Vương Trí Nhàn's Blog, page 70
November 25, 2014
Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt
Bài trên mạng VnMedia 19-3-2010
(VnMedia) -
Clip nữ sinh bạo lực khuấy động dư luận. Nhiều người sửng sốt vì tình trạng bạo
lực học đường. Nhiều người khác giật mình chất vấn giáo dục, xã hội. Trong khi
đó, nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: Bạo lực có mầm mống trong
xã hội Việt mà ta không tự thấy.
Năm nay gần 70 tuổi, Vương Trí Nhàn
đã làm phê bình lý luận văn học trong vài thập kỷ và sau này chuyển sang nghiên
cứu văn hoá. Ông được biết đến là một trong những người đầu tiên chủ trương
nghiên cứu về những thói hư, tật xấu của dân tộc Việt Nam và là người được chú
ý nhất trong mảng công việc này.
Loạt bài viết của ông về các thói
xấu của người Việt được đăng tải thường kỳ trên báo Thể thao & Văn hóa cách
đây vài năm đã trở thành một chuyên mục thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và
gây ra tranh luận nhiều chiều. Thậm chí, có nhiều người mong muốn có thể tập
hợp thành sách “Người Việt xấu xí”, tương tự cuốn sách gây sốc Trung Hoa đại
lục mang tên “Người Trung Quốc xấu xí” của tác giả Bá Dương.
Năm 2007, khi vụ scandal clip sex
Vàng Anh - Việt Dart nổ ra, trong khi dư luận ầm ĩ xung quanh vụ việc này,
trong khi nhiều người cũng sửng sốt và giật mình không khác gì với hiện tượng
clip nữ sinh ẩu đả vừa qua… thì Vương Trí Nhàn nhìn vào sự kiện theo một cách
tiếp cận rộng hơn ở góc độ dân tộc tính. Nhận định của ông “Dân tộc Việt là một
khối tự phát khổng lồ” trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo mạng ngay lập
tức dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến đa chiều: Có nhiều ý kiến
cực lực ủng hộ và không ít tiếng nói phản đối gay gắt.
Ở hiện tượng xã hội gây xôn xao dư
luận lần này, những nhìn nhận của ông cũng mang lại cái nhìn tương đối rộng mở
và mới mẻ. Và, đương nhiên, cũng không ít ý kiến có thể sẽ gây tranh cãi… Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy đây là hướng suy nghĩ cần được tiếp tục bàn luận.
Dưới đây là trao đổi của VnMedia với ông trên tinh thần này.
Sẽ còn những biểu hiện bạo lực mới
Tuần qua cả xã hội xôn xao với clip
nữ sinh đánh hội đồng bạn trên phố. Nhìn nhận của ông xung quanh hiện tượng
này?
Việc các em nữ đánh bạn dã man như
trong clip là biểu hiện của một cách sống mà trong đó bạo lực trở nên cần thiết
trong giao tiếp giữa người với người, mà người ta cho rằng, lời lẽ thông thường
không còn đủ để tác động tới người khác.
Cảnh tượng trong clip này là sự tràn
ra của một cái gì đó đã đến mức không bình thường… Nếu đọc báo những năm qua sẽ
thấy nhiều hình thức bạo lực trong xã hội. Ngay trong môi trường giáo dục,
không biết bao nhiêu vụ hoặc các cô trông trẻ bạo hành với trẻ con, hoặc các
thầy cô giáo đánh phạt học trò hay các học trò đánh lại thầy cô giáo…
Những việc như thế này tôi cho rằng
sẽ còn tiếp tục có những biểu hiện mới, với những cấp độ rồi sẽ còn cao hơn.
Nếu chúng ta không tính chuyện chữa trị lâu dài, và trước tiên là tìm về tận
gốc để lý giải một cách khái quát, rồi thì sẽ còn lĩnh đủ.
Có thể hiểu như thế này, sự xuất
hiện của clip nữ sinh bạo lực kia trong xã hội tương tự như việc một người
huyết áp thấp bị ngã ngất lần đầu. Họ hẳn là ngỡ ngàng nhưng cái sự ngất ấy nó
không hề ngẫu nhiên. Và nếu chưa biết là mình bị huyết áp thấp, người ta sẽ
không ý thức là mình có thể đối diện nguy hiểm hơn trong những lần ngất tiếp
theo?
Tôi chia sẻ với lối ví này của bạn ở
khía cạnh: Nhiều khi phải có những “cú điếng người”, ta mới hết nhởn nhơ coi
thường và bắt đầu nhận ra những thứ tiềm ẩn trong mình. Cái nguy hiểm hôm qua
đã đáng sợ, nhưng cái nguy hiểm tiếp theo mới thật đáng bàn.
Bây giờ thử bình tĩnh mà nhìn lại
xem, hóa ra trong nhiều mặt đời sống người Việt, mầm mống bạo lực đã có mặt và
ta đã chung sống với nó quá lâu - cái cách sống bạo lực ấy - mà ta không biết.
Tôi muốn nhấn mạnh hai điều.
Một là, sở dĩ có hiện tượng lớp trẻ
sống với nhau theo kiểu bạo lực, vì người lớn cũng hành xử theo kiểu bạo lực.
Xã hội đen. Giới giang hồ thanh toán nhau. Những vụ cướp giết hiếp, và cả những
vụ nợ tình, trả thù… Có quá nhiều sự việc trong xã hội mà chúng ta chưa phản
ánh hết, chưa có dịp phân tích soi rọi.
Hai là, trước khi có những biểu hiện
cực đoan theo kiểu bột phát nói trên, nhiều hình thái tạm gọi là tiền bạo lực
cũng đã nhan nhản trong đời sống hàng ngày. Muốn ép người ta phải nghe mình
điều gì đấy nói một lần chưa đủ, nói đi nói lại hàng trăm lần, bắc loa vào nhà
người ta lải nhải…
Ai đi cầu cúng đầu năm hẳn nhớ cảnh
dân địa phương nhiều nơi vừa thấy người đi chùa thì áp sát, bắt người ta mua đồ
cúng của mình, lèo nhèo nói đi nói lại, không mua thì chửi xéo chửi đổng, đốt
vía đốt vang… Đấy là tiền bạo lực chứ còn gì nữa?
Lâu lắm rồi từ 1999, tôi đọc trên
báo Nông thôn ngày nay thấy một hiện tượng kỳ cục ở một tỉnh nhỏ. Giữa công ty
X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X
những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của
mình. Kiểu khủng bố độc đáo này thật tiêu biểu cho người mình, tức là ác vặt,
nhưng mà cứ ác một cách dai dẳng đáng sợ.
Đạo diễn Xô viết Mikhail Rom từng có
một bộ phim mang tên “Chủ nghĩa phát xít thông thường”. Ở ta giá có ai bắt
chước mà làm một bộ phim “Chủ nghĩa bạo lực thông thường”, chắc cũng dễ có một
tác phẩm có sức răn đe với xã hội.
Bạo lực có mầm mống trong xã hội
Việt
Ở trên ông vừa nói nhiều mặt trong
đời sống đã tiềm ẩn yếu tố bạo lực mà ta không ý thức.. Ông có thể nói rõ hơn
một chút về cái ý này?
Gần đây tôi đã viết trong một bài
báo, ngay cách đi đường của người Việt Nam hôm nay cũng có tính chất bạo lực.
Chúng ta có xu hướng chen lấn, xô đẩy, chèn ép người khác để vượt lên... Không
ở đâu tiếng còi bị lạm dụng như ở ta. Nó có tính hối thúc, đe nẹt, doạ dẫm…
Nghe trong tiếng còi như toát lên một lời đe dọa: nếu không tránh cho tôi đi,
anh sẽ biết mặt.
Thơ văn cho thấy chúng ta yêu thiên
nhiên, sống chan hoà với cỏ cây, hoa lá. Nhưng trong đời sống tôi thấy tình yêu
thiên nhiên này… chạy đi đâu cả. Văn học nói cái điều ta muốn, nhưng trong đời
sống ta hiện ra hoàn toàn khác. Để tự nuôi sống, ta chưa biết tìm thêm cách để
làm giàu thiên nhiên mà nhiều khi chỉ lo bóp nặn, bóc lột thiên nhiên.
Khách quan mà xét, đứng ngoài mà
nhìn, phải nói đó là một cách ứng xử khá tệ bạc. Chặt cây, phá rừng, đốt rẫy…
ta làm những việc đó vô tư chứ chả cần quan tâm gì đến thiên nhiên. Đến khi no
đủ rồi thì lại bẻ hoa, ngắt cành vì thú vui của mình. Những dịp lễ tết cây cối
xơ xác vì bị vặt cành làm lộc. Rồi các sự việc ở lễ hội hoa anh đào năm trước
và lễ hội hoa đầu năm dương lịch vừa rồi. Chẳng nhẽ không nói đó là cách sống
bạo lực?
Chúng ta cũng không phải là dân tộc
yêu thương các giống vật. Các loài thú quý hiếm đang đứng trước nạn tận diệt. Ở
nhiều nơi người ta sẵn sàng dùng điện, dùng chất nổ đánh cá... Rất nhiều người
phương Tây ngạc nhiên vì chúng ta ăn thịt chó, là vật nuôi mà họ coi như bạn bè
của con người.
Từ tháng 4 tới, Trung Quốc chính
thức cấm ăn thịt chó mèo. Ở ta tôi không nghĩ được là bao giờ có thể có một
lệnh cấm tương tự. Nhiều cuộc chọi trâu xong, dân sở tại mổ ngay con trâu vừa
đoạt giải để bán cho dân tới xem. Chẳng có luật pháp nào kết tội người ta được,
nhưng tôi cứ luấn quấn với ý nghĩ làm thế là một cách gieo mầm bạo lực mà ta
không biết.
Đừng quên đi quá nhanh như thế
Thử nhìn lại sự việc. Các em trị
nhau ngay giữa phố một cách bạo lực. Bạn bè thản nhiên ngồi nhìn. Không thấy ai
đứng ra can ngăn. Khi quay xong hình, các em khoái trá post lên mạng, nhiều
người truyền cho nhau qua internet để cùng xem clip đó. Đó là một chuỗi sự vô
cảm cho đến khi thành sự kiện hot thì xã hội mới bùng lên chất vấn. Ông có bình
luận gì thêm về việc này?
Từ lâu phương Tây người ta đã nói
đến sadism với nghĩa thói quen thích thú những trò tàn ác bao gồm cả quan sát
người khác làm lẫn tự mình thực hiện. Những tưởng đó là chuyện đâu đâu, hóa ra
xứ mình không phải không có.
Ngoài ra tôi muốn ghi nhận một tình
trạng nước đôi thế này: Không hẳn là vô cảm đâu, nhiều người chúng ta cũng đang
xúc động lắm. Chỉ có cái dở là rồi chúng ta lại quên đi rất nhanh. Tôi nhớ
những lần lòng mình sôi lên thầm hứa nhất định không bỏ qua chuyện nọ chuyện
kia. Nhưng chỉ ít lâu sau là tôi quên hết.
Để vượt lên sự nông nổi, tôi chỉ
muốn nhân dịp này chúng ta cùng suy nghĩ về gốc rễ của bạo lực trong đời sống.
(VnMedia) -
Clip nữ sinh bạo lực khuấy động dư luận. Nhiều người sửng sốt vì tình trạng bạo
lực học đường. Nhiều người khác giật mình chất vấn giáo dục, xã hội. Trong khi
đó, nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: Bạo lực có mầm mống trong
xã hội Việt mà ta không tự thấy.
Năm nay gần 70 tuổi, Vương Trí Nhàn
đã làm phê bình lý luận văn học trong vài thập kỷ và sau này chuyển sang nghiên
cứu văn hoá. Ông được biết đến là một trong những người đầu tiên chủ trương
nghiên cứu về những thói hư, tật xấu của dân tộc Việt Nam và là người được chú
ý nhất trong mảng công việc này.
Loạt bài viết của ông về các thói
xấu của người Việt được đăng tải thường kỳ trên báo Thể thao & Văn hóa cách
đây vài năm đã trở thành một chuyên mục thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và
gây ra tranh luận nhiều chiều. Thậm chí, có nhiều người mong muốn có thể tập
hợp thành sách “Người Việt xấu xí”, tương tự cuốn sách gây sốc Trung Hoa đại
lục mang tên “Người Trung Quốc xấu xí” của tác giả Bá Dương.
Năm 2007, khi vụ scandal clip sex
Vàng Anh - Việt Dart nổ ra, trong khi dư luận ầm ĩ xung quanh vụ việc này,
trong khi nhiều người cũng sửng sốt và giật mình không khác gì với hiện tượng
clip nữ sinh ẩu đả vừa qua… thì Vương Trí Nhàn nhìn vào sự kiện theo một cách
tiếp cận rộng hơn ở góc độ dân tộc tính. Nhận định của ông “Dân tộc Việt là một
khối tự phát khổng lồ” trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo mạng ngay lập
tức dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến đa chiều: Có nhiều ý kiến
cực lực ủng hộ và không ít tiếng nói phản đối gay gắt.
Ở hiện tượng xã hội gây xôn xao dư
luận lần này, những nhìn nhận của ông cũng mang lại cái nhìn tương đối rộng mở
và mới mẻ. Và, đương nhiên, cũng không ít ý kiến có thể sẽ gây tranh cãi… Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy đây là hướng suy nghĩ cần được tiếp tục bàn luận.
Dưới đây là trao đổi của VnMedia với ông trên tinh thần này.
Sẽ còn những biểu hiện bạo lực mới
Tuần qua cả xã hội xôn xao với clip
nữ sinh đánh hội đồng bạn trên phố. Nhìn nhận của ông xung quanh hiện tượng
này?
Việc các em nữ đánh bạn dã man như
trong clip là biểu hiện của một cách sống mà trong đó bạo lực trở nên cần thiết
trong giao tiếp giữa người với người, mà người ta cho rằng, lời lẽ thông thường
không còn đủ để tác động tới người khác.
Cảnh tượng trong clip này là sự tràn
ra của một cái gì đó đã đến mức không bình thường… Nếu đọc báo những năm qua sẽ
thấy nhiều hình thức bạo lực trong xã hội. Ngay trong môi trường giáo dục,
không biết bao nhiêu vụ hoặc các cô trông trẻ bạo hành với trẻ con, hoặc các
thầy cô giáo đánh phạt học trò hay các học trò đánh lại thầy cô giáo…
Những việc như thế này tôi cho rằng
sẽ còn tiếp tục có những biểu hiện mới, với những cấp độ rồi sẽ còn cao hơn.
Nếu chúng ta không tính chuyện chữa trị lâu dài, và trước tiên là tìm về tận
gốc để lý giải một cách khái quát, rồi thì sẽ còn lĩnh đủ.
Có thể hiểu như thế này, sự xuất
hiện của clip nữ sinh bạo lực kia trong xã hội tương tự như việc một người
huyết áp thấp bị ngã ngất lần đầu. Họ hẳn là ngỡ ngàng nhưng cái sự ngất ấy nó
không hề ngẫu nhiên. Và nếu chưa biết là mình bị huyết áp thấp, người ta sẽ
không ý thức là mình có thể đối diện nguy hiểm hơn trong những lần ngất tiếp
theo?
Tôi chia sẻ với lối ví này của bạn ở
khía cạnh: Nhiều khi phải có những “cú điếng người”, ta mới hết nhởn nhơ coi
thường và bắt đầu nhận ra những thứ tiềm ẩn trong mình. Cái nguy hiểm hôm qua
đã đáng sợ, nhưng cái nguy hiểm tiếp theo mới thật đáng bàn.
Bây giờ thử bình tĩnh mà nhìn lại
xem, hóa ra trong nhiều mặt đời sống người Việt, mầm mống bạo lực đã có mặt và
ta đã chung sống với nó quá lâu - cái cách sống bạo lực ấy - mà ta không biết.
Tôi muốn nhấn mạnh hai điều.
Một là, sở dĩ có hiện tượng lớp trẻ
sống với nhau theo kiểu bạo lực, vì người lớn cũng hành xử theo kiểu bạo lực.
Xã hội đen. Giới giang hồ thanh toán nhau. Những vụ cướp giết hiếp, và cả những
vụ nợ tình, trả thù… Có quá nhiều sự việc trong xã hội mà chúng ta chưa phản
ánh hết, chưa có dịp phân tích soi rọi.
Hai là, trước khi có những biểu hiện
cực đoan theo kiểu bột phát nói trên, nhiều hình thái tạm gọi là tiền bạo lực
cũng đã nhan nhản trong đời sống hàng ngày. Muốn ép người ta phải nghe mình
điều gì đấy nói một lần chưa đủ, nói đi nói lại hàng trăm lần, bắc loa vào nhà
người ta lải nhải…
Ai đi cầu cúng đầu năm hẳn nhớ cảnh
dân địa phương nhiều nơi vừa thấy người đi chùa thì áp sát, bắt người ta mua đồ
cúng của mình, lèo nhèo nói đi nói lại, không mua thì chửi xéo chửi đổng, đốt
vía đốt vang… Đấy là tiền bạo lực chứ còn gì nữa?
Lâu lắm rồi từ 1999, tôi đọc trên
báo Nông thôn ngày nay thấy một hiện tượng kỳ cục ở một tỉnh nhỏ. Giữa công ty
X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X
những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của
mình. Kiểu khủng bố độc đáo này thật tiêu biểu cho người mình, tức là ác vặt,
nhưng mà cứ ác một cách dai dẳng đáng sợ.
Đạo diễn Xô viết Mikhail Rom từng có
một bộ phim mang tên “Chủ nghĩa phát xít thông thường”. Ở ta giá có ai bắt
chước mà làm một bộ phim “Chủ nghĩa bạo lực thông thường”, chắc cũng dễ có một
tác phẩm có sức răn đe với xã hội.
Bạo lực có mầm mống trong xã hội
Việt
Ở trên ông vừa nói nhiều mặt trong
đời sống đã tiềm ẩn yếu tố bạo lực mà ta không ý thức.. Ông có thể nói rõ hơn
một chút về cái ý này?
Gần đây tôi đã viết trong một bài
báo, ngay cách đi đường của người Việt Nam hôm nay cũng có tính chất bạo lực.
Chúng ta có xu hướng chen lấn, xô đẩy, chèn ép người khác để vượt lên... Không
ở đâu tiếng còi bị lạm dụng như ở ta. Nó có tính hối thúc, đe nẹt, doạ dẫm…
Nghe trong tiếng còi như toát lên một lời đe dọa: nếu không tránh cho tôi đi,
anh sẽ biết mặt.
Thơ văn cho thấy chúng ta yêu thiên
nhiên, sống chan hoà với cỏ cây, hoa lá. Nhưng trong đời sống tôi thấy tình yêu
thiên nhiên này… chạy đi đâu cả. Văn học nói cái điều ta muốn, nhưng trong đời
sống ta hiện ra hoàn toàn khác. Để tự nuôi sống, ta chưa biết tìm thêm cách để
làm giàu thiên nhiên mà nhiều khi chỉ lo bóp nặn, bóc lột thiên nhiên.
Khách quan mà xét, đứng ngoài mà
nhìn, phải nói đó là một cách ứng xử khá tệ bạc. Chặt cây, phá rừng, đốt rẫy…
ta làm những việc đó vô tư chứ chả cần quan tâm gì đến thiên nhiên. Đến khi no
đủ rồi thì lại bẻ hoa, ngắt cành vì thú vui của mình. Những dịp lễ tết cây cối
xơ xác vì bị vặt cành làm lộc. Rồi các sự việc ở lễ hội hoa anh đào năm trước
và lễ hội hoa đầu năm dương lịch vừa rồi. Chẳng nhẽ không nói đó là cách sống
bạo lực?
Chúng ta cũng không phải là dân tộc
yêu thương các giống vật. Các loài thú quý hiếm đang đứng trước nạn tận diệt. Ở
nhiều nơi người ta sẵn sàng dùng điện, dùng chất nổ đánh cá... Rất nhiều người
phương Tây ngạc nhiên vì chúng ta ăn thịt chó, là vật nuôi mà họ coi như bạn bè
của con người.
Từ tháng 4 tới, Trung Quốc chính
thức cấm ăn thịt chó mèo. Ở ta tôi không nghĩ được là bao giờ có thể có một
lệnh cấm tương tự. Nhiều cuộc chọi trâu xong, dân sở tại mổ ngay con trâu vừa
đoạt giải để bán cho dân tới xem. Chẳng có luật pháp nào kết tội người ta được,
nhưng tôi cứ luấn quấn với ý nghĩ làm thế là một cách gieo mầm bạo lực mà ta
không biết.
Đừng quên đi quá nhanh như thế
Thử nhìn lại sự việc. Các em trị
nhau ngay giữa phố một cách bạo lực. Bạn bè thản nhiên ngồi nhìn. Không thấy ai
đứng ra can ngăn. Khi quay xong hình, các em khoái trá post lên mạng, nhiều
người truyền cho nhau qua internet để cùng xem clip đó. Đó là một chuỗi sự vô
cảm cho đến khi thành sự kiện hot thì xã hội mới bùng lên chất vấn. Ông có bình
luận gì thêm về việc này?
Từ lâu phương Tây người ta đã nói
đến sadism với nghĩa thói quen thích thú những trò tàn ác bao gồm cả quan sát
người khác làm lẫn tự mình thực hiện. Những tưởng đó là chuyện đâu đâu, hóa ra
xứ mình không phải không có.
Ngoài ra tôi muốn ghi nhận một tình
trạng nước đôi thế này: Không hẳn là vô cảm đâu, nhiều người chúng ta cũng đang
xúc động lắm. Chỉ có cái dở là rồi chúng ta lại quên đi rất nhanh. Tôi nhớ
những lần lòng mình sôi lên thầm hứa nhất định không bỏ qua chuyện nọ chuyện
kia. Nhưng chỉ ít lâu sau là tôi quên hết.
Để vượt lên sự nông nổi, tôi chỉ
muốn nhân dịp này chúng ta cùng suy nghĩ về gốc rễ của bạo lực trong đời sống.
Published on November 25, 2014 16:36
November 19, 2014
Nghề thầy, suy đồi hôm nay chỉ là nối tiếp tình trạng yếu kém hôm qua
Những kẻ loàng xoàng
Một
người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình,
may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng
ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi đã xì ra một lối thoát:
-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang
được mời ở lại trường giảng dạy đấy. Nếu
lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.
-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng
tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?
-- Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm
việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các xí
nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường.
Tôi nghĩ lại, chuyện rành rành thế còn đi hỏi, không ngờ mình lẩn thẩn
quá.
Di lụy của lịch sử
Không phải đến ngày hôm nay, mới có tình trạng bao nhiêu những kém cỏi
trong giới trí thức dồn cả cho ngành giáo dục.
Thời trung đại, cả nước chỉ lo học để đi thi, ai thi giỏi đều ra làm quan.
Chỉ có những người lạc đệ (thi trượt)
mới quay về làm nghề gõ đầu trẻ.
Tình trạng này được kể lại rõ ràng trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Nhân vật thầy
giáo Khắc Mẫn chỉ làm trò cười cho các bạn trẻ hơn như Vân Hạc. Anh ta đã dốt, lại
hay khoe khoang chữ nghĩa, có lá thư cho đồng môn cũng viết bằng những ngôn ngữ sáo mòn.
Vậy mà anh ta vẫn nhấp nhổm đi thi thi tiếp, may ra có thể thoát được
bọn trẻ ”nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.”
[Nhà trống ba gian ,
một thầy một cô, một chó cái
Học trò dăm
đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi
– tương truyền đây là toàn văn hai vế câu đối dán trong nhà Cao Bá Quát]
Đến cái thời của bọn tôi, ở trường cấp III Chu Văn An những năm 50-60
của thế kỷ XX.
Cuối năm lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), chi đoàn của lớp 10 C tập
trung lo vận động một số anh em giỏi giang hãy tự nguyện thi vào Đại học sư
phạm. Tại sao ư, đơn giản lắm, bao nhiêu nhân tài trong lớp đều chăm chăm nộp
đơn vào các trường khá như Bách khoa, như Y Dược cả (“nhất Y nhì Dược tạm được Bách khoa Sư phạm thông qua Nông lâm xếp xó”).
Các trường sang trọng không dành
cho những anh kém. Điểm vào Y dược Bách khoa cao hơn hẳn điểm vào sư phạm. Mà
cũng phải thôi, sau khi ra trường, lương ở các ngành đó bao giờ cũng cao hơn
lương dân sư phạm, chưa kể sinh viên sau khi ra trường lại thường được về các
thành phố lớn.Vậy phải vận động người ta đi làm thầy. Số người gọi là sinh ra đã cảm thấy yêu "nghề trồng người" từ thời
bao cấp cũng đã hiếm lắm. Không kể đám lửa rơm xốc nổi, cái số chân thành tự tin,
trăm người mới có một vài. Mà sau thời gian chịu trận, bám trụ đến cùng sống với nghề nghiệp bằng nguyên vẹn tình yêu
như thuở ban đầu, số đó càng hiếm.
Tôi năm đó đăng ký thi vào khoa Văn Đại học
Tổng hợp, thi trượt, phải chuyển vào Đại học sư phạm Vinh. Ngày nhập trường,
ngồi trên chiếc xe chở khách Hà Nội - Nghệ An qua các bến phà Kiểu, phà Gián Khuất, phà Hàm
Rồng…, 300 km mất cả một ngày đường, đã khóc hết nước mắt.
Một anh bạn từ Quảng Bình thi vào
trường Vinh từ đầu an ủi:
-- May mà còn có chỗ này chui vào để
được cái tiếng học Đại học, chứ nếu không bọn đui què mẻ sứt chúng mình về đi
cày hết cả à?
Đòn phản công của các thầy các cô
Thời
ấy sự coi thường của xã hội đối với nghề gõ đầu trẻ được các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đáp trả lại một cách bình tĩnh. Ra trường, biết thân biết phận, nhiều
người trong họ sẵn sàng về những tỉnh lẻ, những miền quê heo hút, sống lam lũ bên
cạnh những cán bộ công nhân viên lớp dưới và những người nông dân nghèo khó.
Nhiều người phải có các nghề tay
trái cùng làm với vợ con để kiếm sống.
Đến mức có giáo viên đã định
nghĩa một cách chua chát, người thầy cấp I là người nông dân có thêm nghề phụ
là nghề dạy học.
Từ chỗ bị coi thường, rồi giáo giới rồi cũng đã có sự khôn ngoan cần
thiết để tồn tại.
Thời chiến đi qua. Mọi tầng lớp
trong xã hội, kể cả những người lính đi chiến trường về, bắt đầu lo cho con cái,
bởi lẽ họ bắt đầu hiểu rằng trong làm ăn kinh tế, phải có kiến thức. Họ cũng
sớm hiểu tình trạng bị bạc đãi của các thầy các cô.
Thay cho sự quan tâm của
nhà nước, họ tự động làm cái việc chữa cháy theo cách riêng của họ.
Vốn chẳng
có hiểu biết gì về giáo dục, họ hồn nhiên
cho rằng tốt nhất nên theo thuyết gà đẻ trứng vàng. Chỉ cần đút tiền cho các
giáo viên, là con em họ sẽ học khá học giỏi một lượt.
Các
thầy cô giáo đáp laị ngay, cái gì chứ điểm số các môn học và việc lên lớp thì
hoàn toàn trong tay họ, làm gì mà chả được.
Khoảng mươi lăm năm trước, khi đứa con nhỏ của tôi còn học cấp I, việc mỗi
đầu học kỳ đến gặp cô biếu xén tí chút là việc các phụ huynh học sinh đều tự
nguyện làm, và chúng tôi thường sung sướng sau khi hoàn thành nghĩa vụ của
mình, như các phụ huynh khác. Ngày nay, tình trạng trên tiếp tục, tinh vi hơn
cũng có, mà trần trụi hơn cũng có. Một số bạn tôi có con học ở mấy trường Đại học tỉnh còn bảo rằng có tình trạng giáo viên yêu cầu sinh viên phải nộp tiền hàng tháng, nếu
không thì sẽ không có điểm. Tôi chẳng hiểu nếp tẻ gì, song tin là có thật.
Trong mọi lầm lạc hôm nay, mỗi con người đều thường tìm được cái lý riêng của
mình.
Tôi nhớ những năm trước 1975, các gia đình Hà Nội trong khi tính toán gả
chồng cho con gái, thường bảo nhau, cốt nhất là được các cán bộ thương nghiệp,
hoặc ngành thuế. Chứ thầy giáo ấy ư, đã có thời người ta xâu chuỗi nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo.
Thời
ấy các ông chồng biết tính toán nếu có bằng lòng lấy vợ giáo viên chỉ vì biết nghề
đó lương thấp nhưng nhàn, lại có thời giờ dạy dỗ con cái.
Nay thì đã khác. Thỉnh thoảng cũng thấy nói
lương giáo viên không đủ sống, nhưng xét
đại trà, là khác. Biết với nhau thôi chẳng ai buồn cãi lại vì cũng như câu
chuyện ông vua cởi truồng, ai tự vạch áo cho người xem lưng làm gì. Ở cái nước
này nghề gì chẳng đang kém đi, nghề nào chẳng ăn, cứ gì nghề giáo. Nhất là, cũng
như bên y tế, lạy trời nghề làm thầy thời nay không lo kinh tế lạm phát hay giá
cả leo thang gì cả. Nước đến đâu bèo đến đấy. Thời nào người ta chẳng phải chữa
bệnh. Quát giá khám bệnh cao mấy chẳng được. Thời nào chẳng phải cho con đi
học. Lấy lý do nuôi con ăn học, phụ huynh càng quyết tâm ăn cắp tham nhũng.
Trên đây là chuyện xảy ra đối với
đội ngũ đông đảo là giáo viên loàng xoàng, nơi chỉ có cái lợi chi phối.
Còn đối với loại giáo viên có máu mặt ở các trường điểm trường chọn và
giới giảng dạy Đại học ,tình hình bề ngoài có khác, nhưng xét ở xu thế suy thoái
của nghề thì cũng chẳng khác.
Trong xã hội chiến tranh hôm qua, kiến thức bị coi thường bị khinh bỉ (Thà một cây chông trừ giặc Mỹ -- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương – Tố Hữu). Nay đi đâu cũng đòi bằng cấp, đến cả
các ông bộ trưởng thứ trưởng tiền của và uy quyền đầy mình cũng còn hét các
trường Đại học thuộc bộ khoác thêm cho mình cái học hàm giáo sư, cái học vị
tiến sĩ. Mà muốn thế thì các ông phải nâng giá cho đội ngũ dạy Đại học.
Cái cách tự lo của các giáo viên cấp thấp xem ra hơi xoàng. Các thầy cấp
cao có cách đáp ứng riêng. Giáo dục phải trở lại truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giáo dục làm nên tương lai. Các anh có muốn có một tương lai tốt đẹp không mà
lại coi thường chúng tôi. Trong khi vẫn
kỳ cạch làm ăn theo kiểu cũ, trong các bậc thày này sẵn có một niềm tin rằng xã hội chẳng tìm đâu ra lớp người hơn họ.
Họ phải làm thầy trên đủ mọi phương diện tiếng tăm và đãi ngộ.
Trong số các đàn anh của tôi có những người chỉ mới lập thân sau các vụ
thanh trừng Đại học 1957-58, cả đời không đọc được sách báo nước ngoài, lọ mọ
dựa vao một số sách giáo khoa Liên xô mà những năm trước, lớp anh em đi học
nước ngoài giới thiệu. Thế mà sau mấy chục năm kẽo kẹt vận dụng vào tình hình
trong nước, cuối cùng đã bao nhiêu sách in, đã thành trí thức đầu ngành, đã đào
tạo được bao nhiêu tiến sĩ.
Thực ra tôi biết nhiều vị đàn anh này cũng là những người rất thông
minh. Giá kể ở một môi trường có những đòi hỏi cao hơn, họ có thể tiến rất xa.
Ở ta, người ta yêu cầu họ có thế và họ chỉ có cái lỗi là thiếu sự đòi hỏi cao
với mình, không dám đi ngược lại hoàn cảnh.
Có phải chỉ riêng văn sử thế đâu, nghe như bên kinh tế thương mại, tình
hình cũng chẳng khác.
Đôi điều
nói lại
Cái đặc
điểm của giáo dục ta là ở chỗ chính người trong nghề tự đặt ra tiêu chuẩn cho
mọi công việc của mình, chất lượng đào tạo có ngày một kém cỏi thì họ cũng tha
hồ cãi lại.
Trong các nền giáo dục khác, tôi thường thấy có vai trò thanh tra giáo
dục. Ở ta thì chả ngành nào có thanh tra theo đúng nghĩa của nghề này cả, giáo
dục cũng vậy.
Xét rộng ra thì thấy trong sự suy
thoái của nghề thầy ngày nay tôi biết có sự đóng góp quyết định của bộ phận
những quan chức các cấp trong nghề giáo dục, bao gồm từ những người định ra các
chương trình các thang điểm, các môn thi, người biên soạn sách giáo khoa… cho
tới các nhân viên các sở các phòng và hàng
ngũ các hiệu trưởng cùng là nhân viên hành chính trong trường.
Người giáo viên nhận tiền của học sinh có phải ăn một mình đâu. Dưới
nhiều hình thức khác nhau, họ phải trích nộp cho các nhân viên bộ máy hành
chính trong nghề. Cũng như người bác sĩ nhận tiền của bệnh nhân phải cống nộp
cho người phụ trách bệnh viện và các khoản chi cho hoạt động chung trong viện. Điều oan uổng
cho giới giáo viên là cho đến nay chỉ họ bị chường mặt ra còn các nhân viên
guồng máy quản lý và đào tạo họ vẫn chưa bao giờ được sự soi rọi của dư luận.
Bởi những lẽ đó chúng ta hiểu tại sao tình trạng
bê bết trong giáo dục hiện nay lại kéo dài . Nó không chỉ có lợi cho đội
ngũ giáo viên đương nhiệm. Cả hệ thống quan chức trong nghề cũng chỉ mong rằng
mọi thứ cứ giữ nguyên tình trạng như cũ. Trong các tài liệu chính thức, nền
giáo dục lan ra theo chiều rộng hiện nay vẫn luôn luôn được coi là thành tựu
của đất nước.
Người biết từ chối
Muốn tìm cho bài viết này một hơi hướng vui vui, tôi chợt nhớ lại về một
pho truyện cười khá phổ biến ở ta là Trạng Lợn. Khác với Trạng Quỳnh gian xảo
và khinh rẻ mọi người, Trạng Lợn phất lên được là do gặp may, kể cả có một gia
đình hạnh phúc và bà vợ đến cuối đời vẫn không biết rõ thực chất cuả chồng mình.
Cuối
truyện, khi Trạng trở về với gia đình, bà vợ ấy-- vốn là con gái một quan chức, trong
truyện gọi là Phu nhân Phấn Khanh – bảo bây giờ trạng phải ở nhà dạy con để
lo người kế nghiệp.
Trạng trả lời đại ý mình biết gì đâu, thôi phu nhân cứ làm như khi trạng
vắng nhà, và bỏ đi chu du các vùng lạ.
Đọc đoạn này, lâu
nay tôi chỉ nghĩ ra trạng cũng hiểu thành đạt do gặp may chứ mình chẳng tài cán
gì. Một cách nghĩ xa lạ với nhiều người Việt hiện nay dù họ cũng phất lên theo
kiểu trạng.
Nhân ngày 20-11 năm nay, tôi nghĩ thêm, hóa ra trong xã hội Việt Nam
trung đại cũng đã có người biết rằng việc giáo dục là việc trọng đại, không phải
bất cứ ai cũng làm được. Tương lai chỉ được làm ra một cách nghiêm túc chứ không thể là chuyện ăn may. Và người ta có thể bịp thiên hạ
trong nhiều việc khác, nhưng không thể bịp trong việc giáo dục lớp trẻ.
Trong trường hợp không biết làm
thầy và quản lý giáo dục, thì từ chối đi là lương thiện nhất.
Nghĩ xong cũng biết ý nghĩ của
mình lạc lõng, nó quá cổ lỗ đối với con người hôm nay. Song đã chót nghĩ xin cứ
chép ra đây.
Một
người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình,
may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng
ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi đã xì ra một lối thoát:
-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang
được mời ở lại trường giảng dạy đấy. Nếu
lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.
-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng
tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?
-- Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm
việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các xí
nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường.
Tôi nghĩ lại, chuyện rành rành thế còn đi hỏi, không ngờ mình lẩn thẩn
quá.
Di lụy của lịch sử
Không phải đến ngày hôm nay, mới có tình trạng bao nhiêu những kém cỏi
trong giới trí thức dồn cả cho ngành giáo dục.
Thời trung đại, cả nước chỉ lo học để đi thi, ai thi giỏi đều ra làm quan.
Chỉ có những người lạc đệ (thi trượt)
mới quay về làm nghề gõ đầu trẻ.
Tình trạng này được kể lại rõ ràng trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Nhân vật thầy
giáo Khắc Mẫn chỉ làm trò cười cho các bạn trẻ hơn như Vân Hạc. Anh ta đã dốt, lại
hay khoe khoang chữ nghĩa, có lá thư cho đồng môn cũng viết bằng những ngôn ngữ sáo mòn.
Vậy mà anh ta vẫn nhấp nhổm đi thi thi tiếp, may ra có thể thoát được
bọn trẻ ”nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.”
[Nhà trống ba gian ,
một thầy một cô, một chó cái
Học trò dăm
đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi
– tương truyền đây là toàn văn hai vế câu đối dán trong nhà Cao Bá Quát]
Đến cái thời của bọn tôi, ở trường cấp III Chu Văn An những năm 50-60
của thế kỷ XX.
Cuối năm lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), chi đoàn của lớp 10 C tập
trung lo vận động một số anh em giỏi giang hãy tự nguyện thi vào Đại học sư
phạm. Tại sao ư, đơn giản lắm, bao nhiêu nhân tài trong lớp đều chăm chăm nộp
đơn vào các trường khá như Bách khoa, như Y Dược cả (“nhất Y nhì Dược tạm được Bách khoa Sư phạm thông qua Nông lâm xếp xó”).
Các trường sang trọng không dành
cho những anh kém. Điểm vào Y dược Bách khoa cao hơn hẳn điểm vào sư phạm. Mà
cũng phải thôi, sau khi ra trường, lương ở các ngành đó bao giờ cũng cao hơn
lương dân sư phạm, chưa kể sinh viên sau khi ra trường lại thường được về các
thành phố lớn.Vậy phải vận động người ta đi làm thầy. Số người gọi là sinh ra đã cảm thấy yêu "nghề trồng người" từ thời
bao cấp cũng đã hiếm lắm. Không kể đám lửa rơm xốc nổi, cái số chân thành tự tin,
trăm người mới có một vài. Mà sau thời gian chịu trận, bám trụ đến cùng sống với nghề nghiệp bằng nguyên vẹn tình yêu
như thuở ban đầu, số đó càng hiếm.
Tôi năm đó đăng ký thi vào khoa Văn Đại học
Tổng hợp, thi trượt, phải chuyển vào Đại học sư phạm Vinh. Ngày nhập trường,
ngồi trên chiếc xe chở khách Hà Nội - Nghệ An qua các bến phà Kiểu, phà Gián Khuất, phà Hàm
Rồng…, 300 km mất cả một ngày đường, đã khóc hết nước mắt.
Một anh bạn từ Quảng Bình thi vào
trường Vinh từ đầu an ủi:
-- May mà còn có chỗ này chui vào để
được cái tiếng học Đại học, chứ nếu không bọn đui què mẻ sứt chúng mình về đi
cày hết cả à?
Đòn phản công của các thầy các cô
Thời
ấy sự coi thường của xã hội đối với nghề gõ đầu trẻ được các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đáp trả lại một cách bình tĩnh. Ra trường, biết thân biết phận, nhiều
người trong họ sẵn sàng về những tỉnh lẻ, những miền quê heo hút, sống lam lũ bên
cạnh những cán bộ công nhân viên lớp dưới và những người nông dân nghèo khó.
Nhiều người phải có các nghề tay
trái cùng làm với vợ con để kiếm sống.
Đến mức có giáo viên đã định
nghĩa một cách chua chát, người thầy cấp I là người nông dân có thêm nghề phụ
là nghề dạy học.
Từ chỗ bị coi thường, rồi giáo giới rồi cũng đã có sự khôn ngoan cần
thiết để tồn tại.
Thời chiến đi qua. Mọi tầng lớp
trong xã hội, kể cả những người lính đi chiến trường về, bắt đầu lo cho con cái,
bởi lẽ họ bắt đầu hiểu rằng trong làm ăn kinh tế, phải có kiến thức. Họ cũng
sớm hiểu tình trạng bị bạc đãi của các thầy các cô.
Thay cho sự quan tâm của
nhà nước, họ tự động làm cái việc chữa cháy theo cách riêng của họ.
Vốn chẳng
có hiểu biết gì về giáo dục, họ hồn nhiên
cho rằng tốt nhất nên theo thuyết gà đẻ trứng vàng. Chỉ cần đút tiền cho các
giáo viên, là con em họ sẽ học khá học giỏi một lượt.
Các
thầy cô giáo đáp laị ngay, cái gì chứ điểm số các môn học và việc lên lớp thì
hoàn toàn trong tay họ, làm gì mà chả được.
Khoảng mươi lăm năm trước, khi đứa con nhỏ của tôi còn học cấp I, việc mỗi
đầu học kỳ đến gặp cô biếu xén tí chút là việc các phụ huynh học sinh đều tự
nguyện làm, và chúng tôi thường sung sướng sau khi hoàn thành nghĩa vụ của
mình, như các phụ huynh khác. Ngày nay, tình trạng trên tiếp tục, tinh vi hơn
cũng có, mà trần trụi hơn cũng có. Một số bạn tôi có con học ở mấy trường Đại học tỉnh còn bảo rằng có tình trạng giáo viên yêu cầu sinh viên phải nộp tiền hàng tháng, nếu
không thì sẽ không có điểm. Tôi chẳng hiểu nếp tẻ gì, song tin là có thật.
Trong mọi lầm lạc hôm nay, mỗi con người đều thường tìm được cái lý riêng của
mình.
Tôi nhớ những năm trước 1975, các gia đình Hà Nội trong khi tính toán gả
chồng cho con gái, thường bảo nhau, cốt nhất là được các cán bộ thương nghiệp,
hoặc ngành thuế. Chứ thầy giáo ấy ư, đã có thời người ta xâu chuỗi nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo.
Thời
ấy các ông chồng biết tính toán nếu có bằng lòng lấy vợ giáo viên chỉ vì biết nghề
đó lương thấp nhưng nhàn, lại có thời giờ dạy dỗ con cái.
Nay thì đã khác. Thỉnh thoảng cũng thấy nói
lương giáo viên không đủ sống, nhưng xét
đại trà, là khác. Biết với nhau thôi chẳng ai buồn cãi lại vì cũng như câu
chuyện ông vua cởi truồng, ai tự vạch áo cho người xem lưng làm gì. Ở cái nước
này nghề gì chẳng đang kém đi, nghề nào chẳng ăn, cứ gì nghề giáo. Nhất là, cũng
như bên y tế, lạy trời nghề làm thầy thời nay không lo kinh tế lạm phát hay giá
cả leo thang gì cả. Nước đến đâu bèo đến đấy. Thời nào người ta chẳng phải chữa
bệnh. Quát giá khám bệnh cao mấy chẳng được. Thời nào chẳng phải cho con đi
học. Lấy lý do nuôi con ăn học, phụ huynh càng quyết tâm ăn cắp tham nhũng.
Trên đây là chuyện xảy ra đối với
đội ngũ đông đảo là giáo viên loàng xoàng, nơi chỉ có cái lợi chi phối.
Còn đối với loại giáo viên có máu mặt ở các trường điểm trường chọn và
giới giảng dạy Đại học ,tình hình bề ngoài có khác, nhưng xét ở xu thế suy thoái
của nghề thì cũng chẳng khác.
Trong xã hội chiến tranh hôm qua, kiến thức bị coi thường bị khinh bỉ (Thà một cây chông trừ giặc Mỹ -- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương – Tố Hữu). Nay đi đâu cũng đòi bằng cấp, đến cả
các ông bộ trưởng thứ trưởng tiền của và uy quyền đầy mình cũng còn hét các
trường Đại học thuộc bộ khoác thêm cho mình cái học hàm giáo sư, cái học vị
tiến sĩ. Mà muốn thế thì các ông phải nâng giá cho đội ngũ dạy Đại học.
Cái cách tự lo của các giáo viên cấp thấp xem ra hơi xoàng. Các thầy cấp
cao có cách đáp ứng riêng. Giáo dục phải trở lại truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giáo dục làm nên tương lai. Các anh có muốn có một tương lai tốt đẹp không mà
lại coi thường chúng tôi. Trong khi vẫn
kỳ cạch làm ăn theo kiểu cũ, trong các bậc thày này sẵn có một niềm tin rằng xã hội chẳng tìm đâu ra lớp người hơn họ.
Họ phải làm thầy trên đủ mọi phương diện tiếng tăm và đãi ngộ.
Trong số các đàn anh của tôi có những người chỉ mới lập thân sau các vụ
thanh trừng Đại học 1957-58, cả đời không đọc được sách báo nước ngoài, lọ mọ
dựa vao một số sách giáo khoa Liên xô mà những năm trước, lớp anh em đi học
nước ngoài giới thiệu. Thế mà sau mấy chục năm kẽo kẹt vận dụng vào tình hình
trong nước, cuối cùng đã bao nhiêu sách in, đã thành trí thức đầu ngành, đã đào
tạo được bao nhiêu tiến sĩ.
Thực ra tôi biết nhiều vị đàn anh này cũng là những người rất thông
minh. Giá kể ở một môi trường có những đòi hỏi cao hơn, họ có thể tiến rất xa.
Ở ta, người ta yêu cầu họ có thế và họ chỉ có cái lỗi là thiếu sự đòi hỏi cao
với mình, không dám đi ngược lại hoàn cảnh.
Có phải chỉ riêng văn sử thế đâu, nghe như bên kinh tế thương mại, tình
hình cũng chẳng khác.
Đôi điều
nói lại
Cái đặc
điểm của giáo dục ta là ở chỗ chính người trong nghề tự đặt ra tiêu chuẩn cho
mọi công việc của mình, chất lượng đào tạo có ngày một kém cỏi thì họ cũng tha
hồ cãi lại.
Trong các nền giáo dục khác, tôi thường thấy có vai trò thanh tra giáo
dục. Ở ta thì chả ngành nào có thanh tra theo đúng nghĩa của nghề này cả, giáo
dục cũng vậy.
Xét rộng ra thì thấy trong sự suy
thoái của nghề thầy ngày nay tôi biết có sự đóng góp quyết định của bộ phận
những quan chức các cấp trong nghề giáo dục, bao gồm từ những người định ra các
chương trình các thang điểm, các môn thi, người biên soạn sách giáo khoa… cho
tới các nhân viên các sở các phòng và hàng
ngũ các hiệu trưởng cùng là nhân viên hành chính trong trường.
Người giáo viên nhận tiền của học sinh có phải ăn một mình đâu. Dưới
nhiều hình thức khác nhau, họ phải trích nộp cho các nhân viên bộ máy hành
chính trong nghề. Cũng như người bác sĩ nhận tiền của bệnh nhân phải cống nộp
cho người phụ trách bệnh viện và các khoản chi cho hoạt động chung trong viện. Điều oan uổng
cho giới giáo viên là cho đến nay chỉ họ bị chường mặt ra còn các nhân viên
guồng máy quản lý và đào tạo họ vẫn chưa bao giờ được sự soi rọi của dư luận.
Bởi những lẽ đó chúng ta hiểu tại sao tình trạng
bê bết trong giáo dục hiện nay lại kéo dài . Nó không chỉ có lợi cho đội
ngũ giáo viên đương nhiệm. Cả hệ thống quan chức trong nghề cũng chỉ mong rằng
mọi thứ cứ giữ nguyên tình trạng như cũ. Trong các tài liệu chính thức, nền
giáo dục lan ra theo chiều rộng hiện nay vẫn luôn luôn được coi là thành tựu
của đất nước.
Người biết từ chối
Muốn tìm cho bài viết này một hơi hướng vui vui, tôi chợt nhớ lại về một
pho truyện cười khá phổ biến ở ta là Trạng Lợn. Khác với Trạng Quỳnh gian xảo
và khinh rẻ mọi người, Trạng Lợn phất lên được là do gặp may, kể cả có một gia
đình hạnh phúc và bà vợ đến cuối đời vẫn không biết rõ thực chất cuả chồng mình.
Cuối
truyện, khi Trạng trở về với gia đình, bà vợ ấy-- vốn là con gái một quan chức, trong
truyện gọi là Phu nhân Phấn Khanh – bảo bây giờ trạng phải ở nhà dạy con để
lo người kế nghiệp.
Trạng trả lời đại ý mình biết gì đâu, thôi phu nhân cứ làm như khi trạng
vắng nhà, và bỏ đi chu du các vùng lạ.
Đọc đoạn này, lâu
nay tôi chỉ nghĩ ra trạng cũng hiểu thành đạt do gặp may chứ mình chẳng tài cán
gì. Một cách nghĩ xa lạ với nhiều người Việt hiện nay dù họ cũng phất lên theo
kiểu trạng.
Nhân ngày 20-11 năm nay, tôi nghĩ thêm, hóa ra trong xã hội Việt Nam
trung đại cũng đã có người biết rằng việc giáo dục là việc trọng đại, không phải
bất cứ ai cũng làm được. Tương lai chỉ được làm ra một cách nghiêm túc chứ không thể là chuyện ăn may. Và người ta có thể bịp thiên hạ
trong nhiều việc khác, nhưng không thể bịp trong việc giáo dục lớp trẻ.
Trong trường hợp không biết làm
thầy và quản lý giáo dục, thì từ chối đi là lương thiện nhất.
Nghĩ xong cũng biết ý nghĩ của
mình lạc lõng, nó quá cổ lỗ đối với con người hôm nay. Song đã chót nghĩ xin cứ
chép ra đây.
Published on November 19, 2014 01:50
November 14, 2014
Nhà văn làm gì đây lúc về già ? (bài II): Hoàng Ngọc Phách và một sự dừng bước đúng lúc.
Với một
khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn - in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19, tiểu
thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách lạ trong đời sống văn chương
những năm đầu thế kỷ XX.
Nhưng
có điều lạ hơn, là sau khi ra đời, cuốn sách ấy được in đi in lại nhiều lần và
sự thực là chỉ riêng nó thôi, đã đủ sức đưa Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) vào lịch
sử văn học.
Trong
quá trình tìm hiểu trở lại đời sống văn chương đầu thế kỷ XX, tôi thường nhớ lại
trường hợp Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách để hiểu ra một cách tồn tại khá
sang trọng trong văn học. Ở đây, có mấy điểm, nó là chỗ khác so với cách làm văn chương của chúng ta hôm nay.
Trong khi Hoàng Ngọc Phách viết
xong sách từ 1922 mà để mãi, tính mãi, rồi qua 1925 mới cho in thì nhiều người
viết hôm nay có thói quen mải mốt viết lấy được, mới đặt cái tên đã lo xin giấy
phép, và viết xong một lần, đọc lại
quáng quàng lại gửi gấp cho in.
Điều đáng để ý hơn:
Giá kể như ngày hôm nay,
sau một “chiến tích lẫy lừng” như Tố Tâm, nhà văn liền “thừa thắng xông
lên”, sinh năm đẻ bảy, thì từ 1925 Hoàng Ngọc Phách ngưng ngay lại. Trong khi vẫn
làm cái nghề chính là dạy học, ông tiếp tục viết lách, nhưng ngả hẳn sang việc
khảo chứng văn chương cổ, chứ tịnh không có thêm một cuốn tiểu thuyết nào nữa.
Sự khác
nhau thật đã rõ rệt.Tạm thời
có thể hình dung, trong khi một số nhà văn hiện nay tồn tại như một bóng cây
trông xa lúc lỉu những quả là quả, nhưng đến gần nhìn kỹ sẽ là rất nhiều quả
lép quả hỏng, thì ở Hoàng Ngọc Phách cây có một cành, cành có một quả, song đây
là thứ quả chín mẩy, vỏ căng, sắc vàng đượm và đi qua, nghe được cả mùi thơm dễ
chịu riêng thứ quả chín mới có.
*
Nếu như
bất kỳ ở đâu, sự nóng vội đều đã dẫn tới hỏng việc, thì trong sáng tạo văn
chương, nó càng vô duyên một cách thảm hại. Khi truyền nghề lại cho người mới
nhập cuộc, các nhà văn lớp trước thường không quên lưu ý là ở đây số lượng phải
để ra một bên, so với chất lượng. Trong điều kiện của thời bao cấp, nhiều người
chúng ta đã miệt mài làm việc, trong bụng thành thật nghĩ rằng một đời người để
lại được dăm ba bài thơ, vài truyện ngắn, ít trang phê bình sắc sảo, cũng đã là
danh giá lắm.
Thế
nhưng mươi năm gần đây, lối sống của kinh tế thị trường xâm nhập vào cả xã hội.
So với cái từ tốn chậm chạp hôm qua, việc in ấn xuất bản hôm nay trở nên khởi sắc
như chưa bao giờ có.
Với một
số người, hình như nay là lúc có thể “ăn giả bữa”.
Gấp gáp
năng động được hiểu một cách đơn giản, tức là đồng nghĩa với nóng vội.
Ta quên
rằng mình chưa được chuẩn bị những điều kiện cần thiết, chưa đủ nội lực để thích
ứng. Mải viết, mải in, ta có ngờ đâu mình đang chạy theo số lượng, tức là rơi
vào một cuộc đuổi bắt tuyệt vọng.
Trong khi ấy, thật ra cái chính của kinh tế thị trường là tiền nào của ấy, là mọi người
phải có mặt hàng riêng cùng những phương
cách tốt nhất trong việc khai thác bản thân mình.
Nói
cách khác, những vấn đề của nghề nghiệp phải được đặt lên bàn cân, với tất cả
tính chất khắc nghiệt của nó.
Nhưng
đây, đôi khi lại là điều, với những sốt sáy thường xuyên, ta ngại động chạm tới
nhất.
Người
ta đã nói khá nhiều về sự cần thiết của dư luận xung quanh một quyển sách mới,
nó là cái phương thức hữu hiệu, tác động trở lại nhà văn, giúp anh ta điều chỉnh
lại mình và quyển sau viết ra sẽ khá hơn quyển trước.
Nhưng
còn một điều quan trọng hơn, mỗi người viết muốn nghe ở bạn bè, ở người đọc, ấy
là những vấn đề có liên quan tới cả đời văn của anh ta.
“ Mình sẽ sử dụng tài năng như thế nào đây?”.
“Nên làm cái gì và nên bỏ cái gì?”.
“Đầu tư
công sức vào đâu là chính đáng?”.
Và để
chủ động sáng tạo nên số phận văn chương, cả những câu hỏi: “Ta sẽ hạ cánh ra
sao?” cũng nên được đặt ra khi chưa quá muộn.
Sở dĩ nhiều nhà văn trước kia có chỗ đứng
riêng của họ trong văn học sử - như trường
hợp tác giả Tố Tâm ở trên vừa nói - một phần là vì họ biết cách trả lời
riêng cho những câu hỏi lớn đó, dù không phải bao giờ họ cũng có ý thức đầy đủ.
*
Năm
1943, nhân cuộc phỏng vấn của nhà phê bình Lê Thanh, Hoàng Ngọc Phách tâm sự:
“Tiểu
thuyết Tố Tâm tôi viết trong trường Cao đẳng. Hồi đó, tôi có mục đích viết
một quyển tiểu thuyết khác hẳn những tiểu thuyết đã có cả về hình thức và tinh
thần. Về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể
chuyện, tả cảnh, theo văn chương Pháp cả. Về tinh thần, chúng tôi đem vào những
tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân tách theo phương pháp của những nhà tâm
lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”.
Đã rõ
là Hoàng Ngọc Phách muốn làm một cuộc cách mạng trong văn chương, để tạo ra một
bước ngoặt. Và ông cũng thừa biết rằng mình được tiếp nhận như thế nào. Đằng
sau câu nói nhũn nhặn “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm – VTN) ra đời vào lúc
người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một khẳng định kín đáo: tác phẩm
của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở thành một hiện tượng có tầm vóc
xã hội.
Ấy vậy
mà khi nghe Lê Thanh hỏi tại sao, sau Tố Tâm, ông không viết nữa, Hoàng
Ngọc Phách đã thực thà thú nhận: “ở trường ra, đi làm ít thì giờ quá” “Vả chăng
sức yếu, làm việc thường đã thấy mệt, nên cũng nản” (tất cả những đoạn vừa dẫn
đều được Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng vấn các nhà văn - 1943).
Dưới
con mắt của con người bây giờ thì ở chỗ này, Hoàng Ngọc Phách tỏ ra hơi bệt.
Như là ông có phần cầu an, khiếp nhược (!). Ông không đủ nghị lực để vượt lên
khỏi mọi khó khăn hàng ngày. Mà ông cũng không đủ ý chí để khai thác cái ưu thế
sẵn có (!).
Chỉ có
điều thú vị là chính cái sự không may ấy của Song An lại khiến cho hình ảnh của
ông hiện ra trong tâm trí các thế hệ sau với những nét gãy gọn, không loè nhoè,
lại càng không phải trừ bì bớt xén.
*
Nói
theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ, lúc xuất phát, Hoàng Ngọc
Phách tự đặt cho mình một mục đích lớn hơn, ông đi xa hơn, mà lúc tiếp đất
(tức trong việc chia tay với nghề văn) ông cũng tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn.
Ở nhiều
nước trên thế giới thỉnh thoảng lại thấy báo chí trịnh trọng đưa tin rằng một số
nghệ sĩ biểu diễn hay một ngôi sao thể thao nào đó vừa tuyên bố giã từ cái nghề
làm họ nổi tiếng.
Chẳng
phải là họ bị ai sa thải hay hất ra đường.
Đây là
việc họ tự nguyện.
Ngay
sau khi lên đến đỉnh cao của tài năng, họ cảm thấy nên dừng lại.
Bởi họ
không muốn hình ảnh của mình trở nên tầm thường thảm hại, ngay trước mắt công
chúng.
Việc
Hoàng Ngọc Phách sớm từ giã nghề viết tiểu thuyết tuy lý do hơi khác, song hiệu
quả cuối cùng thì cũng có gì na ná như thế.
*
Trong một
thiên truyện mang tên Ngôi nhà có căn gác nhỏ, văn hào Nga Tchékhov từng
mượn lời nhân vật để ghi nhận cái cảm giác đáng buồn sau đây:
“Một
cánh đồng cỏ cháy khô chạy dài, đơn điệu và hoang vu như sa mạc, chắc cũng
không làm người ta thấy tẻ nhạt, chán chường, như một người ngồi đó, nói năng uể
oải và không biết bao giờ mới chịu bỏ đi”.
Một ý
nghĩ như vậy, dưới con mắt một số người, có thể bị xem như độc ác, khinh bạc.
Con người bao giờ cũng đáng quý. Sao lại nỡ bảo là sự có mặt của con người, tiếng nói của họ, gợi ra cảm giác tẻ nhạt,
chán chường kinh khủng?
Nhưng
nay là thời mà mọi tiếng nói đã có dịp cất lên, mọi hoạt động được bộc lộ, đến
mức người ta trở nên khao khát sự tĩnh lặng, sự thanh sạch hơn bao giờ hết. Các
nhà sinh học hiện đại đã thử nghiên cứu về tiếng ồn để rồi kết luận rằng tiếng ồn
là có hại cho sự sống, bao gồm từ sự nảy nở của một hạt thóc, tới sự trưởng
thành của một con thú nhỏ.
Trong
hoàn cảnh ấy mà xét, một câu nói như của Tchékhov vừa dẫn là một ý nghĩ thành
thật, có tính tới những tế nhị trong sự giao tiếp giữa người với người, do đó
có thể bảo là một ý nghĩ nhân hậu.
Bởi lẽ,
văn chương cũng là một cách người ta trò chuyện với nhau nên ở đây, nương tựa
vào Tchékhov, chúng tôi mới nhắc lại trường hợp của Hoàng Ngọc Phách, nhất là
cách “tiếp đất” nhẹ nhàng của ông. Làm được như ông ư? Với người đã có một Tố
Tâm của mình cũng khó mà với người chưa có một Tố Tâm của mình lại càng là chuyện khó.
Nhưng
giữa cuộc đời mải miết hiện nay, có lẽ nên thỉnh thoảng nghĩ đến ông, ít ra là
để biết rằng bên cạnh cách sống, cách làm việc, cách nghĩ của chúng ta, trong
văn chương còn có thể có những cách tồn tại khác hẳn.
Bài tiếp:
Tuổi già với các nhà văn thời nay
khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn - in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19, tiểu
thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách lạ trong đời sống văn chương
những năm đầu thế kỷ XX.
Nhưng
có điều lạ hơn, là sau khi ra đời, cuốn sách ấy được in đi in lại nhiều lần và
sự thực là chỉ riêng nó thôi, đã đủ sức đưa Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) vào lịch
sử văn học.
Trong
quá trình tìm hiểu trở lại đời sống văn chương đầu thế kỷ XX, tôi thường nhớ lại
trường hợp Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách để hiểu ra một cách tồn tại khá
sang trọng trong văn học. Ở đây, có mấy điểm, nó là chỗ khác so với cách làm văn chương của chúng ta hôm nay.
Trong khi Hoàng Ngọc Phách viết
xong sách từ 1922 mà để mãi, tính mãi, rồi qua 1925 mới cho in thì nhiều người
viết hôm nay có thói quen mải mốt viết lấy được, mới đặt cái tên đã lo xin giấy
phép, và viết xong một lần, đọc lại
quáng quàng lại gửi gấp cho in.
Điều đáng để ý hơn:
Giá kể như ngày hôm nay,
sau một “chiến tích lẫy lừng” như Tố Tâm, nhà văn liền “thừa thắng xông
lên”, sinh năm đẻ bảy, thì từ 1925 Hoàng Ngọc Phách ngưng ngay lại. Trong khi vẫn
làm cái nghề chính là dạy học, ông tiếp tục viết lách, nhưng ngả hẳn sang việc
khảo chứng văn chương cổ, chứ tịnh không có thêm một cuốn tiểu thuyết nào nữa.
Sự khác
nhau thật đã rõ rệt.Tạm thời
có thể hình dung, trong khi một số nhà văn hiện nay tồn tại như một bóng cây
trông xa lúc lỉu những quả là quả, nhưng đến gần nhìn kỹ sẽ là rất nhiều quả
lép quả hỏng, thì ở Hoàng Ngọc Phách cây có một cành, cành có một quả, song đây
là thứ quả chín mẩy, vỏ căng, sắc vàng đượm và đi qua, nghe được cả mùi thơm dễ
chịu riêng thứ quả chín mới có.
*
Nếu như
bất kỳ ở đâu, sự nóng vội đều đã dẫn tới hỏng việc, thì trong sáng tạo văn
chương, nó càng vô duyên một cách thảm hại. Khi truyền nghề lại cho người mới
nhập cuộc, các nhà văn lớp trước thường không quên lưu ý là ở đây số lượng phải
để ra một bên, so với chất lượng. Trong điều kiện của thời bao cấp, nhiều người
chúng ta đã miệt mài làm việc, trong bụng thành thật nghĩ rằng một đời người để
lại được dăm ba bài thơ, vài truyện ngắn, ít trang phê bình sắc sảo, cũng đã là
danh giá lắm.
Thế
nhưng mươi năm gần đây, lối sống của kinh tế thị trường xâm nhập vào cả xã hội.
So với cái từ tốn chậm chạp hôm qua, việc in ấn xuất bản hôm nay trở nên khởi sắc
như chưa bao giờ có.
Với một
số người, hình như nay là lúc có thể “ăn giả bữa”.
Gấp gáp
năng động được hiểu một cách đơn giản, tức là đồng nghĩa với nóng vội.
Ta quên
rằng mình chưa được chuẩn bị những điều kiện cần thiết, chưa đủ nội lực để thích
ứng. Mải viết, mải in, ta có ngờ đâu mình đang chạy theo số lượng, tức là rơi
vào một cuộc đuổi bắt tuyệt vọng.
Trong khi ấy, thật ra cái chính của kinh tế thị trường là tiền nào của ấy, là mọi người
phải có mặt hàng riêng cùng những phương
cách tốt nhất trong việc khai thác bản thân mình.
Nói
cách khác, những vấn đề của nghề nghiệp phải được đặt lên bàn cân, với tất cả
tính chất khắc nghiệt của nó.
Nhưng
đây, đôi khi lại là điều, với những sốt sáy thường xuyên, ta ngại động chạm tới
nhất.
Người
ta đã nói khá nhiều về sự cần thiết của dư luận xung quanh một quyển sách mới,
nó là cái phương thức hữu hiệu, tác động trở lại nhà văn, giúp anh ta điều chỉnh
lại mình và quyển sau viết ra sẽ khá hơn quyển trước.
Nhưng
còn một điều quan trọng hơn, mỗi người viết muốn nghe ở bạn bè, ở người đọc, ấy
là những vấn đề có liên quan tới cả đời văn của anh ta.
“ Mình sẽ sử dụng tài năng như thế nào đây?”.
“Nên làm cái gì và nên bỏ cái gì?”.
“Đầu tư
công sức vào đâu là chính đáng?”.
Và để
chủ động sáng tạo nên số phận văn chương, cả những câu hỏi: “Ta sẽ hạ cánh ra
sao?” cũng nên được đặt ra khi chưa quá muộn.
Sở dĩ nhiều nhà văn trước kia có chỗ đứng
riêng của họ trong văn học sử - như trường
hợp tác giả Tố Tâm ở trên vừa nói - một phần là vì họ biết cách trả lời
riêng cho những câu hỏi lớn đó, dù không phải bao giờ họ cũng có ý thức đầy đủ.
*
Năm
1943, nhân cuộc phỏng vấn của nhà phê bình Lê Thanh, Hoàng Ngọc Phách tâm sự:
“Tiểu
thuyết Tố Tâm tôi viết trong trường Cao đẳng. Hồi đó, tôi có mục đích viết
một quyển tiểu thuyết khác hẳn những tiểu thuyết đã có cả về hình thức và tinh
thần. Về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể
chuyện, tả cảnh, theo văn chương Pháp cả. Về tinh thần, chúng tôi đem vào những
tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân tách theo phương pháp của những nhà tâm
lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”.
Đã rõ
là Hoàng Ngọc Phách muốn làm một cuộc cách mạng trong văn chương, để tạo ra một
bước ngoặt. Và ông cũng thừa biết rằng mình được tiếp nhận như thế nào. Đằng
sau câu nói nhũn nhặn “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm – VTN) ra đời vào lúc
người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một khẳng định kín đáo: tác phẩm
của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở thành một hiện tượng có tầm vóc
xã hội.
Ấy vậy
mà khi nghe Lê Thanh hỏi tại sao, sau Tố Tâm, ông không viết nữa, Hoàng
Ngọc Phách đã thực thà thú nhận: “ở trường ra, đi làm ít thì giờ quá” “Vả chăng
sức yếu, làm việc thường đã thấy mệt, nên cũng nản” (tất cả những đoạn vừa dẫn
đều được Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng vấn các nhà văn - 1943).
Dưới
con mắt của con người bây giờ thì ở chỗ này, Hoàng Ngọc Phách tỏ ra hơi bệt.
Như là ông có phần cầu an, khiếp nhược (!). Ông không đủ nghị lực để vượt lên
khỏi mọi khó khăn hàng ngày. Mà ông cũng không đủ ý chí để khai thác cái ưu thế
sẵn có (!).
Chỉ có
điều thú vị là chính cái sự không may ấy của Song An lại khiến cho hình ảnh của
ông hiện ra trong tâm trí các thế hệ sau với những nét gãy gọn, không loè nhoè,
lại càng không phải trừ bì bớt xén.
*
Nói
theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ, lúc xuất phát, Hoàng Ngọc
Phách tự đặt cho mình một mục đích lớn hơn, ông đi xa hơn, mà lúc tiếp đất
(tức trong việc chia tay với nghề văn) ông cũng tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn.
Ở nhiều
nước trên thế giới thỉnh thoảng lại thấy báo chí trịnh trọng đưa tin rằng một số
nghệ sĩ biểu diễn hay một ngôi sao thể thao nào đó vừa tuyên bố giã từ cái nghề
làm họ nổi tiếng.
Chẳng
phải là họ bị ai sa thải hay hất ra đường.
Đây là
việc họ tự nguyện.
Ngay
sau khi lên đến đỉnh cao của tài năng, họ cảm thấy nên dừng lại.
Bởi họ
không muốn hình ảnh của mình trở nên tầm thường thảm hại, ngay trước mắt công
chúng.
Việc
Hoàng Ngọc Phách sớm từ giã nghề viết tiểu thuyết tuy lý do hơi khác, song hiệu
quả cuối cùng thì cũng có gì na ná như thế.
*
Trong một
thiên truyện mang tên Ngôi nhà có căn gác nhỏ, văn hào Nga Tchékhov từng
mượn lời nhân vật để ghi nhận cái cảm giác đáng buồn sau đây:
“Một
cánh đồng cỏ cháy khô chạy dài, đơn điệu và hoang vu như sa mạc, chắc cũng
không làm người ta thấy tẻ nhạt, chán chường, như một người ngồi đó, nói năng uể
oải và không biết bao giờ mới chịu bỏ đi”.
Một ý
nghĩ như vậy, dưới con mắt một số người, có thể bị xem như độc ác, khinh bạc.
Con người bao giờ cũng đáng quý. Sao lại nỡ bảo là sự có mặt của con người, tiếng nói của họ, gợi ra cảm giác tẻ nhạt,
chán chường kinh khủng?
Nhưng
nay là thời mà mọi tiếng nói đã có dịp cất lên, mọi hoạt động được bộc lộ, đến
mức người ta trở nên khao khát sự tĩnh lặng, sự thanh sạch hơn bao giờ hết. Các
nhà sinh học hiện đại đã thử nghiên cứu về tiếng ồn để rồi kết luận rằng tiếng ồn
là có hại cho sự sống, bao gồm từ sự nảy nở của một hạt thóc, tới sự trưởng
thành của một con thú nhỏ.
Trong
hoàn cảnh ấy mà xét, một câu nói như của Tchékhov vừa dẫn là một ý nghĩ thành
thật, có tính tới những tế nhị trong sự giao tiếp giữa người với người, do đó
có thể bảo là một ý nghĩ nhân hậu.
Bởi lẽ,
văn chương cũng là một cách người ta trò chuyện với nhau nên ở đây, nương tựa
vào Tchékhov, chúng tôi mới nhắc lại trường hợp của Hoàng Ngọc Phách, nhất là
cách “tiếp đất” nhẹ nhàng của ông. Làm được như ông ư? Với người đã có một Tố
Tâm của mình cũng khó mà với người chưa có một Tố Tâm của mình lại càng là chuyện khó.
Nhưng
giữa cuộc đời mải miết hiện nay, có lẽ nên thỉnh thoảng nghĩ đến ông, ít ra là
để biết rằng bên cạnh cách sống, cách làm việc, cách nghĩ của chúng ta, trong
văn chương còn có thể có những cách tồn tại khác hẳn.
Bài tiếp:
Tuổi già với các nhà văn thời nay
Published on November 14, 2014 19:26
November 13, 2014
Nhà văn làm gì đây lúc về già ? ( bài I): Tản Đà và sự đa tạp hóa công việc
Tản Đà (1888 -1939 ) là một trong số ít ỏi những nhà thơ Việt Nam sinh ra để làm thơ, vung bút thành thơ, ngồi đâu có thơ đấy --- mà toàn là thơ hay, thơ để đời, chứ không phải là thơ con cóc, thơ vè, thơ nhăng nhít của mấy ông sẩm giỏi bắt vần.
Sức sáng tạo của tác giả Thề non nước thật tràn trề. Mà lòng tự tin nơi ông cũng mãnh liệt như mọi con người hiện đại.
Bởi vậy, người ta hẳn lấy làm lạ khi nhìn lại một sự thực: tác giả qua đời năm 1939, khi vừa năm mươi mốt tuổi, còn tập thơ cuối cùng của ông, tập Khối tình con II thì in ra trước đó có tới gần hai chục năm (về sau chỉ có thơ tuyển).
Đặc biệt từ hồi xuất hiện những tập thơ mới có sức nặng như Người sơn nhân (Lưu Trọng Lư 1933), Mấy vần thơ (Thế Lữ --1934), Điêu tàn ( Chế Lan Viên –1937 ), Thơ thơ (Xuân Diệu- 1938 ) thì ông vĩnh biệt hẳn thơ, đến thơ đăng báo cũng không gửi, mà lo kiếm ăn nơi khác.
Ông làm gì ?
Viết báo.
Viết tạp văn.
Và dịch, dịch cả văn xuôi (Liêu trai chí dị) lẫn thơ (thơ Đường).
Và ngồi chú giải Truyện Kiều.
Tóm lại là làm bất cứ thứ gì để có thể quên đi một tình yêu sâu nặng, để khỏi nhớ mình là nhà thơ. Vẫn hậm hụi kiếm ăn, nhưng không bao giờ kiếm ăn bằng thơ.
Việc này có một cái lợi: người ta không bao giờ cảm thấy Tản Đà hết duyên mà vẫn tham xuất hiện, lê lết trong nghề, cố đấm ăn xôi, bám vào cảm tình vốn có của dư luận để ăn vạ. Xét chung cả đời, ông không âm lịch, cũng không cổ lỗ trong quan niệm về nghề nghiệp.
Ngược lại người đương thời cũng như đời sau luôn luôn cảm thấy Tản Đà là người làm nghề có bản lĩnh, biết từ giã “sân cỏ”, ngay khi sự nghiệp đang ở đỉnh cao, hơn nữa có thể nói là người hết lòng với thơ, xem thơ là việc của thần thánh và bao giờ cũng đối xử với thơ theo kiểu trân trọng muôn vàn, muôn vàn trân trọng (chữ dùng trong Tây sương ký).
Cũng nên biết thêm là trong việc này, không chỉ có sự biết điều, sự kiềm chế của người trong cuộc, mà còn có sự giúp đỡ chí tình của lớp trẻ nữa. Giúp đỡ như thế nào ? Chúng ta biết nhóm Tự lực văn đoàn vốn yêu quý Tản Đà. Nhưng yêu quý một cách rất tỉnh táo. Chính họ gợi ý để Tản Đà dịch thơ Đường, và những bản dịch hay nhất của ông đều in ở Ngày nay cơ quan phát ngôn của họ, tờ báo trí thức nhất mà cũng có uy tín nhất lúc ấy.
Nhưng chỉ có thế.
Còn thơ Tản Đà thì nhất định Ngày nay không in.
Tôi ghi lại một ít sự kiện này để thử nghĩ về công việc của mình cũng như của những người cùng tuổi với mình khi chúng tôi bước sang tuổi già.
Một vài câu hỏi mà tôi thường đặt ra đại khái như :
-- Có phải có những việc dành riêng cho tuổi trẻ, còn tuổi già nên tính việc khác?
-- Có phải cách tốt nhất để giữ được một uy tín là đừng làm cho uy tín đó trở nên nham nhở bởi những cố gắng bám trụ tầm thường ?
-- Có phải sự bảo thủ, và hơn thế nữa sự hoang tưởng, là thói quen tự nhiên có ở mọi người, kể cả những cây bút có lúc được xem là thiên tài và để sửa chữa cái cố tật đó, rất cần có sự giúp đỡ thông minh và kiên quyết của lớp trẻ ?
Trường hợp Tản Đà đã mang trong mình lời đáp sống động cho những câu hỏi này, mỗi người có thể rút ra để áp dụng cho mình. Cố nhiên bao giờ cũng có những ngoại lệ.
Còn đây là lời nhắn nhủ của tôi với các bạn trẻ: muốn được như Tản Đà, thì ngay từ lúc trẻ, người ta phải chuẩn bị cho mình những ngón nghề khác. Chứ nếu như không biết gì ngoài ngồi làm thơ thì về sau, có muốn đa tạp hóa cũng không được. Lúc bấy giờ người ta lại chỉ có cách mài thơ ra kiếm vặt, và rồi lại nghĩ ra đủ thứ để chê bai những đồng nghiệp biết điều, tự trọng.
Bài tiếp: Hoàng Ngọc Phách và một sự dừng bước đúng lúc.
Sức sáng tạo của tác giả Thề non nước thật tràn trề. Mà lòng tự tin nơi ông cũng mãnh liệt như mọi con người hiện đại.
Bởi vậy, người ta hẳn lấy làm lạ khi nhìn lại một sự thực: tác giả qua đời năm 1939, khi vừa năm mươi mốt tuổi, còn tập thơ cuối cùng của ông, tập Khối tình con II thì in ra trước đó có tới gần hai chục năm (về sau chỉ có thơ tuyển).
Đặc biệt từ hồi xuất hiện những tập thơ mới có sức nặng như Người sơn nhân (Lưu Trọng Lư 1933), Mấy vần thơ (Thế Lữ --1934), Điêu tàn ( Chế Lan Viên –1937 ), Thơ thơ (Xuân Diệu- 1938 ) thì ông vĩnh biệt hẳn thơ, đến thơ đăng báo cũng không gửi, mà lo kiếm ăn nơi khác.
Ông làm gì ?
Viết báo.
Viết tạp văn.
Và dịch, dịch cả văn xuôi (Liêu trai chí dị) lẫn thơ (thơ Đường).
Và ngồi chú giải Truyện Kiều.
Tóm lại là làm bất cứ thứ gì để có thể quên đi một tình yêu sâu nặng, để khỏi nhớ mình là nhà thơ. Vẫn hậm hụi kiếm ăn, nhưng không bao giờ kiếm ăn bằng thơ.
Việc này có một cái lợi: người ta không bao giờ cảm thấy Tản Đà hết duyên mà vẫn tham xuất hiện, lê lết trong nghề, cố đấm ăn xôi, bám vào cảm tình vốn có của dư luận để ăn vạ. Xét chung cả đời, ông không âm lịch, cũng không cổ lỗ trong quan niệm về nghề nghiệp.
Ngược lại người đương thời cũng như đời sau luôn luôn cảm thấy Tản Đà là người làm nghề có bản lĩnh, biết từ giã “sân cỏ”, ngay khi sự nghiệp đang ở đỉnh cao, hơn nữa có thể nói là người hết lòng với thơ, xem thơ là việc của thần thánh và bao giờ cũng đối xử với thơ theo kiểu trân trọng muôn vàn, muôn vàn trân trọng (chữ dùng trong Tây sương ký).
Cũng nên biết thêm là trong việc này, không chỉ có sự biết điều, sự kiềm chế của người trong cuộc, mà còn có sự giúp đỡ chí tình của lớp trẻ nữa. Giúp đỡ như thế nào ? Chúng ta biết nhóm Tự lực văn đoàn vốn yêu quý Tản Đà. Nhưng yêu quý một cách rất tỉnh táo. Chính họ gợi ý để Tản Đà dịch thơ Đường, và những bản dịch hay nhất của ông đều in ở Ngày nay cơ quan phát ngôn của họ, tờ báo trí thức nhất mà cũng có uy tín nhất lúc ấy.
Nhưng chỉ có thế.
Còn thơ Tản Đà thì nhất định Ngày nay không in.
Tôi ghi lại một ít sự kiện này để thử nghĩ về công việc của mình cũng như của những người cùng tuổi với mình khi chúng tôi bước sang tuổi già.
Một vài câu hỏi mà tôi thường đặt ra đại khái như :
-- Có phải có những việc dành riêng cho tuổi trẻ, còn tuổi già nên tính việc khác?
-- Có phải cách tốt nhất để giữ được một uy tín là đừng làm cho uy tín đó trở nên nham nhở bởi những cố gắng bám trụ tầm thường ?
-- Có phải sự bảo thủ, và hơn thế nữa sự hoang tưởng, là thói quen tự nhiên có ở mọi người, kể cả những cây bút có lúc được xem là thiên tài và để sửa chữa cái cố tật đó, rất cần có sự giúp đỡ thông minh và kiên quyết của lớp trẻ ?
Trường hợp Tản Đà đã mang trong mình lời đáp sống động cho những câu hỏi này, mỗi người có thể rút ra để áp dụng cho mình. Cố nhiên bao giờ cũng có những ngoại lệ.
Còn đây là lời nhắn nhủ của tôi với các bạn trẻ: muốn được như Tản Đà, thì ngay từ lúc trẻ, người ta phải chuẩn bị cho mình những ngón nghề khác. Chứ nếu như không biết gì ngoài ngồi làm thơ thì về sau, có muốn đa tạp hóa cũng không được. Lúc bấy giờ người ta lại chỉ có cách mài thơ ra kiếm vặt, và rồi lại nghĩ ra đủ thứ để chê bai những đồng nghiệp biết điều, tự trọng.
Bài tiếp: Hoàng Ngọc Phách và một sự dừng bước đúng lúc.
Published on November 13, 2014 19:14
November 10, 2014
Cùng với Vũ Hùng tìm hiểu về những quy luật chi phối thiên nhiên hoang dã
Vũ Hùng thuộc thế hệ
sinh năm 1930 - 32, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Với tư cách
một chiến sĩ quân báo, ông hoạt động liên tục trên chiến trường Lào. Trở về,
trong khi mưu sinh bằng các nghề khác, ông dành nhiều tâm huyết cho việc
viết văn và trong sự nghiệp của mình đã có tới 40 đầu sách.
Người ta thường chỉ xếp
Vũ Hùng vào khu vực văn học thiếu nhi. Tuy nhiên gần đây có dịp đọc lại,
tôi nhận ra rằng, có một số cuốn, một số trang sách của ông cũng là dành cho cả
các bạn đọc lớn tuổi.
Dưới hình
thức ghi chép, Sống giữa bày voi giống như một khảo luận công
phu về mọi hoạt động của loài thú và những người săn thú. Có nhiều
trang miêu tả cảnh rừng mà tôi muốn đọc đi đọc lại. Lại có những đoạn ông khái
quát về quy luật tồn tại của thiên nhiên hoang dã, nó giúp cho người đọc sống
xa rừng núi có thể liên hệ để hiểu thêm sự đời mà họ sống hàng ngày.
Dưới đây là một đoạn
trích từ cuốn sách Vũ Hùng viết năm 1986 đó, nằm ở giữa chương cuộc
sống rừng nhìn từ một chòi quan sát.
Lần ấy, tác giả theo
người làng tới một khu đồng cỏ.
Ông cùng với một
bác thợ săn Lào ngồi trong một cái chòi được bảo đảm hoàn toàn cách ly với chung quanh, quan sát
mà không để cho các "nhân sự trong cuộc" nhận ra sự có mặt của
mình -- đại khái ông đã có được cái vị trí như khi chúng ta vào
thăm các công viên thủy cung, thấy mình sống trong lòng nước.
Từ vị trí này, tác
giả có dịp chứng kiến cuộc sống của các loài thú trong rừng, cái cách chúng
sống bên cạnh nhau tự nhiên, hòa hợp y như tuân theo một thứ luật tự
nhiên nào hết sức hợp lý.
Và ông viết ra một đoạn
văn mà theo tôi là sự kết hợp cả hai:
-- kinh nghiệm sống của
những người dân Lào bình thường.
-- cái vốn văn hóa nhân
bản mà ông đã tiếp nhận được từ văn hóa phương Tây, cái phần mà ông đã học được
từ những năm học ở ngôi trường danh giá là Lycée du Protectorat (Trường
Trung học Bảo hộ) nay là trường Chu Văn An Hà Nội.
Từ trường hợp của ông, tôi như nghe ra một lời nhắn nhủ, chúng
ta phải biết đến với thiên nhiên từ văn hóa. Chúng ta chỉ hiểu biết thiên nhiên khi có một sự chuẩn bị về văn hóa.
Xin mời các bạn đọc một
trong những đoạn văn hay nhất của Vũ Hùng và liên hệ những quy luật của thiên
nhiên nhiên hoang dã mà ông trình bày với những quy luật bất thành văn bản đang
chi phối xã hội VN ta. Các dòng in đậm là của người trích dẫn.
Chính
trên chòi quan sát này, tôi đã hiểu đôi
chút về luật rừng. Trước đây do lấy những nền
tảng của xã hội loài người làm thước
đo để suy đoán, tôi đinh ninh luật
rừng là luật lệ tàn khốc
của sự hỗn độn, của cuộc đấu tranh sinh tồn, một
cuộc đấu tranh quyết liệt đến
mức không dung tha để giành lấy
khoảng không gian và những ưu
thế tồn tại: thú dữ ăn thịt thú
lành, thú lớn lấn át và tiêu diệt thú bé.
Người
ta có thói quen coi luật rừng là luật của sức
mạnh. Khi một đội bóng chơi
thô bạo, người ta bảo họ chơi "rừng". Khi những
kẻ mạnh lấn át kẻ yếu, người ta bảo họ hành động theo "luật rừng".
Hoàn
toàn không đúng như vậy.
Luật rừng trước hết là sự khôn ngoan để duy trì sự tồn tại của chính mình và của dòng giống. Mọi
loài thú, kể cả những loài có sức mạnh nhất,
bao giờ cũng muốn nhìn thấy kẻ khác nhưng
lại không muốn kẻ khác nhìn
thấy mình. Vì thế không khi
nào chúng gây gổ một cách vô ích, để lộ sự có
mặt của chúng. Cả đến con cọp,
dù có thể xếp vào hàng chúa tể của
rừng, cũng luôn hành động khôn
ngoan như vậy. Nó không khi nào dựa vào sức
mạnh để tự cho phép mình làm những điều
mù quáng. Nó lảng tránh bầy voi, lảng
tránh con beo, con lợn độc, lảng tránh cả con người và chỉ nhận
sự đối đầu trong những trường hợp
bắt buộc.
Trong
rừng không bao giờ thấy
có những cuộc chiến tranh cùng loài như trong xã hội
loài người. Một bầy voi không bao giờ đánh nhau với
một bầy voi. Một gia đình báo
không bao giờ xung đột với một gia đình báo khác.
Đôi khi cũng
xảy ra tranh giành giữa hai cá
thể cùng loài nhưng không bao giờ cuộc
xung đột ấy dẫn đến sự tiêu diệt đối thủ.
Ngay trong cơn giận dữ, do bản năng bảo tồn dòng giống, chúng cững
biết khi nào thì nên thôi.
Khi
hai con cọp đánh nhau - chúng không bao giờ đánh nhau để tranh
mồi mà đánh nhau để tranh giành con cái - chỉ một
lát sau con yếu hơn sẽ nhảy ra ngoài vòng chiến, nằm
rạp xuống để tỏ ý khuất phục. Lập tức con mạnh hơn sẽ ngừng
lại cho con yếu được tự do
bỏ đi.
Khi
hai con voi đọ sức để tranh giành thứ bậc
trong bầy thì cũng thế: con yếu
sẽ lùi lại và buông thõng vòi xuống. Đó
là dấu hiệu đầu hàng trong loài voi. Con mạnh hơn
thấy dấu hiệu đó sẽ ngừng lại.
Luật rừng thứ hai là sự cố gắng sửa đổi các tập tính, hình thành những thói
quen mới để thích nghi
với hoàn cảnh sống.
Các
quản tượng cho tôi biết chừng
sáu bẩy mươi năm trước đây bầy voi vẫn có thói quen giống
những bầy trâu và bò rừng khi ngủ đêm.
Chúng họp thành những vòng tròn, vòng trong là voi con
và voi mẹ, vòng ngoài là lũ voi đực.
Hồi đó voi đực cũng bị săn lùng - đôi ngà của
chúng đối với mỗi gia đình thợ săn là một tài sản - nhưng với
ngọn lao và chiếc nỏ, thợ săn
không diệt được chúng bao nhiêu.
Từ ngày
trong rừng xuất hiện những người đi săn mang cây súng thì lại khác. Họ có
thể dễ dàng giết chết một
con voi ở khoảng cách rất xa, xa gấp
bốn năm tầm tên của chiếc nỏ.
Lũ voi đực càng bị săn lùng ráo
riết không phải chỉ vì cặp
ngà. Nhiều khi người ta tàn sát chúng chỉ để chống cây súng đứng bên cái xác đồ sộ của
chúng chụp vài hình ảnh, kỉ niệm
một chuyến đi rừng. Vì thế chẳng bao lâu
mỗi bầy voi chỉ còn vài ba con đực.
Các
bầy bắt buộc phải thay đổi tập tính để bảo
tồn dòng giống. Ngày nay những
người đi rừng đều nhận thấy thói quen cũ của
chúng đã biến đổi. Tôi biết điều
này khi từ chòi quan sát tôi theo dõi chúng trong giấc
ngủ đêm: chúng vẫn họp thành những
vòng tròn nhưng ở vòng trong đáng lẽ là lũ voi
con và voi mẹ thì bây giờ là vài con voi đực
cuối cùng của bầy. Bọn
voi đực ấy cần được bảo vệ hơn hết. Mỗi khi có nguy hiểm, chính lũ voi
cái sẽ xông ra chặn đường cho
chúng chạy trốn. Bây giờ muốn săn
một con voi đực, phải đi
vào giữa bầy voi. Đó là điều
không một người thợ săn nào dám làm và cũng không một
người thợ săn nào làm nổi, nếu không dựa
vào lũ voi nhà và dựa vào đám đông
các quản tượng.
Luật rừng thứ ba là giữ gìn sinh cảnh. Không con
thú nào tàn phá môi trường mà nó sinh sống. Hãy thả con
cọp hoặc con báo vào một đàn
hươu nai. Chúng sẽ chỉ giết
một con mồi và chừng
nào chưa ăn hết thức ăn chúng sẽ không giết
thêm một con mồi khác.
Trong
rừng Lào có một loại chồn
rất hung dữ mà người thợ săn
Lào gọi là "chồn
ma". Người ta đặt cho chúng cái tên ấy do khả năng
bắt mồi ma quái của chúng. Chúng không săn
lùng đơn độc mà săn lùng theo đàn. Không như những
giống chồn khác bắt gà vịt, chúng săn
hẳn những con thú to như hoẵng
và nhiềi khi cả hươu nai.
Ít
có con thú lành nào gặp "chồn ma" mà thoát chết.
Chúng đuổi theo, con thì nhảy lên bám
chặt và cắn vào cổ, nơi có các động
mạch lớn, con thì bám và cắn vào lưng
vào đùi, dai dẳng như một
bầy đỉa. Con mồi cứ đeo những
kẻ thù của mình và lồng chạy hết
cánh rừng này qua cánh rừng kia,
cho đến lúc hết máu và kiệt
sức gục xuống.
Bản
năng giữ gìn sinh cảnh tồn tại
ngay cả ở bầy thú bé nhỏ nhưng ghê gớm
này. Chừng nào còn thức ăn
chúng cũng không săn đuổi
một con mồi khác.
Luật rừng thứ tư là luật của sự cứu giúp, cưu mang.
Một
con nai non lạc bầy khi đêm xuống có thể dễ dàng tìm nơi
ẩn náu an toàn trong một bầy
trâu rừng. Bầy trâu sẽ cho nó vào ngủ ở vòng trong, nơi dành cho
lũ nghé non và sớm mai, khi
nguy cơ bị tiêu diệt đã hết,
con nai sẽ lững thững tìm về với bầy
đàn của nó.
Cheo
cheo là con vật yếu ớt nhất rừng. Nó không có một thứ vũ khí
gì để phòng thân. Kẻ thù của
nó rất nhiều: "chồn ma", chó rừng,
mèo rừng, beo, cọp... Gặp kẻ thù
là nó run lên, chân khụy xuống. Nó chỉ còn biết nằm
chờ chết.
Vậy
mà loài cheo cheo không bị tiêu diệt. Nó có những
kẻ bảo trợ đắc lực: các bác bò tót. Ngược lại
với cheo cheo, bò tót là những con vật
mạnh mẽ nhất rừng. Chúng chiếm cứ những
đồi dang và những đồi tre,
không để một con thú dữ nào bén mảng
được đến giang sơn của chúng. Bọn
cheo cheo tinh khôn biết điều đó: chúng đến làm ổ ngay kề bên
chỗ ngủ của bò tót và các bác bò tót tốt bụng
không bao giờ xua đuổi chúng.
Trong
rừng voi cũng được coi là
những con vật hào hiệp.
Mỗi năm khi mùa mưa đến, các bầy
thú ở đồng cỏ được sống một thời kì an toàn. Đêm đêm
khi ăn đã no, chúng thường kéo đến
gần nơi bầy voi ngủ, nương bóng những
con vật to lớn này. Sự có mặt của
chúng không làm bầy voi khó chịu. Chúng được
chấp nhận và bầy voi vui lòng làm nhiệm vụ bảo
trợ.
Chắc
chắn luật rừng còn nhiều điều
bí ẩn nữa mà tôi chưa biết. Tuy
nhiên những ngày sống trên chòi quan sát đã
giúp tôi hiểu rõ: nếu luật rừng
chỉ là luật của sức mạnh và của sự hỗn
độn thì sẽ không còn những
bầy hươu nai, không còn lũ cheo cheo
và những con thú lành, không còn cuộc sống
trong rừng. Sẽ chỉ còn một sinh cảnh bị tàn phá và
hoang vắng, chỉ còn hổ báo và thú dữ.
Con
người sống sao được trong một
môi trường như thế !
sinh năm 1930 - 32, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Với tư cách
một chiến sĩ quân báo, ông hoạt động liên tục trên chiến trường Lào. Trở về,
trong khi mưu sinh bằng các nghề khác, ông dành nhiều tâm huyết cho việc
viết văn và trong sự nghiệp của mình đã có tới 40 đầu sách.
Người ta thường chỉ xếp
Vũ Hùng vào khu vực văn học thiếu nhi. Tuy nhiên gần đây có dịp đọc lại,
tôi nhận ra rằng, có một số cuốn, một số trang sách của ông cũng là dành cho cả
các bạn đọc lớn tuổi.
Dưới hình
thức ghi chép, Sống giữa bày voi giống như một khảo luận công
phu về mọi hoạt động của loài thú và những người săn thú. Có nhiều
trang miêu tả cảnh rừng mà tôi muốn đọc đi đọc lại. Lại có những đoạn ông khái
quát về quy luật tồn tại của thiên nhiên hoang dã, nó giúp cho người đọc sống
xa rừng núi có thể liên hệ để hiểu thêm sự đời mà họ sống hàng ngày.
Dưới đây là một đoạn
trích từ cuốn sách Vũ Hùng viết năm 1986 đó, nằm ở giữa chương cuộc
sống rừng nhìn từ một chòi quan sát.
Lần ấy, tác giả theo
người làng tới một khu đồng cỏ.
Ông cùng với một
bác thợ săn Lào ngồi trong một cái chòi được bảo đảm hoàn toàn cách ly với chung quanh, quan sát
mà không để cho các "nhân sự trong cuộc" nhận ra sự có mặt của
mình -- đại khái ông đã có được cái vị trí như khi chúng ta vào
thăm các công viên thủy cung, thấy mình sống trong lòng nước.
Từ vị trí này, tác
giả có dịp chứng kiến cuộc sống của các loài thú trong rừng, cái cách chúng
sống bên cạnh nhau tự nhiên, hòa hợp y như tuân theo một thứ luật tự
nhiên nào hết sức hợp lý.
Và ông viết ra một đoạn
văn mà theo tôi là sự kết hợp cả hai:
-- kinh nghiệm sống của
những người dân Lào bình thường.
-- cái vốn văn hóa nhân
bản mà ông đã tiếp nhận được từ văn hóa phương Tây, cái phần mà ông đã học được
từ những năm học ở ngôi trường danh giá là Lycée du Protectorat (Trường
Trung học Bảo hộ) nay là trường Chu Văn An Hà Nội.
Từ trường hợp của ông, tôi như nghe ra một lời nhắn nhủ, chúng
ta phải biết đến với thiên nhiên từ văn hóa. Chúng ta chỉ hiểu biết thiên nhiên khi có một sự chuẩn bị về văn hóa.
Xin mời các bạn đọc một
trong những đoạn văn hay nhất của Vũ Hùng và liên hệ những quy luật của thiên
nhiên nhiên hoang dã mà ông trình bày với những quy luật bất thành văn bản đang
chi phối xã hội VN ta. Các dòng in đậm là của người trích dẫn.
Chính
trên chòi quan sát này, tôi đã hiểu đôi
chút về luật rừng. Trước đây do lấy những nền
tảng của xã hội loài người làm thước
đo để suy đoán, tôi đinh ninh luật
rừng là luật lệ tàn khốc
của sự hỗn độn, của cuộc đấu tranh sinh tồn, một
cuộc đấu tranh quyết liệt đến
mức không dung tha để giành lấy
khoảng không gian và những ưu
thế tồn tại: thú dữ ăn thịt thú
lành, thú lớn lấn át và tiêu diệt thú bé.
Người
ta có thói quen coi luật rừng là luật của sức
mạnh. Khi một đội bóng chơi
thô bạo, người ta bảo họ chơi "rừng". Khi những
kẻ mạnh lấn át kẻ yếu, người ta bảo họ hành động theo "luật rừng".
Hoàn
toàn không đúng như vậy.
Luật rừng trước hết là sự khôn ngoan để duy trì sự tồn tại của chính mình và của dòng giống. Mọi
loài thú, kể cả những loài có sức mạnh nhất,
bao giờ cũng muốn nhìn thấy kẻ khác nhưng
lại không muốn kẻ khác nhìn
thấy mình. Vì thế không khi
nào chúng gây gổ một cách vô ích, để lộ sự có
mặt của chúng. Cả đến con cọp,
dù có thể xếp vào hàng chúa tể của
rừng, cũng luôn hành động khôn
ngoan như vậy. Nó không khi nào dựa vào sức
mạnh để tự cho phép mình làm những điều
mù quáng. Nó lảng tránh bầy voi, lảng
tránh con beo, con lợn độc, lảng tránh cả con người và chỉ nhận
sự đối đầu trong những trường hợp
bắt buộc.
Trong
rừng không bao giờ thấy
có những cuộc chiến tranh cùng loài như trong xã hội
loài người. Một bầy voi không bao giờ đánh nhau với
một bầy voi. Một gia đình báo
không bao giờ xung đột với một gia đình báo khác.
Đôi khi cũng
xảy ra tranh giành giữa hai cá
thể cùng loài nhưng không bao giờ cuộc
xung đột ấy dẫn đến sự tiêu diệt đối thủ.
Ngay trong cơn giận dữ, do bản năng bảo tồn dòng giống, chúng cững
biết khi nào thì nên thôi.
Khi
hai con cọp đánh nhau - chúng không bao giờ đánh nhau để tranh
mồi mà đánh nhau để tranh giành con cái - chỉ một
lát sau con yếu hơn sẽ nhảy ra ngoài vòng chiến, nằm
rạp xuống để tỏ ý khuất phục. Lập tức con mạnh hơn sẽ ngừng
lại cho con yếu được tự do
bỏ đi.
Khi
hai con voi đọ sức để tranh giành thứ bậc
trong bầy thì cũng thế: con yếu
sẽ lùi lại và buông thõng vòi xuống. Đó
là dấu hiệu đầu hàng trong loài voi. Con mạnh hơn
thấy dấu hiệu đó sẽ ngừng lại.
Luật rừng thứ hai là sự cố gắng sửa đổi các tập tính, hình thành những thói
quen mới để thích nghi
với hoàn cảnh sống.
Các
quản tượng cho tôi biết chừng
sáu bẩy mươi năm trước đây bầy voi vẫn có thói quen giống
những bầy trâu và bò rừng khi ngủ đêm.
Chúng họp thành những vòng tròn, vòng trong là voi con
và voi mẹ, vòng ngoài là lũ voi đực.
Hồi đó voi đực cũng bị săn lùng - đôi ngà của
chúng đối với mỗi gia đình thợ săn là một tài sản - nhưng với
ngọn lao và chiếc nỏ, thợ săn
không diệt được chúng bao nhiêu.
Từ ngày
trong rừng xuất hiện những người đi săn mang cây súng thì lại khác. Họ có
thể dễ dàng giết chết một
con voi ở khoảng cách rất xa, xa gấp
bốn năm tầm tên của chiếc nỏ.
Lũ voi đực càng bị săn lùng ráo
riết không phải chỉ vì cặp
ngà. Nhiều khi người ta tàn sát chúng chỉ để chống cây súng đứng bên cái xác đồ sộ của
chúng chụp vài hình ảnh, kỉ niệm
một chuyến đi rừng. Vì thế chẳng bao lâu
mỗi bầy voi chỉ còn vài ba con đực.
Các
bầy bắt buộc phải thay đổi tập tính để bảo
tồn dòng giống. Ngày nay những
người đi rừng đều nhận thấy thói quen cũ của
chúng đã biến đổi. Tôi biết điều
này khi từ chòi quan sát tôi theo dõi chúng trong giấc
ngủ đêm: chúng vẫn họp thành những
vòng tròn nhưng ở vòng trong đáng lẽ là lũ voi
con và voi mẹ thì bây giờ là vài con voi đực
cuối cùng của bầy. Bọn
voi đực ấy cần được bảo vệ hơn hết. Mỗi khi có nguy hiểm, chính lũ voi
cái sẽ xông ra chặn đường cho
chúng chạy trốn. Bây giờ muốn săn
một con voi đực, phải đi
vào giữa bầy voi. Đó là điều
không một người thợ săn nào dám làm và cũng không một
người thợ săn nào làm nổi, nếu không dựa
vào lũ voi nhà và dựa vào đám đông
các quản tượng.
Luật rừng thứ ba là giữ gìn sinh cảnh. Không con
thú nào tàn phá môi trường mà nó sinh sống. Hãy thả con
cọp hoặc con báo vào một đàn
hươu nai. Chúng sẽ chỉ giết
một con mồi và chừng
nào chưa ăn hết thức ăn chúng sẽ không giết
thêm một con mồi khác.
Trong
rừng Lào có một loại chồn
rất hung dữ mà người thợ săn
Lào gọi là "chồn
ma". Người ta đặt cho chúng cái tên ấy do khả năng
bắt mồi ma quái của chúng. Chúng không săn
lùng đơn độc mà săn lùng theo đàn. Không như những
giống chồn khác bắt gà vịt, chúng săn
hẳn những con thú to như hoẵng
và nhiềi khi cả hươu nai.
Ít
có con thú lành nào gặp "chồn ma" mà thoát chết.
Chúng đuổi theo, con thì nhảy lên bám
chặt và cắn vào cổ, nơi có các động
mạch lớn, con thì bám và cắn vào lưng
vào đùi, dai dẳng như một
bầy đỉa. Con mồi cứ đeo những
kẻ thù của mình và lồng chạy hết
cánh rừng này qua cánh rừng kia,
cho đến lúc hết máu và kiệt
sức gục xuống.
Bản
năng giữ gìn sinh cảnh tồn tại
ngay cả ở bầy thú bé nhỏ nhưng ghê gớm
này. Chừng nào còn thức ăn
chúng cũng không săn đuổi
một con mồi khác.
Luật rừng thứ tư là luật của sự cứu giúp, cưu mang.
Một
con nai non lạc bầy khi đêm xuống có thể dễ dàng tìm nơi
ẩn náu an toàn trong một bầy
trâu rừng. Bầy trâu sẽ cho nó vào ngủ ở vòng trong, nơi dành cho
lũ nghé non và sớm mai, khi
nguy cơ bị tiêu diệt đã hết,
con nai sẽ lững thững tìm về với bầy
đàn của nó.
Cheo
cheo là con vật yếu ớt nhất rừng. Nó không có một thứ vũ khí
gì để phòng thân. Kẻ thù của
nó rất nhiều: "chồn ma", chó rừng,
mèo rừng, beo, cọp... Gặp kẻ thù
là nó run lên, chân khụy xuống. Nó chỉ còn biết nằm
chờ chết.
Vậy
mà loài cheo cheo không bị tiêu diệt. Nó có những
kẻ bảo trợ đắc lực: các bác bò tót. Ngược lại
với cheo cheo, bò tót là những con vật
mạnh mẽ nhất rừng. Chúng chiếm cứ những
đồi dang và những đồi tre,
không để một con thú dữ nào bén mảng
được đến giang sơn của chúng. Bọn
cheo cheo tinh khôn biết điều đó: chúng đến làm ổ ngay kề bên
chỗ ngủ của bò tót và các bác bò tót tốt bụng
không bao giờ xua đuổi chúng.
Trong
rừng voi cũng được coi là
những con vật hào hiệp.
Mỗi năm khi mùa mưa đến, các bầy
thú ở đồng cỏ được sống một thời kì an toàn. Đêm đêm
khi ăn đã no, chúng thường kéo đến
gần nơi bầy voi ngủ, nương bóng những
con vật to lớn này. Sự có mặt của
chúng không làm bầy voi khó chịu. Chúng được
chấp nhận và bầy voi vui lòng làm nhiệm vụ bảo
trợ.
Chắc
chắn luật rừng còn nhiều điều
bí ẩn nữa mà tôi chưa biết. Tuy
nhiên những ngày sống trên chòi quan sát đã
giúp tôi hiểu rõ: nếu luật rừng
chỉ là luật của sức mạnh và của sự hỗn
độn thì sẽ không còn những
bầy hươu nai, không còn lũ cheo cheo
và những con thú lành, không còn cuộc sống
trong rừng. Sẽ chỉ còn một sinh cảnh bị tàn phá và
hoang vắng, chỉ còn hổ báo và thú dữ.
Con
người sống sao được trong một
môi trường như thế !
Published on November 10, 2014 18:13
November 4, 2014
Ghi chép trong tuần ( 27/10 –2/11/2014)
27-10
Nhân hiện tượng truyện ngôn tình Trung quốc
Sự bung ra của loạt sách này làm cho một số người sốt ruột. Một vài nhà nghiên cứu có chút hàn lâm lấy làm khó hiểu nêu ra những câu hỏi. Đại loại hỏi tại sao có tình trạng đó? Tại sao lớp trẻ lại có sự lựa chọn như thế? Về khách quan tại sao các nhà văn không lên tiếng về một thứ văn chương gần với rác rưởi, tại sao những người phụ trách ngành văn hóa văn nghệ lại thờ ơ với tai họa và hình như lại đã có chủ trương cho phép rộng rãi.
Tôi mạn phép giải đáp:
-- Với bạn đọc trẻ VN lúc này nói chuyện lựa chọn nghiêm túc là quá xa xỉ. Chán chường trước những cái người trong nước viết thì họ tìm sách dịch. Và chán những cái dịch nghiêm túc—xa lạ và khó hiểu - thì họ tìm những cái tầm thường. Thị hiếu họ lang thang theo hướng thấp dần. Trong trường hợp này người đọc trẻ mua sách cũng đang như người Hà Nội ra chợ mua hàng Trung quốc. Biết nó chả ra gì, nhưng được cái giá rẻ. Cũng từng ấy tiền, người mình còn không làm nên cái mặt hàng coi được nữa là.
-- Về phía các nhà văn. Tại sao họ không lên tiếng ư? Họ cũng đang bí. Đã có những “nhà văn” mình xoay ra làm hàng kiểu này, nhưng có ai viết được đều đều và trở thành tác giả hẳn hoi như mấy đồng nghiệp lôm côm bên Tầu?
- Về các nhà quản lý. Họ chả có chủ trương gì rõ ràng cả. Họ chỉ lo các nhà xuất bản và các nhà sách tư nhân ra được nhiều sách và nộp thuế , thế là họ mừng rồi. Cuối năm, trong các báo cáo lên trên họ vẫn viết lại đủ thứ thành tích như các năm trước. Có ai đọc những báo cáo đó của họ mà sợ.
29-10
Chuyện cắt xén văn chương
Khi điểm lại các tài liệu liên quan đến Tự lực văn đoàn, gần đây một số nhà văn nhà báo ở hải ngoại đã lưu ý là nhiều tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng bị Hà Nội in lại với nhiều đoạn cắt xén vô lý.
Ồ chuyện gì chứ chuyện cắt xén người xưa thì dân xuất bản chúng tôi ngày trước làm như cơm bữa. Cứ gì các ông Tự lực văn đoàn, bao nhiêu ông khác lớn lao không kém cũng bị chúng tôi vầy vò.
Không biết bây giờ anh Lại Nguyên Ân có còn giữ được các bản sưu tầm các bài báo của Phan Khôi ở dạng mới chụp được ở Thư viện ra không.
Chứ như chỗ tôi nhớ, lúc làm biên tập các tập đầu của cụ Phan, in ra ở nhà xuất bản Hội nhà văn, tôi đã theo lệnh Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nguyễn Phan Hách cắt đi nhiều đoạn, nói cụ thể là những đoạn liên quan đến các nhân vật nổi tiếng và các xu thế lớn trong đời sống chính trị sau 1945.
Khôi phục lại những đoạn bị cắt ấy, tôi tin Phan Khôi sẽ hiện ra ít nhiều có khác, so với hình ảnh ông hiện nay.
Có một điều phải nói thêm là tâm lý chúng tôi khi làm cái việc nhảm nhí đó khá lạ. Giá kể ở các nước khác, người biên tập bị buộc làm việc phi pháp phải từ chức luôn mới phải. Đằng này chúng tôi rất thản nhiên, chẳng những thế, còn tự hào nữa. Tự hào là dẫu sao mình cũng đưa được ông Phan Khôi ra với mọi người. Cương với cấp trên ấy à, vứt hết.
30-10
Thế nào là con người trưởng thành?
Phần mở đầu cuốn Giáo dục nhân bản Kitô giáo của linh mục Gian B. Trần Thái Vân Nxb Tôn giáo 2012, mang tên Khái niệm về giáo dục và trưởng thành nhân bản. Sau khi bảo rằng người ta có thể kê khai những đặc tính tiêu biểu của con người trưởng thành chứ không thể thu gọn ý niệm trưởng thành vào một công thức cố định, tác giả cũng đưa ra một vài đường nét chung như là đặc điểm của con người mẫu mực
--sự tự lập
--tinh thần hiện thực
--sự thắng vượt của lý trí trên mọi bản năng, xung động và tình cảm
--sự hướng về về kẻ khác, tinh thần xã hội .
-- thế quân bình
Đặc điểm cuối cùng này – sự quân bình — theo tác giả, được coi là yếu tố quan trọng nhất của nhân cách và tác giả viết thêm Đặc điểm nổi bật nhất của nhân cách trưởng thành là sự toàn thiện và hòa hợp của mọi yếu tố làm thành một thực thể quân bình, trái ngược với sự rã rời và thác loạn của một tình trạng ấu trĩ hay bệnh hoạn. (sđd tr 9)
Tôi tự cắt nghĩa cho mình, quân bình quan trọng vì có năng lực tông hợp, thiếu nó thì từng yếu tố nói trên cũng vô nghĩa. Đòi hỏi có một nhân cách toàn thiện và hòa hợp e là cao quá. Sự quân bình ở đây luôn luôn là sự cân bằng động. Nó là nhân tố có vai trò tổ chức các nhân tố khác, do đó là nhân tố hàng đầu.
1-12
Chuyện cũ Liên xô
Quốc hội họp. Nhiều người trông chờ rồi nhiều người thắc mắc. Sao ông nghị nọ lại nói thế, trình độ ông ta đến đâu? Muốn tìm một thước đo chung về các đại biểu đó khó quá.
Để giải đáp cho một bạn trẻ thắc mắc “sao lại có tình trạng thế ”, may qúa, tôi tìm thấy một tài liệu nước ngoài, cuốn văn tuyển Lịch sử văn minh thế giới của Stravrianos, do công ty Văn Lang tổ chức và lấy giấy phép ở nxb Lao động 2006. Hai tr 411-412 sách này dành để nói về bầu cử Xô viết tối cao ở nước Nga xô viết 1958, do một người Mỹ đến thăm Moskva viết lại. Ông này thắc mắc đủ các vấn đề mà vấn đề lớn nhất là tại sao không có những cuộc tranh đua nào trong cuộc bầu. Cuối cùng ông mới vỡ nhẽ:
--Những đại diện được chọn không phải để cầm quyền. Họ được chọn vì những đóng góp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại biểu là cô gái đạt kỷ lục trong nuôi bò sữa, thợ quét sơn lành nghề, các nhà khoa học những nhà thám hiểm và những công chức cấp cao của Đảng.
Hơn năm chục năm sau, bên ta có tân trang đôi chút, nhưng cái cốt cách xưa vẫn còn, nên bàn việc nước kiểu ấy, có gì là lạ.
Tuổi già không đầu hàng
Hồi nhỏ, tôi nhớ trong Quốc văn giáo khoa thư có một bài liên quan đến người già. Đó là bài viết đại ý kể trời nhá nhem chạng vạng tối (tôi thích nhất hai chữ chạng vạng), một ông già còn hì hục lăn một hòn đá từ giữa đường vào bên lề. Ông vừa bị vấp. Ông không muốn thấy ai vấp như thế nữa.
Hôm nay, trong một buổi chiều cơn mưa vừa tạnh, tôi bắt gặp một ông già đi dọc mấy cửa hàng nhậu.Tay ông cầm một cái gậy nhỏ, đầu gậy có buộc một thỏi nam châm. Ông dùng cái gậy để nhặt những nút bia trên đường. Với mỗi nút bia nhặt được, ông cẩn thận dùng tay gạt vào một cái túi xách. Hỏi thì nghe ông bảo là ngồi buồn đi nhặt chơi thôi.
Chuyện xảy ra ở Sài Gòn, chỗ ngã ba Nguyễn Văn Đậu – Nguyễn Thượng Hiền Phú Nhuận. Ở Hà Nội chúng tôi thì không bao giờ còn những ông già như thế nữa.
Nhân hiện tượng truyện ngôn tình Trung quốc
Sự bung ra của loạt sách này làm cho một số người sốt ruột. Một vài nhà nghiên cứu có chút hàn lâm lấy làm khó hiểu nêu ra những câu hỏi. Đại loại hỏi tại sao có tình trạng đó? Tại sao lớp trẻ lại có sự lựa chọn như thế? Về khách quan tại sao các nhà văn không lên tiếng về một thứ văn chương gần với rác rưởi, tại sao những người phụ trách ngành văn hóa văn nghệ lại thờ ơ với tai họa và hình như lại đã có chủ trương cho phép rộng rãi.
Tôi mạn phép giải đáp:
-- Với bạn đọc trẻ VN lúc này nói chuyện lựa chọn nghiêm túc là quá xa xỉ. Chán chường trước những cái người trong nước viết thì họ tìm sách dịch. Và chán những cái dịch nghiêm túc—xa lạ và khó hiểu - thì họ tìm những cái tầm thường. Thị hiếu họ lang thang theo hướng thấp dần. Trong trường hợp này người đọc trẻ mua sách cũng đang như người Hà Nội ra chợ mua hàng Trung quốc. Biết nó chả ra gì, nhưng được cái giá rẻ. Cũng từng ấy tiền, người mình còn không làm nên cái mặt hàng coi được nữa là.
-- Về phía các nhà văn. Tại sao họ không lên tiếng ư? Họ cũng đang bí. Đã có những “nhà văn” mình xoay ra làm hàng kiểu này, nhưng có ai viết được đều đều và trở thành tác giả hẳn hoi như mấy đồng nghiệp lôm côm bên Tầu?
- Về các nhà quản lý. Họ chả có chủ trương gì rõ ràng cả. Họ chỉ lo các nhà xuất bản và các nhà sách tư nhân ra được nhiều sách và nộp thuế , thế là họ mừng rồi. Cuối năm, trong các báo cáo lên trên họ vẫn viết lại đủ thứ thành tích như các năm trước. Có ai đọc những báo cáo đó của họ mà sợ.
29-10
Chuyện cắt xén văn chương
Khi điểm lại các tài liệu liên quan đến Tự lực văn đoàn, gần đây một số nhà văn nhà báo ở hải ngoại đã lưu ý là nhiều tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng bị Hà Nội in lại với nhiều đoạn cắt xén vô lý.
Ồ chuyện gì chứ chuyện cắt xén người xưa thì dân xuất bản chúng tôi ngày trước làm như cơm bữa. Cứ gì các ông Tự lực văn đoàn, bao nhiêu ông khác lớn lao không kém cũng bị chúng tôi vầy vò.
Không biết bây giờ anh Lại Nguyên Ân có còn giữ được các bản sưu tầm các bài báo của Phan Khôi ở dạng mới chụp được ở Thư viện ra không.
Chứ như chỗ tôi nhớ, lúc làm biên tập các tập đầu của cụ Phan, in ra ở nhà xuất bản Hội nhà văn, tôi đã theo lệnh Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nguyễn Phan Hách cắt đi nhiều đoạn, nói cụ thể là những đoạn liên quan đến các nhân vật nổi tiếng và các xu thế lớn trong đời sống chính trị sau 1945.
Khôi phục lại những đoạn bị cắt ấy, tôi tin Phan Khôi sẽ hiện ra ít nhiều có khác, so với hình ảnh ông hiện nay.
Có một điều phải nói thêm là tâm lý chúng tôi khi làm cái việc nhảm nhí đó khá lạ. Giá kể ở các nước khác, người biên tập bị buộc làm việc phi pháp phải từ chức luôn mới phải. Đằng này chúng tôi rất thản nhiên, chẳng những thế, còn tự hào nữa. Tự hào là dẫu sao mình cũng đưa được ông Phan Khôi ra với mọi người. Cương với cấp trên ấy à, vứt hết.
30-10
Thế nào là con người trưởng thành?
Phần mở đầu cuốn Giáo dục nhân bản Kitô giáo của linh mục Gian B. Trần Thái Vân Nxb Tôn giáo 2012, mang tên Khái niệm về giáo dục và trưởng thành nhân bản. Sau khi bảo rằng người ta có thể kê khai những đặc tính tiêu biểu của con người trưởng thành chứ không thể thu gọn ý niệm trưởng thành vào một công thức cố định, tác giả cũng đưa ra một vài đường nét chung như là đặc điểm của con người mẫu mực
--sự tự lập
--tinh thần hiện thực
--sự thắng vượt của lý trí trên mọi bản năng, xung động và tình cảm
--sự hướng về về kẻ khác, tinh thần xã hội .
-- thế quân bình
Đặc điểm cuối cùng này – sự quân bình — theo tác giả, được coi là yếu tố quan trọng nhất của nhân cách và tác giả viết thêm Đặc điểm nổi bật nhất của nhân cách trưởng thành là sự toàn thiện và hòa hợp của mọi yếu tố làm thành một thực thể quân bình, trái ngược với sự rã rời và thác loạn của một tình trạng ấu trĩ hay bệnh hoạn. (sđd tr 9)
Tôi tự cắt nghĩa cho mình, quân bình quan trọng vì có năng lực tông hợp, thiếu nó thì từng yếu tố nói trên cũng vô nghĩa. Đòi hỏi có một nhân cách toàn thiện và hòa hợp e là cao quá. Sự quân bình ở đây luôn luôn là sự cân bằng động. Nó là nhân tố có vai trò tổ chức các nhân tố khác, do đó là nhân tố hàng đầu.
1-12
Chuyện cũ Liên xô
Quốc hội họp. Nhiều người trông chờ rồi nhiều người thắc mắc. Sao ông nghị nọ lại nói thế, trình độ ông ta đến đâu? Muốn tìm một thước đo chung về các đại biểu đó khó quá.
Để giải đáp cho một bạn trẻ thắc mắc “sao lại có tình trạng thế ”, may qúa, tôi tìm thấy một tài liệu nước ngoài, cuốn văn tuyển Lịch sử văn minh thế giới của Stravrianos, do công ty Văn Lang tổ chức và lấy giấy phép ở nxb Lao động 2006. Hai tr 411-412 sách này dành để nói về bầu cử Xô viết tối cao ở nước Nga xô viết 1958, do một người Mỹ đến thăm Moskva viết lại. Ông này thắc mắc đủ các vấn đề mà vấn đề lớn nhất là tại sao không có những cuộc tranh đua nào trong cuộc bầu. Cuối cùng ông mới vỡ nhẽ:
--Những đại diện được chọn không phải để cầm quyền. Họ được chọn vì những đóng góp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại biểu là cô gái đạt kỷ lục trong nuôi bò sữa, thợ quét sơn lành nghề, các nhà khoa học những nhà thám hiểm và những công chức cấp cao của Đảng.
Hơn năm chục năm sau, bên ta có tân trang đôi chút, nhưng cái cốt cách xưa vẫn còn, nên bàn việc nước kiểu ấy, có gì là lạ.
Tuổi già không đầu hàng
Hồi nhỏ, tôi nhớ trong Quốc văn giáo khoa thư có một bài liên quan đến người già. Đó là bài viết đại ý kể trời nhá nhem chạng vạng tối (tôi thích nhất hai chữ chạng vạng), một ông già còn hì hục lăn một hòn đá từ giữa đường vào bên lề. Ông vừa bị vấp. Ông không muốn thấy ai vấp như thế nữa.
Hôm nay, trong một buổi chiều cơn mưa vừa tạnh, tôi bắt gặp một ông già đi dọc mấy cửa hàng nhậu.Tay ông cầm một cái gậy nhỏ, đầu gậy có buộc một thỏi nam châm. Ông dùng cái gậy để nhặt những nút bia trên đường. Với mỗi nút bia nhặt được, ông cẩn thận dùng tay gạt vào một cái túi xách. Hỏi thì nghe ông bảo là ngồi buồn đi nhặt chơi thôi.
Chuyện xảy ra ở Sài Gòn, chỗ ngã ba Nguyễn Văn Đậu – Nguyễn Thượng Hiền Phú Nhuận. Ở Hà Nội chúng tôi thì không bao giờ còn những ông già như thế nữa.
Published on November 04, 2014 22:00
November 2, 2014
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh -- hai kiểu nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Đầu Pháp chính phủ thư tức Thư gửi toàn quyền Beau, Đông Dương chính trị luận, Thư thất điều … Lâu nay, nói tới Phan Châu Trinh, người ta thường chỉ được biết các luận văn ấy.
Song, có một tài liệu theo tôi đáng gọi là chìa khóa để đi vào hiện tượng Phan Châu Trinh, đó là bài viết Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam (tạm dịch Nước Việt Nam mới sẽ như thế nào sau khi Pháp -- Việt liên hiệp, dưới đây tôi gọi tắt là Liên hiệp hậu)
Bài này vốn có trong Phan Châu Trinh tuyển tập của Nguyễn Văn Dương, in ra ở NXB Đà Nẵng 1995; sau được Vĩnh Sính giới thiệu kỹ hơn trong một bài in trong cuốn sách Từ Đông sang Tây H.2005 và trên mạng Diễn đàn 2007 .
Theo các nhà nghiên cứu trên, Liên hiệp hậu là một bản thảo được khởi thảo vào khoảng 1910. Nội dung tác phẩm hết sức phong phú, như có đoạn nói về lịch sử giao thiệp VN với Trung Quốc, lịch sử giao thiệp giữa nước Nam với nước Pháp; nhưng nhiều phần -- mà là những phần chính có liên quan tới nội dung chính nêu trong tiêu đề -- chưa hoàn thành.
Nhưng ngay ở dạng như hiện nay thì Liên hiệp hậu vẫn là một văn bản quý, giúp hậu thế hiểu chính cương đường lối hoạt động của cụ Tây Hồ. Ngoài ra Liên hiệp hậu cũng có những phần được viết đọc rất thú vị, là phần ông nói về mình, trong sự phân biệt với Phan Bội Châu.
Khi miêu tả các nhà hoạt động xã hội, các nhà cách mạng được nhiều người biết tiếng --, các tài liệu ở ta thường chỉ đi vào khuynh hướng chính trị của người ấy. Phần cá tính bị lảng tránh.
Khi nói cá tính,ý chúng tôi muốn nói tới từ sự xuất thân, quê hương gia đình, cho tới học vấn cách biểu lộ tình cảm, cách hiểu về ý nghĩa đời sống, quan niệm về hành động về hạnh phúc của một con người.
Miễn là biết cách phân tích, người ta sẽ thấy cái phần gọi là cá tính này thực ra mang rất nhiều yếu tố xã hội.
Và đó là phương hướng chi phối cụ Tây Hồ khi viết về cụ Sào Nam .
Phan Châu Trinh viết Liên hiệp hậu sau khi ở tù ra. Ở tù sau mấy cuộc binh biến và dân biến thất bại. Ông lấy bản thân và các đồng chí ra để phân tích. Với ông, cắt nghĩa các biến động đó, cũng là một cách xác định lại đường hướng tư tưởng của mình. Người đọc cảm thấy tác giả có một sự thôi thúc muốn “gọi sự vật bằng cái tên của nó”, tức phải viết ra bằng được điều mình đã tâm niệm, để trình với lịch sử.
MỘT ĐIỂN HÌNH CỦA NGƯỜI CÁCH MẠNG ĐẦU THẾ KỶ XX
Sự sáng suốt và chừng mực của Phan Châu Trinh là ở chỗ bao giờ viết về Phan Bội Châu ông cũng theo lối đề cao chỗ mạnh chỗ khả thủ, để rồi liền sau đó mới đi vào đào cùng tát cạn nói bằng hết những nhược điểm nó là chỗ không thể chấp nhận được của đối tượng.
“ Phan Bội Châu là người rất có chí khí có nghị lực, nhẫn nhục dám làm; có điều tin vào thì không chịu bỏ, dẫu có sấm sét cũng không đổi. Nay sĩ phu khắp nước chưa ai có thể ví với ông ấy. Tiếc thay học thuật không rành, thời thế không rõ, thích dùng quyền thuật (ý nói mánh lới mưu mẹo -- VTN chú), tự dối mình dối người, ngoan cố không đổi. Lớn lời không ai bì, hãm quốc dân vào đất chết cam chịu tiếng ác mà không tự biết (Nguyễn Văn Dương Phan Châu Trinh tuyển tập, sách đã dẫn ở trên, tr 530)
Ở một đọan dưới:
“Ông ấy là người khẳng khái dám làm, không kể thân mình, sức tự tin rất sâu, hễ cho là phải thì sống chết không đổi …Nhưng ông ấy cậy sức làm bậy, sẵn lòng giết người cố chấp theo ý mình, xem người đều không bằng ta (tlđd, tr 542).
Có mấy điều Phan Châu Trinh hẳn đã tự lưu ý khi viết những đoạn này.
Thứ nhất luôn luôn nhấn mạnh rằng ông rất thân, rất quyến luyến Phan Bội Châu.
Thứ hai theo Phan Châu Trinh, những đức tính trên, cả hay lẫn dở, cũng như mọi đức tính khác của Phan Bội Châu đều là tiêu biểu cho dân VN.
Đã có một sự giải phóng về tư tưởng. Tác giả vượt lên những thói thường của những người cùng hoạt động giữ ý với nhau, cốt “dĩ hòa vi quý“ xuê xoa che giấu cho nhau.
Chẳng những thế, ông còn biết mang lại cho nhận thức của mình một ý nghĩa có liên quan tới cả xã hội. Khi đã hiểu “có nói gì về Phan Bội Châu cũng là vì cái chung”, ông càng tự tin trên đường tìm tới bản chất của hiện tượng.
Ông gọi Phan Bội Châu là ngông cuồng.
Ông nói thẳng Phan Bội Châu không hiểu gì về thời thế, “không có phương châm gì“, hành động thì “chạy bậy ra nước ngoài”, phát ngôn thì “bậy bạ” ( tr. 514)
Ông đưa ra một sự thực -- Phan Bội Châu đọc sách rất ít, nhất là những sách mới. Khi miêu tả rằng có nhiều việc Phan Bội Châu biết rằng thất bại vẫn làm, ông phanh phui động cơ hành động của Phan Bội Châu là “lợi dụng chỗ kém của quốc dân để làm rõ cái hay của mình”
Phi Phan Châu Trinh thì không ai dám nói rằng trong việc xúi người khác xông lên, đẩy người khác vào nơi chết chóc, Phan Bội Châu đã hiện ra như một người tàn ác “đến giết hết cả giống nòi mà chưa thôi” (tr 532). Đây là một điều Phan Sào Nam thật không ngờ, vì không bao giờ đương sự có khả năng tự tách ra, đứng ngoài khách quan mà xét đoán mình, luận tội mình.
KHÁC BIỆT ĐẾN ĐỐI LẬP
Nghiên cứu lịch sử VN thế kỷ XX cũng như cả các thế kỷ trước, người ta dễ nhận thấy một sự thực. Người Việt ta thích làm hơn thích nghĩ. Xã hội ta được thúc đẩy không phải bởi các nhà tư tưởng mà bởi các nhà hành động. Dù có thất bại -- Phan Bội Châu là một ví dụ -- thì loại người hành động này cũng vẫn được ca tụng. Và các nhà làm sử hôm nay cũng đã viết sử theo hướng đó.
Nhưng với tư cách những con người của cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, các thế hệ trẻ hơn phải có cái nhìn khác.
Trong khi trở lại với các nhân vật lịch sử, chúng ta không thể chỉ biết chăm chăm nói theo người xưa, mà phải có cách đánh giá của mình.
Với những con người hành động xốc nổi, thực tế là hành động không cần suy nghĩ, hay chỉ biết suy nghĩ theo kiểu cũ, phải chỉ ra được thất bại là đương nhiên.
Với những thành công, phải phân biệt đó chỉ là những thành công tạm thời hay là những thành công có ý nghĩa lâu dài.
Tiếp theo thành công tạm thời là những tai họa. Chỉ những thành công theo đúng những quy luật của lịch sử hiện đại mới có khả năng mở ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển của dân tộc.
May mắn thay là Phan Châu Trinh đã bắt đầu suy nghĩ theo lối này. Cả trong cách nhìn người lẫn cách quan niệm về hướng đi tới của đất nước, ông đều đạt tới tầm tư duy hiện đại.
Ông từng so sánh mình và nhân vật song đôi của mình – mà ông gọi là hai người thuộc hai đảng -- , ở từng việc một.
“Bội Châu không xét thời thế, không kể lợi hại mà chủ trương bài Pháp thì thủ đoạn không thể không do bạo động mà ra.
Bạo động ắt thất bại và ắt chết. Dân biết cái thế ắt thất bại ắt chết thì ắt không theo. Cho nên[ phải tính chuyện -- VTN thêm cho lọn nghĩa ] lợi dụng cái ngu của dân, lợi dụng dân không có đường sống [ mà rủ rê lôi kéo họ].
Đã lợi dụng dân ngu không có đường sống, cho nên không nói khai trí trị sinh; cho nên hội học hội diễn thuyết hội buôn không cần lập, sợ rằng dân khôn, dân không có đường sống thì ắt không nghe lời ông ấy.
Đã chủ trương bạo động thì cái thế lợi dụng phải mờ ám, cho nên sự vận động của đảng ấy đều là làm giấu, là rủ rê các kẻ ngu trong dân để lấy tiền mà người và việc đều không xuất hiện cho nên xét nó khó.
Vả lại đảng ấy đã lợi dụng cái ngu của dân mà thủ đoạn lợi dụng mờ ám cho nên kẻ theo phần nhiều đều là bọn du đãng, thấy lợi quên chết. Còn trung lưu trong xã hội thì không có [ có lẽ là không quá – VTN chú] một vài người, mà đều là người ngoan cố, vô học, mờ ám vì thời cuộc, không đáng đếm xỉa đến.
Còn về phần mình
Tôi đã chủ trương cậy Pháp, thì thủ đoạn không thể không do tự trị mà ra.. Tự trị cũng chẳng là việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng chết. Nếu không phải là kẻ chí sĩ yêu nước không kể sống chết lại hiểu rõ thời thế thì không dám làm theo.
Cho nên lợi cho trí dân, lợi cho dân có đường sống.
Đã lợi trí, lợi có đường sống cho nên không thể không nói khai trí trị sinh; cho nên cái thế là không thể không lập nhiều hội học, hội diễn thuyết, hội buôn.
Bởi vì trông dân có trí, dân có đường sống, sau đó tôi có nói ra, họ mới nghe theo. Cho nên cái chủ nghĩa kia đã chủ trương tự trị thì thế lợi dụng phải rõ ràng, cho nên sự vận động của đảng tôi toàn là tụ tập dân chúng, đường đường chính chính diễn thuyết, họp chí sĩ, khảo cứu chính trị thời thế, ăn to nói lớn, người và việc ai nấy đều thấy, cho nên xét nó rất dễ. Chủ nghĩa của tôi đã lợi dụng dân trí, thủ đoạn lợi dụng rõ ràng cho nên những kẻ nghe theo đều là người đọc sách biết lẽ, vì nước quên mình … “ ( tlđd, tr. 544-545)
Một bên thì duy ý chí, cốt làm lấy được điều muốn làm, “lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện”, đi tới nhiều chỗ mờ ám, và chỉ khai thác được cái phần kém cỏi trong cộng đồng cũng như trong mỗi người. Bên kia thì đàng hoàng minh bạch, hướng về trí tuệ về ánh sáng, đặt ra yêu cầu cao với những người dân , khi họ chưa hiểu quyết không manh động.
TẠI SAO CỤ SÀO NAM ĐƯỢC CÁC NHÀ SỬ HỌC HIỆN THỜI CA TỤNG
TRONG KHI CỤ TÂY HỒ BỊ PHÊ PHÁN?
Giả sử bây giờ tôi kê ra những đặc tính để làm nên tính cách một nhà hoạt động xã hội ở ta:
--Yêu nước thương nòi, có chí khí có nghị lực, dám hành động nhưng lười đọc sách, không chịu suy nghĩ về các vấn đề lớn của xã hội, chỉ nghĩ về những hiệu quả trước mắt.
-- Không phải là giỏi lý thuyết mà chỉ tài về phương diện sách động, tức dùng khẩu thuật để mê hoặc lòng người
-- Sẵn sàng xô đẩy đám đông vào chỗ chết, cốt đạt đến mục đích của mình. Nếu người ta có chết thì lại xụt xịt thương khóc, gọi người ta là anh hùng, lấy đó làm tấm gương cho người khác noi theo.
và bảo rằng đó chính là chân dung cách mạng đầu thế kỷ XX, chắc nhiều người sẽ cho là tôi chỉ có cách nhìn phiến diện.
Song sự thực – như trên các bạn vừa đọc -- đó là những nét chủ yếu làm nên chân dung một người chúng ta hết sức yêu kính là Phan Bội Châu qua cách cảm nhận của một người chúng ta cũng hết sức yêu kính là Phan Châu Trinh.
Trong con mắt của các sử gia Hà Nội, Phan Bội Châu lâu nay được đặc biệt ca ngợi, còn Phan Châu Trinh thì bị phê phán rất nhiều. Phê là cải lương, là ngây thơ quá tin tưởng ở thực dân Pháp. Từ ngòi bút của những sử gia có nghiên cứu hơn một chút, thì di sản của Phan Châu Trinh không dùng được vì cải lương thỏa hiệp, đặt nặng việc nâng cao dân trí…ngược với chủ trương của cách mạng về sau là bạo lực.
Nay tôi mới hiểu thêm cái chính là các nhà cách mạng về sau, rất gần với con người Phan Bội Châu mà trên đây Phan Châu Trinh đã miêu tả. Còn Phan Châu Trinh thì hoàn toàn là một típ người khác. Nhưng để chứng minh được nhận xét trên một cách thuyết phục, còn phải nghiên cứu nhiều.
MỘT BÀI THƠ MINH HỌA
Trong đoạn văn miêu tả Phan Bội Châu của Phan Châu Trinh nói trên, có một khía cạnh cần dừng lại kỹ.
Đó là phát hiện của cụ Tây Hồ về cái cách của cụ Sào Nam “lợi dụng chỗ kém của quốc dân để làm rõ cái hay của mình”, cụ thể là xúi người khác xông lên, đẩy người khác vào nơi chết chóc. Do đó, khách quan mà xét, có thể bảo Phan Bội Châu là một người tàn ác dám nhân danh mục đích cao cả làm những việc hao người tốn của tai hại tới mức “đến giết hết cả giống nòi mà chưa thôi”.
Có thể gọi cái chất mà cụ Tây Hồ nhìn thấy ở cụ Sào Nam là tài sách động của nhà cách mạng khi đi vào thực tế để vận động quần chúng.
Điều này nhiều người đã biết, nhưng chỉ Phan Châu Trinh mới nói, mới coi là quan trọng cần phải nói. Đương thời, Phan Bội Châu nổi tiếng với khả năng dùng tình cảm để lôi cuốn người khác hoạt động theo ý đồ của mình. Khi họ chết, ông sẵn sàng viết ra những bài ca tụng công lao của họ và lấy đó làm đủ, vừa xong người này,lại lao vào những cuộc vận động lôi cuốn người khác.
Không phải tới thời hiện đại, người ta mới đặt vấn đề này.
Trong Luận ngữ ở chương XIII ( mang tên Tử Lộ) có đoạn 30.
“Tử viết : Dĩ bất giáo dân chiến, thị vị khí chi.”
Nguyễn Hiến Lê đã dịch là Khổng tử bảo: Đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc tức là bỏ dân (Luận ngữ bản của nhà Văn học, 1995, tr 227.
Hoàng Văn Thư ( Tứ thư, nxb Văn hóa thông tin, 2003, tr 109), dịch hơi khác đi một chút nhưng theo tôi là rõ hơn:
“Thầy nói không dạy dân mà bắt dân đi đánh giặc là đưa họ đến chỗ chết mà thôi.”
Cũng không phải chỉ ở Việt Nam người ta mới thấy có hiện tượng này.
Trên báo Văn nghệ khoảng 1967-68, Xuân Diệu đã dịch và cho in bài thơ sau đây -- tôi không nhớ chính xác số báo,không tra cứu được, chỉ chép lại từ sổ tay.
Có lẽ vì nội dung của nó hơi lạc lõng so với tinh thần thời đại mà Xuân Diệu về sau không lấy lại để đưa vào sách nào cả.
Nhưng tôi thấy nên giới thiệu lại với bạn đọc.
Bài thơ như là tiếng nói của những người trong chiến tranh đã lao vào chỗ chết mà không được chuẩn bị tương xứng, chẳng qua họ chỉ hành động theo lời khuyến nghị của những nhà chỉ huy giỏi sách động. Bảo họ là nạn nhân của những người chỉ huy ấy cũng không sai.
Người anh hùng nói
Felik Pollak nhà thơ Mỹ- 1909-1987
Tôi đã không chịu đi
Chúng bắt tôi vào quân dịch
Tôi đã không muốn chết
Chúng gọi tôi là nhát hèn
Tôi đã tìm cách trốn
Chúng mang tôi ra tòa án binh
Tôi đã không nổ súng
Chúng bảo tôi là không có thớ
Chúng mở cuộc xuất kích
Một viên đạn ngấu nát ruột tôi
Tôi đau quá khóc lên
Chúng đưa tôi vào hầm trú ẩn
Trong hầm tôi đã chết
Chúng lặng lẽ chào tôi
Chúng đã gạch tên tôi
Và chôn tôi dưới một cây thánh giá
Chúng đọc điếu văn trong thành phố tôi sinh
Tôi không thể kêu lên là chúng nói dối
Chúng nói tôi đã cống hiến đời mình
Tôi thì cố mà giữ lại
Chúng nói chúng tự hào về tôi
Tôi thì đã xấu xa đi vì chúng
Tôi đã muốn sống còn
Chúng gọi tôi hèn nhát
Tôi đã chết hèn nhát
Chúng gọi tôi anh hùng
Nguyên là bài
Cụ Sào Nam trong cái nhìn cụ Tây Hồ, một chìa khóa để đi vào hiện tượng Phan Châu Trinh
Đã in trên blog này 06-04-2011, mới bổ sung hai đoạn cuối
Published on November 02, 2014 21:36
October 29, 2014
Đâu là nguyên nhân mọi yếu kém của người Việt ?
Trên FB Nhân Thế Hoàng, hôm nay 30-10-2014, tôi đọc thấy đoạn văn sau đây:
Nhiều bạn bè trong nước cứ chê rằng: Người Việt mình xấu
xí, lười nhác, giỏi làm thầy hơn làm thợ nên đất nước mới không phát triển chứ
không phải do đường lối chính sách, vì đường lối chính sách đưa ra là đúng chỉ do
người thực hiện không làm đúng theo chỉ thị mà thôi.
Cái này là điệp khúc mà mấy bạn trẻ cuồng đảng hay phát ngôn để bảo vệ khi có ý
kiến trái chiều chê trách về các vấn đề xã hội hay tình trạng bê bết của nền
kinh tế hiện nay.
Thế bạn có biết, cũng là người Việt nhưng năng suất lao
động của 3 triệu người Việt ở Mỹ tương đương với năng suất lao động của 90 triệu
người Việt trong nước hay không? Con số 100 tỷ USD tạo ra hằng năm của 3 triệu
người Việt ở Mỹ đã nói lên điều đó, điều này chứng minh người Việt không thua
kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới về độ thông minh, cần cù, chịu khó, chỉ là
do bị kèm cặp quá nên 90 triệu người trong nước mới làm việc kém năng suất và
hiệu quả như vậy. Người xưa có câu: "Cây quýt trồng ở đất này thì ngọt mà
mang sang đất khác thì chua", và lạ thay cây quýt Việt thường chua ở xứ
mình nhưng lại ngọt ở xứ người!
Xin ghi nhanh ở đây mấy suy nghĩ của bản thân tôi về chuyện này:
Lịch
sử vấn đề
Nhiều thói hư tật xấu ở
người Việt mà chúng ta mới phát hiện, theo tôi, đã có từ thời trung đại, từ thế
kỷ XIX về trước.
Khi làm chuyên mục những lời cảnh tỉnh của người xưa, đăng
trên TTVH hồi 2005-2007 và sau có đưa vào blog cá nhân, tôi chủ yếu lấy ý kiến
của các nhà trí thức VN đầu thế kỷ XX.
Đối tượng phê phán của
họ là cách sống cách suy nghĩ làm ăn của người Việt trước khi bước sang thời hiện
đại, tức là trước khi chuyển qua thời Pháp thuộc. Bản thân các trí thức này sở
dĩ có cái nhìn sáng suốt đó cũng là sau
khi theo học ở các nhà trường người Pháp mới mở, có được cách nhìn cách nghĩ của
phương Tây.
Từ sau 1945, yếu tố tự
phê phán trong tư duy người Việt ngày càng thui chột, các trí thức được đào tạo
sau cách mạng khi suy nghĩ về người Việt chủ yếu làm nổi bật các mặt tích cực
trong tính cách người Việt. Để làm gì? Để động viên người ta đi đánh giặc.Vì cái mục đích cao cả nhưng lại thiển cận ấy, cho phép mình khen lu bù, "khen cho nó chết", không cần biết hậu quả sẽ tới.
Trong và sau chiến tranh, nhiều thói xấu cũ của
người Việt càng cô kết đậm đà sâu sắc hơn, người ta lại hay giở lý ra để tự biện
hộ. Chỉ đến khi bắt tay vào việc làm ăn sinh sống theo nhịp sống bình thường, gặp
nhiều cú sứt đầu mẻ trán, thì cái nhu cầu tự phê phán kia mới trở lại.
Nhưng dùng lại một câu trong Truyện Kiều -- rằng quen mất nết đi rồi, -- chúng ta thiếu hẳn những nhà nghiên cứu
nhìn sâu vào các quá trình tâm lý xã hội
và xem xét sự phát triển của cộng đồng trong chiểu dài lịch sử, đối chiếu với
những chuẩn mực phổ quát của con người hiện đại, từ đó làm cuộc phân tích toàn
diện để giúp cho cả cộng đồng có được một cuộc tự nhận thức chính xác.
Các lời
bàn cãi hiện nay còn loanh quanh và thiếu sức thuyết phục, nhiều khi lại đi lạc hướng.
Tại
sao lại có hiện tượng ở trong nước thì dở, ra nước ngoài mới tử tế?
Dẫn chứng mà bạn Nhân
Thế Hoàng nêu lên là không thể cãi được.Theo tôi nó chỉ chứng tỏ, cái hay cái tốt
ở người mình không bền chắc. Chỉ khi bị buộc phải làm theo sự chỉ đạo của người
khác, chúng ta mới dứt bỏ được thói quen cố hữu từ ngàn đời ông cha để lại để
có thể sống và làm việc như mọi con người tử tế khác trên thế giới.
Chính trường hợp 3 triệu
người VN ở Mỹ mà bạn Hoàng nêu là nằm trong hoàn cảnh đó.
Trở lại với đầu thế kỷ XX.
Tôi nói điều sau đây với tâm lý rất ngần ngại – nó đi ngược với những điều tôi
cùng với mọi người quen cho là như vậy nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy không tự bác
bỏ được nên buộc phải nói -- đó là,
chính do sự bảo trợ của người Pháp, sống trong một nhà nước do người Pháp quản
lý, mà người Việt có được sự thay đổi trong tính cách và có những bộ phận đạt
được cách sống cách suy nghĩ trình độ làm việc của con người hiện đại.
Kết luận tạm thời của
tôi: chúng ta là một cộng đồng kém về năng lực tự quản lý. Trong những điều mà
chúng ta học được từ văn hóa Trung Hoa, cái chúng ta học được ít nhất là văn hóa
tổ chức xã hội, văn hóa quyền lực. Cai trị học – bên Trung quốc người ta gọi là
trị
quốc chi đạo -- là cả một vấn đề lớn, muốn có kết luận
thuyết phục cần trở lại với các tài liệu lịch sử, phải nhiều người mới làm được, tôi chỉ nêu sơ sơ như vậy.
Dưới đây để chứng minh cho ý kiến trên, tôi lấy thêm một số ví dụ không phải trong khu vực chính trị mà chỉ là trong phạm vi đời
sống thông thường.
Trong thế kỷ XX,
chúng ta bắt đầu có những nhà khoa học tự nhiên đạt chuẩn quốc tế. Nhưng nhìn
vào tiểu sử của họ ta thấy ngay không người nào trong họ là không trải qua việc
một thời gian dài học ở nước ngoài. Thực tế VN, nền giáo dục VN không thể đào tạo
ra họ. Ngô Bảo Châu – cũng như Tôn Thất Tùng, Trần Đức Thảo trước kia -- không chỉ là hiện tượng của văn
hóa VN mà còn là hiện tượng của văn hóa Tây phương, trước tiên là văn hóa Pháp.
Sao ta lại cứ cố quên như vậy?
Trong phạm vi hướng
nghiệp cho con em trong các gia đình bình thường, chị Phương Quỳnh bạn tôi có lần
kể cho tôi chuyện sau.
-- Con mình học khá giỏi, nhưng đi làm cho các ông chủ
trong nước một hồi, thấy đằng nào cũng chết.
Làm cho nhà nước thì gặp toàn những
ông dốt, lại còn cái lối phong kiến cổ lỗ, coi bọn mới ra trường như kẻ ăn
người ở, chuyên sai vặt.
Làm cho tư nhân - nhất là tư nhân xuất thân Hà Nội - cũng phần lớn là bọn trương ra cái biển
thật to để dọa thiên hạ, chưa làm đã lo buôn lậu với lại đi hối lộ cấp trên
cùng là sẵn sàng cạnh tranh với các đồng nghiệp bằng mọi thủ đoạn man rợ.
Và Phương Quỳnh khuyên:
-- Các cậu
có con bây giờ thì phải tính trước đi, cố
hướng con cái kiếm được việc cho các hãng nước ngoài, ở đó cắn răng mà học lấy
nghề thì mới nên người được.
Vài điều tôi tạm rút ra cho mình:
+ Xã hội VN từ nhiều thế kỷ nay chỉ được tổ chức
theo những nguyên tắc quá đơn giản. Việc quản lý con người theo nghĩa đầy đủ nhất của chữ này chưa bao giờ được
coi như một nghiệp vụ mà người ta phải học hỏi mới làm được. Cái khó nhất với nhiều người Việt có năng lực là tìm ra ông chủ xứng đáng với mình.
+ Chính vì chúng ta không có những nhà quản lý giỏi,
những ông chủ giỏi mà mọi nghề nghiệp trong xã hội đều cứ mãi mãi lạc hậu, và
trước mắt chỉ đi làm ăn dưới quyền chỉ đạo của người nước ngoài, ta mới khá lên
được.
+Chỉ lúc đó, ta mới có quyền tự hào. Chỉ lúc đó, dân
ta mới sửa được những tính xấu cố hữu như lười biếng dối trá ăn cắp …và – cho tôi bổ sung thêm một thói xấu nữa -- là chỉ giỏi
cãi bừa cãi sằng, hễ ai động vào tử huyệt của mình là chửi người ta thiếu thiện
chí.
Nhiều bạn bè trong nước cứ chê rằng: Người Việt mình xấu
xí, lười nhác, giỏi làm thầy hơn làm thợ nên đất nước mới không phát triển chứ
không phải do đường lối chính sách, vì đường lối chính sách đưa ra là đúng chỉ do
người thực hiện không làm đúng theo chỉ thị mà thôi.
Cái này là điệp khúc mà mấy bạn trẻ cuồng đảng hay phát ngôn để bảo vệ khi có ý
kiến trái chiều chê trách về các vấn đề xã hội hay tình trạng bê bết của nền
kinh tế hiện nay.
Thế bạn có biết, cũng là người Việt nhưng năng suất lao
động của 3 triệu người Việt ở Mỹ tương đương với năng suất lao động của 90 triệu
người Việt trong nước hay không? Con số 100 tỷ USD tạo ra hằng năm của 3 triệu
người Việt ở Mỹ đã nói lên điều đó, điều này chứng minh người Việt không thua
kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới về độ thông minh, cần cù, chịu khó, chỉ là
do bị kèm cặp quá nên 90 triệu người trong nước mới làm việc kém năng suất và
hiệu quả như vậy. Người xưa có câu: "Cây quýt trồng ở đất này thì ngọt mà
mang sang đất khác thì chua", và lạ thay cây quýt Việt thường chua ở xứ
mình nhưng lại ngọt ở xứ người!
Xin ghi nhanh ở đây mấy suy nghĩ của bản thân tôi về chuyện này:
Lịch
sử vấn đề
Nhiều thói hư tật xấu ở
người Việt mà chúng ta mới phát hiện, theo tôi, đã có từ thời trung đại, từ thế
kỷ XIX về trước.
Khi làm chuyên mục những lời cảnh tỉnh của người xưa, đăng
trên TTVH hồi 2005-2007 và sau có đưa vào blog cá nhân, tôi chủ yếu lấy ý kiến
của các nhà trí thức VN đầu thế kỷ XX.
Đối tượng phê phán của
họ là cách sống cách suy nghĩ làm ăn của người Việt trước khi bước sang thời hiện
đại, tức là trước khi chuyển qua thời Pháp thuộc. Bản thân các trí thức này sở
dĩ có cái nhìn sáng suốt đó cũng là sau
khi theo học ở các nhà trường người Pháp mới mở, có được cách nhìn cách nghĩ của
phương Tây.
Từ sau 1945, yếu tố tự
phê phán trong tư duy người Việt ngày càng thui chột, các trí thức được đào tạo
sau cách mạng khi suy nghĩ về người Việt chủ yếu làm nổi bật các mặt tích cực
trong tính cách người Việt. Để làm gì? Để động viên người ta đi đánh giặc.Vì cái mục đích cao cả nhưng lại thiển cận ấy, cho phép mình khen lu bù, "khen cho nó chết", không cần biết hậu quả sẽ tới.
Trong và sau chiến tranh, nhiều thói xấu cũ của
người Việt càng cô kết đậm đà sâu sắc hơn, người ta lại hay giở lý ra để tự biện
hộ. Chỉ đến khi bắt tay vào việc làm ăn sinh sống theo nhịp sống bình thường, gặp
nhiều cú sứt đầu mẻ trán, thì cái nhu cầu tự phê phán kia mới trở lại.
Nhưng dùng lại một câu trong Truyện Kiều -- rằng quen mất nết đi rồi, -- chúng ta thiếu hẳn những nhà nghiên cứu
nhìn sâu vào các quá trình tâm lý xã hội
và xem xét sự phát triển của cộng đồng trong chiểu dài lịch sử, đối chiếu với
những chuẩn mực phổ quát của con người hiện đại, từ đó làm cuộc phân tích toàn
diện để giúp cho cả cộng đồng có được một cuộc tự nhận thức chính xác.
Các lời
bàn cãi hiện nay còn loanh quanh và thiếu sức thuyết phục, nhiều khi lại đi lạc hướng.
Tại
sao lại có hiện tượng ở trong nước thì dở, ra nước ngoài mới tử tế?
Dẫn chứng mà bạn Nhân
Thế Hoàng nêu lên là không thể cãi được.Theo tôi nó chỉ chứng tỏ, cái hay cái tốt
ở người mình không bền chắc. Chỉ khi bị buộc phải làm theo sự chỉ đạo của người
khác, chúng ta mới dứt bỏ được thói quen cố hữu từ ngàn đời ông cha để lại để
có thể sống và làm việc như mọi con người tử tế khác trên thế giới.
Chính trường hợp 3 triệu
người VN ở Mỹ mà bạn Hoàng nêu là nằm trong hoàn cảnh đó.
Trở lại với đầu thế kỷ XX.
Tôi nói điều sau đây với tâm lý rất ngần ngại – nó đi ngược với những điều tôi
cùng với mọi người quen cho là như vậy nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy không tự bác
bỏ được nên buộc phải nói -- đó là,
chính do sự bảo trợ của người Pháp, sống trong một nhà nước do người Pháp quản
lý, mà người Việt có được sự thay đổi trong tính cách và có những bộ phận đạt
được cách sống cách suy nghĩ trình độ làm việc của con người hiện đại.
Kết luận tạm thời của
tôi: chúng ta là một cộng đồng kém về năng lực tự quản lý. Trong những điều mà
chúng ta học được từ văn hóa Trung Hoa, cái chúng ta học được ít nhất là văn hóa
tổ chức xã hội, văn hóa quyền lực. Cai trị học – bên Trung quốc người ta gọi là
trị
quốc chi đạo -- là cả một vấn đề lớn, muốn có kết luận
thuyết phục cần trở lại với các tài liệu lịch sử, phải nhiều người mới làm được, tôi chỉ nêu sơ sơ như vậy.
Dưới đây để chứng minh cho ý kiến trên, tôi lấy thêm một số ví dụ không phải trong khu vực chính trị mà chỉ là trong phạm vi đời
sống thông thường.
Trong thế kỷ XX,
chúng ta bắt đầu có những nhà khoa học tự nhiên đạt chuẩn quốc tế. Nhưng nhìn
vào tiểu sử của họ ta thấy ngay không người nào trong họ là không trải qua việc
một thời gian dài học ở nước ngoài. Thực tế VN, nền giáo dục VN không thể đào tạo
ra họ. Ngô Bảo Châu – cũng như Tôn Thất Tùng, Trần Đức Thảo trước kia -- không chỉ là hiện tượng của văn
hóa VN mà còn là hiện tượng của văn hóa Tây phương, trước tiên là văn hóa Pháp.
Sao ta lại cứ cố quên như vậy?
Trong phạm vi hướng
nghiệp cho con em trong các gia đình bình thường, chị Phương Quỳnh bạn tôi có lần
kể cho tôi chuyện sau.
-- Con mình học khá giỏi, nhưng đi làm cho các ông chủ
trong nước một hồi, thấy đằng nào cũng chết.
Làm cho nhà nước thì gặp toàn những
ông dốt, lại còn cái lối phong kiến cổ lỗ, coi bọn mới ra trường như kẻ ăn
người ở, chuyên sai vặt.
Làm cho tư nhân - nhất là tư nhân xuất thân Hà Nội - cũng phần lớn là bọn trương ra cái biển
thật to để dọa thiên hạ, chưa làm đã lo buôn lậu với lại đi hối lộ cấp trên
cùng là sẵn sàng cạnh tranh với các đồng nghiệp bằng mọi thủ đoạn man rợ.
Và Phương Quỳnh khuyên:
-- Các cậu
có con bây giờ thì phải tính trước đi, cố
hướng con cái kiếm được việc cho các hãng nước ngoài, ở đó cắn răng mà học lấy
nghề thì mới nên người được.
Vài điều tôi tạm rút ra cho mình:
+ Xã hội VN từ nhiều thế kỷ nay chỉ được tổ chức
theo những nguyên tắc quá đơn giản. Việc quản lý con người theo nghĩa đầy đủ nhất của chữ này chưa bao giờ được
coi như một nghiệp vụ mà người ta phải học hỏi mới làm được. Cái khó nhất với nhiều người Việt có năng lực là tìm ra ông chủ xứng đáng với mình.
+ Chính vì chúng ta không có những nhà quản lý giỏi,
những ông chủ giỏi mà mọi nghề nghiệp trong xã hội đều cứ mãi mãi lạc hậu, và
trước mắt chỉ đi làm ăn dưới quyền chỉ đạo của người nước ngoài, ta mới khá lên
được.
+Chỉ lúc đó, ta mới có quyền tự hào. Chỉ lúc đó, dân
ta mới sửa được những tính xấu cố hữu như lười biếng dối trá ăn cắp …và – cho tôi bổ sung thêm một thói xấu nữa -- là chỉ giỏi
cãi bừa cãi sằng, hễ ai động vào tử huyệt của mình là chửi người ta thiếu thiện
chí.
Published on October 29, 2014 21:38
October 27, 2014
Ghi chép trong tuần ( 20-26/10/2014)
21-10
Tuổi già xứ mình
Trang viet-studies mấy hôm trước in bài Tuổi già là thời sung sướng nhất. Đọc vào thì thấy người già ở xứ
người --kể cả người Việt-- sao mà dễ sống. Luôn luôn họ tìm được sự bằng lòng. Mọi cái ở nơi khác
coi là bất hạnh – chẳng hạn vợ chồng về già còn ly dị -- cũng được các vị ấy “tiêu
hóa” một cách dễ dàng.
Tôi ước ao có một ai đó ngồi tổng kết về
tuổi già ở xứ mình.
Trong một phản ứng tức thì, tôi chỉ thấy rằng
người già ở trong nước đang rất khổ với nghĩa cả khi về già có được đời sống tạm đủ ăn,
thì cũng luôn có gì đó như là bất mãn. Thấy tiếc quãng đời trẻ, muốn truy lĩnh
muốn hưởng thụ bù vào những ngày lê lết trong khốn khổ. Lại có đôi người tự thấy rằng năng lực của mình chưa được thể hiện hết, nay
lao ra hoạt động còn năng nổ hơn trước, và hoạt động nhiều khi khá kệch cỡm. Trong khi đó, ngoảnh lại nhìn những người
thân trong gia đình, thấy ngạc nhiên. Sao mình lại có thể chung sống hàng bao
nhiêu năm với người chồng hay người vợ như thế này? Đứa con nay đã trưởng thành
này có phải là đứa nhỏ mà xưa kia mình đã từng chăm bẵm? Có cái bực bội nó khiến người ta muốn thoát sớm
cho rảnh. Ngay lúc ấy lại có cái tỉnh táo tin rằng chả làm sao trốn khỏi cuộc
đời này…Tuổi già là trong ê chề, tuổi già là trong bất lực.
22-10
Đưa tin về hội thảo
Khi
đưa tin các cuộc hội thảo của giới văn học
nghệ thuật ở ta, nhiều tờ báo có lối hết sức tắc trách là chỉ đưa mấy dòng vắn
tắt, còn trong hội thảo những người tham gia nói gì không ai được biết. Một việc cũng buồn cười nữa là trong hội thảo
đó, có những nhà chuyên môn nào không được
báo nói tới, trong bài báo chỉ thấy xuất
hiện mấy cái tên lạ. Tên những nhà quản lý đã tới, dù có khi họ chỉ tới để nói mấy câu lất phất.
Báo Tuổi
trẻ hôm nay đưa tin vừa có cuộc họp để bàn về giải pháp chống ngập ở một số
địa điểm, trong cuộc họp đó cấp trên của
thành phố đã tính là sẽ “lo mời các nhà
khoa học tham gia”. Đọc đến đấy tôi cứ tự nghĩ, thế hóa ra lâu nay các ông chỉ tự
mình nghĩ rồi tự mình lệnh cho cấp dưới làm, chưa bao giờ cần để ý gì tới các chuyên gia sao? Thả
nào …
23
– 10
Một thoáng liên tưởng
Một
mẩu tin ngắn về biểu tình ở Hồng Kông tóm gọn như sau: Với các quan chức Bắc
Kinh, “một đất nước” là ưu tiên then chốt. Còn với đa số người Hồng Kông, “hai
chế độ” là điều họ quan tâm nhất.
Liên
hệ tới hoàn cảnh nước mình. Nhớ cái câu tiêu đề trên mọi đơn từ bọn tôi viết hồi
nhỏ “Việt Nam dân chủ cộng hòa” rồi nhớ tới tình hình dân chúng hiện nay. Có vẻ
như cũng có một tình hình tương tự. Sáu bẩy chục năm nay, cấp trên thì chỉ nghĩ
đến hai chữ Việt Nam. Còn với nhân dân, càng ngày họ càng thấy mấy chữ dân chủ cộng hòa mới là thiết
yếu. Với cả hôm nay và ngày mai.
24-10
Nguyễn Huy Tưởng và những tư tưởng
Nhân văn Giai phẩm
Nhân
có Đèn cù, tôi tẩn mẩn giở mấy cuốn hồi ký của các tác giả khác ra đọc, và dừng lại lâu hơn một chút ở Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng, nhất
là đoạn 1956-57. Hóa ra, không chỉ có mấy ông sau này mắc nạn đã viết ra những
thứ in trong Nhân Văn Giai phẩm mà hồi
ấy bao nhiêu người đã nghĩ thế, chẳng qua họ có công khai nói ra hay không.
Tới hồi chống Mỹ, nhiều người còn nói vào tai
tôi, với cái tính thẳng thắn của mình, chắc ông Nam Cao lúc ấy còn sống thì cũng dám chơi lắm. May ra thì cũng chỉ làm như ông Nguyên Hồng. Nghĩa là bỏ đi đâu đó, chứ không thể chịu cái cảnh này được.
Đối
chiếu những variant ( bản in khác
nhau )của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đầu
1957, lại thấy giữa bản của nhà Thanh niên 2006 -- được coi là hoàn chỉnh
nhất, với mấy trang rời in trên một số của
tạp chí Đất Quảng 1990, có những đoạn mà năm 1990 đã in, tới 2006, bị
cắt bỏ hoàn toàn.
Sau đây là đoạn nhật ký 17-2-57, liên quan
không chỉ tới họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, mà còn là với những vấn đề lớn như đường lối
quần chúng trong văn nghệ , hoặc cách thức lãnh đạo chỉ đạo của Tố Hữu lúc đó.
Những dòng in đậm là những dòng vốn đã in ra 1990, nay đến 2006, bị tước bỏ.
Anh em văn nghệ rất khó chịu vì bài của Nguyễn Đỗ Cung. Cung thẹn vì đã học mỹ
thuật Pháp, nói không cần kỹ thuật, quần chúng là quyết định.
Thảm hại cho người nghệ sĩ già lẩm cẩm.
Cứ nội dung là quyết định nghệ thuật ư? Y như thấy có người chết đuối là cứ lao
xuống nước để cứu, nhưng anh lại chết với
người kia, chỉ vì không biết bơi *, thảm
hại cho cái quần chúng chủ nghĩa của Cung.
Rồi nghệ thuật sẽ đi đến đâu? Lãnh đạo thì bóp nghẹt. Quần
chúng thì bị lái đi theo lãnh đạo. Mọi ý
kiến mới đều bị coi là phản động, bị đả
kích mạnh.
Cái biểu tượng của gu quần chúng. Hội họa ta
không có (**)
(*) So sánh này quá gượng gạo (**) Không rõ ý – VTN
Mấy
câu cuối thật đã đậm chất Nhân văn quá, không biết lúc ấy ông Tưởng
có dám nói hay chỉ nghĩ mà ghi vào nhật ký. Ghi vào thế này còn khá, nhiều người
không dám ghi nữa kia.
25-10
Công
chúng và sân khấu
Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi hồi trước đã hay nói với tôi rằng
cái được của sân khấu tiền chiến là họ có một lớp công chúng ưu tú rất yêu và
hiểu nghệ thuật. Đối lập lại ông cũng nói thêm là công chúng sau cách mạng càng
ngày càng hỏng. Bước vào thời kinh tế thị trường, người ta vào rạp còn cắn hạt
dưa tanh tách và nói chuyện rất ồn ào. Cứ chỗ nào được phỉnh nịnh và gãi đúng
chỗ ngứa thì hoan hô, ngoài ra chê tất.
Tuần
qua đọc báo lại thấy nói tới tình trạng là bây giờ công chúng sân khấu quên mất thói quen mua vé, mà chỉ chờ đợi được xem tháo khoán. Tức
là lại cũng một dạng của bệnh vô cảm?
Đúng. Mà cũng không đúng. Vì cái gọi là nghệ thuật sân khấu hôm nay đâu còn có
quyền gọi là nghệ thuật nữa. Nghệ thuật nào công chúng ấy.
Tuổi già xứ mình
Trang viet-studies mấy hôm trước in bài Tuổi già là thời sung sướng nhất. Đọc vào thì thấy người già ở xứ
người --kể cả người Việt-- sao mà dễ sống. Luôn luôn họ tìm được sự bằng lòng. Mọi cái ở nơi khác
coi là bất hạnh – chẳng hạn vợ chồng về già còn ly dị -- cũng được các vị ấy “tiêu
hóa” một cách dễ dàng.
Tôi ước ao có một ai đó ngồi tổng kết về
tuổi già ở xứ mình.
Trong một phản ứng tức thì, tôi chỉ thấy rằng
người già ở trong nước đang rất khổ với nghĩa cả khi về già có được đời sống tạm đủ ăn,
thì cũng luôn có gì đó như là bất mãn. Thấy tiếc quãng đời trẻ, muốn truy lĩnh
muốn hưởng thụ bù vào những ngày lê lết trong khốn khổ. Lại có đôi người tự thấy rằng năng lực của mình chưa được thể hiện hết, nay
lao ra hoạt động còn năng nổ hơn trước, và hoạt động nhiều khi khá kệch cỡm. Trong khi đó, ngoảnh lại nhìn những người
thân trong gia đình, thấy ngạc nhiên. Sao mình lại có thể chung sống hàng bao
nhiêu năm với người chồng hay người vợ như thế này? Đứa con nay đã trưởng thành
này có phải là đứa nhỏ mà xưa kia mình đã từng chăm bẵm? Có cái bực bội nó khiến người ta muốn thoát sớm
cho rảnh. Ngay lúc ấy lại có cái tỉnh táo tin rằng chả làm sao trốn khỏi cuộc
đời này…Tuổi già là trong ê chề, tuổi già là trong bất lực.
22-10
Đưa tin về hội thảo
Khi
đưa tin các cuộc hội thảo của giới văn học
nghệ thuật ở ta, nhiều tờ báo có lối hết sức tắc trách là chỉ đưa mấy dòng vắn
tắt, còn trong hội thảo những người tham gia nói gì không ai được biết. Một việc cũng buồn cười nữa là trong hội thảo
đó, có những nhà chuyên môn nào không được
báo nói tới, trong bài báo chỉ thấy xuất
hiện mấy cái tên lạ. Tên những nhà quản lý đã tới, dù có khi họ chỉ tới để nói mấy câu lất phất.
Báo Tuổi
trẻ hôm nay đưa tin vừa có cuộc họp để bàn về giải pháp chống ngập ở một số
địa điểm, trong cuộc họp đó cấp trên của
thành phố đã tính là sẽ “lo mời các nhà
khoa học tham gia”. Đọc đến đấy tôi cứ tự nghĩ, thế hóa ra lâu nay các ông chỉ tự
mình nghĩ rồi tự mình lệnh cho cấp dưới làm, chưa bao giờ cần để ý gì tới các chuyên gia sao? Thả
nào …
23
– 10
Một thoáng liên tưởng
Một
mẩu tin ngắn về biểu tình ở Hồng Kông tóm gọn như sau: Với các quan chức Bắc
Kinh, “một đất nước” là ưu tiên then chốt. Còn với đa số người Hồng Kông, “hai
chế độ” là điều họ quan tâm nhất.
Liên
hệ tới hoàn cảnh nước mình. Nhớ cái câu tiêu đề trên mọi đơn từ bọn tôi viết hồi
nhỏ “Việt Nam dân chủ cộng hòa” rồi nhớ tới tình hình dân chúng hiện nay. Có vẻ
như cũng có một tình hình tương tự. Sáu bẩy chục năm nay, cấp trên thì chỉ nghĩ
đến hai chữ Việt Nam. Còn với nhân dân, càng ngày họ càng thấy mấy chữ dân chủ cộng hòa mới là thiết
yếu. Với cả hôm nay và ngày mai.
24-10
Nguyễn Huy Tưởng và những tư tưởng
Nhân văn Giai phẩm
Nhân
có Đèn cù, tôi tẩn mẩn giở mấy cuốn hồi ký của các tác giả khác ra đọc, và dừng lại lâu hơn một chút ở Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng, nhất
là đoạn 1956-57. Hóa ra, không chỉ có mấy ông sau này mắc nạn đã viết ra những
thứ in trong Nhân Văn Giai phẩm mà hồi
ấy bao nhiêu người đã nghĩ thế, chẳng qua họ có công khai nói ra hay không.
Tới hồi chống Mỹ, nhiều người còn nói vào tai
tôi, với cái tính thẳng thắn của mình, chắc ông Nam Cao lúc ấy còn sống thì cũng dám chơi lắm. May ra thì cũng chỉ làm như ông Nguyên Hồng. Nghĩa là bỏ đi đâu đó, chứ không thể chịu cái cảnh này được.
Đối
chiếu những variant ( bản in khác
nhau )của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đầu
1957, lại thấy giữa bản của nhà Thanh niên 2006 -- được coi là hoàn chỉnh
nhất, với mấy trang rời in trên một số của
tạp chí Đất Quảng 1990, có những đoạn mà năm 1990 đã in, tới 2006, bị
cắt bỏ hoàn toàn.
Sau đây là đoạn nhật ký 17-2-57, liên quan
không chỉ tới họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, mà còn là với những vấn đề lớn như đường lối
quần chúng trong văn nghệ , hoặc cách thức lãnh đạo chỉ đạo của Tố Hữu lúc đó.
Những dòng in đậm là những dòng vốn đã in ra 1990, nay đến 2006, bị tước bỏ.
Anh em văn nghệ rất khó chịu vì bài của Nguyễn Đỗ Cung. Cung thẹn vì đã học mỹ
thuật Pháp, nói không cần kỹ thuật, quần chúng là quyết định.
Thảm hại cho người nghệ sĩ già lẩm cẩm.
Cứ nội dung là quyết định nghệ thuật ư? Y như thấy có người chết đuối là cứ lao
xuống nước để cứu, nhưng anh lại chết với
người kia, chỉ vì không biết bơi *, thảm
hại cho cái quần chúng chủ nghĩa của Cung.
Rồi nghệ thuật sẽ đi đến đâu? Lãnh đạo thì bóp nghẹt. Quần
chúng thì bị lái đi theo lãnh đạo. Mọi ý
kiến mới đều bị coi là phản động, bị đả
kích mạnh.
Cái biểu tượng của gu quần chúng. Hội họa ta
không có (**)
(*) So sánh này quá gượng gạo (**) Không rõ ý – VTN
Mấy
câu cuối thật đã đậm chất Nhân văn quá, không biết lúc ấy ông Tưởng
có dám nói hay chỉ nghĩ mà ghi vào nhật ký. Ghi vào thế này còn khá, nhiều người
không dám ghi nữa kia.
25-10
Công
chúng và sân khấu
Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi hồi trước đã hay nói với tôi rằng
cái được của sân khấu tiền chiến là họ có một lớp công chúng ưu tú rất yêu và
hiểu nghệ thuật. Đối lập lại ông cũng nói thêm là công chúng sau cách mạng càng
ngày càng hỏng. Bước vào thời kinh tế thị trường, người ta vào rạp còn cắn hạt
dưa tanh tách và nói chuyện rất ồn ào. Cứ chỗ nào được phỉnh nịnh và gãi đúng
chỗ ngứa thì hoan hô, ngoài ra chê tất.
Tuần
qua đọc báo lại thấy nói tới tình trạng là bây giờ công chúng sân khấu quên mất thói quen mua vé, mà chỉ chờ đợi được xem tháo khoán. Tức
là lại cũng một dạng của bệnh vô cảm?
Đúng. Mà cũng không đúng. Vì cái gọi là nghệ thuật sân khấu hôm nay đâu còn có
quyền gọi là nghệ thuật nữa. Nghệ thuật nào công chúng ấy.
Published on October 27, 2014 20:29
October 24, 2014
Biện hộ cho sự vô cảm
NHỮNG BIỂU HIỆN TẾ NHỊ
Từ dưới bãi một em nhỏ lên cầu Long Biên, cất tiếng chào khi tôi dắt xe từ cầu đi xuống. Lẽ ra tôi phải sung sướng vì gặp được một đứa trẻ ngoan mới phải. Sao lần này cứ thấy gờn gợn. Mãi mới nghĩ ra. Đứa trẻ chỉ chào lấy lệ. Em chẳng hề quan tâm tới tôi, chả đặt một thoáng tình cảm nào vào lời chào của em. Và có vẻ đó không phải là một đứa trẻ ngoan nữa, một ấn tượng bao trùm đọng lại trong tôi.
Mặc dù biết vậy, tôi vẫn không khỏi… tủi thân. Nhất là buồn cho một con người mà mình vừa gặp.
Muốn gọi đó là sự vô cảm.
Tự nhủ chung quanh mình đang có một sự vô cảm thường trực. Bận bịu quá, nhiều thứ thu hút quá, con người hiện nay không còn những xúc cảm bình thường mà con người các thế hệ trước 1945 thường trải nghiệm.
Khi nói tới sự vô cảm, dư luận hôm nay chủ yếu muốn kêu gọi lòng trắc ẩn, tức là thương xót cảm thông với những bất hạnh.
Nhưng tôi cho là lẽ ra phải nói rõ đấy là việc con người không còn đặt tình cảm suy nghĩ vào những người quanh; trừ những việc liên quan đến quyền lợi thiết thân còn không muốn biết một cái gì khác; không còn phân biệt tốt xấu theo nghĩa nhân bản; và không còn nghĩ nhiều tới tương lai. Họ rơi vào tình trạng Đã bao lần tôi không thực là tôi(Lê Đạt).
Không chỉ vô cảm trước tai họa mà còn không được vô cảm trước các tài năng, trước vẻ đẹp, trước sự cao quý của con người. Cái đó ngày càng thấy rõ là cần trong một xã hội bị thống trị bởi chủ nghĩa bình quân và tràn ngập những yếu tố vật chất.
NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH
1427. Trong khi vây thành Đông Quan, theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Lê Lợi không quên đặt pháp luật để trị quân cũng như quản dân.
Mười điều kỷ luật được đặt ra để răn dạy cho tướng sĩ. Ngoài những điều như phải tiến thoái theo hiệu lệnh, giữ vững hàng ngũ… đặc biệt có thêm ba điều cấm sau đây.
Điều 2 ( CẤM) Không có việc gì mà đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hãi
Điều 8 ( CẤM) Tha binh đinh ( trai tráng bị động viên đi lính – VTN ) về để lấy tiền ; sổ sách mập mờ.
Điều 9 ( CẤM) Theo bụng yêu ghét của mình mà làm lòa mất công quả của người khác
( sđd, bản của nhà Tân Việt, 1951, tr 218; còn bản của nxb Thanh Hóa in 2006 thì ở tr 232)
Tình hình thực tế phải thế nào thì mới có lệnh cấm đó chứ ?!
Điều thú vị là có những căn bệnh của người xưa lại có sắc thái khá hiện đại.
Cũng trang sách trên có ghi:
Vương, tức Lê Lợi đặt ra ba điều để răn các quan:
1/Không được vô tình
2/không được khi mạn ( coi rẻ xem thường mọi người -VTN )
3/không được gian dâm
Chỗ đáng chú ý ở đây là thói vô tình ( cũng tức là vô cảm, thờ ơ… ) được đặt lên hàng đầu.
Hóa ra chiến tranh thời nào cũng vậy.
MỘT HÌNH THỨC TỰ VỆ
Tuy nhiên cũng đã đến lúc phải biện hộ cho sự vô cảm theo nghĩa thông thường.
Hãy bắt đầu bằng một sự thực -- con người hôm nay đang chịu những áp lực rất lớn. Họ không hề được chuẩn bị để đón nhận. Muốn tồn tại họ phải giữ được thần kinh cho vững, nói như các cụ xưa, phải đắp tai cài trốc, mới có cơ may giữ được sự an nhiên tự tại bình tâm mà sống cái đời sống thông thường.
Không vô cảm thì sẽ ngớ ngẩn, sẽ phát điên. Vô cảm đã thành hình thức tự vệ.
Ví dụ như trong chiến tranh, làm sao một người bình thường có thể bình thản trước việc con em mình đi vào chiến trường với cái chết cầm như chắc chắn, chỉ may mắn lắm mới sống sót, rồi có trở về thì cũng sẽ gia nhập vào hàng ngũ của cái thế hệ vứt đi (lost generation – cái chữ mà Hemingway có công đưa vào lịch sử văn học).
Nhưng người ta vẫn phải gạt nước mắt cho con ra đi.
Có khi lại còn phải tỏ ra vui vẻ nữa.
Người ta đã trở nên vô cảm.
Sang thời phát triển nhố nhăng kỳ cục hiện nay, chứng kiến bao chuyện chướng ta gai mắt, người ta vẫn phải im lặng quay đi coi như không biết. Thấy kẻ cắp trên xe bus mà kêu lên ấy ư, anh sẽ bị trả giá ngay. Tố cáo cấp trên tham nhũng là đồng nghĩa với việc chuẩn bị sớm muộn sẽ nhận lệnh đuổi việc. Còn khi có ý định tham gia vào những vụ cứu trợ cho các vùng bị tai nạn, thì có một nguyên tắc là anh phải không được theo dõi xem các loại hàng cứu trợ đó sẽ được sử dụng ra sao.
MỘT VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI
Vô cảm không chỉ là chuyện của người Việt mà còn là chuyện của thế giới hiện đại.
--Nhớ lại hồi còn thời chuyên chế, nhiều nhà văn Liên xô cũ kể là nhiều khi đối diện xã hội, họ thấy mà không dám nhìn kỹ, nghĩ mà không dám ghi lại, và ghi lại thì lại xé đi ngay, chỉ sợ táy máy gửi tới một tờ báo nào đó thì không những không được in ra mà còn bị các biên tập viên ở đó trình lên cấp trên và tên tuổi sẽ vào sổ đen của KGB.
-- Và đây, một cách diễn đạt về sự đầu hàng của con người hiện nay, nó đặt thái độ chấp nhận vô cảm trong xu thế không dám làm người – ngay cả ở mỗi cá nhân có suy nghĩ; và nó đúng với con người hiện đại nói chung chứ không phải người của phe nọ hay phe kia:
Thời đại chúng ta cốt yếu là một thời đại bi thảm, bởi thế chúng ta từ chối cảm nhận nó một cách bi thảm. Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những túp lều trú ngụ tạm bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé mới. Đó là một công việc khá nhọc nhằn. Bây giờ không có một con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai, nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở ngại. Chúng ta phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.
(D.H.Lawrence, nhà văn Anh, 1885-1930 tác giả Người tình của Chatteley phu nhân).
Thây kệ ở đây chính là thói vô cảm chúng ta đang nói.
Cố nhiên vô cảm, nói theo nghĩa khá đa dạng, có phần giống như một loài thuốc đặc trị. Nếu dùng quá liều, sẽ gây chết người như chơi.
Công thức cần theo là làm sao giữ được thế bình quân giữa thái độ thản nhiên trước mọi biểu hiện tạp nham hàng ngày và cảm xúc nhạy bén thường trực trước những vấn đề lớn của cộng đồng của dân tộc. Đây là cả một thách thức với những con người luôn luôn coi các vấn đề xã hội là chuyện của bản thân, cả chuyện lớn lẫn chuyện nhỏ.
Published on October 24, 2014 23:03
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
