Vương Trí Nhàn's Blog, page 80
October 13, 2013
Khoa học xã hội ở ta là thế, làm sao khác được !
Như tiêu đề của nó đã nêu rõ, bài
viết Vụ Luận văn về Mở Miệng: còn cơ hội nào cho
ngành KHXH&NV? ( xem mạng bauxite
Việt Nam 7-10-13) không chỉ xới lại một
hiện tượng nổi cộm thời gian gần đây, mà còn động chạm tới tình trạng của khoa
học xã hội ở VN nói chung.
Tại sao lớp trẻ Việt Nam ngao
ngán KHXH đang dạy ở nhà trường và những đầu óc ưu tú nhất trong thế hệ các em
chối từ đến cùng các ngành sử triết ..?
Tại sao những người cầm chịch KHXH hiện
nay không ngớt kêu gào đưa trình độ của ngành lên tầm quốc tế, và càng kêu thì
họ càng thấy tuyệt vọng?
Bài viết của Nguyễn Thị Từ Huy, suy cho cùng, có
liên quan tới các hiện tượng đó.
Đọc xong bài này tự nhiên trong đầu óc một
người như tôi nẩy sinh nhu cầu phải trở lại với các câu hỏi nguyên thủy, chẳng
hạn quá trình hình thành KHXH ở ta là thế nào, thực chất quan niệm của xã
hội về những người làm KHXH ở ta ra sao…
Có hiểu những nguyên nhân xa, thì mới lý
giải được tình hình trong giới gần đây. Họ là những người như thế, được đào
tạo như thế, thì sẽ ứng xử với nhau như thế, làm ra những sản phẩm như thế, có
gì là lạ.
Trong
quá trình nghiên cứu về tình hình giới KHXH ở VN, tôi có mò mẫm vào hậu trường
của giới nghiên cứu Liên xô trước đây. Ở Thư viện của Viện thông tin khoa học
xã hội 26 Lý Thường Kiệt Hà Nội, tôi tìm được
một số tài liệu theo tôi là có khả năng gợi mở rất cao, nghĩa là cứ y như họ
viết về VN vậy.
Thí
dụ như bài viết dưới đây của tác giả N. Kozlova, in trên tạp chí Khoa
học xã hội ngày nay (ONS) số 2-1991.
Đọc xong, tôi thấy
yên tâm.Khoa học xã hội ở ta là thế làm sao khác được!
Bài viết sau đây không phải bản dịch đầy
đủ mà chỉ là một bản lược thuật, được làm để dùng riêng, nhưng tôi tin là đã truyền đạt chính xác các ý tưởng chính của
tác giả.
CHÍNH HỆ TƯ TƯỞNG HÓA
KHOA HỌC ĐÃ LÀM NGHÈO VĂN HÓA
Trong
xã hội Xô viết, xuất hiện một tình thế quái đản: “Khoa học giữ chức
năng hệ tư tưởng, còn hệ tư tưởng thì khoác cái trang phục của khoa học”.
Vấn
đề này có cơ sở xã hội của nó.
Trong
chủ nghĩa xã hội, tồn tại một kiểu trí thức. Nhờ đáp ứng được nhu cầu cấp bách của cách mạng, họ
đóng một vai trò tham gia vào việc tổ chức cách mạng, lật đổ cái cũ cũng như
xây dựng cái mới.
Trong
tiếng Pháp có một danh từ les parvenus de
le sciene – tức là những kẻ mới phất lên trong khoa học.
Đó
là những kẻ không có học hành cơ bản nhưng ham hiểu biết và tin vào tương lai.
Ở
họ, lòng ham hiểu biết và ý hướng muốn thay đổi thế giới nhập làm
một.
Họ
không chỉ quan tâm đến trí thức như là những chân lý vĩnh hằng, mà còn ý thức
được sức mạnh trí thức khoa học ngay
trong hoàn cảnh hiện tại.
Ham
hiểu biết, nhưng do nhạy bén với nhu cầu trước mắt của cách mạng, đồng thời họ
đi vào chống trí thức, phủ nhận giới tri thức.
Đây chính là cách mà họ tìm ra
trên con đường lập nghiệp.
Với
họ, trí thức là một thứ ông lớn nhút nhát, hèn yếu khi gặp nguy hiểm, xa lạ với
quẩn chúng, không đáng gọi là người.
Nhận
thức này được những người cách mạng nhiệt liệt chào đón.
Những người xuất thân từ nhân dân khi nắm quyến
lực cảm thấy trí thức chân chính không đi với họ. Thế là giai cấp thống trị mới
coi những tri thức chân chính kia là ích kỷ, xấu xa. Đám quý tộc về mặt tinh thần vốn hình thành từ
xã hội cũ ấy bị thù ghét coi như rác rưởi.
Một
khoảng trống được mở ra và đám trí thức
tự học (1) sẽ tìm cách lấp đầy nó.
Đám
trí thức tự học này:
- Là đám tự đào tạo; là những nhà phát
minh không thành đạt, những nhà thơ không ai thừa nhận.
-
Họ là những người không được học đến nơi
đến chốn, nhưng lại thừa khát vọng muốn đứng ở hàng đầu.
-
Họ đối xử với kiến thức một cách thực dụng.
Thay cho việc đối chiếu hiểu biết của mình với chân lý vĩnh cửu , họ lại thích
đối chiếu kiến thức đó với thực tế và xem khả năng ứng dụng của kiến thức là tất
cả.
-
Học thích tiếp xúc với đám công chúng ít
học – chữ mà ta gọi là quần chúng cơ bản.
-
Họ thích làm lại khoa học – biến trường
đại học thành chỗ ai vào cũng được, thành những cuộc mít tinh chính trị công cộng.
Từ
đầu thế kỉ XX, nước Nga đã thường bàn về dân chủ hóa khoa học. A. Bogdanov muốn
gạt bỏ tôn giáo, xóa bỏ tính trừu tượng ban đầu của nhận thức, vả bằng cách đó
làm lại khoa học. Lúc này khoa học trở nên dễ hiểu với quẩn chúng, và tính dễ hiểu được coi như là tiêu chuẩn chủ
yếu của khoa học chân chính.
Thế
là những nhiệm vụ cơ bản của khoa học bị từ bỏ, quyền tự trị của khoa học bị
coi như nhu cầu không thể chấp nhận được, nếu không nói là phi lý và giả tạo.
Người
ta hướng khoa học vào việc giáo dục quần chúng, mà trong việc này thì lớp trí
thức cũ, nhất là những trí thức hàng đầu không được việc gì cả.
Từ
đây trong xã hội mới, khoa học là vũ khí đấu tranh cách mạng, là phương tiện để
tổ chức sản xuất và gắn kết xã hội.
Những
ngành khoa học nào không làm được việc đó có thể và cần phải xóa bỏ.
“Chân lý cũng phải đỏ” đó là khẩu hiệu
dành cho khoa học mới.
Tư
tưởng về sự ưu thắng của hành động so với nhận thức cũng rất phổ biến và được
coi là một tiêu chuẩn để đánh giá đâu là thứ khoa học cần thiết và có giá trị.
Tri
thức [ được hình thành trong xã hội sau cách mạng] là một thứ tín điều mới . Nhưng
đó là một tri thức nửa vời, tri thức bị giản lược.
Quá
trình giáo dục cũng bị giản lược.
Quá
trình này được hình thành đồng thời với sự quảng
canh văn hóa, đưa văn hóa về với đám đông. Và quá trình này sở dĩ được kiên
trì theo đuổi đến cùng vì nó được xem như một phương thức đạt tới công bằng xã
hội là điều mà cách mạng hứa hẹn và đám đông đòi hỏi – ngoài ra thì họ không cần
biết rằng đó là văn hóa thế nào cả.
Việc
thanh toán nạn mù chữ có một mục đích cụ thể là đưa mọi người tham gia vào khoa
học.
Điều
quan trọng nhất là sau quá trình này, người ta thấy ẩn chứa một nguyên tắc lớn
là không có chân lý chung chung, chân lý
cũng có tính giai cấp, nó cũng đươc ấn định một cách chủ quan.
Đảng độc quyền chân lý, và đảng
không thể đồng ý với kẻ thù bất cứ điều gì, kể cả những chân lý sơ giản.
-----
(1) Điều
duy nhất cần bổ sung – về sau, đám trí thức mới phất này đã tự phong cho mình đủ thứ danh hiệu kể cả , giáo
sư, tiến sĩ và cả viện sĩ nữa, tuy các học hàm học vị này không được nước nào
công nhận.
viết Vụ Luận văn về Mở Miệng: còn cơ hội nào cho
ngành KHXH&NV? ( xem mạng bauxite
Việt Nam 7-10-13) không chỉ xới lại một
hiện tượng nổi cộm thời gian gần đây, mà còn động chạm tới tình trạng của khoa
học xã hội ở VN nói chung.
Tại sao lớp trẻ Việt Nam ngao
ngán KHXH đang dạy ở nhà trường và những đầu óc ưu tú nhất trong thế hệ các em
chối từ đến cùng các ngành sử triết ..?
Tại sao những người cầm chịch KHXH hiện
nay không ngớt kêu gào đưa trình độ của ngành lên tầm quốc tế, và càng kêu thì
họ càng thấy tuyệt vọng?
Bài viết của Nguyễn Thị Từ Huy, suy cho cùng, có
liên quan tới các hiện tượng đó.
Đọc xong bài này tự nhiên trong đầu óc một
người như tôi nẩy sinh nhu cầu phải trở lại với các câu hỏi nguyên thủy, chẳng
hạn quá trình hình thành KHXH ở ta là thế nào, thực chất quan niệm của xã
hội về những người làm KHXH ở ta ra sao…
Có hiểu những nguyên nhân xa, thì mới lý
giải được tình hình trong giới gần đây. Họ là những người như thế, được đào
tạo như thế, thì sẽ ứng xử với nhau như thế, làm ra những sản phẩm như thế, có
gì là lạ.
Trong
quá trình nghiên cứu về tình hình giới KHXH ở VN, tôi có mò mẫm vào hậu trường
của giới nghiên cứu Liên xô trước đây. Ở Thư viện của Viện thông tin khoa học
xã hội 26 Lý Thường Kiệt Hà Nội, tôi tìm được
một số tài liệu theo tôi là có khả năng gợi mở rất cao, nghĩa là cứ y như họ
viết về VN vậy.
Thí
dụ như bài viết dưới đây của tác giả N. Kozlova, in trên tạp chí Khoa
học xã hội ngày nay (ONS) số 2-1991.
Đọc xong, tôi thấy
yên tâm.Khoa học xã hội ở ta là thế làm sao khác được!
Bài viết sau đây không phải bản dịch đầy
đủ mà chỉ là một bản lược thuật, được làm để dùng riêng, nhưng tôi tin là đã truyền đạt chính xác các ý tưởng chính của
tác giả.
CHÍNH HỆ TƯ TƯỞNG HÓA
KHOA HỌC ĐÃ LÀM NGHÈO VĂN HÓA
Trong
xã hội Xô viết, xuất hiện một tình thế quái đản: “Khoa học giữ chức
năng hệ tư tưởng, còn hệ tư tưởng thì khoác cái trang phục của khoa học”.
Vấn
đề này có cơ sở xã hội của nó.
Trong
chủ nghĩa xã hội, tồn tại một kiểu trí thức. Nhờ đáp ứng được nhu cầu cấp bách của cách mạng, họ
đóng một vai trò tham gia vào việc tổ chức cách mạng, lật đổ cái cũ cũng như
xây dựng cái mới.
Trong
tiếng Pháp có một danh từ les parvenus de
le sciene – tức là những kẻ mới phất lên trong khoa học.
Đó
là những kẻ không có học hành cơ bản nhưng ham hiểu biết và tin vào tương lai.
Ở
họ, lòng ham hiểu biết và ý hướng muốn thay đổi thế giới nhập làm
một.
Họ
không chỉ quan tâm đến trí thức như là những chân lý vĩnh hằng, mà còn ý thức
được sức mạnh trí thức khoa học ngay
trong hoàn cảnh hiện tại.
Ham
hiểu biết, nhưng do nhạy bén với nhu cầu trước mắt của cách mạng, đồng thời họ
đi vào chống trí thức, phủ nhận giới tri thức.
Đây chính là cách mà họ tìm ra
trên con đường lập nghiệp.
Với
họ, trí thức là một thứ ông lớn nhút nhát, hèn yếu khi gặp nguy hiểm, xa lạ với
quẩn chúng, không đáng gọi là người.
Nhận
thức này được những người cách mạng nhiệt liệt chào đón.
Những người xuất thân từ nhân dân khi nắm quyến
lực cảm thấy trí thức chân chính không đi với họ. Thế là giai cấp thống trị mới
coi những tri thức chân chính kia là ích kỷ, xấu xa. Đám quý tộc về mặt tinh thần vốn hình thành từ
xã hội cũ ấy bị thù ghét coi như rác rưởi.
Một
khoảng trống được mở ra và đám trí thức
tự học (1) sẽ tìm cách lấp đầy nó.
Đám
trí thức tự học này:
- Là đám tự đào tạo; là những nhà phát
minh không thành đạt, những nhà thơ không ai thừa nhận.
-
Họ là những người không được học đến nơi
đến chốn, nhưng lại thừa khát vọng muốn đứng ở hàng đầu.
-
Họ đối xử với kiến thức một cách thực dụng.
Thay cho việc đối chiếu hiểu biết của mình với chân lý vĩnh cửu , họ lại thích
đối chiếu kiến thức đó với thực tế và xem khả năng ứng dụng của kiến thức là tất
cả.
-
Học thích tiếp xúc với đám công chúng ít
học – chữ mà ta gọi là quần chúng cơ bản.
-
Họ thích làm lại khoa học – biến trường
đại học thành chỗ ai vào cũng được, thành những cuộc mít tinh chính trị công cộng.
Từ
đầu thế kỉ XX, nước Nga đã thường bàn về dân chủ hóa khoa học. A. Bogdanov muốn
gạt bỏ tôn giáo, xóa bỏ tính trừu tượng ban đầu của nhận thức, vả bằng cách đó
làm lại khoa học. Lúc này khoa học trở nên dễ hiểu với quẩn chúng, và tính dễ hiểu được coi như là tiêu chuẩn chủ
yếu của khoa học chân chính.
Thế
là những nhiệm vụ cơ bản của khoa học bị từ bỏ, quyền tự trị của khoa học bị
coi như nhu cầu không thể chấp nhận được, nếu không nói là phi lý và giả tạo.
Người
ta hướng khoa học vào việc giáo dục quần chúng, mà trong việc này thì lớp trí
thức cũ, nhất là những trí thức hàng đầu không được việc gì cả.
Từ
đây trong xã hội mới, khoa học là vũ khí đấu tranh cách mạng, là phương tiện để
tổ chức sản xuất và gắn kết xã hội.
Những
ngành khoa học nào không làm được việc đó có thể và cần phải xóa bỏ.
“Chân lý cũng phải đỏ” đó là khẩu hiệu
dành cho khoa học mới.
Tư
tưởng về sự ưu thắng của hành động so với nhận thức cũng rất phổ biến và được
coi là một tiêu chuẩn để đánh giá đâu là thứ khoa học cần thiết và có giá trị.
Tri
thức [ được hình thành trong xã hội sau cách mạng] là một thứ tín điều mới . Nhưng
đó là một tri thức nửa vời, tri thức bị giản lược.
Quá
trình giáo dục cũng bị giản lược.
Quá
trình này được hình thành đồng thời với sự quảng
canh văn hóa, đưa văn hóa về với đám đông. Và quá trình này sở dĩ được kiên
trì theo đuổi đến cùng vì nó được xem như một phương thức đạt tới công bằng xã
hội là điều mà cách mạng hứa hẹn và đám đông đòi hỏi – ngoài ra thì họ không cần
biết rằng đó là văn hóa thế nào cả.
Việc
thanh toán nạn mù chữ có một mục đích cụ thể là đưa mọi người tham gia vào khoa
học.
Điều
quan trọng nhất là sau quá trình này, người ta thấy ẩn chứa một nguyên tắc lớn
là không có chân lý chung chung, chân lý
cũng có tính giai cấp, nó cũng đươc ấn định một cách chủ quan.
Đảng độc quyền chân lý, và đảng
không thể đồng ý với kẻ thù bất cứ điều gì, kể cả những chân lý sơ giản.
-----
(1) Điều
duy nhất cần bổ sung – về sau, đám trí thức mới phất này đã tự phong cho mình đủ thứ danh hiệu kể cả , giáo
sư, tiến sĩ và cả viện sĩ nữa, tuy các học hàm học vị này không được nước nào
công nhận.
Published on October 13, 2013 23:18
October 9, 2013
Chung quanh câu chuyện đổi mới nhận thức lịch sử
Tạp chí văn học, số 6 – 1990 có in
bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong khoa
học xã hội nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng của Nguyễn Huệ Chi.
Nhân đó, chúng tôi có bài viết dưới đây. Bài viết đã từng được đưa vào phụ lục
của cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình
hiện đại hóa trong văn học Việt Nam in 2005.
Những cắt xén
tùy tiện mang tính cách vụ lợi
Trong sách Lịch
sử văn minh Trung Quốc, học giả W. Durant có kể lại một đặc điểm của Khổng
Tử “vị hiền triết già ấy có thói quen không ngại làm sai sự thực đi đôi chút,
để lịch sử có một ý nghĩa luân lý”.
Chúng tôi không đủ trình
độ để kiểm tra xem các tài liệu có liên quan đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… ở ta
có bị cắt xén theo cách ấy không. Nhưng nhìn vào các bài viết, các công trình
nghiên cứu hoặc giản dị hơn, cách giới thiệu khi xuất bản các sáng tác thuộc về
văn học Việt Nam thế kỷ XX, thì thấy lối làm việc trên đây của Đức Thánh Khổng
được vận dụng một cách rất tự nhiên, khéo léo.
Ai cũng biết rằng Thế
Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… là những kiện tướng của văn học trước 1945, song lại có
đóng góp lớn vào đời sống văn nghệ sau 1945. Bởi vậy, các sáng tác cũ của các
ông dễ được chúng ta ưu ái hơn so với những người đương thời. Ngay từ
1982-1983, Thế Lữ, Xuân Diệu đã có Tuyển tập của mình. Nhưng
các tuyển tập đó được làm như thế nào?
- Trong Tiểu sử ghi
ở đầu sách, những người làm tuyển tập lờ hẳn đi việc cả Thế Lữ và Xuân Diệu đều
đã có chân trong Tự lực văn đoàn.
- Các bài báo của Thế Lữ
in trong mục Tin thơ, Tin văn… vắn chỉ ghi trích ở báo Ngày
nay mà quên nói rõ thật ra đó đều là những bài phát biểu quan niệm
chính thức của nhóm Tự lực, tranh cãi, chế giễu bài bác lại các báo
khác khi họ công kích Tự lực.
- Hàng loạt bài thơ của
Xuân Diệu trong Thơ thơ, của Huy Cận trong Lửa thiêng,
khi in ra lúc đầu, có chua rõ là tặng Nhất Linh, tặng Khái Hưng, tặng Hoàng
Đạo… nhưng khi in lại, bị rũ sạch, “phi tang”. Ngược lại lời đề tựa của Khái
Hưng cho Vàng và máu của Thế Lữ bản in ra lần đầu cũng bị ngơ
đi, coi như không có.
Trong bài viết này,
chúng tôi không có ý định bàn riêng về sáng tác của Thế Lữ hay Xuân Diệu. Chúng
tôi chỉ lưu ý một điều: nghiên cứu về sáng tác của hai vị đó trước 1945 mà
không đặt các sáng tác ấy vào cái mạch của Tự lực văn đoàn nói
chung thì chẳng khác chi tách cá ra khỏi nước.
Có thể bảo đây là những
ví dụ sinh động, chứng tỏ chủ nghĩa công lợi (chữ của Nguyễn
Huệ Chi) đã thấm vào chúng ta một cách sâu sắc.
Nhưng cũng nên nói thêm rằng ẩn
sau sự tùy tiện đáng sợ, tùy tiện cắt xén thêm bớt trong việc trình bày các sự
kiện trong quá khứ, thực chất là thái độ coi thường lịch sử, cho rằng
hoàn toàn chúng ta có quyền đưa ra một thứ lịch sử hợp với ý muốn của chúng ta.
Mấy chục năm qua sự tùy
tiện này đã chi phối một số người nghiên cứu trong việc đánh giá các sự kiện
văn học quá khứ, dẫn đến những vô lý trong việc cho phép công bố hay cấm đoán
tác phẩm này, tác phẩm nọ.
Xét trên bình diện tư tưởng, bức tranh Cô
gái bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân vốn rất gần với những Hồn bướm
mơ tiên, Đời mưa gió, Gánh hàng hoa. Thế nhưng trong khi Cô gái bên
hoa huệ được thừa nhận như một đóng góp cho hội họa hiện đại, thì các
tiểu thuyết nói trên của Nhất Linh, Khái Hưng bị gạt ra khỏi lịch sử văn học
trong một thời gian dài.
Tại sao? Tại chúng ta có thói quen chú ý đến người,
đánh giá tác phẩm qua người, quan hệ người với thời cuộc, chứ không
phải qua văn, qua sáng tác của người đó nói chung.
Cũng vì con người Nhượng
Tống “có vấn đề” mà một thời gian dài chúng ta đã bỏ qua bản dịch Mái
tây và nhiều bài thơ [dịch] Đỗ Phủ là những đóng góp độc đáo của
Nhượng Tống đối với lịch sử văn học, đặc biệt là trên phương diện ngôn ngữ (mãi
gần đây mới khôi phục trở lại).
Lối hiện đại hóa không
thể chấp nhận
Nếu việc trình bày lịch
sử văn học hiện đại thường mang nặng tính chất tùy tiện và vụ lợi thì nhiều tài
liệu nghiên cứu văn học (từ thế kỷ XIX trở về trước) lại cung cấp những ví dụ
rõ rệt chứng tỏ các nhà nghiên cứu thường hiện đại hóa lịch sử tức “uốn nắn
lịch sử theo con người hiện đại” “làm cho lịch sử mang những nét đồng dạng
với hiện đại” “dẫn tới tình trạng làm nghèo lịch sử” (Nguyễn Huệ Chi).
“Ở đâu có áp bức, ở đó
có đấu tranh. Đó là quy luật của đời sống. Nhân dân ta vốn đã anh dũng trong sự
nghiệp chống ngoại xâm, lại cũng kiên cường bất khuất trong công cuộc đấu tranh
giai cấp diễn ra lâu dài và ngày một trở nên quyết liệt”.
Một đoạn văn với kiểu
viết như trên có thể gặp trong khá nhiều tập sách nghiên cứu văn học, phần viết
về bối cảnh lịch sử (ở đây chúng tôi lấy từ Tuyển tập truyện Việt Nam
thế kỷ X thế kỷ XIX).
Để nội dung ý kiến sang một bên. Điều làm chúng tôi
băn khoăn là cách diễn đạt: chẳng nhẽ chỉ có một công thức duy nhất như vậy để
nói về quá khứ? Trước mắt chúng ta là sách văn học sử hay sách giáo khoa chính
trị, sách giáo khoa triết học?
Khi đi vào miêu tả từng
cá nhân, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng không hề dè dặt gì hết, cứ hồn nhiên
mà khoác lên người các bậc tiền bối những bộ y phục vốn chỉ dành cho con người
hiện đại. Dưới ngòi bút của những người viết văn học sử mà thiếu cảm hứng lịch
sử, các nhà văn nhà thơ vốn sống cách đây từ một đến vài thế kỷ nói chung đều
mang khuôn mặt tinh thần của con người hôm nay. Thậm chí trong một số trường
hợp đọc kỹ một số đoạn miêu tả thấy giá thay chữ ông bằng chữ đồng chí thì
cũng không gây ra cảm giác đảo lộn gì ghê gớm lắm.
Sau đây là một ví dụ:
- Trên con đường đi tìm
một phẩm chất trong sạch, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự giác hoặc không
tự giác kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần lâu đời của dân
tộc, những giá trị tuy bị giai cấp phong kiến lúc bấy giờ vứt bỏ, nhưng vẫn
tiềm tàng trong đời sống của nhân dân (Lời giới thiệu đặt ở
đầu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm).
- Trong tình hình chưa
ổn định của vùng đất đang khai phá việc tập hợp nhân dân và
tất cả những hạng người có thể sử dụng được đòi hỏi phải có một độ lượng rộng
rãi ở người lãnh đạo. Nguyễn Cư Trinh đã tỏ ra tự hào vì đã dung
nạp được mọi hạng người để phục vụ cho công cuộc chung. Để có
thể đạt được sự nghiệp lớn, Nguyễn Cư Trinh đã tự đề ra cho mình những yêu cầu
nghiêm khắc (Nguyễn Cư Trinh là người có kinh nghiệm đấu tranh) có
tinh thần hăng hái tiến lên phía trước… (Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu
thế kỷ XVIII, tập II)
- Nhưng mặt khác cũng
cần vạch ra rằng “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ không có tý liên
hệ nào với quần chúng, nó coi thường quần chúng thậm chí có lúc còn đi
ngược lại quyền lợi của quần chúng. Nhà thơ đã vận dụng nó một
cách giáo điều vào một hoàn cảnh không còn tiền đề cho nó tồn tại nữa (Văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, tập II) [1]
Rộng hơn câu chuyện về
từng cá nhân cụ thể còn thấy có hiện tượng cả một thời kỳ cả một giai đoạn lịch
sử văn học được dựng lại theo kịch bản hiện đại.
Trong nhiều cuốn sách mệnh
danh là công trình nghiên cứu, quá khứ được mô tả cứ làm người ta ngờ ngợ bởi
sao mà nó quá giống đời sống văn học hôm nay.
Ấn tượng đó còn được củng cố thêm
do nơi có sự áp dụng bừa bãi các nguyên tắc lý luận hiện đại cho lịch sử.
Đáng
lẽ phải xuất phát từ chính lịch sử để suy xét và nêu ra vấn đề cho lý luận giải
quyết, thì ngược lại, thường xuyên có tình trạng lấy lịch sử ra để minh họa cho
lý luận. Dù khéo léo, dù thô thiển, song đã gọi là minh họa tức đã làm nghèo
lịch sử mà cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho lý luận thực thụ!
Nên quan niệm về lịch sử
như thế nào?
Có những lối nói, lối
nghĩ phổ biến trong giới nghiên cứu, người nói người kể do giống nhau trong cách tư
duy nên cứ thế chấp nhận rồi nghe mãi quen đi, không thấy lạ, nhưng có người
bạn xa, lắng nghe, thấy không thể chịu được.
Thuộc về cái sự bất cập ấy là
những lý luận của chúng ta khi trình bày những tất yếu lịch sử.
Chẳng hạn,
không hẹn mà nên, cả Hoàng Trung Thông trong bài tựa Tuyển tập Xuân
Diệu, lẫn Vũ Quần Phương trong một bài báo nhân kỷ niệm 50 năm làm thơ của
Xuân Diệu, đều cho rằng sự tham gia cách mạng của Xuân Diệu có tính cách “tất
yếu”.
Một người rất thạo văn học Việt Nam và cũng rất yêu tác giả Thơ
thơ, ông Nam Chi, trong một bài viết sau có in lại trong cuốn Xuân
Diệu, con người và tác phẩm (H. 1987) đã phát hiện ra điều ấy và tỏ ý
hoài nghi: “Nói rằng người này “tất yếu” cách mạng thì có nghĩa là người kia
tất yếu phản động, vì bản chất phản động”.
Sau khi dẫn ra hàng loạt ví dụ bất
ngờ trong sự phân hóa của các văn nghệ sĩ tiền chiến trong thời đầu cách mạng
và những năm kháng chiến, Nam Chi cho rằng cái công thức tất yếu nói
trên là không thể vận dụng để lý giải các hiện tượng văn học.
Nhưng chữ “tất yếu” mà
Nam Chi hoài nghi đó, lại là cái thần, cái hồn cốt chính trong lối
suy nghĩ của chúng ta về xã hội, về lịch sử.
Tư duy dân gian khái quát: ở hiền
gặp lành có nhân có quả. Tư duy hiện đại chỉ nói khác đi một chút: ở hiền cũng
có khi gặp lành mà cũng có khi không, có nhân có khi có quả, có khi không.
Nói
theo thuật ngữ của triết học, thì trong trường hợp thứ nhất (ở hiền gặp lành),
người ta dừng lại ở quyết định luận máy móc, còn trong trường hợp
thứ hai (ở hiền cũng có khi… cũng có khi…) người ta đã tiến sang một bước
mới: quyết định luận xác suất thống kê.
Thế nhưng nói chung, trong
cách lập luận của nhiều người nghiên cứu lịch sử văn học ở ta, kiểu quyết định
máy móc nói trên vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Các hiện tượng lịch sử văn học (một
trào lưu, một tác giả hoặc một tác phẩm) thường được trình bày như một cái gì
tất yếu phải xảy ra, mà không mấy khi làm người đọc bỡ ngỡ vì một sự sinh thành
nảy nở kỳ lạ, tuồng như là ngoài quy luật và phải xem xét kỹ, thậm chí phải
quan niệm lại về quy luật, thì mới thấy nó cũng rất hợp quy luật.
Điều gì đã
cản trở nhà nghiên cứu không cho họ trở thành nhà lịch sử?
Chính là sự cả tin,
tin rằng lịch sử là một cái gì rất sáng rõ, rất mạch lạc, rất thuận lôgích,
lôgích thô thiển theo cách hiểu của họ, trong khi một điều kiện để hiểu lịch sử
là phải giả định rằng ở đó nhiều khuất khúc, nhiều mờ tối, nhiều khả năng đánh
lừa con người và nhà nghiên cứu phải luôn luôn lật đi lật lại vấn đề thì mới
mong phần nào hiểu đúng được lịch sử.
Ở chỗ này, những nhận xét của một nhà
nghiên cứu lịch sử người Pháp là Marc Bloch (1886-1944) đối với chúng ta rất có
ý nghĩa.
Là người chuyên về sử trung thế kỷ đồng thời là một người yêu nước, đã
chết trong trại tập trung của phát xít Đức – M. Bloch từng khái quát, “sự bùng
nổ của thất vọng và thành kiến, những hành động không được suy xét kỹ, những
bước ngoặt bất thình lình trong đời sống tinh thần… những cái đó mang lại nhiều
khó khăn cho những nhà lịch sử có bản năng quen dựng lại quá khứ theo sơ đồ của
trí tuệ. Tất cả những hiện tượng đó đều tồn tại ở mọi thời điểm lịch sử… mà chỉ
những sự xấu hổ ngu ngốc mới câm lặng không nói tới”.
M. Bloch chê trách các
đồng nghiệp của mình
“Đọc những cuốn sách lịch sử hiện nay, có thể thấy nhân
loại hiện ra như là hoàn toàn gồm những người hoạt động một cách lôgích, trong
họ không có một chút gì là bí mật”.
Ông khẳng định “Chúng ta sẽ xuyên tạc lịch
sử một cách nghiêm trọng, nếu luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng quy nó về những
mô-típ hoàn toàn tự giác[2].
Cho đến nay, những ý
kiến tương tự như của M. Bloch nói trên hầu như chưa được giới thiệu ở Việt
Nam. Nếu chúng tôi không nhầm thì kiểu nhận thức đơn giản, máy móc không chỉ có
ở những người nghiên cứu lịch sử văn học, mà ở cả những người nghiên cứu lịch
sử ở ta nói chung.
Trong tình hình đó, sự hạn chế của một số công trình nghiên
cứu lịch sử văn học như chúng tôi trình bày ở đây, là hoàn toàn dễ hiểu, nhưng
không phải vì thế mà cứ nên tiếp tục.
Không làm nghèo di sản
Một trong những yêu cầu
đặt ra đối với các ngành lịch sử văn hóa là tìm hiểu, phân tích cho thấu đáo
những giá trị đã được các thế hệ đi trước sáng tạo, tìm ra mối liên hệ giữa các
giá trị đó với cuộc sống hiện tại, lấy chúng làm giàu thêm cho con người hiện
đại.
Nhưng nói một cách
nghiêm khắc đây lại là khâu yếu nhất trong toàn bộ công việc tiếp thu di sản mà
chúng ta đã làm trong thời gian vừa qua.
Trên nguyên tắc thì ai cũng nói là
phải trở về với dân tộc, phải trân trọng mọi thành quả của ông cha. Nhưng trên
thực tế, thì những thái độ thô bạo tha hồ tung hoành. Kết quả là nhiều khi
chúng ta hiện ra như những kẻ hẹp hòi đến cay nghiệt.
Nhân danh những lợi ích
trước mắt, các nhà nghiên cứu sẵn sàng lớn tiếng phê phán người này chỉ ra
những hạn chế ở tác phẩm kia, từ đó quyết định không công bố thơ Nguyễn Húc
(theo sự tiết lộ của Huệ Chi), trù dập cả Chinh phụ ngâm lẫn Cung
oán ngâm, gán cho Sơ kính tân trang cái tội tày đình “con
dao hai lưỡi”, xếp thơ văn Tự Đức và Tùng Thiện Vương vào tủ rồi tuyên truyền
rằng đó là thứ thơ văn xa lạ với quyền lợi của nhân dân.
Cũng do những thành
kiến tai hại đó chi phối mà một thời gian dài, trừ Thạch Lam còn hầu như toàn
bộ Tự lực văn đoàn bị đẩy vào bóng tối, một kiệt tác như Chùa
đàn không làm sao được ló mặt trong Tuyển tập của Nguyễn Tuân,
còn thơ Nguyễn Bính trong Tâm hồn tôi, một ngàn cửa sổ, Mây
Tần thì giống như số phận của người chị trong Lỡ bước sang
ngang“… Chị giờ sống cũng bằng không – Coi như chị đã ngang sông
đắm đò”.
May mà tình hình bung ra trong ngành xuất bản mấy năm nay gỡ lại
hộ, nếu không rất nhiều báu vật trong kho tàng văn học dân tộc bị xếp xó, nhiều
tên tuổi bị quên lãng, nhiều cuốn sách trở thành những kỷ niệm mà may ra lớp
người đi trước mới biết là có!
Trên nguyên tắc, chúng
tôi chia sẻ với ý kiến của Nguyễn Huệ Chi là phải lấy tiêu chí chủ
nghĩa nhân bản để bổ sung cho tiêu chí chủ nghĩa yêu nước, ngõ hầu giải
phóng cho khoa lịch sử văn học khỏi những hẹp hòi thiển cận hiện nay.
Vả chăng
cũng đã đến lúc bản thân từng khái niệm nhân đạo, yêu
nước đòi hỏi một cách hiểu đa dạng cởi mở hơn.
Một tác phẩm trong đó
tác giả nói to lên rằng mình thương xót những người nghèo khổ đã đành là có tư
tưởng nhân đạo. Nhưng nếu chỉ giới hạn chủ nghĩa nhân đạo trong một nghĩa cụ
thể như vậy thì đã tự mình làm nghèo mình đi rất nhiều! Những bài thơ cuốn
truyện có tham vọng trình bày kỹ lưỡng những khía cạnh tế nhị trong quan hệ
giữa người với người, và phanh phui cho hết cái quanh co phức tạp trong cuộc
đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng trong từng tâm hồn con người, những tác
phẩm đó lẽ nào không được ghi vào bảng vàng của chủ nghĩa nhân đạo?
Tương tự
như vậy, yêu nước không chỉ là tham gia chống ngoại xâm, trong thực tế lịch sử
dân tộc, chủ nghĩa yêu nước còn được bộc lộ ở nhiều hình thức khác mà hiện nay
chúng ta tổng kết chưa hết.
Bản lĩnh của một dân tộc không phải chỉ bộc lộ ở
khả năng giữ gìn giang sơn bờ cõi ở đó các thế hệ nối tiếp đã sinh sống. Bản
lĩnh một dân tộc còn phải được xem xét ở khả năng của dân tộc đó trong việc tìm
ra cách sống hòa hợp với các dân tộc khác, tiếp nhận một cách thông minh những
ảnh hưởng văn hóa ngoại nhập đó để làm giàu cho cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của mình.
Trên ý nghĩa ấy mà xét tất cả những đóng góp nhằm làm cho đất nước ngày một
canh tân đổi mới, xã hội ngày một văn minh tiến bộ thực chất đều đáng được xem
là hành động yêu nước thương nòi, cũng tức là đáng được khoa học lịch sử – trong
đó có lịch sử văn học – ghi nhận đầy đủ.
1991
Đã in Tạp chí văn học 1991, số 3, dưới
bút danh Vũ Tam Giang
Chú thích:
[1]Trong cả ba đoạn
trích dẫn này, chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi (V.T.N.)
[2]Trích từ Ca tụng lịch sử bản dịch tiếng Nga, Nxb
Khoa học, Moskva, 1973.
bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong khoa
học xã hội nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng của Nguyễn Huệ Chi.
Nhân đó, chúng tôi có bài viết dưới đây. Bài viết đã từng được đưa vào phụ lục
của cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình
hiện đại hóa trong văn học Việt Nam in 2005.
Những cắt xén
tùy tiện mang tính cách vụ lợi
Trong sách Lịch
sử văn minh Trung Quốc, học giả W. Durant có kể lại một đặc điểm của Khổng
Tử “vị hiền triết già ấy có thói quen không ngại làm sai sự thực đi đôi chút,
để lịch sử có một ý nghĩa luân lý”.
Chúng tôi không đủ trình
độ để kiểm tra xem các tài liệu có liên quan đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… ở ta
có bị cắt xén theo cách ấy không. Nhưng nhìn vào các bài viết, các công trình
nghiên cứu hoặc giản dị hơn, cách giới thiệu khi xuất bản các sáng tác thuộc về
văn học Việt Nam thế kỷ XX, thì thấy lối làm việc trên đây của Đức Thánh Khổng
được vận dụng một cách rất tự nhiên, khéo léo.
Ai cũng biết rằng Thế
Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… là những kiện tướng của văn học trước 1945, song lại có
đóng góp lớn vào đời sống văn nghệ sau 1945. Bởi vậy, các sáng tác cũ của các
ông dễ được chúng ta ưu ái hơn so với những người đương thời. Ngay từ
1982-1983, Thế Lữ, Xuân Diệu đã có Tuyển tập của mình. Nhưng
các tuyển tập đó được làm như thế nào?
- Trong Tiểu sử ghi
ở đầu sách, những người làm tuyển tập lờ hẳn đi việc cả Thế Lữ và Xuân Diệu đều
đã có chân trong Tự lực văn đoàn.
- Các bài báo của Thế Lữ
in trong mục Tin thơ, Tin văn… vắn chỉ ghi trích ở báo Ngày
nay mà quên nói rõ thật ra đó đều là những bài phát biểu quan niệm
chính thức của nhóm Tự lực, tranh cãi, chế giễu bài bác lại các báo
khác khi họ công kích Tự lực.
- Hàng loạt bài thơ của
Xuân Diệu trong Thơ thơ, của Huy Cận trong Lửa thiêng,
khi in ra lúc đầu, có chua rõ là tặng Nhất Linh, tặng Khái Hưng, tặng Hoàng
Đạo… nhưng khi in lại, bị rũ sạch, “phi tang”. Ngược lại lời đề tựa của Khái
Hưng cho Vàng và máu của Thế Lữ bản in ra lần đầu cũng bị ngơ
đi, coi như không có.
Trong bài viết này,
chúng tôi không có ý định bàn riêng về sáng tác của Thế Lữ hay Xuân Diệu. Chúng
tôi chỉ lưu ý một điều: nghiên cứu về sáng tác của hai vị đó trước 1945 mà
không đặt các sáng tác ấy vào cái mạch của Tự lực văn đoàn nói
chung thì chẳng khác chi tách cá ra khỏi nước.
Có thể bảo đây là những
ví dụ sinh động, chứng tỏ chủ nghĩa công lợi (chữ của Nguyễn
Huệ Chi) đã thấm vào chúng ta một cách sâu sắc.
Nhưng cũng nên nói thêm rằng ẩn
sau sự tùy tiện đáng sợ, tùy tiện cắt xén thêm bớt trong việc trình bày các sự
kiện trong quá khứ, thực chất là thái độ coi thường lịch sử, cho rằng
hoàn toàn chúng ta có quyền đưa ra một thứ lịch sử hợp với ý muốn của chúng ta.
Mấy chục năm qua sự tùy
tiện này đã chi phối một số người nghiên cứu trong việc đánh giá các sự kiện
văn học quá khứ, dẫn đến những vô lý trong việc cho phép công bố hay cấm đoán
tác phẩm này, tác phẩm nọ.
Xét trên bình diện tư tưởng, bức tranh Cô
gái bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân vốn rất gần với những Hồn bướm
mơ tiên, Đời mưa gió, Gánh hàng hoa. Thế nhưng trong khi Cô gái bên
hoa huệ được thừa nhận như một đóng góp cho hội họa hiện đại, thì các
tiểu thuyết nói trên của Nhất Linh, Khái Hưng bị gạt ra khỏi lịch sử văn học
trong một thời gian dài.
Tại sao? Tại chúng ta có thói quen chú ý đến người,
đánh giá tác phẩm qua người, quan hệ người với thời cuộc, chứ không
phải qua văn, qua sáng tác của người đó nói chung.
Cũng vì con người Nhượng
Tống “có vấn đề” mà một thời gian dài chúng ta đã bỏ qua bản dịch Mái
tây và nhiều bài thơ [dịch] Đỗ Phủ là những đóng góp độc đáo của
Nhượng Tống đối với lịch sử văn học, đặc biệt là trên phương diện ngôn ngữ (mãi
gần đây mới khôi phục trở lại).
Lối hiện đại hóa không
thể chấp nhận
Nếu việc trình bày lịch
sử văn học hiện đại thường mang nặng tính chất tùy tiện và vụ lợi thì nhiều tài
liệu nghiên cứu văn học (từ thế kỷ XIX trở về trước) lại cung cấp những ví dụ
rõ rệt chứng tỏ các nhà nghiên cứu thường hiện đại hóa lịch sử tức “uốn nắn
lịch sử theo con người hiện đại” “làm cho lịch sử mang những nét đồng dạng
với hiện đại” “dẫn tới tình trạng làm nghèo lịch sử” (Nguyễn Huệ Chi).
“Ở đâu có áp bức, ở đó
có đấu tranh. Đó là quy luật của đời sống. Nhân dân ta vốn đã anh dũng trong sự
nghiệp chống ngoại xâm, lại cũng kiên cường bất khuất trong công cuộc đấu tranh
giai cấp diễn ra lâu dài và ngày một trở nên quyết liệt”.
Một đoạn văn với kiểu
viết như trên có thể gặp trong khá nhiều tập sách nghiên cứu văn học, phần viết
về bối cảnh lịch sử (ở đây chúng tôi lấy từ Tuyển tập truyện Việt Nam
thế kỷ X thế kỷ XIX).
Để nội dung ý kiến sang một bên. Điều làm chúng tôi
băn khoăn là cách diễn đạt: chẳng nhẽ chỉ có một công thức duy nhất như vậy để
nói về quá khứ? Trước mắt chúng ta là sách văn học sử hay sách giáo khoa chính
trị, sách giáo khoa triết học?
Khi đi vào miêu tả từng
cá nhân, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng không hề dè dặt gì hết, cứ hồn nhiên
mà khoác lên người các bậc tiền bối những bộ y phục vốn chỉ dành cho con người
hiện đại. Dưới ngòi bút của những người viết văn học sử mà thiếu cảm hứng lịch
sử, các nhà văn nhà thơ vốn sống cách đây từ một đến vài thế kỷ nói chung đều
mang khuôn mặt tinh thần của con người hôm nay. Thậm chí trong một số trường
hợp đọc kỹ một số đoạn miêu tả thấy giá thay chữ ông bằng chữ đồng chí thì
cũng không gây ra cảm giác đảo lộn gì ghê gớm lắm.
Sau đây là một ví dụ:
- Trên con đường đi tìm
một phẩm chất trong sạch, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự giác hoặc không
tự giác kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần lâu đời của dân
tộc, những giá trị tuy bị giai cấp phong kiến lúc bấy giờ vứt bỏ, nhưng vẫn
tiềm tàng trong đời sống của nhân dân (Lời giới thiệu đặt ở
đầu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm).
- Trong tình hình chưa
ổn định của vùng đất đang khai phá việc tập hợp nhân dân và
tất cả những hạng người có thể sử dụng được đòi hỏi phải có một độ lượng rộng
rãi ở người lãnh đạo. Nguyễn Cư Trinh đã tỏ ra tự hào vì đã dung
nạp được mọi hạng người để phục vụ cho công cuộc chung. Để có
thể đạt được sự nghiệp lớn, Nguyễn Cư Trinh đã tự đề ra cho mình những yêu cầu
nghiêm khắc (Nguyễn Cư Trinh là người có kinh nghiệm đấu tranh) có
tinh thần hăng hái tiến lên phía trước… (Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu
thế kỷ XVIII, tập II)
- Nhưng mặt khác cũng
cần vạch ra rằng “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ không có tý liên
hệ nào với quần chúng, nó coi thường quần chúng thậm chí có lúc còn đi
ngược lại quyền lợi của quần chúng. Nhà thơ đã vận dụng nó một
cách giáo điều vào một hoàn cảnh không còn tiền đề cho nó tồn tại nữa (Văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, tập II) [1]
Rộng hơn câu chuyện về
từng cá nhân cụ thể còn thấy có hiện tượng cả một thời kỳ cả một giai đoạn lịch
sử văn học được dựng lại theo kịch bản hiện đại.
Trong nhiều cuốn sách mệnh
danh là công trình nghiên cứu, quá khứ được mô tả cứ làm người ta ngờ ngợ bởi
sao mà nó quá giống đời sống văn học hôm nay.
Ấn tượng đó còn được củng cố thêm
do nơi có sự áp dụng bừa bãi các nguyên tắc lý luận hiện đại cho lịch sử.
Đáng
lẽ phải xuất phát từ chính lịch sử để suy xét và nêu ra vấn đề cho lý luận giải
quyết, thì ngược lại, thường xuyên có tình trạng lấy lịch sử ra để minh họa cho
lý luận. Dù khéo léo, dù thô thiển, song đã gọi là minh họa tức đã làm nghèo
lịch sử mà cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho lý luận thực thụ!
Nên quan niệm về lịch sử
như thế nào?
Có những lối nói, lối
nghĩ phổ biến trong giới nghiên cứu, người nói người kể do giống nhau trong cách tư
duy nên cứ thế chấp nhận rồi nghe mãi quen đi, không thấy lạ, nhưng có người
bạn xa, lắng nghe, thấy không thể chịu được.
Thuộc về cái sự bất cập ấy là
những lý luận của chúng ta khi trình bày những tất yếu lịch sử.
Chẳng hạn,
không hẹn mà nên, cả Hoàng Trung Thông trong bài tựa Tuyển tập Xuân
Diệu, lẫn Vũ Quần Phương trong một bài báo nhân kỷ niệm 50 năm làm thơ của
Xuân Diệu, đều cho rằng sự tham gia cách mạng của Xuân Diệu có tính cách “tất
yếu”.
Một người rất thạo văn học Việt Nam và cũng rất yêu tác giả Thơ
thơ, ông Nam Chi, trong một bài viết sau có in lại trong cuốn Xuân
Diệu, con người và tác phẩm (H. 1987) đã phát hiện ra điều ấy và tỏ ý
hoài nghi: “Nói rằng người này “tất yếu” cách mạng thì có nghĩa là người kia
tất yếu phản động, vì bản chất phản động”.
Sau khi dẫn ra hàng loạt ví dụ bất
ngờ trong sự phân hóa của các văn nghệ sĩ tiền chiến trong thời đầu cách mạng
và những năm kháng chiến, Nam Chi cho rằng cái công thức tất yếu nói
trên là không thể vận dụng để lý giải các hiện tượng văn học.
Nhưng chữ “tất yếu” mà
Nam Chi hoài nghi đó, lại là cái thần, cái hồn cốt chính trong lối
suy nghĩ của chúng ta về xã hội, về lịch sử.
Tư duy dân gian khái quát: ở hiền
gặp lành có nhân có quả. Tư duy hiện đại chỉ nói khác đi một chút: ở hiền cũng
có khi gặp lành mà cũng có khi không, có nhân có khi có quả, có khi không.
Nói
theo thuật ngữ của triết học, thì trong trường hợp thứ nhất (ở hiền gặp lành),
người ta dừng lại ở quyết định luận máy móc, còn trong trường hợp
thứ hai (ở hiền cũng có khi… cũng có khi…) người ta đã tiến sang một bước
mới: quyết định luận xác suất thống kê.
Thế nhưng nói chung, trong
cách lập luận của nhiều người nghiên cứu lịch sử văn học ở ta, kiểu quyết định
máy móc nói trên vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Các hiện tượng lịch sử văn học (một
trào lưu, một tác giả hoặc một tác phẩm) thường được trình bày như một cái gì
tất yếu phải xảy ra, mà không mấy khi làm người đọc bỡ ngỡ vì một sự sinh thành
nảy nở kỳ lạ, tuồng như là ngoài quy luật và phải xem xét kỹ, thậm chí phải
quan niệm lại về quy luật, thì mới thấy nó cũng rất hợp quy luật.
Điều gì đã
cản trở nhà nghiên cứu không cho họ trở thành nhà lịch sử?
Chính là sự cả tin,
tin rằng lịch sử là một cái gì rất sáng rõ, rất mạch lạc, rất thuận lôgích,
lôgích thô thiển theo cách hiểu của họ, trong khi một điều kiện để hiểu lịch sử
là phải giả định rằng ở đó nhiều khuất khúc, nhiều mờ tối, nhiều khả năng đánh
lừa con người và nhà nghiên cứu phải luôn luôn lật đi lật lại vấn đề thì mới
mong phần nào hiểu đúng được lịch sử.
Ở chỗ này, những nhận xét của một nhà
nghiên cứu lịch sử người Pháp là Marc Bloch (1886-1944) đối với chúng ta rất có
ý nghĩa.
Là người chuyên về sử trung thế kỷ đồng thời là một người yêu nước, đã
chết trong trại tập trung của phát xít Đức – M. Bloch từng khái quát, “sự bùng
nổ của thất vọng và thành kiến, những hành động không được suy xét kỹ, những
bước ngoặt bất thình lình trong đời sống tinh thần… những cái đó mang lại nhiều
khó khăn cho những nhà lịch sử có bản năng quen dựng lại quá khứ theo sơ đồ của
trí tuệ. Tất cả những hiện tượng đó đều tồn tại ở mọi thời điểm lịch sử… mà chỉ
những sự xấu hổ ngu ngốc mới câm lặng không nói tới”.
M. Bloch chê trách các
đồng nghiệp của mình
“Đọc những cuốn sách lịch sử hiện nay, có thể thấy nhân
loại hiện ra như là hoàn toàn gồm những người hoạt động một cách lôgích, trong
họ không có một chút gì là bí mật”.
Ông khẳng định “Chúng ta sẽ xuyên tạc lịch
sử một cách nghiêm trọng, nếu luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng quy nó về những
mô-típ hoàn toàn tự giác[2].
Cho đến nay, những ý
kiến tương tự như của M. Bloch nói trên hầu như chưa được giới thiệu ở Việt
Nam. Nếu chúng tôi không nhầm thì kiểu nhận thức đơn giản, máy móc không chỉ có
ở những người nghiên cứu lịch sử văn học, mà ở cả những người nghiên cứu lịch
sử ở ta nói chung.
Trong tình hình đó, sự hạn chế của một số công trình nghiên
cứu lịch sử văn học như chúng tôi trình bày ở đây, là hoàn toàn dễ hiểu, nhưng
không phải vì thế mà cứ nên tiếp tục.
Không làm nghèo di sản
Một trong những yêu cầu
đặt ra đối với các ngành lịch sử văn hóa là tìm hiểu, phân tích cho thấu đáo
những giá trị đã được các thế hệ đi trước sáng tạo, tìm ra mối liên hệ giữa các
giá trị đó với cuộc sống hiện tại, lấy chúng làm giàu thêm cho con người hiện
đại.
Nhưng nói một cách
nghiêm khắc đây lại là khâu yếu nhất trong toàn bộ công việc tiếp thu di sản mà
chúng ta đã làm trong thời gian vừa qua.
Trên nguyên tắc thì ai cũng nói là
phải trở về với dân tộc, phải trân trọng mọi thành quả của ông cha. Nhưng trên
thực tế, thì những thái độ thô bạo tha hồ tung hoành. Kết quả là nhiều khi
chúng ta hiện ra như những kẻ hẹp hòi đến cay nghiệt.
Nhân danh những lợi ích
trước mắt, các nhà nghiên cứu sẵn sàng lớn tiếng phê phán người này chỉ ra
những hạn chế ở tác phẩm kia, từ đó quyết định không công bố thơ Nguyễn Húc
(theo sự tiết lộ của Huệ Chi), trù dập cả Chinh phụ ngâm lẫn Cung
oán ngâm, gán cho Sơ kính tân trang cái tội tày đình “con
dao hai lưỡi”, xếp thơ văn Tự Đức và Tùng Thiện Vương vào tủ rồi tuyên truyền
rằng đó là thứ thơ văn xa lạ với quyền lợi của nhân dân.
Cũng do những thành
kiến tai hại đó chi phối mà một thời gian dài, trừ Thạch Lam còn hầu như toàn
bộ Tự lực văn đoàn bị đẩy vào bóng tối, một kiệt tác như Chùa
đàn không làm sao được ló mặt trong Tuyển tập của Nguyễn Tuân,
còn thơ Nguyễn Bính trong Tâm hồn tôi, một ngàn cửa sổ, Mây
Tần thì giống như số phận của người chị trong Lỡ bước sang
ngang“… Chị giờ sống cũng bằng không – Coi như chị đã ngang sông
đắm đò”.
May mà tình hình bung ra trong ngành xuất bản mấy năm nay gỡ lại
hộ, nếu không rất nhiều báu vật trong kho tàng văn học dân tộc bị xếp xó, nhiều
tên tuổi bị quên lãng, nhiều cuốn sách trở thành những kỷ niệm mà may ra lớp
người đi trước mới biết là có!
Trên nguyên tắc, chúng
tôi chia sẻ với ý kiến của Nguyễn Huệ Chi là phải lấy tiêu chí chủ
nghĩa nhân bản để bổ sung cho tiêu chí chủ nghĩa yêu nước, ngõ hầu giải
phóng cho khoa lịch sử văn học khỏi những hẹp hòi thiển cận hiện nay.
Vả chăng
cũng đã đến lúc bản thân từng khái niệm nhân đạo, yêu
nước đòi hỏi một cách hiểu đa dạng cởi mở hơn.
Một tác phẩm trong đó
tác giả nói to lên rằng mình thương xót những người nghèo khổ đã đành là có tư
tưởng nhân đạo. Nhưng nếu chỉ giới hạn chủ nghĩa nhân đạo trong một nghĩa cụ
thể như vậy thì đã tự mình làm nghèo mình đi rất nhiều! Những bài thơ cuốn
truyện có tham vọng trình bày kỹ lưỡng những khía cạnh tế nhị trong quan hệ
giữa người với người, và phanh phui cho hết cái quanh co phức tạp trong cuộc
đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng trong từng tâm hồn con người, những tác
phẩm đó lẽ nào không được ghi vào bảng vàng của chủ nghĩa nhân đạo?
Tương tự
như vậy, yêu nước không chỉ là tham gia chống ngoại xâm, trong thực tế lịch sử
dân tộc, chủ nghĩa yêu nước còn được bộc lộ ở nhiều hình thức khác mà hiện nay
chúng ta tổng kết chưa hết.
Bản lĩnh của một dân tộc không phải chỉ bộc lộ ở
khả năng giữ gìn giang sơn bờ cõi ở đó các thế hệ nối tiếp đã sinh sống. Bản
lĩnh một dân tộc còn phải được xem xét ở khả năng của dân tộc đó trong việc tìm
ra cách sống hòa hợp với các dân tộc khác, tiếp nhận một cách thông minh những
ảnh hưởng văn hóa ngoại nhập đó để làm giàu cho cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của mình.
Trên ý nghĩa ấy mà xét tất cả những đóng góp nhằm làm cho đất nước ngày một
canh tân đổi mới, xã hội ngày một văn minh tiến bộ thực chất đều đáng được xem
là hành động yêu nước thương nòi, cũng tức là đáng được khoa học lịch sử – trong
đó có lịch sử văn học – ghi nhận đầy đủ.
1991
Đã in Tạp chí văn học 1991, số 3, dưới
bút danh Vũ Tam Giang
Chú thích:
[1]Trong cả ba đoạn
trích dẫn này, chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi (V.T.N.)
[2]Trích từ Ca tụng lịch sử bản dịch tiếng Nga, Nxb
Khoa học, Moskva, 1973.
Published on October 09, 2013 03:11
October 1, 2013
Vừa là người anh hùng có công vừa là viên quan cai trị có tội -- trường hợp Trần Khánh Dư
Bài này tiếp tục khai triển ý tưởng đã trình bày trong Tính cách người cai trị trong lịch sử Việt Nam: trường hợp bạo chúa Lê Long Đĩnh, xem tại blog này ngày 23-5-2013 http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013....
Trong bài trước, tôi đã nói tới trường hợp những người anh hùng trong lịch sử, nhân có công đánh thắng giặc ngoại xâm, khi trở thành vua chúa, tự giành cho mình cái quyền đối xử hết sức tàn tệ với nhân dân.
Bài này nói về một trường hợp muộn hơn vào đời Trần và trong một tình thế gần hơn với chúng ta thời nay.
Một tính cách trải qua nhiều thăng trầm
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339), thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.
Sách Đại việt sử ký toàn thư ( bản của NXb KHXH 1985, t. II tr.58), dưới đây gọi tắt là Toàn thư ghi, trong cuộc chống quân Nguyên lần hai, ông được giao giữ vùng biển phía Bắc, nhưng không chặn nổi quân giặc, bị Thượng hoàng Trần Nhân Tông sai người xiềng giải về kinh. Khánh Dư xin hoãn, sau tập trung tàn quân ta đánh đoàn hậu cần của địch, bắt được hết lương thực khí giới của chúng, nên được tha tội.
Trước chiến công đánh chặn quân lương nói trên, trong việc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ nhất, Trần Khánh Dư còn có nhiều công trạng khác, nên từng được phong tước cao như phiêu kỵ tướng quân có lúc được phong tước tử phục thượng vị hầu, quyền chức phán thủ.
Ngoài những thắng thua trong hoạt động quân sự, đời ông còn cả những thăng trầm trên phương diện quan chức.
Điểm thấp nhất trong bước đường công danh của ông xảy ra trước chiến tranh 1285. Do thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con dâu Trần Quốc Tuấn, ông bị vua Thánh Tông sai người đánh thật nặng, đoạt hết quan tước và tịch thu toàn bộ tài sản. Khánh Dư lui về Chí Linh, theo chữ của Toàn thư là “cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than”.
Nhờ chiến tranh mà ông được phục chức.
Toàn thư (sđ d tr46) kể bấy giờ vua Nhân Tông họp các quý tộc ở bến Bình Than bàn kế chống giặc. Khi đó, nước triều rút gió thổi mạnh có chiếc thuyền lớn chở than củi, người trên thuyền đội nón lá mặc áo ngắn. Vua nhận ra là Trần Khánh Dư, sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Quân hiệu gọi, bảo có lệnh vua triệu, người bán than trả lời “Lão là người buôn bán có việc gì mà phải triệu?”. Vua biết chỉ Trần Khánh Dư mới dám nói thế, liền tiếp tục cho gọi đến, cùng ngồi bàn việc nước.Thấy rất hợp nên khôi phục chức phó tướng hồi trước.
Câu chuyện cho thấy Trần Khánh Dư là một con người ngang tàng có bản lĩnh, dám chấp nhận mọi hoàn cảnh. Ngoài tri thức quân sự ông đã sớm làm quen với cuộc đời thường kể cả việc kinh doanh.
Lợi dụng chiến tranh chống ngoại xâm để làm giầu
Nhà Trần vốn là một dòng họ bên đất Mân truyền sang (sđd t. II, tr 5) cướp ngôi nhà Lý mà thành. Wikipedia tiếng Việt còn ghi rõ tổ tiên của nhà Trần có nguồn gốc ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Những người đầu tiên từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110.
Trong guồng máy chính quyền lúc ấy, các văn quan, các nhà quản lý có vai trò kinh bang tế thế là một cái gì xa lạ. Việc quản lý từ Trung ương đến địa phương trong tay người trong hoàng tộc cũng tức là các tướng lĩnh quân sự.
Trần Khánh Dư sớm được xếp một vai phụ mẫu chi dân.
Trên cương vị này, người anh hùng của chúng ta hiện ra là người thế nào ? Toàn Thư ( sđd tr 59) viết :
Khi Khánh Dư làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy lấy buôn bán làm nghề nghiệp sinh nhai, ăn uống may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo đồ dùng theo tục người Bắc. Khánh Dư duyệt quân các trang ra lệnh” Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi ( Ma Lôi là tên một hương ở Hồng Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón , cho nên lấy tên hương làm tên nón ) ai trái tất phải phạt. Nhưng Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước chở thuyền đến đậu trong cảng rồi. Lệnh vừa ra, sai người ngầm báo dân trong trang: “Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu”. Do đó người trong trang nối gót tranh nhau mua nón, ban đầu mua không tới một tiền, sau giá đắt bán một chiếc nón giá một tấm vải. Số vải thu được tới hàng ngàn tấm. Thơ mừng của một người khách phương Bắc có câu Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh ( “Vân Đồn gà chó thẩy đều kinh” ) là nói thác phục uy danh của Khánh Dư, mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Khánh Dư tính tham lam thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm , mọi người đều rất ghét.
Đoạn sử nói trên cho thấy:
1/Tình trạng phụ thuộc của xứ ta vào nước lạ phương Bắc, càng những miền gần cận biên giới càng phụ thuộc nặng.
2/ Thực trạng công việc quản lý của các nhà quân sự thời Trần.
Toàn bộ hoạt động xã hội lúc ấy dồn vào việc tự vệ chống giặc. Trong khi chuẩn bị chiến đấu lâu dài, người chỉ huy phải có toàn quyền hành động, từ đó dẫn đến sự lợi dụng quyền lực.
Tại sao nên dùng nón Ma Lôi? Là để phân biệt ta với địch. Lệnh thời chiến ai mà dám trái! Nếu chú ý tới chi tiết Trần Khánh Dư cho người đi phao lên rằng thuyền chở nón đã đến để người ta đổ đi mua, thì nói như chúng ta ngày nay, tức là toàn bộ hệ thống chính trị được huy động để phục vụ cho việc kiếm lợi của viên tướng thạo đời này.
Trường hợp của Trần Khánh Dư cũng là trường hợp của nhiều vị anh hùng khác, chẳng qua sử xưa không nói thì chúng ta nay không biết .
Lâu nay ta chỉ nghĩ ông là người anh hùng có công. Nhưng phải nhận, trên cương vị người quản lý xã hội viên quan cai trị dân, người trấn nhậm vùng Vân Đồn lại hiện ra như một kẻ có tội.
Ông tự dành cho mình cái quyền lừa dối nhân dân để kiếm lợi riêng.
Hơn nữa nên biết đó là điều nằm trong quan niệm làm quan (= cai trị) của ông, chứ đây không phải một hành động ngẫu nhiên bị ai xui bẩy. Chính Toàn thư cũng đã ghi một câu thuộc loại “lời nói có cánh” của ông. Đời vua Anh Tông, tiếp theo Nhân Tông, người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn tâu vua: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ ? ”. (S đ d, tr 72)
Có công là một chuyện sử dụng trong cai trị là chuyện khác
Sử học dạy ở các nhà trường hiện nay là thứ sử học soạn ra từ hồi chiến tranh, khi mọi ngành học đều phải hướng vào việc đưa thanh niên đi chiến đấu. Những đoạn vân vi về Trần Khánh Dư có lỗi thường không được cho học sinh biết.
Tôi cũng ở vào tình cảnh vậy. Mãi khi sắp về hưu, mới ngộ ra, quyết dành nhiều thời gian cho sử, với nghĩa tìm thêm những bài học của ông cha khi sống trong thời hậu chiến. Nên nhặt lại được câu chuyện Trần Khánh Dư.
Những chi tiết trên lại gợi ra nhiều suy nghĩ có liên quan tới đời sống xã hội hiện nay.
Cũng như Trần Khánh Dư, người anh hùng mà cuộc chiến tranh ở ta sản sinh ra thực ra cũng không phải là những kẻ siêu phàm. Thời thế đã tạo ra họ với tất cả những chỗ mạnh chỗ yếu rõ ràng mà do yêu cầu hoàn cảnh, ta thường quên đi những chỗ yếu mà chỉ nhớ tới những chỗ mạnh.
Cũng như Trần Khánh Dư, sau chiến tranh cả thế hệ anh hùng thời chống Mỹ lại tự đứng ra chia nhau quản lý các công việc mà trước đó họ chưa từng làm quen.
Điều đáng nói là do đã trải qua chiến tranh, nay họ không muốn học nữa, mà chỉ lo làm giàu thật nhanh để bù đắp lại những vất vả hy sinh mà họ đã gánh chịu trong chiến đấu.
Tôi cho đó là nguồn gốc của những tai vạ trong xã hội hiện nay, khi mà việc làm ăn đều đình đốn và con người thì ngày càng lưu manh sa đọa. Không phải riêng tôi mà những người có quan tâm tới thế sự đều nói như vậy.
Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê ở chương XXI (bị tước bỏ khi in trong nước) có đoạn bàn về việc dùng người ở xã hội ta hiện nay. Ông rất hiểu rằng nay là thời sau chiến tranh nên những người được ưu tiên thường là những người có công trong chiến tranh mà lại kém chuyên môn. Còn người có thực tài mà không có “quá khứ anh hùng “ thì cũng bị cho ra rìa. Và ông cho rằng như thế là nhầm là có hại.
Mở rộng ra, Nguyễn Hiến Lê bàn đến cả sự khác nhau giữa thời chiến và thời bình cùng là cách sử dụng người có công thế nào. Cả sách vở Trung Hoa cổ cũng ông viện dẫn ra để làm chứng.
Kinh Dịch, quẻ Sư, hào 6, cũng đã khuyên ta khi chiến thắng rồi, luận công mà khen thưởng thì kẻ ít học, dân thường tuy có tài chiến đấu, lập được công, cũng chỉ nên thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, vì công việc kiến thiết quốc gia phải là người có tài, có đức mới gánh nổi.
Rồi cả kinh nghiệm các nước khác trên thế giới:
Nước Anh sau mấy năm thế chiến rồi cũng chỉ thưởng tiền cho các danh tướng; chẳng những vậy, năm 1945, khi chiến tranh chấm dứt, họ thay cả viên Thủ tướng, cho Churchill về vườn, mặc dầu ông có công nhất trong việc cứu quốc, diệt Đức; như vậy chỉ vì chính sách thời bình khác thời chiến, nên phải dùng người khác.
Khác nhau trong sự thương dân
Toàn thư (sđd tr 56) có ghi lại một chi tiết năm Ất Dậu 1285, mùa đông tháng mười [vua] xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân vừa qua lao khổ, định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói:”Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét tình trạng hao hụt điêu tàn của dân hay sao?” Quần thần đều khâm phục.
Các nhà sử học chắc dựa vào đoạn này để viết các vua nhà Trần thương dân, luôn luôn biết lo cho dân.
Nhưng nên có sự phân biệt. Vua thương dân nói ở đây là Nhân Tông Trần Khâm trị vì từ 1278 -1293
Đoạn trên đã kể việc Khánh Dư mắc tội thông dâm, vua lúc đó là Thánh Tông liền nổi trận lôi đình, định đánh cho chết; sau có nghĩ lại thì cũng “sai người đánh thật nặng, đoạt hết quan tước tịch thu toàn bộ tài sản, cho lui về Chí Linh “cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than”.
Trở lại với câu nói “có cánh” của Trần Khánh Dư mà ở trên tôi đã dẫn:“Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ ?”.
Toàn thư (sđd tr 72) ghi [nghe Khánh Dư nói vậy] “vua không bằng lòng”.Thế thôi. Và vẫn để Khánh Dư lui về nơi đang trị nhậm.
Vị vua về sau này là Trần Anh Tông, đã được Nhân Tông cho tập sự từ 1284, và chính thức lên ngôi khi Nhân Tông qua đời.
Có thể còn là vội vàng khi nói Anh Tông đã thả cho quan chức tùy tiện lột da dân. Nhưng có điều chắc càng về sau các vua càng nể nả với người có công và đã đặt lợi ích của dòng họ cao hơn so với lợi ích của nhân dân. Cũng từ Anh Tông trở đi, nhà Trần đi dần vào khủng hoảng,đưa đất nước từ đỉnh cao rơi xuống vực thẳm.
Published on October 01, 2013 08:20
September 21, 2013
“ Triết lý” của ăn vụng làm càn
Sở dĩ tôi gộp hai bài viết được viết từ năm
bẩy năm trước, thành bài sau đây, lý do vì chúng cùng nói về một phương diện của người Việt xấu xí xưa và
nay.
Bài thứ nhất nói về sự hình thành của cách sống
càn bậy trong quá khứ.
Bài thứ hai nói về lý do tồn tại của nó trong
xã hội hiện đại, khi mà sự làm liều làm ẩu làm bất chấp quy luật... do yêu cầu của chiến tranh trở thành đại trà, và được dung túng thậm chí
cổ vũ; rồi đến thời làm ăn kinh tế nó lại được đưa lên một tầm cao mới được phép tung hoành thả cửa, và
nếu biết lo liệu, người ta sẽ được cả luật pháp bảo vệ.
I
Đói ăn vụng
túng làm càn
là một trong những câu tục ngữ cửa miệng của người mình.
Đời sống khó khăn xui người ta làm liều, bất
chấp lương tri và những luật lệ thông thường. Không còn phải trái, nên hay
không nên, chỉ có cuồng vọng chỉ có ý thích. Bởi lẽ tiểu xảo tiểu trí, nên trong
lịch sử xã hội ta không có những đám lục lâm cỡ lớn. Song cướp vặt thì lại quá
phổ biến. Đã hình thành cả một lối sống
mà người xưa đã dùng bốn chữ “vô sở bất chí “ để gọi. Vô sở bất chí tức là không
việc gì không dám làm!
Ghi lại những ký ức từ con người và phong
vị của xứ sở, ngoài những truyện ghi lại
nếp sống nghiêm cẩn và những trò chơi tao nhã như thả thơ đánh thơ, như chén trà bên sương sớm… Nguyễn Tuân còn
xếp vào Vang bóng một thời
truyện Ném bút chì.
Có
lúc, truyện được gọi bằng một cái tên đẹp: Một
bọn bất đắc chí. Nhưng bóc đi cái phần lãng mạn thì nội dung của nó là tả sinh hoạt của một
bọn cướp.
Làng Vũ Đại mà Nam Cao miêu tả nhiều trong
truyện ngắn cũng có cướp, nạn cướp vùng đồng chiêm trũng hoành hành như một thế
lực ngang ngược.
Những cảnh cướp vặt ở vùng ngoại ô quê Tô
Hoài thì tầm thường mà không kém phần thê
thảm. Nhân vật Thoại trong Quê người,
ngày tết đi bắt những con chó sợ pháo, bị người ta đánh tới mức thừa sống thiếu
chết, phải cùng bầu đoàn thê tử bỏ làng mà đi.
Khổng
tử trong Luận ngữ từng cho rằng việc
người ta không làm bậy trong cảnh
nghèo còn khó hơn là không kiêu căng khi giàu sang ( Bần nhi vô oán, nan;
phú nhi vô kiêu, dị -- Hiến vấn,
đoạn 11).
Cái điều mà Đức Thánh Khổng lo quả không
thừa. Đây là một đoạn đối thoại trong truyện Bơ
vơ Nguyễn Công Hoan viết 1936:
-- Tại sao mày phải đi ăn cướp ? Sao không kiếm nghề
lương thiện mà làm ăn?
Chúa Cụt mỉm
cười :
-- Bẩm tại con đói (…) Đời không cho con được ăn ở hiền
lành, nên bất đắc dĩ con mới phải ăn
cướp.
- Mày nói lạ.
-- Bẩm thật con đi ở mà người ta không nuôi, con làm gì
người ta cũng không cho làm, gia đình nào cũng hắt hủi con. Người đời đã chẳng
tử tế với con, tất con phải là kẻ thù của họ. Để có những thứ cần để sống, con chỉ còn cách
bắt buộc ấy.
Xã hội hiện đại mở ra cho con người bao
khát vọng tốt đẹp nhưng lại không mang lại cho họ khả năng đạt tới cái lý tưởng
đó. Trong triết học phương tây, có một ý niệm gọi là chủ nghĩa hư vô. Trong dạng
suy đồi của nó, ý niệm này được diễn đạt thành
công thức Chúa đã chết và người ta
có quyền làm bất cứ việc gì !
Sự càn rỡ của người mình có phảng phất
một chút hư vô như vậy. Cũng liều bán váy
chơi xuân, câu thơ Tú Xương mang dáng vẻ một sự thách thức sang trọng.
Nhiều truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhân vật tướng cướp. Họ được hình
thành như một bộ phận của xã hội.
Theo
cách miêu tả của nhà văn trong Cánh buồm
nâu thuở ấy, chất thơ của cuộc sống
tồn tại ngay trong hành động của đám người đứng ngoài luật pháp này.
Nhưng đó là những hoàn cảnh lý
tưởng. Sự thực là ở ta, sự càn rỡ thường
khi hiện ra nhem nhuốc hơn, thấp hèn hơn.
Khi sang Nga, lúc đầu tôi rất ngạc nhiên
thấy cảnh dân đi câu mà nếu chỉ câu được cá bé (dưới mức cân nặng nào đó),
người ta buộc phải thả. Sau biết rằng ở nhiều nước có luật lệ như vậy.
Ở Việt Nam thì khác. Cả những con tôm con,
như cách nói dân gian “mới bỏ vú mẹ” cũng không được tha. Cá không chỉ bị đánh
bằng lưới mà còn bằng mìn, bằng điện, những hành động phải được mệnh danh là
tàn sát là tận diệt thiên nhiên.
Đầu thế kỷ 20, một người Pháp Roland Meyer kể
rằng trên đất Lào có những người Việt trong cơn điên cuồng kiếm sống, đào cả
đình chùa của người ta lấy gạch bán từng thước khối. Ông ta gọi đây là “một mớ
cặn bã của nhân loại “.
Nhà văn Lê Thanh, khi lại chuyện này
trên Tri tân số ra 22-4-1942, tỏ ý rất đau đớn.
Ngày
nay không hiếm tình trạng tương tự.
Tin tức từ Nga cũng như nhiều
nước phương Tây truyền về cho thấy đủ loại
quái chiêu mà dân ta trình ra khi
sang nước người. Trồng cần sa trong nhà. Mò san hô. Buôn ngà voi hoặc vũ khí…
Tất cả những gì bị cấm thì có người Việt dám làm.
Khi mới hình thành, sự liều lĩnh càn
rỡ được ngụy tạo bởi một cảm giác tự do
và cách khẳng định quyền được tồn tại. Người ta cần nó để vượt thoát khỏi tình
thế quẫn bách.
Về sau một thói quen hình thành, con
người coi việc xấu là tự nhiên, không đói cũng ăn vụng không túng cũng làm càn.
Chỉ cần thấy mình không được sung sướng như
người khác, không có dịp tận hưởng nhiều tiện nghi như người khác; chỉ cần muốn
trêu ngươi thiên hạ muốn nổi trội hơn đồng loại, muốn kiếm chác một cách dễ
dàng, muốn làm trò muốn vấy bẩn vào ai đó, -- là người ta cảm thấy có đủ lý do
để càn rỡ rồi.
Báo TT&VH số 6-10-07 có bài nói về nạn đào trộm trống đồng ở Đắk
Lắc. Một thôn có tới 30 trống bị đào
trộm. Người ta sử dụng cả máy dò kim loại. Nếu
biết thêm rằng khi một trống đồng được đào lên tức là cả
không gian văn hóa chung quanh phá vỡ, sẽ thấy cách nói của người Pháp ở
trên không phải là quá đáng.
Cái
càn rỡ hiện nay có bao nhiêu bộ mặt. Nó len lỏi trong hành động của những con
người bình thường, khi họ dễ dãi buông thả và phó mặc cho bản năng thấp kém của
chính mình.
Đã in
trong TT&VH 20 -10 –07 dưới nhan đề
Không đói cũng ăn vụng không túng cũng
làm càn
II
Cáp quang dưới biển bị cắt. Nước tương
có chứa chất gây ung thư cũng được bày bán. Hàng hóa xuất ra nước ngoài kém
phẩm chất bị trả về. Ăn cắp, cướp giật. Lấn chiếm đất công. Bán hàng giả. Những
vụ đua xe náo loạn phố xá. Những đám học
sinh xử
nhau theo kiểu xã hội đen rồi còn quay video tung lên mạng…
Những hành động càn rỡ ấy, nối tiếp vào
các vụ việc bấy lâu chúng ta vẫn nghe —như phá rừng, lấn biển bừa bãi; ăn cắp
nguyên vật liệu trong xây dựng; gọi là cải tạo nhưng thực ra phá hoại môi
trường và tàn phá di sản … — khiến cho nhiều người phẫn nộ và bàn cách chữa
trị.
Tôi cũng thấy thế, song trong bụng không
khỏi thoáng qua một chút hoài nghi. Nhiều hiện tượng cứ nối tiếp theo kiểu “chém
đầu này mọc đầu khác”. Hình như nó đã ăn
vào máu chúng ta rồi. Đã thành cách sống được chấp nhận. Muốn chữa tận gốc, cần
đi tìm cỗi rễ của sự việc trong tâm lý xã hội và trong từng con người.
Nay là lúc trước khi làm chuyện bất lương
nhiều người thường tự nhủ cuộc sống là một canh bạc. Được làm vua thua làm giặc.
Thoát thì giàu to, thành người đàng hoàng. Không thoát đành chịu. Không có luật
pháp, không có lương tâm tự trọng gì hết. Việc gì kiếm ra tiền là có quyền
làm.
Tức là có cả một “triết lý” đứng
đằng sau các hành động nói trên.
Tuy nhiên, điều đáng nói là ở ta
hiện nay, những triết lý nếu có nẩy sinh chỉ xuất hiện dưới dạng một
thứ “tập mờ”, một thứ cảm giác mông lung chứ không đề lên thành
những luận thuyết chặt chẽ. Và ta lầm tưởng là ta chỉ sống theo
bản năng tự nhiên chứ có “triết lý triết luận” gì đâu, nên lại
càng dễ bị nó cuốn theo.
Tôi muốn kết nối những hiện tượng trên với
những vấn đề căn bản của đời sống cộng đồng mấy chục năm nay.
Chỗ ta hay quên — cộng đồng vừa ra khỏi
chiến tranh, một cuộc chiến tranh khủng khiếp nó làm sai lạc cả bản chất con
người chúng ta đến mức gần bốn chục năm sau vẫn chưa gượng dậy được.
Còn nhớ hồi ấy, ở miền Bắc, nhu cầu động
viên thanh niên đi bộ đội rất cao. Học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường khi
cần cũng được gọi đi.
Để giúp người đi thêm yên lòng, có hẳn một
chủ trương là những thanh niên như vậy, dù không học xong cấp III, cũng cho tốt
nghiệp.
Hơn thế nữa, dù trước đó họ có là những
thanh niên càn quấy đi nữa thì việc họ chấp nhận ra đi đã xóa sạch tất cả. Họ
được coi là những người có hạnh kiểm tốt. Sự có mặt ở chiến trường, sự tuân
theo mệnh lệnh đã là cái tiêu chuẩn lớn nhất để đánh giá con người. Họ trở
thành những tấm gương để lớp sau học theo.
Chiến
tranh không có chỗ cho sự suy nghĩ phải trái. Nhân danh những mục đích lớn, thì
thủ đoạn nào cũng được phép. Được làm vua
thua làm giặc, ai trụ lại được trong chiến tranh thành anh hùng, thành
người có công tha hồ làm bậy.
Sang thời hậu chiến, kinh tế đóng vai
trò mặt trận chính. Nhu cầu của đất nước là phát triển sản xuất để
thêm nhiều của cải hàng hóa, là xây dựng, là làm hàng xuất khẩu, là hội nhập …
Trong hoàn cảnh một xã hội rệu rã tan
hoang, hàng núi chi phí bầy ra trước mắt, thì tất cả các hoạt động đa dạng thời
hậu chiến rút lại là làm sao để có tiền. Lý tưởng nhất là mỗi địa phương mỗi
đơn vị mỗi cá nhân làm thêm ra tiền để tự nuôi và nếu nộp cho nhà nước thì càng
nhiều càng tốt.
Khả năng
sinh lợi được coi là khả năng lớn nhất mà cấp
trên đòi hỏi ở cấp dưới, các cơ quan công quyền đòi hỏi ở người
dân. Nó là tư tưởng mà cũng là đạo lý trong thời đại
mới.
Một xu thế suy nghĩ đang thịnh hành, đóng
vai một thứ luật miệng, người ta chỉ cần
hiểu ngầm với nhau. Anh có thể đi buôn dù chức năng anh không phải là buôn; anh
có thể chạy chọt xin xỏ, anh có thể có những sáng kiến kỳ cục, miễn là anh gây
được một thành tựu có tiếng vang trong xã hội …
Trong chiến tranh, nhân danh chống lại kẻ thù,
người ta dành cho mình cái quyền tàn phá cả các đô thị, các di sản, cần bao mạng
người cũng hy sinh không cần tính toán; thì trong làm ăn thời nay, để phục vụ
cho việc làm giầu (cho cộng đồng thì ít mà cho cá nhân thì nhiều)-- hầm mỏ bị
bòn rút đến tàn nhẫn, rừng nguyên sinh bị triệt phá, thế hệ trẻ bị thả nổi để
rồi cuốn theo đủ trò trụy lạc mới học mót được của nước ngoài.
Nói chiến tranh tưởng đã lùi xa mà dư âm còn
vang vọng, tinh thần của nó còn chi phối nhiều hành động của con người là vì
thế.
Lúc
tỉnh táo, ai cũng rõ trong hoàn cảnh một nước còn nghèo và đạo làm người tối
thiểu không cho phép ta sống càn rỡ. Nhưng cuộc sống bế tắc khiến cho người ta
thấy tử tế cũng là vô nghĩa, sự phát triển lành mạnh của con người là chuyện
hão hiền và tương lai thì quá ư mờ mịt.
Trong khao khát làm tất cả để tồn tại, nó –
cách sống càn rỡ vô lối đó - chỉ cho ta con đường dễ mà đi. Giữa lúc khó
khăn, nó mang tới những “chiến công” những “thành tựu” mà xã hội quen nặn
ra để tự lừa mình. Với vẻ hào nhoáng bề ngoài, nó ve vuốt nịnh bợ chúng ta. Hơn
thế nữa, nó lại gắn liền với quá khứ vinh quang. Giã từ sao nổi?
Dưới nhan đê Ẩn kín một triết lý chung , đã in trong Những
chấn thương tâm lý hiện đại ,2009
Trong cuốn ebook trên có thể đọc thêm các bài
I (6) Từ tham lam nông nổi đến càn rỡ bất lương
I(10) Ngày một hung hãn
bẩy năm trước, thành bài sau đây, lý do vì chúng cùng nói về một phương diện của người Việt xấu xí xưa và
nay.
Bài thứ nhất nói về sự hình thành của cách sống
càn bậy trong quá khứ.
Bài thứ hai nói về lý do tồn tại của nó trong
xã hội hiện đại, khi mà sự làm liều làm ẩu làm bất chấp quy luật... do yêu cầu của chiến tranh trở thành đại trà, và được dung túng thậm chí
cổ vũ; rồi đến thời làm ăn kinh tế nó lại được đưa lên một tầm cao mới được phép tung hoành thả cửa, và
nếu biết lo liệu, người ta sẽ được cả luật pháp bảo vệ.
I
Đói ăn vụng
túng làm càn
là một trong những câu tục ngữ cửa miệng của người mình.
Đời sống khó khăn xui người ta làm liều, bất
chấp lương tri và những luật lệ thông thường. Không còn phải trái, nên hay
không nên, chỉ có cuồng vọng chỉ có ý thích. Bởi lẽ tiểu xảo tiểu trí, nên trong
lịch sử xã hội ta không có những đám lục lâm cỡ lớn. Song cướp vặt thì lại quá
phổ biến. Đã hình thành cả một lối sống
mà người xưa đã dùng bốn chữ “vô sở bất chí “ để gọi. Vô sở bất chí tức là không
việc gì không dám làm!
Ghi lại những ký ức từ con người và phong
vị của xứ sở, ngoài những truyện ghi lại
nếp sống nghiêm cẩn và những trò chơi tao nhã như thả thơ đánh thơ, như chén trà bên sương sớm… Nguyễn Tuân còn
xếp vào Vang bóng một thời
truyện Ném bút chì.
Có
lúc, truyện được gọi bằng một cái tên đẹp: Một
bọn bất đắc chí. Nhưng bóc đi cái phần lãng mạn thì nội dung của nó là tả sinh hoạt của một
bọn cướp.
Làng Vũ Đại mà Nam Cao miêu tả nhiều trong
truyện ngắn cũng có cướp, nạn cướp vùng đồng chiêm trũng hoành hành như một thế
lực ngang ngược.
Những cảnh cướp vặt ở vùng ngoại ô quê Tô
Hoài thì tầm thường mà không kém phần thê
thảm. Nhân vật Thoại trong Quê người,
ngày tết đi bắt những con chó sợ pháo, bị người ta đánh tới mức thừa sống thiếu
chết, phải cùng bầu đoàn thê tử bỏ làng mà đi.
Khổng
tử trong Luận ngữ từng cho rằng việc
người ta không làm bậy trong cảnh
nghèo còn khó hơn là không kiêu căng khi giàu sang ( Bần nhi vô oán, nan;
phú nhi vô kiêu, dị -- Hiến vấn,
đoạn 11).
Cái điều mà Đức Thánh Khổng lo quả không
thừa. Đây là một đoạn đối thoại trong truyện Bơ
vơ Nguyễn Công Hoan viết 1936:
-- Tại sao mày phải đi ăn cướp ? Sao không kiếm nghề
lương thiện mà làm ăn?
Chúa Cụt mỉm
cười :
-- Bẩm tại con đói (…) Đời không cho con được ăn ở hiền
lành, nên bất đắc dĩ con mới phải ăn
cướp.
- Mày nói lạ.
-- Bẩm thật con đi ở mà người ta không nuôi, con làm gì
người ta cũng không cho làm, gia đình nào cũng hắt hủi con. Người đời đã chẳng
tử tế với con, tất con phải là kẻ thù của họ. Để có những thứ cần để sống, con chỉ còn cách
bắt buộc ấy.
Xã hội hiện đại mở ra cho con người bao
khát vọng tốt đẹp nhưng lại không mang lại cho họ khả năng đạt tới cái lý tưởng
đó. Trong triết học phương tây, có một ý niệm gọi là chủ nghĩa hư vô. Trong dạng
suy đồi của nó, ý niệm này được diễn đạt thành
công thức Chúa đã chết và người ta
có quyền làm bất cứ việc gì !
Sự càn rỡ của người mình có phảng phất
một chút hư vô như vậy. Cũng liều bán váy
chơi xuân, câu thơ Tú Xương mang dáng vẻ một sự thách thức sang trọng.
Nhiều truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhân vật tướng cướp. Họ được hình
thành như một bộ phận của xã hội.
Theo
cách miêu tả của nhà văn trong Cánh buồm
nâu thuở ấy, chất thơ của cuộc sống
tồn tại ngay trong hành động của đám người đứng ngoài luật pháp này.
Nhưng đó là những hoàn cảnh lý
tưởng. Sự thực là ở ta, sự càn rỡ thường
khi hiện ra nhem nhuốc hơn, thấp hèn hơn.
Khi sang Nga, lúc đầu tôi rất ngạc nhiên
thấy cảnh dân đi câu mà nếu chỉ câu được cá bé (dưới mức cân nặng nào đó),
người ta buộc phải thả. Sau biết rằng ở nhiều nước có luật lệ như vậy.
Ở Việt Nam thì khác. Cả những con tôm con,
như cách nói dân gian “mới bỏ vú mẹ” cũng không được tha. Cá không chỉ bị đánh
bằng lưới mà còn bằng mìn, bằng điện, những hành động phải được mệnh danh là
tàn sát là tận diệt thiên nhiên.
Đầu thế kỷ 20, một người Pháp Roland Meyer kể
rằng trên đất Lào có những người Việt trong cơn điên cuồng kiếm sống, đào cả
đình chùa của người ta lấy gạch bán từng thước khối. Ông ta gọi đây là “một mớ
cặn bã của nhân loại “.
Nhà văn Lê Thanh, khi lại chuyện này
trên Tri tân số ra 22-4-1942, tỏ ý rất đau đớn.
Ngày
nay không hiếm tình trạng tương tự.
Tin tức từ Nga cũng như nhiều
nước phương Tây truyền về cho thấy đủ loại
quái chiêu mà dân ta trình ra khi
sang nước người. Trồng cần sa trong nhà. Mò san hô. Buôn ngà voi hoặc vũ khí…
Tất cả những gì bị cấm thì có người Việt dám làm.
Khi mới hình thành, sự liều lĩnh càn
rỡ được ngụy tạo bởi một cảm giác tự do
và cách khẳng định quyền được tồn tại. Người ta cần nó để vượt thoát khỏi tình
thế quẫn bách.
Về sau một thói quen hình thành, con
người coi việc xấu là tự nhiên, không đói cũng ăn vụng không túng cũng làm càn.
Chỉ cần thấy mình không được sung sướng như
người khác, không có dịp tận hưởng nhiều tiện nghi như người khác; chỉ cần muốn
trêu ngươi thiên hạ muốn nổi trội hơn đồng loại, muốn kiếm chác một cách dễ
dàng, muốn làm trò muốn vấy bẩn vào ai đó, -- là người ta cảm thấy có đủ lý do
để càn rỡ rồi.
Báo TT&VH số 6-10-07 có bài nói về nạn đào trộm trống đồng ở Đắk
Lắc. Một thôn có tới 30 trống bị đào
trộm. Người ta sử dụng cả máy dò kim loại. Nếu
biết thêm rằng khi một trống đồng được đào lên tức là cả
không gian văn hóa chung quanh phá vỡ, sẽ thấy cách nói của người Pháp ở
trên không phải là quá đáng.
Cái
càn rỡ hiện nay có bao nhiêu bộ mặt. Nó len lỏi trong hành động của những con
người bình thường, khi họ dễ dãi buông thả và phó mặc cho bản năng thấp kém của
chính mình.
Đã in
trong TT&VH 20 -10 –07 dưới nhan đề
Không đói cũng ăn vụng không túng cũng
làm càn
II
Cáp quang dưới biển bị cắt. Nước tương
có chứa chất gây ung thư cũng được bày bán. Hàng hóa xuất ra nước ngoài kém
phẩm chất bị trả về. Ăn cắp, cướp giật. Lấn chiếm đất công. Bán hàng giả. Những
vụ đua xe náo loạn phố xá. Những đám học
sinh xử
nhau theo kiểu xã hội đen rồi còn quay video tung lên mạng…
Những hành động càn rỡ ấy, nối tiếp vào
các vụ việc bấy lâu chúng ta vẫn nghe —như phá rừng, lấn biển bừa bãi; ăn cắp
nguyên vật liệu trong xây dựng; gọi là cải tạo nhưng thực ra phá hoại môi
trường và tàn phá di sản … — khiến cho nhiều người phẫn nộ và bàn cách chữa
trị.
Tôi cũng thấy thế, song trong bụng không
khỏi thoáng qua một chút hoài nghi. Nhiều hiện tượng cứ nối tiếp theo kiểu “chém
đầu này mọc đầu khác”. Hình như nó đã ăn
vào máu chúng ta rồi. Đã thành cách sống được chấp nhận. Muốn chữa tận gốc, cần
đi tìm cỗi rễ của sự việc trong tâm lý xã hội và trong từng con người.
Nay là lúc trước khi làm chuyện bất lương
nhiều người thường tự nhủ cuộc sống là một canh bạc. Được làm vua thua làm giặc.
Thoát thì giàu to, thành người đàng hoàng. Không thoát đành chịu. Không có luật
pháp, không có lương tâm tự trọng gì hết. Việc gì kiếm ra tiền là có quyền
làm.
Tức là có cả một “triết lý” đứng
đằng sau các hành động nói trên.
Tuy nhiên, điều đáng nói là ở ta
hiện nay, những triết lý nếu có nẩy sinh chỉ xuất hiện dưới dạng một
thứ “tập mờ”, một thứ cảm giác mông lung chứ không đề lên thành
những luận thuyết chặt chẽ. Và ta lầm tưởng là ta chỉ sống theo
bản năng tự nhiên chứ có “triết lý triết luận” gì đâu, nên lại
càng dễ bị nó cuốn theo.
Tôi muốn kết nối những hiện tượng trên với
những vấn đề căn bản của đời sống cộng đồng mấy chục năm nay.
Chỗ ta hay quên — cộng đồng vừa ra khỏi
chiến tranh, một cuộc chiến tranh khủng khiếp nó làm sai lạc cả bản chất con
người chúng ta đến mức gần bốn chục năm sau vẫn chưa gượng dậy được.
Còn nhớ hồi ấy, ở miền Bắc, nhu cầu động
viên thanh niên đi bộ đội rất cao. Học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường khi
cần cũng được gọi đi.
Để giúp người đi thêm yên lòng, có hẳn một
chủ trương là những thanh niên như vậy, dù không học xong cấp III, cũng cho tốt
nghiệp.
Hơn thế nữa, dù trước đó họ có là những
thanh niên càn quấy đi nữa thì việc họ chấp nhận ra đi đã xóa sạch tất cả. Họ
được coi là những người có hạnh kiểm tốt. Sự có mặt ở chiến trường, sự tuân
theo mệnh lệnh đã là cái tiêu chuẩn lớn nhất để đánh giá con người. Họ trở
thành những tấm gương để lớp sau học theo.
Chiến
tranh không có chỗ cho sự suy nghĩ phải trái. Nhân danh những mục đích lớn, thì
thủ đoạn nào cũng được phép. Được làm vua
thua làm giặc, ai trụ lại được trong chiến tranh thành anh hùng, thành
người có công tha hồ làm bậy.
Sang thời hậu chiến, kinh tế đóng vai
trò mặt trận chính. Nhu cầu của đất nước là phát triển sản xuất để
thêm nhiều của cải hàng hóa, là xây dựng, là làm hàng xuất khẩu, là hội nhập …
Trong hoàn cảnh một xã hội rệu rã tan
hoang, hàng núi chi phí bầy ra trước mắt, thì tất cả các hoạt động đa dạng thời
hậu chiến rút lại là làm sao để có tiền. Lý tưởng nhất là mỗi địa phương mỗi
đơn vị mỗi cá nhân làm thêm ra tiền để tự nuôi và nếu nộp cho nhà nước thì càng
nhiều càng tốt.
Khả năng
sinh lợi được coi là khả năng lớn nhất mà cấp
trên đòi hỏi ở cấp dưới, các cơ quan công quyền đòi hỏi ở người
dân. Nó là tư tưởng mà cũng là đạo lý trong thời đại
mới.
Một xu thế suy nghĩ đang thịnh hành, đóng
vai một thứ luật miệng, người ta chỉ cần
hiểu ngầm với nhau. Anh có thể đi buôn dù chức năng anh không phải là buôn; anh
có thể chạy chọt xin xỏ, anh có thể có những sáng kiến kỳ cục, miễn là anh gây
được một thành tựu có tiếng vang trong xã hội …
Trong chiến tranh, nhân danh chống lại kẻ thù,
người ta dành cho mình cái quyền tàn phá cả các đô thị, các di sản, cần bao mạng
người cũng hy sinh không cần tính toán; thì trong làm ăn thời nay, để phục vụ
cho việc làm giầu (cho cộng đồng thì ít mà cho cá nhân thì nhiều)-- hầm mỏ bị
bòn rút đến tàn nhẫn, rừng nguyên sinh bị triệt phá, thế hệ trẻ bị thả nổi để
rồi cuốn theo đủ trò trụy lạc mới học mót được của nước ngoài.
Nói chiến tranh tưởng đã lùi xa mà dư âm còn
vang vọng, tinh thần của nó còn chi phối nhiều hành động của con người là vì
thế.
Lúc
tỉnh táo, ai cũng rõ trong hoàn cảnh một nước còn nghèo và đạo làm người tối
thiểu không cho phép ta sống càn rỡ. Nhưng cuộc sống bế tắc khiến cho người ta
thấy tử tế cũng là vô nghĩa, sự phát triển lành mạnh của con người là chuyện
hão hiền và tương lai thì quá ư mờ mịt.
Trong khao khát làm tất cả để tồn tại, nó –
cách sống càn rỡ vô lối đó - chỉ cho ta con đường dễ mà đi. Giữa lúc khó
khăn, nó mang tới những “chiến công” những “thành tựu” mà xã hội quen nặn
ra để tự lừa mình. Với vẻ hào nhoáng bề ngoài, nó ve vuốt nịnh bợ chúng ta. Hơn
thế nữa, nó lại gắn liền với quá khứ vinh quang. Giã từ sao nổi?
Dưới nhan đê Ẩn kín một triết lý chung , đã in trong Những
chấn thương tâm lý hiện đại ,2009
Trong cuốn ebook trên có thể đọc thêm các bài
I (6) Từ tham lam nông nổi đến càn rỡ bất lương
I(10) Ngày một hung hãn
Published on September 21, 2013 03:26
September 15, 2013
Trở lại câu chuyện tự học
Trên các mạng vừa thấy có in bài Bàn về chuyện tự học của Cao Xuân Hạo.
Đọc câu đầu tiên của bài Trước hết, cần phải nói rằng, tự học là một chuyện vạn bất đắc dĩ, vì ai cũng biết câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên”, tôi cứ thấy ngờ ngợ.
Theo tôi, phải nói ngược lại.
Ở nước Việt Nam hậu chiến, trong hoàn cảnh một nền giáo dục tệ hại hết chỗ nói như hiện nay, nếu các bạn trẻ muốn lập nghiệp lại trông chờ có được ông thẩy hiểu cho mình, hết lòng với mình, biết hướng dẫn mình một cách khoa học, thì quả là chuyện không tưởng.
Vạn nhất điều đó có thể xảy ra, nhưng trong khi chờ đợi, người trẻ phải lo tự cứu mình trước đã.
Theo nghĩa đó, tôi đề nghị mỗi chúng ta phải coi tự học là chuyện nhất thiết, và nếu làm việc đó một cách đúng đắn, mỗi người sẽ tìm thấy niềm vui lớn lao đủ sức dẫn dắt chúng ta trong suốt cuộc đời.
Điều này cùng một số vấn đề khác của việc tự học đã được tôi đề cập một phần trong bài viết dưới đây, in ra từ 15 năm trước, xin giới thiệu lại để các bạn trẻ tham khảo.
Câu chuyện của người tự học
1. Lời khuyên đầu tiên
Ở trường đại học ra, sau khi thu xếp được một chỗ làm việc tàm tạm, cái việc mà một thanh niên tự trọng hiện nay phải lo đầu tiên, theo tôi chưa phải là lo học thạc sĩ rồi lần lên tiến sĩ... mà là học để có được một ngoại ngữ có thể sử dụng tự do và trước tiên, dư sức đọc các tài liệu chuyên môn.
Mỗi khi có dịp trò chuyện với các bạn trẻ, lời khuyên đầu tiên tôi muốn nói - nếu như được yêu cầu có một lời khuyên - đơn giản như vậy. Đây là kinh nghiệm tự học của tôi, mà cũng là điều tôi rút đúc được, qua nhiều thành bại của các đồng nghiệp.
2. Nhận rõ vị thế của mình!
Các trường đại học mà bọn tôi theo học nhà cửa đơn sơ, phòng học nhiều khi chỉ là mấy gian nhà lá trống trải, sách vở và phương tiện thiếu thốn, cổ lỗ. Nay các trường đại học ở ta đã khang trang to đẹp hơn nhiều. Nhưng, theo chỗ tôi hiểu, trước sau trình độ đào tạo ở ta vẫn vậy, người sinh viên ra trường thường không nhập được vào guồng máy sản xuất của xã hội, còn so với trình độ đại học ở các nước tiên tiến thì lại càng không theo kịp (giá có muốn xin việc ở nước ngoài cũng không ai người ta nhận!)
Chúng ta chỉ được đào tạo rất sơ sài..., chắc chắn đây là điều mà các bạn trẻ đã nghe nhiều lần. Song biết lơ mơ là một chuyện, mà ghi tạc nó vào tâm trí, để biến thành ý chí, nghị lực trong hành động lại là một chuyện khác. Mà chỉ khi nào người sinh viên ở trường ra thấy đau đớn khổ sở vì mình chưa được học đến nơi đến chốn, tiếc cho tuổi trẻ của mình không vươn tới được cái tầm lẽ ra nó có thể vươn tới... thì người ta mới bắt tay vào tự học thực sự, tự học có kết quả.
Nhưng làm thế nào để biết rằng mình còn đang kém cỏi, nếu không đọc rộng ra sách báo nước ngoài? Xin phép được lấy ví dụ từ kinh nghiệm bản thân: Nhờ tự học tiếng Nga, hiểu văn học Nga (và chút ít văn học phương Tây qua tiếng Nga) mà tôi có điều kiện để nhìn nhận văn học Việt Nam phần nào thấu đáo hơn, cũng như quan niệm của tôi, cách hiểu của tôi về văn học nói chung, trong chừng mực nào đó, cũng trở nên hợp lý hơn. Một số bạn trẻ gần đây chỉ lo học ngoại ngữ để giao thiệp, trong khi đó học để đọc sách, kể cả “đọc” qua máy tính... mới là việc chủ yếu của người muốn tự học.
3. Tinh thần lập nghiệp.
Ta chỉ hay nói lớp trẻ nên khiêm tốn biết ơn những người đi trước... Song có một tinh thần nữa mà người thanh niên ngày nay phải thấm nhuần, ấy là không thoả mãn với kiến thức được truyền thụ, coi rằng moi việc người trước đã làm đều chưa hoàn thiện, thế hệ mình còn phải tiếp tục; hoặc trong khi chấp nhận sự hoàn thiện của người đi trước, thì vẫn tin rằng thế hệ mình sẽ có cách làm khác, để đi tới một sự hoàn thiện mới. Về mặt đạo đức mà xét, cách tốt nhất để thế hệ đi sau tỏ lòng biết ơn với những người đi trước, là tìm cách vượt lên trên họ. Sự hiểu biết kỹ lưỡng về thành tựu của những người đi trước là nhân tố có vai trò kích thích người trẻ tiếp tục khai phá mở đường.
4. Mấy “chiêu thức” cần thiết
Có nhiều “động tác” mới nhìn tưởng là chuyện nhỏ, song lại có ý nghĩa quyết định và các bạn trẻ mới bắt tay tự học nên biết :
1/. Các loại sách từ điển bách khoa cho phép người ta có được bức tranh toàn cảnh về một lĩnh vực kiến thức nào đó, bởi vậy, với những người tự học, là một công cụ thật thuận tiện. Vả chăng không phải chỉ tra một từ điển, mà có khi mò mẫm tra nhiều từ điển khác nhau, để tìm ra cái tối ưu. Khi sử dụng Bách khoa toàn thư, không nên quên theo dõi phần thư mục của nó, để tìm xem chung quanh vấn đề mình đang theo đuổi có những quyển sách nào đáng đọc nhất, rồi dành thời gian đọc bằng được. Theo cách này, tôi đã có thể hiểu kỹ thêm vài môn học mà quả thực, lúc học ở trường, chưa được các thày dạy, hoặc dạy quá sơ sài, thậm chí là dạy sai nữa.
2/ Trong khi tự đặt cho mình một kỷ luật làm việc, đồng thời ta nên dành ra những khoảng trống tự do, để từ lĩnh vực mình phải học, đọc lấn sang các lĩnh vực khác. Ví dụ, trong khi học về văn học, tôi đồng thời có ý tìm đọc thêm sách sân khấu, hội hoạ, có lúc lan man sang cả sinh học, cơ học lượng tử... Không bao giờ tôi coi những bước lang thang này là mất thì giờ, ngược lại, thấy biết ơn những kiến thức xa lạ ấy, vì nhờ có chúng, những suy nghĩ của tôi về văn chương và đời sống trở nên mềm mại hơn.
3/ Nên biến việc tự học thành một việc hữu ích. Tức là người tự học cũng nên tính tới những sản phẩm cụ thể, và nếu những sản phẩm này biến thành hàng hoá, mang lại cho đương sự một số tiền nho nhỏ thì...càng tốt. Tôi nhớ hồi đang mê đọc các thứ lý luận về tiểu thuyết, tôi đồng thời nhận làm các bản lược thuật cho Viện thông tin khoa học xã hội. Đáng lẽ chỉ tuỳ tiện ghi lại kiến thức vào sổ tay thì tôi phải trình bày lại chúng một cách sáng sủa, để người khác có thể sử dụng được. Tiền thu được chẳng là bao, nhưng nó buộc tôi phải làm công việc của mình một cách nghiêm túc.
5. Bản lĩnh và may mắn
Bên cạnh yếu tố chủ quan của người đi học, thì việc học hỏi thành bại hay không còn phụ thuộc vào ông thày. Người tự học phải biết tìm thầy cho chính mình. Và nếu như sau một thời gian đọc hàng núi sách, anh chợt nhận ra mình toàn loay loay với những cuốn sách hạng ba hạng tư, thời giờ đã mất, mà kiến thức thu được chẳng bao nhiêu, thì người đáng để anh ta buông lời trách móc lại là chính bản thân anh - oái oăm là ở chỗ đó!
Thường nhìn vào khoa học, người ta dễ bắt gặp một khung cảnh ồn ào lộn xộn. Vậy nên khi bước vào đó, người tự học luôn luôn cần có một chút tỉnh táo để biết trong trường hợp của mình, thầy nào đáng theo, sách nào đáng đọc kỹ trước tiên. Tức là phải có được một bản lĩnh nhất định, và cả một chút may mắn nữa.
Nói là phải đọc hàng ngàn cuốn sách, hàng vạn bài báo khác nhau, song người có kinh nghiệm đều biết trên con đường tự học thực ra chỉ có một hai cuốn sách nào đó với bản thân là có ý nghĩa nhất: những quyển sách ấy làm thay đổi cả hướng đi của mình, do đó cả cuộc đời mình. Nếu như bằng trực giác, bằng mẫn cảm, ta đã tìm được một hai cuốn sách lớn, và biết coi nó là bạn đồng hành suốt đời, đọc mãi không chán, thì hoàn toàn có thể tự coi là mình biết học, và may mắn ấy, không phải ai cũng có.
Nhấn mạnh một chút hên xui không phải để làm chùn bước các bạn trẻ : chính những đỏng đảnh bất định này lại là chút muối mặn mà làm cho công việc tự học của chúng ta không bao giờ nhàm chán.
Trong số rất nhiều định nghĩa về con người hiện đại, có một định nghĩa đơn giản như sau: Đó là con người biết làm ra chính mình.
Theo tiêu chuẩn này mà xét, thì người biết tự học luôn luôn là con người hiện đại./.
1998
Đã in trên viet-studies 17-2-09
Published on September 15, 2013 22:39
September 13, 2013
Thơ của những kẻ "rừng đời lạc lối". Về hai thi sĩ thường bị lãng quên, Thâm Tâm & Trần Huyền Trân
Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình (1917-1950) làm thơ, viết kịch, viết truyện,
nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Tác phẩm: Thơ Thâm Tâm (1988).
Trần Huyền Trân (1913-1989), tác phẩm chính: Rau tần (1987).
Nhu
cầu thưởng thức nghệ thuật có lẽ là một nhu cầu kỳ lạ nhất của con
người. Nó có thể chấp nhận mọi "mặt hàng" hết sức khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau. Nó cũng đa dạng như chính đời sống.
Một dạng hàn nho, một dạng tài tử
Những người mê
tranh dân gian Đông Hồ (từ Đám cưới chuột, Đánh ghen, Hứng dừa đến các
loại tranh lợn, tranh gà, Thầy đồ cóc...) có lẽ ít biết rằng thật ra các
bức tranh này đều có tác giả.
Chỉ hiềm một nỗi phần lớn những người đã
vẽ nên chúng lại sống rất vụng.
Trong cảnh vợ ốm, con đau thúc ép, người
nghệ sĩ tài hoa phải cố vẽ lấy được vài bức tranh rồi mang bán thật
nhanh, không còn thì giờ mà nghĩ ngợi xem tác phẩm ra sao, có xứng đáng
với tên tuổi mình hay không.
Trong đa số trường hợp, các ý đồ tốt đẹp đổ
vỡ tan tành và chỉ để lại mấy mảnh vụn là những tác phẩm dang dở. Nhưng
cũng đôi khi, trong cảnh thúc ép, ngòi bút trở nên xuất thần và tác
phẩm thu được là một cái gì vượt lên bình thường, chắc chắn là lúc tỉnh
táo bình tĩnh, người ta không làm nổi.
Cố nhiên loại nghệ sĩ tài tử
vừa nói là sản phẩm của nền nếp sinh hoạt trung cổ, khi các thị trường
nghệ thuật chưa hình thành và việc sáng tạo còn lẫn với các hoạt động
kiếm sống khác.
Có điều là ngay trong nước Việt Nam thời tiền chiến,
không phải đã hết loại người kì lạ đó.
Cả Thâm Tâm lẫn Trần Huyền Trân
đều có cuộc đời riêng khá éo le kỳ cục. Mỗi khi nghĩ tới họ, trong đầu
óc những người yêu thơ luôn luôn hiện lên một ám ảnh: đáng lẽ họ phải
viết được nhiều hơn, đáng lẽ thơ của họ phải được xuất hiện trong những
thi phẩm trang trọng và cuộc đời của họ phải sung sướng. Nhưng mọi
chuyện lại cứ luôn luôn oái oăm hơn là ta vẫn tưởng và đôi lúc người yêu
thơ chỉ còn có cách tự an ủi:
--Biết đâu nhờ những long đong lật đật như
thế mà họ lại viết được những vần thơ thật tuyệt.
Nghịch phách, cô đơn, giá buốt
Trong
cuộc sống trôi dạt, khía cạnh đầu tiên thường thấy trong tiểu sử nhà
thơ sống vụng về là một sự tản mạn.
Tác phẩm của họ như con rơi, con vãi
tản mát khắp nơi, chính họ cũng không nhớ hết là bản thân đã viết nên
những thứ gì nữa.
Và việc tập hợp để công bố thì chính các tác giả lại
rất chểnh mảng.
Sau mấy lần thất lạc, mãi tới 1987, bản thảo Rau tần của
Trần Huyền Trân mới được in ra, nhưng là ở dạng một tập sách 48 trang,
không có gáy, thơ đóng ghim, và một số bài xếp nối đuôi nhau khá chật
chội.
Trường hợp Thâm Tâm cũng bi đát không kém, cho đến nửa thế kỷ sau
khi qua đời, nhiều bài thơ Thâm Tâm vẫn chưa được sưu tầm đầy đủ (chẳng
hạn, trong số Văn nghệ đặc san tháng 4/1992 người ta lại đưa ra một bài
mới).
Tại sao có sự lơ đãng kéo dài đến vậy, lý do có thể tìm ngay ở
quan niệm về thơ của từng tác giả.
Với họ, thơ là một cái gì ngẫu nhiên
xuất hiện.
Lúc bạn bè gặp gỡ khề khà chén rượu hoặc khi một mình một
bóng quẫn bách đau đớn thì vớ lấy bút để viết. Viết cho vơi những buồn
vui chứa chất trong lòng. Thơ làm ra không cốt công bố, chứ đừng nói
mang bán. Được vài người bạn thật tâm đắc hiểu cho đã cảm thấy được bù
đắp hoàn toàn.
Rộng hơn câu chuyện quy trình sản xuất, thật ra ở đây
có chuyện cốt cách con người, nhân tố quy định cả cách ứng xử của người
làm thơ lẫn nội dung thơ và nhất là cái phần nội dung đã chuyển thành
hình thức, là hơi thơ, giọng thơ.
Trong khi vẫn khác hẳn nhau, như những
phong cách riêng biệt, cả Thâm Tâm lẫn Trần Huyền Trân đều có một nét
chung: cốt cách thi nhân cổ ở họ quá mạnh.
Không phải ngẫu nhiên mà
trong thơ họ, từ Hán Việt khá nhiều và được dùng khá nhuần nhuyễn.
Hơn
thế nữa, cái hơi hướng toát ra từ nhiều bài thơ cứ xui ta nhớ tới phần
thơ biên tái trong thơ Đường.
Đặt bên cạnh những Thế Lữ, Xuân Diệu, cái
tôi của họ không phải không mạnh bằng, nhưng định hướng của cái tôi đó
thì hoàn toàn khác hẳn.
Ở một người như Xuân Diệu, đó là cái tôi ham
sống, muốn sống thật đã đầy, và chỉ sợ người ta quên mình trong bữa tiệc
lớn của cuộc đời.
Ngược lại, cái tôi ở Thâm Tâm, Trần Huyền Trân là cái
tôi của kẻ đi ngược gió (tên một bài thơ của Thâm Tâm), không chịu hùa
theo đời.
- Hay gì bà hỏi đến tôi
Khóc thì trái thói mà cười vô duyên
(Trần Huyền Trân, Thưa bà)
- Lòng ai bầm tím, ai buồn tối
Cũng tại rừng đời lạc lối ra
(Thâm Tâm, Hoa gạo)
Ngậm lời tráng khí, chim bằng ốm
Chuyện lúc thương tâm gái điếm già
Gió thốc hàng hiên lười viễn mộng
Mưa rào mặt cát gợi ly ca
Phiếm du mấy chốc đời như mộng
Ném chén cười cho đã mắt ta
(Thâm Tâm, Can trường hành)
Biết
rằng khác đời là rất khổ, nhưng không tìm được cách để hòa hợp, họ đành
bằng lòng với cô đơn giá buốt, và thỉnh thoảng lắm, tìm thấy chút hơi
ấm ở những người cùng cảnh ngộ (Thâm Tâm, Ngược gió; Trần Huyền Trân,
Với Tản Đà, Lưu biệt - tặng Lê Văn Trương, Sầu chung - tặng Quách Thị
Hồ).
Sự ngang tàng trái khoáy ở đây không phải là vay mượn, là bị tố
lên, mà hiện ra như một cái gì kìm giữ không nổi phải buột ra, òa ra vỡ
ra, nên lại có vẻ cao sang riêng, và thường khi cả sự duyên dáng riêng
nữa.
Quả trái mùa độc đáo
Cũng như mọi ngành nghề khác, con đường
phát triển của những người làm công việc sáng tạo ở nước ta đầu thế kỷ
này là con đường chuyên nghiệp hóa.
Nhưng nghịch lý của nghề văn là ở
chỗ trong khi buộc người ta phải làm hàng đều đều, nó lại vẫn yêu cầu
mỗi nhà văn nhà thơ phải giữ được vẻ tươi nguyên trong xúc cảm, và càng
tỏ ra ít làm nghề càng tốt.
Chính ở chỗ này một số ngòi bút gọi là
chuyên nghiệp trong đời sống văn học tiền chiến bộc lộ sự non yếu của
mình.
Vì mải làm hàng - bảo đảm mặt hàng, để rồi bảo đảm thu nhập - một
số đâm ra nhênh nhang bôi bác, hoặc gò gẫm cố ý, tự lặp lại trông thấy
mà không sao khắc phục nổi.
Nhìn vào một "ông lớn" có thời rất sang
trọng như Lê Văn Trương, một thi sĩ bẩm sinh như Lưu Trọng Lư, thậm chí
một người vừa có tâm hồn, vừa chịu học hỏi và rất có nghề như Xuân Diệu, người sành
điệu đều mang máng nhận ra có phần như thế.
Bấy giờ, nếu được tiếp xúc
với những giọng thơ như Trần Huyền Trân, như Thâm Tâm, như Quang Dũng,
người ta sẽ có cảm giác bắt gặp một cái gì thuần khiết, trong lành - đôi
khi, một thứ quả trái mùa lạ lẫm - và hiểu ra rằng cả sự nghiệp của những thi sĩ loại "thành tựu suốt đời" cũng không che lấp nổi một hai bài hay của những người chỉ tồn tại theo kiểu tài tử nói ở đây.
Không ai
thua được trong trường hợp này, cái chính là một nhu cầu đa dạng đã
thắng thế.
Đã
in Những kiếp hoa dại 1993
nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Tác phẩm: Thơ Thâm Tâm (1988).
Trần Huyền Trân (1913-1989), tác phẩm chính: Rau tần (1987).
Nhu
cầu thưởng thức nghệ thuật có lẽ là một nhu cầu kỳ lạ nhất của con
người. Nó có thể chấp nhận mọi "mặt hàng" hết sức khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau. Nó cũng đa dạng như chính đời sống.
Một dạng hàn nho, một dạng tài tử
Những người mê
tranh dân gian Đông Hồ (từ Đám cưới chuột, Đánh ghen, Hứng dừa đến các
loại tranh lợn, tranh gà, Thầy đồ cóc...) có lẽ ít biết rằng thật ra các
bức tranh này đều có tác giả.
Chỉ hiềm một nỗi phần lớn những người đã
vẽ nên chúng lại sống rất vụng.
Trong cảnh vợ ốm, con đau thúc ép, người
nghệ sĩ tài hoa phải cố vẽ lấy được vài bức tranh rồi mang bán thật
nhanh, không còn thì giờ mà nghĩ ngợi xem tác phẩm ra sao, có xứng đáng
với tên tuổi mình hay không.
Trong đa số trường hợp, các ý đồ tốt đẹp đổ
vỡ tan tành và chỉ để lại mấy mảnh vụn là những tác phẩm dang dở. Nhưng
cũng đôi khi, trong cảnh thúc ép, ngòi bút trở nên xuất thần và tác
phẩm thu được là một cái gì vượt lên bình thường, chắc chắn là lúc tỉnh
táo bình tĩnh, người ta không làm nổi.
Cố nhiên loại nghệ sĩ tài tử
vừa nói là sản phẩm của nền nếp sinh hoạt trung cổ, khi các thị trường
nghệ thuật chưa hình thành và việc sáng tạo còn lẫn với các hoạt động
kiếm sống khác.
Có điều là ngay trong nước Việt Nam thời tiền chiến,
không phải đã hết loại người kì lạ đó.
Cả Thâm Tâm lẫn Trần Huyền Trân
đều có cuộc đời riêng khá éo le kỳ cục. Mỗi khi nghĩ tới họ, trong đầu
óc những người yêu thơ luôn luôn hiện lên một ám ảnh: đáng lẽ họ phải
viết được nhiều hơn, đáng lẽ thơ của họ phải được xuất hiện trong những
thi phẩm trang trọng và cuộc đời của họ phải sung sướng. Nhưng mọi
chuyện lại cứ luôn luôn oái oăm hơn là ta vẫn tưởng và đôi lúc người yêu
thơ chỉ còn có cách tự an ủi:
--Biết đâu nhờ những long đong lật đật như
thế mà họ lại viết được những vần thơ thật tuyệt.
Nghịch phách, cô đơn, giá buốt
Trong
cuộc sống trôi dạt, khía cạnh đầu tiên thường thấy trong tiểu sử nhà
thơ sống vụng về là một sự tản mạn.
Tác phẩm của họ như con rơi, con vãi
tản mát khắp nơi, chính họ cũng không nhớ hết là bản thân đã viết nên
những thứ gì nữa.
Và việc tập hợp để công bố thì chính các tác giả lại
rất chểnh mảng.
Sau mấy lần thất lạc, mãi tới 1987, bản thảo Rau tần của
Trần Huyền Trân mới được in ra, nhưng là ở dạng một tập sách 48 trang,
không có gáy, thơ đóng ghim, và một số bài xếp nối đuôi nhau khá chật
chội.
Trường hợp Thâm Tâm cũng bi đát không kém, cho đến nửa thế kỷ sau
khi qua đời, nhiều bài thơ Thâm Tâm vẫn chưa được sưu tầm đầy đủ (chẳng
hạn, trong số Văn nghệ đặc san tháng 4/1992 người ta lại đưa ra một bài
mới).
Tại sao có sự lơ đãng kéo dài đến vậy, lý do có thể tìm ngay ở
quan niệm về thơ của từng tác giả.
Với họ, thơ là một cái gì ngẫu nhiên
xuất hiện.
Lúc bạn bè gặp gỡ khề khà chén rượu hoặc khi một mình một
bóng quẫn bách đau đớn thì vớ lấy bút để viết. Viết cho vơi những buồn
vui chứa chất trong lòng. Thơ làm ra không cốt công bố, chứ đừng nói
mang bán. Được vài người bạn thật tâm đắc hiểu cho đã cảm thấy được bù
đắp hoàn toàn.
Rộng hơn câu chuyện quy trình sản xuất, thật ra ở đây
có chuyện cốt cách con người, nhân tố quy định cả cách ứng xử của người
làm thơ lẫn nội dung thơ và nhất là cái phần nội dung đã chuyển thành
hình thức, là hơi thơ, giọng thơ.
Trong khi vẫn khác hẳn nhau, như những
phong cách riêng biệt, cả Thâm Tâm lẫn Trần Huyền Trân đều có một nét
chung: cốt cách thi nhân cổ ở họ quá mạnh.
Không phải ngẫu nhiên mà
trong thơ họ, từ Hán Việt khá nhiều và được dùng khá nhuần nhuyễn.
Hơn
thế nữa, cái hơi hướng toát ra từ nhiều bài thơ cứ xui ta nhớ tới phần
thơ biên tái trong thơ Đường.
Đặt bên cạnh những Thế Lữ, Xuân Diệu, cái
tôi của họ không phải không mạnh bằng, nhưng định hướng của cái tôi đó
thì hoàn toàn khác hẳn.
Ở một người như Xuân Diệu, đó là cái tôi ham
sống, muốn sống thật đã đầy, và chỉ sợ người ta quên mình trong bữa tiệc
lớn của cuộc đời.
Ngược lại, cái tôi ở Thâm Tâm, Trần Huyền Trân là cái
tôi của kẻ đi ngược gió (tên một bài thơ của Thâm Tâm), không chịu hùa
theo đời.
- Hay gì bà hỏi đến tôi
Khóc thì trái thói mà cười vô duyên
(Trần Huyền Trân, Thưa bà)
- Lòng ai bầm tím, ai buồn tối
Cũng tại rừng đời lạc lối ra
(Thâm Tâm, Hoa gạo)
Ngậm lời tráng khí, chim bằng ốm
Chuyện lúc thương tâm gái điếm già
Gió thốc hàng hiên lười viễn mộng
Mưa rào mặt cát gợi ly ca
Phiếm du mấy chốc đời như mộng
Ném chén cười cho đã mắt ta
(Thâm Tâm, Can trường hành)
Biết
rằng khác đời là rất khổ, nhưng không tìm được cách để hòa hợp, họ đành
bằng lòng với cô đơn giá buốt, và thỉnh thoảng lắm, tìm thấy chút hơi
ấm ở những người cùng cảnh ngộ (Thâm Tâm, Ngược gió; Trần Huyền Trân,
Với Tản Đà, Lưu biệt - tặng Lê Văn Trương, Sầu chung - tặng Quách Thị
Hồ).
Sự ngang tàng trái khoáy ở đây không phải là vay mượn, là bị tố
lên, mà hiện ra như một cái gì kìm giữ không nổi phải buột ra, òa ra vỡ
ra, nên lại có vẻ cao sang riêng, và thường khi cả sự duyên dáng riêng
nữa.
Quả trái mùa độc đáo
Cũng như mọi ngành nghề khác, con đường
phát triển của những người làm công việc sáng tạo ở nước ta đầu thế kỷ
này là con đường chuyên nghiệp hóa.
Nhưng nghịch lý của nghề văn là ở
chỗ trong khi buộc người ta phải làm hàng đều đều, nó lại vẫn yêu cầu
mỗi nhà văn nhà thơ phải giữ được vẻ tươi nguyên trong xúc cảm, và càng
tỏ ra ít làm nghề càng tốt.
Chính ở chỗ này một số ngòi bút gọi là
chuyên nghiệp trong đời sống văn học tiền chiến bộc lộ sự non yếu của
mình.
Vì mải làm hàng - bảo đảm mặt hàng, để rồi bảo đảm thu nhập - một
số đâm ra nhênh nhang bôi bác, hoặc gò gẫm cố ý, tự lặp lại trông thấy
mà không sao khắc phục nổi.
Nhìn vào một "ông lớn" có thời rất sang
trọng như Lê Văn Trương, một thi sĩ bẩm sinh như Lưu Trọng Lư, thậm chí
một người vừa có tâm hồn, vừa chịu học hỏi và rất có nghề như Xuân Diệu, người sành
điệu đều mang máng nhận ra có phần như thế.
Bấy giờ, nếu được tiếp xúc
với những giọng thơ như Trần Huyền Trân, như Thâm Tâm, như Quang Dũng,
người ta sẽ có cảm giác bắt gặp một cái gì thuần khiết, trong lành - đôi
khi, một thứ quả trái mùa lạ lẫm - và hiểu ra rằng cả sự nghiệp của những thi sĩ loại "thành tựu suốt đời" cũng không che lấp nổi một hai bài hay của những người chỉ tồn tại theo kiểu tài tử nói ở đây.
Không ai
thua được trong trường hợp này, cái chính là một nhu cầu đa dạng đã
thắng thế.
Đã
in Những kiếp hoa dại 1993
Published on September 13, 2013 23:17
September 7, 2013
Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ
Những xúc động thường trực
“Người ta làm thơ như thế nào?”. Đã
nhiều lần, trong tôi nảy ra cái câu hỏi có vẻ tò mò vậy, mà chưa dám hỏi một
ai, vì nhiều lần cứ định hỏi là mọi người tìm cách lảng. May mà Xuân Quỳnh
không lảng tránh thẳng thừng. Để giúp tôi “mục sở thị”, bên cạnh bài thơ, chị
cho xem những quyển vở đã ghi chi chít những chữ là chữ: Chị đã nháp bài thơ ra
văn xuôi trước khi hoàn chỉnh nó và cho nó một khuôn mặt cố định trên trang
giấy.
- Lúc viết những dòng này, tôi như
người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong
đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy
đơn giản hơn.
Ngừng một lát, dường như để nhớ lại
một chuyện gì đấy, Xuân Quỳnh kể thêm:
- Hôm nọ có người hỏi tôi có hay
thuộc thơ mình không. Quả thật, có khi tôi quên chứ không phải cái gì cũng
thuộc đâu. Nhưng những bài thơ mà tôi thích thì bao giờ tôi cũng nhớ, nhớ cái
tâm trạng nó chi phối mình, khi làm bài thơ ấy...
- Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc
động?
- Người khác thế nào, tôi không
biết. Với lại, ông còn lạ gì những xúc động ẩm ương của những nhân vật ấm đầu,
khi viết tưởng mê man run rẩy lắm mà bài thơ vẫn nhạt như nước ốc. Nhưng đúng
là bản thân tôi, lúc viết, như là bị ám ảnh, phải viết ra bằng được mới thôi.
Còn hình thức thơ bốn chữ hay thơ tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà có
mỗi cái vần bắt không xong, thì còn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa.
Nói đến đây, Xuân Quỳnh cười xoà,
bảo tôi cất các thứ tài liệu chị cho mượn vào túi, rồi lảng sang chuyện
khác.
Mạch thơ hồn hậu
Thời xưa, tương truyền có những nhà
thơ xuất khẩu thành chương, những người buộc phải làm thơ về một đề tài nào đó
trong một thời hạn nào đó, và danh bất hư truyền, bao giờ cũng viết nên những
bài thơ đọc được.
Gạt đi lối bắt vần ép chữ gò
gẫm kiểu mấy chàng hay chữ làm thơ con cóc, thì đúng là có những người sinh ra
để làm thơ, và các bài thơ được hình thành một cách xuất thần, nghĩa là thật dễ
dàng, như có ai ốp đồng vào tay vậy. Kiểu như thơ Hồ Xuân Hương:
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ
- Một đàn thằng ngọng đứng xem
chuông
Thơ Tú Xương:
- Sông kia rày đã nên đồng...
Ở đây tôi không dám nói trong những
người làm thơ hiện nay, ai sẽ còn lại với văn học, sáng tác của ai có giá trị
lâu dài. Nhưng nếu như cần nêu lên một người hình như rất gần với thơ, sinh ra
để làm thơ, thì người đó là Xuân Quỳnh.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng
Mạnh có lần bảo tôi:
- Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã
gọi là phụ nữ thì phải sinh con đẻ cái vậy.
Sau khi đọc xong bài Sóng,
đăng trên báo Văn Nghệ - đầu 1968, nhà thơ Vũ Cao cũng có tâm sự, đúng
kiểu đồng nghiệp vẫn nhìn nhau:
- Bài này Quỳnh nó viết bợm thật.
Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩ là phải viết, viết một cái gì cho
ra trò một chút, cho nó phải nể.
Những ý kiến tương tự như thế - khen
thơ Xuân Quỳnh dễ đọc, khen thơ làm tự nhiên mà thuyết phục - khá nhiều.
Thì ra, bên cạnh việc nhắc nhở nhau
lao động kiên nhẫn, bền bỉ, chúng ta còn đều thống nhất ở một điểm nữa: vẻ đẹp
cao quý nhất trong văn học phải là vẻ đẹp tự nhiên. Nó không có quyền mang dấu
ấn những gắng gỏi gò gẫm nơi tác giả, dù khi viết, tác giả đã phải lao tâm khổ
tứ rất nhiều. Nhà văn phải làm chủ cảm hứng của mình, phải biết “thai nghén”,
chuẩn bị, lại phải mau mắn thông minh khi “sinh nở”. Nhiều người thành công cho
biết càng kéo dài thời gian viết, tác phẩm càng dễ nhạt.
Theo sự quy định của hoàn cảnh
Ấn tượng về một cái gì tự nhiên càng
rõ rệt hơn khi người ta nhìn vào con đường Xuân Quỳnh đã qua để đến với văn
học.
Có một chi tiết tiểu sử nhiều người
đã biết, ấy là trước khi làm thơ, Xuân Quỳnh là một diễn viên múa. Khi nghĩ đến
nghề này, nhiều người tỏ ý coi thường và quả thật họ có lý riêng: ở Việt Nam,
nghệ thuật múa chưa được nâng lên thành một hoạt động tinh thần mà chỉ dừng lại
thuần tuý ở một sự khéo léo bản năng. Trường hợp của Xuân Quỳnh cũng không ra
ngoài cái quy luật chung đó. ở tuổi mười bốn, thấy có thông báo tuyển văn công
liền thử vào thi xem sao và từ khi thi vào đến khi chia tay chẳng qua một
trường lớp nào cả.
Nhưng nghĩ lại thì con đường mà Xuân
Quỳnh đến với thơ so với hồi đến với múa đâu có khác?! Cũng như nhiều bạn bè
cùng lứa, người làm thơ này đã làm cái nghề mình có năng khiếu theo kiểu tự
nhiên thích, thấy mọi người làm thì cũng thử làm xem sao, và lấy số lượng thơ
được công bố để đo tính tài năng của mình; năng nhặt chặt bị, sau những bài
đăng báo thì tính chuyện dồn thơ lại thành tập. Nếu cần nói tới một ám ảnh
thường trực thì đấy là ám ảnh có tác phẩm được in, hay nói rộng ra, được nói to
lên trước mọi người, được xuất hiện trước công chúng; ngoài ra những vấn đề như
thơ là gì, thơ có thể thay đổi như thế nào xem như chuyện trừu tượng xa
vời, không việc gì phải băn khoăn cả. Mỗi cá nhân hãy tự khẳng định đi! Còn cái
cách để tự khẳng định thì trông vào những người đi trước! Chẳng hạn, một quy
trình làm việc quen thuộc của các nhà thơ lúc này là đi thực tế rồi về có ngay
sáng tác kịp thời, quy trình này được Xuân Quỳnh tiếp nhận một cách tự nguyện.
Nhiều lần lên rừng xuống biển. Nhiều lần về các vùng nông thôn Thái Bình, Hưng
Yên. Riêng hai năm 1969-1970 lặn lội vào vùng đất lửa Quảng Bình hàng tháng
trời. Đi đâu trở về nhà thơ cũng có được những sáng tác mới, chúng mang được
cái nhìn riêng về những vùng đất mà trước đó chị hầu như chưa quen biết. Bởi ở
đâu chị cũng có được cái nhìn riêng, đồng thời tìm ra sự gần gũi giữa mình với
hoàn cảnh. “Người làm thơ mang tâm hồn trang trải khắp khung cảnh, con người và
sáng tác ra đời là một sự đan dệt tự nhiên giữa chủ quan và khách quan” - qua
Xuân Quỳnh, một công thức quen thuộc của sáng tác như thế được ứng nghiệm và
chứng minh một cách đầy thuyết phục. Xin nhắc lại rằng cái sự tự nhiên này
không phải riêng của Xuân Quỳnh mà của cả hàng loạt bạn bè đồng nghiệp. Mỗi thế
hệ chỉ có được cái vai trò riêng mà lịch sử giao phó cho họ.
Kể ra cũng có những hành động mà
Xuân Quỳnh đã kiên trì theo đuổi để sống với thơ và hơn thế nữa như là chống
lại số mệnh. Một thiệt thòi cho chị và cho nhiều bạn làm thơ cùng tuổi là không
biết ngoại ngữ. Đau lắm thèm lắm, đành theo những lớp học thêm. Nhưng ở Hà Nội
của chúng tôi những năm ấy, giá có biết tiếng sẵn cũng không có sách mà đọc,
việc giao tiếp với nước ngoài bị hạn chế đến mức tối đa thì làm sao mà học
được? Tôi nhớ có một dạo đi đâu trong túi xách của Xuân Quỳnh cũng có tập bài
tiếng Pháp, ngoài ra không thể nhớ hết bao nhiêu lớp chị đã theo học. Bởi lẽ
học ít kết quả nên các lớp đó cũng teo dần và ai muốn học lại theo những lớp
mới, cả đời đi học mà cũng cả đời chưa thể gọi là biết ngoại ngữ để dùng trong
công việc.
Rộng hơn câu chuyện ngoại ngữ, Xuân
Quỳnh còn không có may mắn được học hết phổ thông mà đi công tác, tức là đi
kiếm ăn sớm, và về sau gặp nhiều khó khăn trong việc tự học. Trong khi một số
nhà thơ khác cũng xuất thân tương tự nhưng hồn nhiên vào đời rồi chai lỳ đi,
chẳng thiết đọc nữa, chẳng những thế quay ra hoặc ngấm ngầm hoặc lớn tiếng tự
hào về sự không cần học của mình thì ngược lại Xuân Quỳnh lấy làm tiếc cho mình
một cách chân thành. Thành thử có một điều khiến tôi cảm động, ấy là, trong khá
đông những người bạn viết văn của tôi, thì đây là một trong vài ba người biết
cho sự cần thiết của nghề phê bình văn học mà tôi theo đuổi. Bao giờ nghe tôi
kể rằng vừa đọc được một quyển sách hay, nét mặt chị cũng thoáng qua một nét
buồn như ân hận rằng lẽ ra mình cũng phải đọc chính quyển sách đó. Thế nhưng
cuộc sống xô đẩy rồi cũng phải quen dần và vẻ lam lũ đã là một phong cách ôm
trùm chi phối cuộc sống cũng như công việc viết lách.
Không viết thì phí mất!
Hồi trước 1954, ngôi nhà 96 phố Huế
vốn là một khách sạn (đâu tên cụ thể là Hotel Lục quốc thì phải). Được
cái tiện là ở đó có nhiều loại phòng to nhỏ khác nhau. Bởi vậy, khi trở thành
khu tập thể của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, nơi đây có đủ cả những phòng
khá to 25-30 mét vuông chia cho các cán bộ phụ trách hoặc những gia đình đông
con, lại có những phòng toen hoẻn 9-10 mét vuông chia cho những hộ ít người
hoặc các cán bộ lương thấp.
Vào khoảng đầu 1968, Xuân Quỳnh và
gia đình bốn người (cả chồng con lẫn bà mẹ chồng) được chia hai căn phòng nhỏ
như thế ở hai tầng khác nhau. Và một trong hai căn phòng ấy - cái ở tầng ba chứ
không phải cái ở tầng tư - kiêm luôn mấy việc: phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp
khách. Thời chống Mỹ mọi người nghèo lắm, các gia đình làm gì có ti-vi với đủ
loại phương tiện giải trí như bây giờ. Suốt ngày chạy vạy đong cho được cân mì
hoặc mua cho được lạng thịt và lo hết việc cơ quan trở về đã đủ mệt rồi, cánh
cán bộ nhà nước nhiều buổi tối không nghe đài cũng chỉ ngồi dông dài tán chuyện
thời sự, cuộc sống uể oải cầm chừng lây ngay cả vào đám người làm nghề sáng
tạo, thành thử thấy ai làm được cái gì cho ra tấm ra món cũng thấy quý. Một lần
sau khi được tác giả đọc cho nghe một bài thơ đáng gọi là hay, mà chỉ vừa nghe
nói là định viết vào tối hôm trước, tôi hỏi lại Xuân Quỳnh:
- Bà làm vào lúc nào thế này?
- Hôm qua tiễn các ông về, rồi buông
màn cho thằng cu xong, tôi mới lấy giấy bút ra, lúc kê lên đầu gối lúc bò ra
sàn mà viết. Gần sáng mới chợp mắt được một lúc.
- Sao tự nhiên lại hăng hái thế?
- Sống từ sáng đến chiều vớ vẩn rồi
lúc bắt đầu quay về với thơ chỉ nghĩ “không viết thì phí mất!”. Thế là lại phải
cố mà viết bằng được. Chỉ sợ bao nhiêu nỗ lực của mình chẳng đi đến đâu chỉ sản
sinh ra được những bài thơ dở, khiến người đọc người ta dửng dưng thì cũng buồn
lắm.
Trước tiên là viết cho mình
Hẳn ai cũng biết mối quan hệ giữa
thơ và cuộc sống hàng ngày của người làm ra những bài thơ ấy là một trong những
khâu thiết cốt đối với nghề thơ. Thế nhưng từ chỗ biết vậy đến chỗ có cách xử
lý đúng mức là cả một chuyện rắc rối và nhiều người chỉ nhờ may mắn mà đến được
với con đường đúng đắn. Xuân Quỳnh chính là một trong những người đó.
Chẳng hạn, chúng ta đều biết những
địa danh được nói tới trong một sáng tác (tên một con sông, một dãy núi), vốn
không phải là một cái gì quan trọng. Trong một bài thơ tình, xã Bảo Ninh hay xã
Quang Phú, núi Cánh Diều hay núi Mây Bay thì cũng thế. Không thiếu gì người,
không đến biên giới bao giờ vẫn sẵn sàng đề dưới bài thơ phục vụ kịp thời của
mình mấy chữ: “Biên giới Tây Nam ngày...” cốt để đăng báo. Hoặc lịch sử
thơ ca còn ghi lại không ít trường hợp những bài thơ xuất hiện vì cớ này song
lại được tác giả lái sang một ý nghĩa đâu đâu mà bài thơ vẫn đọc được.
Nhưng Xuân Quỳnh sống theo một niềm
tin khác, và một hành động mang tính tiểu xảo như vậy bị chị coi là gian manh,
không thể chấp nhận được. Trước khi đưa ra bài thơ để mọi người cùng đọc và hy
vọng rằng nó cần thiết cho họ, chị đến với thơ để nói về mình. Nhìn vào con
người và sự vật chung quanh, chị thấy có bản thân ở bên trong và đấy là cái hích
đầu tiên buộc chị cầm bút. Những người có quen riêng tác giả Gió Lào cát
trắng đều biết chị có thói quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến
từng khía cạnh tưởng là nhỏ nhặt. Mỗi bài thơ ra đời, đều có cái lý lịch của
nó. Nó chỉ ra đời với những nguyên cớ cụ thể mà người viết muốn đặt vào nó, gửi
gắm tâm sự của mình trong nó. Nếu chắp các bài thơ đó lại, người ta có thể có
cả cuộc đời Quỳnh. Đấy không phải là một sự khoe khoang hay láu cá nào hết.
Xuân Quỳnh buộc phải viết vậy, hàng ngày, chị đã nghĩ bằng thơ, sống bằng thơ,
dùng thơ để tự hiểu mình. Lúc làm xong bài thơ cũng là lúc nhà thơ thấy lòng
vợi đi ít nhiều, vì những dòng chữ kia như biết chia sẻ với tác giả của nó, cả
những vui sướng cực độ, lẫn những đau đớn đến xé ruột xé lòng. Một lần nào đó
chị tự hào bảo riêng với tôi:
- Nói được niềm vui nỗi khổ của
chính mình, tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác
không được yêu mà mình được yêu, như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết
nói, và nói lên được thành tiếng, hỏi không vui sao được?
Nhạy cảm: ưu thế và tai vạ
Có một bài thơ Xuân Quỳnh viết mang
tên Con yêu mẹ, ở đó khi kể lại cuộc trò chuyện giữa hai mẹ con, tác giả
ghi lại mấy câu vui vui của đứa trẻ, nào là Con yêu mẹ bằng trời xanh / Rộng
lắm không bao giờ hết, rồi vân vi đủ thứ, và kết lại bằng câu Con yêu mẹ
bằng con dế. Một ý tưởng đột ngột mà người ta chỉ bắt gặp ở trẻ con!
Cái cách đùa cợt của đứa trẻ mà nhà
thơ ghi lại trong câu thơ ấy thực ra rất gần với cách nghĩ của chính Xuân Quỳnh
hàng ngày. Trước mắt anh chị em cùng cơ quan hoặc là hàng xóm láng giềng, nhà
thơ thường hiện ra như một con người hồn nhiên cởi mở. Chị bắt chước cách nói
của người nọ, nhại những ý nghĩ buồn cười của người kia. Nhiều khi cùng chứng
kiến một khung cảnh, chưa ai cười được thì con người nhạy cảm ấy đã nghĩ ra cớ
để cười. Đi đến đâu là chị mang theo đến đấy sự vui vẻ, chẳng cần dụng công chị
cũng kéo được mọi người bỏ công bỏ việc ngồi nghe.
Đó là nhờ cái tài ăn nói bẩm sinh:
dù thuật chuyện mình hay chuyện người thì chị cũng biết làm bật lên cái khía
cạnh hài hước của nó, và mang lại cho nó một vẻ sinh động. Thậm chí còn có thể
nói có một con người văn xuôi trong cách nhìn đời của nhà thi sĩ.
Trong đời sống cũng như trong sáng
tác, một sự nhạy cảm như thế là rất cần thiết. Nếu như nó lại được dắt dẫn bởi
một lý trí sáng suốt thì sẽ có thể dẫn người ta đi rất xa. Song có một điều
ngược lại mà ít ai biết: nó cũng có thể là nguồn tai hoạ và khi đó da càng
mỏng càng đau, kẻ nhạy cảm có nghĩa là kẻ chuốc lấy nhiều xót xa ê chề hơn
người khác. Khốn thay đó lại là chỗ yếu không thể khắc phục của Xuân Quỳnh! Sắc
sảo khi bàn tính hộ người song trong việc mưu cầu hạnh phúc riêng thì con người
ấy thường vụng dại. Đọc thơ của chị, nhất là thơ tình một hồi, chúng ta thấy
hiện lên hình ảnh của một người yêu rất nhiều mà nhận lại chả bao nhiêu, đơn
độc đi trong cuộc đời, và lúc nào cũng cảm thấy phía trước là bất hạnh, là bão
tố.
Ở trên tôi đã kể lúc cao hứng lên,
Xuân Quỳnh từng tự hào vì nỗi được nói to lên giữa cuộc đời im lặng. Thế nhưng,
những lúc vất vả quá - vất vả với nghĩa bế tắc, dằn vặt, vất vả về mặt tinh
thần - Xuân Quỳnh lại quay ra mát mẻ:
- Thỉnh thoảng có người, thấy mình
khổ quá, mà vẫn làm được thơ, tỏ ý an ủi: “Bà cứ ráng chịu, rồi chắc có thơ
hay”, tôi đã trả lời thẳng thừng: “Tôi sẵn sàng từ bỏ hết những bài thơ kia đi,
miễn là tôi khỏi khổ!”.
Khao khát và lầm lỡ
Trong cơn say sưa bộc bạch, nữ sĩ Trùng
Dương khi trả lời một cuộc phỏng vấn
trên bán nguyệt san Văn ra ở Sài Gòn khoảng 1973 từng tự nhận: “Nếu
còn tin tưởng ở Thượng đế, tôi sẽ cám ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm
có những dịp lầm lỡ, cộng thêm với một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một
chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí ngạo mạn”.
Tuy ở một phương trời khác, nhưng
Xuân Quỳnh có thể hoàn toàn chia sẻ với những tâm sự kiểu đó: Cái chính là ở
con người này có quá nhiều tham vọng. Những chùm hoa dại trên núi Hoàng Liên
nói lên những ước ao bình thường nhất mà vẫn không thành. Con đê biển tượng
trưng cho sự chịu đựng, tức một sự hy sinh kể ra cũng cần thiết, nhưng lại tước
đi của người ta biết bao mơ ước! Dù biết rằng những hạn chế ấy là không tránh
khỏi, song trong lòng người làm thơ vẫn dậy lên những khao khát thay đổi. Có
cảm tưởng với Xuân Quỳnh sự ham sống là một bản năng thường trực và càng không
được thoả mãn càng thèm muốn. Ngay trong những ngày sống hạnh phúc, con người
đó vẫn cảm thấy là phải mau tận hưởng, nếu không, nó sẽ qua đi rất nhanh. Cuộc
sống vì thế bao giờ cũng căng lên như những sợi dây đàn, người ngoài nhìn vào
thấy sợ hãi thay cho người trong cuộc, nhưng lại hiểu rằng đó là cội nguồn của
sáng tạo.
Giữa đám bạn bè cùng nghề, người thi
sĩ này thường tự nhủ: “Đối với người sáng tác, không gì sợ bằng sự nghèo nàn.
Nghèo trong cảm xúc nhận xét thì không thể tha thứ được”. Trong đời sống hàng
ngày cũng như trong sáng tác, không chịu được cái gì trung bình nhợt nhạt. Yêu hay
ghét, đều phải hết lòng. Thà thái quá còn hơn bất cập. Và bởi lẽ xúc cảm là cụ
thể, là của từng giây phút một, nên chúng thường xuyên thay đổi, một sự thay
đổi đột ngột khiến người ngoài nhìn thấy chóng mặt.
Một người bạn của Quỳnh lúc trẻ là
Bằng Việt đã diễn tả rất hay lối cảm xúc đó của tác giả Gió Lào cát trắng.
Bài thơ Người cùng đi một đường chỉ có cái phụ đề “Gửi một người làm thơ
cùng lứa tuổi” nhưng ai đọc cũng có thể đoán ngay là đề tặng Xuân Quỳnh:
Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh
Đi như lao, như lửa cháy trong mình
Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập
Những sườn dốc, rồi những cua vòng
gấp
Băng trong đời, như bạn đã từng quen
...
Vẫn đó - gió Lào cát trắng trong thơ
Những thượng nguồn sông, buồn vui
bất chợt
Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột
Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa
Về phần mình, tôi nhớ những ứng xử
của Xuân Quỳnh trong đời sống hàng ngày, nét mặt bồn chồn của chị khi chị gặp
một người này, khi mong được tham gia một chuyến đi kia, hoặc nỗi sung sướng và
thái độ trân trọng, quý hoá, khi được cầm trên tay một cuốn sách mà từ lâu đã
nghe tiếng. Có thể nói đấy là những lúc con người ấy biết sống hết từng phút
giây một! Sự thiếu nhẫn nại toát ra ở cái run rẩy của giọng nói. Vẻ sốt sắng
hiện lên trên nét mặt. Tham lam quá đi, mà sự tham lam ở đây lại lộ liễu quá đi
- người ta có thể nhận thấy như thế, và chính Xuân Quỳnh cũng đã cảm thấy như
thế. Nhưng bởi lẽ, nỗi ham muốn đã lên đến cực độ, lại hiểu rằng, vì thơ, vì
sáng tác, sự ham muốn của mình là không vụ lợi (nghĩa là người ta cũng dễ tha
thứ), nên Xuân Quỳnh vẫn sống vậy. Một cách sống luôn luôn mang lại những sung
sướng, và đau khổ hơn người. Câu chuyện sau đây minh chứng cho điều đó: Nhà thơ
có một người chị là Đông Mai hiện đang dạy học ở thành phố Hồ Chí Minh. Một
lần, người viết bài này từ Hà Nội vào SG, tới thăm chị Mai.
- Thế nào cậu, dạo này ngoài đó,
Quỳnh nó sống thế nào? Vui hay buồn?
Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi
trả lời:
- Em gái chị là một người đặc biệt,
nên vui cũng vui hơn người khác mà buồn cũng buồn hơn người khác, làm sao trả
lời cho rành rọt được.
Khi nghe kể lại như vậy, Xuân Quỳnh
chỉ cười, không phản đối. Chắc trong thâm tâm Quỳnh nghĩ: “Đúng là giời đày
mình, nhưng có thế, mình mới viết được”.
Ảo tưởng dai dẳng
Từ khi cho in những bài thơ đầu
tiên, cho tới giữa năm 1988, sửa soạn tập thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã có một
chặng đường thơ khoảng một phần tư thế kỷ. Nhìn vào thơ, thấy con đường con
người này đi khá thông thoáng: cứ đều đều vài ba năm lại có một tập thơ ra đời.
Trong khi nhiều người bạn cùng lứa đã bỏ cuộc, nhiều người già đi, cũ đi, tự
lặp lại mình trong thơ thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên
riêng, và có được cái hơi trẻ trung, tươi tắn. Chẳng những thơ bầu bạn với Xuân
Quỳnh, thơ còn nâng cao con người nhà thơ lên. Qua thơ, người ta bắt gặp một
Xuân Quỳnh hào phóng, nồng nhiệt, tha thiết với cuộc sống.
Tuy nhiên cũng từ đây cách suy nghĩ
của Xuân Quỳnh có một khía cạnh mà từ lâu tôi đã muốn coi như một nhược điểm,
ấy là chủ quan, chủ quan đến mức quá tự tin. Biển quen theo những quy luật
của mình, một câu thơ như vậy buột ra trong một bài thơ viết về biển, và
những người có quen biết đều hiểu rằng đó là lúc nhà thơ nói về bản thân song
đều lo lắng hộ: những ngạo nghễ kiêu hãnh kiểu ấy nó có phần phỉnh nịnh tuổi
trẻ nên lại càng khó gạt bỏ.
- Một tình yêu như thế vẫn y nguyên
- Chỉ còn lại một màu hoa rất trắng
- Đất qua rồi những yêu thương
Có chăng lời hát vẫn còn mà
thôi
- Thời gian của ta không bao giờ mất
Không gì khác đó chính là những ảo
tưởng. Những ảo tưởng trong thơ nhưng cũng là ảo tưởng trong đời sống. Những ảo
tưởng này vốn không chỉ là của riêng của Xuân Quỳnh mà là của hàng loạt người
cùng tuổi, song nếu ở ngoài đời người ta chỉ nói vậy thôi rồi người ta vẫn thực
dụng vẫn kiếm chác, thì nhà thơ của chúng ta sống với nó một cách chân thành,
đấy chính là đầu mối của nhiều bi kịch mà chị sẽ phải đón nhận.
Trong
số những bài thơ mang ảo tưởng của Xuân Quỳnh, tôi nhớ hơn cả đến một bài mang
tên Có một thời như thế nhà thơ cho in vào đầu 1985. Cái thời nói ở đây
là quá khứ của mỗi chúng ta. Tác giả đã bắt rất trúng cái thần của nó khi miêu
tả nó trong sáng, nó đẹp theo kiểu mơ ước viển vông niềm vui thơ dại
hoặc luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng, tôi đã buồn đã khóc những không đâu...
Ngoảnh lại cái thời đó, nhà thơ thấy mình đã thay đổi: mái tóc xanh bắt đầu pha
sợi bạc. Cùng cảm hứng về sự già đi của bản thân là suy nghĩ chung về sự chuyển
biến của đời sống Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết/ hôm nay non mai cỏ sẽ
già. Và sau hết nhà thơ kêu gọi mọi người không tự mê hoặc mình bằng quá
khứ mà hãy hướng về cuộc sống trước mắt:
Quá khứ đáng yêu quá khứ
đáng tôn thờ
Nhưng không phải là điều em ao
ước
Có điều trong
lúc tỉnh táo như vậy tác giả vẫn để chen vào hai câu thơ nói về mình một cách
ảo tưởng:
Em biết quên những chuyện
đáng quên
Và biết nhớ những điều em phải
nhớ
Khi nghe tôi biện luận: “Người mà
làm chủ được hoàn toàn tình cảm của mình như vậy thì chỉ còn là cái máy”, nhà
thơ chỉ cười xoà, song tôi biết trong thâm tâm chị hiểu “rằng quen mất nết đi
rồi”, làm sao mà vượt lên khỏi cái chương trình mà thời đại đã đặt vào
mình cho được.
Những gì còn lại
Thời
gian vốn có sức ám ảnh với tâm trí nhà thơ này. Ngay từ khi mới trên hai mươi
bắt tay làm những bài thơ đầu tiên về tình yêu trong bài Chồi biếc, chị
đã viết đại ý mình chỉ là một phần tử nhỏ nhoi trong dòng người vô tận và tự
nhủ sẽ có lúc hết phiên để nhường cuộc đời đẹp đẽ này cho những cặp tình yêu
khác. Vào khoảng những năm tám mươi, tức khi đã bước sang tuổi bốn mươi, thì
cảm giác ấy càng nẩy nở thường trực. Bài Hoa cúc láy đi láy lại nỗi đau
xót âm thầmkhi tự thấy mình không còn được như hôm qua:
- Bao mùa thu hoa vẫn vàng
như thế
Chỉ em là khác với em xưa
.....
- Bao ngày tháng đi về trên
mái tóc
Chỉ em là khác với em thôi
Cũng từ đây trong thơ đã len vào
những giai điệu khác:
- Đường tít tắp mà ngày đang xế bóng
Mệt mỏi chăng hỡi người bạn đồng
hành?
Sự mệt mỏi ấy trước tiên là đến từ
phía cuộc sống, những lo toan chợ búa gia đình chồng con mà càng những năm gần
đây, với Xuân Quỳnh, càng là một gánh nặng. Nhưng có thể là còn từ phía sáng
tác nữa chăng? Tôi nhớ những lần trò chuyện, khi nào nghe tôi kể có đọc thêm
được quyển này quyển kia, là y như Xuân Quỳnh có vẻ buồn hẳn đi. Hình như một
người nhạy cảm như chị một lúc nào đó, đã mang máng nhận ra rằng trong thơ mình
đã đi đến cùng trên con đường đã chọn, mà đi tìm những nẻo lối mới thì chưa
biết ở đằng nào. Những đòi hỏi học thêm, đọc thêm, những đòi hỏi tìm sự bồi bổ
của văn hoá nói chung, đến tuổi này càng thấy bức thiết, mà sức lực đâu được
như xưa, thời gian còn lại rất ít. Cái bi hài kịch mà mình nhìn nhận thấy ở
không ít bè bạn - bi hài kịch của những người được một hai cuốn sách đầu, đã
trở thành nhà thơ nhà văn rồi, thì sống lêu têu vạ vật chả còn viết được cái gì
nên hồn - cái bi hài kịch ấy, lúc nào cũng có thể đến với mình chăng? Nếu thế
thì buồn, thì mỏi mệt cũng là điều khó tránh.
Còn nhớ khoảng 1985-1986, thỉnh
thoảng tôi lại nghe Xuân Quỳnh thở ra những điều ngán ngẩm:
- Dạo này tôi rất chán. Nhà cửa chật
chội, nóng nảy, bận bịu...
Tôi cũng hùa theo:
- Đời sống khổ quá, có lúc tôi đã tự
nhủ: Chết đi, cũng chả có gì phải tiếc.
- Tiếc thì không tiếc, nhưng nghĩ có
lúc cuộc sống này không có mình nữa cũng buồn.
Đến đó, câu chuyện của chúng tôi
chuyển sang một hướng khác. Nhưng ra về, mà tôi cứ nghĩ vân vi mãi, chẳng lẽ
người kêu rằng chán đời, chán làm thơ đó, lại là Xuân Quỳnh? Bởi những tập sách
còn kia, giở trang nào ra chẳng bắt gặp một con người thèm yêu, thèm sống, và
một trong những bài thơ hay nhất của người đó mang tên Nếu ngày mai em không
làm thơ nữa:
- Và trời xanh xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em
xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.
Điều gì đã xảy ra với người làm thơ
đó và những người cùng lứa khác? Lâu nay, cứ tưởng mình và bạn bè mình còn trẻ,
nay hoá ra ở ngưỡng cửa của tuổi năm mươi rồi, những điều lúc trẻ, tưởng là xa
lạ, sự sống, cái chết là điều phải bàn rồi. Đã đến lúc mình có thể chết rồi
chăng? Hay chết cũng chưa thể là một sự giải thoát đích thực, để chuẩn bị cho
một cái chết xứng đáng phải tiếp tục sống nữa, sống mãnh liệt hơn. Chưa kịp bàn
thêm với nhau thì Xuân Quỳnh đã đi xa rồi, và giờ đây, đối với tôi, chỉ còn có
cách tiếp tục tìm câu trả lời ở những dòng thơ người bạn đó đã viết.
Viết khoảng 1988-93
Đã in Cây bút đời người -2002
“Người ta làm thơ như thế nào?”. Đã
nhiều lần, trong tôi nảy ra cái câu hỏi có vẻ tò mò vậy, mà chưa dám hỏi một
ai, vì nhiều lần cứ định hỏi là mọi người tìm cách lảng. May mà Xuân Quỳnh
không lảng tránh thẳng thừng. Để giúp tôi “mục sở thị”, bên cạnh bài thơ, chị
cho xem những quyển vở đã ghi chi chít những chữ là chữ: Chị đã nháp bài thơ ra
văn xuôi trước khi hoàn chỉnh nó và cho nó một khuôn mặt cố định trên trang
giấy.
- Lúc viết những dòng này, tôi như
người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong
đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy
đơn giản hơn.
Ngừng một lát, dường như để nhớ lại
một chuyện gì đấy, Xuân Quỳnh kể thêm:
- Hôm nọ có người hỏi tôi có hay
thuộc thơ mình không. Quả thật, có khi tôi quên chứ không phải cái gì cũng
thuộc đâu. Nhưng những bài thơ mà tôi thích thì bao giờ tôi cũng nhớ, nhớ cái
tâm trạng nó chi phối mình, khi làm bài thơ ấy...
- Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc
động?
- Người khác thế nào, tôi không
biết. Với lại, ông còn lạ gì những xúc động ẩm ương của những nhân vật ấm đầu,
khi viết tưởng mê man run rẩy lắm mà bài thơ vẫn nhạt như nước ốc. Nhưng đúng
là bản thân tôi, lúc viết, như là bị ám ảnh, phải viết ra bằng được mới thôi.
Còn hình thức thơ bốn chữ hay thơ tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà có
mỗi cái vần bắt không xong, thì còn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa.
Nói đến đây, Xuân Quỳnh cười xoà,
bảo tôi cất các thứ tài liệu chị cho mượn vào túi, rồi lảng sang chuyện
khác.
Mạch thơ hồn hậu
Thời xưa, tương truyền có những nhà
thơ xuất khẩu thành chương, những người buộc phải làm thơ về một đề tài nào đó
trong một thời hạn nào đó, và danh bất hư truyền, bao giờ cũng viết nên những
bài thơ đọc được.
Gạt đi lối bắt vần ép chữ gò
gẫm kiểu mấy chàng hay chữ làm thơ con cóc, thì đúng là có những người sinh ra
để làm thơ, và các bài thơ được hình thành một cách xuất thần, nghĩa là thật dễ
dàng, như có ai ốp đồng vào tay vậy. Kiểu như thơ Hồ Xuân Hương:
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ
- Một đàn thằng ngọng đứng xem
chuông
Thơ Tú Xương:
- Sông kia rày đã nên đồng...
Ở đây tôi không dám nói trong những
người làm thơ hiện nay, ai sẽ còn lại với văn học, sáng tác của ai có giá trị
lâu dài. Nhưng nếu như cần nêu lên một người hình như rất gần với thơ, sinh ra
để làm thơ, thì người đó là Xuân Quỳnh.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng
Mạnh có lần bảo tôi:
- Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã
gọi là phụ nữ thì phải sinh con đẻ cái vậy.
Sau khi đọc xong bài Sóng,
đăng trên báo Văn Nghệ - đầu 1968, nhà thơ Vũ Cao cũng có tâm sự, đúng
kiểu đồng nghiệp vẫn nhìn nhau:
- Bài này Quỳnh nó viết bợm thật.
Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩ là phải viết, viết một cái gì cho
ra trò một chút, cho nó phải nể.
Những ý kiến tương tự như thế - khen
thơ Xuân Quỳnh dễ đọc, khen thơ làm tự nhiên mà thuyết phục - khá nhiều.
Thì ra, bên cạnh việc nhắc nhở nhau
lao động kiên nhẫn, bền bỉ, chúng ta còn đều thống nhất ở một điểm nữa: vẻ đẹp
cao quý nhất trong văn học phải là vẻ đẹp tự nhiên. Nó không có quyền mang dấu
ấn những gắng gỏi gò gẫm nơi tác giả, dù khi viết, tác giả đã phải lao tâm khổ
tứ rất nhiều. Nhà văn phải làm chủ cảm hứng của mình, phải biết “thai nghén”,
chuẩn bị, lại phải mau mắn thông minh khi “sinh nở”. Nhiều người thành công cho
biết càng kéo dài thời gian viết, tác phẩm càng dễ nhạt.
Theo sự quy định của hoàn cảnh
Ấn tượng về một cái gì tự nhiên càng
rõ rệt hơn khi người ta nhìn vào con đường Xuân Quỳnh đã qua để đến với văn
học.
Có một chi tiết tiểu sử nhiều người
đã biết, ấy là trước khi làm thơ, Xuân Quỳnh là một diễn viên múa. Khi nghĩ đến
nghề này, nhiều người tỏ ý coi thường và quả thật họ có lý riêng: ở Việt Nam,
nghệ thuật múa chưa được nâng lên thành một hoạt động tinh thần mà chỉ dừng lại
thuần tuý ở một sự khéo léo bản năng. Trường hợp của Xuân Quỳnh cũng không ra
ngoài cái quy luật chung đó. ở tuổi mười bốn, thấy có thông báo tuyển văn công
liền thử vào thi xem sao và từ khi thi vào đến khi chia tay chẳng qua một
trường lớp nào cả.
Nhưng nghĩ lại thì con đường mà Xuân
Quỳnh đến với thơ so với hồi đến với múa đâu có khác?! Cũng như nhiều bạn bè
cùng lứa, người làm thơ này đã làm cái nghề mình có năng khiếu theo kiểu tự
nhiên thích, thấy mọi người làm thì cũng thử làm xem sao, và lấy số lượng thơ
được công bố để đo tính tài năng của mình; năng nhặt chặt bị, sau những bài
đăng báo thì tính chuyện dồn thơ lại thành tập. Nếu cần nói tới một ám ảnh
thường trực thì đấy là ám ảnh có tác phẩm được in, hay nói rộng ra, được nói to
lên trước mọi người, được xuất hiện trước công chúng; ngoài ra những vấn đề như
thơ là gì, thơ có thể thay đổi như thế nào xem như chuyện trừu tượng xa
vời, không việc gì phải băn khoăn cả. Mỗi cá nhân hãy tự khẳng định đi! Còn cái
cách để tự khẳng định thì trông vào những người đi trước! Chẳng hạn, một quy
trình làm việc quen thuộc của các nhà thơ lúc này là đi thực tế rồi về có ngay
sáng tác kịp thời, quy trình này được Xuân Quỳnh tiếp nhận một cách tự nguyện.
Nhiều lần lên rừng xuống biển. Nhiều lần về các vùng nông thôn Thái Bình, Hưng
Yên. Riêng hai năm 1969-1970 lặn lội vào vùng đất lửa Quảng Bình hàng tháng
trời. Đi đâu trở về nhà thơ cũng có được những sáng tác mới, chúng mang được
cái nhìn riêng về những vùng đất mà trước đó chị hầu như chưa quen biết. Bởi ở
đâu chị cũng có được cái nhìn riêng, đồng thời tìm ra sự gần gũi giữa mình với
hoàn cảnh. “Người làm thơ mang tâm hồn trang trải khắp khung cảnh, con người và
sáng tác ra đời là một sự đan dệt tự nhiên giữa chủ quan và khách quan” - qua
Xuân Quỳnh, một công thức quen thuộc của sáng tác như thế được ứng nghiệm và
chứng minh một cách đầy thuyết phục. Xin nhắc lại rằng cái sự tự nhiên này
không phải riêng của Xuân Quỳnh mà của cả hàng loạt bạn bè đồng nghiệp. Mỗi thế
hệ chỉ có được cái vai trò riêng mà lịch sử giao phó cho họ.
Kể ra cũng có những hành động mà
Xuân Quỳnh đã kiên trì theo đuổi để sống với thơ và hơn thế nữa như là chống
lại số mệnh. Một thiệt thòi cho chị và cho nhiều bạn làm thơ cùng tuổi là không
biết ngoại ngữ. Đau lắm thèm lắm, đành theo những lớp học thêm. Nhưng ở Hà Nội
của chúng tôi những năm ấy, giá có biết tiếng sẵn cũng không có sách mà đọc,
việc giao tiếp với nước ngoài bị hạn chế đến mức tối đa thì làm sao mà học
được? Tôi nhớ có một dạo đi đâu trong túi xách của Xuân Quỳnh cũng có tập bài
tiếng Pháp, ngoài ra không thể nhớ hết bao nhiêu lớp chị đã theo học. Bởi lẽ
học ít kết quả nên các lớp đó cũng teo dần và ai muốn học lại theo những lớp
mới, cả đời đi học mà cũng cả đời chưa thể gọi là biết ngoại ngữ để dùng trong
công việc.
Rộng hơn câu chuyện ngoại ngữ, Xuân
Quỳnh còn không có may mắn được học hết phổ thông mà đi công tác, tức là đi
kiếm ăn sớm, và về sau gặp nhiều khó khăn trong việc tự học. Trong khi một số
nhà thơ khác cũng xuất thân tương tự nhưng hồn nhiên vào đời rồi chai lỳ đi,
chẳng thiết đọc nữa, chẳng những thế quay ra hoặc ngấm ngầm hoặc lớn tiếng tự
hào về sự không cần học của mình thì ngược lại Xuân Quỳnh lấy làm tiếc cho mình
một cách chân thành. Thành thử có một điều khiến tôi cảm động, ấy là, trong khá
đông những người bạn viết văn của tôi, thì đây là một trong vài ba người biết
cho sự cần thiết của nghề phê bình văn học mà tôi theo đuổi. Bao giờ nghe tôi
kể rằng vừa đọc được một quyển sách hay, nét mặt chị cũng thoáng qua một nét
buồn như ân hận rằng lẽ ra mình cũng phải đọc chính quyển sách đó. Thế nhưng
cuộc sống xô đẩy rồi cũng phải quen dần và vẻ lam lũ đã là một phong cách ôm
trùm chi phối cuộc sống cũng như công việc viết lách.
Không viết thì phí mất!
Hồi trước 1954, ngôi nhà 96 phố Huế
vốn là một khách sạn (đâu tên cụ thể là Hotel Lục quốc thì phải). Được
cái tiện là ở đó có nhiều loại phòng to nhỏ khác nhau. Bởi vậy, khi trở thành
khu tập thể của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, nơi đây có đủ cả những phòng
khá to 25-30 mét vuông chia cho các cán bộ phụ trách hoặc những gia đình đông
con, lại có những phòng toen hoẻn 9-10 mét vuông chia cho những hộ ít người
hoặc các cán bộ lương thấp.
Vào khoảng đầu 1968, Xuân Quỳnh và
gia đình bốn người (cả chồng con lẫn bà mẹ chồng) được chia hai căn phòng nhỏ
như thế ở hai tầng khác nhau. Và một trong hai căn phòng ấy - cái ở tầng ba chứ
không phải cái ở tầng tư - kiêm luôn mấy việc: phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp
khách. Thời chống Mỹ mọi người nghèo lắm, các gia đình làm gì có ti-vi với đủ
loại phương tiện giải trí như bây giờ. Suốt ngày chạy vạy đong cho được cân mì
hoặc mua cho được lạng thịt và lo hết việc cơ quan trở về đã đủ mệt rồi, cánh
cán bộ nhà nước nhiều buổi tối không nghe đài cũng chỉ ngồi dông dài tán chuyện
thời sự, cuộc sống uể oải cầm chừng lây ngay cả vào đám người làm nghề sáng
tạo, thành thử thấy ai làm được cái gì cho ra tấm ra món cũng thấy quý. Một lần
sau khi được tác giả đọc cho nghe một bài thơ đáng gọi là hay, mà chỉ vừa nghe
nói là định viết vào tối hôm trước, tôi hỏi lại Xuân Quỳnh:
- Bà làm vào lúc nào thế này?
- Hôm qua tiễn các ông về, rồi buông
màn cho thằng cu xong, tôi mới lấy giấy bút ra, lúc kê lên đầu gối lúc bò ra
sàn mà viết. Gần sáng mới chợp mắt được một lúc.
- Sao tự nhiên lại hăng hái thế?
- Sống từ sáng đến chiều vớ vẩn rồi
lúc bắt đầu quay về với thơ chỉ nghĩ “không viết thì phí mất!”. Thế là lại phải
cố mà viết bằng được. Chỉ sợ bao nhiêu nỗ lực của mình chẳng đi đến đâu chỉ sản
sinh ra được những bài thơ dở, khiến người đọc người ta dửng dưng thì cũng buồn
lắm.
Trước tiên là viết cho mình
Hẳn ai cũng biết mối quan hệ giữa
thơ và cuộc sống hàng ngày của người làm ra những bài thơ ấy là một trong những
khâu thiết cốt đối với nghề thơ. Thế nhưng từ chỗ biết vậy đến chỗ có cách xử
lý đúng mức là cả một chuyện rắc rối và nhiều người chỉ nhờ may mắn mà đến được
với con đường đúng đắn. Xuân Quỳnh chính là một trong những người đó.
Chẳng hạn, chúng ta đều biết những
địa danh được nói tới trong một sáng tác (tên một con sông, một dãy núi), vốn
không phải là một cái gì quan trọng. Trong một bài thơ tình, xã Bảo Ninh hay xã
Quang Phú, núi Cánh Diều hay núi Mây Bay thì cũng thế. Không thiếu gì người,
không đến biên giới bao giờ vẫn sẵn sàng đề dưới bài thơ phục vụ kịp thời của
mình mấy chữ: “Biên giới Tây Nam ngày...” cốt để đăng báo. Hoặc lịch sử
thơ ca còn ghi lại không ít trường hợp những bài thơ xuất hiện vì cớ này song
lại được tác giả lái sang một ý nghĩa đâu đâu mà bài thơ vẫn đọc được.
Nhưng Xuân Quỳnh sống theo một niềm
tin khác, và một hành động mang tính tiểu xảo như vậy bị chị coi là gian manh,
không thể chấp nhận được. Trước khi đưa ra bài thơ để mọi người cùng đọc và hy
vọng rằng nó cần thiết cho họ, chị đến với thơ để nói về mình. Nhìn vào con
người và sự vật chung quanh, chị thấy có bản thân ở bên trong và đấy là cái hích
đầu tiên buộc chị cầm bút. Những người có quen riêng tác giả Gió Lào cát
trắng đều biết chị có thói quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến
từng khía cạnh tưởng là nhỏ nhặt. Mỗi bài thơ ra đời, đều có cái lý lịch của
nó. Nó chỉ ra đời với những nguyên cớ cụ thể mà người viết muốn đặt vào nó, gửi
gắm tâm sự của mình trong nó. Nếu chắp các bài thơ đó lại, người ta có thể có
cả cuộc đời Quỳnh. Đấy không phải là một sự khoe khoang hay láu cá nào hết.
Xuân Quỳnh buộc phải viết vậy, hàng ngày, chị đã nghĩ bằng thơ, sống bằng thơ,
dùng thơ để tự hiểu mình. Lúc làm xong bài thơ cũng là lúc nhà thơ thấy lòng
vợi đi ít nhiều, vì những dòng chữ kia như biết chia sẻ với tác giả của nó, cả
những vui sướng cực độ, lẫn những đau đớn đến xé ruột xé lòng. Một lần nào đó
chị tự hào bảo riêng với tôi:
- Nói được niềm vui nỗi khổ của
chính mình, tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác
không được yêu mà mình được yêu, như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết
nói, và nói lên được thành tiếng, hỏi không vui sao được?
Nhạy cảm: ưu thế và tai vạ
Có một bài thơ Xuân Quỳnh viết mang
tên Con yêu mẹ, ở đó khi kể lại cuộc trò chuyện giữa hai mẹ con, tác giả
ghi lại mấy câu vui vui của đứa trẻ, nào là Con yêu mẹ bằng trời xanh / Rộng
lắm không bao giờ hết, rồi vân vi đủ thứ, và kết lại bằng câu Con yêu mẹ
bằng con dế. Một ý tưởng đột ngột mà người ta chỉ bắt gặp ở trẻ con!
Cái cách đùa cợt của đứa trẻ mà nhà
thơ ghi lại trong câu thơ ấy thực ra rất gần với cách nghĩ của chính Xuân Quỳnh
hàng ngày. Trước mắt anh chị em cùng cơ quan hoặc là hàng xóm láng giềng, nhà
thơ thường hiện ra như một con người hồn nhiên cởi mở. Chị bắt chước cách nói
của người nọ, nhại những ý nghĩ buồn cười của người kia. Nhiều khi cùng chứng
kiến một khung cảnh, chưa ai cười được thì con người nhạy cảm ấy đã nghĩ ra cớ
để cười. Đi đến đâu là chị mang theo đến đấy sự vui vẻ, chẳng cần dụng công chị
cũng kéo được mọi người bỏ công bỏ việc ngồi nghe.
Đó là nhờ cái tài ăn nói bẩm sinh:
dù thuật chuyện mình hay chuyện người thì chị cũng biết làm bật lên cái khía
cạnh hài hước của nó, và mang lại cho nó một vẻ sinh động. Thậm chí còn có thể
nói có một con người văn xuôi trong cách nhìn đời của nhà thi sĩ.
Trong đời sống cũng như trong sáng
tác, một sự nhạy cảm như thế là rất cần thiết. Nếu như nó lại được dắt dẫn bởi
một lý trí sáng suốt thì sẽ có thể dẫn người ta đi rất xa. Song có một điều
ngược lại mà ít ai biết: nó cũng có thể là nguồn tai hoạ và khi đó da càng
mỏng càng đau, kẻ nhạy cảm có nghĩa là kẻ chuốc lấy nhiều xót xa ê chề hơn
người khác. Khốn thay đó lại là chỗ yếu không thể khắc phục của Xuân Quỳnh! Sắc
sảo khi bàn tính hộ người song trong việc mưu cầu hạnh phúc riêng thì con người
ấy thường vụng dại. Đọc thơ của chị, nhất là thơ tình một hồi, chúng ta thấy
hiện lên hình ảnh của một người yêu rất nhiều mà nhận lại chả bao nhiêu, đơn
độc đi trong cuộc đời, và lúc nào cũng cảm thấy phía trước là bất hạnh, là bão
tố.
Ở trên tôi đã kể lúc cao hứng lên,
Xuân Quỳnh từng tự hào vì nỗi được nói to lên giữa cuộc đời im lặng. Thế nhưng,
những lúc vất vả quá - vất vả với nghĩa bế tắc, dằn vặt, vất vả về mặt tinh
thần - Xuân Quỳnh lại quay ra mát mẻ:
- Thỉnh thoảng có người, thấy mình
khổ quá, mà vẫn làm được thơ, tỏ ý an ủi: “Bà cứ ráng chịu, rồi chắc có thơ
hay”, tôi đã trả lời thẳng thừng: “Tôi sẵn sàng từ bỏ hết những bài thơ kia đi,
miễn là tôi khỏi khổ!”.
Khao khát và lầm lỡ
Trong cơn say sưa bộc bạch, nữ sĩ Trùng
Dương khi trả lời một cuộc phỏng vấn
trên bán nguyệt san Văn ra ở Sài Gòn khoảng 1973 từng tự nhận: “Nếu
còn tin tưởng ở Thượng đế, tôi sẽ cám ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm
có những dịp lầm lỡ, cộng thêm với một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một
chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí ngạo mạn”.
Tuy ở một phương trời khác, nhưng
Xuân Quỳnh có thể hoàn toàn chia sẻ với những tâm sự kiểu đó: Cái chính là ở
con người này có quá nhiều tham vọng. Những chùm hoa dại trên núi Hoàng Liên
nói lên những ước ao bình thường nhất mà vẫn không thành. Con đê biển tượng
trưng cho sự chịu đựng, tức một sự hy sinh kể ra cũng cần thiết, nhưng lại tước
đi của người ta biết bao mơ ước! Dù biết rằng những hạn chế ấy là không tránh
khỏi, song trong lòng người làm thơ vẫn dậy lên những khao khát thay đổi. Có
cảm tưởng với Xuân Quỳnh sự ham sống là một bản năng thường trực và càng không
được thoả mãn càng thèm muốn. Ngay trong những ngày sống hạnh phúc, con người
đó vẫn cảm thấy là phải mau tận hưởng, nếu không, nó sẽ qua đi rất nhanh. Cuộc
sống vì thế bao giờ cũng căng lên như những sợi dây đàn, người ngoài nhìn vào
thấy sợ hãi thay cho người trong cuộc, nhưng lại hiểu rằng đó là cội nguồn của
sáng tạo.
Giữa đám bạn bè cùng nghề, người thi
sĩ này thường tự nhủ: “Đối với người sáng tác, không gì sợ bằng sự nghèo nàn.
Nghèo trong cảm xúc nhận xét thì không thể tha thứ được”. Trong đời sống hàng
ngày cũng như trong sáng tác, không chịu được cái gì trung bình nhợt nhạt. Yêu hay
ghét, đều phải hết lòng. Thà thái quá còn hơn bất cập. Và bởi lẽ xúc cảm là cụ
thể, là của từng giây phút một, nên chúng thường xuyên thay đổi, một sự thay
đổi đột ngột khiến người ngoài nhìn thấy chóng mặt.
Một người bạn của Quỳnh lúc trẻ là
Bằng Việt đã diễn tả rất hay lối cảm xúc đó của tác giả Gió Lào cát trắng.
Bài thơ Người cùng đi một đường chỉ có cái phụ đề “Gửi một người làm thơ
cùng lứa tuổi” nhưng ai đọc cũng có thể đoán ngay là đề tặng Xuân Quỳnh:
Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh
Đi như lao, như lửa cháy trong mình
Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập
Những sườn dốc, rồi những cua vòng
gấp
Băng trong đời, như bạn đã từng quen
...
Vẫn đó - gió Lào cát trắng trong thơ
Những thượng nguồn sông, buồn vui
bất chợt
Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột
Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa
Về phần mình, tôi nhớ những ứng xử
của Xuân Quỳnh trong đời sống hàng ngày, nét mặt bồn chồn của chị khi chị gặp
một người này, khi mong được tham gia một chuyến đi kia, hoặc nỗi sung sướng và
thái độ trân trọng, quý hoá, khi được cầm trên tay một cuốn sách mà từ lâu đã
nghe tiếng. Có thể nói đấy là những lúc con người ấy biết sống hết từng phút
giây một! Sự thiếu nhẫn nại toát ra ở cái run rẩy của giọng nói. Vẻ sốt sắng
hiện lên trên nét mặt. Tham lam quá đi, mà sự tham lam ở đây lại lộ liễu quá đi
- người ta có thể nhận thấy như thế, và chính Xuân Quỳnh cũng đã cảm thấy như
thế. Nhưng bởi lẽ, nỗi ham muốn đã lên đến cực độ, lại hiểu rằng, vì thơ, vì
sáng tác, sự ham muốn của mình là không vụ lợi (nghĩa là người ta cũng dễ tha
thứ), nên Xuân Quỳnh vẫn sống vậy. Một cách sống luôn luôn mang lại những sung
sướng, và đau khổ hơn người. Câu chuyện sau đây minh chứng cho điều đó: Nhà thơ
có một người chị là Đông Mai hiện đang dạy học ở thành phố Hồ Chí Minh. Một
lần, người viết bài này từ Hà Nội vào SG, tới thăm chị Mai.
- Thế nào cậu, dạo này ngoài đó,
Quỳnh nó sống thế nào? Vui hay buồn?
Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi
trả lời:
- Em gái chị là một người đặc biệt,
nên vui cũng vui hơn người khác mà buồn cũng buồn hơn người khác, làm sao trả
lời cho rành rọt được.
Khi nghe kể lại như vậy, Xuân Quỳnh
chỉ cười, không phản đối. Chắc trong thâm tâm Quỳnh nghĩ: “Đúng là giời đày
mình, nhưng có thế, mình mới viết được”.
Ảo tưởng dai dẳng
Từ khi cho in những bài thơ đầu
tiên, cho tới giữa năm 1988, sửa soạn tập thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã có một
chặng đường thơ khoảng một phần tư thế kỷ. Nhìn vào thơ, thấy con đường con
người này đi khá thông thoáng: cứ đều đều vài ba năm lại có một tập thơ ra đời.
Trong khi nhiều người bạn cùng lứa đã bỏ cuộc, nhiều người già đi, cũ đi, tự
lặp lại mình trong thơ thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên
riêng, và có được cái hơi trẻ trung, tươi tắn. Chẳng những thơ bầu bạn với Xuân
Quỳnh, thơ còn nâng cao con người nhà thơ lên. Qua thơ, người ta bắt gặp một
Xuân Quỳnh hào phóng, nồng nhiệt, tha thiết với cuộc sống.
Tuy nhiên cũng từ đây cách suy nghĩ
của Xuân Quỳnh có một khía cạnh mà từ lâu tôi đã muốn coi như một nhược điểm,
ấy là chủ quan, chủ quan đến mức quá tự tin. Biển quen theo những quy luật
của mình, một câu thơ như vậy buột ra trong một bài thơ viết về biển, và
những người có quen biết đều hiểu rằng đó là lúc nhà thơ nói về bản thân song
đều lo lắng hộ: những ngạo nghễ kiêu hãnh kiểu ấy nó có phần phỉnh nịnh tuổi
trẻ nên lại càng khó gạt bỏ.
- Một tình yêu như thế vẫn y nguyên
- Chỉ còn lại một màu hoa rất trắng
- Đất qua rồi những yêu thương
Có chăng lời hát vẫn còn mà
thôi
- Thời gian của ta không bao giờ mất
Không gì khác đó chính là những ảo
tưởng. Những ảo tưởng trong thơ nhưng cũng là ảo tưởng trong đời sống. Những ảo
tưởng này vốn không chỉ là của riêng của Xuân Quỳnh mà là của hàng loạt người
cùng tuổi, song nếu ở ngoài đời người ta chỉ nói vậy thôi rồi người ta vẫn thực
dụng vẫn kiếm chác, thì nhà thơ của chúng ta sống với nó một cách chân thành,
đấy chính là đầu mối của nhiều bi kịch mà chị sẽ phải đón nhận.
Trong
số những bài thơ mang ảo tưởng của Xuân Quỳnh, tôi nhớ hơn cả đến một bài mang
tên Có một thời như thế nhà thơ cho in vào đầu 1985. Cái thời nói ở đây
là quá khứ của mỗi chúng ta. Tác giả đã bắt rất trúng cái thần của nó khi miêu
tả nó trong sáng, nó đẹp theo kiểu mơ ước viển vông niềm vui thơ dại
hoặc luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng, tôi đã buồn đã khóc những không đâu...
Ngoảnh lại cái thời đó, nhà thơ thấy mình đã thay đổi: mái tóc xanh bắt đầu pha
sợi bạc. Cùng cảm hứng về sự già đi của bản thân là suy nghĩ chung về sự chuyển
biến của đời sống Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết/ hôm nay non mai cỏ sẽ
già. Và sau hết nhà thơ kêu gọi mọi người không tự mê hoặc mình bằng quá
khứ mà hãy hướng về cuộc sống trước mắt:
Quá khứ đáng yêu quá khứ
đáng tôn thờ
Nhưng không phải là điều em ao
ước
Có điều trong
lúc tỉnh táo như vậy tác giả vẫn để chen vào hai câu thơ nói về mình một cách
ảo tưởng:
Em biết quên những chuyện
đáng quên
Và biết nhớ những điều em phải
nhớ
Khi nghe tôi biện luận: “Người mà
làm chủ được hoàn toàn tình cảm của mình như vậy thì chỉ còn là cái máy”, nhà
thơ chỉ cười xoà, song tôi biết trong thâm tâm chị hiểu “rằng quen mất nết đi
rồi”, làm sao mà vượt lên khỏi cái chương trình mà thời đại đã đặt vào
mình cho được.
Những gì còn lại
Thời
gian vốn có sức ám ảnh với tâm trí nhà thơ này. Ngay từ khi mới trên hai mươi
bắt tay làm những bài thơ đầu tiên về tình yêu trong bài Chồi biếc, chị
đã viết đại ý mình chỉ là một phần tử nhỏ nhoi trong dòng người vô tận và tự
nhủ sẽ có lúc hết phiên để nhường cuộc đời đẹp đẽ này cho những cặp tình yêu
khác. Vào khoảng những năm tám mươi, tức khi đã bước sang tuổi bốn mươi, thì
cảm giác ấy càng nẩy nở thường trực. Bài Hoa cúc láy đi láy lại nỗi đau
xót âm thầmkhi tự thấy mình không còn được như hôm qua:
- Bao mùa thu hoa vẫn vàng
như thế
Chỉ em là khác với em xưa
.....
- Bao ngày tháng đi về trên
mái tóc
Chỉ em là khác với em thôi
Cũng từ đây trong thơ đã len vào
những giai điệu khác:
- Đường tít tắp mà ngày đang xế bóng
Mệt mỏi chăng hỡi người bạn đồng
hành?
Sự mệt mỏi ấy trước tiên là đến từ
phía cuộc sống, những lo toan chợ búa gia đình chồng con mà càng những năm gần
đây, với Xuân Quỳnh, càng là một gánh nặng. Nhưng có thể là còn từ phía sáng
tác nữa chăng? Tôi nhớ những lần trò chuyện, khi nào nghe tôi kể có đọc thêm
được quyển này quyển kia, là y như Xuân Quỳnh có vẻ buồn hẳn đi. Hình như một
người nhạy cảm như chị một lúc nào đó, đã mang máng nhận ra rằng trong thơ mình
đã đi đến cùng trên con đường đã chọn, mà đi tìm những nẻo lối mới thì chưa
biết ở đằng nào. Những đòi hỏi học thêm, đọc thêm, những đòi hỏi tìm sự bồi bổ
của văn hoá nói chung, đến tuổi này càng thấy bức thiết, mà sức lực đâu được
như xưa, thời gian còn lại rất ít. Cái bi hài kịch mà mình nhìn nhận thấy ở
không ít bè bạn - bi hài kịch của những người được một hai cuốn sách đầu, đã
trở thành nhà thơ nhà văn rồi, thì sống lêu têu vạ vật chả còn viết được cái gì
nên hồn - cái bi hài kịch ấy, lúc nào cũng có thể đến với mình chăng? Nếu thế
thì buồn, thì mỏi mệt cũng là điều khó tránh.
Còn nhớ khoảng 1985-1986, thỉnh
thoảng tôi lại nghe Xuân Quỳnh thở ra những điều ngán ngẩm:
- Dạo này tôi rất chán. Nhà cửa chật
chội, nóng nảy, bận bịu...
Tôi cũng hùa theo:
- Đời sống khổ quá, có lúc tôi đã tự
nhủ: Chết đi, cũng chả có gì phải tiếc.
- Tiếc thì không tiếc, nhưng nghĩ có
lúc cuộc sống này không có mình nữa cũng buồn.
Đến đó, câu chuyện của chúng tôi
chuyển sang một hướng khác. Nhưng ra về, mà tôi cứ nghĩ vân vi mãi, chẳng lẽ
người kêu rằng chán đời, chán làm thơ đó, lại là Xuân Quỳnh? Bởi những tập sách
còn kia, giở trang nào ra chẳng bắt gặp một con người thèm yêu, thèm sống, và
một trong những bài thơ hay nhất của người đó mang tên Nếu ngày mai em không
làm thơ nữa:
- Và trời xanh xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em
xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.
Điều gì đã xảy ra với người làm thơ
đó và những người cùng lứa khác? Lâu nay, cứ tưởng mình và bạn bè mình còn trẻ,
nay hoá ra ở ngưỡng cửa của tuổi năm mươi rồi, những điều lúc trẻ, tưởng là xa
lạ, sự sống, cái chết là điều phải bàn rồi. Đã đến lúc mình có thể chết rồi
chăng? Hay chết cũng chưa thể là một sự giải thoát đích thực, để chuẩn bị cho
một cái chết xứng đáng phải tiếp tục sống nữa, sống mãnh liệt hơn. Chưa kịp bàn
thêm với nhau thì Xuân Quỳnh đã đi xa rồi, và giờ đây, đối với tôi, chỉ còn có
cách tiếp tục tìm câu trả lời ở những dòng thơ người bạn đó đã viết.
Viết khoảng 1988-93
Đã in Cây bút đời người -2002
Published on September 07, 2013 19:52
September 6, 2013
Vài nét về phương thức tự sự của người Việt
I
Việc nghiên cứu văn chương vốn được coi như
một trong những cách hữu hiệu giúp cho
người ta hiểu một miền đất một xứ sở, và đối với người bản địa thì cũng là một
bước đi cần thiết đóng góp vào quá trình tự nhận thức của dân tộc.
Ở ta hiện nay việc nghiên cứu văn học chủ yếu được thực
hiện bằng cách đi sâu đánh giá phân tích
các tác giả tác phẩm quan trọng, rồi từ đó hình thành nên các giai đoạn các
thời kỳ chủ yếu mà nền văn học đó đã
trải qua.
Thế
nhưng để hiểu một nền văn học trong mối quan hệ với cộng đồng đã sản sinh ra nó,
người ta còn có thể đi vào nghiên
cứu theo một hệ thống khác:
-- quan niệm toát ra từ nền văn học đó về cái
đẹp cái thực, thậm chí cái không bình thường cái kỳ quặc ma quái...
-- Đặc điểm của nền văn học đó bộc lộ qua
việc sử dụng các phương thức sáng tạo như tự sự, trữ tình.
- Quan niệm về một thể loại nào đó (như thơ
tiểu thuyết) đã ổn định trong trường kỳ lịch sử .
-- Quan niệm về việc phiên dịch các sáng tác
từ các ngôn ngữ khác sang tiếng bản địa và câu chuyện giao lưu văn hoá nói
chung v..v...
Trong trường hợp này, văn học được nghiên
cứu theo cái cách người ta làm ra nó, cách này đặc trưng cho từng dân tộc và có
sự phân biệt rõ rệt với các dân tộc khác.
Đây cũng tức là nghiên cứu văn học từ cái
nhìn của văn hoá học – một phần thôi, cố nhiên.
Sở dĩ có thể nói đây là một hướng nghiên
cứu có triển vọng bởi nó mang lại cho giới nghiên cứu, nhất là những người trẻ, một thách thức mới.
Vì nghĩ như vậy, chúng tôi mạo muội đi vào
phác hoạ tư duy tự sự của người Việt. Đề tài quá lớn, dưới đây chỉ là một ít
ghi chép sơ bộ còn tản mạn và chắp vá.
II
Các thể tự sự đã có mặt ngay trong văn học dân gian VN.
Nhưng nếu nhìn chung đã có thể nói “trong văn hoá dân gian chứa đựng những phần
mới chỉ là nguyên liệu của nghệ thuật
chứ chưa phải là nghệ thuật “( 1) thì điều đó càng đúng với nghệ thuật tự sự.
Trong truyện cổ tích, nghệ thuật tự sự còn
rất đơn sơ. Mỗi truyện thường chỉ ngắn gọn, kể miệng với nhau độ mươi phút và mang
in ra khoảng trên dưới ngàn chữ.
Phần lớn các truyện này xoay quanh mối quan hệ giữa người nông dân nghèo với
các loại nhà giàu trong làng (Cây tre trăm đốt ) hoặc nếu có mở
rộng đến các loại vua quan thì mọi chuyện vẫn được hình dung thật giản dị, con
đường đến với cung vua chẳng qua cũng chỉ là chính con đường làng được kéo dài (Ai mua hành tôi ).
Cũng có
những cốt truyện khá rắc rối nhưTấm Cám bao quát gần như cả một đời
người nhưng không nhiều. Về mặt kết cấu, trong các truyện cổ tích này,
cốt truyện thường phát triển theo đường thẳng. Nhân vật nhiều khi chỉ được đặt
một cái tên ước lệ nếu không phải không có tên, và địa điểm được nói tới cũng
chung chung không cụ thể. Mô hình thế giới hiện ra trong truyện mang nặng tính cách ước lược đến mức tối giản.
So với cổ tích, các truyện cười là một bước
tiến trong nghệ thuật tự sự.Ở đây người ta bắt đầu cảm thấy có một sự sắp xếp nào đó để lôi cuốn người nghe
vào cuộc, lại có một sự phân bổ chi tiết,
lướt qua những đoạn mào đầu, dừng lại lâu hơn ở những đoạn đối thoại có khả
năng làm bật ra tiếng cười.
Với việc xuất hiện những Trạng Quỳnh,Trạng
Lợn, Ba Giai Tú Xuất, truyện cười còn đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật tự sự với
nghĩa vượt qua trình độ những mẩu nhỏ
rời rạc để theo dõi những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời một con người và
ghi chép được nhiều sự kiện có liên quan đến con người đó.
Có điều cần lưu ý mặc dầu gọi là một chuỗi mẩu đoạn ghép lại, nhưng Trạng Quỳnh vẫn chỉ có kết cấu đơn giản, những mẩu truyện nhỏ tồn tại cạnh nhau theo kiểu những viên gạch
được lát liền nhau có thể kéo dài bao nhiêu cũng được mà rút ngắn lại cũng được.
Hoặc có thể tạm ví đó là lối cấu trúc của con giun. Cơ thể giun gồm nhiều đơn
bào giống hệt nhau, một đơn bào bị cắt rời ra khỏi cơ thể vẫn tiếp tục sống
bình thường. Lối kết cấu như thế này tiện cho việc phổ biến theo lối truyền
miệng nhưng không có triển vọng khi vận dụng nghệ thuật tự sự trên văn bản viết.
III
Nghiên cứu và giới thiệu văn học Trung quốc ở miền Nam trước 1975 , Nguyễn Hiến Lê là người có thế mạnh đặc biệt. Ông đọc được cả tài liệu của các học giả Trung Hoa , lại đọc được cả người phương Tây viết về Trung Hoa. Các ý kiến của ông nhiều khi mới mẻ, đột ngột là vì thế.
Theo Nguyễn Hiến Lê, văn nhân Trung Hoa
thời cổ ít tưởng tượng mà hay thuyết lý.
Nhờ đọc kinh Phật, nhiều truyện tưởng tượng, nên họ mới bắt chước lối viết
truyện của Ấn Độ (2).
Bà
Pearl Buck, khi bàn về tiểu thuyết Tàu, nói một ý tương tự. Các nhà giảng
đạo Phật cũng công nhận rằng muốn cho dân hiểu đến thần thánh thì không gì bằng
tả cho họ thấy là thần thánh cũng khó nhọc cặm cụi chân lấm tay bùn như họ (3).
Đây có lẽ là một ví dụ cho thấy vai trò
của tôn giáo đối với sự phát triển của tư duy tự sự.
Cũng theo Nguyễn Hiến Lê, ngay từ đời
Tống ở Trung quốc đã xuất hiện một nghề lạ là nghề kể chuyện giống như các trouveres
thời trung cổ bên Pháp. Hạng người đó có tài ăn nói đi từ phố này tới phố khác,
vào trong các chợ, các xóm làng đông đúc kể truyện thuê, và người ta bu lại
nghe, đáp công bao nhiêu tuỳ ý (4).
Còn các học giả Bắc Kinh thì sao ? Lịch sử văn hoá Trung quốc của nhóm
Đàm Gia Kiện ghi rõ “ở Biện Kinh có
trường sở kể chuyện tương đối quy mô“ và “nghệ nhân không những có sự phân công tỉ mỉ,
họ còn tổ chức thành thư hội“ (5).
Các nghệ nhân trên thường bắt đầu câu
chuyện bằng cách thắp một nén hương lên và đến khi nén hương tàn thì câu chuyện
của họ cũng chấm dứt.
Cho đến đầu thế kỷ XX, một số nhà viết tiểu
thuyết Trung Hoa vẫn còn coi mình có vai trò tương tự như vai trò của đám nghệ
nhân ấy và thích thú nhắc lại nghi thức xưa.
Chẳng hạn trường hợp Trương Ái
Linh ( tức Zhāng Ailíng, tên tiếng Anh Eileen Chang 1920-1995). Nhà văn Hồng Kông rất nổi tiếng ở Anh Mỹ này từng gọi mấy
thiên truyện của mình là Lư trầm hường thứ nhất, Lư trầm hương thứ
hai .
“Xin bạn hãy tìm lấy một chiếc lư hương đồng gia truyền đã đốm mốc xanh
đốt lên bình trầm hương nghe tôi kể về
Hông Kông trước chiến tranh. Khi lư trầm hương của bạn cháy hết câu chuyện của
tôi cũng sẽ kết thúc “ -- Một trong hai thiên truyện nói trên dẫn người đọc
vào truyện bằng đoạn văn như vậy (6).
Đến nay chưa thấy có tài liệu nói có sự
xuất hiện của loại nghệ nhân nói trên trong đời sống văn hoá người Việt. Những
cuộc trò chuyện được hình thành ngẫu
nhiên, người nào cũng là người nghe mà cũng có thể là người đứng ra kể truyện, nhưng
do không ai sống hẳn bằng việc kể truyện ấy và nâng nó lên thành nghề, nên nghệ
thuật tự sự nói chung không phát triển lên được.
Trong
khi ở Trung Hoa, nghệ thuật tự sự dân gian được ghi chép lại chỉnh lý sắp xếp
lại thành những pho sách dài như Tam
quốc chí Thuỷ Hử, thì ở ta chỉ có Trạng Quỳnh,Trạng Lợn mà trước thời
hiện đại cũng chưa ai đứng ra ghi chép.
Nói một cách khái quát, nghệ thuật tự sự có
liên quan nhiều đến trình độ trưởng thành của đời sống tinh thần và nói chung là sự phát triễn
của đô thị trong lòng xã hội. Nhưng cả hai yếu tố trên (sự phát triển của
tôn giáo và sự phát triển đô
thị ) không phải là mặt mạnh của xã hội VN thời trung đại. Nếu tính đến yếu tố chữ viết để ghi chép và cố
định tác phẩm về mặt văn học thì sự thua thiệt của tự sự ở xứ ta càng thấy hiện ra rõ
rệt.
IV
Truyện Kiều là một đỉnh cao nghệ thuật
VN nói chung với nghĩa khi cần hình dung ra một con người VN cụ thể với cách
xúc động cách suy nghĩ những quan niệm tổng quát về cuộc đời này, người ta nghĩ
ngay đến cô Kiều, và ở chỗ này, cái việc “không ai còn muốn nhớ thật ra Kiều là một người Tàu sống ở thời Gia
Tĩnh triều Minh“ là không có gì đáng trách. Đằng sau các chi tiết chỉ có tính cách hình thức kia
là một tâm hồn VN thực thụ.
Cũng nhờ thế, có thể nói với Truyện Kiều, văn học
VN có được một thành tựu chói lọi, nó đã
đáp ứng được cái nhu cầu thiết yếu là nắm
được cái thần của con người VN và kể ra một cách sinh động.
Thế nhưng, khi nói về thành tựu của nghệ
thuật tự sự ở tác phẩm này, không được phép quên nó được chuyển thể từ cuốn
sách của Thanh Tâm tài nhân, nghĩa là mọi tài năng của tác giả chỉ bộc lộ ở
việc kể chuyện một cách gọn ghẽ tinh tế tước bỏ mọi chi tiết thô thiển không
cần thiết vốn có trong nguyên bản, ngoài ra không có thay đổi gì đáng kể về mặt
cốt truyện.
Mà cốt truyện thì biết bao trọng yếu đối
với tác phẩm tự sự: ngay khi chỉ được xem như một bộ khung cần được đắp thêm
chi tiết mới trở nên sinh động thì cốt truyện đã là một cách hình dung về đời
sống, tức một yếu tố đánh dấu trình độ hiểu biết của xã hội về mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh cũng như giữa con
người với nhau. Mỗi khi nói đến Truyện Kiều, thường ít nhà nghiên cứu ở
ta đả động tới tác phẩm trên phương diện tự sự
-- lý do là vì như vậy (7).
Xuất hiện trước và sau Truyện Kiều, nhiều truyện nôm dân gian và
bác học sáng tác trong thời trung đại đều có lối tổ chức cốt truyện tương tự
theo kiểu “ hội ngộ --lưu lạc --đoàn
viên “ và khi muốn nhận xét về các cốt truyện này người ta chỉ có thể nói nó
đơn giản hơn là phức tạp, gọn ghẽ thoáng đãng hơn là nhiều tầng nhiều lớp bề
bộn phong phú. Nói chung, cốt truyện trong các truyện nôm thường chỉ loanh quanh
trong một đời người trói tròn trong quá
trình lập nghiệp hay mưu cầu hạnh phúc của một cá nhân cụ thể mà không bao giờ
bao quát được nhiều thế hệ của một dòng họ để thấy sự phát triển liên tục của
con người trong một thời gian dài, và số nhân vật có liên quan thường cũng chỉ
trên dưới mươi người, chứ chưa bao giờ triển khai ra tới hàng trăm nhân vật như
ở các tác phẩm tự sự đồ sộ của những nền văn học lớn. (8)
V
Sự biến chuyển của văn học VN thế kỷ XX là sự
chuyễn biến sâu xa của cả một mẫu hình sáng tạo: từ nay mọi mặt quan niệm của
chúng ta về văn chương đều đã khác đi.
Không phải ngẫu nhiên trong nền văn học
trung đại, vị trí trọng yếu thuộc về các thể trữ tình.
Trong phạm vi một xã hội gồm nhiều làng
xóm độc lập manh mún tồn tại bên nhau, và cả cộng đồng chưa tạo dựng nổi một mặt
bằng văn học thống nhất, thì sự sáng tác dễ dừng lại ở trình độ nói ra để thoả
mãn nhu cầu nội tâm của chính chủ thể hơn là tìm cách tác động tới các đối tượng
khác.
Ngược lại, giờ đây xã hội được tổ chức
lại thành một thực thể có trình độ tổ
chức cao hơn thì sự sáng tác cũng được xã hội hoá theo nghĩa trực tiếp và cụ thể hơn, nói nôm na là người ta viết văn làm thơ không phải chỉ để tự vui với mình mà phần nhiều là để đăng báo in sách. Trong hoàn cảnh ấy, các thể văn
tự sự có chiếm một tỷ trọng cao hơn so
với trước kia thì cũng là điều dễ hiểu.
Có thể nói trước khi có Phong trào Thơ mới,
sự trưởng thành của nghệ thuật tự sự là kịch bản chủ yếu của những thay đổi đã
đến trên phương diện hình thức mà nền văn học VN đầu thế kỷ XX đã trải qua. Trên bước
đường xây dựng nền quốc văn mới, các
nhà văn lúc ấy thể nghiệm đủ các hình thức tự sự học được từ nước ngoài.
Hoặc đó là học của Trung Hoa: nên nhớ rằng
trong suốt trường kỳ lịch sử các truyện Tàu được nhà nho xưa đọc thẳng từ
nguyên văn; chỉ đến giai đoạn này do có chữ quốc ngữ, chúng mới được "diễn nôm" một cách đầy đủ, tức là phiên dịch cho mọi người biết đọc biết viết có thể đọc. Chính những truyện Tàu này đã đóng vai trò gợi ý để
hàng loạt tiểu thuyết kiểu như Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân, Hà
hương phong nguyệt, Đỉnh núi cành mai,Tiếng sấm đêm đông... có dịp ra đời.
Nhưng
ảnh hưởng lớn hơn và kéo dài hơn là
thuộc về nghệ thuật tự sự của phương Tây mà mặc dù mới lần đầu làm quen nhưng
nhiều người thấy hình như hợp với tâm lý
người Việt lúc ấy đang muốn tự đổi mới .
Việc
tập tành viết theo lối mới được triển khai từng bước mò mẫm nhưng chắc chắn
và không loại trừ cả một việc các cụ xưa
thường vẫn làm là vay mượn cốt truyện.
Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm phóng
tác từ Không gia đình của Herto Malot.
Ngọn cỏ gió đùa (cùng một tác
giả) xây dựng cốt truyện bằng cách dựa
vào Những người khốn khổ của V.Hugo.
Sống chết mặc bay là một cách mô phỏng từ Ván bi-a của A.Daudet
Ấy là chỉ kể những tác phẩm vay
mượn rõ rệt, còn số viết theo lối cảm đề , tức lấy cảm hứng từ tác phẩm xứ người, thì cũng rất nhiều.
Ngay từ cái tên, người ta đã thấy Dế mèn phiêu lưu ký (1941) của Tô Hoài là có họ hàng xa gần
với Tê-lê-mặc phiêu lưu ký của Fénelon do Nguyễn Văn Vĩnh mang vào tiếng
Việt (bản dịch in năm 1927). Lý do ở đây khá rõ ràng: trước đó ở ta chưa ai tính chuyện ghi lại những
chuyện phiêu lưu bao giờ và hình như khái niệm phiêu lưu cũng rất ít được sử
dụng.
Từ sự tiếp xúc với sách vở Tây dương, một số mô - típ của nghệ thuật tự sự như phiêu lưu mới được Việt
hoá để trở nên quen thuộc đến mức ta quên
cả xuất xứ của nó và ta tưởng
rằng từ ngàn xưa đã có các thể ghi chép ấy.
VI
Trong sự thay đỗi chung của các quan niệm văn
học như trên đã nói, lẽ tự nhiên là cái cách tự sự trong văn học Việt Nam cũng có thay đổi.
Với việc có ngay một trường thể nghiệm là
báo chí và xuất bản, từ nay nghệ
thuật viết truyện thoát ly hẳn lối kể truyền miệng mà tìm tới một mặt bằng phô
diễn mới là trang giấy trắng.
Trên các trang sách giờ đây không còn lồ lộ bóng hình người đứng ra kể chuyện như xưa mà lúc này vai trò của tác giả là dựng nên
khung cảnh để người đọc như được nhập ngay vào không khí trong truyện.
Hình thức tự sự cũng ngày càng trở nên
phức tạp, điều này có thể thấy rõ ở hai điểm:
một
là thay cho lối kể trước sau tuần tự
dễ gây cảm giác tẻ nhạt, thời nay các tác
giả thường hay nhảy ngay vào giữa sự
kiện mà miêu tả để gợi không khí tiếp đó mới quay về những nguyên nhân ban đầu ;
và hai là không lan man rải ra mỗi
chỗ một tí mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện có tính cách tiêu biểu, nhờ thế
cái nhìn của độc giả tập trung hơn mà cũng sâu sắc hơn.
Thử đọc
lại truyện Cô hàng xén của
Thạch Lam. Câu chuyện bắt đầu bằng cảnh cô Tâm đi chợ về tiếp đó mới ngược lên kể gia cảnh nhà nàng và
vai trò của nàng trong gia đình. Rồi tiếp theo đó là chuyện cô Tâm lấy chồng và
phải đảm đang công việc bên nhà chồng . Nhưng tất cả những chuyên này được lướt qua rất nhanh để cuối cùng nhấn
mạnh cái ý đời nàng ngày một khó khăn vất vả hơn và cuộc sống cứ thế mà kéo dài
mãi.
Đọc loại truyện này, với tư cách
người đọc của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta không lấy làm lạ. Nhưng đối chiếu với thi
pháp tự sự thời trung đại phải nhận đây
là cả một bước rẽ ngoặt.
Phương thức tự sự này đã hình thành ở
phương Tây từ nhiều thế kỷ trước, đến thế kỷ XIX thì trở nên thành thục, các
nhà văn Việt Nam đã học được rất nhanh để tạo ra một chuyển biến mới cho đời
sống văn học, và chỉ cần nhìn vào sự trưởng thành của tiểu thuyết đủ hiểu nghệ thuật tự sự ở
Việt Nam thế kỷ XX đã thay đổi như thế
nào.
Trường hợp của Việt Nam
cũng là trường hợp của nhiều quốc gia khác ở phương Đông bao gồm từ các nước A
rập tới các nước ở Đông Nam Á và cả Trung
quốc.
VII
Thế nhưng trong khi vận dụng phương thức
tự sự mới, những đặc điểm riêng trong tư duy tự sự của VN các thế kỷ trước vẫn bộc lộ, như những cá tính ở một con người, dù
hoàn cảnh có thay đổi đến đâu thì những
nết xưa vẫn giữ mãi.
Khi bàn về tiểu thuyết VN, các nhà
văn ở ta thường nhấn mạnh tới tính chất
gọn ghẽ cô đúc của nó, nét nó thanh (chữ của Nguyễn Công Hoan), các đường dây phát triển của nó rành mạch.
Thực tế là khoảng đến 90% tiểu thuyết Việt
Nam là những cuốn sách ba bốn trăm trang khổ 13.19.
Xưa đã không có những pho nọ pho kia thì
ngày nay cũng rất hiếm những tiểu
thuyết trên dưới ngàn trang.
Vả chăng cái tư duy tự sự trong cuốn sách mới là chuyện đáng nói.
Có thể gọi những Vỡ
bờ của Nguyễn Đình Thi, Sóng gầm của Nguyên Hồng là những bộ trường
thiên tiểu thuyết viết theo thể roman fleuve trong nghệ thuật tự sự phương Tây.
Đọc cả hai, người ta nhớ tới Tam quốc Thủy hử thì ít mà nhớ tới Gia đình họ Thibault của R.Martin du Gard hoặc Con đường đau khổ của A.Tolstoi thì nhiều hơn. Có điều, chúng mới nổi ở chỗ được triển khai theo
chiều rộng kèm theo một khối lượng nhân vật lớn mà chưa thể nói là đạt tới một trình độ mới trong việc bao quát hiện thực.
Theo ý chúng tôi loại như Nửa đêm của
Nam Cao hoặc Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp đáng chú ý hơn vì thời gian
được miêu tả trong mỗi truyện kéo dài tới mấy đời người, để rồi hé ra cho
thấy mối quan hệ oan nghiệt của các thế hệ trong một dòng họ. Đó là một cách
hình dung về sự liên tục của cuộc sống trên cõi nhân gian, một sự liên tục theo
chiều dọc vốn là ít thấy trong cách tư
duy của người bình thường ở ta, và lại càng ít khi được miêu tả trong văn
chương.
Cả hai loại truyện nói ở trên đều đang quá ít đến mức qua đây chưa thể nói gì về trình độ tự sự nói
chung của các ngòi bút văn xuôi. Do sự bao trùm của chiến tranh, sự lạc hậu của văn học VN nửa sau thế kỷ XX về mặt hình thức nghệ thuật là một sự lạc hậu tuyệt đối -- đây tôi chỉ giới hạn trong phần văn học Hà Nội. Còn ở Sài Gòn trước 1975, tình hình dù có khá hơn song cũng vẫn là chưa đáp ứng được nhu cầu của sự biểu hiện đời sống cũng như chưa hiện thực hóa được hết những khả năng mà thời đại mở ra cho chúng ta.
VIII
Một khía cạnh khác của nghệ thuật tự sự là
khả năng của người kể chuyện trong việc nhìn sâu nhìn kỹ vào một sự vật tả nó
ra một cách tỉ mỉ, tức cũng là khả năng dừng lại kỹ càng ở sự vật đó để tìm thấy cho mình một sự hứng thú trong việc
nhìn ngắm nó và cảm thấy ở nó một bí mật có thể tìm hiểu mãi mà không chán.
Khi bàn về Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Âu hoá một trí thức khá nổi
tiếng thời kỳ 1941-1945 là ông Đinh Gia
Trinh đã viết “...Văn chương Việt Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả
những niềm riêng của một người. Nó đi vào trong tâm người ta hơn là nó vơ ấp
lấy tạo vật. Tả tỉ mỉ một căn phòng một sắc trời một thân thể người như các nhà
văn tả chân bên Tây phương ? Không! Ở văn thuật Việt Nam khi xưa không có chỗ
cho tài nghệ của một nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành một trang sách để tả cái
mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin Pons, hoặc như
Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường, dán mắt ta qua khe cỏ để cho ta
mục kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước “ (9).
Về căn bản những nhận xét trên đúng với
nghệ thuật tự sự Việt Nam thời trung đại.
Bước sang thế kỷ XX, các nhà văn chúng ta
đã cho phép chúng ta nghĩ khác.
Có thể dẫn ra chân dung của những Chí Phèo
Thị Nở Lang Rận ở Nam Cao để thấy bây giờ con người đã nhìn kỹ vào gương mặt
của nhau nhiều hơn hoặc nhớ lại vài đoạn phân tích tâm lý của Nguyễn Tuân trong
các tập tuỳ bút để thấy văn chương đã tiến khá xa trong việc phanh phui đời
sống bên trong của mỗi cá thể.
Song phải nhận tình hình tiểu thuyết VN
hiện đại cũng giống như tình hình bên
hội hoạ. Người vẽ ở ta có vẻ thạo các loại phác hoạ hay màu nước hoặc thích làm
tranh sơn mài lộng lẫy. Còn như nghệ thuật sơn dầu đặc tả thật kỹ từng sắc thái
của sự vật, thì kinh nghiệm chưa nhiều và
hình như các hoạ sĩ cũng không thích làm
nữa.
Đi
sâu hơn vào kỹ thuật tự sự: trên thế giới ngày nay, bên cạnh lối trần thuật chỉ
sử dụng có một điểm nhìn bắt đầu thấy
thịnh hành lối tự sự có nhiều điểm nhìn. Đằng sau một chuyện thuần tuý
kỹ thuật như thế này là cả một triết lý; có vẻ như nhờ được nhìn từ nhiều góc
độ, thế giới hiện ra trong tác phẩm gần với thế giới thực hơn. Thế nhưng ngay ở thời điểm thế giới đã bắt sang một thiên niên kỷ
mới, kỹ thuật này với người trần thuật ở VN
và với đông đảo bạn đọc nói chung còn đang là một cái gì xa lạ. Người
viết văn ở ta không mấy khi bàn bạc kỹ với nhau về các vấn đề kỹ thuật nghề
nghiệp và đối với kỹ thuật tự sự thì tình hình cũng là tương tự.
IX
Tìm hiểu tư duy tự sự suy cho cùng tức là
tìm hiểu cách hình dung của mỗi dân tộc về cuộc đời với tất cả bề rộng và bề
sâu của nó mà họ có được trong quá trình sống, bởi vậy
nó còn liên quan đến ít nhất mấy khu vực nữa, một là khoa nghiên cứu lịch sử và hai là cách hiểu về cái thực đã trở thành truyền thống trong nền
văn học của dân tộc đó. Mà các phương
diện này ở ta thì thế nào ?
Nghề chép sử VN thời trung đại ít phát
triển và sự thực là mới chỉ có một vài bộ thông sử ghi chép hoạt động của các
triều đại các vua chúa, ngoài ra chưa có
sử hay đúng hơn gần như chưa bao giờ
nghĩ tới chuyện có những bộ sử đi vào các mặt sinh hoạt cụ thể các tầng lớp cụ thể, ví dụ lịch sử nghề nông,
lịch sử đê điều, lịch sử trí thức, lịch
sử tôn giáo....và hàng ngàn loại lịch sử khác như ở một nước cạnh ta là Trung
quốc họ đã làm.
Sang thời hiện đại, một số công việc loại
trên mới được bắt đầu song lại chẳng có tài liệu gì nhiều để làm việc.
Đến
như các loại lịch sử ăn mày, lịch sử
cờ bạc, lịch sử kỹ nữ... ( 10 ) chắc
chắn ở VN không ai dám nghĩ tới việc
viết như các đồng nghiệp ở Bắc
Kinh Thượng Hải.
Lâu nay trong quan niệm
của ông cha ta đây là những sự thực
không đáng ghi chép.
Mà người xưa đã vậ thì người hôm nay biết dựa vào đâu để viết ?
Và do chỗ hôm nay cũng không ai nghĩ chuyện
ghi chép nên năm mươi năm sau cũng sẽ không ai viết nổi!
Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh tới khoa chép sử
vì ở nhiều nước, thực tế lịch sử chính là cái nguồn vô tận cung cấp đề tài và
cốt truyện cho sáng tác văn chương.
Bởi
tự sự là kể về đời thực, cho nên
lẽ tự nhiên là quan niệm về cái thực của
một dân tộc có vai trò chi phối đối với nghệ thuật tự sự ở dân tộc ấy. Thành thử chỉ cần nhớ lại một
nhận xét cho rằng cái thực trong văn
chương cổ điển VN không phải là cái thực
khách quan mà là cái thực của
tâm do nhà nghiên cứu Trần Đình
Hượu nêu lên (11) thì người ta đã
có một điểm tựa vững chắc để giải thích
tình trạng yếu kém đơn điệu của nghệ
thuật tự sự ở VN thời trung đại và tình trạng phát triển ngập ngừng của nó
trong thời hiện đại. Cố nhiên đối với nghệ thuật trữ tình thì phải nhận định một cách khác.
Chú
thích
(1)Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên Văn
học dân gian, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp H. 1974, t.II, tr.70
(2)Nguyễn Hiến Lê Sử Trung quốc NXB Văn hoá H. 1997, t.I,tr. 351
(3)Pearl Buck,Lê Đình Chân dịch Tiểu thuyết Tàu, tạp chí Thanh Nghị 1944
từ số 83 trở đi
(4) Như (2),t.II,tr.67
(5) Đàm Gia Kiện chủ biên
Lịch sử văn hoá hoá Trung quốc
Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang Phan Văn Các
dịch NXB Khoa học xã hội H. 1993, tr.277
(6)Trương Ái Linh Hoa hồng trắng hoa hồng
đỏ, NXB Phụ nữ H. 2001, tr.7
(7)Chú ý là trong văn học cổ điển VN còn nhiều trường hợp có sự vay mượn cốt truyện từ văn học Trung quốc như Truyền Kỳ mạn lục, Ngọc Kiều Lê hoặc về sau một chút là Đào hoa ký...
(8)Câu chuyện trong Hoàng Lê nhất thống
chí có thể bao quát mấy đời vua và số lượng nhân vật ở đây cũng khá lớn. Nhưng
đây là do nhu cầu của việc ghi lại lịch sử chứ không liên quan đến tư duy tự sự.
(9)Đinh Gia Trinh Tính cách văn chương VN
trước thời Âu hoá tạp chí Thanh Nghị
1941 số 2-3,in lại trong Hoài vọng
của lý trí NXB Hội nhà Văn 1996,tr.27
(10)Đây là một xê-ri sách được NXB Trẻ TP
HCM cho in trong năm 2001, người khởi
xướng dịch và bắt tay trực tiếp dịch là nghà nghiên cứu Cao Tự Thanh.
(11)
Trần Đình Hượu Thực tại cái thực
và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học VN trung cận đại in trong
Nho giáo và văn học VN trung cận đại NXB Văn hoá thông tin H.1995
tr.443.
Đã
in trong Tự sự học, một số vấn đề lý
luận và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm H. 2004
Published on September 06, 2013 01:18
September 2, 2013
Những dấu hiệu của một tư duy trung cổ
Nguyễn Công Hoan trong hồi ký Đời viết văn của tôi (1971) có nhiều
đoạn tự thú về sự làm bừa làm bậy đã xẩy ra trong đời mình. Đại khái ông kể là
lúc ra học tiểu học ở Hà Nội cần giấy khai sinh, nhưng ngại về làng bên Bắc
Ninh làm tận gốc, liền nhờ ông chủ nhà trọ làm hộ. Ông này bảo hai người bạn
làm chứng, rồi kiếm cành cau với vài hào bạc đưa lý trưởng Hàng Trống. Vài ngày
sau, ông Kép Tư Bền trong văn chương tương lai có ngay tấm giấy khai sinh và
nghiễm nhiên thành người sinh ở Hà Nội.
Câu chuyện được kể chỉ cốt để phô ra một tình
trạng gian dối phổ biến trong sinh hoạt đương thời. Như một thứ thỏa thuận ngầm, mọi
người chia sẻ một cách sống thực giả tùy tiện . Không ai buồn quan tâm tới sự
chính xác của các con số, không muốn và
không có nhu cầu hiểu biết thực thụ về chính mình cũng như hoàn cảnh quanh
mình. Một thứ khinh bạc bất cần đời bao trùm cả xã hội.
Từ đây, không khó khăn gì để nhận ra mầm mống của nhiều sự lạc hậu khác như cách
nghĩ chín bỏ làm mười, bất chấp chuẩn mực, không coi cái gì là thiêng liêng, bịa
sai bị tố không chịu nhận, xem thường lẽ phải và pháp luật.
Ngày nay chúng ta còn bắt gặp nó trong
những tin tức đưa ra hàng ngày trên báo chí. Nhiều làng làm giả hồ sơ thần tích
để xin cấp bằng di sản văn hóa. Nhiều chi tiết ở các vụ án "có dấu hiệu bị làm
lệch". Hết thể thao khai man tuổi đấu thủ lại đến bóng đá trọng tài bắt thiên
vị. Trên các trang mạng thường xuyên có
các tin bài dành để tố cáo tiến sĩ rởm, giáo sư rởm.
Đấy
là nói trên những sự việc trong đời sống hàng ngày. Nói chi đến những chuyện
tầy đình -- như ba mươi năm chiến tranh, đã bao người Việt bị chết, trong nạn
suy thoái kinh tế hiện nay có bao nhiêu công nhân thất nghiệp, -- các con số
đưa ra khi thấp khi cao và chỉ phụ thuộc vào ý muốn của người có quyền.
Sự cố
ý làm sai nhiều khi đã biến thành gian manh càn rỡ, bất chấp quỷ thần cũng như dư luận xã hội.
Sự thiếu chính xác trong suy nghĩ
đến đây tìm được biến tướng mới, là tô vẽ lịch sử, viết lại lịch sử cho vừa mắt
vừa tai, miễn là đề cao được mình, do đó có lợi.
Ta hãy trở lại với cội nguồn của thói quen này.
Trước khi đề ra các chính sách xã hội ở
Đông Dương, người Pháp thường huy động nhiều nhà khoa học đi điều tra nghiên
cứu điền dã và tìm hiểu ngược mãi lên tận nếp sống trì trệ đã hình thành nhiều
đời trong xã hội Việt.
Trong số này phải kể tới Pierre Gourou (1900—1999).
Tình trạng tư duy không có cái gì chính
xác của người Việt đồng bằng sông Hồng từng được ông miêu tả tường tận trong
cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (viết năm 1936 và bản
dịch ra tiếng Việt in ở Hà Nội 2003)
Theo cách miêu tả của Gourou, ở các làng xã,
“chỉ cần đưa một ít tiền cho chức dịch là
có thể nhận được một bản khai sinh hoàn toàn theo ý thích, trong đó ngày tháng
năm sinh được ghi phù hợp với nguyện vọng của người xin“.
Sự phổ biến của các hiện tượng tương tự
buộc người ta phải kết luận rằng đây là một biểu hiện của trình độ tư duy và
một quan niệm sống chi phối xã hội suốt từ trên xuống dưới.
Nên biết rằng đến thời cận đại, ngay các vua chúa cũng không
bao giờ biết cả nước có bao nhiêu dân, quan chức các cấp không cần biết một
làng mà họ thu thuế có bao nhiêu xuất đinh, còn các xã thì bao giờ cũng cố giấu
bớt số người phải nộp thuế để trốn thuế được chừng nào hay chừng ấy. Lúc đầu thì người ta không thể làm, sau thì không muốn làm. Thói quen sống trong bóng tối đã đóng vai một nhân tố cản trở sự trưởng thành của xã hội.
Một vài hiện tượng khác được Pierre Gourou ghi
nhận cũng khá đắt giá.
Ông bảo đến một làng khi cần hỏi về lai lịch
của làng, người ta chỉ nhận được những câu trả lời rất mơ hồ; nếu như muốn có
một sự chính xác thì câu sau thường lại mâu thuẫn với câu trước.
Gần như không làng nào có ý niệm chắc chắn
về sự thành lập của làng mình, đi đâu cũng chỉ thấy người ta thề sống thề chết
là làng mình có từ cổ xưa, đâu như từ thời Hùng Vương, tức là đã có từ hơn bốn
ngàn năm trước.
Gourou chỉ hết ngạc nhiên khi biết rằng
một dòng họ có vài ba người thăng quan tiến chức thì thường thuê ngay một nhà nho có tên tuổi
viết lại gia phả nhà mình. Mà nhà nho ấy thì nghĩ rằng ông ta có nghĩa vụ thêm
thắt vào cuốn gia phả ấy nhiều chi tiết cho nó đẹp thêm, và không ai thấy phải
thắc mắc về hành động đó cả.
Sự thiếu hiểu biết và nói chung là thiếu ý
niệm chính xác về thời gian của cả cộng đồng như tạo ra một lớp sương mù huyền hoặc. Càng về sau những người chép sử càng sử dụng độ lùi của năm tháng để vùi lấp tất cả trong sự mù mờ và không cho phép ai đi tìm sự thật.
Cũng về vấn đề thời gian hai tác giả
người Pháp khác là Pierre Huard và Maurice Durand trong Hiểu biết về Việt Nam (1954) lưu ý xã hội Việt xưa chưa biết tới
đồng hồ, và khái niệm về thời gian “chỉ được kinh qua chứ không được đo“.
Sự lẫn lộn giữa lịch sử và huyền thoại
trở thành đương nhiên.
Theo Pierre Huard và Maurice Durand, đây
là dấu hiệu của sự tồn tại dai dẳng của kiểu tư duy tiền Descartes thường thấy
ở phương Đông.
Trong lúc chờ tìm hiểu thêm về tiền Descartes , tôi tạm lấy một câu
chuyện trong Trạng Quỳnh để minh họa cho khái niệm này.
Theo
bản Trạng Quỳnh bán ở sạp báo trước cửa chợ Đồng Xuân thời gian trước 1954 thì
có lần Trạng cho kéo đến trước mặt sứ
Tầu một cây gỗ, rổi đề vào đó ba chữ Hồ
bất thực và bảo hãy giải nghĩa cây đó là cây gì.
-- Xin chịu, kính nhờ Trạng giảng hộ.
-- Hồ
bất thực là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn thì cáo đói. Cáo đói thì cáo gầy.
Cáo gầy là cây gạo.
Ngày nay sự lẫn lộn giữa huyền thoại và
lịch sử còn được tiếp tục, chẳng hạn với trường hợp ngọn đuốc sống Lê Văn Tám.
Tư duy trung cổ chi phối người Việt suốt những năm chiến tranh. Sang thời hậu chiến, trong khi tuyên bố mình đi vào hiện đại hóa thì trên nhiều phương diện – trước tiên là trong tư duy -- có sự trở lại của các yếu tố tiền hiện đại.
Tức tinh thần chính của đời sống thì lại y như trước khi người Pháp tổ
chức xã hội VN theo mẫu hình của họ thế kỷ XIX.
Sửa từ bài cũ Thiếu một thói quen suy nghĩ chính xác ,2007
đoạn tự thú về sự làm bừa làm bậy đã xẩy ra trong đời mình. Đại khái ông kể là
lúc ra học tiểu học ở Hà Nội cần giấy khai sinh, nhưng ngại về làng bên Bắc
Ninh làm tận gốc, liền nhờ ông chủ nhà trọ làm hộ. Ông này bảo hai người bạn
làm chứng, rồi kiếm cành cau với vài hào bạc đưa lý trưởng Hàng Trống. Vài ngày
sau, ông Kép Tư Bền trong văn chương tương lai có ngay tấm giấy khai sinh và
nghiễm nhiên thành người sinh ở Hà Nội.
Câu chuyện được kể chỉ cốt để phô ra một tình
trạng gian dối phổ biến trong sinh hoạt đương thời. Như một thứ thỏa thuận ngầm, mọi
người chia sẻ một cách sống thực giả tùy tiện . Không ai buồn quan tâm tới sự
chính xác của các con số, không muốn và
không có nhu cầu hiểu biết thực thụ về chính mình cũng như hoàn cảnh quanh
mình. Một thứ khinh bạc bất cần đời bao trùm cả xã hội.
Từ đây, không khó khăn gì để nhận ra mầm mống của nhiều sự lạc hậu khác như cách
nghĩ chín bỏ làm mười, bất chấp chuẩn mực, không coi cái gì là thiêng liêng, bịa
sai bị tố không chịu nhận, xem thường lẽ phải và pháp luật.
Ngày nay chúng ta còn bắt gặp nó trong
những tin tức đưa ra hàng ngày trên báo chí. Nhiều làng làm giả hồ sơ thần tích
để xin cấp bằng di sản văn hóa. Nhiều chi tiết ở các vụ án "có dấu hiệu bị làm
lệch". Hết thể thao khai man tuổi đấu thủ lại đến bóng đá trọng tài bắt thiên
vị. Trên các trang mạng thường xuyên có
các tin bài dành để tố cáo tiến sĩ rởm, giáo sư rởm.
Đấy
là nói trên những sự việc trong đời sống hàng ngày. Nói chi đến những chuyện
tầy đình -- như ba mươi năm chiến tranh, đã bao người Việt bị chết, trong nạn
suy thoái kinh tế hiện nay có bao nhiêu công nhân thất nghiệp, -- các con số
đưa ra khi thấp khi cao và chỉ phụ thuộc vào ý muốn của người có quyền.
Sự cố
ý làm sai nhiều khi đã biến thành gian manh càn rỡ, bất chấp quỷ thần cũng như dư luận xã hội.
Sự thiếu chính xác trong suy nghĩ
đến đây tìm được biến tướng mới, là tô vẽ lịch sử, viết lại lịch sử cho vừa mắt
vừa tai, miễn là đề cao được mình, do đó có lợi.
Ta hãy trở lại với cội nguồn của thói quen này.
Trước khi đề ra các chính sách xã hội ở
Đông Dương, người Pháp thường huy động nhiều nhà khoa học đi điều tra nghiên
cứu điền dã và tìm hiểu ngược mãi lên tận nếp sống trì trệ đã hình thành nhiều
đời trong xã hội Việt.
Trong số này phải kể tới Pierre Gourou (1900—1999).
Tình trạng tư duy không có cái gì chính
xác của người Việt đồng bằng sông Hồng từng được ông miêu tả tường tận trong
cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (viết năm 1936 và bản
dịch ra tiếng Việt in ở Hà Nội 2003)
Theo cách miêu tả của Gourou, ở các làng xã,
“chỉ cần đưa một ít tiền cho chức dịch là
có thể nhận được một bản khai sinh hoàn toàn theo ý thích, trong đó ngày tháng
năm sinh được ghi phù hợp với nguyện vọng của người xin“.
Sự phổ biến của các hiện tượng tương tự
buộc người ta phải kết luận rằng đây là một biểu hiện của trình độ tư duy và
một quan niệm sống chi phối xã hội suốt từ trên xuống dưới.
Nên biết rằng đến thời cận đại, ngay các vua chúa cũng không
bao giờ biết cả nước có bao nhiêu dân, quan chức các cấp không cần biết một
làng mà họ thu thuế có bao nhiêu xuất đinh, còn các xã thì bao giờ cũng cố giấu
bớt số người phải nộp thuế để trốn thuế được chừng nào hay chừng ấy. Lúc đầu thì người ta không thể làm, sau thì không muốn làm. Thói quen sống trong bóng tối đã đóng vai một nhân tố cản trở sự trưởng thành của xã hội.
Một vài hiện tượng khác được Pierre Gourou ghi
nhận cũng khá đắt giá.
Ông bảo đến một làng khi cần hỏi về lai lịch
của làng, người ta chỉ nhận được những câu trả lời rất mơ hồ; nếu như muốn có
một sự chính xác thì câu sau thường lại mâu thuẫn với câu trước.
Gần như không làng nào có ý niệm chắc chắn
về sự thành lập của làng mình, đi đâu cũng chỉ thấy người ta thề sống thề chết
là làng mình có từ cổ xưa, đâu như từ thời Hùng Vương, tức là đã có từ hơn bốn
ngàn năm trước.
Gourou chỉ hết ngạc nhiên khi biết rằng
một dòng họ có vài ba người thăng quan tiến chức thì thường thuê ngay một nhà nho có tên tuổi
viết lại gia phả nhà mình. Mà nhà nho ấy thì nghĩ rằng ông ta có nghĩa vụ thêm
thắt vào cuốn gia phả ấy nhiều chi tiết cho nó đẹp thêm, và không ai thấy phải
thắc mắc về hành động đó cả.
Sự thiếu hiểu biết và nói chung là thiếu ý
niệm chính xác về thời gian của cả cộng đồng như tạo ra một lớp sương mù huyền hoặc. Càng về sau những người chép sử càng sử dụng độ lùi của năm tháng để vùi lấp tất cả trong sự mù mờ và không cho phép ai đi tìm sự thật.
Cũng về vấn đề thời gian hai tác giả
người Pháp khác là Pierre Huard và Maurice Durand trong Hiểu biết về Việt Nam (1954) lưu ý xã hội Việt xưa chưa biết tới
đồng hồ, và khái niệm về thời gian “chỉ được kinh qua chứ không được đo“.
Sự lẫn lộn giữa lịch sử và huyền thoại
trở thành đương nhiên.
Theo Pierre Huard và Maurice Durand, đây
là dấu hiệu của sự tồn tại dai dẳng của kiểu tư duy tiền Descartes thường thấy
ở phương Đông.
Trong lúc chờ tìm hiểu thêm về tiền Descartes , tôi tạm lấy một câu
chuyện trong Trạng Quỳnh để minh họa cho khái niệm này.
Theo
bản Trạng Quỳnh bán ở sạp báo trước cửa chợ Đồng Xuân thời gian trước 1954 thì
có lần Trạng cho kéo đến trước mặt sứ
Tầu một cây gỗ, rổi đề vào đó ba chữ Hồ
bất thực và bảo hãy giải nghĩa cây đó là cây gì.
-- Xin chịu, kính nhờ Trạng giảng hộ.
-- Hồ
bất thực là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn thì cáo đói. Cáo đói thì cáo gầy.
Cáo gầy là cây gạo.
Ngày nay sự lẫn lộn giữa huyền thoại và
lịch sử còn được tiếp tục, chẳng hạn với trường hợp ngọn đuốc sống Lê Văn Tám.
Tư duy trung cổ chi phối người Việt suốt những năm chiến tranh. Sang thời hậu chiến, trong khi tuyên bố mình đi vào hiện đại hóa thì trên nhiều phương diện – trước tiên là trong tư duy -- có sự trở lại của các yếu tố tiền hiện đại.
Tức tinh thần chính của đời sống thì lại y như trước khi người Pháp tổ
chức xã hội VN theo mẫu hình của họ thế kỷ XIX.
Sửa từ bài cũ Thiếu một thói quen suy nghĩ chính xác ,2007
Published on September 02, 2013 21:24
August 22, 2013
Chuyện văn nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ II)
18/11
Nguyên Ngọc kể:
- Buổi gặp anh em, ông Linh còn nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu anh em". Sau này loại câu như thế người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã hội) chưa có, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại phản công cho mà xem. Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi trói rồi phải không!
- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội nghị? Thi bảo, tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng. Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt tạp chí chuyên về văn học nước ngoài rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
- Đọc báo chí Hà Nội đủ thấy chưa đâu vào đâu cả. Mà cấp trên thì đã ghét lắm rồi. Ông Nguyễn Đức Tâm rêu rao trên tờ Lao động: “Đây, báo đăng bài của tên Lê Dụng(?) một tên về hưu (trước là thứ trưởng Bộ Công An) đặt vấn đề công tác tổ chức…” Rồi cả Bộ chính trị chửi bới, chỉ trừ có ông Linh là không nói gì, sau lại đỡ hộ. Trong TW, ông Linh cô độc lắm. Hôm gặp văn nghệ sĩ, mấy anh em nhà mình cứ một giọng xin TW bảo chúng tôi, bảo chúng tôi. Thế là ông Linh đỏ mặt lên "Hãy tự cởi trói mình trước khi trời cứu". Tức nói đến Trung ương là nói đến chỗ rất đau của ông.
Với bài ông Linh, coi như Đại hội Nhà văn đã xong. Giờ chỉ còn minh hoạ. Và làm công tác tổ chức.
Nhàn: Các anh chuẩn bị đón họ phản công.
Nguyên Ngọc: Đúng. Khải nó bảo bây giờ Bộ Chính trị ông nào cũng dính với một vụ rồi, thì còn làm sao mà giẫy ra được nữa.
Tôi (VTN) hay nghĩ cái được nhất của những cuộc họp này là nói rõ rằng văn nghệ của ta rất nghèo.
Lạ thật là cái võ của các ông trên. Một mặt, các ông ấy chê bai mình cấm đoán mình. Mặt khác, ông ấy lại bảo ta có một nền văn nghệ xuất sắc. Thế thì còn biết đằng nào mà lần. Trói xong lại bảo đố mày bay lên – hồi chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mấy lần nói với tôi cái câu ấy, lần nào nói xong cũng cười khà khà sung sướng.
Nguyên Ngọc kể tiếp:
- Chính ông Trần Độ là do ông Linh đưa trở lại. Vì ông Linh với ông ấy quen nhau từ hồi ở trong rừng. Bây giờ ông ấy vẫn bảo tự do về kinh tế thì có tôi(Nguyễn Văn Linh), tự do về văn hoá thì có anh (Trần Độ).
Ông Độ nghĩ ra được nhiều việc cụ thể lắm. Ví dụ, ông ta đề nghị sẽ có nghị quyết của Ban bí thư về các vụ án văn nghệ trước đây.
Ông Khải bây giờ đã trả sao, trả mũ, chuyển sang sinh hoạt ở Hội nhà văn. Ông ấy vẫn đận đà không muốn ra Hà Nội. Nguyên Ngọc bảo ông phải ra, tôi không làm hộ đâu.
Nguyên Ngọc trở về báo Văn nghệ như thế nào?
Một lần nói chuyện, Nguyễn Minh Châu có ý giá trao tờ báo cho Nguyên Ngọc thì hay nhất.
May đâu, gặp dịp Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu lên gặp Trần Độ. Nhân Trần Độ bảo: “Các anh phải củng cố tờ báo Văn nghệ cho tốt" ông Nguyễn Đình Thi buột mồm "Hay là anh Ngọc trở lại báo.”
Ông Độ khôn lắm, không nói gì. Lúc tiễn ông Thi và Chính Hữu ra cửa, ông ấy mới bảo các anh nhớ bàn ý kiến về báo Văn nghệ, như ý anh Thi vừa nói.
Nguyễn Đình Thi biết hố rồi, về, tính lại. Triệu tập các ông trong ban thư ký có mặt ở Hà Nội. Thống nhất đồng ý để Ng Ngọc về. Rồi gọi vào cho Chế Lan Viên và Anh Đức, chờ ý kiến cuối cùng.
Về sau, họp thường vụ, Anh Đức mặt tím bầm (ai đó bảo: mặt như cô hồn), đứng lên nói:
- Tôi biết thừa bụng các anh rồi. Chính các anh cũng không muốn anh Ngọc về, nhưng các anh lại đẩy việc quyết định cho chúng tôi để đằng nào cũng được việc, mà tôi với anh Chế Lan Viên lại mang tiếng ác. Nhưng tôi với anh Chế Lan Viên bàn nhau rồi, chúng tôi đồng ý, cho các anh biết mặt.
Đấy, Anh Đức là cái loại trắng trợn đến thế kia chứ, Nguyên Ngọc nói thêm. Anh em nó vẫn bảo Anh Đức ít chất Nam bộ hơn ai hết.
Còn ông Chế Lan Viên, cũng lạ lắm. Khi tôi về báo Văn nghệ, vẫn là Nguyên Ngọc kể, tôi đã viết thư cho nhiều người, mời viết cho báo. Trong đó có Hà Xuân Trường (ông Trường trả lời nói là bận, không viết được) và có Chế Lan Viên. Nhưng bọn thằng Duy đại diện Văn Nghệ ở Sài Gòn nó không thích Chế Lan Viên, nên nó cứ kệ đấy. Ông Chế Lan Viên lên Sài Gòn tìm thư thì nhận trong thùng thư, chứ chúng nó không chuyển.
Ông Chế trả lời: “Nhận được thư Nguyên Ngọc, mình với Thường mừng lắm, giá thư thất lạc có phải sinh chuyện không".
Rồi ông ta góp ý kiến với báo nhiều điều rất cụ thể.
Hôm Nguyên Ngọc vào Sài Gòn, cùng với Nguyễn Duy, Ý Nhi đến chỗ Chế Lan Viên chơi. Chế Lan Viên cảm động ra mặt.
Chế Lan Viên bây giờ luôn luôn nói:
- Khen Trung Quốc không ai bằng tôi mà chửi Trung Quốc cũng không ai bằng.
--Tôi theo Đảng, Đảng sai tôi sai, Đảng đúng tôi đúng!
Tôi nghĩ, vẫn lời Nguyên Ngọc nói, thế thì ai cần anh nữa.
Nói chung, Nguyên Ngọc nhận xét Chế Lan Viên giỏi biến báo lắm, mà cả ông Trần Độ cũng nhận xét vậy.
Gặp Trần Độ ở Sài Gòn, Chế Lan Viên nhận ngay tôi là người giáo dở. Tôi ủng hộ Đào Vũ về báo Văn nghệ, nhưng tôi không trao quyền cho hắn làm tổng biên tập, mà chỉ làm quyền thôi, thế là giáo dở chứ gì. Tôi với Nguyên Ngọc giận nhau, nay tôi lại ủng hộ anh ấy về thay.
- Thế theo anh, Chế Lan Viên là người thế nào?
- Chính ông ta là người rất nhát, nên ông ta phải đánh mình tàn tệ thế, để một là khỏi mang tiếng liên quan, hai là chính ông ta cũng không có đằng nào mà rút nữa.
- Thế còn Nguyễn Khải?
- Nguyễn Khải lại là chuyện khác. Chuyện năm 1979, mình chả nghĩ làm gì, chứ vợ mình nó giận lắm. Một lần, Tâm nó gặp ông Khải ở đường, nó nói mát: "Anh Khải lâu không thấy sang nhà", Khải nó là người thông minh, nó biết. "Tôi là thằng phản bội, còn dám vác mặt đi đâu nữa". "Thế anh đã đọc Xốt nhi cốp chưa?". Khải chưa đọc, nhưng cũng đoán ra đấy là cuốn sách viết về thằng phản bội, nói loanh quanh rồi chuồn.
Nói chung Khải là người quá nhạy, cứ nghe cánh Nguyễn Đình Thi doạ cho mấy câu, thế là lại dao động, Nguyên Ngọc lại phải lên dây cót thêm v.v..
Tôi nghĩ, ông Khải không hết mình trong mọi chuyện, một phần vì bỏ việc tổ chức còn sáng tác, chứ Nguyên Ngọc ngoài việc ấy ra, chả có việc gì khác!
30-11
Gặp Hồ Ngọc bên sân khấu.
Hồ Ngọc kể hôm gặp ông Linh, anh em mình nói nhiều chỗ hố lắm. Ông Tô Hoài, ông Huy Cận thì lẩm cẩm rồi. Có buổi, tôi ngồi gần chỗ Trần Độ, nghe Huy Cận đến tỉa tót: “Anh Trần Độ, anh đừng quên tôi đấy nhớ". Ôi, nhà thơ Lửa thiêng gì mà khốn nạn thế !
Sau này bọn điện ảnh và các ngành nó bảo bọn văn học nó nói như bố ấy, còn chúng mình nói như trẻ con.
Có một việc là trong giờ nghỉ, ông Trần Độ có hội ý với ông Linh. Xong, ông Trần Độ nói chúng tôi vừa thống nhất là sẽ cho chiếu phim Hà Nội dưới mắt ai.
Thế là về sau ông Hải Ninh nghệ sĩ nhân dân cũng lên than thở đề nghị xét lại vụ Bãi biển đời người của ông ta. Anh em nó trêu: Bãi biển đầy ruồi.
Rồi bà Xuân Thanh lên khóc lóc nói rằng cháu không được lên lương, cháu không được đi học v.v.
Chả ra làm sao cả.
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức.
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối, Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt rồi.
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra, trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu.
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng chúng ta là hạt bụi có tư tưởng. Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi càng giảm sút.
Còn như tôi, Hồ Ngọc, nói thế nào? Tôi chuẩn bị kỹ lắm. Tôi dẫn Lê - nin, tôi dẫn Mác đầy đủ. Khi không có tự do, thì con người ta trở nên ti tiện -- Mác nói vậy, và chỉ tôi mới lôi ra được thôi.
Tôi thấy có những anh em mình nói còn trật lắm. Anh Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng văn nghệ rất khó nắm bắt. Như thế là rơi vào bất khả tri rồi. Hoặc Lưu Quang Vũ nói rằng các ông tuyên huấn không nghe được gì cả, nói thế cũng là quá.
Tôi nghĩ phải tìm được một giải pháp vừa phải.Chuyện tôi cho là quan trọng nhất - chúng ta phải biết quý tài năng. Tôi bảo biết quý tài năng là biểu hiện của nhân dân văn hoá, đất nước văn minh. Không biết quý tài năng thì thôi, chịu. Và tôi đọc ra mấy câu thơ anh em nó sáng tác "Xưa kia đất nước rã rời-- cho nên nghệ sĩ coi trời bằng vung - Ngày nay đất nước anh hùng - cho nên nghệ sĩ coi vung bằng trời “
Anh em nó bảo tôi bạo.
Nguyễn Kiên ra cười nhoẻn với tôi: "Không phải tôi coi vung bằng trời, mà cái góc vung đã bằng trời". Nói được như thế là anh em quý rồi.
Sau buổi phát biểu ở đấy, tôi thấy anh Nguyễn Khải, anh Nguyên Ngọc cảm tình với tôi hơn. Tôi cũng thấy cánh mình phải chạy đi chạy lại với nhau, không thể đứng rời ra được. Ông Trần Độ, ông Hạnh cũng coi tôi là một người có thể tin cẩn được, vẫn gọi tôi lên luôn! Tôi bảo các ông đừng can thiệp quá sâu vào mọi chuyện như ông Hà Xuân Trường. Kệ cho anh em nó làm là tự nhiên được.
Quyển sách mới của Dương Thu Hương không phải hay, nó viết nhiều chỗ cẩu thả, phô, nhưng nó có tâm huyết của nó. Còn chửi thì ghê lắm. Đã có người đọc trệch đi Chuyện tình kể trước lúc rạng mông cơ mà. Tôi góp ý kiến với Dương Thu Hương đủ thứ. Hôm nọ, ngồi có cả Nguyễn Khải, tôi mới bảo này, lần sau, cô đừng đăng những bài thơ như bài tuyên ngôn trên Văn nghệ vừa rồi nữa nhé. Cũ lắm. Nguyễn Khải bảo tôi cũng nghĩ, nhưng không dám nói.
Hôm gặp ông Linh, giới sân khấu cũng nhảm. Mẹ Thành chúa cơ hội thì lúc nào cũng mời mọc “cái này để mời anh Linh đi xem ạ!” Giờ nghỉ, thấy ông Linh ra, Hồ Ngọc phải tránh đi, nhưng cả bọn Lưu Quang Vũ, Hoàng Quân Tạo cùng xô đến... Vũ dám làm tất cả các việc mà Vũ vẫn chế giễu. Trong vở Chết cho điều chưa có cũng lại có “những việc cần làm ngay”, có “đồng chí NVL”.
Tôi nghĩ đến Vũ những ngày chống Mỹ. Tưởng là khác rồi, nhưng đâu có khác!
Ông Vũ Tú Nam kể Nguyễn Phan Hách bảo sướng quá, bây giờ cởi ra gỡ ra rồi, tha hồ viết.
Nguyễn Kiên: Viết khó hơn bao giờ hết chứ. Xưa muối hiếm kiếm được một hạt cũng quý. Nay cả làng người ta có muối rồi. Có biết tra không, hay có nồi canh, lại làm hỏng.
2/12
Nguyễn Quân kể:
- Hôm gặp ông Linh, tôi bảo các anh không đốt sách tôi, không xé tranh tôi, thế là được rồi. Còn nếu các anh làm vậy, tôi chỉ trách nhà tôi vô phúc. Và làm với nhiều người, thì cả nước vô phúc.
- Đất nước gì mà tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có tất, thì ra cái thá gì nữa. Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào Stalin, vẫn có Sông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Ông Mạnh với mấy ông bảo khi bị khinh bỉ, thì con người ta ti tiện đi. Nhưng có đúng thế không? Sao người trí thức lại để mình bị ti tiện đi được.
Sở dĩ nước ta không ra gì, vì trí thức nước ta không tạo được bi kịch lớn. Chứ cứ như ở Nga này, lúc nào gần nửa trí thức nó cũng ngồi tù, thì làm sao nó không lớn được.
Một người như Trần Dần biết điều đó đấy. Gặp tôi về việc đứa con, ông ấy chỉ bảo thôi đừng bới mọi chuyện ra làm gì, có gì đáng bới. Thế là biết đấy.
À, lại nói chuyện gặp ông Linh, ông Tào Mạt cũng mang những ý rất cũ ra rao giảng. Tôi phải bảo bây giờ không phải thời văn nghệ sĩ dâng Sách bình Ngô, cũng không phải thời làm hề. Anh hãy quan niệm văn nghệ như một nghề, đấy mới là điều cần thiết.
Bố Tào Mạt cứ dạy cả nước làm vua, thì còn ra cái lý cố gì nữa!
Nói chung, tôi hay có lối trả lời khiến các lão rất ngại. Như ông Thanh lại có lần đến bảo: Bây giờ mình sắp về hưu, hôm nào mình đến cậu bảo mình vài vấn đề cơ bản của nghệ thuật, có gì cần, làm cố vấn cho các anh. Tôi mới bảo, sao lại thế được? Mười năm nay em giảng cho anh, anh không hiểu thì một hai buổi hiểu sao nổi. Mà tuổi của anh thì không học được rồi, giá anh cứ thi vào khoa tại chức trường em, chắc em cũng đánh trượt anh thôi.
Lại có nhiều ông phê phán tôi phá hoại nền mỹ thuật nước nhà.
Tôi mới bảo ngay nền mỹ thuật nước nhà không yếu đến mức một mình tôi phá được đâu. Còn như sau tôi, người ta không thể vẽ như anh Cẩn trước đây, đấy lại là chuyện khác.
7/12
Quân lại nói về lần gặp ông Linh:
- Mọi người thường nói là mong trên thông cảm. Không thể có chuyện như thế, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi cũ, rồi tìm cả câu trả lời mới. Vấn đề bây giờ, là đặt ra những câu hỏi mới. Ví dụ nên có luật làm sao để các thành uỷ, tỉnh uỷ không can thiệp vào công việc của các nhà hát hay đoàn kịch. Chứ còn có người duyệt, thì tức là có lúc thông cảm lúc không thông cảm,rồi có bao giờ ra sao.
- Tôi còn đề nghị thêm một điểm. Là cấm người viết phê bình nói nhân danh Đảng. Muốn gì thì muốn, phải nhân danh cá nhân. Sai đúng bàn sau.
- Chính ông Trần Độ cũng phải công nhận là ở nước ta, người biết cứ đi hỏi người không biết. Hội đồng nghệ thuật thông qua rồi, lại còn đi hỏi Bộ trưởng. Trần Độ vốn ghét Văn Phác nên bảo vậy.
Cũng như bác ấy, bác biết sao được về mỹ thuật bằng cháu, mà cháu vẫn phải hỏi bác —Ng Quân nói lại Trần Độ.
- Cái tội của nước mình, là dạy cho dân triết học, mà bắt trí thức học lễ, trong khi, suy cho cùng, chỉ trí thức mới cần triết học, còn dân chỉ cần học lễ - lễ theo nghĩa rộng, nghĩa là phép cư xử.
Trà: Quân có cái thánh thiện của nó. Nó hiểu được âm nhạc, tôn giáo.
Nhàn: Tôi thấy ông Quân có cái vô tư của người bên ngoài nhìn vào, không có những cái rác, cái bọt bẩn mà do sống quá lâu trong giới, mình cũng bị nhiễm.
27/12
Một người bạn cũ, kể chuyện Hà Nội - Sài Gòn.
- Sau khi Phan Ngọc cho in Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều , Cao Xuân Hạo bảo “Đọc xong quyển này, thấy người tài nhất là ông Phan Ngọc, thứ hai là Đảng ta, thứ ba mới đến Nguyễn Du.”
- Ông Hạnh phó ban hiện nay, cũng rầu lắm. Hôm họp ở Ban văn hoá văn nghệ thấy mặc cái quần có miếng vá, trông khá khốn khổ. Lại còn cãi nhau tay đôi với tay Hoài Lam nữa ( HL giáo sư mỹ học, ông Hạnh xưa cùng học với hắn). Mình phải bảo anh đừng làm thế mà chết. Ông Hạnh phải “tháo chốt ngay”.
Ở Sài Gòn, loại như ông Trần Bạch Đằng, cũng rất muốn chân TTK Hội những người viết văn thành phố. Trên bàn, rồi vẫn chọn ông Sáng (ông Anh Đức tự nguyện nhường vì nhắm vào trung ương). Trần Bạch Đằng ngồi nhà Anh Đức, từ 7g sáng, tới 2 giờ chiều, chỉ đay đi đay lại một câu: Anh là nghệ sĩ còn tôi là chính khách, tôi phải có chức vụ.
Ông Đằng cực đoan đến mức ông Nguyễn Văn Linh, ông Võ Văn Kiệt cũng phải sợ, không dám dùng.
Quanh cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, nhiều người bảo tất nhiên Sử định buôn to. Nhưng loại như Tố Hữu thì không, lão không ơn huệ ai đâu. Thậm chí lão còn muốn nói là nhờ tôi mà anh trở nên nổi tiếng nữa, vậy anh phải cám ơn tôi mới đúng.
Chứ cám ơn anh thì tôi cũng là tầm thường như mọi người hay sao ?
Nước mình, ai người ta cũng bảo kỳ vừa rồi, đau nhất ông Tố Hữu. Đoàn Giỏi tới thăm về, kể lúc nghe tin, Tố Hữu lạnh cả sống lưng. Ngay Lê Đức Thọ cũng bất ngờ, vì việc đại hội không tín nhiệm Tố Hữu.
Phan Hồng Giang và Từ Sơn đến nhà TH chơi. Nghe đồn Phan Hồng Giang có nói với Tố Hữu một câu:” Chỉ tiếc là nay không có chú, tức là Trung ương mất đi những người trí thức có suy nghĩ...” Thế là Tố Hữu bưng mặt khóc (?!)
Hoài Thanh xưa nay vẫn bảo, văn nghệ nước ta, được Tố Hữu phụ trách còn là khá!
Những chuyện khác.
Ông Lê Đình Kỵ hồi trước khá đứng đắn. Nghe nói khi thơ Trường Chinh ra, có người bảo Lê Đình Kỵ phê bình đi, Kỵ bảo có phải thơ đâu mà phê bình.
Sau có người mách rằng câu ấy đã đến tai Đặng Xuân Kỳ, con Trường Chinh. Thế là Lê Đình Kỵ sợ lắm, phải viết bài, phát trên đài, in báo. Trước đó, nhờ Bảo Định Giang đọc hộ. Bảo Định Giang chỉ bảo anh trích sai nhiều quá.
- Ôi, quan trường là chuyện ghê gớm không ai lường nổi. Ông Trần Độ đại hội lần trước có chân Uỷ viên trung ương, mà không bố trí công tác đã buồn lắm, toàn đi chơi với bọn Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến. Nghe nói (có anh kể) có lần Trần Độ phải đến khóc với Trường Chinh cơ mà. Mỗi lần đại hội, lo đến đái ra máu chứ. Vì có thể công lao từ trước đến nay mất hết.
... Chính trị nó lạ lắm. Ông Nguyễn Văn Linh có lần hô Lê Duẩn muôn năm, lại có lần bảo ý kiến của anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) là thế này, thế này. Khen hết lời ! Ông Nguyễn Văn Linh chỉ ghét ông Tố Hữu. Nghe nói vụ Cù Lao Tràm, ông Tố Hữu nhận định đã có một bàn tay bẩn dúng vào (tức NVL). Thế là Nguyễn Văn Linh càng cáu, về quyết trị bọn thằng Nguyễn Mạnh Tuấn thêm.
- Hiện nay, bọn CA văn hoá ở Hà Nội không thích gì loại truyện ngắn Tướng về hưu đâu. Đến thảo luận ở ban văn hoá văn nghệ cũng rất căng. (Loại như Phan Cự Đệ trước đây, đều là cộng tác viên của cục 78 cả đấy chứ. Đi xem phim, cứ giơ cái thẻ cộng tác với cục 78 ra, là vào hết!)
- Ông Phạm Văn Đồng bây giờ còn hay nói là mình kinh tởm các nước phương Tây, bởi văn minh của nó phi nhân tính lắm. Tức y như cũ.
Loại như ông Đồng, ông nào cũng có nhận quà biếu vidio, casset. Con cái bây giờ cũng phải buôn, vì hồi trước, chả có gì. Còn ông Nguyễn Khải, ông Chế Lan Viên thì nói gì nữa. Đi họp CA, cũng phải đi.
Đến bây giờ, mà trong buổi họp làm Bách khoa từ điển, ông Đồng còn bảo những khó khăn hiện nay rồi sẽ qua đi, vài năm nữa chúng ta sẽ đạt tới bước tiến mới, nhìn lại hôm nay sẽ khác.
Lâu nay, tôi quý ông Đồng lắm. Mình cứ lấy ông Đồng đối lập với ông Trường Chinh. Nhưng sự thật, ông Đồng có quý gì ai đâu. Toàn nói chuyện trừu tượng, chung chung. Đến lúc mình lỡ có viết gì, lại mắng mình. Nghe bảo năm 1974, ông ấy nói Nguyễn Thành Long ghê lắm.
-- Ông ấy chả cứu ai cả.
-- Đúng rồi, đến cả Trần Việt Phương, ông ấy cũng không cứu.
-- Nghĩa là ông ấy gọi các văn nghệ sĩ đến chơi, như người xưa gọi cô đầu đến hát. Xong thì thôi, không còn dây dưa gì.
Trần Đăng Khoa có lần kể với Trà một chuyện nhỏ, giờ Trà kể lại với tôi.
Lần ấy Khoa dẫn một đoàn thiếu nhi đến nhà Tố Hữu chơi.
-- Bác ơi, nhà của bác đây đấy à, thích quá nhỉ!
-- Không, đây là nhà của nhân dân, các cháu ạ!
Nguyên Ngọc kể:
- Buổi gặp anh em, ông Linh còn nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu anh em". Sau này loại câu như thế người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã hội) chưa có, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại phản công cho mà xem. Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi trói rồi phải không!
- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội nghị? Thi bảo, tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng. Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt tạp chí chuyên về văn học nước ngoài rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
- Đọc báo chí Hà Nội đủ thấy chưa đâu vào đâu cả. Mà cấp trên thì đã ghét lắm rồi. Ông Nguyễn Đức Tâm rêu rao trên tờ Lao động: “Đây, báo đăng bài của tên Lê Dụng(?) một tên về hưu (trước là thứ trưởng Bộ Công An) đặt vấn đề công tác tổ chức…” Rồi cả Bộ chính trị chửi bới, chỉ trừ có ông Linh là không nói gì, sau lại đỡ hộ. Trong TW, ông Linh cô độc lắm. Hôm gặp văn nghệ sĩ, mấy anh em nhà mình cứ một giọng xin TW bảo chúng tôi, bảo chúng tôi. Thế là ông Linh đỏ mặt lên "Hãy tự cởi trói mình trước khi trời cứu". Tức nói đến Trung ương là nói đến chỗ rất đau của ông.
Với bài ông Linh, coi như Đại hội Nhà văn đã xong. Giờ chỉ còn minh hoạ. Và làm công tác tổ chức.
Nhàn: Các anh chuẩn bị đón họ phản công.
Nguyên Ngọc: Đúng. Khải nó bảo bây giờ Bộ Chính trị ông nào cũng dính với một vụ rồi, thì còn làm sao mà giẫy ra được nữa.
Tôi (VTN) hay nghĩ cái được nhất của những cuộc họp này là nói rõ rằng văn nghệ của ta rất nghèo.
Lạ thật là cái võ của các ông trên. Một mặt, các ông ấy chê bai mình cấm đoán mình. Mặt khác, ông ấy lại bảo ta có một nền văn nghệ xuất sắc. Thế thì còn biết đằng nào mà lần. Trói xong lại bảo đố mày bay lên – hồi chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mấy lần nói với tôi cái câu ấy, lần nào nói xong cũng cười khà khà sung sướng.
Nguyên Ngọc kể tiếp:
- Chính ông Trần Độ là do ông Linh đưa trở lại. Vì ông Linh với ông ấy quen nhau từ hồi ở trong rừng. Bây giờ ông ấy vẫn bảo tự do về kinh tế thì có tôi(Nguyễn Văn Linh), tự do về văn hoá thì có anh (Trần Độ).
Ông Độ nghĩ ra được nhiều việc cụ thể lắm. Ví dụ, ông ta đề nghị sẽ có nghị quyết của Ban bí thư về các vụ án văn nghệ trước đây.
Ông Khải bây giờ đã trả sao, trả mũ, chuyển sang sinh hoạt ở Hội nhà văn. Ông ấy vẫn đận đà không muốn ra Hà Nội. Nguyên Ngọc bảo ông phải ra, tôi không làm hộ đâu.
Nguyên Ngọc trở về báo Văn nghệ như thế nào?
Một lần nói chuyện, Nguyễn Minh Châu có ý giá trao tờ báo cho Nguyên Ngọc thì hay nhất.
May đâu, gặp dịp Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu lên gặp Trần Độ. Nhân Trần Độ bảo: “Các anh phải củng cố tờ báo Văn nghệ cho tốt" ông Nguyễn Đình Thi buột mồm "Hay là anh Ngọc trở lại báo.”
Ông Độ khôn lắm, không nói gì. Lúc tiễn ông Thi và Chính Hữu ra cửa, ông ấy mới bảo các anh nhớ bàn ý kiến về báo Văn nghệ, như ý anh Thi vừa nói.
Nguyễn Đình Thi biết hố rồi, về, tính lại. Triệu tập các ông trong ban thư ký có mặt ở Hà Nội. Thống nhất đồng ý để Ng Ngọc về. Rồi gọi vào cho Chế Lan Viên và Anh Đức, chờ ý kiến cuối cùng.
Về sau, họp thường vụ, Anh Đức mặt tím bầm (ai đó bảo: mặt như cô hồn), đứng lên nói:
- Tôi biết thừa bụng các anh rồi. Chính các anh cũng không muốn anh Ngọc về, nhưng các anh lại đẩy việc quyết định cho chúng tôi để đằng nào cũng được việc, mà tôi với anh Chế Lan Viên lại mang tiếng ác. Nhưng tôi với anh Chế Lan Viên bàn nhau rồi, chúng tôi đồng ý, cho các anh biết mặt.
Đấy, Anh Đức là cái loại trắng trợn đến thế kia chứ, Nguyên Ngọc nói thêm. Anh em nó vẫn bảo Anh Đức ít chất Nam bộ hơn ai hết.
Còn ông Chế Lan Viên, cũng lạ lắm. Khi tôi về báo Văn nghệ, vẫn là Nguyên Ngọc kể, tôi đã viết thư cho nhiều người, mời viết cho báo. Trong đó có Hà Xuân Trường (ông Trường trả lời nói là bận, không viết được) và có Chế Lan Viên. Nhưng bọn thằng Duy đại diện Văn Nghệ ở Sài Gòn nó không thích Chế Lan Viên, nên nó cứ kệ đấy. Ông Chế Lan Viên lên Sài Gòn tìm thư thì nhận trong thùng thư, chứ chúng nó không chuyển.
Ông Chế trả lời: “Nhận được thư Nguyên Ngọc, mình với Thường mừng lắm, giá thư thất lạc có phải sinh chuyện không".
Rồi ông ta góp ý kiến với báo nhiều điều rất cụ thể.
Hôm Nguyên Ngọc vào Sài Gòn, cùng với Nguyễn Duy, Ý Nhi đến chỗ Chế Lan Viên chơi. Chế Lan Viên cảm động ra mặt.
Chế Lan Viên bây giờ luôn luôn nói:
- Khen Trung Quốc không ai bằng tôi mà chửi Trung Quốc cũng không ai bằng.
--Tôi theo Đảng, Đảng sai tôi sai, Đảng đúng tôi đúng!
Tôi nghĩ, vẫn lời Nguyên Ngọc nói, thế thì ai cần anh nữa.
Nói chung, Nguyên Ngọc nhận xét Chế Lan Viên giỏi biến báo lắm, mà cả ông Trần Độ cũng nhận xét vậy.
Gặp Trần Độ ở Sài Gòn, Chế Lan Viên nhận ngay tôi là người giáo dở. Tôi ủng hộ Đào Vũ về báo Văn nghệ, nhưng tôi không trao quyền cho hắn làm tổng biên tập, mà chỉ làm quyền thôi, thế là giáo dở chứ gì. Tôi với Nguyên Ngọc giận nhau, nay tôi lại ủng hộ anh ấy về thay.
- Thế theo anh, Chế Lan Viên là người thế nào?
- Chính ông ta là người rất nhát, nên ông ta phải đánh mình tàn tệ thế, để một là khỏi mang tiếng liên quan, hai là chính ông ta cũng không có đằng nào mà rút nữa.
- Thế còn Nguyễn Khải?
- Nguyễn Khải lại là chuyện khác. Chuyện năm 1979, mình chả nghĩ làm gì, chứ vợ mình nó giận lắm. Một lần, Tâm nó gặp ông Khải ở đường, nó nói mát: "Anh Khải lâu không thấy sang nhà", Khải nó là người thông minh, nó biết. "Tôi là thằng phản bội, còn dám vác mặt đi đâu nữa". "Thế anh đã đọc Xốt nhi cốp chưa?". Khải chưa đọc, nhưng cũng đoán ra đấy là cuốn sách viết về thằng phản bội, nói loanh quanh rồi chuồn.
Nói chung Khải là người quá nhạy, cứ nghe cánh Nguyễn Đình Thi doạ cho mấy câu, thế là lại dao động, Nguyên Ngọc lại phải lên dây cót thêm v.v..
Tôi nghĩ, ông Khải không hết mình trong mọi chuyện, một phần vì bỏ việc tổ chức còn sáng tác, chứ Nguyên Ngọc ngoài việc ấy ra, chả có việc gì khác!
30-11
Gặp Hồ Ngọc bên sân khấu.
Hồ Ngọc kể hôm gặp ông Linh, anh em mình nói nhiều chỗ hố lắm. Ông Tô Hoài, ông Huy Cận thì lẩm cẩm rồi. Có buổi, tôi ngồi gần chỗ Trần Độ, nghe Huy Cận đến tỉa tót: “Anh Trần Độ, anh đừng quên tôi đấy nhớ". Ôi, nhà thơ Lửa thiêng gì mà khốn nạn thế !
Sau này bọn điện ảnh và các ngành nó bảo bọn văn học nó nói như bố ấy, còn chúng mình nói như trẻ con.
Có một việc là trong giờ nghỉ, ông Trần Độ có hội ý với ông Linh. Xong, ông Trần Độ nói chúng tôi vừa thống nhất là sẽ cho chiếu phim Hà Nội dưới mắt ai.
Thế là về sau ông Hải Ninh nghệ sĩ nhân dân cũng lên than thở đề nghị xét lại vụ Bãi biển đời người của ông ta. Anh em nó trêu: Bãi biển đầy ruồi.
Rồi bà Xuân Thanh lên khóc lóc nói rằng cháu không được lên lương, cháu không được đi học v.v.
Chả ra làm sao cả.
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức.
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối, Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt rồi.
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra, trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu.
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng chúng ta là hạt bụi có tư tưởng. Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi càng giảm sút.
Còn như tôi, Hồ Ngọc, nói thế nào? Tôi chuẩn bị kỹ lắm. Tôi dẫn Lê - nin, tôi dẫn Mác đầy đủ. Khi không có tự do, thì con người ta trở nên ti tiện -- Mác nói vậy, và chỉ tôi mới lôi ra được thôi.
Tôi thấy có những anh em mình nói còn trật lắm. Anh Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng văn nghệ rất khó nắm bắt. Như thế là rơi vào bất khả tri rồi. Hoặc Lưu Quang Vũ nói rằng các ông tuyên huấn không nghe được gì cả, nói thế cũng là quá.
Tôi nghĩ phải tìm được một giải pháp vừa phải.Chuyện tôi cho là quan trọng nhất - chúng ta phải biết quý tài năng. Tôi bảo biết quý tài năng là biểu hiện của nhân dân văn hoá, đất nước văn minh. Không biết quý tài năng thì thôi, chịu. Và tôi đọc ra mấy câu thơ anh em nó sáng tác "Xưa kia đất nước rã rời-- cho nên nghệ sĩ coi trời bằng vung - Ngày nay đất nước anh hùng - cho nên nghệ sĩ coi vung bằng trời “
Anh em nó bảo tôi bạo.
Nguyễn Kiên ra cười nhoẻn với tôi: "Không phải tôi coi vung bằng trời, mà cái góc vung đã bằng trời". Nói được như thế là anh em quý rồi.
Sau buổi phát biểu ở đấy, tôi thấy anh Nguyễn Khải, anh Nguyên Ngọc cảm tình với tôi hơn. Tôi cũng thấy cánh mình phải chạy đi chạy lại với nhau, không thể đứng rời ra được. Ông Trần Độ, ông Hạnh cũng coi tôi là một người có thể tin cẩn được, vẫn gọi tôi lên luôn! Tôi bảo các ông đừng can thiệp quá sâu vào mọi chuyện như ông Hà Xuân Trường. Kệ cho anh em nó làm là tự nhiên được.
Quyển sách mới của Dương Thu Hương không phải hay, nó viết nhiều chỗ cẩu thả, phô, nhưng nó có tâm huyết của nó. Còn chửi thì ghê lắm. Đã có người đọc trệch đi Chuyện tình kể trước lúc rạng mông cơ mà. Tôi góp ý kiến với Dương Thu Hương đủ thứ. Hôm nọ, ngồi có cả Nguyễn Khải, tôi mới bảo này, lần sau, cô đừng đăng những bài thơ như bài tuyên ngôn trên Văn nghệ vừa rồi nữa nhé. Cũ lắm. Nguyễn Khải bảo tôi cũng nghĩ, nhưng không dám nói.
Hôm gặp ông Linh, giới sân khấu cũng nhảm. Mẹ Thành chúa cơ hội thì lúc nào cũng mời mọc “cái này để mời anh Linh đi xem ạ!” Giờ nghỉ, thấy ông Linh ra, Hồ Ngọc phải tránh đi, nhưng cả bọn Lưu Quang Vũ, Hoàng Quân Tạo cùng xô đến... Vũ dám làm tất cả các việc mà Vũ vẫn chế giễu. Trong vở Chết cho điều chưa có cũng lại có “những việc cần làm ngay”, có “đồng chí NVL”.
Tôi nghĩ đến Vũ những ngày chống Mỹ. Tưởng là khác rồi, nhưng đâu có khác!
Ông Vũ Tú Nam kể Nguyễn Phan Hách bảo sướng quá, bây giờ cởi ra gỡ ra rồi, tha hồ viết.
Nguyễn Kiên: Viết khó hơn bao giờ hết chứ. Xưa muối hiếm kiếm được một hạt cũng quý. Nay cả làng người ta có muối rồi. Có biết tra không, hay có nồi canh, lại làm hỏng.
2/12
Nguyễn Quân kể:
- Hôm gặp ông Linh, tôi bảo các anh không đốt sách tôi, không xé tranh tôi, thế là được rồi. Còn nếu các anh làm vậy, tôi chỉ trách nhà tôi vô phúc. Và làm với nhiều người, thì cả nước vô phúc.
- Đất nước gì mà tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có tất, thì ra cái thá gì nữa. Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào Stalin, vẫn có Sông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Ông Mạnh với mấy ông bảo khi bị khinh bỉ, thì con người ta ti tiện đi. Nhưng có đúng thế không? Sao người trí thức lại để mình bị ti tiện đi được.
Sở dĩ nước ta không ra gì, vì trí thức nước ta không tạo được bi kịch lớn. Chứ cứ như ở Nga này, lúc nào gần nửa trí thức nó cũng ngồi tù, thì làm sao nó không lớn được.
Một người như Trần Dần biết điều đó đấy. Gặp tôi về việc đứa con, ông ấy chỉ bảo thôi đừng bới mọi chuyện ra làm gì, có gì đáng bới. Thế là biết đấy.
À, lại nói chuyện gặp ông Linh, ông Tào Mạt cũng mang những ý rất cũ ra rao giảng. Tôi phải bảo bây giờ không phải thời văn nghệ sĩ dâng Sách bình Ngô, cũng không phải thời làm hề. Anh hãy quan niệm văn nghệ như một nghề, đấy mới là điều cần thiết.
Bố Tào Mạt cứ dạy cả nước làm vua, thì còn ra cái lý cố gì nữa!
Nói chung, tôi hay có lối trả lời khiến các lão rất ngại. Như ông Thanh lại có lần đến bảo: Bây giờ mình sắp về hưu, hôm nào mình đến cậu bảo mình vài vấn đề cơ bản của nghệ thuật, có gì cần, làm cố vấn cho các anh. Tôi mới bảo, sao lại thế được? Mười năm nay em giảng cho anh, anh không hiểu thì một hai buổi hiểu sao nổi. Mà tuổi của anh thì không học được rồi, giá anh cứ thi vào khoa tại chức trường em, chắc em cũng đánh trượt anh thôi.
Lại có nhiều ông phê phán tôi phá hoại nền mỹ thuật nước nhà.
Tôi mới bảo ngay nền mỹ thuật nước nhà không yếu đến mức một mình tôi phá được đâu. Còn như sau tôi, người ta không thể vẽ như anh Cẩn trước đây, đấy lại là chuyện khác.
7/12
Quân lại nói về lần gặp ông Linh:
- Mọi người thường nói là mong trên thông cảm. Không thể có chuyện như thế, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi cũ, rồi tìm cả câu trả lời mới. Vấn đề bây giờ, là đặt ra những câu hỏi mới. Ví dụ nên có luật làm sao để các thành uỷ, tỉnh uỷ không can thiệp vào công việc của các nhà hát hay đoàn kịch. Chứ còn có người duyệt, thì tức là có lúc thông cảm lúc không thông cảm,rồi có bao giờ ra sao.
- Tôi còn đề nghị thêm một điểm. Là cấm người viết phê bình nói nhân danh Đảng. Muốn gì thì muốn, phải nhân danh cá nhân. Sai đúng bàn sau.
- Chính ông Trần Độ cũng phải công nhận là ở nước ta, người biết cứ đi hỏi người không biết. Hội đồng nghệ thuật thông qua rồi, lại còn đi hỏi Bộ trưởng. Trần Độ vốn ghét Văn Phác nên bảo vậy.
Cũng như bác ấy, bác biết sao được về mỹ thuật bằng cháu, mà cháu vẫn phải hỏi bác —Ng Quân nói lại Trần Độ.
- Cái tội của nước mình, là dạy cho dân triết học, mà bắt trí thức học lễ, trong khi, suy cho cùng, chỉ trí thức mới cần triết học, còn dân chỉ cần học lễ - lễ theo nghĩa rộng, nghĩa là phép cư xử.
Trà: Quân có cái thánh thiện của nó. Nó hiểu được âm nhạc, tôn giáo.
Nhàn: Tôi thấy ông Quân có cái vô tư của người bên ngoài nhìn vào, không có những cái rác, cái bọt bẩn mà do sống quá lâu trong giới, mình cũng bị nhiễm.
27/12
Một người bạn cũ, kể chuyện Hà Nội - Sài Gòn.
- Sau khi Phan Ngọc cho in Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều , Cao Xuân Hạo bảo “Đọc xong quyển này, thấy người tài nhất là ông Phan Ngọc, thứ hai là Đảng ta, thứ ba mới đến Nguyễn Du.”
- Ông Hạnh phó ban hiện nay, cũng rầu lắm. Hôm họp ở Ban văn hoá văn nghệ thấy mặc cái quần có miếng vá, trông khá khốn khổ. Lại còn cãi nhau tay đôi với tay Hoài Lam nữa ( HL giáo sư mỹ học, ông Hạnh xưa cùng học với hắn). Mình phải bảo anh đừng làm thế mà chết. Ông Hạnh phải “tháo chốt ngay”.
Ở Sài Gòn, loại như ông Trần Bạch Đằng, cũng rất muốn chân TTK Hội những người viết văn thành phố. Trên bàn, rồi vẫn chọn ông Sáng (ông Anh Đức tự nguyện nhường vì nhắm vào trung ương). Trần Bạch Đằng ngồi nhà Anh Đức, từ 7g sáng, tới 2 giờ chiều, chỉ đay đi đay lại một câu: Anh là nghệ sĩ còn tôi là chính khách, tôi phải có chức vụ.
Ông Đằng cực đoan đến mức ông Nguyễn Văn Linh, ông Võ Văn Kiệt cũng phải sợ, không dám dùng.
Quanh cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, nhiều người bảo tất nhiên Sử định buôn to. Nhưng loại như Tố Hữu thì không, lão không ơn huệ ai đâu. Thậm chí lão còn muốn nói là nhờ tôi mà anh trở nên nổi tiếng nữa, vậy anh phải cám ơn tôi mới đúng.
Chứ cám ơn anh thì tôi cũng là tầm thường như mọi người hay sao ?
Nước mình, ai người ta cũng bảo kỳ vừa rồi, đau nhất ông Tố Hữu. Đoàn Giỏi tới thăm về, kể lúc nghe tin, Tố Hữu lạnh cả sống lưng. Ngay Lê Đức Thọ cũng bất ngờ, vì việc đại hội không tín nhiệm Tố Hữu.
Phan Hồng Giang và Từ Sơn đến nhà TH chơi. Nghe đồn Phan Hồng Giang có nói với Tố Hữu một câu:” Chỉ tiếc là nay không có chú, tức là Trung ương mất đi những người trí thức có suy nghĩ...” Thế là Tố Hữu bưng mặt khóc (?!)
Hoài Thanh xưa nay vẫn bảo, văn nghệ nước ta, được Tố Hữu phụ trách còn là khá!
Những chuyện khác.
Ông Lê Đình Kỵ hồi trước khá đứng đắn. Nghe nói khi thơ Trường Chinh ra, có người bảo Lê Đình Kỵ phê bình đi, Kỵ bảo có phải thơ đâu mà phê bình.
Sau có người mách rằng câu ấy đã đến tai Đặng Xuân Kỳ, con Trường Chinh. Thế là Lê Đình Kỵ sợ lắm, phải viết bài, phát trên đài, in báo. Trước đó, nhờ Bảo Định Giang đọc hộ. Bảo Định Giang chỉ bảo anh trích sai nhiều quá.
- Ôi, quan trường là chuyện ghê gớm không ai lường nổi. Ông Trần Độ đại hội lần trước có chân Uỷ viên trung ương, mà không bố trí công tác đã buồn lắm, toàn đi chơi với bọn Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến. Nghe nói (có anh kể) có lần Trần Độ phải đến khóc với Trường Chinh cơ mà. Mỗi lần đại hội, lo đến đái ra máu chứ. Vì có thể công lao từ trước đến nay mất hết.
... Chính trị nó lạ lắm. Ông Nguyễn Văn Linh có lần hô Lê Duẩn muôn năm, lại có lần bảo ý kiến của anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) là thế này, thế này. Khen hết lời ! Ông Nguyễn Văn Linh chỉ ghét ông Tố Hữu. Nghe nói vụ Cù Lao Tràm, ông Tố Hữu nhận định đã có một bàn tay bẩn dúng vào (tức NVL). Thế là Nguyễn Văn Linh càng cáu, về quyết trị bọn thằng Nguyễn Mạnh Tuấn thêm.
- Hiện nay, bọn CA văn hoá ở Hà Nội không thích gì loại truyện ngắn Tướng về hưu đâu. Đến thảo luận ở ban văn hoá văn nghệ cũng rất căng. (Loại như Phan Cự Đệ trước đây, đều là cộng tác viên của cục 78 cả đấy chứ. Đi xem phim, cứ giơ cái thẻ cộng tác với cục 78 ra, là vào hết!)
- Ông Phạm Văn Đồng bây giờ còn hay nói là mình kinh tởm các nước phương Tây, bởi văn minh của nó phi nhân tính lắm. Tức y như cũ.
Loại như ông Đồng, ông nào cũng có nhận quà biếu vidio, casset. Con cái bây giờ cũng phải buôn, vì hồi trước, chả có gì. Còn ông Nguyễn Khải, ông Chế Lan Viên thì nói gì nữa. Đi họp CA, cũng phải đi.
Đến bây giờ, mà trong buổi họp làm Bách khoa từ điển, ông Đồng còn bảo những khó khăn hiện nay rồi sẽ qua đi, vài năm nữa chúng ta sẽ đạt tới bước tiến mới, nhìn lại hôm nay sẽ khác.
Lâu nay, tôi quý ông Đồng lắm. Mình cứ lấy ông Đồng đối lập với ông Trường Chinh. Nhưng sự thật, ông Đồng có quý gì ai đâu. Toàn nói chuyện trừu tượng, chung chung. Đến lúc mình lỡ có viết gì, lại mắng mình. Nghe bảo năm 1974, ông ấy nói Nguyễn Thành Long ghê lắm.
-- Ông ấy chả cứu ai cả.
-- Đúng rồi, đến cả Trần Việt Phương, ông ấy cũng không cứu.
-- Nghĩa là ông ấy gọi các văn nghệ sĩ đến chơi, như người xưa gọi cô đầu đến hát. Xong thì thôi, không còn dây dưa gì.
Trần Đăng Khoa có lần kể với Trà một chuyện nhỏ, giờ Trà kể lại với tôi.
Lần ấy Khoa dẫn một đoàn thiếu nhi đến nhà Tố Hữu chơi.
-- Bác ơi, nhà của bác đây đấy à, thích quá nhỉ!
-- Không, đây là nhà của nhân dân, các cháu ạ!
Published on August 22, 2013 09:12
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
