có cả những bức ảnh bố trí giả tạo, vẫn được sử
dụng.



Đoàn Công Tính nổi tiếng với tác phẩm Chiếm căn cứ Đầu Mầu Quảng Trị (được
giải thưởng Hội Nhà báo Quốc tế OIJ). Sự thành công của bức ảnh này là ở chỗ
thứ nhất nó được chụp từ thực địa, và thứ hai, biểu hiện được con người như bay
lên trong một chiến công thần thánh.

 





















 

Các ảnh khác thường cũng có sự kết
hợp tương tự. Với tôi và với dư luận chung, tưởng như Đoàn Công Tính chỉ có
vậy.



Nhưng gần đây (2005), tôi được biết là trong kho ảnh của Tính còn có những bức
ảnh lạ như

Chiếc cầu gục đổ.

 



Bức ảnh biểu hiện rõ không khí chiến tranh ở Việt Nam. Cả sự bất bình thường
của chiến tranh. Cả sự bé nhỏ bất lực của con người.



Có điều mãi sau chiến tranh bức ảnh này mới được giới thiệu, và là rất hạn chế.
Nó không được đưa vào các sưu tập chính thống. Rất ít người biết tới nó.



Đơn giản là vì các bức ảnh tương tự như Phúc Tân kêu gọi trả thù của một
đồng nghiệp của Tính là Vũ Ba, lúc xuất hiện đã hứng chịu nhiều lời phê phán.
Cái tội của người chụp ảnh ở đây là đưa đau thương mất mát lên thành một chủ đề
lớn.



Câu chuyện về các tấm ảnh của Đoàn Công Tính và của Vũ Ba cũng là câu chuyện
của nhiều tác phẩm văn chương.



Những năm chiến tranh, tôi đã được chứng kiến nhiều vụ tác phẩm “mô tả chiến
tranh như chiến tranh” bị phê phán. Bài ký Cái
gốc
của Nguyễn Thành Long. Bài thơ Vòng
trắng
của Phạm Tiến Duật. Những tác phẩm này chỉ có lỗi là nói về những cay
đắng của con người, những tin thất thiệt. Khi bị từ chối, chúng làm cho những
người rất có thiện chí cũng sinh nhụt, không dám viết nữa.



Sự định hướng các tác phẩm viết trong chiến tranh như trên, theo tôi, không
phải là không có phần hợp lý của nó. Muốn đánh lại kẻ thù mạnh hơn, người ta
phải không biết sợ. Phải suy nghĩ khác với cách nghĩ thông thường. Phải cứng
cỏi sắt đá mà không dễ mềm lòng trước mọi mất mát đau thương. Nhà nước xác định
cho dân như vậy và mỗi người cũng tự nhủ như vậy.



Xuất phát từ đây, một quy phạm chính thức hình thành. Nó gói gọn vào mấy yêu
cầu bắt buộc với các tác phẩm:

trình bày bức tranh tổng quát;
quan sát từ một góc độ khá xa;
kết thúc lạc quan.


Lối viết này - tạm gọi là lối viết
sử thi - vốn được nhập từ văn học xô viết thời trước 1945. Nếu ở bên ấy, sau
chiến tranh người ta đã thay đổi, thì ở Việt Nam nó được giữ nguyên.



Ngay từ trước tháng 8-1964, những tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng thế
giới như Phía Tây không có gì lạ của E.M.Remarque, thậm chí ngay các tác
phẩm xô viết như Trong chiến hào Stalingrad của V.Nekratsov, Tấc đất
của G.Baklanov, phim Đàn sếu bay qua, phim Bài ca người lính
đây chỉ nói những tác phẩm từng được giới thiệu ở Việt Nam - cũng bị gạt bỏ
thẳng cánh.



Một nhà văn viết về chiến tranh phải xem lối thể hiện đời sống như thế là có
tội. Vả chăng, phim không ai nhập, sách không ai dịch, và cũng không ai có sách
nguyên bản mà đọc.



Như ở đoạn trên vừa nói, ở Việt Nam từ chiến tranh chuyển sang hoà bình hầu như
không có khoảng trống. Trong các khẩu hiệu, khái niệm mặt trận được dùng lại:
thay cho mặt trận chiến đấu là mặt trận văn hoá. Đóng vai trò chi phối con
người trong xã hội nói chung vẫn là lối nghĩ thời chiến. Người ta buôn bán làm
ăn xây nhà xây cầu cống dạy học đi du lịch theo kiểu thời chiến.



Nói bao quát, lối suy nghĩ về chiến tranh như trên vẫn tiếp tục ngự trị. Các
cuộc thi sáng tác, các đơn đặt hàng để lôi cuốn các nhà văn viết về chiến
tranh, nhất nhất đi theo cái đường ray cố định đó.



Nhưng bên trong đời sống xã hội và tâm lý nhà văn vẫn có những đợt sóng ngầm.
Các sáng tác cuối đời của Nguyễn Minh Châu và Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh là những nỗ lực rõ rệt theo hướng này.



Nguyễn Minh Châu, như trên vừa dẫn, sớm hiểu rằng một nền văn học chân chính
không thể đi theo lối viết “đưa ra những bức ảnh đẹp” mà có lúc chính ông tự
nguyện tham gia.



Sau chiến tranh, truyện vừa Cỏ lau (1989) được ông viết theo hướng mới.
Nó cho thấy chiến tranh là mất mát là đau khổ, và có nhiều di luỵ không biết
bao giờ mới gỡ ra nổi. Chỉ vì được in ra khi ông vừa qua đời nên tác phẩm thoát
khỏi sự lên án. Nhưng nó cũng bị lờ đi. Một tác phẩm bao quát hơn, như Tiểu
thuyết vô đề
của Dương Thu Hương lại càng không bao giờ được công nhận.



Có cái lạ là xu hướng viết về chiến tranh theo kiểu Cỏ lau - xu hướng
phi sử thi – tuy không bao giờ được đề cao, không được ai theo đuổi đến cùng,
nhưng cũng không bao giờ bị chết hoàn toàn.



Nỗi buồn chiến tranh (1991) của Bảo Ninh thì đánh dấu một chặng đường
nhận thức kéo dài hàng chục năm.



Thoạt đầu, khi còn là bản thảo, cuốn tiểu thuyết đã được khen ngợi hết lời. Khi
in ra, nó được tặng cái giải thưởng sang trọng nhất so với lúc ấy, là giải Hội
nhà văn.



Nhưng ngay từ lúc ấy, đã có lời eo xèo rằng tác phẩm có ý “phủ nhận quá khứ”.
Tới khoảng 1994, việc phê phán này lên tới đỉnh điểm. Chính những người đã khen
nó (Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam…) lại mang nó ra phê phán. Trong
khi ra với thế giới và trở thành sứ giả chính của văn học Việt Nam, thì đồng
thời tác phẩm này vắng bóng hẳn trên thị trường sách trong nước hàng chục năm
liền.



Cần nhấn mạnh tới Nỗi buồn chiến tranh vì qua đó người ta thấy một
phương hướng:

Ý định tìm hiểu thực chất chiến tranh và con người
trong chiến tranh.
Sự thay đổi trong cách nhìn: Chiến tranh được nhìn gần
hơn.
Sự thay đổi trong quan niệm: Chiến tranh Việt Nam cũng
tuân theo những quy luật chung của mọi cuộc chiến tranh.


Tóm lại, một cách tự nhiên, lớp trẻ
từ chiến tranh về có ý định làm ra một nền văn học chiến tranh như họ đã thấy,
chứ không bằng lòng với lối viết về chiến công của những người đi trước.



Nhưng xã hội Việt Nam sau chiến tranh đến nay vẫn chưa sẵn sàng thay đổi theo hướng
này. Người ta chỉ lúng túng, lảng tránh, và lùi dần dần, chứ chính thức cho
phép nghĩ khác thì không. Với việc đẩy Nỗi buồn chiến tranh vào bóng
tối, một khuynh hướng tự phát bị chặn đứng.



Có điều, như thế không có nghĩa là nó chết hẳn. Nó vẫn luẩn quẩn đâu đó. Người
ta cũng thấy có vài cuốn sách như Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn
Quang Lập, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức… có những chương, những đoạn
viết theo cái mạch này.



Có những người gần như trở thành “nạn nhân” của sự chuyển đổi. Tôi muốn xem
trường hợp nhà văn Nguyên Ngọc thuộc dạng này. Tiểu thuyết Đất nước đứng
lên
đánh dấu một lối viết đã thành cổ điển về cuộc chiến tranh chống Pháp.
Đến chiến tranh chống Mỹ, ông lại có Rừng xà- nu, Đất Quảng, cùng
một giọng điệu sử thi như Đất nước đứng lên. Đất Quảng (I) viết
ngay ở chiến trường (1971) nên có cái giọng ấy cũng là chuyện tự nhiên. Đến tập
II, ông bỏ dở. Theo chúng tôi hiểu, lúc này suy nghĩ của ông thay đổi, ông thấy
cần viết khác. Nhưng ngòi bút nhà văn của ông không chịu và ông đành thôi.



Sự lúng túng là tình trạng thấy ở nhiều người trong việc xử lý đề tài chiến
tranh ở Hà Nội. Khác với Nguyên Ngọc, nhiều người trong họ chỉ kéo dài lối viết
cũ, có tân trang ít nhiều. Sự chấp nhận này huỷ hoại tài năng của cả những
người đã để cả cuộc đời có mặt trong chiến tranh.





Một câu trả lời xuất hiện đúng lúc



Tôi kể lại những chuyện trên để thấy tình hình chung của việc viết về chiến
tranh ở Hà Nội. Trên cái nền ấy mà Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm xuất hiện, nên
nó được mọi người tìm đọc cũng là điều dễ hiểu.



Cuốn nhật ký đã chọn được một thời điểm xuất hiện “tối ưu”.



Từ sau 1985, mối quan hệ làm ăn kinh tế với nước ngoài trở thành một sự lựa
chọn không thể đảo ngược. Sự hội nhập, cái mà người ta lảng tránh mãi, nay đã
thành một xu hướng chính thức và ảnh hưởng sang cả văn hoá tư tưởng.



Với người nước ngoài, sự hội nhập này đã làm một cuộc phát hiện: Việt Nam từ
nay không chỉ là một cuộc chiến tranh, mà còn là một đất nước.



Với người Việt Nam thì quá trình diễn ra là ngược lại: do áp lực của hội nhập,
người Việt thấy hoá ra không thể quên nổi những ngày đạn lửa; chiến tranh mãi
mãi là một phần cuộc sống. Từ chỗ đẩy chiến tranh vào tấm màn sương khói của
quá khứ, người ta lờ mờ cảm thấy rằng chiến tranh có mặt ngay trong cuộc sống
hôm nay và chi phối cách nghĩ và cách làm việc của người ta, một sự chi phối
khi công khai khi kín đáo, nhưng là trên mọi phương diện.



Sau cái giai đoạn chỉ biết thu thập lấy một ít di vật của người thân và nói
chung là nhìn chiến tranh trong mối quan hệ với từng gia đình từng cá nhân, nay
người dân thường bắt đầu muốn nhìn chiến tranh như là yếu tố tác động lên toàn
bộ cộng đồng.



Một cách ngẫu nhiên, Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm bước đầu đáp ứng được yêu
cầu đó. Nó là ghi chép của người trong cuộc. Nó cho người ta thấy lại không khí
chiến tranh và những con người trong chiến tranh từ bên trong.



Giá như xuất hiện 10 – 15 năm sau chiến tranh - khoảng từ 1990 trở về trước,
cuốn nhật ký với sự kết thúc bi thảm của nhân vật sẽ không được phép in ra,
hoặc có in ra cũng không được ưu ái đến vậy. Ba mươi năm đã qua, những cách
nghĩ căng cứng chỉ biết một màu lạc quan… đã khiến người ta mệt mỏi. Những cách
miêu tả chiến tranh với tương đối nhiều sắc thái đen tối bắt đầu được chấp
nhận.



Khuynh hướng này có lúc còn đi quá đà nữa.



Trong tình hình hiện tại (chiến tranh đã lùi xa ba thập kỷ), dường như đang có
một quy ước ngầm: một tác phẩm sẽ được hiểu là chân thực, nếu nó nghiêng về
diễn tả những đau đớn mệt mỏi, những tan nát trong lòng người có mặt trong
chiến tranh (mà Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một ví dụ).



Bởi các tác phẩm đang viết ra có vẻ nghiêng sang một hướng sáo mòn theo cái
đường ray vốn có từ trước nên mới nảy sinh cái phản ứng ngầm như vậy.



Theo tiêu chuẩn này mà xét, có vẻ Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm vẫn theo mốt
cũ. Mặc dầu có khá nhiều trang miêu tả con người với đau thương mất mát và nói
được ám ảnh về cái chết trong tâm trí họ, song người ghi nhật ký vẫn giữ được
cái vẻ thuần hậu trong sáng của một con người lý tưởng. Cảm hứng thần thánh
thiêng liêng vẫn chi phối tâm trí người bác sĩ.



Thế thì liệu có thể nói là Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm có được sự chân thực
cần thiết? Và tại sao trong sự lạc điệu của mình, nó vẫn được cả người đọc Việt
Nam lẫn người nước ngoài tìm đọc?



Như trong lời giới thiệu viết cho bản tiếng Việt cuốn Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm
tôi đã nói qua, nhìn cuộc chiến tranh chống Mỹ như cái gì thuần nhất, từ đầu
đến cuối chỉ có một bộ mặt duy nhất là không đúng. Mà nhìn vào cuộc chiến tranh
đó chỉ thấy duy nhất một hình ảnh nào đó về con người cũng là không đúng.



Chỉ xét tâm lý những thanh niên Hà Nội được huy động tham chiến, tức có mặt
trong đội quân miền Bắc chi viện miền Nam, thì cũng đã thấy nó có hai giai
đoạn.



Trước 1968, người ta đi chiến trường một cách hồ hởi tự nguyện. Người ta tin
rằng mình đang tham gia một cuộc chiến tranh thần thánh và chẳng bao lâu sẽ trở
về. Những người được chọn đi bộ đội chiến đấu lúc ấy thấy đây là cả một niềm
vinh dự.



Sau 1968 thì khác, mỗi ngày mỗi khác. Chiến trường ngày càng thu hút nhân lực
tài lực. Việc huy động người trở nên xô bồ. Con người thấy đây là nghĩa vụ
trách nhiệm, hơn là vinh dự. Cuộc sống trở nên nặng nề. Con người mang nặng tính
cách phá
phách – như chữ dùng của Lê Lựu, trong một cuộc trả lời
phỏng vấn năm 1997.


Thuỳ Trâm về mặt tâm lý, là thuộc thế hệ những người lính có mặt ở chiến trường
trước 1968. Để nói về họ, người ta phải dùng những chữ như trong sáng thánh
thiện. Việc họ tin tưởng ở Đảng, ở quân đội – tức cái chất tín đồ của họ, là có
thật. Tâm lý họ chưa trở nên chai sạn như lớp người ra đi về sau. Thuỳ Trâm
phải viết bằng cái giọng chân thành tin tưởng như đã viết. Cái thực của Nhật
ký Ðặng Thuỳ Trâm
là ở chỗ ấy.



Về phía người đọc Việt Nam - tạm giả định rằng họ là một khối thống nhất - thì
trong trường hợp này cũng không phải họ dễ tính và bị lừa. Trên kia tôi đã nói,
họ chán những công thức giả tạo. Còn điều thánh thiện trong sáng, hay sự thật
đầy bùn đất của chiến hào họ đều thấy gần gũi. Miễn là có được phần nào đó sự
thực.



Thậm chí còn có thể nói rằng với người đọc Việt Nam hiện nay, một cái gì thực
đến tàn nhẫn như Nỗi buồn chiến tranh còn là quá sốc. Nhật ký Ðặng
Thuỳ Trâm
vừa với cái dạ dày còn rất yếu của họ.





Vấn đề con người và thể nhật ký



Một lý do nữa khiến cho Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm được đọc rộng rãi (tổng
số bản tiếng Việt đã in lên tới 430.000): Nó tạo được cảm giác một cái gì có
thực. Điều này một phần dựa vào thể tài mà nó sử dụng.



Thể nhật ký vốn rất quen thuộc không chỉ ở phương Tây mà cả ở những nước châu Á
như Trung Quốc, Nhật Bản. Theo Phan Khôi, ít ra là từ thế kỷ XVII [3]
đã sớm phát triển.



Ở Việt Nam, việc này rất hạn chế. Có thể thấy, việc ít viết nhật ký có một lý
do sâu xa. Con người cá nhân trong xã hội Việt Nam còn rất yếu ớt, và nhu cầu
đối diện với bản thân của người ta chưa xuất hiện.



“Người ta có nhìn rõ sự sống của mình là có giá trị thế nào, có biết quý cái
ngày tháng mình còn sống ở đời, tóm lại là cái nhân sinh quan vững chắc sáng
suốt thì mới lấy làm trịnh trọng mà chép lại mình đã trải qua hoặc nghe lấy suy
nghĩ mà để lại về sau. Nhật ký phổ thông sản xuất ra vì đó. Người Việt Nam ta
chưa có ai chép nhật ký phổ thông hết, hoặc giả là chúng ta chưa có cái nhân
sinh quan đến bậc ấy chăng?” [4]



Cách cắt nghĩa của Phan Khôi đến nay vẫn đúng.



Riêng với chiến tranh, ở nước nào cũng vậy, trong và sau chiến tranh, người ta
thường cũng sưu tầm thêm nhật ký thư từ. Tức là trong hoàn cảnh sống dưới bom
đạn, hình thức viết này khá phổ biến.



Ở Việt Nam, sau cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ có hai cuốn nhật ký được công
bố: Ở rừng của Nam Cao và Nhật ký của một bộ trưởng của Lê Văn
Hiến.



Sở dĩ nhật ký trong chiến tranh càng ít, vì mấy lý do:

người ta bận bịu (Bảo Ninh từng có nhận xét này);
người ta nghĩ rằng với mình, cái chết có thể đến bất cứ
lúc nào;
đời sống tinh thần người ta đơn giản;
người ta không có điều kiện bảo quản và giữ bí mật
những suy nghĩ của mình.


Đặt vào hoàn cảnh chung đó, thấy Nhật
ký Ðặng Thuỳ Trâm
là một yếu tố mới trong đời sống tinh thần con người
trong công cuộc chống Mỹ.



Trong nhận xét của người dịch Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm ra tiếng Anh có
đoạn nói riêng về cách viết nhật ký của Ðặng Thuỳ Trâm:



“Ngòi bút của cô uyển chuyển từ văn xuôi cho đến thơ, từ suy ngẫm để tự phân
tích bản thân, từ thổ lộ tâm tình cho đến phản ánh. Ở chỗ này, cô tự nói với
mình. Ở những chỗ khác cô lại nói chuyện với những người bạn không hiện diện ở
bên. Cô thường xuyên thay đổi đối tượng, đang nói chuyện với mình lại nói với
một người khác một cách dễ dàng và không hề báo trước.” [5]



Vậy là ở đây, người ta thấy có một con người mau mắn, sinh động, tự tin.



Trước đây, nhân vật trung tâm trong văn học thường là những người sống quá hồn
nhiên đến mức có thể bảo họ nặng về bản năng. Họ đi vào chiến tranh mà không
suy nghĩ gì nhiều. Nổi lên ở họ chỉ là cái thanh thản của những trai làng đi
làm việc nước từ bao đời nay (truyện ngắn Đỗ Chu). Họ sống thế nào cũng được.
Thích cười vui đùa tếu, thích đi tìm cảm giác lạ (thơ Phạm Tiến Duật).



Với Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm, người ta bắt gặp một con người đi vào chiến
tranh như một trí thức hoặc có chất trí thức. Chất trí thức này – hoặc đúng hơn
là sự phong phú trong đời sống tinh thần, sự có mặt của âm nhạc thơ ca, văn học
cổ điển thế giới - chỉ làm cho sự cảm thụ và ghi nhận chiến tranh của con người
sắc bén thêm. Cũng do chất trí thức này, con người ở đây hiện ra không khác là
bao so với con người trong các cuộc chiến tranh mà thế giới đã biết. Sự gần gũi
giữa Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm với Nhật ký Anna Frank mà tôi nêu ra
trong lời giới thiệu bản tiếng Việt, về sau đã được nhiều bạn đọc ở Mỹ xác
nhận.



Thế có phải cứ viết nhật ký là làm bộc lộ được con người mình và tạo đươc hiệu
quả chân thực? Nên chú ý là trước Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm một chút, và
nhất là sau cuốn sách ít lâu, cũng có hàng loạt sổ tay ghi chép. Thế nhưng ở đó
người ta chỉ nhận ra một người viết hời hợt. Một số trong các tác giả loại này
không thể hiện được mình; một số khác thực ra không viết nhật ký mà đó chỉ là
bản nháp của cuốn sách mà người ta muốn in ra khi từ mặt trận trở về. Người đọc
cảm thấy người viết làm văn trên trang giấy, nên đã từ chối.



Chỉ đọc qua nhật ký của Ðặng Thuỳ Trâm, Nguyễn Trung Hiếu đã cảm thấy ở đây có
lửa. Anh em nhà Whitehurst tin ở Ðặng Thuỳ Trâm như tin ở chính mình. Người
dịch Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm ra tiếng Anh cảm thấy người viết nhật ký là
một nhân cách cao quý.



Sở dĩ có được sự tin yêu đó vì Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm có được cái hồn
nhiên như dòng suối vọt ra từ lòng đất. Nó được viết ra do nhu cầu của người
trong cuộc chứ không hề tính tới việc xuất bản.





Theo quy luật của truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại



Trong đời sống tinh thần của người Việt, Truyện Kiều có một vai trò
không cuốn sách nào có nổi. Các nhà nghiên cứu văn học cắt nghĩa là ở đó có sự
phản ánh hiện thực hoặc tinh thần nhân văn. Nhưng theo tôi, ở đây còn có vai
trò của chất cảm thương bi luỵ là một truyền thống của sự tiếp nhận văn học của
đám đông quần chúng các nước phương Đông. Có thể bảo đây là một tác phẩm melodrama
ở chỗ nó nói về thân phận bất hạnh của một người con gái. Cái chữ thường được
người Việt quen dùng là tài hoa bạc mệnh. Thuý Kiều bất tử một phần lớn vì
những giọt nước mắt của mình.



Nhìn lại Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm. Một người con gái giàu tình cảm đẹp đẽ
nết na được đưa lên thành nhân vật chính. Người đó phải dấn thân vào cuộc đời
đa đoan - ở đây là chiến tranh -, sống giữa những người xa lạ, và gặp nhiều nhỡ
nhàng oan uổng trong tình yêu. Cuối cùng là cái chết. Sự cảm thụ kiểu melodrama
như thế này không có trong phạm vi ý thức, mà chỉ ở phạm vi tiềm thức, nhưng
với các đám đông, nó là yếu tố gây ra sự lan truyền mạnh mẽ và cả sự bùng nổ
nữa.



Bản thân số phận cuốn nhật ký cũng khá ly kỳ. Nó giống như một đứa con rơi. Vừa
ra đời đã bước vào cuộc lưu lạc. Chinh phục được ngay cả những kẻ ở bên kia
chiến tuyến. Tiếp đó làm cuộc du lịch sang tận tây bán cầu. Mấy chục năm liền
sống giữa những người xa lạ và làm cho họ rơi nước mắt. Chỉ nhờ những cớ ngẫu
nhiên – người Việt hay nói nhờ Thần Phật run rủi – mà cuối cùng có cuộc hội ngộ
với quê hương xứ sở.



Ở trên tôi đã nói thời điểm theo nghĩa rộng. Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm xuất
hiện khi nhận thức về chiến tranh có sự chuyển giai đoạn.



Nhưng còn có thể hiểu thời điểm theo nghĩa hẹp, cái năm 2005 cụ thể. Lúc này,
sau chuyến đi sang Mỹ của phái đoàn Phan Văn Khải, quan hệ Việt Mỹ mở ra với sự
náo nức chờ đón của những người bình thường. Một thuận lợi không gì đo đếm nổi!




Sau hết, phải đặt Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm vào hoàn cảnh của truyền thông
hiện đại. Tác phẩm không chỉ xuất hiện như một quyển sách văn chương, mà đã may
mắn có mặt trên báo và được đọc trên đài phát thanh. Rồi các nhà làm phim, các
nhà hoạt động sân khấu tấp nập xin nhập cuộc. Rồi sự chú ý của các cơ quan
thông tấn nước ngoài, ý định về một loạt bản dịch. Nhờ dư luận trong nước mà
người nước ngoài chú ý. Nhưng đến lượt mình, sự chú ý từ nước ngoài như thế lại
thổi bùng sự quan tâm của bạn đọc trong nước, đưa nó tới một tầm mức mà trên
nhiều phương diện, chưa một tác phẩm nào có được.



Với việc chấp nhận Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm, xã hội Việt Nam vốn rất nhiều
yếu tố cổ điển đang tự chứng tỏ là nó qua một chặng mới và trở nên một xã hội
hiện đại khi giải quyết một vấn đề lớn như nhìn nhận và đánh giá con người
chiến tranh.



8-2007



Bản tiếng Việt © 2008 talawas











[1]Bài viết
này sau được in lại trong một tập phê bình tiểu luận của tác giả. Xem Trang
giấy trước
đèn, Nxb Khoa học Xã hội, 1994: tr. 44-55.

[2]Xem
Thể thao & Văn hoá, số ra 19 - 12-1997.

[3]Phan
Khôi, “Về lối văn nhật ký”, trong Phụ nữ Tân văn số 150 ra ngày
23-6-1932. Dẫn lại theo Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, Nxb Văn
học và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh, 1995: tr.
121-128.

[4]Như
trên.

[5]Last
Night I Dreamed of Peace – The Diary of Dang Thuy Tram
, translated by
Andrew X. Pham, Introduction by Frances Fitzgerald: p.20.




Nguồn: Bài này được đăng lần đầu bằng tiếng Anh, “The Diary of
Ðặng Thuỳ Trâm
and the Postwar Vietnamese Mentality” trên Journal of
Vietnamese Studies
, volume 3, number 2, summer 2008.






Đã đưa vào Vương
Trí Nhàn – Phê bình và tiểu luận
-- 2009
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 15, 2014 00:21

August 11, 2014

Chiến tranh, nhớ và quên



Bài học từ trận lụt phố cổ Passau là tên một bài viết in trên TTCT03/06/2014, tác giả là Võ Văn Dũng (nghiên cứu sinh ngành Đông Nam Á - Trường đại học Tổng hợp Passau, CHLB Đức). Bài báo kể:

Passau (bang Bayern, Cộng hòa liên bang Đức) thành phố hơn 2.700 năm tuổi. Tháng 6-13, thành phố bị một trận lụt. Gần bốn tháng sau, nhà nhiếp ảnh Christoph Brandl từ Berlin đến Passau để phối hợp tổ chức một cuộc triển lãm kéo dài sáu ngày về trận lụt với phong cách “mở” hoàn toàn: mọi người dân có thể tham gia triển lãm tranh ảnh, vật dụng... liên quan đến trận lụt và thoải mái sáng tạo cách sắp đặt theo ý tưởng của mình.


Những hình ảnh về trận lụt tiếp tục được tờ Tin Tức Passau (Passauer Neue Presse) kêu gọi công chúng gửi về, kết hợp với những hình ảnh ngập lụt của thành phố láng giềng Deggendorf để thực hiện cuốn sách ảnh 2013 Hochwasser In Passau und Deggendorf(2013 Ngập lụt ở Passau và Deggendorf).

Sách bán chạy như tôm tươi, nhanh chóng được tái bản, một phần lợi nhuận được góp vào quỹ sửa chữa phố cổ. Điều thú vị là nhiều du khách đã mua cuốn sách này để chứng kiến hình ảnh một Passau chìm sâu trong biển nước và xác xơ sau lụt, bên cạnh một Passau cổ kính, bình yên trong những tập sách ảnh thông thường.


 Chỉ có nhớ vặt không có suy nghĩ

Sơ với một trận lụt ở một thành phố, thì một cuộc chiến tranh là một cuộc khủng hoảng lớn hơn nhiều. Nhưng bảo tàng không phải là ngành văn hóa phát triển ở ta, nên sự đòi hỏi có thể không đáp ứng ngay được. Giá bây giờ tôi đòi hỏi VN phải có một bảo tàng chiến tranh ra trò, hẳn sẽ vô lý.

Thế còn văn học VN hậu chiến? Có thể yêu cầu một cái gì tương tự như cách dân Đức làm  cho vụ lụt ở thành phố Passau lắm chứ! Có điều nói ra chỉ thêm buồn. Gần chục năm hậu chiến đã trôi qua, có một tình hình mọi người đều thấy. Đó là chúng ta lãng quên rất nhanh, nhất là không chịu khai thác quá khứ và rút ra ở đó những bài học. Nói rằng hoàn toàn vô tình thì không hẳn, giờ đây nhiều dịp lễ lạt vẫn được tổ chức. Trong văn học, luôn luôn có những cuộc vận động để mọi người viết lại về chiến tranh. Nhưng điều làm được đã chẳng bao nhiêu, mà nhìn sâu vào tâm lý những người trong cuộc thì lại thấy chúng ta hiện ra như những kẻ rất bàng quan, rất nhạt nhẽo với quá khứ. Trong văn chương, thậm chí người ta có cảm tưởng nhiều nhà văn  không buồn để công làm kỹ một cái gì hết, mà chỉ chăm chăm tính xem có đơn đặt hàng của nhà nước thì lao vào, y như giành giật được một món bở. Những việc vụ lợi ấy sao không mang một chút tâm huyết nào hết, nhiều khi lại biến thành làm hàng giả.





 Có mấy lý do khiến cho hình này ngày đang kéo dài và không biết bao giờ mới gỡ ra được.

Khi đặt tên cho cuốn hồi ký chiến tranh của mình là Nhớ lại và suy nghĩ, vị nguyên soái nổi tiếng của Liên xô G. Zhukov đã đưa ra một cái chuẩn cho hồi ký thời nay. 

Con người hiện đại không được phép dừng lại ở những nhớ nhung sướt mướt.

Nhớ và quên không chỉ là bản năng, tình cảm -  mà còn là vấn đề trí tuệ.

Trong khi đó, người Việt mình thường đối diện với các sự kiện xảy ra trong quá khứ một cách hời hợt. Chỉ có nhớ vặt không có suy nghĩ. Cả dân tộc kém tư duy lịch sử mà mỗi cá nhân cũng không bao giờ có mấy ai nghĩ tới chuyện làm cuốn sử của riêng mình. Tìm ra một người trong sự vội vã cuộc sống hàng ngày vẫn lo ghi chép về các sự kiện đã xảy ra xem chừng quá khó.





Chẳng những ghi ít, trong xu thế ghi chép lại chỉ thiên về những cái tốt đẹp, mà không thích và không dám đối diện với cả đau thương và mất mát.

 Một cách tổng quát, tức là người mình trải qua các biến cố một cách quá nhẹ nhõm,  còn nặng về bản năng"tự nhiên nhi nhiên", mà thiếu sự tham gia của lý trí. Nhìn riêng các cá nhân cũng vậy mà nhìn chung xã hội cũng vậy.

  Một nguyên nhân khác, trong nhận thức của người Việt, giữa chiến tranh và hậu chiến đang có sự đứt đoạn. Lấy quá khứ để giải thích hiện tại là chuyện người ta cho là viển vông. Ta thường nghĩ cắt khúc từng đoạn chứ không nghĩ được cả giai đoạn lớn của lịch sử. Thiếu một tầm vóc trí tuệ trong việc làm sống lại quá khứ.





Những người mau quên đáng thương

và những kẻ nhớ lâu đáng ghét

 Có một quy luật tâm lý chi phối con người khi nhớ lại quá khứ.  Nhớ và quên là hai mặt của cùng một hiện tượng. Không ai đủ sức cái gì cũng nhớ. Nhớ cái này nghĩa là quên đi cái khác.

 Lỗ Tấn từng có một bài tạp văn nổi tiếng mang tên Kỷ niệm để quên đi, viết về Lưu Hòa Trân một đồng chí của ông.

Còn những người đang yêu ở bất cứ lứa tuổi nào đều biết câu danh ngôn Muốn quên ai đi tức là đang nhớ người đó.





Mấy năm cuối đời, tuy mới ở tuổi ngoài bốn mươi, nhà thơ Xuân Quỳnh (1940-1988) có một vài bài thơ có tính chất tổng kết đời mình. Như bài thơ được phổ nhạc Thơ tình  cuối mùa thu.

Lại như bài Có một thời như thế (1985), trong đó, để nói về sự trưởng thành của mình, nhà thơ tự nhận với người yêu:

Em biết quên những chuyện đáng quên

Và biết nhớ những điều em phải nhớ.

Tôi đã nói ngay với tác giả khi chị còn sống, trên đời này loại người biết nhớ và quên như thế ít lắm, trong niềm tự hào nói trên đã bao gồm một ảo tưởng. 

Nếu có người nào đó đủ sức làm chủ mình đến độ đó thì một là một cái máy, hai là các ông thánh.

 Còn phần đông chúng ta, khi quên khi nhớ, lung tung tùy tiện.

Hôm nay đây, có một ví dụ mà giá Xuân Quỳnh còn sống tôi sẽ trình ra với nhà thơ: cái sự quên nhớ sai lạc chung quanh câu chuyện chiến tranh của cả cộng đồng ta. 

Gần bốn mươi năm đã qua, đối với chiến tranh, đang thấy có tình trạng nước đôi.

Cả quên và nhớ đều có cả.

Chỉ  có điều xẩy ra một sự lỗi nhịp.

Cái đáng nhớ thì ta quên và cái đáng quên thì ta nhớ. 

 

Hình như có ai đó, vào khoảng 1975-85 đã có lần tự hào nói rằng không có dân tộc nào biết quên đi chiến tranh nhanh chóng để bắt tay vào cuộc kiến thiết trong hòa bình như chúng ta. Do nhu cầu tái thiết đất nước, sự quên đi đó là cần thiết.

Nhưng nhìn vào một phương diện khác lại thấy hoàn toàn ngược lại.

Với chiến tranh lại có sự nhớ cũng đáng trách không kém, tức là gây hậu quả đình trệ.

 Theo sự quan sát của tôi, những người luôn luôn nhớ tới chiến tranh một cách dung tục ở ta có nhiều loại, bao gồm từ các chiến binh công trạng lẫy lừng tới các nhân vật dây máu ăn phần, đóng góp thì ít mà tự thổi phồng lên thì nhiều. Phần lý trí sáng suốt của họ đã bị chiến tranh lấy đi gần hết. Ở một số người trong họ chỉ còn cái phần bản năng. Họ nhớ chiến tranh với nghĩa ở đó cộng đồng đã mắc nợ họ. Thời hậu chiến là lúc họ đòi nợ. Họ muốn lu loa ăn vạ. Trong lúc thả sức làm giàu một cách bất lương, họ sống y như những người từng bị chiến tranh ám ảnh và không bao giờ ra khỏi nó. Họ luôn luôn nhắc tới chiến tranh và muốn xã hội nhắc tới chiến tranh chỉ cốt để biện hộ cho sự hư hỏng của mình.





 Trong chữ nghĩa của khoa kinh tế ở VN hiện nay, có khái niệm xí nghiệp nhà nước, bao trùm cả những ngành chủ đạo của kinh tế quốc gia. Thực chất của các xí nghiệp này là gì nếu không phải là hình thức sau chiến tranh, nhà nước trao quyền làm chủ xã hội cho các công thần.

 Người ta cho đó là việc đương nhiên không cần giải thích, ai không hiểu thì người đó là kẻ vong ơn bội nghĩa. 

Ẩn kín sau đó còn là quan niệm vô cùng sai lầm song lại ôm trùm trên phạm vi rộng lớn “ai đã biết làm chiến tranh thì làm gì cũng được” hoặc “kẻ chiến thắng trong chiến tranh là kẻ thành đạt trong mọi lĩnh vực khác – nói theo chữ nghĩa thời nay - tức là kẻ chiến thắng trong mọi mặt trận khác.”





Đây chính là cái lối sùng bái quá khứ để trục lợi. Cách tổ chức xã hội cổ lỗ lỏng lẻo vốn đã mở đường cho tham nhũng tồn tại, nay lại được lý luận về sự đền ơn trả nghĩa nói trên hỗ trợ, hỏi làm sao nó không phát triển đến mức đè cả xã hội bẹp dí như chúng ta đang thấy.





Những người thích thú với tư tưởng sùng bái quá khứ kiểu này hay lý sự “kẻ nào bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào họ bằng đại bác”. Họ quên rằng tác giả câu danh ngôn trên,-- nhà thơ xô viết Rasul Gamzatov 1920-2003,-- là một người của nước Nga thời trì trệ, và tư tưởng của ông cũng nằm trong không khí trì trệ đó.

 Sống trong một thế giới bị cô lập, những người này không biết rằng quá khứ không phải chỉ có một khuôn mặt mà bao giờ cũng có nhiều khuôn mặt, và việc khám phá ra bài học cần thiết của quá khứ sẽ là cái biện pháp hiệu nghiệm nhất để đi tới tương lai chân chính.

 Trong bài thơ Có một thời như thế mà trên kia tôi nhắc,  Xuân Quỳnh cũng đã có  câu thơ dành để nói về thời chiến, theo tôi là vượt xa hơn cả R. Gamzatov:

Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ

Nhưng không phải là điều em ao ước.

Việc "quên đi" cái phần quá khứ nói như thế này cố nhiên cũng là kết quả của sự hiểu biết tương lai trên cơ sở khảo sát cả quá khứ lẫn hiện tại.






Không
thể bị cầm tù trong quá khứ



Một hướng suy nghĩ của nhiều dân tộc sau chiến tranh cũng bao hàm một thái độ hai mặt cả biết nhớ lẫn biết quên như trên. 

Tôi biết điều này nhân đọc bài thơ của   Wisława Szymborska do Thái Linh dịch.

 Theo lời giới thiệu trên mạng Lilia,  Wisława Szymborska ( 1923 –  2012) là nhà thơ lớn của Ba Lan. Năm 1996, bà được trao giải Nobel cho "những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người. Bà đã thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại".

Bài thơ sau đây là một chứng minh cho nhận định đó.









Kết thúc và khởi đầu      

Sau mỗi cuộc chiến tranh

Phải có người dọn dẹp.

Một trật tự khả dĩ

không tự nó sinh ra.





Phải có người xúc đống gạch nát

sang lề đường

cho những chiếc xe chất đầy xác

đi qua.




Phải có người lăn xả

vào bùn đất, tro tàn,

giữa lò xo của những chiếc ghế bành,

những mảnh kính vỡ

và những tấm giẻ đẫm máu.




Phải có người khuân đi

thanh gỗ chống tường,

phải có người lắp kính cửa sổ

và lắp cánh cửa vào bản lề.



Những điều ấy lên hình không đẹp

và mất nhiều năm.

Mọi ống kính đều đã lên đường


tới cuộc chiến tranh khác.



Phải bắc lại cầu


và làm nhà ga mới.

Những tay áo sờn rách


vì bao lần xắn lên.




Có người cầm búa

ôn chuyện đã qua.

Có người lắng nghe


gật gù bằng cái đầu chưa mất.

Nhưng quanh họ


bắt đầu có những kẻ cảm thấy

những thứ đó chán ngấy.




Dưới bụi cây

đôi khi vẫn có người đào lên

những lý lẽ đã gỉ sét


và mang chúng ra đống rác.




Những người biết

về những điều từng xảy ra nơi đây

phải nhường chỗ cho những người

biết ít.

Biết ít hơn.

Và rốt cuộc gần như không biết.



Trên thảm cỏ


nơi mọc lên nhân quả

phải có người nằm lăn ra


nhấm cọng rơm




và ngây ngắm mây bay.



Với cả bạn đọc người sáng tác ở VN, bài thơ trên hẳn gây ngạc nhiên. Nó nêu lên một đề nghị vượt lên trên cách xử lý thông thường. 

Nhưng giá kể biết được văn học viết về chiến tranh ở VN  đang ở trong tình trạng thế nào, các nhà thơ và bạn đọc thế giới sẽ ngạc nhiên, không ngờ chúng ta bị cầm tù trong quá khứ chắc chắn đến thế, cách tiêu hóa quá khứ ở ta lại cổ lỗ đến thế. 

Biết bao giờ chúng ta mới gia nhập được vào thế giới hiện đại! 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 11, 2014 04:22

August 5, 2014

Thái Lan -- xứ sở biết tự cai trị

Một thoáng trên đường



Từ
phòng ăn của một khách sạn nhỏ nhìn ra, tôi cảm thấy thiên nhiên ở thành phố  Đông Nam Á mà mình vừa đến cũng “tự nhiên như
nhiên”, cũng ngang dọc cao thấp tùy tiện không ra hàng ra lối, tức không được
chăm sóc một cách kỳ khu tinh tế, do đó có cái vẻ mỹ lệ,  nó là niềm tự hào về sự có mặt của con người, như
ở bên Tầu bên Nhật.



 Không có may mắn đi sâu vào những thắng cảnh đẹp
nhất của Bangkok, chỉ ngồi xe ô tô du lịch nhìn ra hai bên đường ngoại ô, tôi cũng chỉ
thấy những ngôi nhà phần nhiều màu xám, cao ốc đâu chỉ dăm bảy đến mười tầng. Có những khu
vực san sát nhà mái tôn kiểu ven đô Sài Gòn. Vào các siêu thị thấy hàng hóa rất
nhiều, nhưng trên đường thì thấy ít biển quảng cáo.



Thái
Lan với tôi chỉ là vậy. Đó không phải một Thái Lan làm tất cả để mời gọi khách
du lịch, như tôi hằng nghe một số bạn đi về kể lại.  Tôi cũng bắt gặp ở đây những bãi cỏ hoang lụn
vụn. Chạy ngầm dưới mặt tiền một khách sạn là một con cống mà tới quãng lộ
thiên thì bốc mùi thoang thoảng khó chịu. Đường rộng nhưng mới chỉ đủ cho xe đi
lại và chỉ nhờ người đi xe biết kiềm chế và tôn trọng luật pháp nên không cảm
thấy hỗn loạn. Đường thật nhiều ô tô nhưng những xe được sử dụng phần lớn là xe
nội địa.

 Cảm tưởng chung rút lại là một cái gì không
choáng lộn không nổi bật.

Tuy
nhiên tôi lại cho rằng chính cái đó là hợp với tình cảnh của một nước Đông Nam
Á , khu vực đã từng là mồi ngon cho chủ nghĩa thực dân trong các thể kỉ 18 – 19, và tới
nay vẫn  không phải là vùng phát triển của
thế giới. Mà  về mặt văn hóa, nó là khu vực
bị kẹt giữa hai nền văn hóa lớn là Trung Hoa và Ấn Độ .

  Ở bên nhà, những lúc rỗi, tự đối diện với
lòng mình,  tôi thường buồn bã nhận ra một
điều. Nếu có một cái gì mà làm người ta khó chịu nhất ở Hà Nội, thì  đó là việc mọi người cùng hùa nhau tìm cách
che giấu thực trạng đang sống, cả nước muốn tô vẽ cho mình, muốn chứng tỏ rằng
dân Việt không thua kém gì những nơi khác. Ở Thái Lan, tôi không có cảm tưởng
đó. Vừa phải. Biết điều. Chân chất. Giản dị... Thái Lan mà tôi gặp là một cái
gì tổng  hợp của những phẩm chất đó. Ngay
ở các khu chợ ồn ào chật hẹp không thấy khắp nơi là túi ni lông như ở Hà Nội.
Cũng như bên Nhật, không thấy cảnh người Thái liến láo nói trong điện thoại.

Trước
cửa chùa Phật Vàng (Kim Phật Tự) có một người ăn mày. Ông ta ngồi ăn cơm tay lấy
cái thìa xúc cơm ra từ túi ni lông. Nhưng ăn xong, ông không quên gói ghém các
thứ rồi lấy dây thun buộc lại  cho vào
túi sách, -- chứ không thẳng tay quăng ra mặt đường, và nếu quăng được vào những
chiếc xe sang trọng đi qua thì càng sung sướng. Ở ông không có lòng căm hận cuả
những người nghèo thấy tất cả những người giàu khác là kẻ thù của mình như đám
ăn mày Hà Nội.  Ông ăn mày Thái đang yên vị trên một chiếc thảm nhỏ dùng để ngồi.
Khi hút thuốc lá, ông gạt tàn vào một cái bát đặt ngay bên cạnh.

 Sau này đọc báo mới biết Thái Lan là một đất
nước của những con người hiền hòa. Khách phương Tây mệnh danh đây là đất nước
những nụ cười. Người ta lại còn bảo  trong cái cười của người Thái Lan có thoáng
qua ý mai – pen – rai, với nghĩa
không sao, không có gì đâu mà. Nó xa lạ với những tiếng cười phá trời, cái cười
đắc thắng của các đám nhậu bên vỉa hè Hà Nội.




Chiều sâu cuộc sống

  Cùng với việc che giấu thực trạng lạc hậu,
người Việt mình lại  thường thích tô vẽ để
trưng ra niềm tự hào thô lỗ về các phong
tục tập quán ngàn đời và bảo đó là nền văn hóa “đậm đà bản sắc” không lẫn với
ai hết.

Đọc
phần văn hóa Thái Lan trên mạng và qua câu chuyện với người hướng dẫn viên, tôi
thấy tinh thần chi phối phong tục tập quán ở đây khác hẳn.  Xin kể ba ví dụ.

--
Ở nhiều gia đình Việt Nam hiện nay, tới ngày sinh nhật của con cái hình như cả
nhà đều bận rộn lo lắng, làm sao để chứng tỏ rằng đứa con có ngày sinh nhật đó
là niềm tự hào của gia đình. Còn ở Thái, ngày sinh nhật là dịp để bọn trẻ bộc lộ
lòng biết ơn với bố mẹ ông bà và với cuộc đời. Trong ngày sinh nhật, trẻ muốn
mình có hình ảnh đẹp hơn, trở nên ngoan ngoãn hơn trong mắt bố mẹ và lấy đó làm
niềm hãnh diện.

--Với
đà ào ạt trở lại của các hủ tục, các đám ma ở Hà Nội thường ồn ào, người ta như
muốn khoe ra sự thương xót đối với người vừa nằm xuống. Còn theo phong tục của
Thái Lan, khi đưa đám người chết không nên khóc nhiều, bởi khóc nhiều sẽ làm
cho người chết thấy phiền lòng.

--
Trong thái độ đối với tôn giáo, tôi cảm thấy ở người Thái có thái độ thành tín.
Các nhà sư được tôn trọng, chùa chiền giữ được vẻ trang nghiêm, thanh tịnh. Cuộc
sống như có một cái gì đó thiêng liêng, đó là hương vị mà ở Hà Nội, tôi chỉ cảm
thấy hồi nhỏ, trước 1954, kéo dài ra tới đầu những năm sau mươi. Còn từ sau 1965
đến nay, nó đã bị đánh mất dần dần.




Biết cách tổ chức xã hội

Ngay
từ trong lời giới thiệu trước chuyến đi, công ti du lịch đã lưu ý chúng tôi về sự sùng bái Hoàng gia của người
Thái.

Những
câu chuyện của người hướng dẫn địa phương cũng xoay quanh chủ để này. ơn thế nữa, chúng tôiH Hơn thế nữa,
chúng tôi còn cảm nghe được rằng đó là những bằng chứng thực chứ không phải những
lời lẽ tuyên truyền nhằm áp đặt cho khách từ xa tới.

Hoàng
gia Thái Lan tạo được sự kính trọng tuyệt đối trong dân gian. Bất cứ một hành động
nào xúc phạm đến Hoàng gia đều có thể bị mọi người chung quanh báo cho cảnh sát
biết và bị nghiêm trị. Cho đến việc tiêu tiền nữa, ở Bangkok, người ta chỉ sử dụng
tiền Thái vì ở đó có in hình quốc vương mà người ta kính trọng. Một tội lớn
trong giao thiệp dành cho người nào dám lấy chân chà đạp lên đồng tiền, vì đó
cũng coi là xúc phạm đến giá trị tinh thần của đất nước.

 Khi nghe nói đến một nước quân chủ, nhiều người
Việt ở tuổi tôi lập tức nhớ lại những bài học được học ở phổ thông. Các vua
chúa thời xưa được miêu tả  là những người
cực kỳ đoảng vị. Nhất là nhà Nguyễn. Thôi thì bạc nhựơc yếu hèn đồi bại đủ thứ.
Làm như họ không phải là người Việt.

Sau
này tôi được biết rằng thực ra cái lối bôi nhọ giai cấp phong kiến như thế chỉ
là sản phẩm của một thời con người quá uất ức muốn thay đổi và đập phá, nên nhìn
tất cả những người chủ cũ là có tội . Chứ thực ra giai cấp phong kiến Việt Nam
đâu đến nỗi.

Cuối
năm 2012, một nhà sử học là anh Cao Tự Thanh vừa dịch và giới thiệu cuốn  Đại Nam
thực lục chính biên đệ thất kỷ
của Quốc sử quán triều Nguyễn.  Cuốn sách cho thấy từ đời Khải Định, nhà vua đã biết đặt ra khẩu hiệu ba vế, bên cạnh Tôn quân quyền, Khai dân trí, Dụ dân tài (hướng dẫn cho dân làm giàu).
Còn nhiều việc khác, chứng tỏ chính quyền lúc ấy biết học hỏi để cải lương tức cải
cách xã hội theo hướng hiện đại. 

  Trở lại
với chuyện bên Thái. Sự kính trọng đối với Hoàng gia có cái lý của nó. Hoàng gia rất xứng đáng với sự kính trọng đó, trước hết
là trên phương diện định hướng cho sự
phát triển kinh tế quốc gia, mà cũng là cách thức để bảo đảm đời sống cho dân chúng.


khắp nơi trên đất Bangkok và Pattaya, tôi bắt gặp hình ảnh của vua Rama IX là vị
vua trị vì từ 1946 tới nay. Người hướng dẫn sớm cho chúng tôi biết rằng, bản
thân vua là một trí thức đã từng theo học ở đại học phương Tây. Ông là kỹ sư
nông nghiệp. Chính ông đã nghiên cứu để tạo ra giống ổi không hạt, là một thứ
hoa quả mà nước Thái có thể xuất khẩu.

Hoàng
gia đứng ra bảo lãnh cho những ngành kinh tế mà có thể giúp cho Thái Lan phát
triển. Khi tỉnh Phuket bị sóng thần tàn phá, Hoàng gia đã đầu tư vào để giúp tỉnh
đó tổ chức lại đời sống. Nghề sản xuất Yến Sào cũng được Hoàng gia bảo trợ và một
vị công chúa trực tiếp làm công việc là kiểm tra sản phẩm trước khi xuất xưởng
để đảm bảo uy tín của sản phẩm. Một vị công chúa khác vừa học nghề bác sĩ vừa
nhận giảng dạy một ít giờ ở trường đại học. Và trong nông nghiệp, thì sau một
chuyến sang Việt Nam, bà đã mang về giống thanh long, trở thành giống quả phổ biến
ở Thái Lan.  Khi tôi đến thăm cửa hàng đá
quý, ở đó bên cạnh hình ảnh đức vua đương thời là Rama IX có hình ảnh vua
Rama V. Người ta giải thích với tôi là ông này đã có công mang công cụ sản xuất
vàng bạc từ phương Tây về để đổi mới công nghệ làm đá quý của nước Thái.

Từ
trường hợp của Thái, người ta có thể rút ra cái tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá một
chế độ chính trị.

Đã
gọi Hoàng gia tức đây không phải là chính quyền của dân, do dân như tình hình  ở một số nước châu Á trong thế kỷ XX. Sau khi
lật đổ chế độ  quân chủ, các nước này thường
tuyên bố  là dân chủ, tiến bộ.  Những người cầm quyền đúng là  mới nẩy nòi lên từ đám đông dân chúng thực. Nhưng
khi nắm quyền trong tay, họ hoàn toàn chủ quan và tùy tiện trong việc quản lý
quốc gia. Các cuộc bầu cử hầu hết đều hình thức giả tạo. Ai đứng ra tổ chức bầu
cử kẻ đó được. Cộng với một lý do nữa nghe có vẻ tình nghĩa mà hóa ra gây mầm hậu
họa: họ không bao giờ quên là đã hy sinh
quá nhiều để ngoi lên địa vị cao nhất xã hội. Với nhiều hình thức khác nhau, họ
băm bổ lao vào xoay xỏa kiếm chác, ý muốn đòi hỏi xã hội phải báo ơn cho mình gia đình mình, phe nhóm mình; và khi không được
thì quay ra dùng bạo lực trị dân, phản bội ngay cái lý tưởng ban đầu vốn rất tốt
đẹp mà họ theo đuổi.

 Kinh nghiệm xã hội hiện đại là trong chính trị,  rất dễ có sự tách rời giữa cái danh và cái thực, giữa điều người ta
tuyên bố thậm chí là cái điều người ta mong muốn và điều làm được. Thái
Lan không vụ cái danh mà chỉ lo tính tới cái thực. Thái Lan hiểu rằng cái thời
dân chủ theo nghĩa chân chính nhất còn chưa tới.

--Cốt nhất là sự trung thành với
tương lai chứ không phải trung thành với quá khứ.


-- Đáng phải lo nhất là sự tử
tế của con người và sự thịnh vượng của xứ sở chứ không phải cái tiếng hão lý tưởng
này chủ nghĩa nọ
.

   Trong những ngày đi du lịch bụi trên đất
Myanma, tôi đã cảm thấy như thế (xem bài trên blog này 14-3-2014). Hôm nay đến
Thái Lan tôi lại cảm thấy như thế.




Tự đổi mới cách cai trị và làm cho
nền cai trị có được một bộ máy thích hợp


Một
khía cạnh khác làm nên tính chính đáng của Hoàng gia Thái là khả năng tự cải biến
tự làm mới mình để phù hợp với sự phát triển của thời đại.

 Trong cuốn Lịch
sử Đông Nam Á,
của D.G.E. Hall (đã dịch ra tiếng Việt) phần viết về Việt
Nam, tôi thấy sử gia người Anh nhận định Nguyễn Ánh Gia Long là người sinh ra để
chiếm lại đất nước, là người chiến thắng sau những cuộc nội chiến, chứ không phải
người sinh ra để cai trị đất nước.

 Tôi rất thích cái ý này vì nó gợi cho người ta
nhớ lại cách hình thành bộ máy quyền lực
thường thấy ở xứ mình. Lịch sử Việt là lịch
sử được
làm vua thua làm giặc.
Người thắng trong những cuộc nội chiến sẽ có tất cả
chính nghĩa và mọi thứ vinh quang khác. Rồi nếu như họ lại còn chiến thắng trong
công cuộc ngoại xâm nữa, thì quyền quản lý đất nước mặc nhiên là trong tay họ. Họ muốn vầy phò phá nát đất nước thế nào, dân chúng cũng phải chịu. Không phải  chỉ có Gia Long mà các đời
vua chúa ở Việt Nam đều theo luật như vậy.


Trong
khi đó, ở Thái Lan, -- như tôi thấy người ta viết trong sách vở và hôm nay nghe
người địa phương kể lại -- nhà cầm quyền biết cai quản đất nước bằng sự nhạy bén của tầng lớp quý tộc nhiều đời cộng với nhận thức tổng quát chính xác về thời đại. Là bộ phận tinh hoa của đất nước, Hoàng gia đã tự biến chuyển để
theo kịp với mọi tình thế.

Bên
cạnh việc lo bảo đảm phúc lợi cho dân, tính chính danh của Hoàng gia bộc lộ trước
tiên là trong việc định hướng lớn cho sự phát triển của đất nước.

Trong
khi Anh – Pháp xâm lược hai nước bên cạnh là Myanma và Campuchia thì Thái Lan
là nước duy nhất ở Đông Nam Á vẫn giữ được nền độc lập của mình.

Hoàng
gia lúc ấy đã sớm hiểu rằng phương Tây là một nền văn hóa văn minh cao hơn mình, và
có thể học hỏi họ trong tất cả mọi việc. Thái Lan không chỉ lo mua hàng mà còn  muốn mua cả tư duy của phương Tây nữa.

Các
hoàng tử và nhiều người trong hoàng tộc được cử sang các nước phương Tây để học
từ những nghề nghiệp bình thường cho đến việc tổ chức xã hội.  

 Vua Rama IV - Mongkut (trị vì 1851 -
1868) là người thành thạo tiếng Anh và ham đọc các sách phương Tây dưới sự hướng dẫn của các ông thầy phương Tây. Ông đã ký với người nước ngoài nhiều hiệp định
cần  thiết.

 Vua Rama V – Chulalongkorn (1868-1910) nhiều lần đi tham khảo
học hỏi ở các nước phương Tây. Trong chính phủ của ông có nhiều cố vấn người Bỉ, Đan Mạch. Thời ông, Hoàng gia mở trường do người Anh dạy, trong đó có trường luật.
Từ 1844 tới 1877, có ít nhất 7 tờ báo tiếng Anh trong toàn quốc.

 Khi Thái khai thông tuyến đường sắt đầu tiên của đất nước, vua Chulalongkorn bảo rằng đó là ngày đẹp nhất của đời mình.

Trong
khi ở các nước mới lật đổ chế độ quân chủ, việc quản lý đất nước hoàn toàn có
tính cách nghiệp dư, thì Hoàng gia Thái Lan quản lí đất nước với một sự hiểu biết
tinh tường về các vấn đề hành chính sự nghiệp.

Châu
Âu vốn có nhiều quan niệm hợp lý về tổ chức xã hội. Trong khi Pháp Đức là những
nước cộng hòa thì Anh, Hà Lan, Bỉ… lại là các vương quốc. Và Thái Lan đã học
theo họ.

 Ngày 10/12/1932 Vua Prachadhipok (Rama VII) đã
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên và Thái Lan theo chế độ quân chủ lập hiến. Tuy chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở
Hiến pháp 1932, nhưng 80 năm qua Thái Lan đã thay đổi gần hai mươi hiến pháp. Hiến pháp lần đầu một đảng, hiến pháp thông qua lần thứ hai đã cho phép đa đảng.

Các
thể chế như Thượng viện, Tòa án tối cao … luôn luôn hình thành trong sự phối hợp giữa nguyện vọng của đông đảo dân
cư và sự chỉ đạo của Hoàng gia. Quân đội như một bộ phanh hãm, khi chính trường
không tìm thấy sự đồng thuận thì quân đội làm nhiệm vụ làm trụ cột tạm giữ cho tình hình trật
tự, để mọi ngành mọi giới bàn bạc tiếp. Các tướng lĩnh có thể làm thủ tướng tạm
thời, nhưng các bộ thì bao giờ cũng do các nhà chuyên môn nắm.

Chúng
tôi đến Thái Lan đúng vào dịp đất nước này vừa qua cuộc đảo chính của giới quân
sự. Mặc dầu vậy suốt trên đường đi,  không mấy khi thấy bóng những đám lính hay cảnh
sát và không khí đằng đằng sát khí của các xứ có thiết quân luật.

 Bằng kinh nghiệm Việt Nam, ai cũng nghĩ rằng
khi đất nước đang qua cuộc đảo chính như thế này, tức là không ai làm ăn gì nữa,
khắp nơi lộn xộn. Nhưng hôm nay, Thái
Lan gợi cho người ta nghĩ khác. Ở  những
nơi nào kia, sự ổn định luôn luôn phải nhờ đến bàn tay của bạo lực, do đó là một
sự ổn định giả tạo, nó luôn luôn chông chênh như sẵn sàng bị đánh mất,  -- thì ở Thái, sự ổn định nằm sẵn trong cốt
cách cuộc sống và mọi biến động trên bề mặt là để đi dần tới sự ổn định  mới.

Hoàng
gia Thái không phải là loại người cai trị mà lúc nào cũng khoe khoang về công
ơn của mình với người dân. Hoàng gia Thái càng không phải là những người cai trị
tự cho là mình “biết tuốt”, trong đầu luôn có ảo tưởng
rằng mình đưa dân tộc đi lên, trong khi thực tế là lôi cả xã hội  rơi xuống vũng bùn của cô độc và lạc hậu. Các
đời vua kế tiếp  ở Thái hiểu được những
giới hạn của họ, cái gì lo được thì lo, không lo được tự để xã hội cùng bàn bạc
và thể nghiệm.

Nạn
kẹt xe hiện còn khá phổ biến ở Bangkok. Người dân nơi đây khi mắc cảnh kẹt xe
yên tâm chờ đợi, không lanh chanh phá luật tìm lối riêng cho xe mình. Bởi họ biết rằng
đó là chuyện thường tình ở một nước mới phát triển. Nhất là họ biết rằng bộ máy
quản lý giao thông đang suy nghĩ để cấu trúc lại hệ thống, nhằm có được cách sống cách đi lại phù hợp với
hoàn cảnh đất nước ngày một phát triển.

Đối
với tình hình chính trị, người dân Thái cũng có sự bình tâm và niềm tin tương tự.




Đặt quốc gia mình vào trong xu thế
vận động của thế giới


Rộng
hơn câu chuyện biết thích ứng với hoàn cảnh, đúng hơn là đặt cơ sở cho việc
thích ứng đó, là quan niệm người Thái về
vị trí của mình trong thế giới. Sống cạnh Trung quốc nhưng Thái Lan không coi
Trung quốc là thiên triều là mẫu mực, nhất là xa lạ với quan niệm chỉ có châu Á
mình là văn minh, mà phương Tây là man di mọi rợ. Vua
Rama IV - Mongkut (trị vì 1851 - 1868) hiểu thất bại của Trung quốc trước
phương Tây lúc đó là do Trung quốc không chịu mở cửa. Và ông đi theo cách của
mình như trên đã kể.

Mà chẳng cứ phương Tây,
Thái Lan tôn trọng tất cả các dân tộc chung quanh. Đồng thời với việc sang du học phương
Tây, vua Rama V (1868 - 1910) từng có những chuyến thăm thú và khảo sát dài ngày sang các nước lân cận.

Trong
một bài viết trên mạng bàn về đời sống chính trị Thái Lan, tôi thấy người ta bảo
rằng chính sách ngoại giao của Thái Lan là cách tồn tại của cây sậy tức là gió
chiều nào ngả theo chiều ấy. Trong việc quan hệ với các quốc gia bên ngoài, họ không
tìm cách đẩy xã hội mình đến tình trạng đối đầu mà luôn luôn tìm cách  cùng chung sống cùng tồn tại.  

Sự
khôn ngoan của Thái  bộc lộ rõ nhất trong
những giai đoạn thế giới có những biến chuyển lớn.

Sử
sách còn ghi là hồi Đại chiến thứ hai, lúc đầu Thái Lan cũng cộng tác với người
Nhật, đến 1.8. 1944, lập tức trong một đêm quay sang phía người Mỹ.

Dường
như Thái Lan muốn tuyên bố nước này
không bị ràng buộc bởi tất cả cam kết  nhất thời, lại càng không bị ràng buộc bởi những
danh tiếng nhăng nhố. Cách xử lí của họ đúng là theo đúng tinh thần mà các nhà
chính trị lõi đời ở cả Đông lẫn Tây đều thống nhất: không có bạn vĩnh viễn,
không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi của dân tộc là vĩnh viễn. Cần biến
thù thành bạn chứ không phải biến bạn thành thù. Không lấy việc làm đau các quốc
gia khác làm niềm vui, bởi khi đó chính chúng ta cũng sẽ rơi vào cái cảnh thân
tàn ma dại.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 05, 2014 01:25

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.