Vương Trí Nhàn's Blog, page 78
January 1, 2014
Chuyện con người và nghề nghiệp
Ai cũng nói buôn mà chẳng ai biết buôn
Hồi chưa có chủ trương bung ra làm ăn, nhiều cán bộ nhà nước thường nhìn sự buôn bán bằng con mắt tiếc rẻ.
Thấy một số người liều lĩnh làm công việc gọi là phe phẩy để rồi kiếm bộn tiền, ta nghĩ có khó gì đâu cái việc buôn ấy, ai buôn mà chẳng được.
Có biết đâu vài năm sau, mới thấy việc không dễ nhằn: lừa lọc móc ngoặc đánh quả... là một việc, còn buôn bán theo đúng nghĩa của nó lại khác hẳn.
Cái gọi là tư duy con buôn đang xâm nhập vào mọi hoạt động. Trong công việc nghiên cứu khoa học. Trong dạy và học. Trong mối quan hệ giữa người và người, kể cả trong tình yêu, tình bạn.
Trong một cuốn tờ điển Hán Hán tôi đọc được một định nghĩa. Phát hiện ra một nhu cầu. Tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo nên sự liên kết giữa các ngành nghề, các địa phương -- đó là thương nghiệp (buôn bán).
Ở ta không ai nghĩ thế.
Các từ điển như Việt Nam từ điển của Hội khai trí tiến đức soạn năm 1931, hoặc Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên,--được coi như sách nhà nước in đi in lại từ nhiều năm nay -- thường chỉ định nghĩa buôn bán là mua vào bán ra hưởng chênh lệch. Và trong thực tế khi đi ra buôn bán với thiên hạ thì người mình thật sự là còn đang rất ngô ngọng.
Quan chức to nhỏ đều không có nghề
Một công việc khác tưởng ai cũng có thể làm được do đó không có người làm giỏi là việc phụ trách quản lý, nói nôm na là việc làm quan. Ở đây cũng có tình trạng tương tự như buôn bán. Tức là ai cũng thích làm, cũng tưởng mình thừa sức làm, trong khi chẳng mấy ai gọi là có nghề trong việc làm quan cả. Chỉ giỏi bảo nhau làm đại đi, còn như giá có ai hỏi làm như thế nào thì chưa chắc đã biết.
Mà không có nghề ở đây thì vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác, cả cấp trên lẫn cấp dưới, nhất là cấp dưới và dân thường. Quan chức loại này chỉ biết cứa cổ những người dân mà họ cai trị bằng cái cưa cùn, hoặc những mẩu sắt rỉ mà họ nhặt được đâu đó.
Nghề càng tưởng dễ thì càng khó
Chuyện thời sự ở nông thôn hiện nay là đi xuất khẩu lao động. Một người bạn tôi có vợ làm phiên dịch cho một công ty Đài Loan kể :
--Chính tuyển người đi phục vụ trong các gia đình lại khó nhất.
Nghe mà thấy bất ngờ. Cũng tương tự như tôi đã bất ngờ khi nghe nói rằng một số tỉnh bắt đầu cử bà con nông dân đi các nước học nghề. Thì ra cũng như nhiểu người, mình hay chủ quan mà nghĩ rằng những việc như làm ruộng hoặc trông nom nhà cửa thì bất cứ ai cũng làm được. Trong khi ấy thì trong xã hội hiện đại, cái gì người ta cũng đưa lên thành bài bản và coi là nghề phải học.
Học xong chả biết làm gì
Ta thường hay nói môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn mà một trong những lý do tạo nên sự hấp dẫn đó là vì người mình thông minh chịu khó, lại khéo léo, và có văn hoá, dễ tiếp nhận kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bản tin của VTV1 sáng 10-3 -2003 đưa tin : Chỉ có 4% người Việt ra nước ngoài(xuất khẩu lao động) có tay nghề với nghĩa nghiêm chỉnh.
Cái sự thiếu người có nghề thật ra đâu phải chỉ đến ngày đưa người đi lao động nước ngoài mới biết. Mà lâu nay, mỗi năm hè tới, cả xã hội gần như rung động vì các kỳ thi đại học, thì lại là một dịp nhiều người chép miệng: thi cử căng thẳng nhưng rồi học xong chả biết làm gì. Thừa thầy thiếu thợ. Các trường gọi là đại học quá chật là vì các trường dạy nghề của ta quá yếu.
Giỏi kiếm ăn chứ không phải giỏi nghề
Ở chỗ riêng tư, nhiều người gần đây không giấu nổi ngạc nhiên: tiền nhiều quá, các cơ quan cũng như dân đều sẵn tiền, không có tiền làm việc lớn nhưng ăn uống chè chén rồi trợ cấp với biếu xén thì lu bù, lương thấp nhưng bổng lộc lại gấp mấy lương. Tương tự như vậy, trong khi cái phần con người nghề nghiệp mờ nhạt thì thay vào đấy ở nhiều người lại đang nổi lên cái phần con người kiếm sống. Nghĩa là xoay sở chạy chọt, tác động chỗ này dí điện chỗ kia. Thậm chí, cái tiêu chuẩn để một vị thủ trưởng được anh em yêu mến thời nay không phải là chuyên môn giỏi mà là chạy dự án giỏi, kiếm được nhiều tiền về chia cho nhân viên.
Sổ tay tôi có ghi được một câu nói của nhà văn Nga L. Leonov:
Khi nói tới con người, tôi cho rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói tôi thích những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách nhìn đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó, là một chuyện rất thú vị. Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại.
Tạm diễn cái ý trên đây của Leonov như sau: mỗi con người chúng ta phải được chuyên môn hoá. Phải có đóng góp cho xã hội trong một công việc cụ thể, và ta phải chăm chút học hỏi để cho cái công việc cụ thể đó trở thành công việc giỏi giang.
Trong thực tế, đây lại thường là chỗ yếu của con người VN hôm nay. Chiến tranh đã tạo cho xã hội ta một đội quân đông đảo những người vô nghề nghiệp và sau chiến tranh, tưởng rằng với sự học hành lớt phớt qua loa, chỉ cần có đủ thứ dũng cảm, ý chí,quyết tâm...như hồi nào, là thừa sức đi vào xã hội hiện đại.
Đã in trong Nhân nào quả ấy,2003
Hồi chưa có chủ trương bung ra làm ăn, nhiều cán bộ nhà nước thường nhìn sự buôn bán bằng con mắt tiếc rẻ.
Thấy một số người liều lĩnh làm công việc gọi là phe phẩy để rồi kiếm bộn tiền, ta nghĩ có khó gì đâu cái việc buôn ấy, ai buôn mà chẳng được.
Có biết đâu vài năm sau, mới thấy việc không dễ nhằn: lừa lọc móc ngoặc đánh quả... là một việc, còn buôn bán theo đúng nghĩa của nó lại khác hẳn.
Cái gọi là tư duy con buôn đang xâm nhập vào mọi hoạt động. Trong công việc nghiên cứu khoa học. Trong dạy và học. Trong mối quan hệ giữa người và người, kể cả trong tình yêu, tình bạn.
Trong một cuốn tờ điển Hán Hán tôi đọc được một định nghĩa. Phát hiện ra một nhu cầu. Tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo nên sự liên kết giữa các ngành nghề, các địa phương -- đó là thương nghiệp (buôn bán).
Ở ta không ai nghĩ thế.
Các từ điển như Việt Nam từ điển của Hội khai trí tiến đức soạn năm 1931, hoặc Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên,--được coi như sách nhà nước in đi in lại từ nhiều năm nay -- thường chỉ định nghĩa buôn bán là mua vào bán ra hưởng chênh lệch. Và trong thực tế khi đi ra buôn bán với thiên hạ thì người mình thật sự là còn đang rất ngô ngọng.
Quan chức to nhỏ đều không có nghề
Một công việc khác tưởng ai cũng có thể làm được do đó không có người làm giỏi là việc phụ trách quản lý, nói nôm na là việc làm quan. Ở đây cũng có tình trạng tương tự như buôn bán. Tức là ai cũng thích làm, cũng tưởng mình thừa sức làm, trong khi chẳng mấy ai gọi là có nghề trong việc làm quan cả. Chỉ giỏi bảo nhau làm đại đi, còn như giá có ai hỏi làm như thế nào thì chưa chắc đã biết.
Mà không có nghề ở đây thì vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác, cả cấp trên lẫn cấp dưới, nhất là cấp dưới và dân thường. Quan chức loại này chỉ biết cứa cổ những người dân mà họ cai trị bằng cái cưa cùn, hoặc những mẩu sắt rỉ mà họ nhặt được đâu đó.
Nghề càng tưởng dễ thì càng khó
Chuyện thời sự ở nông thôn hiện nay là đi xuất khẩu lao động. Một người bạn tôi có vợ làm phiên dịch cho một công ty Đài Loan kể :
--Chính tuyển người đi phục vụ trong các gia đình lại khó nhất.
Nghe mà thấy bất ngờ. Cũng tương tự như tôi đã bất ngờ khi nghe nói rằng một số tỉnh bắt đầu cử bà con nông dân đi các nước học nghề. Thì ra cũng như nhiểu người, mình hay chủ quan mà nghĩ rằng những việc như làm ruộng hoặc trông nom nhà cửa thì bất cứ ai cũng làm được. Trong khi ấy thì trong xã hội hiện đại, cái gì người ta cũng đưa lên thành bài bản và coi là nghề phải học.
Học xong chả biết làm gì
Ta thường hay nói môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn mà một trong những lý do tạo nên sự hấp dẫn đó là vì người mình thông minh chịu khó, lại khéo léo, và có văn hoá, dễ tiếp nhận kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bản tin của VTV1 sáng 10-3 -2003 đưa tin : Chỉ có 4% người Việt ra nước ngoài(xuất khẩu lao động) có tay nghề với nghĩa nghiêm chỉnh.
Cái sự thiếu người có nghề thật ra đâu phải chỉ đến ngày đưa người đi lao động nước ngoài mới biết. Mà lâu nay, mỗi năm hè tới, cả xã hội gần như rung động vì các kỳ thi đại học, thì lại là một dịp nhiều người chép miệng: thi cử căng thẳng nhưng rồi học xong chả biết làm gì. Thừa thầy thiếu thợ. Các trường gọi là đại học quá chật là vì các trường dạy nghề của ta quá yếu.
Giỏi kiếm ăn chứ không phải giỏi nghề
Ở chỗ riêng tư, nhiều người gần đây không giấu nổi ngạc nhiên: tiền nhiều quá, các cơ quan cũng như dân đều sẵn tiền, không có tiền làm việc lớn nhưng ăn uống chè chén rồi trợ cấp với biếu xén thì lu bù, lương thấp nhưng bổng lộc lại gấp mấy lương. Tương tự như vậy, trong khi cái phần con người nghề nghiệp mờ nhạt thì thay vào đấy ở nhiều người lại đang nổi lên cái phần con người kiếm sống. Nghĩa là xoay sở chạy chọt, tác động chỗ này dí điện chỗ kia. Thậm chí, cái tiêu chuẩn để một vị thủ trưởng được anh em yêu mến thời nay không phải là chuyên môn giỏi mà là chạy dự án giỏi, kiếm được nhiều tiền về chia cho nhân viên.
Sổ tay tôi có ghi được một câu nói của nhà văn Nga L. Leonov:
Khi nói tới con người, tôi cho rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói tôi thích những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách nhìn đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó, là một chuyện rất thú vị. Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại.
Tạm diễn cái ý trên đây của Leonov như sau: mỗi con người chúng ta phải được chuyên môn hoá. Phải có đóng góp cho xã hội trong một công việc cụ thể, và ta phải chăm chút học hỏi để cho cái công việc cụ thể đó trở thành công việc giỏi giang.
Trong thực tế, đây lại thường là chỗ yếu của con người VN hôm nay. Chiến tranh đã tạo cho xã hội ta một đội quân đông đảo những người vô nghề nghiệp và sau chiến tranh, tưởng rằng với sự học hành lớt phớt qua loa, chỉ cần có đủ thứ dũng cảm, ý chí,quyết tâm...như hồi nào, là thừa sức đi vào xã hội hiện đại.
Đã in trong Nhân nào quả ấy,2003
Published on January 01, 2014 19:36
December 29, 2013
Ngày mỗi phụ thuộc
Không cần là một chuyên gia kinh tế, nhiều
người cũng đã biết rằng nền sản xuất và buôn bán của ta phụ thuộc nhiều
vào việc nhập khẩu hàng nước ngoài. Không chỉ dầu xăng thép phân bón thuốc trừ
sâu thuốc chữa bệnh.. mà ngay cả mấy hạt muối dùng trong công nghiệp hay nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc ta cũng
phải đi mua. Thời buổi thế giới biến động, nền kinh tế mình như cái phao, biển
động nổi gió một tí là dập dềnh theo, thiên hạ vừa hắt hơi một cái là mình đã
nước mắt nước mũi giàn dụa.
Nhưng hôm nay tôi muốn nói một khía cạnh khác của sự phụ thuộc. Thoạt nhìn, nó
có vẻ không mấy đáng ghét, bởi chỉ là chuyện có vẻ bề ngoài, có vẻ tạm thời –
như cách mọi người hay nói -- nhưng suy cho cùng, vẫn tố cáo một sự lệ thuộc
sâu sắc của ta.
Sự phụ
thuộc trong sinh hoạt
Phải tới những năm chiến tranh qua đi, dân Hà Nội mới biết và rỉ tai nhau là mấy
khách sạn lớn nhất ở đây thường dùng rau và thịt chuyển từ nước ngoài về, chứ
không dùng đồ mua từ các chợ quanh phố như dân bản địa.
Với tâm lý của kẻ sống trong thế giới trung cổ, nghe những chuyện đó, lập tức nhiều người thấy sao mà họ cầu kỳ và có phần
rởm nữa. Sống ở đây mà tách ra như trên một hòn đảo, sao họ lạ vậy ?
Ai ngờ việc sử dụng cả lương thực ngoại nhập đó giờ đây lan ra trong nhiều tầng lớp dân thường người
mình, nhất là sau các đợt phát hiện rau quả có phun hóa chất, còn các loại
dịch bệnh trên gia súc gia cầm thì hoành hành, cứ chấm dứt được ít lâu lại bùng
phát trở lại.
Ở đây tôi không dừng lại ở khía cạnh đạo lý của vấn đề mà chỉ vấn vương ở chỗ
là hình như chính chúng ta đang không nuôi mình bằng các thứ thổ sản, không xài thứ hàng mà chính đồng bào trong nước chúng ta làm ra, -- mà sẵn sàng toàn dùng hàng hóa xuất phát từ các xứ khác do người khác làm.
Tại sao tình trạng này ngày một phát triển ?
Nghĩ tận căn nguyên thấy có hai lý
do. Thứ nhất hàng ngoại rẻ và tốt. Thứ hai là nhiều khi hàng ngoại đáp ứng được
cái nhu cầu sát sườn của mình mà hàng nội không đáp ứng nổi.
Liên quan tới lý do thứ nhất, có một ví dụ tôi nghe từ mấy năm trước thấy rất
có ý nghĩa. Là ngay ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh hay Cần Thơ, nhiều
người dân đang thích dùng gạo chuyển từ Thái Lan sang. Trời ! Giá vài chục năm
trước, nghe ai nói thế chúng ta sẽ bảo là chuyện bịa. Làm gì lại ra nông nỗi
như thế. Từ Thái sang quá diệu vợi, còn công tàu bè chuyên chở công bốc vác,
sao mà rẻ được?! Mà làm gì có chuyện gạo họ ngon hơn, hợp với cái hương vị nồi
cơm mà mỗi người chúng mình được thấm từ hồi còn bú mẹ! Hóa ra thời thế thay
đổi, việc không ai tưởng là có, nay đều có cả.
Liên quan tới ưu thế của hàng ngoại trong việc đón đường và nắm bắt nhu cầu,
sau đây là câu chuyện tôi nghe từ miệng mấy bà bán hàng lặt vặt ở phố chợ Hà
Nội ( tôi cố ý tránh chữ phố cổ mà
thấy gọi là phố chợ có lẽ hợp hơn).
Từ lâu người Hà Nội có thói quen là nếu chiến thắng trong các cuộc đua tranh
trong thể thao là đổ ra đường ăn mừng. Lúc đó người ta thích mua cờ và các băng
khẩu hiệu để trương lên, giá đắt cũng mua.
Một số nhà sản xuất VN cũng biết
điều đó, nhưng vốn mỏng không làm được bao nhiêu. Khôn ngoan và biết tổ chức
công việc hơn là các nhà sản xuất từ bên kia biên giới. Họ nắm ngay lấy khoảng
trống đó. Mỗi lần dân thủ đô có nhu cầu là hàng từ biên giới phía bắc tràn về.
Rút cục dân buôn mình chỉ thành trung gian bán lẻ cho đồng bào mình thứ hàng mà
họ sản xuất.
Không chỉ trong chuyện băng cờ khẩu hiệu mà nhiều mặt hàng khác cũng có tình
trạng tương tự. Theo tôi hiểu, đây là cả một xu hướng mà mỗi ngày chúng ta cảm
thấy rõ rệt hơn. Mọi dòng nước ngược phản công lại cũng có nhưng không thấm
thía gì cả.
Để cả
vui buồn trong tay người
Trong Nỗi lòng ai tỏ của Nguyễn Công Hoan,
nhân vật chính là một cô gái tân thời. Đang tự nhiên cô suốt ngày thở ngắn than
dài bỏ cơm, lên giường thút thít khóc, khiến cho cả nhà phải lo lắng. Cô bảo
chỉ có một người bạn gái mới hiểu được cô và giải phiền cho cô. Đến khi người
bạn kia tới thì cô nhỏm ngay dậy tâm sự.
Sở dĩ cô buổn - buồn - buồn mất mấy ngày, ấy là vì một nhân vật tiểu thuyết cô
đang đọc chết, thương quá !
Tôi nghĩ đến những con người thời nay. Chắc hẳn hàng ngày không thiếu cảnh cậu
ấm cô chiêu ở các nhà giàu đập chân đập ta hành hạ bố mẹ vì không tìm ra mấy
loại xe mới cho họ trưng diện. Rồi cả những cán bộ bình thường Hà Nội ngủ trưa
trên bàn cơ quan và chia nhau suất cơm hộp chục ngàn cũng để hết tâm trí cả vào
những Chelsea với lại Real Madrid ở các phương trời xa. Rồi cả những thanh niên đặt môi hôn cả ghế ngồi của các tài tử Hàn Quốc. Tóm lại, cái sự đặt vui buồn hàng ngày trong tay kẻ khác như thế
này đang trở thành cách sống thời đại.
2007
Viết thêm 30-12-2013 :
1. Trong dăm bẩy năm gần đây, tình trạng phụ thuộc nước ngoài của xứ mình đã lên đến cái mức trở thành ám ảnh trong đầu óc mọi công dân yêu nước
cũng như mỗi con người tự trọng. Thậm chí,
mọi người không muốn nghĩ đến nó nữa.Vì càng nghĩ càng đau. Chúng ta đã chìm rất sâu vào cái hố móng khủng
khiếp này, và đứng ở đáy sâu của nó ngước nhìn lên trên, chỉ thấy lại một mảng trời
đen tối.
2. Như trong bài trên tôi đã nói, sự phụ thuộc nước ngoài hiện nay là ở
hai cấp độ. Cấp thứ nhất là trên phương diện quốc gia, nền kinh tế của đất nước.
Cấp thứ hai là trên phương diện cách sống và tâm lý con người. Kinh tế quyết định tâm lý
tinh thần. Những hụt hẫng tan nát về kinh tế là nguồn gốc dẫn tới sự bi quan
cùng cực, cũng tức là mất niềm tin trên phạm vi rộng. Rồi tình thế người trong nước khảng tảng, ai cũng tìm cách thoát khỏi cuộc sống vốn có, càng khiến cho sự phụ thuộc vào kinh tế nước ngoài trở nên một lối thoát duy nhất để duy trì sự ổn định. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ chết vì chúng ta vẫn còn cần cho người khác. Chúng ta chỉ luôn luôn trong cảnh ngắc ngoải. Và
sự thật, cái gọi là phụ thuộc hôm nay còn
tệ hại hơn nhiều, so với sự phụ thuộc mà trong lịch sử, ông cha chúng ta vẫn chịu
đựng.
3. Nguyên nhân của sự phụ thuộc kinh tế
trong hòa bình là sự phụ thuộc đến mức quyết định đối với nước ngoài khởi đầu từ cuộc chiến tranh ba mươi năm. Đây là điều cần sự xác minh của các tài liệu lưu trữ mà nay đang bị giấu kín. Nhưng, như các cụ ngày xưa hay nói, cái kim giấu trong bọc mãi cũng lòi ra. Vào thời buổi của sự bùng nổ thông tin, nếu chịu khó làm việc, ta vẫn ngày một đi gần hơn tới sự thực. Một số tài liệu mới hé ra đây đó cũng đã giúp ta định hướng cho sự suy nghĩ của mình. Và trách nhiệm của giới trí thức là phải lượng định cho hết những di lụy của quá khứ đối với hiện tại và cả tương lai dân tộc vài chục năm tới.
4. Trong các bài sử thuộc phần lịch sử
hiện đại học ở phổ thông, tôi nhớ là đã
được giảng về hai dạng khác nhau của chủ
nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân cũ tức là việc một nước mang quân đến chiếm
nước khác, rồi đưa người của mình sang tổ chức bộ máy cai trị. Còn chủ nghĩa
thực dân mới thì khôn ngoan hơn và đơn giản hơn. Không cần mang quân chiếm đóng.
Thời buổi hiện nay làm thế mang tiếng chết.
Mà người ta chỉ cần lèo lái thế nào để nước thứ hai kia biến thành nơi cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho mình. Như thế mặc dù vẫn còn cái tiếng độc
lập, nhưng cái nước thứ hai kia, có khác gì đất thuộc địa?
Theo tiêu chuẩn trên mà tính, rồi bạn cũng như tôi sẽ có thể rút
ra kết luận cần thiết về thực chất mối quan hệ giữa nước ta với một số nước chung
quanh đang vồ vập săn đón ta và dường như lúc nào cũng đứng bên ta.
5. Hồi còn chiến tranh, không phải là
nhiều người dân không thèm muốn được sống
được ăn mặc được hưởng thụ như người nước ngoài. Nhưng cuộc sống thời chiến
không cho phép ta làm vậy. Nhất là trong mỗi người còn cả niềm tin, tin rằng một mai đây
khi đất nước hòa bình, với trí thông minh và sức phấn đấu của cả cộng đồng, nước ta dân ta sẽ không thua kém các dân tộc
khác các quốc gia khác. Nhưng khi đã tỉnh lại sau chiến tranh, trong tình hình
của sự giao lưu quốc tế rộng mở, trải qua những mò mẫm tìm đường, ta mới ngày càng
hiểu ra cái tầm vóc của những mất mát đã qua. Nó quá lớn, nó đã khiến chúng ta
cạn kiệt cả niềm tin và sức lực. Sự bế tắc trong gần bốn mươi năm hậu chiến khẳng định thêm
điều đó. Ta ngầm hiểu rằng nay có cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đưa xứ ta trở lại
là một xã hội bình thường, và trong so sánh, là xan bằng được khoảng cách ta với các nước chung quanh. Sống trong phụ thuộc nay không còn dừng lại ở thói quen học đòi non dại của lớp trẻ, mà đã biến thành vấn đề nhận thức quan niệm cùng là niềm tin có tính định mệnh của những người từng trải ở cả
bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc.
người cũng đã biết rằng nền sản xuất và buôn bán của ta phụ thuộc nhiều
vào việc nhập khẩu hàng nước ngoài. Không chỉ dầu xăng thép phân bón thuốc trừ
sâu thuốc chữa bệnh.. mà ngay cả mấy hạt muối dùng trong công nghiệp hay nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc ta cũng
phải đi mua. Thời buổi thế giới biến động, nền kinh tế mình như cái phao, biển
động nổi gió một tí là dập dềnh theo, thiên hạ vừa hắt hơi một cái là mình đã
nước mắt nước mũi giàn dụa.
Nhưng hôm nay tôi muốn nói một khía cạnh khác của sự phụ thuộc. Thoạt nhìn, nó
có vẻ không mấy đáng ghét, bởi chỉ là chuyện có vẻ bề ngoài, có vẻ tạm thời –
như cách mọi người hay nói -- nhưng suy cho cùng, vẫn tố cáo một sự lệ thuộc
sâu sắc của ta.
Sự phụ
thuộc trong sinh hoạt
Phải tới những năm chiến tranh qua đi, dân Hà Nội mới biết và rỉ tai nhau là mấy
khách sạn lớn nhất ở đây thường dùng rau và thịt chuyển từ nước ngoài về, chứ
không dùng đồ mua từ các chợ quanh phố như dân bản địa.
Với tâm lý của kẻ sống trong thế giới trung cổ, nghe những chuyện đó, lập tức nhiều người thấy sao mà họ cầu kỳ và có phần
rởm nữa. Sống ở đây mà tách ra như trên một hòn đảo, sao họ lạ vậy ?
Ai ngờ việc sử dụng cả lương thực ngoại nhập đó giờ đây lan ra trong nhiều tầng lớp dân thường người
mình, nhất là sau các đợt phát hiện rau quả có phun hóa chất, còn các loại
dịch bệnh trên gia súc gia cầm thì hoành hành, cứ chấm dứt được ít lâu lại bùng
phát trở lại.
Ở đây tôi không dừng lại ở khía cạnh đạo lý của vấn đề mà chỉ vấn vương ở chỗ
là hình như chính chúng ta đang không nuôi mình bằng các thứ thổ sản, không xài thứ hàng mà chính đồng bào trong nước chúng ta làm ra, -- mà sẵn sàng toàn dùng hàng hóa xuất phát từ các xứ khác do người khác làm.
Tại sao tình trạng này ngày một phát triển ?
Nghĩ tận căn nguyên thấy có hai lý
do. Thứ nhất hàng ngoại rẻ và tốt. Thứ hai là nhiều khi hàng ngoại đáp ứng được
cái nhu cầu sát sườn của mình mà hàng nội không đáp ứng nổi.
Liên quan tới lý do thứ nhất, có một ví dụ tôi nghe từ mấy năm trước thấy rất
có ý nghĩa. Là ngay ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh hay Cần Thơ, nhiều
người dân đang thích dùng gạo chuyển từ Thái Lan sang. Trời ! Giá vài chục năm
trước, nghe ai nói thế chúng ta sẽ bảo là chuyện bịa. Làm gì lại ra nông nỗi
như thế. Từ Thái sang quá diệu vợi, còn công tàu bè chuyên chở công bốc vác,
sao mà rẻ được?! Mà làm gì có chuyện gạo họ ngon hơn, hợp với cái hương vị nồi
cơm mà mỗi người chúng mình được thấm từ hồi còn bú mẹ! Hóa ra thời thế thay
đổi, việc không ai tưởng là có, nay đều có cả.
Liên quan tới ưu thế của hàng ngoại trong việc đón đường và nắm bắt nhu cầu,
sau đây là câu chuyện tôi nghe từ miệng mấy bà bán hàng lặt vặt ở phố chợ Hà
Nội ( tôi cố ý tránh chữ phố cổ mà
thấy gọi là phố chợ có lẽ hợp hơn).
Từ lâu người Hà Nội có thói quen là nếu chiến thắng trong các cuộc đua tranh
trong thể thao là đổ ra đường ăn mừng. Lúc đó người ta thích mua cờ và các băng
khẩu hiệu để trương lên, giá đắt cũng mua.
Một số nhà sản xuất VN cũng biết
điều đó, nhưng vốn mỏng không làm được bao nhiêu. Khôn ngoan và biết tổ chức
công việc hơn là các nhà sản xuất từ bên kia biên giới. Họ nắm ngay lấy khoảng
trống đó. Mỗi lần dân thủ đô có nhu cầu là hàng từ biên giới phía bắc tràn về.
Rút cục dân buôn mình chỉ thành trung gian bán lẻ cho đồng bào mình thứ hàng mà
họ sản xuất.
Không chỉ trong chuyện băng cờ khẩu hiệu mà nhiều mặt hàng khác cũng có tình
trạng tương tự. Theo tôi hiểu, đây là cả một xu hướng mà mỗi ngày chúng ta cảm
thấy rõ rệt hơn. Mọi dòng nước ngược phản công lại cũng có nhưng không thấm
thía gì cả.
Để cả
vui buồn trong tay người
Trong Nỗi lòng ai tỏ của Nguyễn Công Hoan,
nhân vật chính là một cô gái tân thời. Đang tự nhiên cô suốt ngày thở ngắn than
dài bỏ cơm, lên giường thút thít khóc, khiến cho cả nhà phải lo lắng. Cô bảo
chỉ có một người bạn gái mới hiểu được cô và giải phiền cho cô. Đến khi người
bạn kia tới thì cô nhỏm ngay dậy tâm sự.
Sở dĩ cô buổn - buồn - buồn mất mấy ngày, ấy là vì một nhân vật tiểu thuyết cô
đang đọc chết, thương quá !
Tôi nghĩ đến những con người thời nay. Chắc hẳn hàng ngày không thiếu cảnh cậu
ấm cô chiêu ở các nhà giàu đập chân đập ta hành hạ bố mẹ vì không tìm ra mấy
loại xe mới cho họ trưng diện. Rồi cả những cán bộ bình thường Hà Nội ngủ trưa
trên bàn cơ quan và chia nhau suất cơm hộp chục ngàn cũng để hết tâm trí cả vào
những Chelsea với lại Real Madrid ở các phương trời xa. Rồi cả những thanh niên đặt môi hôn cả ghế ngồi của các tài tử Hàn Quốc. Tóm lại, cái sự đặt vui buồn hàng ngày trong tay kẻ khác như thế
này đang trở thành cách sống thời đại.
2007
Viết thêm 30-12-2013 :
1. Trong dăm bẩy năm gần đây, tình trạng phụ thuộc nước ngoài của xứ mình đã lên đến cái mức trở thành ám ảnh trong đầu óc mọi công dân yêu nước
cũng như mỗi con người tự trọng. Thậm chí,
mọi người không muốn nghĩ đến nó nữa.Vì càng nghĩ càng đau. Chúng ta đã chìm rất sâu vào cái hố móng khủng
khiếp này, và đứng ở đáy sâu của nó ngước nhìn lên trên, chỉ thấy lại một mảng trời
đen tối.
2. Như trong bài trên tôi đã nói, sự phụ thuộc nước ngoài hiện nay là ở
hai cấp độ. Cấp thứ nhất là trên phương diện quốc gia, nền kinh tế của đất nước.
Cấp thứ hai là trên phương diện cách sống và tâm lý con người. Kinh tế quyết định tâm lý
tinh thần. Những hụt hẫng tan nát về kinh tế là nguồn gốc dẫn tới sự bi quan
cùng cực, cũng tức là mất niềm tin trên phạm vi rộng. Rồi tình thế người trong nước khảng tảng, ai cũng tìm cách thoát khỏi cuộc sống vốn có, càng khiến cho sự phụ thuộc vào kinh tế nước ngoài trở nên một lối thoát duy nhất để duy trì sự ổn định. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ chết vì chúng ta vẫn còn cần cho người khác. Chúng ta chỉ luôn luôn trong cảnh ngắc ngoải. Và
sự thật, cái gọi là phụ thuộc hôm nay còn
tệ hại hơn nhiều, so với sự phụ thuộc mà trong lịch sử, ông cha chúng ta vẫn chịu
đựng.
3. Nguyên nhân của sự phụ thuộc kinh tế
trong hòa bình là sự phụ thuộc đến mức quyết định đối với nước ngoài khởi đầu từ cuộc chiến tranh ba mươi năm. Đây là điều cần sự xác minh của các tài liệu lưu trữ mà nay đang bị giấu kín. Nhưng, như các cụ ngày xưa hay nói, cái kim giấu trong bọc mãi cũng lòi ra. Vào thời buổi của sự bùng nổ thông tin, nếu chịu khó làm việc, ta vẫn ngày một đi gần hơn tới sự thực. Một số tài liệu mới hé ra đây đó cũng đã giúp ta định hướng cho sự suy nghĩ của mình. Và trách nhiệm của giới trí thức là phải lượng định cho hết những di lụy của quá khứ đối với hiện tại và cả tương lai dân tộc vài chục năm tới.
4. Trong các bài sử thuộc phần lịch sử
hiện đại học ở phổ thông, tôi nhớ là đã
được giảng về hai dạng khác nhau của chủ
nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân cũ tức là việc một nước mang quân đến chiếm
nước khác, rồi đưa người của mình sang tổ chức bộ máy cai trị. Còn chủ nghĩa
thực dân mới thì khôn ngoan hơn và đơn giản hơn. Không cần mang quân chiếm đóng.
Thời buổi hiện nay làm thế mang tiếng chết.
Mà người ta chỉ cần lèo lái thế nào để nước thứ hai kia biến thành nơi cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho mình. Như thế mặc dù vẫn còn cái tiếng độc
lập, nhưng cái nước thứ hai kia, có khác gì đất thuộc địa?
Theo tiêu chuẩn trên mà tính, rồi bạn cũng như tôi sẽ có thể rút
ra kết luận cần thiết về thực chất mối quan hệ giữa nước ta với một số nước chung
quanh đang vồ vập săn đón ta và dường như lúc nào cũng đứng bên ta.
5. Hồi còn chiến tranh, không phải là
nhiều người dân không thèm muốn được sống
được ăn mặc được hưởng thụ như người nước ngoài. Nhưng cuộc sống thời chiến
không cho phép ta làm vậy. Nhất là trong mỗi người còn cả niềm tin, tin rằng một mai đây
khi đất nước hòa bình, với trí thông minh và sức phấn đấu của cả cộng đồng, nước ta dân ta sẽ không thua kém các dân tộc
khác các quốc gia khác. Nhưng khi đã tỉnh lại sau chiến tranh, trong tình hình
của sự giao lưu quốc tế rộng mở, trải qua những mò mẫm tìm đường, ta mới ngày càng
hiểu ra cái tầm vóc của những mất mát đã qua. Nó quá lớn, nó đã khiến chúng ta
cạn kiệt cả niềm tin và sức lực. Sự bế tắc trong gần bốn mươi năm hậu chiến khẳng định thêm
điều đó. Ta ngầm hiểu rằng nay có cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đưa xứ ta trở lại
là một xã hội bình thường, và trong so sánh, là xan bằng được khoảng cách ta với các nước chung quanh. Sống trong phụ thuộc nay không còn dừng lại ở thói quen học đòi non dại của lớp trẻ, mà đã biến thành vấn đề nhận thức quan niệm cùng là niềm tin có tính định mệnh của những người từng trải ở cả
bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc.
Published on December 29, 2013 19:47
December 24, 2013
Tinh thần nghiệp dư và những biến dạng hôm nay
Tai nạn giao thông thường chỉ được nhắc tới trên báo chí khi xảy ra ở các trục đường lớn, người đi lại đông đúc, vụ việc ở mức độ nghiêm trọng, chắc chắn là có người chết. Còn theo lời Liên, một cháu giúp việc làm với gia đình tôi thì ở quê nó mấy năm trước, tai nạn như cơm bữa, gẫy chân sái tay là chuyện thường ngày, đi đâu chẳng nghe người kể.
Nông thôn đường có đông mấy vẫn là vắng so với thành thị. Mà nói tại người không có ý thức nghe cũng là chuyện xa xôi quá.
Khốn khổ, Liên kể, cái chính là hồi ấy nhiều người có biết gì về xe với pháo đâu, chỉ bảo nhau mấy câu là nhảy lên nổ máy, vừa gặp đám mấy con bò nghênh ngang rệ đường đã lúng túng không biết phanh hãm với lại về số thế nào.
Liều thế mà chỉ sứt đầu mẻ trán cũng còn phúc chán - ở tuổi mười tám, cái Liên cũng phải chép miệng như một bà già bẩy mươi.
Liên nói về chuyện đi lại của những người quê nó. Nhưng tôi muốn nghĩ rộng ra những trường hợp khác, cả tới cách làm ăn của dân mình hiện nay.
Như chính những người như cháu Liên đây, từ nông thôn lên, có biết gì đâu về cách sống đô thị. Nước máy mở tràn. Nước rửa nước giặt có gì thừa đổ xuống toilet. Ra đường thì dắt dây hàng hai hàng ba. Như giữa đường làng, chạy đuổi nhau hét inh ỏi trên phố xá.
Thiếu gì người như Liên chưa hiểu gì về cuộc sống thành thị đã phải sống kiểu thành thị, tránh sao khỏi lố bịch.
Một việc lớn như buôn bán phục vụ bàn dân thiên hạ cũng nghiệp dư một cục. Dạy nhau theo lối truyền khẩu mấy câu, không qua huấn luyện, đã phải ra bán hàng. Bao nhiêu lầm lỡ hư hỏng thất thoát. Bao nhiêu dối trá làm liều. Và cả bao nhiêu chấn thương trong lòng người - tôi muốn nói tới chấn thương tinh thần - cái phơi bày ra, cái chỉ tự biết với mình. Chỉ quên đi là không nổi.
Cả xã hội bước vào một cuộc chuyển đổi văn hóa mà không hiểu biết là sẽ đi đến đâu và không được chuẩn bị. Cả cộng đồng đang sống kiểu nghiệp dư .
Đối với tôi, -- cũng như phần lớn các bạn cùng lứa lớn lên ở Hà Nội trước chiến tranh , -- tên tuổi những Platon, Aristote thường chỉ tượng trưng cho những điều rắc rối trừu tượng và có nhiều phần vô bổ.
Nhưng có dịp đọc Platon qua Câu chuyện triết học của W. Durant bản dịch ở Sài Gòn cũ mới in lại, tôi bắt gặp ở cái ông triêt gia thường bị gán cho cái tội tầy trời là duy tâm này, bao chuyện cụ thể có liên quan đến cuộc sống hôm nay.
Đối với công bằng xã hội, ông bảo trước tiên không phải là phân phối bình quân mà là mỗi người nhận được đúng cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với mình nhất.
Một người thợ mộc đi làm việc thợ xây, một công nhân hoặc nhà buôn lại đi đăng lính hoặc thành một người có quyền lực quản lý từ làng xóm đến đô thị, thì sẽ trở thành tai họa cho cả xã hội.
Một chỗ khác ông nêu cái ý rằng đối với việc nhỏ như việc đóng giày, làm bánh, người ta còn cần tìm những người thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực có quan hệ rộng lớn hơn, là việc cai trị một cộng đồng một quốc gia -- người ta tưởng ai cũng làm được.
Nghe đúng quá mà lại toàn là chuyện chúng ta không biết, không muốn biết và hơn thế nữa đang làm ngược.
Chúng tôi là lớp người được đào tạo từ chiến tranh.
Mà chiến tranh là gì? Là đi bất cứ đâu thực tế đang cần. Là cấp trên bảo sao làm vậy. Là không cần chuyên môn năng khiếu gì cả.
Phải nói thực là hồi ấy chúng tôi đã biết sẽ khó tìm được chỗ đứng trong xã hội tương lai. Thứ dao gì mà vừa chẻ củi được vừa chẻ rau được, thì chẻ rau cũng dở mà chẻ củi cũng gẫy luôn - lúc tỉnh táo, có người trong bọn, nhờ biết nhìn xa, đã tự nghĩ như vậy.
Nhưng học ở đâu bây giờ, có thầy đâu mà học, và nhìn quanh chả ai chịu học cả, thì mình cũng nản luôn.
Sau 30-4-1975 vào Sài Gòn ít ngày , tôi nghe một bà cô đằng nhà vợ bảo:
- Kỹ sư bác sĩ ngoài Bắc người nào cũng biết nấu cơm với lại trông con, việc nhà đến khéo, không như cái bọn tốt nghiệp đại học trong này.
Biết mới tiếp xúc nên bà chưa hiểu đây thôi, để cô đỡ thất vọng, tôi phải thú nhận ngay:
- Rồi cô xem, nay mai chúng con kỹ sư không thạo việc, bác sĩ không sạch nghề, và mang về rất ít lương, thì cô đừng có mắng đấy nhé.
Thoắt cái đã mấy chục năm, chúng tôi tỏa đi bao công việc, chia nhau nắm đủ mọi ngành nghề, không biết lạ cái gì, thì lẽ tự nhiên cũng không việc gì gây cho chúng tôi nỗi sợ.
Vốn dân "đánh đồn diệt viện", học phổ thông qua loa, học đại học kiểu tại chức, học sau đại học bằng cách nộp tiền cho thầy xin bằng, -- ấy vậy mà có người đang nắm những công ty lớn, mua bán tiêu pha bạc tỉ, chịu trách nhiệm về sinh mạng và cuộc sống cả hàng ngàn hàng vạn gia đình.
Cờ đến tay ai người ấy phất, gặp việc gì cũng chỉ tự nhủ phải làm dấn tới, cố là được.Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư nốt, chẳng phải những khi tỉnh táo, chúng ta vẫn nói với nhau thế sao?
Thì so với cánh dân nông thôn ra đô thị như cháu Liên nói ở trên có khác là mấy?
Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất.
Chẳng những hồi ấy mà cho đến hôm nay, vẫn có người nghĩ thế.
Lúc đầu là một sự tự động viên. Sau nữa là một kiểu cãi chày cãi bửa, che giấu cho việc thả lỏng mình làm bừa , sẵn sàng tranh giành địa vị và tham ô kiếm chác.
Nhớ có hồi có cả chủ trương phá rừng trồng sắn, nhắc lại mà vẫn nhói trong lòng.
Biết đâu lúc này cũng đang có những việc được làm một cách nghiệp dư tương tự, để rồi sang năm, sang năm nữa nhìn lại, cùng thấy nhói lòng tương tự?!
Nhưng còn tỉnh táo đã là may!
Lại không thiếu người, nắm quyền một thời gian, quen thói ra lệnh. Mà lệnh vừa ban là cấp dưới sai đúng thế nào cũng răm rắp tuân theo. Thế là tưởng mình giỏi thật, khinh thường hết các chuyên gia.
Đối với các ông bạn thường hành xử theo kiểu này, có ngu mấy thì bọn tôi cũng không bao giờ dám nhắc nguồn gốc nghiệp dư của anh ta nữa. Chỉ đành nhủ thầm có phải riêng bạn mình đổ đốn thế này đâu. Tính gọn là ba chục năm, cả nước chỉ lo đánh nhau. Chiến tranh qua đi, cũng có những người muốn sống theo chuẩn theo mực. Nhưng trên toàn cục, cách sống thời chiến, cách làm ăn vô thiên vô pháp, cách giành thành tích theo kiểu chụp giật... vẫn thắng thế.
Sự nghiệp dư hóa vẫn ngày ngày diễn ra trên diện rộng và có thêm những những lý lẽ để tự biện hộ .
Điều đáng sợ nhất của tình trạng nghiệp dư hóa hiện nay, là ở một số người, nó đã ăn vào thành một quan niệm chi phối cả tư tưởng lẫn hành động. Kiêu ngạo càn rỡ. Dương dương tự đắc.Tự thấy mình chúa tể thiên hạ. Khinh rẻ trí tuệ. Quy luật nào cũng bất chấp hết.
Một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Công Hoan mang tên Người vợ lẽ bạn tôi. Truyện viết về Huệ, vợ lẽ của một người bạn tác giả là Quý. Lúc đầu, lấy Quý trong cảnh gượng gạo chót thì phải chét, thôi thì đành nhận vai vợ lẽ con thêm, Huệ tỏ ra rất nhút nhát. Nhưng lần lần Huệ thao túng người chồng nhu nhược, ghen ngược lên cả người vợ cả, và nắm quyền sinh quyền sát trong gia đình, đến mức nhân vật xưng tôi trong truyện cảm thấy thế là người bạn xưa nay không còn là chính anh ta nữa .
Cuối truyện nhân vật xưng tôi này đưa ra một khái quát:
-- Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.
Sự lấn lướt của thói nghiệp dư hôm nay và những biến dạng của nó, theo tôi, là rất đúng cái lô gích tiếm quyền và lên ngôi của người vợ lẽ bạn tôi mà Nguyên Công Hoan đã mô tả.
Đã in TBKTSG 7- 2008, dưới nhan đề Tôi nghiệp dư anh nghiệp dư nó cũng nghiệp dư
và in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại, Nxb Trẻ,,2009
Có bổ sung thêm phần cuối.
Nông thôn đường có đông mấy vẫn là vắng so với thành thị. Mà nói tại người không có ý thức nghe cũng là chuyện xa xôi quá.
Khốn khổ, Liên kể, cái chính là hồi ấy nhiều người có biết gì về xe với pháo đâu, chỉ bảo nhau mấy câu là nhảy lên nổ máy, vừa gặp đám mấy con bò nghênh ngang rệ đường đã lúng túng không biết phanh hãm với lại về số thế nào.
Liều thế mà chỉ sứt đầu mẻ trán cũng còn phúc chán - ở tuổi mười tám, cái Liên cũng phải chép miệng như một bà già bẩy mươi.
Liên nói về chuyện đi lại của những người quê nó. Nhưng tôi muốn nghĩ rộng ra những trường hợp khác, cả tới cách làm ăn của dân mình hiện nay.
Như chính những người như cháu Liên đây, từ nông thôn lên, có biết gì đâu về cách sống đô thị. Nước máy mở tràn. Nước rửa nước giặt có gì thừa đổ xuống toilet. Ra đường thì dắt dây hàng hai hàng ba. Như giữa đường làng, chạy đuổi nhau hét inh ỏi trên phố xá.
Thiếu gì người như Liên chưa hiểu gì về cuộc sống thành thị đã phải sống kiểu thành thị, tránh sao khỏi lố bịch.
Một việc lớn như buôn bán phục vụ bàn dân thiên hạ cũng nghiệp dư một cục. Dạy nhau theo lối truyền khẩu mấy câu, không qua huấn luyện, đã phải ra bán hàng. Bao nhiêu lầm lỡ hư hỏng thất thoát. Bao nhiêu dối trá làm liều. Và cả bao nhiêu chấn thương trong lòng người - tôi muốn nói tới chấn thương tinh thần - cái phơi bày ra, cái chỉ tự biết với mình. Chỉ quên đi là không nổi.
Cả xã hội bước vào một cuộc chuyển đổi văn hóa mà không hiểu biết là sẽ đi đến đâu và không được chuẩn bị. Cả cộng đồng đang sống kiểu nghiệp dư .
Đối với tôi, -- cũng như phần lớn các bạn cùng lứa lớn lên ở Hà Nội trước chiến tranh , -- tên tuổi những Platon, Aristote thường chỉ tượng trưng cho những điều rắc rối trừu tượng và có nhiều phần vô bổ.
Nhưng có dịp đọc Platon qua Câu chuyện triết học của W. Durant bản dịch ở Sài Gòn cũ mới in lại, tôi bắt gặp ở cái ông triêt gia thường bị gán cho cái tội tầy trời là duy tâm này, bao chuyện cụ thể có liên quan đến cuộc sống hôm nay.
Đối với công bằng xã hội, ông bảo trước tiên không phải là phân phối bình quân mà là mỗi người nhận được đúng cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với mình nhất.
Một người thợ mộc đi làm việc thợ xây, một công nhân hoặc nhà buôn lại đi đăng lính hoặc thành một người có quyền lực quản lý từ làng xóm đến đô thị, thì sẽ trở thành tai họa cho cả xã hội.
Một chỗ khác ông nêu cái ý rằng đối với việc nhỏ như việc đóng giày, làm bánh, người ta còn cần tìm những người thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực có quan hệ rộng lớn hơn, là việc cai trị một cộng đồng một quốc gia -- người ta tưởng ai cũng làm được.
Nghe đúng quá mà lại toàn là chuyện chúng ta không biết, không muốn biết và hơn thế nữa đang làm ngược.
Chúng tôi là lớp người được đào tạo từ chiến tranh.
Mà chiến tranh là gì? Là đi bất cứ đâu thực tế đang cần. Là cấp trên bảo sao làm vậy. Là không cần chuyên môn năng khiếu gì cả.
Phải nói thực là hồi ấy chúng tôi đã biết sẽ khó tìm được chỗ đứng trong xã hội tương lai. Thứ dao gì mà vừa chẻ củi được vừa chẻ rau được, thì chẻ rau cũng dở mà chẻ củi cũng gẫy luôn - lúc tỉnh táo, có người trong bọn, nhờ biết nhìn xa, đã tự nghĩ như vậy.
Nhưng học ở đâu bây giờ, có thầy đâu mà học, và nhìn quanh chả ai chịu học cả, thì mình cũng nản luôn.
Sau 30-4-1975 vào Sài Gòn ít ngày , tôi nghe một bà cô đằng nhà vợ bảo:
- Kỹ sư bác sĩ ngoài Bắc người nào cũng biết nấu cơm với lại trông con, việc nhà đến khéo, không như cái bọn tốt nghiệp đại học trong này.
Biết mới tiếp xúc nên bà chưa hiểu đây thôi, để cô đỡ thất vọng, tôi phải thú nhận ngay:
- Rồi cô xem, nay mai chúng con kỹ sư không thạo việc, bác sĩ không sạch nghề, và mang về rất ít lương, thì cô đừng có mắng đấy nhé.
Thoắt cái đã mấy chục năm, chúng tôi tỏa đi bao công việc, chia nhau nắm đủ mọi ngành nghề, không biết lạ cái gì, thì lẽ tự nhiên cũng không việc gì gây cho chúng tôi nỗi sợ.
Vốn dân "đánh đồn diệt viện", học phổ thông qua loa, học đại học kiểu tại chức, học sau đại học bằng cách nộp tiền cho thầy xin bằng, -- ấy vậy mà có người đang nắm những công ty lớn, mua bán tiêu pha bạc tỉ, chịu trách nhiệm về sinh mạng và cuộc sống cả hàng ngàn hàng vạn gia đình.
Cờ đến tay ai người ấy phất, gặp việc gì cũng chỉ tự nhủ phải làm dấn tới, cố là được.Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư nốt, chẳng phải những khi tỉnh táo, chúng ta vẫn nói với nhau thế sao?
Thì so với cánh dân nông thôn ra đô thị như cháu Liên nói ở trên có khác là mấy?
Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất.
Chẳng những hồi ấy mà cho đến hôm nay, vẫn có người nghĩ thế.
Lúc đầu là một sự tự động viên. Sau nữa là một kiểu cãi chày cãi bửa, che giấu cho việc thả lỏng mình làm bừa , sẵn sàng tranh giành địa vị và tham ô kiếm chác.
Nhớ có hồi có cả chủ trương phá rừng trồng sắn, nhắc lại mà vẫn nhói trong lòng.
Biết đâu lúc này cũng đang có những việc được làm một cách nghiệp dư tương tự, để rồi sang năm, sang năm nữa nhìn lại, cùng thấy nhói lòng tương tự?!
Nhưng còn tỉnh táo đã là may!
Lại không thiếu người, nắm quyền một thời gian, quen thói ra lệnh. Mà lệnh vừa ban là cấp dưới sai đúng thế nào cũng răm rắp tuân theo. Thế là tưởng mình giỏi thật, khinh thường hết các chuyên gia.
Đối với các ông bạn thường hành xử theo kiểu này, có ngu mấy thì bọn tôi cũng không bao giờ dám nhắc nguồn gốc nghiệp dư của anh ta nữa. Chỉ đành nhủ thầm có phải riêng bạn mình đổ đốn thế này đâu. Tính gọn là ba chục năm, cả nước chỉ lo đánh nhau. Chiến tranh qua đi, cũng có những người muốn sống theo chuẩn theo mực. Nhưng trên toàn cục, cách sống thời chiến, cách làm ăn vô thiên vô pháp, cách giành thành tích theo kiểu chụp giật... vẫn thắng thế.
Sự nghiệp dư hóa vẫn ngày ngày diễn ra trên diện rộng và có thêm những những lý lẽ để tự biện hộ .
Điều đáng sợ nhất của tình trạng nghiệp dư hóa hiện nay, là ở một số người, nó đã ăn vào thành một quan niệm chi phối cả tư tưởng lẫn hành động. Kiêu ngạo càn rỡ. Dương dương tự đắc.Tự thấy mình chúa tể thiên hạ. Khinh rẻ trí tuệ. Quy luật nào cũng bất chấp hết.
Một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Công Hoan mang tên Người vợ lẽ bạn tôi. Truyện viết về Huệ, vợ lẽ của một người bạn tác giả là Quý. Lúc đầu, lấy Quý trong cảnh gượng gạo chót thì phải chét, thôi thì đành nhận vai vợ lẽ con thêm, Huệ tỏ ra rất nhút nhát. Nhưng lần lần Huệ thao túng người chồng nhu nhược, ghen ngược lên cả người vợ cả, và nắm quyền sinh quyền sát trong gia đình, đến mức nhân vật xưng tôi trong truyện cảm thấy thế là người bạn xưa nay không còn là chính anh ta nữa .
Cuối truyện nhân vật xưng tôi này đưa ra một khái quát:
-- Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.
Sự lấn lướt của thói nghiệp dư hôm nay và những biến dạng của nó, theo tôi, là rất đúng cái lô gích tiếm quyền và lên ngôi của người vợ lẽ bạn tôi mà Nguyên Công Hoan đã mô tả.
Đã in TBKTSG 7- 2008, dưới nhan đề Tôi nghiệp dư anh nghiệp dư nó cũng nghiệp dư
và in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại, Nxb Trẻ,,2009
Có bổ sung thêm phần cuối.
Published on December 24, 2013 18:21
December 20, 2013
Nguyễn Đình Thi -- Moskva, 1987

đất đai của băng giá. Minh Hạnh, cô phóng viên Báo ảnh Việt Nam bồi hồi
hỏi tôi ông Nguyễn Đình Thi sang, anh đã gặp chưa? Ôi tính ông rất cởi mở. Ông
còn bảo để hôm nào tôi đến chỗ các cô, nói về những nét mới trong tình hình văn
học nghệ thuật cho mọi người cùng nghe.
Lúc
sau, bên bữa ăn, nhân nói tới ai đó, Hạnh lại một lần nữa nhắc lại, ông Nguyễn
Đình Thi thủ trưởng của anh cũng mới sang.
Tôi
nghe Hạnh nói chỉ im lặng.
Tôi
biết nói làm sao với con người này, về con người này bây giờ. Tôi cũng đang loay hoay thử phác thảo một chân dung.
Từ cái
nhìn của các nhà văn thuộc Văn nghệ Quân
đội
Ý thức về thế hệ đã đến với tôi ngay từ những
năm chiến tranh. Tôi có bài về những lực
lượng mới trong thơ. Nhân vụ nổi loạn của sinh viên 1968, tôi muốn đặt vấn đề
lực lượng trẻ Việt Nam trong sự phát triển thanh niên trên thế
giới. Tôi muốn có những thay đổi. Nhiều năm sau, nghĩ lại, còn thấy buồn cười
về những ý định ngây thơ của mình lúc ấy.
Tại
sao tôi cho mình cái quyền nói vậy? Ít ra, tôi cũng đang được mọi người chú ý. Vào
những năm 69-70 được gọi là một người viết phê bình trẻ là chuyện rất hiếm, vậy
mà tôi đã được một số người ban phát cho cái danh ấy. Chế Lan Viên, Xuân Diệu đều có lần gọi tôi ra
động viên. Ông Thi gửi tặng tôi sách mới oách chứ. Cuốn Công việc của người
viết tiểu thuyết, bản in lần thứ hai, 1967, kèm theo lời đề tặng ở đầu
sách, viết bằng thứ chữ li ti vốn có ở
ông: "Tặng anh Vương Trí Nhàn nhà phê bình trẻ".
Khoảng
1969, kỷ niệm 25 năm thành lập quân đội, với tư cách phóng viên Văn nghệ
quân đội, tôi phải đến gặp ông Thi để xin bài, xin ảnh. Và đâu còn một
lần nữa, ở sân 51 Trần Hưng Đạo.
Bao giờ Nguyễn Đình Thi cũng tiếp tôi một cách ưu ái.
--Này
Vương Trí Nhàn trông, bên Cuba họ mới dịch của tôi cuốn Mặt trận trên cao
đây này.
--
Còn đây là bản in Pháp bây giờ họ mới gửi tặng. Của nhà Juliard.
…
Sau
những lần gặp đó, lần nào về, tôi cũng nói chuyện với Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu. Và các anh trêu :
-
Ra VT Nhàn cũng được ông Thi quý lắm đấy
chứ!
Trong
đầu óc nhiều bạn trẻ chúng tôi năm ấy, Nguyễn Đình Thi gần như là một thần
tượng. Đỗ Chu kể, có lần, trong cảnh Hà Nội sơ tán, Nguyễn Đình Thi rủ Đỗ Chu
về ngủ ở trên căn gác Hội Nhà Văn. Ông Thi rất giản dị, Chu kể. Ông nói đủ
chuyện, trong đó có cái ý mà Đỗ Chu nhớ hơn cả. "Cuộc đời này cũng lôi
thôi lắm nhiều khi chả biết thế nào. Như nước Tàu bây giờ đấy."
Những
năm 1965-1970, là những năm hồn nhiên nhất của cuộc chiến đấu chống Mỹ. Người
ta còn làm chiến tranh theo kiểu bài bản, theo kiểu hoà bình (như bây giờ, người ta làm hoà bình theo kiểu
chẳng bài bản gì, theo kiểu chiến tranh). Tôi nhớ, khoảng đầu 9-1970, khi
tôi vào Quảng Bình rồi theo sư đoàn 304 vượt sang Tây Quảng Trị tức đi B
ngắn trong khoảng hai tháng, thì ở
ngoài này, mấy bạn tôi như Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Ngọc Tú, Xuân
Quỳnh… được Nguyễn Đình Thi triệu tập riêng, thầy trò sôi nổi bàn về tuổi trẻ và
văn học. Ông Thi năm đó 46 tuổi còn đang sung sức lắm. Nếu có một bọn trẻ, thì
ông sẵn lòng là người dẫn đầu.
Có
một điều không may - hay là điều may nhất cho tôi --, trong việc nhìn nhận
Nguyễn Đình Thi những năm chiến tranh. Là lúc ấy tôi làm việc ở tòa soạn Văn Nghệ Quân Đội.
Bên cạnh Hội Nhà văn, VNQĐ của
tôi là một cách nhìn mới, cách làm văn học, mới mẻ và cách nhìn của các anh
cũng khá mới mẻ.
Chẳng
hạn, hồi ấy Vỡ bờ tập hai rục rịch in ra ở Nxb Văn học và có một số chương được trích in ở báo Hà Nội mới.
Cơ quan tôi mọi người cũng đọc. Nhiều
lần, tôi bắt gặp mấy anh em ngồi ở phòng báo cười sằng sặc. Ra họ giễu ông Thi.
Nguyễn
Minh Châu, với cách nói hình ảnh của mình, nhận xét thẳng vào văn xuôi Nguyễn
Đình Thi: "Gớm, viết cứ như người chạy mưa “ (nôm na nghĩa là chả có gì
cụ thể cả, văn xuôi mà thiếu chi tiết).
Nguyễn Khải : “Thà ông ấy cứ ngồi dạy mình còn
hơn, lại đi viết ra thế này, mất cả thiêng.”
Ông
Khải này vốn có mối quan hệ oái oăm với
ông Thi.
Khoảng
cuối 1969, Nguyễn Khải có viết một bài bàn chuyện nghề nghiệp, đi vào phân biệt ký với tiểu thuyết trên tạp chí Văn
hoá nghệ thuật. Đại ý Nguyễn Khải nói nếu ít vốn sống, cứ viết ký cho xong.
Viết tiểu thuyết, vốn phải nhiều. Biết ít mà viết tiểu thuyết là rất dơ. Nguyễn
Khải kể:
--Ông
không biết chứ, các ông bên Hội Nhà văn thích bài ấy lắm, cho là nhắm rất trúng
đích. Một tay như tay Trọng Hứa cũng phải đọc mà khen cơ mà."
Đây
là một trong những lần tôi học được ngón võ kín trong nghề văn: món nói cạnh
nói khoé. Ý Nguyễn Khải ở đây muốn chê
văn xuôi Nguyễn Đình Thi, nhưng
nói thẳng ra không tiện.
Lần
ấy, Vỡ bờ II in ra, còn bị bên Viện Văn ghét lắm. Họ mời Nguyễn Đình Thi
đến nói chuyện, xong lại căn cứ vào đó mà phê bình (người được giao làm việc
này là Phong Lê).
Nguyễn
Đình Thi bực đến mức phải viết bài trả lời.
Một lần, Nguyễn Khải sang Hội Nhà văn trở về,
kể:
-
Tôi vừa được ông Thi đọc cho nghe bài trả lời này. Chung quanh Vỡ bờ, hôm nọ, phải nhờ đến Khái Vinh đỡ cho một bài, đã thấy dơ
rồi. Nay lại tự đứng ra trả lời thế này nữa.
Dừng
một lúc, Nguyễn Khải nói thêm:
-
Ông có biết tại sao ông Thi ông ấy đọc cho tôi nghe không? Không phải là ông ấy
yêu tôi đâu. Mà là vì ông ấy ghét thì đúng hơn. Thử đọc cho cái thằng ghét mình
xem nó phản ứng ra sao. Xưa nay, ông ấy vẫn coi tôi là người cầm đầu của phái
trẻ, phe nghịch trong làng. Là nghi
thôi, chứ chưa cả quyết . Nhưng tin tưởng thì dứt khoát không.
Giữa
yêu và ghét
Ai
cũng biết là ông Thi rất đẹp trai, một người đàn ông rất giàu nam tính (Dương
Thu Hương phũ mồm bảo các em mê văn chương săng sái vây quanh ông anh, em nào
chả chết với anh một vài lần rồi.)
Khoảng
1971, tôi nghe có tin vỡ lở ra một vụ lăng nhăng của Tổng thư ký. Đối tượng ở
đây là cô V. O., người phát thanh viên bên Đài.
Nguyễn
Khải kể rằng ông Tiếu (nhân viên hành chính của HNV) bảo chỉ thấy thủ trưởng
sai đưa thư đi các nơi, nào có biết thư công hay thư riêng. Bây giờ mới hoá ra
toàn thư tình.
Nhưng
nguy hiểm nhất, đâu có một lần trong một lá thư, lại có cái câu nói rằng hôm
nay anh không thể đến em được, anh phải đi nghe ông Tố Lành giảng đạo (ý nói đi
giao ban, đi chỉnh huấn gì đấy!)
Khải
thì chú ý chuyện chính trị, âu cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng với chuyện này,
một người như Xuân Quỳnh lại chú ý mặt đạo đức của con người. Xuân Quỳnh kể là
ông Thi không những thôi cô ấy, mà còn đèo vợ đến, rồi ông ta ở dưới nhà, để
cho vợ lên đánh ghen nữa. Thật là quá lắm. Sau này có người giải thích cho tôi
nghe là không phải thế đâu, cũng có việc bà Trường đến, nhưng là do một hoàn
cảnh như thế nào đó, ngoài ý muốn ông Thi… Dẫu sao, cái chuyện trai gái những
năm ấy của ông Thi là có thật, nó cũng là nguồn gốc của nhiều tai tiếng.
Nhưng
hồi ấy, ở VNQĐ, lại có một
người rất yêu ông Thi. Người đó là Nhị Ca. Họ biết nhau từ kháng chiến. Nhị Ca
còn nhớ tường tận việc Nguyễn Đình Thi viết cuốn Xung kích ra sao. Ông ta đi chiến dịch trung du
xong, không về cơ quan Hội vội, mà ghé vào
đơn vị văn công do Nhị Ca phụ trách, xin ở nhờ, xin cho ăn cơm, rồi ngồi viết.
Và 18 ngày là xong.
Nhị
Ca thường bảo tôi:
-
Chớ có nghe mồm thằng Khải. Không ai thay được Nguyễn Đình Thi đâu. Còn lâu mới
có một nhân vật như vậy.
Thơ
Nguyễn Đình Thi từng được Nhị Ca giới thiệu cả một chương trình bên đài phát
thanh. Các tập tiểu thuyết của Nguyễn Đình Thi hồi đầu chống Mỹ, đều được Nhị
Ca nhắc nhở trên VNQĐ. Nhị Ca có một sự trung thành ghê gớm với Thủ trưởng Hội.
Nguyễn Khải thỉnh thoảng lại nhại lời Nguyễn
Đình Thi để giễu:
-
Các ông là chưa hiểu gì về tiểu thuyết hiện đại… Để hôm nào phải bố trí một buổi,
tôi nói các ông nghe mới được.
Theo
Nguyễn Khải, ở bên Hội, hiện giờ có mấy ông muốn làm cha mọi người.
Chế Lan Viên, -- cha của nền thơ Việt Nam.
Nguyễn
Đình Thi - cha của tiểu thuyết Việt Nam.
Và
Tô Hoài, cha của văn xuôi Việt Nam.
Hội có hai ông Tổng thư ký và phó Tổng thư ký.
Ông này chê ông kia văn học trò, ông kia chê ông này là văn thợ thủ công.
Thật không biết đằng nào mà lần - Khải nói tiếp
Trước
những lời lẽ ấy, Nhị Ca chỉ mủm mỉm :
-
Các anh chỉ tức vặt, chứ bằng thế đếch nào được người ta. Hồi 20 tuổi, Nguyễn
Đình Thi đã làm đại biểu Quốc hội, thâu tóm bao nhiêu là việc đại sự. Còn lâu,
còn lâu!
Theo lời kể của Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi
mà sang Liên Xô thì sang lắm. Nghĩa là có người đón tận Tasken làm giấy tờ cho.
Này, bố Thi cũng chim chuột bọn dịch giả Liên Xô lắm - vẫn lời Nguyễn Khải. Chả
có lần Nguyễn Khải cùng đi một chuyến với ông Thi. Bên ấy một tay nào đó đã
dịch Vỡ bờ rồi nhưng bản dịch kém, không có tiếng vang. Nay ông Thi muốn
chính Marian Tkachev dịch lại. Đến nhà Marian chơi. Gớm, trông cái nhìn của ông
Thi về phía nó, như tống tình ấy, điếm lắm, Nguyễn Khải có mặt ở đấy bảo vậy. Nhưng sau cũng không ăn nhằm gì. Marian bảo, ở nước chúng tôi, cũng phải có kỷ cương, chỉ những tác giả cổ điển mới đôi khi có hai bản dịch.
Ngay
từ hồi chiến tranh, trong giới viết văn đã có câu ca:
Đảng đoàn là
Đảng đoàn Hoài
Có đi thực tế
nước ngoài thì đi
Đảng đoàn là
Đảng đoàn Thi
Có
đi thực tế thì đi nước ngoài.
Một
người hay vọc lại chuyện cũ của Thi là Nguyễn Thành Long.
Có
lần, Nguyễn Thành Long bảo tôi rằng hồi kháng chiến Nguyễn Đình Thi ở đâu
bên Quốc hội, chứ có phải
bên Hội Văn nghệ đâu. Hội Văn nghệ là do ông Tưởng làm. Thi bị ông
Trường Chinh ghét, sau cuộc thảo luận về thơ không vần. Cho nên, đi Điện Biên
Phủ, cũng gần như một thứ bị kỷ luật.
Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi hôm nọ qua Mosskva
họp, cũng nói với tôi là, cái lần Nguyễn Đình Thi đi trung du, xông pha ghê lắm,
đến mức Nguyễn Huy Tưởng phải bảo Thi nó liều chết để lấy lại uy tín.
Những
điều tôi được nghe kể như thế, thấy tin được, vì tôi nhớ chuyến đi B của Nguyễn
Đình Thi cuối 1974, đầu 1975. Lần ấy ông
Thi đi một chuyến vất vả lắm, tới mức mà một người "lòng gang dạ sắt"
như Nguyễn Khải mà cũng phải nao lòng, thương xót. Có lúc chả còn tin tức gì
nữa. "Đi như phẫn, đi để tự hành xác” - Nguyễn Khải bảo vậy. Nó cũng là bù
cho những tiếng xấu mà người ta vẫn nói.
Đấy,
Nguyễn Đình Thi là người như thế đấy. Người sống tất cả những vinh quang và lỗi
lầm của một chiến sĩ cách mạng. Vinh quang bằng việc ngồi trên Chủ tịch đoàn
hay Thư ký đoàn ở Quốc hội khoá 1, đứng về phía Cụ Hồ, đấu tranh cho cách mạng.
Vinh quang - hai mươi mấy tuổi, dẫn đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Đại hội liên
hoan sinh viên thế giới, được bà M. Riffaud rất yêu. Và bùn lầy, cảm thấy như
một trí thức có tội, luôn luôn phải đưa lên, giương lên những giá trị mà có lẽ
trong thâm tâm mình thấy không ra gì. Đề cao công nông. Luôn luôn phải đứng nép
về phía sau bên các đại diện công nông.
Ngô
Văn Phú kể với tôi về Hội nghị nhà văn trẻ lần thứ nhất, năm 1959. Đứng trước
những Anh Đức, Lê Khâm… Nguyễn Đình Thi không quên nhắc tấm gương sáng ở một
người công nhân nào đó, làm ca dao, tên là Hoàng Thị Tước . Nhắc như một tấm
gương. Chỉ có điều, trong văn học, bà Tước ấy, bây giờ ai biết.
Tâm lý Nguyễn Đình Thi là thứ tâm lý tiêu biểu của tri thức Việt Nam. Khiếp nhược trước đám công nông. Thấy công nông làm được nhiều việc liều lĩnh, nên cứ
lùi dần, lùi dần.
Nguyễn Khải thường nói với tôi về một cái tài của Nguyễn Đình Thi. Trong
những đợt chỉnh huấn chính trị do Tuyên giáo tổ chức cho văn nghệ sĩ, Nguyễn Đình Thi rất hay ngồi ở hàng đầu. Trong
bụng ông Thi nghĩ gì về ông Hà Huy Giáp không biết, nhưng ở hàng ghế
trên cùng, ông Thi hiện ra trước người giảng bài như một thính giả cần mẫn, lắng
nghe mọi điều, thỉnh thoảng lại gật đầu ra điều rất là tâm đắc, và khi cần
không quên liếc mắt về phía một người nào đó, ý muốn nói thấy chưa, anh Hà anh ấy
giảng sâu sắc lắm đấy chứ!
Cùng với Lê Ngọc Trà nói chuyện với Nguyễn Đình
Thi,
ở Moskva , 22-2-87 .
Nguyễn
Đình Thi kể:
--Tôi
vừa đi forum Bảo vệ hoà bình
về. Tôi vào nhóm các nhà văn. Bài phát biểu của tôi được chú ý lắm. Đại ý tôi
nói con người trở thành tai vạ cho mình. Chỉ vì cái sợ mà người ta chưa giết
nhau thôi, chứ đã nghĩ chán về việc này rồi. ( Lê Ngọc Trà thú cái ý tưởng này
lắm.Trà bảo như vậy là thấy trách nhiệm về cả hai phía, cả Liên xô lẫn Mỹ!).
Tôi
còn được mời riêng đến báo Pravda. Ở đó, cũng phát biểu lung tung cả,
nên họ không đưa lên mặt báo.
--Tình
hình ở nhà. Định ra tạp chí của Hội, mới mời Bằng Việt về làm thư ký toà soạn,
Bằng Việt cũng muốn về, chỉ sợ không được.
-
Lãnh đạo các nước XHCN, trước sau có vấn đề dân chủ. Ta đâu có quen dân chủ.
Thời
Hy Lạp, người ta còn dân chủ hơn mình nhiều. Bàn cãi mãi, sau cho về. Sợ biểu
quyết ngay thì người nào nói giỏi người đó thắng. Về sau lúc người ta đã tỉnh
táo mới đến biểu quyết. Hoặc như có cái lệ ai tán thành chiến tranh người đó
phải về sắm mũ áo ra trận ngay. Để cho anh phải có trách nhiệm với quyết định của
mình.
Ở
nước mình, bàn cãi thuyết phục nhau lại
càng khó. Căn bản có Cụ Hồ. Ông Cụ không có cái gì thái quá, thành ra nước mình
chưa đến nỗi cho văn nghệ sĩ đi tù.
Tôi
nhớ cái lần họp Bộ Chính Trị về văn nghệ, tôi được dự. Mà lại nói nhiều đến
tôi, với cả Con nai đen. Căng lắm. Nhưng Ông Cụ ngồi đấy, không nói gì
nhiều, Cụ chỉ bảo phải xem cho kỹ. Lúc ra, Cụ lại nói chuyện với tôi, hỏi han
tôi. Thành ra nó cũng đỡ căng đi.
Lãnh
đạo văn nghệ mình là ai? Ông Cụ thì bận. Đồng chí Lê Duẩn tránh văn nghệ. Đồng chí Phạm Văn Đồng thương
nhưng cũng tránh. Chỉ có đồng chí Trường Chinh. Mà tôi biết, tôi là cán bộ cũ
của anh ấy mà, anh ấy nghiêm lắm. Chẳng hạn như anh ấy không thể chịu được hội
hoạ hiện đại. Cá nhân các anh ấy sau này cũng phải nói lại. Như trong bài Cùng bạn đọc,
đầu tập thơ Sóng Hồng, anh ấy nhận là thơ có thể không vần. Như thế là mới mẻ
lắm rồi. Hồi kháng chiến anh ấy đâu có chịu. Chính tôi làm thơ không vần mà.
Lại
như anh Tố Hữu, ông ấy cũng thích mình quá (Trà giải thích cho tôi: ý nói ông Lành
sùng bái mình). Đấy là một nhà thơ có tài, một nhà thơ lớn. Nhưng tôi cứ nghĩ
anh ấy còn thiếu chỗ nào đó. Ví như tôi nghiệm người làm thơ nào cũng rất hay
về thơ tình. Tố Hữu thiếu cái đó, không có thơ tình, cái đó không được.
Nhắc
lại chuyến đi B. 1974
-- Hồi ấy anh Trần Bạch Đằng, anh ấy cũng
có cái ý thách thức, để văn nghệ vào đấy xem sao. Thì tôi vào. Mà vào đến tận
Mỹ Tho. Rồi giải phóng Sài Gòn, tôi biết, nhưng tôi không vào Sài Gòn mà lại ra
cái đã. Trên đường ra mới gặp lắm chuyện hay. Những đơn vị người ta cuốn vào
Sài Gòn hết, chỉ để lại đám thương binh nhẹ trông thương binh nặng, với cái kho
gạo. Đất nước, nhìn ở phía sau cuộc chiến tranh, thấy hết chứ. Hay lắm.
Nhân đây tôi (VTN ) hỏi ông Thi về cái đận đi chiến dịch trung du 1950, về viết Xung kích nói trên.
Nguyễn
Đình Thi cười, tự nhận cũng thấy mình đi
đã ghê.
Nhàn:
--Anh
vừa bảo đi chuyến 74, cũng như chuyến Điện Biên Phủ. Nhưng hồi biên giới 1951
thì không?
Nguyễn
Đình Thi:
--Hồi
ấy sắp Đại hội Đảng, tôi bị ông Tố Hữu ông ấy giữ ở nhà làm cái báo cáo về văn
nghệ. Sau báo cáo ấy, ông Tố Hữu mới vào Trung ương.
Nhưng
tôi tự nghĩ, trước nay, mình vẫn có cách nhìn riêng của mình. Như với Ông Cụ, tôi cảm
thấy không thể viết, không nên viết gì. Hay lần đầu sang đây, những năm năm
mươi thấy cái lăng Lênin đặt ở giữa Hồng Trường, tôi đã thấy thế nào ấy, không
nên thế, chỉ có điều mình không dám nói ra thôi. Mấy chục năm qua, nhờ cũng
luôn theo dõi được tình hình bên này, tôi cũng thấy đỡ rối hơn.
[ Một số mẩu in chữ nhỏ dưới đây đã được đưa vào
trong bài Chuy ệ n v ă n ngh ệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 ]
5-87
Gặp tại Yug-zapatnoe,
Nguyễn Khải điểm qua tình hình
văn nghệ:
-
Lão Nguyễn Đình Thi phen này mà mất việc đi Tây, thì cứ gọi là con mẹ Tuệ Minh
nó bỏ ngay.
Mà không hiểu
sao, xứ mình sinh ra cái lão lẩm cẩm loại đó. Bây giờ cứ thấy mấy người đang
đứng trò chuyện là lão ấy nhảy xổ đến, lão ấy giảng cho mình về văn học,
văn học nó phải như thế này, nó phải như thế kia. Làm như là không ai đọc cả
ấy. Lúc nào cũng chê anh em bây giờ nó không biết gì. Vâng, các ông được Tây nó
dạy cho tí tiếng Pháp, nhưng anh em bây giờ nó đã có tiếng Nga, chắc ai đã đọc
hơn ai.
8-7-1987
Tế
Hanh kể: Hà Nội đang cho in tờ Tác phẩm văn học, số 1, do ông Nguyễn
Đình Thi làm Tổng biên tập. Trong hội đồng biên tập có nhiều người, kể cả
Nguyễn Khải. Thi mời Nguyễn Văn Bổng làm phó, nhưng Bổng không nhận.
Về tạp chí mới (Tác phẩm văn
học ) ông Chính Hữu, bà Tú nhận định ông Thi thấy có thể mất tổng thư
ký, nên chạy về làm. Và ông Thi dựng ê kíp của mình, Hoàng Trung Thông,
Thợ Rèn v.v..
Bùi Bình Thi chỉ còn là người đi thu bài. Ngọc Tú không có quyền gì. Ông Thi
bảo tôi ở nhà, tôi duyệt bài. Nếu tôi đi vắng, anh Thông, anh Kim Lân sẽ duyệt.
Như vậy, lại khác rồi.
Lại
Nguyên Ân bình luận: Đây là một thứ tạp chí của các cựu chiến binh và trưởng
lão, nó sẽ là tạp chí thương phế binh.
Tế
Hanh bảo: Ông Thi vẫn có cái tài như
vậy. Tức là chất lên vai bao nhiêu cũng làm được, và làm rất giỏi. Rồi đến lúc,
báo nó tan, thì ông ta cũng chuồn ngay được. Có một vấn đề gì mới, Nguyễn Đình
Thi tiếp thu rất nhanh, rất hoạt ; cách nắm cách trình bày… rất hấp dẫn.
Chỉ
hiềm một nỗi là không sâu, và không bao
giờ quay trở lại với vấn đề ấy nữa. Nhưng tìm được một tổng thư ký như vậy, đâu
có dễ. Nghe nói, phen này, phe ông Thi rất muốn trì hoãn đại hội nhà văn, vì sợ
sẽ bị lật nhào.
Nhân
chuyện “luôn luôn dẫn đầu” của NgĐThi. Nhiều người cùng nhận ra:
-
Lúc chưa ai làm thơ không vần, thì ông Thi làm cái trò đó..
-
Lúc chưa ai viết tiểu thuyết dài thì Thi tống ra được cuốn Vỡ bờ. Và lại
còn viết cả lý luận về tiểu thuyết nữa chứ (Công việc của người viết tiểu
thuyết, nổi tiếng tới mức ông Thanh Lãng ở Sài Gòn cho in lại )
-
Lúc Mỹ mới đánh ra miền Bắc (1965 -70)
Nguyễn Đình Thi viết liền hai cuốn
truyện vừa Vào lửa và Mặt trận trên cao. Và lại viết về một binh
chủng mới tinh, là không quân.
Nguyễn Khải mấy lần bảo bây giờ có ai chết, Nguyễn
Đình Thi làm điếu văn rất hay.
Con
người lạ quá. Một thứ bản năng nào đó đã xui khiến ông, Ông có sự nhạy cảm với
những gì mới hé ra. Ông bắt rất nhanh vào cái xu thế của sự vận động đời sống
8-1945. Cách mạng bao giờ cũng làm người
ta lóa mắt ở cái ban đầu. Tôi nhớ rất rõ trường hợp của Nguyễn Khải, cuốn Tháng
3 ở Tây Nguyên -- cái
thuở ban đầu là thiêng liêng lắm. Và có
những người sống đến già vì cái thuở ban đầu ấy.
Nhạy cảm xã hội là một thứ bản năng
tự nhiên của ông Thi?
Nhưng
đây là một phía khác của sự nhạy cảm đó. Phải gọi Nguyễn Đình Thi bạc thượng hạng. Ông chuồn
rất nhanh qua các việc. Nhiều tờ báo mới ra, ông nhận làm tổng biên tập, nhưng
khi báo có làm sao là ông không làm nữa.
Mà cái tên ông ta vẫn phải để. Rồi có lúc, ông sẽ bảo cái này những người khác
làm, tôi không biết. Tôi còn đi sáng tác v.v và v.v
Có
người bảo tôi, Nguyễn Đình Thi là một tay đầu cơ chính trị, tôi chưa thật hiểu.
Đời ông về chính trị cũng lận đận lắm đấy chứ, những kẻ đầu cơ khác không hơn
ông nhiều. Cụ Tuân có lần bảo tôi, sao
ông Thi cứ bị trên mắc-kê, chứ ai phục vụ chính trị bằng ông ấy đâu. Hoặc bảo
rằng về chính trị ông ta được nhiều cũng
không phải, so với mọi người có được gì
nhiều lắm. Hay là tại vì Nguyễn Đình Thi vừa muốn làm chính trị vừa muốn làm
nghệ sĩ như Nguyễn Khải vẫn cắt nghĩa? Dù có như thế nữa, tôi thấy lý do một
phần chính là cái chất người chất học trò của Nguyễn Đình Thi. Ông ta
khôn lỏi (?), nhưng cũng nặng tiền kiếp lắm. Phải cái tội trai gái hơi nhiều,
nhưng người đàn ông mà để mang tiếng ở đấy, không phải anh hùng rồi.
Người ga lăng (galante= phong tình lẳng lơ)
Dương Thu Hương kể về Nguyễn Đình Thi.
Hồi ấy, là vào gần Tết. Hương có việc lên
Quảng Bá ngồi viết, Nguyễn Đình Thi cũng có mặt ở đấy. Hoá ra ông cũng đến ngồi
viết. Có một người tình hay đến là cô
Chung, thường mặc complet nữ, đi xe máy peugeot
trắng. Thấy Hương ở đấy, Thi cũng muốn chèo kéo ban phát. Nên một lần gọi
Hương:
-
Này, có muốn nghe kịch không?
Và
trước mặt một khán giả thôi, Nguyễn Đình Thi cũng đọc kịch bản bằng cái giọng
rất thánh thót, rất hùng dũng. Đến một lúc nào đó, không kìm được, Hương phá
lên cười.
-
Hay lắm, ông anh còn có thể chim được vài em nữa.
Lập tức Thi sẵng giọng:
-
Không được can thiệp vào cuộc đời riêng của người khác. Thế là lưu manh!
Nhưng
cùng ở trại đến giápTết, Thi lại làm lành. Lại mang hoa đến cho Hương. Lúc ấy,
Hương đang ở ngoài chỉ nói thõng thượt cứ để đấy cho tôi. Hương cũng chẳng buồn
vào nhận nữa. Vậy mà Nguyễn Đình Thi cũng thôi.
18/11/87
Nguyên Ngọc kể:
- Buổi ông Linh gặp anh em, còn
nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu
anh em" sau này người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã
tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã
hội) chưa được, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại
phản công cho mà xem.Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi
trói rồi phải không.
- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội
nghị? ông Thi bảo: Tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng -
Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết
người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích
kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt
tạp chí chuyên về văn học nước ngoài
rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh
toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
Về Ng ĐT trong buổi găp Nguyễn Văn Linh, Ng Quân kể
- Đất nước gì mà
tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có áo có tất, thì ra cái thá gì nữa.
Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái
sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào
Stalin, vẫn có Sông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng
tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Còn đây là lời kể Hồ Ngọc
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương
Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức.
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối,
Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc
được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt
rồi.
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra,
trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại
hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã
phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là
cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của
chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu.
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi
lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy
là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng
chúng ta là hạt bụi có tư tưởng.
Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là
hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi
càng giảm sút.
12/1987
Chuyện vợ con Thi ở Hà Nội.Vũ Tú Nam kể cảnh
ông Thi ra toà. Bà Trường nhờ người cáng mình đến toà (hay đi xe cấp cứu?) để
chứng tỏ mình già yếu. Bà còn có một lũ cháu đứng ngoài. Giữa lúc toà đang họp,
đám này làm reo ầm ĩ. “Đả đảo Trần Phương “. (Trần Phương là nhân vật Sở Khanh,
quyến rũ Súy Vân trong vở chèo cùng tên). Bên này ông Thi chỉ
có một mình.Vũ Tú Nam giải thích ông Thi có bạn bè bao giờ với ai đâu.
Nói
chuyện với Quân và Chính
Nguyễn Quân
:
--Hôm
họp ở Nhà hát lớn (gặp ô Linh), nhìn ông Nguyễn Đình Thi phát biểu, Tạ Văn
Thành nhận xét ông này rõ ra một con trống lý tưởng!
Quân
cũng bảo đúng rồi, từ xương trở ra, thì ông ấy hơn tôi. Nhưng từ xương
trở vào thì chắc chắn thua tôi.
Quân
nói tiếp, thằng Chính cũng nhận xét thế. Ông Thi chỉ được cái mẽ ngoài.
Quân:
Tại sao ông ấy không ở nhà cho xong.
Chính:
Bố ấy cứ phải loăng quăng thế, rồi quếnh quáng thì mới viết được, chứ ngồi một
mình là chịu.
Những
buổi ngồi rỗi ở ký túc xá trường viết văn
Gorki, Ng Đình Chính và tôi cũng nói nhiều về ông Thi.
Chính:
--
Các ông loại như Nguyễn Đình Thi trở lên, có chỗ đáng nể của họ. Nghĩa là trị
được họ cũng khó.
Như
ông Tố Hữu, có người bảo không ra gì bây giờ thất bại rồi. Tôi nói, ông ấy thất
bại, vì đã lên tới cái đỉnh của mình. Nhưng người ghê đấy chứ. Từ một cậu học trò mặt trắng trong Thừa Thiên, ra bắt nạt hết cả mọi người,
hiển hách lên đến tận hàng ghế đầu, chỉ một tí nữa trở thành nguyên thủ.
Bợm đấy chứ. Lúc đầu, theo Cụ Hồ hết lòng. Rồi theo Trường Chinh. Cuối đời cụ
Hồ, bỏ theo Lê Duẩn ngay. Quyền sinh quyền sát trong tay, khi chửi mắng, khi
vỗ về người khác, cũng ghê đấy.
Hoặc
như ông Thi nhà tôi, ông ấy cũng có khả năng chinh phục mọi người.
Nhàn
: Xuân Diệu cả đời sợ ông Thi.
Chính:
Đúng đấy, loại người như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên sợ hết vía.
Nhàn:
Hồi ông Thi bị lôi thôi về Đảng đoàn, tưởng mất chức, ông ấy lại đi làm rất
đều. Ông Khải kể với tôi vậy.
Chính:
Đây này, mới đây thôi này, ông ấy cho ông Hà Xuân Trường mấy câu không ra làm
sao cả (Các anh bảo ông Trường thôi đi,
tôi không nghe được lý luận trẻ con ấy). Ông ấy căng với ông Tố Hữu, nhưng công
việc vẫn đâu vào đấy. Tôi nghe có hôm có cuộc họp gì này ở Ban chấp hành, ông
ấy đang ốm, cũng mò về. Nhờ thế mà hội
nghị BCH đổi hẳn được thế trận đấy chứ các cậu tưởng đùa với ông ấy à.
Chính nói tiếp, Ng Đ Thi đúng là một thứ Lê
Đức Thọ con, dù rằng có lúc ông Thọ rất ghét Thi (lần trước đã định không bố
trí vào Đảng đoàn cơ quan mà).
--
Cũng như Mao Trạch Đông vậy. Bậc thầy của nghệ thuật tổ chức.
--
A lại còn chuyện tình yêu nữa chứ.
--
Đúng. Bà TTrung sống cả đời vì mấy câu
hươu vượn của ông ấy. Bà ThHương bây giờ thấy ông ấy còn sững sờ mặc dù có khi đánh
ông ấy hẳn hoi trên báo….. Nghe ai đó nhỉ, ai đó bảo với tôi, là có lần trong
buổi họp ngồi ở phía sau nhìn lên, thấy một người chữ giống chữ Nguyễn Đình
Thi, là bà ấy đủ run cả người, đánh rơi cả bút trong tay cơ mà.
-- Đấy, mọi chuyện thế đấy. Lớp già họ có
ghét nhau nhưng vẫn dựa vào nhau. Tố Hữu trị Nguyễn Đình Thi, nhưng vẫn giữ.
Thi là số một (các quan chức văn
nghệ nối tiếp thay nhau, thoát sao Tố Hữu được). Loại Chế Lan Viên, Bảo Định
Giang đừng có hòng, Nguyễn Đình Thi từng nói vào mặt Bảo Định Giang: “Tôi để anh ở đây, anh được ở, tôi muốn anh
đi, anh phải đi.”
Gần
đây, Hoàng Tùng mất chức, nhưng giữa Thi và Tùng vẫn nể nhau lắm. Hoàng Tùng
sau khi đọc bài điếu văn ông Thi viết về ông Tuân bảo: "Tôi từng viết điếu
văn khi cụ Hồ chết, điếu văn khi Lê Duẩn chết, nhưng phải chịu điếu văn này là
hay".
Đừng
tưởng ông Tố Hữu bây giờ mất chức mà hết quyền đâu. Nghe tin Tố Hữu mất chức,
tất cả quan chức văn nghệ đều đến chào để thú nhận: “Em vẫn là người của
anh". Đào Duy Tùng kể có việc gì về văn nghệ, tôi vẫn phải đến xin ý kiến
anh Tố Hữu. Không phải là hỏi, mà là xin, cậu nhớ đấy.
Lớp
văn nghệ sĩ bắt đầu lập nghiệp từ 1945 gợi cho chúng tôi cảm tưởng một thứ cây
trên đất cằn. Khó khăn lắm mới mọc lên nổi. Nhưng mọc lên, rồi lại đứng mãi,
làm hỏng cả đất.
25-12-1987.
Cảm
tưởng đọc tạp chí Tác phẩm văn học
-
Đúng là phong cách ông Thi. Tài làm báo của trước cách mạng, của những năm hoà
bình. Lối mi, lối trình bày cũng vậy, chặt chẽ, tiết kiệm. Tên người ở
Hội đồng biên tập đâu vào đấy. Loại người như Đào Vũ làm báo cổ lỗ, cẩu thả, mà
lại ra chất con buôn, không thể đọc.
-
Những người làm nên cách mạng - bao
giờ ông Thi cũng nghĩ về mình như vậy. Và có lẽ là ông tự hào có một lớp bạn bè
tài giỏi. Có bao nhiêu vốn cũ về cách mạng, mang vào tờ tạp chí hết. Nhưng thử
nghĩ thì biết. Cách mạng mãi, cũng chỉ
có các ông ấy, thì cách mạng nỗi gì.
Ông
Thi còn muốn coi mình là tiền chiến kia đấy, Vũ Tú Nam vẫn bảo thế.
-
Có bọn trẻ, nhưng chỉ dùng để trang điểm. Mỗi số một tí.
Nói
chung, mỗi lần nhắc tới những ông Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông này, tình
cảm của một người như tôi rất sâu nặng,
dễ cảm tình với họ, ẩn mãi trong tâm trí lòng biết ơn những đóng góp của
họ với đời mình.
Chỉ
cần họ tỏ ra tinh vi, tế nhị, một chút thôi, là bọn tôi lập tức muốn nhượng bộ,
muốn được trở về làm đàn em của họ. Cái thế mạnh của họ là ở chỗ ấy.
Nhớ
vài chuyện “trái cựa” về các ông.
Nhớ
Hoàng Trung Thông. Khi tôi mới sang nhà xuất bản Tác phẩm mới, nhiều lần
định đến, và quả thực là đã đến gặp ông ta, với tấm lòng thành kính. Tưởng ông
là một người rộng rãi, có thể dùng mình chăng. Nhưng không, ông đối với tôi
hoàn toàn đùa cợt, chả nói câu gì đứng đắn.
Một
trong những lần gặp ông ở Viện Văn:
--Các
anh phải nuôi bọn tôi mới chứ, không chúng tôi phải đạp xích lô, bán phở kiếm
sống.
--Cứ
tập làm các việc ấy cho quen đi.
Một
chút liên hệ. Có lần gặp Hoàng Ngọc Hiến ở Moskva, tôi bảo Mai Liên nó có cái
tài, là nó biết tiếng Hán cổ. Hiến nói
ngay nhưng do biết tiếng Hán cổ, nó có chỗ khó chơi của nó.
Tôi
cho cách nhìn đó, có thể áp dụng cho Hoàng Trung Thông. Hoàng Trung Thông có
chỗ khó chơi của ông ta, dù đời ông ta cũng chả may mắn gì.
Nghĩ về mấy cốt cán . Họ cũng có sự sắc sảo nào đó. Nhưng chẳng ai sống
chết với việc gì. Ví dụ, có ai làm báo giỏi không? Có ông Thi, nhưng với ông
Thi cũng chỉ coi làm báo là một đầu việc, lúc cần sẽ bỏ để lo chạy những đâu đó, với những chức
tước vớ bẫm hơn hoặc nhàn hơn. Lúc làm báo, chả yêu mến ai, thiết tha với sự cộng tác của ai
cả. Thế thì vứt đi rồi .
Nguyễn Đình Thi thường có lối khi nào hết cái đăng, lại lấy cái cũ ra
đăng lại.
Loại
như Chế Lan Viên cũng vậy. Có thể có một hai bài sắc sảo, nhưng không phải là
người biết bao quát, lo cho công việc cả tờ báo. Nhìn chung, họ vẫn là cán
bộ của ông Tố Hữu. Cán bộ trung kiên làm việc gì cũng được (tức là gì cũng chỉ
đến mức nào đó, rồi hỏng). Họ không phải loại người mà tôi thấy ở các giai đoạn
lịch sử ổn định.
Nguyễn
Đình Chính nói về đời sáng tác Ng Đ Thi:
--
May mà ông Thi ông ấy có mấy vở kịch lại sắp in ra, chứ nếu không chả có gì.
Duật
thì nói về cách cư xử:
--
Có lần ông Thi ông ấy được cái giải
thưởng bên Liên Xô ông ấy lại tặng cho trại trẻ mồ côi ở Moskva. Mình -- tức là
Duật -- mới bảo Chính bố mày buồn cười thật, sao không tặng cho các trại trẻ Việt
Nam ?
Chính
nói thẳng:
-
Ông ấy phải làm thế để giữ ghế .
Marian
Tkachev đến lớp nhà văn Việt Nam ở trường Gorki, phát biểu cảm tưởng của mình
về văn nghệ Việt Nam. Tôi rất phục nhà văn lớn Nguyễn Tuân… Ông ấy là người mà
không ai học theo được... Chính mới cho một câu, chúng tôi làm sao mà bắt chước
cách chống ba - toong của cụ ấy được.
Marian
cũng dở lắm. Đến trường anh em nó rủ lên uống rượu, lại thẳng thắn từ chối.Tôi
đã đến cái tuổi bớt được người bạn nào, hay người ấy. Nếu có nghĩ như
thế chăng nữa, cũng không nên nói ra
miệng.
Chính
tổng kết về cách quan hệ với các Hội nhà văn nước ngoài:
--
Bọn ông Chu, ông Duật cứ trách Marian nhạt nhẽo với mình. Nhưng nên nhớ là nó
chơi với ông Nguyễn Đình Thi, ông Tô Hoài đã thành băng thành nhóm lâu rồi, quyền
lợi nó dựa vào nhau. Anh bây giờ phải chơi với con Ira kia kìa, rồi móc nối dần
lên là vừa.
Published on December 20, 2013 20:28
December 16, 2013
Chiến tranh đến với thành phố
Từ thời điểm cuối 1973, nói với một người bạn
đi xa
về
những ngày Hà Nội cuối tháng chạp 1972
I
Đêm báo động đầu tiên, như anh đã biết, là
đêm mười tám. Tôi muốn nói rõ thêm lúc báo động vào khoảng gần tám giờ tối. Có
người sẽ hỏi lúc đó, người dân Hà Nội đang làm gì? Tôi lục lại trí nhớ. Lúc đó,
tôi đang ở nhà một người bạn. Chúng tôi ngồi bàn chuyện công việc quanh một ấm
trà, một thứ sinh hoạt bình thường như mọi người, với những chuyện chả dính
dáng gì đến bom đạn. Sau này, trông thấy nhau, anh bạn tôi vẫn đùa “Tôi với ông
lại ngồi bàn chuyện văn chương phù phiếm trong khi nó đang mài dao thớt”. Rồi
cười. Nhiều người Hà Nội cũng thế, chả cứ chúng tôi.
Chắc anh có thể tin khi tôi nói rằng tôi
vẫn tha thẩn đi bộ từ nhà bạn quay về nhà mình, đi ngay trong đêm báo động. Vào
một lần nào đó, cũng trong tiếng còi u ủ và bóng đêm dày đặc vừa ụp xuống thành
phố, chúng ta từng đi với nhau trên những lối này. Năm sáu năm về trước… Không
dám nói ra, nhưng quả thật, trong những năm tuổi trẻ nhộn nhạo và liều lĩnh,
chúng ta có lúc tìm cách đi lại giữa giờ báo động trên phố xá, lắng nghe những
cảm giác riêng của mảnh đất quen.
Giờ tôi cũng lặng lẽ đi. Đi trước mặt
những em bé, những ông cụ ở mấy phố hẹp, ngồi ngay trước cửa nhà mình, chờ nhảy
xuống cái hố cá nhân đào ngay đoạn vỉa hè. Đi trước đám mấy cô gái còn đang túm
tụm nói chuyện với nhau:
- Đúng lúc cụ bô ở sơ tán ra thì báo động,
thật chết con cháu!
- Nhà nào còn để đèn thế kia không biết?
- Gớm cô cậu giờ còn đèo nhau!
Những người kia vẫn quen như những lần báo
động mấy năm về trước, mấy tháng về trước.
Nhiều người khác cũng thế.
Tôi còn nhớ cái giây phút nghe tiếng còi tạm
báo yên. Trước báo động, người còn nhiều trên đường phố - lâu nay, tình hình
trong thành phố bình thường lắm… Bây giờ, người đổ cả ra đường, như vừa tan ở một
rạp chiếu bóng ra. Đông quá. Riêng tôi, tôi nán lại một cái ghế ở bên Hồ Gươm
nhìn đèn điện bắt đầu ửng lên cả một lượt chung quanh hồ. Một người thanh niên
nào đó, xem đồng hồ, nói khá to: “ Nó kéo mất hơn một giờ của mình rồi.”
Người Hà Nội quen sống một cách giờ giấc,
trong chiến tranh cũng tính giờ giấc.
Nhưng ngay khi đó, ngồi trên chiếc ghế đá
phía Câu lạc Bộ Thống Nhất, tôi nhận ra những đường đạn đỏ lừ ở chân trời phía
Nam thành phố. Tiếng đạn đanh chắc gọi theo tiếng còi báo động. Đèn tắt. Những
mái nhà bưu điện, cửa hàng Bách Hoá Tổng hợp vừa lờ mờ hiện ra trong ánh sáng lại
nhoà hẳn trong đêm.
Về sau này, mọi người mới hiểu cái giây phút bắt đầu một đợt báo động mới đó có
ý nghĩa thế nào đối với Hà Nội. Không ai có thể ngờ đó là phút bắt đầu một lần
báo động dài. Đâu có nghỉ được một lát. Rồi suốt đêm 18 đó báo động. Suốt những
đêm sau báo động. Một cuộc chiến mười hai ngày liền. Một cuộc chiến không có giờ
giấc. Đến nỗi bây giờ nghĩ lại, mười hai đêm ấy giống như một đêm kéo dài, liền
nhau.
*
Lạ ư? Hình như bề ngoài chẳng có gì là lạ.
Từ tám năm nay, Hà Nội đã quen những chuyện báo động. Người Hà Nội đã quen nép
mình vào một gốc cây, ngay cạnh một hố cá nhân. Quen nhìn lên những vệt đạn xiết
đỏ không khí và đuổi theo nhau trên bầu trời đêm. Quen nghe tiếng mảnh đạn lách
cách trên mái nhà, rơi một tiếng đánh xẻng xuống cái chậu thau đồng ngoài sân.
Quen cả sau báo động, người lại tấp nập.
Người vào quán bia, người đạp xe trên đường.
Có một dạo, mọi người đều tưởng chiến
tranh ở Hà Nội chỉ có thể là như vậy. Bây giờ thì chúng ta hiểu đấy là cuộc chiến
đấu hôm qua, cuộc chiến tranh chống bọn Giôn Xơn. Nó đã thành ra có phần xa
xôi, như cuộc kháng chiến chống Pháp rất xa xôi. Những ngày cuối tháng Chạp
này, chúng ta có một Hà Nội khác. Hà Nội không thể nhởn nhơ. Hà Nội một thoáng
kinh hoàng cũng là Hà Nội rắn đanh lại, không thể chết nên phải cố sống. Những
ý nghĩ đó, sau này lần lần mới rõ, nhưng đã nhen nhúm ngay từ đêm đầu tiên.
*
… Tôi biết bắt đầu từ ai được?
Không hiểu sao, mỗi lần nhớ lại đêm báo động
đầu tiên, tôi cứ nhớ đến Tâm, một cán bộ có tuổi cùng cơ quan. Lúc ấy gần mười
một giờ đêm, những người trong cơ quan đi đâu cũng đã về đủ. Một số vào gầm cầu
thang. Một số ra hầm ngoài sân. Vừa lắng nghe bom, vừa nói chuyện. Tất cả gặp
nhau ở một ý nghĩ, sao chuyện này bất ngờ thế. Người kể lúc nãy mình đã phải xuống
hố cá nhân. Người nhớ lại nỗi lo về những ngọn đèn khi ra đi không kịp tắt. Rồi
bàn về ngày mai ra sao. Trong đêm tối, người ta lại càng hay nói. Dấu hiệu của
sự sống lúc này chỉ còn là tiếng nói. Ngóng đợi. Bàn tán.
Nhưng mà nói chuyện mãi thế nào được, cánh
thanh niên chúng ta, anh còn lạ gì? Được một lúc, tôi về phòng. Báo động, rúc đầu
vào chăn, tôi nghe thấy tất cả mà mơ hồ chẳng nghe được gì. Riêng Tâm, anh ấy
làm sao mà “quên mọi chuyện” dễ dàng thế được? Thử đặt địa vị mình vào người
cán bộ gần năm mươi tuổi đó, còn thiếu chuyện gì Tâm không nghĩ trong đêm. Chỉ
biết mỗi lần, nghe tiếng nổ rát quá, tôi mắt nhắm mắt mở chạy ào ra gầm cầu
thang, đã thấy anh ngồi thu lu ở đấy; lúc tôi quay vào, trong số người còn lại,
có anh.
Gần bốn giờ sáng có lệnh sơ tán, Tâm lục cục
buộc sửa đồ đạc. Anh vốn tính cẩn thận - bây giờ ở mình muốn biết một người cẩn
thận cứ nhìn cái xe đạp anh ta đi, và cách anh ta tính toán để chạy bom thì biết.
Tâm phải đi ngay, vì lo gần sáng, có B.52.
Sau này, Tâm sẽ tâm sự với chúng tôi:
- Đi ra trong đêm. Đằng trước bom, đằng
sau bom. Mọi khi đến độ Mai Dịch là chắc yên. Bấy giờ càng ra xa càng thấy nhiều
đạn lên. Nhìn lại, có chỗ Hà Nội cháy. Một thứ lửa kinh thành mình nghe từ nhỏ,
bây giờ mới được chứng kiến.
Đúng ra thời kỳ này Tâm đang phải đi sơ
tán. Chẳng qua là anh lần khân, ảo tưởng. Nhưng mà những ngày trước đó, có ai
không ảo tưởng? Hôm trước, trong một buổi đi xem chiếu bóng về, Tâm kể mãi về
cái không khí mùa xuân đang dần dà đến với thành phố. Đêm báo động dứt đi của
anh một buổi nghe nhạc ở nhà một người bạn.
Một con người của đời thường là thế. Cái
điều duy nhất làm tôi luôn luôn nhớ: Có một anh Tâm trong tất cả chúng tôi.
*
Nhưng lại có chúng tôi, có Tâm trong nhiều
người khác.
Buổi sáng ngày 19, trời Hà Nội lấm tấm những
hạt mưa. Ngày bắt đầu hơi muộn, trời đất nhợt nhạt, tiếng nổ cầm canh từ một
kho đạn bên kia sông chậm rãi đánh dấu thời gian. Nhiều mắt người Hà Nội cùng
nhợt nhạt sau một đêm thiếu ngủ.
Tôi đi ra phố, nhiều cửa hàng vẫn mở như
thường lệ.
Tôi đi ra mạn bờ sông. Mưa ướt những lượt
ván cầu phao. Chưa thấy mấy người qua lại. Ở một phố vắng gần đấy, mấy người
công nhân chữa xe vẫn thản nhiên làm việc như không có gì xảy ra.
Chỉ vào từng gia đình, mới bắt gặp một cái
gì lay động. Lay động nhà cửa, những nhà tranh vách đất xóm nhỏ lao động mà gia
đình tôi ở. Những bức ảnh trên tường rơi xuống - lay động kỷ niệm, lay động
thói quen. Và tí nữa thì cái đồng hồ để bàn rơi xuống - lay động cả thời gian.
Lại thấy thêm một đức tính của người Hà Nội chúng ta, tính nhạy cảm. Hôm qua,
nhạy cảm là thanh lịch tinh tế trong làm ăn, đối xử. Hôm nay, nhạy cảm là biết
cảm thấy bom đạn mà tránh. Cái sự nhạy cảm ấy của thành phố chúng tôi sẽ được
chứng kiến suốt trong những ngày về sau. Người vắng hẳn đi trong những buổi tối,
những buổi trưa. Nhiều gia đình ăn cơm sớm hơn thường lệ, cứ gà lên chuồng là
đã vác chiếu ra hầm. Nhiều người rút được quy luật máy bay oanh tạc sau mấy
ngày đầu. Thêm nhiều bà con đi sơ tán.
II
Ngay khi bắt đầu chắp nối những chuyện
này lại, tôi đã ngại. Bây giờ mà còn kể với nhau về những ngày tháng Chạp 72
thì cũng đã muộn. Tôi vừa nói vừa ngại. Từ đó đến nay, đất nước bao biến động,
thủ đô bao nhiêu thay đổi cần phải nói. Nhưng tôi cứ tin khi ở chiến trường trở
về, thả nào anh cũng hỏi tôi về Hà Nội trong những ngày ấy. Bây giờ ở nơi xa
anh cũng đang hỏi. Mười hai ngày Hà Nội dưới tầm B.52 đã thành cái mốc của lịch
sử, cái mốc của tâm lý. Nó nói với chúng ta về một phía của những năm chiến
tranh. Nó nói về cuộc sống đất nước - nó hằn sâu trong tâm trí mỗi người đến nỗi
có thể là phần bắt đầu của mọi câu chuyện của những đứa con Hà Nội khác nhau.
Có điều, có một chuyện phải nói sớm: phải
hiểu Hà Nội thế nào cho đúng. Anh đừng hình dung Hà Nội những ngày ấy chỉ như một
nạn nhân. Bằng mọi cách, bọn tôi bảo nhau chống lại lối nghĩ như vậy. Để nói về một khía cạnh Hà Nội thì được. Nhưng để nói chung về Hà Nội thì không được. Nói
chung, phải xem Hà Nội như một người lính buộc phải chiến đấu. Để tồn tại bình
thường đã phải chiến đấu.
Chắc tôi lại dọn đường để nói về những
chiến sĩ bảo vệ Thủ đô - anh nghĩ. Cũng gần đúng. Trong những ngày Hà Nội tháng
chạp, nhiều đơn vị cao xạ đã chiến đấu một cách tài giỏi. Nhất là các đơn vị
tên lửa, ở đấy có nhiều anh em Hà Nội, nhiều sinh viên các trường đại học mới
nhập ngũ. Họ là những người vào báo động cấp một khi nhiều người còn nhẩn nha
đi lại. Họ là những người phơi mình trên mặt đất, khi những người khác nép dưới
hầm sâu. Họ là hình ảnh mà tất cả mọi người nghĩ tới, nếu nói về cuộc chiến…
Nhưng giờ đây, tôi muốn nói với anh về những
người gánh chịu cuộc chiến đấu. Những người cảm thấy bom thả vào bất cứ chỗ nào
trong thành phố đều là trúng vào công việc của họ. Những người giữ cho thành phố
sống, khi kẻ địch muốn nó thành một thành phố chết.
*
Nhà máy điện của chúng ta thuộc loại đã
già, nhưng người tiếp chuyện tôi là một kỹ sư trẻ. Bộ quần áo anh mặc là bộ đồ
màu xanh công nhân đã hơi bạc. Anh vừa đi lò về. Anh cho biết, có khi quệt tay
lên mặt, thấy bụi than ăn thành từng. Giọng đều đều, anh kể:
- Cái chính là chúng tôi biết rằng nó sẽ
đánh vào nhà máy. Đó là một điều làm cho mọi người như có thể yên tâm hơn mà
chuẩn bị đối phó, không bao giờ phân vân, ngần ngại. Một thứ áo giáp mà chúng
tôi sớm tìm cách lo liệu cho máy móc: những bao than xỉ. Máy móc trông xù ra,
những bộ phận quan trọng nép mình trong sự che chở của những bao tải mục. Cũng
là một thứ đi sơ tán. Sơ tán ngay ở Hà Nội.
Bấy giờ là buổi trưa. Lúc chúng tôi đến
nơi, khói bom bốc lên dày đặc và ngoài thành phố, còn đang báo động. Chúng tôi
chạy giữa đường phố vắng vẻ để đến cứu nhà máy - mỗi người đã có sẵn một giấy
giới thiệu là công nhân nhà máy điện để tình thế đường xá khó khăn thế nào cũng
đi lọt. Vứt xe đạp một chỗ là chúng tôi bắt tay vào dọn dẹp, dọn cho đến khuya.
Đêm đầu tiên, đến cả điện đi-ê-den cũng mất.
Những khối bê tông đen sẵn lại càng như đen kịt lại. Cái nhà máy vốn phát ra tiếng
động mọi khi hôm nay im bặt. Đi bên
ngoài có khi còn cảm thấy nó như phát ra hơi lạnh nữa!
Những
ánh đèn pin loang loáng. Đó là những dấu hiệu hoạt động duy nhất còn sót lại.
Chúng tôi rất ít nói với nhau. Ngày cũng
như đêm, sự nối tiếp vào thế giới bên ngoài trông vào một đồng chí gác. Đồng
chí này đứng bên loa. Hễ có báo động, anh gõ kẻng báo cho mọi người. Theo một
cây cột thép làm cột tụt, mọi người lần lượt lao từ nơi đang làm việc xuống hầm
sâu.
Những cán bộ kỹ thuật chúng tôi gọi giai
đoạn dọn dẹp đầu tiên cũng là giai đoạn điều tra. Trong khi những người khác mới
thấy nhà máy đổ thì chúng tôi phải hình dung ra nhà máy được khôi phục. Những
nét đầu tiên của phương án sửa chữa được vạch dưới ánh đèn dầu.
Sống
chết với nhà máy này từng ấy năm, nhưng chính phút cảm thấy gắn bó với nó nhất
lại là những lúc làm việc không có điện. Chúng tôi thức bốn đêm liền. Cho đến
khi cái lò đầu tiên bắt đầu chạy.
- Anh có bao giờ cảm thấy buồn vì Hà Nội
thiếu điện?
- … Có lẽ cũng vì bận quá, nên không cảm thấy
buồn nữa. Khi ngơi việc một tí để kịp nghĩ ngợi thì đã có điện rồi.
Tôi không hối hận vì đã hỏi anh một câu hỏi
ngớ ngẩn. Trong câu trả lời, tôi vẫn tìm được một cái gì đó.
*
- Khoa
gây mê như là cái cửa ngõ của bệnh viện. Người làm việc gây mê hồi sức là người
nhậy cảm với tất cả nỗi đau của mọi người.
… Đó là điều mà tôi nhớ hơn cả, khi nghe
người bác sĩ ở một bệnh viện lớn của Hà Nội kể chuyện. Ngay trong điều kiện hoà
bình, tôi đã hình dung công việc cứu chữa người như một trong những công việc
chịu nhiều hy sinh nhất. Bây giờ lại đang những ngày chiến tranh. Tôi thử đặt
mình vào địa vị một nhân viên bám viện trong mười hai ngày đánh phá. Cả ngành y
tế phải gánh chịu những nỗi đau của thành phố. Mà bệnh viện là trận địa.
Không biết đến tôi là người thứ bao nhiêu
nghe chuyện của người bác sĩ ấy. Vậy mà tôi vẫn bắt gặp những thoáng mắt anh chớp
chớp như là rơm rớm nước mắt khi kể về những bệnh nhân của mình, nhất là khi kể
về một đứa trẻ.
Người ta đưa em đến viện vào một ngày
quãng giữa đợt đánh phá. Người em đầy bùn, chỉ còn khuôn mặt lau sạch, mà chân
cẳng thì dập nát, lúc nào cũng đắp tạm một cái chăn cũ. Mọi người kể em đã sơ
tán ra một khu vực ngoại ô. Cái phạm vi ngoại ô gần như tuyệt đối an toàn trong
bom đạn lần trước, và bỗng trở nên nguy hiểm nhất trong đợt B.52 lần này!
Một bữa, bố em đã cảm thấy khu vực sơ tán bị
đe doạ, muốn đưa em đi. Em bảo thôi để con lại con học, cuối năm con thi. Bây
giờ, em chỉ còn biết khóc.
- Chú ơi, cháu có sống không.
- …
- Chú ơi, cháu đau lắm. Chú cho cháu ngủ
đi, các chú mổ cháu sau.
Chính em bé cũng không muốn chứng kiến nỗi
đau của em. Nhưng người bác sĩ phải đối mặt với nó. Người bác sĩ giáp mặt với hậu
quả mỗi cuộc ném bom. Những nhân viên y tế lau đi từ những vệt bùn đất đến khói
đen trên mặt người. Tôi nhớ đến câu chuyện của một bác sĩ quân y ở một đơn vị
ngoài tuyến trước. Theo lời anh kể, những lần đơn vị xuất kích, nhiều cán bộ đại
đội, trung đội đến nắm tay anh. Họ biết có lúc tính mạng mình trông mong vào
đôi bàn tay của người bác sĩ. Trong những ngày chiến đấu, cả thành phố cũng
nhìn vào cái bệnh viện của mình giống như vậy.
*
Tôi đã lặp lại mọi người, khi bắt đầu kể về
điện và bệnh viện ở Thủ đô trong mười hai ngày đêm ấy.
Nhưng anh biết cho, làm sao mà nói tới thủ
đô lại không nói tới điện?
Điện làm Hà Nội sống lại trong những ban
đêm thành phố không ở đâu có. Với điện, thủ đô rực rỡ trong vẻ nửa thực nửa mơ
của mình.
Điện chở tiếng nói của đất nước đến các miền
xa, và hình như nhờ vậy. Cả đối với những người chưa một lần đến Thủ đô, Hà Nội
cũng trở thành một ý niệm cụ thể, tưởng xa xôi mà hoá ra gần gặn.
Điện làm cho cả thành phố thống nhất lại
trong một mạng lưới thống nhất.
Bởi vậy, địch đánh vào bất cứ chỗ nào của
Thủ đô cũng là đánh trúng điện. Trong những chiếc xe phóng đi trên đường đầu
tiên sau một đợt bom nổ, có những chiếc xe của sở quản lý và phân phối điện.
Công việc khôi phục một khu vực được tính là hoàn thành cùng cái lúc người công
nhân chữa điện thu dọn đồ đạc, và em nhỏ trong gia đình bật thử công tắc đèn
ngay giữa ban ngày.
So với những vùng nông thôn, cái chất
riêng của thành phố khi đối đầu với chiến tranh có lẽ là ở chỗ ấy, ở mối liên
quan giữa tất cả các điểm, các bộ phận trong một số phận chung, và tất cả mọi
ngành công tác đều được huy động ra chiến đấu và khắc phục hậu quả.
Một đoạn cống ngầm ở Khâm Thiên bật tung,
thành cống xây xi-măng bị rạn ra, trông như những tảng đá hộc ghép tạm. Phải
phá cả đi, xây lại. Phải đóng cọc, đổ móng từ đầu. Suốt một tháng sau đó, đi
qua đoạn cống, bao giờ tôi cũng nghe tiếng máy bơm xình xịch. Hai máy cùng chạy
mới kịp cho người làm.
Lặng lẽ hơn, là phần việc của người nhân
viên bưu điện. Trong mấy chục hòm thư rải rác trên đường và trong các ngõ Khâm
Thiên, bao nhiêu hòm bật tung - có ai đến thăm Khâm Thiên để ý? Chỉ có một vài
bác già ngay sau tiếng bom nổ là nhớ tới tất cả những hòm thư ấy, và những ngày
sau lầm lụi đi tìm kiếm, sửa sang lại bộ mặt cho chúng.
Sau một đợt ném bom, điện thư ùn ùn từ các
nơi đánh về thăm hỏi. Sẽ có những lúc người nhân viên bưu điện cầm lá thư trong
tay, sững sờ trước một căn nhà đổ nát, và phải dò hỏi xóm giềng mới tìm được đến
nơi người chủ ngôi nhà cũ tạm trú ngụ.
Những chiếc xe rác rất lâu về sau mới chở
hết gạch vôi vụn nát ra khỏi thành phố.
Và có thể một vài năm nữa, hàng chục năm nữa,
người công nhân cầu đường, người thợ đặt ống dẫn nước còn chạm phải những vết thương
do bom đạn gây ra, tận trong những tầng sâu mặt đất Thủ đô.
Tôi muốn trở lại cái chữ mà người bác sĩ ở
bệnh viện nói với tôi cuối cùng khi kể về đợt đánh B.52: “Những di luỵ của chiến
tranh” Cái phần di luỵ ấy, những người làm công tác y học cảm thấy rất rõ trên
da thịt con người, nhưng cả thành phố mãi mãi cảm thấy trên những sinh hoạt bề
mặt, và tận bề sâu tâm lý của những lớp người Hà Nội khác nhau.
III
Anh cũng biết đấy, lâu nay trong số trong
số những người bạn cùng lớp cũ, nhiều người chúng ta vẫn coi Thảo như một người
con gái “rất Hà Nội”. Giả sử như anh đi xa về, hoặc tôi, sau một chuyến đi sơ
tán lâu lâu, lần nào cũng vậy, muốn trở lại với một cái gì ổn định của Hà Nội, chúng
ta tìm đến nhà Thảo.
Sao ở ngay cạnh một đường phố lớn của Thủ
đô lại có một cái ngõ vắng như thế, toàn những nhà gác giản dị, xinh xắn; để rồi
trong một căn gác đó, có một cái phòng con giản dị xinh xắn, cửa sổ xoà bóng một
cây hoàng lan, phòng của Thảo.
Vào đấy, chúng ta ngồi uống nước trên mấy
tấm phản kê sát xuống sàn đá hoa thứ mặt ghế ngựa nước gỗ bóng loáng, ta đặt
tay lên cái bàn lim chắc chắn, nhũn nhặn. Ta bắt gặp những chồng sách xếp dày,
quyển nào cũng bọc bằng một thứ giấy bóng mờ, thứ giấy người mê sách xưa trữ
riêng để bọc sách.
Có những cánh hồng nhung rơi xuống mặt
bàn trải một tấm khăn thêu thanh nhã - cánh hoa rơi từ lúc nào mà còn đậm đà một
sắc đỏ thắm thiết như thể vừa rơi. Tất cả ở đấy, giản dị, thanh nhã. Tưởng như
chiến tranh không thể len mắt vào đây - đã một lần nào, một người bạn nhận xét
vậy. Gian phòng nền nếp đến nỗi những ngày gần đây đôi lúc bọn tôi đâm ngại có
ít đến chơi. Một dịp nào đó, tôi chợt nhận thấy điều ngại ngùng ấy, và tôi tìm
ra lý do: chỉ vì ở đó mọi thứ tĩnh lặng quá.
Những ngày này, bạn bè chúng ta chia đi
khắp nơi, mỗi đứa bận bịu vì bao nhiêu việc, mỗi đứa một thằng hay vội.
Còn Thảo, Thảo không thế, Thảo ít biến đổi
đến nỗi tưởng như cô vẫn đứng nguyên trong cái quá khứ êm đẹp của chúng ta.
Tôi đã nói hơi kỹ về Thảo - bởi anh hẳn cũng
đoán ra, kỳ này Thảo cũng bị “lôi vào cuộc” như người ta thường nói. Theo chính
lời cô kể, chúng ta có thể tưởng tượng ra một phía của Hà Nội trong thời gian
mười hai ngày.
Những buổi tối báo động, cô ngồi trên
căn phòng nhỏ của mình, sẵn sàng lao xuống gầm cầu thang. Cái chính là ngồi đấy
cô sống hết với mọi diễn biến bên cạnh nhà, dưới đường, trong cả thành phố. Mọi
khi ai đến chơi, có hỏi về những chuyện xóm giềng thì Thảo tỏ ra không biết - chính
là cô cố làm như vậy. Hôm nay, theo lời cô kể, ngồi trong đêm báo động, cô nhớ
lại cuộc đời những người hàng xóm như cô đã biết. Ban ngày, cô chia sẻ nhiều
câu chuyện, nhiều nỗi lo với họ, và chính nhờ thế, cô cảm thấy đỡ cô đơn. Những
người ở mấy gian buồng tầng dưới nhà Thảo người nào ở lại cũng tìm đến nhau. Họ
chuyện trò đúng nghĩa hàng xóm láng giềng.
Đến nhà Thảo trong những ngày ấy, tôi có
thể đọc được những đổi mới ngay từ ngoài cửa. Một hàng chữ viết bằng phấn hằn
lên trên nền gỗ sơn lâu ngày đã loang lổ. “Thảo theo trường đi sơ tán”. “Nam về
thì lấy chìa khoá ở bác Tài”.
Xưa nay, Thảo chưa hề làm thế. Những người
con gái Hà Nội kín đáo không thích người ngoài vừa đến cửa đã có thể biết người
trong nhà có những ai và tên là gì. Bây giờ thì mọi người đâm ra cởi mở hơn bao
giờ hết. Những cánh cửa có dòng chữ viết vào đấy đứng đối diện như những căn
nhà đang nói chuyện với nhau.
Phần lớn chúng tôi bây giờ có một cuộc sống
khác Thảo. Nhưng chúng ta vẫn quý một Hà Nội như vậy. Sau này, Thảo còn kể với
tôi về một kỷ niệm. Những ngày cuối đợt đánh phá, trong lúc chuẩn bị đi sơ tán,
tự nhiên “giời cho” cô mua được một chục cúc rất đep. Chưa bao giờ cô có những
bông hoa vừa ý như vậy, cánh hoa dày, vồng chắc khoẻ, sau khi cô đi sơ tán mấy
hôm về, lá xanh rụng cả cánh hoa xác xơ, mà trông vẫn còn ra hình ra vóc. Mặc
dù chỉ đuợc sống với nó có mấy tiếng đồng hồ, cô vẫn nhớ mãi. Cũng chẳng sao,
nó là hình bóng của cô ở lại với căn nhà - ở nơi xa cô nghĩ. Anh thấy đấy, sau tất cả những biến đổi, vẫn có một
cô Thảo cũ, Thảo chỉ cứng cáp hơn, lịch sự hơn.
*
Nếu
ai hỏi đâu là đặc trưng cho Hà Nội của tôi, tôi - cũng như nhiều người - sẽ nói
đến phố xá. Đối với những người như chúng ta, Hà Nội chưa phải là một gian
phòng đủ tiện nghi, một “tổ ấm” riêng tư. Nhưng giá kể có tất cả những thứ ấy,
tôi vẫn nghĩ nhiều đến phố xá. Tôi thích những phố đông, ở đấy nhiều những bộ mặt
Hà Nội khác nhau, những cảnh ngộ khác nhau. Tôi càng yêu những phố vắng, ở đấy,
lại được ngắm nhìn từng kiểu kiến trúc, từng vòm cây, chậu hoa - khi cần, có thể
đi thật chậm rãi ngắm nghía mà không sợ làm phiền ai hết. Mỗi người Hà Nội đều
còn nghèo, căn phòng của chúng ta còn hẹp. Nhưng mỗi người Hà Nội lại rất giàu,
giàu với cả phố xá ngoài kia.
Tôi đã nói trong mười hai ngày tháng chạp
1972, mỗi người Hà Nội nhận lại chính mình, và nhận lại cả thành phố. Thì mỗi
người cũng nhận lại từng căn nhà, từng góc phố, những đường phố của Thủ đô.
… Phố xây nên từ những làng, những phường
buôn bán cũ. Đường phố nhỏ, nhiều khi không được thẳng, nhà xây còn thụt ra thụt
vào ít chút. Phố nhiều nhà lợp ngói lá đề, màu ngói cổ như màu áo của những người
mẹ người chị một thời mà bây giờ, chỉ ở nông thôn, người ta còn mặc. Và sau quầy
hàng buôn bán, nhìn sâu vào trong lòng nhà, còn thấy những đôi câu đối, những
chậu hoa, đôn sứ, như thể ở những làng quê…
Đối với
những người khác thế nào không biết, đối
với tôi, đối với những người ở khu Bắc thành phố như cánh ta, Hà Nội trước hết
là những dãy phố ấy, phố buôn bán, phố nghề thủ công, những Hàng Đường Hàng
Khoai, những phố Lò Rèn bây giờ còn đập lò, những Hàng Vải Thâm, đi qua rất nhiều nhà bán cần câu và bột đá. Những phố buôn bán
sầm uất của Hà Nội cũ.
Những
phố tưởng như không lúc nào vắng người, thì vào những ngày này có lúc trở nên rộng
ra một cách đáng ngại. Mặt đường thoáng đãng - có phố hiện ra là một cái dốc,
có phố hai đầu cao, ở giữa võng xuống, chả trách những ngày mưa, nước cứ đọng lại.
Và khi có việc phải đi qua, tôi chú ý tới cả cái phần trước không bao giờ chú
ý, cái chất đất ở dưới lòng phố. Cái hố cá nhân nói với tôi điều đó. Ở Hàng Đường,
các hố thường có nước, ở mặt sau, phố Hàng Cân chẳng hạn, các hầm khô sạch hơn.
Bây giờ tôi muốn đưa anh trở về mấy cái
phố chung quanh nhà máy điện. Riêng với chúng ta, nó là những phố nhiều kỷ niệm
từ nhỏ, nó cũng là một ít phố độc đáo của cái khu bắc mà chúng ta thân thuộc. Cửa
Bắc và Hàng Bún, Hàng Than và Nguyễn Trường Tộ, Châu Long và Yên Ninh. Ngay từ
những ngày đầu chiến tranh, người ta đã chú ý tới những phố ấy. Mấy năm 1965 -
66, ở đâu còn dềnh dàng, ở đấy người ta đã phải cuốn đồ đạc chạy, và gần như là
chạy hẳn. Nhiều gia đình cửa giả mang đi, nhìn ngoài đường vào cứ thông thống,
như một thứ nhà hoang. Lại thêm màu một thứ thuốc đen mà người ta xì vào các tường
nhà để hòa lẫn nhà máy điện với không gian chung quanh. Ban ngày trông đã hoang
vắng, ban đêm lại càng thăm thẳm.
Vào cái đêm 24 tháng chạp, đêm Noel tạm ngừng
tiếng súng, tôi đã đi lần lần trên vỉa hè những đường phố đó. Tôi nhẩm lại những
gia đình quen. Tôi ngước lên nhìn những cửa sổ không một chút ánh sáng. Những
tán bàng thu mình, như chết đứng ở đó. Dưới chân, nhiều chỗ cỏ đã mọc từ lớp đất
không hiểu vì sao bồi dày một vài góc vỉa hè. Lá bàng rụng, lá rụng từ bao giờ,
gió xô nép cả vào chân tường. Căn nhà ngay bên đường cổng ngỏ. Thử vào một
chút? Nhưng nhỡ có ma?! Một ý nghĩ hình như chỉ có trong những năm còn rất bé bỗng
ở đâu trở về, tôi tự cười thầm, mà cố tìm cách cắt nghĩa vì sao lại nảy ra ý
nghĩ vậy. Cái chính là căn nhà đã vắng quá.
Quành về phía dưới, tôi bước trên đoạn phố
đầu đường Nguyễn Trường Tộ, nơi nối vào Hàng Than. Đã thành lệ nhiều năm, bao
giờ khoảng gần tết đến đây, tôi cũng nghe mùi hăng hăng của quả xanh, mùi những
quả bí người ta thái làm mứt Tết. Hôm nay căn nhà tổ hợp tác không còn vẻ huyên
náo thường có. Dưới chân tôi, lớp vỏ bí gọt lâu ngày phơi khô cong.
Cả phố toát ra vẻ lam lũ. Chỉ thỉnh thoảng
lắm, giữa những mái nhà cúi mặt trong đêm, thấy hé ra những ánh đèn. Có khi là
một ánh đèn điện đỏ lờ mờ nơi một gác xép, nó như một con mắt thức. Người đi đường
thoáng lo: số phận những người trong căn phòng đó ra sao, nhỡ có chuyện gì xảy
ra ai lo cho họ? Nhưng thấy được một dấu hiệu có người, vẫn là vui vui, nỗi vui
đồng cảm giữa những người cùng sống chết với một thành phố. Chúng tôi cùng sống
trong đêm. Thành phố đã góp lửa lại để chiến đấu những đêm qua, và trong những
đêm tới. Thành phố trong đêm im lặng sẽ là thành phố rực sáng khi địch đến, và
đó sẽ là một thứ lửa kinh thành mới, thêm vào thứ lửa kinh thành mỗi chúng ta từng
đọc trong sách vở ngày trước.
IV
Chắc trong thành phố có nhiều đám bạn bè
như tốp thanh niên chúng tôi - trong đó
có những đồng nghiệp mới, do nghề nghiệp mà tôi phải làm quen, chính anh cũng
chưa biết. Bọn tôi ở nhiều khu phố khác nhau, nhưng thích tụ tập. Cả bọn làm
công việc động, thường đi công tác ở các tỉnh, cho nên tụ tập lại là nói đủ mọi
chuyện mà mỗi người biết. Vào những ngày “có việc” của thành phố, các thành
viên lại càng có ý tìm nhau, như là muốn bàn luận một số điều cùng chứng kiến.
Những điều tôi ghi lại là của người nọ người kia nhưng nói cho đúng, bao giờ
cũng là có một phần của tôi trong đó - Xin anh thứ lỗi cho một số đoạn như là
cao giọng dưới đây.
- Những ngày này, chính là nhiều người Hà
Nội đâm ra hay nói. Nghĩ để nói được một điều gì đó, tiếng nói đó cùng với tiếng
súng chứng tỏ rằng Hà Nội lúc nào cũng sống, phải không các ông? Tôi nhớ một cậu
ở chiến trường kể ngay ở chốt, cũng phải tìm cách duy trì sinh hoạt đơn vị.
Sinh hoạt là hơi thở của quân đội. Nếu phân tán ra cho mỗi người ngồi một góc,
lại dễ sinh ra tư tưởng lắm. Hà Nội bây giờ cũng thế.
Không hiểu sao, nói về Hà Nội đánh nhau là mình
lại nhớ quyển Sống mãi với Thủ đô của
ông Nguyễn Huy Tưởng, mà trong quyển Sống
mãi… ấy lại nhớ nhất một đoạn tác giả kể, đêm 19 tháng Chạp ấy, một thanh
niên là Nhật Tân làm một bữa nhắm thật sang, rồi ra đường, “túm” bừa bốn người
không quen biết, chỉ tình cờ đi qua, bắt họ vào ăn với mình. Vừa ăn, họ vừa bàn
luận về Hà Nội; nghĩa là cao đàm, khoát luận, cũng dài dòng mà cũng sâu sắc.
Chúng ta đọc và chúng ta hiểu. Chẳng qua tác giả mượn mồm các nhân vật mà nói một
ít suy nghĩ của mình về Hà Nội. Nhưng mà nói như thế thì hả thật, tôi vẫn thấy
đấy là một trong những chương hay nhất của Nguyễn Huy Tưởng.
- Hãy để cái Sống mãi với Thủ đô của ông ấy sang một bên. Trong ý kiến của cậu,
mình chỉ thấy nên phát triển cái ý này: Đúng Hà Nội trong những ngày đánh B.52
đã trở thành một thứ chốt, một thứ cửa tử rất ác liệt.
Không hiểu các cậu thế nào, mình nghiệm thấy
chịu đựng bom đạn ở Hà Nội hoàn toàn không giống chuyện chịu đựng bom đạn ở mọi
nơi, ở chiến trường, bom đạn nổ ngay bên cạnh hầm cũng có thể cứ nằm trong hầm
mà ngủ, đất có chuyển kệ nó. Nhưng ở đây, không thế được, ở Hà Nội, nó đánh ở
đâu, cũng cứ như là ở ngay bên cạnh, có cảm giác như mọi nhà đều liền tường, phố
liền phố, ngõ liền ngõ.
Ngoài bom đạn, lại còn lo bao nhiêu chuyện nhà
sập, ngói đổ, rất dễ bị thương, mà người thì nhiều quá. Mình vốn yếu lòng. Thường
mình không thể chịu được tiếng trẻ con khóc. Những ngày này, trông thấy các vị
bố mẹ doạ chúng nó, rồi chúng lại hết hồn sợ hãi vì bom, nhưng vẫn cứ thập thò
thập thò ở cửa những chuyến xe ô tô đi sơ tán chẳng hạn, thì mình cho thế cũng
đã là một thử thách lớn lắm đối với mỗi người Hà Nội rồi, những người ở lại bám
Hà Nội chiến đấu lúc này càng phải nhớ tới những cảnh ngộ đó, mà bắt kẻ địch phải
trả một cái giá cho xứng đáng.
- Buổi sáng hôm 27, tức là sau cái đêm nó
đánh Khâm Thiên, tôi là một trong những người có mặt sớm nhất ở đấy. Sau này, nghe
kể, đêm hôm trước, người còn vắng ngắt, có một số người sau loạt bom, cảm thấy
như được sống sót, hãy cứ lặng lẽ, cúi mặt xuống mà đi ra khỏi cái khu vực ấy,
đến một quãng nào đó, mới sực nhớ ra, chợt tỉnh ra, quay lại cứu những người sập.
Giờ nói chuyện sáng hôm sau khi tôi đến, thì người ta đã cứu được một số kha
khá. Một số không cứu được nữa thì được đặt thành hàng bên hè, người nào mặt
cũng xanh như tàu chuối.
Tôi xin nói thêm một hình ảnh, nó nằm
trong cái ý con người và đất mà một lần tôi đã nói. Buổi sáng hôm ấy, rất nhiều
thân nhân đến nhận người chết, và những người sống lúc áy loay hoay đi tìm cái
gì các ông có biết không? Đi tìm một nắm đất để cắm hương. Đến lúc có một nắm
hương cắm ở trên đầu, thì mỗi người chết mới được coi như có người nhận. Hương
bay nghi ngút. Tôi ngửi mùi hương mà nghe sờ sợ, đến nỗi những ngày sau, về nhà
bà cụ tôi có thắp hương, là tôi phải tránh cho xa.
Tôi kể lại chuyện trên này để làm gì? Để
các ông tin rằng không ai lại bàng quan với những đau thương của Hà Nội trong
những ngày qua. Nhưng tôi nói thêm: tôi cho rằng chính vì thế, mà lần này Hà Nội
đứng ở đúng tầm của mình hơn. Hà Nội hiểu được các nơi khác, và bất cứ mảnh đất
nào ở Nam hay ở Bắc cũng cảm thấy gần gũi hơn với Hà Nội. Còn những người lính ở
chiến trường về sẽ nhìn ra một Hà Nội với tất cả mọi khía cạnh của nó, khía cạnh
nào cũng được đẩy đến mức mãnh liệt.
- Đồng ý, đồng ý đấy! Lâu nay mình vẫn có một
cái bực, bực vì người ta vẫn cho là Hà Nội đứng xa chiến tranh quá. Làm sao mà
thủ đô một đất nước có chiến tranh lại đứng xa như vậy được, hãy nhìn lại xem,
cuộc sống chiến đấu thâm nhập vào Hà Nội theo cả hai chiều xuôi ngược. Một mặt
thì người Hà Nội toả đi các nơi, con trai khoác áo bộ đội, con gái vào thanh
niên xung phong phục vụ trong Trường Sơn. Chẳng phải là rất nhiều cậu kể trên
tuyến đường nọ -- hình như đường 20 thì phải - có những tốp nữ thanh niên Hà Nội
vẫn sống rất lịch sự. Họ làm đường phá bom rất giỏi, nhưng trong đêm liên hoan đầu xuân lại xuất hiện trong những
tà áo dài may từ dù pháo sáng. Đến đâu, họ cũng vẫn nhớ họ là người Thủ đô. Đấy
là một mặt. Mặt khác, những nếp sống ở chiến trường cũng tràn về Hà Nội, và đây
là một mặt thứ hai, mặt này cũng rất quan trọng, chỉ vì nó đến dần dà mà không
ai nói rõ ra.
-- Chắc
các ông còn nhớ những cảnh thế này: một buổi sáng nào đó, trên quãng đường nhựa,
một đại lộ lớn chạy ngang thành phố, chúng ta chợt gặp một vài chiếc xe tải, đỗ
dọc vỉa hè, trên nóc mỗi xe mắc một chiếc màn trắng dây màn buộc túm vào cành
cây, sáng bảnh rồi người ngủ trong màn cũng chưa thèm dậy, chắc hẳn hôm trước
anh ta về đến đây đã muộn… Có phải đấy là dấu hiệu của những nếp sống chiến trường
tràn về thành phố?
- Lại còn những ông bộ đội nhà mình đeo ba
lô dày cộp và mặc bộ quần áo trên mặt vải còn khâu những mẩu dây nhỏ để buộc
nguỵ trang, hay những ông không đeo xắc mà đeo cái túi mìn định hướng đi lại
thoải mái nữa chứ?
- Những cái đó thì khỏi phải nói, mình cho
là những bóng dáng nhắc nhở có ý nghĩa thường xuyên nhất rồi, chính nó làm cho
mình nhớ đến chiến trường. Để mình nói tiếp, đấy Hà Nội của mình như thế đấy,
cùng là đổi mới bao nhiêu nếp sống nữa, vậy mà nó vẫn bị gán cho là vô can, và chính
mình cũng nghĩ là nó vô can. Xưa nay, đi đâu về, mình vẫn cứ nghĩ đến Hà Nội là
được nghỉ. Trước kia, Hà Nội thường gắn với những chuyện ngơi nghỉ. Hôm nay, Hà
Nội cũng là hy sinh, chiến đấu, mà cái mức hy sinh phấn đấu của một Thủ đô,
nghĩa là có những khía cạnh lại ghê gớm
hơn ở đâu hết.
- Không hiểu các ông thế nào, lúc đầu tôi
cũng hơi lo lo về cái thành phố của mình cơ đấy. Lo dân tình xao xuyến thì ít,
mà lo người ta chủ quan thì nhiều. Quả thật, người Hà Nội mình có cái gì đó hồn
nhiên, vô tư lắm. Cho nên, trong thời gian vừa qua, bản thân tôi thú nhất là được
chứng kiến cái sắc sảo của mỗi người dân, để rồi tự mình có khái niệm đầy đủ
hơn về sự tinh tế, lịch sự của Thủ đô. Sao mà bây giờ người ta nhanh vậy! Nghe
ngóng tình hình tin tức, đoán nhận mọi chuyện, thêu dệt đủ thứ, mà như các ông
đã biết đấy, bao giờ những chuyện thêu dệt cũng có một cơ sở rất thực! Thế này
mới cừ chứ: các ông các bà ở phố nhà mình quan sát cả đường bay trinh sát của
nó để đoán ra hướng nó ném bom. Bao nhiêu trí tuệ vốn để buôn bán, để xoay xoả
lẫn nhau, bây giờ được huy động vào việc đối phó với địch - quả không có sự đối
phó nào lại tuyệt hơn thế được.
Tìm hiểu cách thức phân tích tình hình của
người dân thường nhiều lúc mình thấy rất lạ.
Nói cho đúng, họ không có lý lẽ. Họ chỉ có
một sự nhạy cảm nào đó, mà ta gọi là bản năng. Nhưng trong những ngày này, hình
như nhiều lúc lý lẽ không giải thích được mọi chuyện cho thật rõ, còn chính bản
năng lại có thể nói với người ta một ít điều sẽ đến trong đời sống. Đó là vì
thường khi cái lý lẽ của mình mới đến nửa vời, mà bản năng thì đã đi hết chính
nó. Nói thế này cho phải: đi đến cùng đường, thì cả bản năng lẫn lý trí đều gặp
nhau. Bằng chứng là những dự đoán của người dân Hà Nội trong thời gian vừa qua
đều khá chính xác.
- Thế nghĩa là theo anh, có một cái gì đó
thuộc về bí mật trong những người dân “đất thánh”, như anh em mình vẫn nói?
Cũng là một cách đặt vấn đề đấy. Còn rất nhiều bí mật ẩn giấu trong khả năng của
những người dân nơi đây, mà chỉ trong những ngày chiến tranh, chúng ta mới hé nhìn thấy, và càng ngày, càng nghĩ ra.
V
Và bây giờ tôi muốn nói trực tiếp với
anh, anh - người công dân Thủ đô không ở Hà Nội đã gần mười năm nay, và lần cuối
cùng ghé về thăm nhà đã sáu năm có lẻ. Sau cùng, với anh, với tôi, đâu là những
điều chúng ta nghĩ được về thành phố trong thời gian qua? Sau cùng, đâu là những
ý nghĩ về Hà Nội trở đi trở lại trong đầu chúng ta, một thứ ý nghĩ mà chúng ta
dựa vào đấy, như một lý do để sống?
Để bắt đầu, tôi vẫn thấy không có cách gì
khác là kiểm điểm lại quá khứ. Đó là cái năm đầu tiên Hà Nội được giải phóng. Với
chúng ta, đó là năm đầu tiên lên học Trường cấp hai. Còn nhớ trong bọn có đứa lớn
lên từ Hà Nội tạm chiếm, có đứa tuy gốc người Thủ đô nhưng theo gia đình ra
kháng chiến vừa mới trở về, chúng ta quây quần học trong mái trường có từ mấy
chục năm nay, và trong thời gian tạm chiếm, thành một trại lính — trường Chu
Văn An. Ngày ấy, mọi thứ ở thuở ban đầu, trường sở rộng rãi, cánh thanh niên cấp
hai chúng ta đã ra dáng những cậu học trò học hành nghiêm chỉnh. Ngày ấy, tất cả
đều nhịp nhàng, hòa hợp. Đường phố người đi lại vừa phải, có những bãi cỏ để học
trò đá bóng. Và những buổi đi mít-tinh, đi họp, đi lao động xây dựng Thủ đô, tất
cả thành kính, nghiêm trang. Anh có nhớ lần đầu tiên chúng ta—tôi với anh--
phát hiện ra bầu trời xanh trên thành phố, lúc đứng giữa quảng trường trong một
buổi mít tinh vào đầu hè, hình như là mít tinh nhân ngày 1 tháng 5? Tương lai,-- lúc ấy chúng ta hình dung
ra tương lai qua hình ảnh một đôi chim bay mãi vào thinh không xa thẳm. Chúng
ta cùng thi nhau xem trong hai đứa, đứa nào mắt tinh, nhìn thấy cánh chim lâu
hơn.
Hãy tạm bắt đầu bằng không khí một Hà Nội
như thế để cảm nghe mọi đổi mới của Hà Nội hôm nay - Những năm 1963, 1964, cái
thời gian chín đầy của cuộc sống hoà bình, lúc ấy chúng ta dửng dưng như mọi thời
gian vẫn qua, có ai biết đâu nó là thời gian sắp sửa của những gì đổi mới trong
cả lịch sử, do đó trong vận mệnh mỗi con người trong thành phố.
Kể cũng là may cho những ai mà sự thay đổi
trong cuộc đời riêng lại trùng với những thay đổi trong lịch sử. Mà anh là thế.
Mùa hè năm đó, sau khi học xong một ngành học cần cho chiến tranh là ngành y,
cũng như bao nhiêu thanh niên Hà Nội khác, anh đi. Còn năm học mới của chúng
tôi, những người ở lại, trùng vào những năm tháng bắt đầu của cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại - ở một khía cạnh nào đó, chúng tôi có điều kiện sống
trong một hoàn cảnh mà thời gian trước không ai hình dung ra nổi.
Hẳn anh còn nhớ mới một năm trước, không,
nửa năm trước đó thôi, đôi lúc nghe nói đến chuyện đào hầm, chúng ta còn nghe
như ai đùa bỡn: cứ nói quá như thế, làm gì ra có chuyện nó đánh Thủ đô? Chủ yếu
là mơ màng, đôi lúc như tặc lưỡi mặc kệ - đó là cách nghĩ của những người chưa
hiểu chiến tranh.
Bởi thế, về sau, nhìn lại mình, chúng tôi
cũng ngạc nhiên: phút chốc mà mình đã quen với những cảnh nhuộm áo trắng thành
áo xanh, xếp hàng ăn mì - nước một - hào (mì không người lái )và đi sơ tán.
Ngày tháng trôi đi không còn theo nhịp điệu cũ. Nhớ lại những năm 66, 67, bây
giờ tôi chỉ hình dung ra những chuyến đi, và những lần trở về liên tiếp.
Tôi không nhớ mình đã đi bao nhiêu nơi,
cũng là bao nhiêu lần trở về - cái chính là trở về, trở về với Hà Nội, Hà Nội
báo động, Hà Nội mất điện trong đêm và vắng vẻ trong cả những giờ người đi làm
và người hết giờ trở về nhà.
Một lần nào đó, trên đường phố, một thằng
bạn trong bọn chúng ta cũng đã ứa nước mắt khi thấy một xe chở nước làm việc
phun nước rửa đường. Tưởng là “thời chiến”, ai làm việc đó nữa!
Thực
ra thì có bao nhiêu chuyện có thể ứa nước mắt được.
Những
lần đi về trên những nhịp cầu bắc tạm của cây cầu qua sông thân thuộc, những lần
nép mình bên một hố cá nhân, còn kịp thấy hoa sấu rụng lưa thưa mặt đường.
Và
một lần nào đứng trên cái mảnh đất công viên ở ven Hồ Tây đã hơi trống đi vì phải
chặt cây nhường chỗ cho pháo.
Tôi tin chỉ những đứa học trò con gái
con trai từng tự tay đẩy xe bò chở cát sông Hồng về mở rộng đường Cổ Ngư để làm
nên cái vườn hoa, như bọn chúng mình, mới cảm thấy hết sự vắng vẻ bóng cây,
cùng là cảm thấy hết những phút nao lòng vì đối diện với một bầu trời thành phố
khác đi trên đầu.
Để bao giờ anh về, tôi sẽ kể tiếp với anh
tất cả những kỷ niệm ngày ấy, cũng như những ngày Hà Nội gọi là trở lại bình
thường sau đợt ném bom Giôn-xơn. Bốn năm trời, rồi bốn năm nữa, đủ để bao nhiêu
chuyện xảy ra - ở đây, tôi chỉ có thể nói một điều. Trước sau, Hà Nội vẫn biến
đổi theo một hướng. Khi nhanh khi chậm, dần dần, nhưng bao giờ Hà Nội cũng tự
chuẩn bị cho mình thật là Hà Nội, như những ngày tháng chạp 1972.
Mấy năm gọi là bình ổn sau năm 1968, cũng
chỉ là một sự trở lại nửa vời tạm bợ.
Trong suốt thời gian ấy, người ta cảm thấy như
sống trong một ngày dài không mưa không nắng công việc cứ thế kéo đi, chậm rãi,
triền miên, cho đến cái thời gian chiến đấu mười hai ngày, nó là một cái đêm
dài như tôi đã nói, nó hoàn thành một giai đoạn nào đó của cuộc chiến đấu ở Thủ
đô.
Và chúng ta, dù ở Hà Nội, hay ở nơi xa,
chúng ta có thêm một dịp để suy nghĩ, để sống hết mình với Hà Nội những năm
này.
Bị
cuốn đi trong những vất vả kiếm sống, có lúc mỗi người trong chúng ta tưởng
không đủ sức nhớ được gì về những năm tháng qua. Nhưng tận trong thâm tâm,
chúng ta biết đó là cái thời gian để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong đời mình: những
năm mình như một thanh niên lớn lên, vào đời, sống, làm việc.
Mãi gần đây, trong những chuyến đi công
tác các nơi, tôi vẫn bắt gặp nỗi kinh ngạc của nhiều người, khi hỏi về Hà Nội,
về thành phố bị ném bom trong mười hai ngày ấy. Vì sao vậy? Hình như trong đầu
óc mọi người, Hà Nội có tham dự, thì cũng chỉ là nên tham dự như mấy năm 66-67
về trước. Chúng ta ở Hà Nội, ta hơi tự ái vì Hà Nội bị kêu là vô can. Nhưng các
địa phương, các chiến trường sẵn sàng chịu đựng để Hà Nội yên lành - Hà Nội chỉ
là nơi để mọi người có dịp về nghỉ.
Với
một số người, Hà Nội vừa là dư âm những năm hoà bình ngày trước, vừa là hình ảnh
mới của đất nước về sau.
Hà Nội hãy là quá khứ, hoặc là tương lai!
Nhưng với mười hai ngày lịch sử, Hà Nội trở
thành hiện tại trong cuộc chiến tranh này. Hiện tại như nó phải thế, không ai
hiểu khác được. Hiện tại như mọi miền và mọi công việc của đất nước.
Nói tới đây, tôi lại nhớ tới câu chuyện câu
một đồng chí ở một chiến trường, sau khi ra Hà Nội công tác trở về đơn vị. Theo
thường lệ, mọi người quây quần nghe anh kể chuyện:
- Bọn này đang thiu thiu ngủ thì xe hãm
phanh đỗ lại. “Bến phà nào đây nhỉ ?”. Có cậu nhìn ra mặt nước càu nhàu. Phà
nào, phà nào à? Phà Hồ Gươm đấy. Về đến Hà Nội rồi, có xuống cho không, mơ màng
mãi”. Đồng chí ngồi trên ca bin xe gắt lên. Cả bọn nhảy ra. Đúng là đặt chân xuống
mặt đường nhựa Hà Nội thật.
Chiến tranh lạ thế, nó làm cho mọi người mải
mốt quên đi một số việc - ý đồng chí kể chuyện là vậy. Mọi người đang gật gù
trước một nhận xét sâu sắc.
Chợt một cậu từ nãy vẫn im lặng vụt đứng dậy,
gắt um lên.
- Cậu kể bậy, mình không tin, không bao giờ
mình có thể tin. Đặt điều kiện xe có đi vài ba ngày liền, đi cả ngày cả đêm nữa,
về đến Hà Nội, mình vẫn tỉnh như sáo. Gần đến Hà Nội là đầu óc người ta nhộn nhạo
cả lên rồi. Hình ảnh Hà Nội ở phía trước đánh thức trong người trở về bao nhiêu
ý nghĩ khác nhau, làm sao có thể về đến Hồ Gươm còn mơ màng tưởng là một bến
phà nào được.
Như sực tỉnh, mọi người cùng ngả ngay về
cái phát hiện người bạn vừa nói ra, xem đó như một tình cảm có thật của mỗi người
đối với Hà Nội.
Đúng thế thôi, chỉ ý nghĩ được đặt chân lên
mặt đường Thủ đô cũng làm cho mọi người ngồi trên bất cứ một chuyến xe nào trở
về cảm thấy nao lòng.
Tôi nhắc lại câu chuyện đó ở đây để nói với
anh, mà cũng là nói với chính mình. Tình cảm của mỗi chúng ta đối với Hà Nội thật
là sâu nặng, có lẽ càng ở xa như các anh lại càng sâu nặng.
Hoá ra điều tôi hứa ban đầu chỉ là nhẹ dạ:
làm sao tôi có thể nói hết những điều sau cùng chúng ta nghĩ được, qua những
ngày tháng lịch sử của cuộc chiến đấu của cả một thành phố? Tôi chỉ muốn gợi ra
ở đây, để anh, để tôi, để những người bạn khác cùng suy nghĩ. Rồi lúc nào đó,
vào một thời gian khác, những lúc khổ
hơn, những lúc sướng hơn, chúng ta còn nói về Hà Nội - có một Hà Nội hồi ấy,
Hà Nội của đất nước chiến đấu, Hà Nội của hy vọng mong chờ, Hà Nội như một lý
do để sống.
12-1973
đi xa
về
những ngày Hà Nội cuối tháng chạp 1972
I
Đêm báo động đầu tiên, như anh đã biết, là
đêm mười tám. Tôi muốn nói rõ thêm lúc báo động vào khoảng gần tám giờ tối. Có
người sẽ hỏi lúc đó, người dân Hà Nội đang làm gì? Tôi lục lại trí nhớ. Lúc đó,
tôi đang ở nhà một người bạn. Chúng tôi ngồi bàn chuyện công việc quanh một ấm
trà, một thứ sinh hoạt bình thường như mọi người, với những chuyện chả dính
dáng gì đến bom đạn. Sau này, trông thấy nhau, anh bạn tôi vẫn đùa “Tôi với ông
lại ngồi bàn chuyện văn chương phù phiếm trong khi nó đang mài dao thớt”. Rồi
cười. Nhiều người Hà Nội cũng thế, chả cứ chúng tôi.
Chắc anh có thể tin khi tôi nói rằng tôi
vẫn tha thẩn đi bộ từ nhà bạn quay về nhà mình, đi ngay trong đêm báo động. Vào
một lần nào đó, cũng trong tiếng còi u ủ và bóng đêm dày đặc vừa ụp xuống thành
phố, chúng ta từng đi với nhau trên những lối này. Năm sáu năm về trước… Không
dám nói ra, nhưng quả thật, trong những năm tuổi trẻ nhộn nhạo và liều lĩnh,
chúng ta có lúc tìm cách đi lại giữa giờ báo động trên phố xá, lắng nghe những
cảm giác riêng của mảnh đất quen.
Giờ tôi cũng lặng lẽ đi. Đi trước mặt
những em bé, những ông cụ ở mấy phố hẹp, ngồi ngay trước cửa nhà mình, chờ nhảy
xuống cái hố cá nhân đào ngay đoạn vỉa hè. Đi trước đám mấy cô gái còn đang túm
tụm nói chuyện với nhau:
- Đúng lúc cụ bô ở sơ tán ra thì báo động,
thật chết con cháu!
- Nhà nào còn để đèn thế kia không biết?
- Gớm cô cậu giờ còn đèo nhau!
Những người kia vẫn quen như những lần báo
động mấy năm về trước, mấy tháng về trước.
Nhiều người khác cũng thế.
Tôi còn nhớ cái giây phút nghe tiếng còi tạm
báo yên. Trước báo động, người còn nhiều trên đường phố - lâu nay, tình hình
trong thành phố bình thường lắm… Bây giờ, người đổ cả ra đường, như vừa tan ở một
rạp chiếu bóng ra. Đông quá. Riêng tôi, tôi nán lại một cái ghế ở bên Hồ Gươm
nhìn đèn điện bắt đầu ửng lên cả một lượt chung quanh hồ. Một người thanh niên
nào đó, xem đồng hồ, nói khá to: “ Nó kéo mất hơn một giờ của mình rồi.”
Người Hà Nội quen sống một cách giờ giấc,
trong chiến tranh cũng tính giờ giấc.
Nhưng ngay khi đó, ngồi trên chiếc ghế đá
phía Câu lạc Bộ Thống Nhất, tôi nhận ra những đường đạn đỏ lừ ở chân trời phía
Nam thành phố. Tiếng đạn đanh chắc gọi theo tiếng còi báo động. Đèn tắt. Những
mái nhà bưu điện, cửa hàng Bách Hoá Tổng hợp vừa lờ mờ hiện ra trong ánh sáng lại
nhoà hẳn trong đêm.
Về sau này, mọi người mới hiểu cái giây phút bắt đầu một đợt báo động mới đó có
ý nghĩa thế nào đối với Hà Nội. Không ai có thể ngờ đó là phút bắt đầu một lần
báo động dài. Đâu có nghỉ được một lát. Rồi suốt đêm 18 đó báo động. Suốt những
đêm sau báo động. Một cuộc chiến mười hai ngày liền. Một cuộc chiến không có giờ
giấc. Đến nỗi bây giờ nghĩ lại, mười hai đêm ấy giống như một đêm kéo dài, liền
nhau.
*
Lạ ư? Hình như bề ngoài chẳng có gì là lạ.
Từ tám năm nay, Hà Nội đã quen những chuyện báo động. Người Hà Nội đã quen nép
mình vào một gốc cây, ngay cạnh một hố cá nhân. Quen nhìn lên những vệt đạn xiết
đỏ không khí và đuổi theo nhau trên bầu trời đêm. Quen nghe tiếng mảnh đạn lách
cách trên mái nhà, rơi một tiếng đánh xẻng xuống cái chậu thau đồng ngoài sân.
Quen cả sau báo động, người lại tấp nập.
Người vào quán bia, người đạp xe trên đường.
Có một dạo, mọi người đều tưởng chiến
tranh ở Hà Nội chỉ có thể là như vậy. Bây giờ thì chúng ta hiểu đấy là cuộc chiến
đấu hôm qua, cuộc chiến tranh chống bọn Giôn Xơn. Nó đã thành ra có phần xa
xôi, như cuộc kháng chiến chống Pháp rất xa xôi. Những ngày cuối tháng Chạp
này, chúng ta có một Hà Nội khác. Hà Nội không thể nhởn nhơ. Hà Nội một thoáng
kinh hoàng cũng là Hà Nội rắn đanh lại, không thể chết nên phải cố sống. Những
ý nghĩ đó, sau này lần lần mới rõ, nhưng đã nhen nhúm ngay từ đêm đầu tiên.
*
… Tôi biết bắt đầu từ ai được?
Không hiểu sao, mỗi lần nhớ lại đêm báo động
đầu tiên, tôi cứ nhớ đến Tâm, một cán bộ có tuổi cùng cơ quan. Lúc ấy gần mười
một giờ đêm, những người trong cơ quan đi đâu cũng đã về đủ. Một số vào gầm cầu
thang. Một số ra hầm ngoài sân. Vừa lắng nghe bom, vừa nói chuyện. Tất cả gặp
nhau ở một ý nghĩ, sao chuyện này bất ngờ thế. Người kể lúc nãy mình đã phải xuống
hố cá nhân. Người nhớ lại nỗi lo về những ngọn đèn khi ra đi không kịp tắt. Rồi
bàn về ngày mai ra sao. Trong đêm tối, người ta lại càng hay nói. Dấu hiệu của
sự sống lúc này chỉ còn là tiếng nói. Ngóng đợi. Bàn tán.
Nhưng mà nói chuyện mãi thế nào được, cánh
thanh niên chúng ta, anh còn lạ gì? Được một lúc, tôi về phòng. Báo động, rúc đầu
vào chăn, tôi nghe thấy tất cả mà mơ hồ chẳng nghe được gì. Riêng Tâm, anh ấy
làm sao mà “quên mọi chuyện” dễ dàng thế được? Thử đặt địa vị mình vào người
cán bộ gần năm mươi tuổi đó, còn thiếu chuyện gì Tâm không nghĩ trong đêm. Chỉ
biết mỗi lần, nghe tiếng nổ rát quá, tôi mắt nhắm mắt mở chạy ào ra gầm cầu
thang, đã thấy anh ngồi thu lu ở đấy; lúc tôi quay vào, trong số người còn lại,
có anh.
Gần bốn giờ sáng có lệnh sơ tán, Tâm lục cục
buộc sửa đồ đạc. Anh vốn tính cẩn thận - bây giờ ở mình muốn biết một người cẩn
thận cứ nhìn cái xe đạp anh ta đi, và cách anh ta tính toán để chạy bom thì biết.
Tâm phải đi ngay, vì lo gần sáng, có B.52.
Sau này, Tâm sẽ tâm sự với chúng tôi:
- Đi ra trong đêm. Đằng trước bom, đằng
sau bom. Mọi khi đến độ Mai Dịch là chắc yên. Bấy giờ càng ra xa càng thấy nhiều
đạn lên. Nhìn lại, có chỗ Hà Nội cháy. Một thứ lửa kinh thành mình nghe từ nhỏ,
bây giờ mới được chứng kiến.
Đúng ra thời kỳ này Tâm đang phải đi sơ
tán. Chẳng qua là anh lần khân, ảo tưởng. Nhưng mà những ngày trước đó, có ai
không ảo tưởng? Hôm trước, trong một buổi đi xem chiếu bóng về, Tâm kể mãi về
cái không khí mùa xuân đang dần dà đến với thành phố. Đêm báo động dứt đi của
anh một buổi nghe nhạc ở nhà một người bạn.
Một con người của đời thường là thế. Cái
điều duy nhất làm tôi luôn luôn nhớ: Có một anh Tâm trong tất cả chúng tôi.
*
Nhưng lại có chúng tôi, có Tâm trong nhiều
người khác.
Buổi sáng ngày 19, trời Hà Nội lấm tấm những
hạt mưa. Ngày bắt đầu hơi muộn, trời đất nhợt nhạt, tiếng nổ cầm canh từ một
kho đạn bên kia sông chậm rãi đánh dấu thời gian. Nhiều mắt người Hà Nội cùng
nhợt nhạt sau một đêm thiếu ngủ.
Tôi đi ra phố, nhiều cửa hàng vẫn mở như
thường lệ.
Tôi đi ra mạn bờ sông. Mưa ướt những lượt
ván cầu phao. Chưa thấy mấy người qua lại. Ở một phố vắng gần đấy, mấy người
công nhân chữa xe vẫn thản nhiên làm việc như không có gì xảy ra.
Chỉ vào từng gia đình, mới bắt gặp một cái
gì lay động. Lay động nhà cửa, những nhà tranh vách đất xóm nhỏ lao động mà gia
đình tôi ở. Những bức ảnh trên tường rơi xuống - lay động kỷ niệm, lay động
thói quen. Và tí nữa thì cái đồng hồ để bàn rơi xuống - lay động cả thời gian.
Lại thấy thêm một đức tính của người Hà Nội chúng ta, tính nhạy cảm. Hôm qua,
nhạy cảm là thanh lịch tinh tế trong làm ăn, đối xử. Hôm nay, nhạy cảm là biết
cảm thấy bom đạn mà tránh. Cái sự nhạy cảm ấy của thành phố chúng tôi sẽ được
chứng kiến suốt trong những ngày về sau. Người vắng hẳn đi trong những buổi tối,
những buổi trưa. Nhiều gia đình ăn cơm sớm hơn thường lệ, cứ gà lên chuồng là
đã vác chiếu ra hầm. Nhiều người rút được quy luật máy bay oanh tạc sau mấy
ngày đầu. Thêm nhiều bà con đi sơ tán.
II
Ngay khi bắt đầu chắp nối những chuyện
này lại, tôi đã ngại. Bây giờ mà còn kể với nhau về những ngày tháng Chạp 72
thì cũng đã muộn. Tôi vừa nói vừa ngại. Từ đó đến nay, đất nước bao biến động,
thủ đô bao nhiêu thay đổi cần phải nói. Nhưng tôi cứ tin khi ở chiến trường trở
về, thả nào anh cũng hỏi tôi về Hà Nội trong những ngày ấy. Bây giờ ở nơi xa
anh cũng đang hỏi. Mười hai ngày Hà Nội dưới tầm B.52 đã thành cái mốc của lịch
sử, cái mốc của tâm lý. Nó nói với chúng ta về một phía của những năm chiến
tranh. Nó nói về cuộc sống đất nước - nó hằn sâu trong tâm trí mỗi người đến nỗi
có thể là phần bắt đầu của mọi câu chuyện của những đứa con Hà Nội khác nhau.
Có điều, có một chuyện phải nói sớm: phải
hiểu Hà Nội thế nào cho đúng. Anh đừng hình dung Hà Nội những ngày ấy chỉ như một
nạn nhân. Bằng mọi cách, bọn tôi bảo nhau chống lại lối nghĩ như vậy. Để nói về một khía cạnh Hà Nội thì được. Nhưng để nói chung về Hà Nội thì không được. Nói
chung, phải xem Hà Nội như một người lính buộc phải chiến đấu. Để tồn tại bình
thường đã phải chiến đấu.
Chắc tôi lại dọn đường để nói về những
chiến sĩ bảo vệ Thủ đô - anh nghĩ. Cũng gần đúng. Trong những ngày Hà Nội tháng
chạp, nhiều đơn vị cao xạ đã chiến đấu một cách tài giỏi. Nhất là các đơn vị
tên lửa, ở đấy có nhiều anh em Hà Nội, nhiều sinh viên các trường đại học mới
nhập ngũ. Họ là những người vào báo động cấp một khi nhiều người còn nhẩn nha
đi lại. Họ là những người phơi mình trên mặt đất, khi những người khác nép dưới
hầm sâu. Họ là hình ảnh mà tất cả mọi người nghĩ tới, nếu nói về cuộc chiến…
Nhưng giờ đây, tôi muốn nói với anh về những
người gánh chịu cuộc chiến đấu. Những người cảm thấy bom thả vào bất cứ chỗ nào
trong thành phố đều là trúng vào công việc của họ. Những người giữ cho thành phố
sống, khi kẻ địch muốn nó thành một thành phố chết.
*
Nhà máy điện của chúng ta thuộc loại đã
già, nhưng người tiếp chuyện tôi là một kỹ sư trẻ. Bộ quần áo anh mặc là bộ đồ
màu xanh công nhân đã hơi bạc. Anh vừa đi lò về. Anh cho biết, có khi quệt tay
lên mặt, thấy bụi than ăn thành từng. Giọng đều đều, anh kể:
- Cái chính là chúng tôi biết rằng nó sẽ
đánh vào nhà máy. Đó là một điều làm cho mọi người như có thể yên tâm hơn mà
chuẩn bị đối phó, không bao giờ phân vân, ngần ngại. Một thứ áo giáp mà chúng
tôi sớm tìm cách lo liệu cho máy móc: những bao than xỉ. Máy móc trông xù ra,
những bộ phận quan trọng nép mình trong sự che chở của những bao tải mục. Cũng
là một thứ đi sơ tán. Sơ tán ngay ở Hà Nội.
Bấy giờ là buổi trưa. Lúc chúng tôi đến
nơi, khói bom bốc lên dày đặc và ngoài thành phố, còn đang báo động. Chúng tôi
chạy giữa đường phố vắng vẻ để đến cứu nhà máy - mỗi người đã có sẵn một giấy
giới thiệu là công nhân nhà máy điện để tình thế đường xá khó khăn thế nào cũng
đi lọt. Vứt xe đạp một chỗ là chúng tôi bắt tay vào dọn dẹp, dọn cho đến khuya.
Đêm đầu tiên, đến cả điện đi-ê-den cũng mất.
Những khối bê tông đen sẵn lại càng như đen kịt lại. Cái nhà máy vốn phát ra tiếng
động mọi khi hôm nay im bặt. Đi bên
ngoài có khi còn cảm thấy nó như phát ra hơi lạnh nữa!
Những
ánh đèn pin loang loáng. Đó là những dấu hiệu hoạt động duy nhất còn sót lại.
Chúng tôi rất ít nói với nhau. Ngày cũng
như đêm, sự nối tiếp vào thế giới bên ngoài trông vào một đồng chí gác. Đồng
chí này đứng bên loa. Hễ có báo động, anh gõ kẻng báo cho mọi người. Theo một
cây cột thép làm cột tụt, mọi người lần lượt lao từ nơi đang làm việc xuống hầm
sâu.
Những cán bộ kỹ thuật chúng tôi gọi giai
đoạn dọn dẹp đầu tiên cũng là giai đoạn điều tra. Trong khi những người khác mới
thấy nhà máy đổ thì chúng tôi phải hình dung ra nhà máy được khôi phục. Những
nét đầu tiên của phương án sửa chữa được vạch dưới ánh đèn dầu.
Sống
chết với nhà máy này từng ấy năm, nhưng chính phút cảm thấy gắn bó với nó nhất
lại là những lúc làm việc không có điện. Chúng tôi thức bốn đêm liền. Cho đến
khi cái lò đầu tiên bắt đầu chạy.
- Anh có bao giờ cảm thấy buồn vì Hà Nội
thiếu điện?
- … Có lẽ cũng vì bận quá, nên không cảm thấy
buồn nữa. Khi ngơi việc một tí để kịp nghĩ ngợi thì đã có điện rồi.
Tôi không hối hận vì đã hỏi anh một câu hỏi
ngớ ngẩn. Trong câu trả lời, tôi vẫn tìm được một cái gì đó.
*
- Khoa
gây mê như là cái cửa ngõ của bệnh viện. Người làm việc gây mê hồi sức là người
nhậy cảm với tất cả nỗi đau của mọi người.
… Đó là điều mà tôi nhớ hơn cả, khi nghe
người bác sĩ ở một bệnh viện lớn của Hà Nội kể chuyện. Ngay trong điều kiện hoà
bình, tôi đã hình dung công việc cứu chữa người như một trong những công việc
chịu nhiều hy sinh nhất. Bây giờ lại đang những ngày chiến tranh. Tôi thử đặt
mình vào địa vị một nhân viên bám viện trong mười hai ngày đánh phá. Cả ngành y
tế phải gánh chịu những nỗi đau của thành phố. Mà bệnh viện là trận địa.
Không biết đến tôi là người thứ bao nhiêu
nghe chuyện của người bác sĩ ấy. Vậy mà tôi vẫn bắt gặp những thoáng mắt anh chớp
chớp như là rơm rớm nước mắt khi kể về những bệnh nhân của mình, nhất là khi kể
về một đứa trẻ.
Người ta đưa em đến viện vào một ngày
quãng giữa đợt đánh phá. Người em đầy bùn, chỉ còn khuôn mặt lau sạch, mà chân
cẳng thì dập nát, lúc nào cũng đắp tạm một cái chăn cũ. Mọi người kể em đã sơ
tán ra một khu vực ngoại ô. Cái phạm vi ngoại ô gần như tuyệt đối an toàn trong
bom đạn lần trước, và bỗng trở nên nguy hiểm nhất trong đợt B.52 lần này!
Một bữa, bố em đã cảm thấy khu vực sơ tán bị
đe doạ, muốn đưa em đi. Em bảo thôi để con lại con học, cuối năm con thi. Bây
giờ, em chỉ còn biết khóc.
- Chú ơi, cháu có sống không.
- …
- Chú ơi, cháu đau lắm. Chú cho cháu ngủ
đi, các chú mổ cháu sau.
Chính em bé cũng không muốn chứng kiến nỗi
đau của em. Nhưng người bác sĩ phải đối mặt với nó. Người bác sĩ giáp mặt với hậu
quả mỗi cuộc ném bom. Những nhân viên y tế lau đi từ những vệt bùn đất đến khói
đen trên mặt người. Tôi nhớ đến câu chuyện của một bác sĩ quân y ở một đơn vị
ngoài tuyến trước. Theo lời anh kể, những lần đơn vị xuất kích, nhiều cán bộ đại
đội, trung đội đến nắm tay anh. Họ biết có lúc tính mạng mình trông mong vào
đôi bàn tay của người bác sĩ. Trong những ngày chiến đấu, cả thành phố cũng
nhìn vào cái bệnh viện của mình giống như vậy.
*
Tôi đã lặp lại mọi người, khi bắt đầu kể về
điện và bệnh viện ở Thủ đô trong mười hai ngày đêm ấy.
Nhưng anh biết cho, làm sao mà nói tới thủ
đô lại không nói tới điện?
Điện làm Hà Nội sống lại trong những ban
đêm thành phố không ở đâu có. Với điện, thủ đô rực rỡ trong vẻ nửa thực nửa mơ
của mình.
Điện chở tiếng nói của đất nước đến các miền
xa, và hình như nhờ vậy. Cả đối với những người chưa một lần đến Thủ đô, Hà Nội
cũng trở thành một ý niệm cụ thể, tưởng xa xôi mà hoá ra gần gặn.
Điện làm cho cả thành phố thống nhất lại
trong một mạng lưới thống nhất.
Bởi vậy, địch đánh vào bất cứ chỗ nào của
Thủ đô cũng là đánh trúng điện. Trong những chiếc xe phóng đi trên đường đầu
tiên sau một đợt bom nổ, có những chiếc xe của sở quản lý và phân phối điện.
Công việc khôi phục một khu vực được tính là hoàn thành cùng cái lúc người công
nhân chữa điện thu dọn đồ đạc, và em nhỏ trong gia đình bật thử công tắc đèn
ngay giữa ban ngày.
So với những vùng nông thôn, cái chất
riêng của thành phố khi đối đầu với chiến tranh có lẽ là ở chỗ ấy, ở mối liên
quan giữa tất cả các điểm, các bộ phận trong một số phận chung, và tất cả mọi
ngành công tác đều được huy động ra chiến đấu và khắc phục hậu quả.
Một đoạn cống ngầm ở Khâm Thiên bật tung,
thành cống xây xi-măng bị rạn ra, trông như những tảng đá hộc ghép tạm. Phải
phá cả đi, xây lại. Phải đóng cọc, đổ móng từ đầu. Suốt một tháng sau đó, đi
qua đoạn cống, bao giờ tôi cũng nghe tiếng máy bơm xình xịch. Hai máy cùng chạy
mới kịp cho người làm.
Lặng lẽ hơn, là phần việc của người nhân
viên bưu điện. Trong mấy chục hòm thư rải rác trên đường và trong các ngõ Khâm
Thiên, bao nhiêu hòm bật tung - có ai đến thăm Khâm Thiên để ý? Chỉ có một vài
bác già ngay sau tiếng bom nổ là nhớ tới tất cả những hòm thư ấy, và những ngày
sau lầm lụi đi tìm kiếm, sửa sang lại bộ mặt cho chúng.
Sau một đợt ném bom, điện thư ùn ùn từ các
nơi đánh về thăm hỏi. Sẽ có những lúc người nhân viên bưu điện cầm lá thư trong
tay, sững sờ trước một căn nhà đổ nát, và phải dò hỏi xóm giềng mới tìm được đến
nơi người chủ ngôi nhà cũ tạm trú ngụ.
Những chiếc xe rác rất lâu về sau mới chở
hết gạch vôi vụn nát ra khỏi thành phố.
Và có thể một vài năm nữa, hàng chục năm nữa,
người công nhân cầu đường, người thợ đặt ống dẫn nước còn chạm phải những vết thương
do bom đạn gây ra, tận trong những tầng sâu mặt đất Thủ đô.
Tôi muốn trở lại cái chữ mà người bác sĩ ở
bệnh viện nói với tôi cuối cùng khi kể về đợt đánh B.52: “Những di luỵ của chiến
tranh” Cái phần di luỵ ấy, những người làm công tác y học cảm thấy rất rõ trên
da thịt con người, nhưng cả thành phố mãi mãi cảm thấy trên những sinh hoạt bề
mặt, và tận bề sâu tâm lý của những lớp người Hà Nội khác nhau.
III
Anh cũng biết đấy, lâu nay trong số trong
số những người bạn cùng lớp cũ, nhiều người chúng ta vẫn coi Thảo như một người
con gái “rất Hà Nội”. Giả sử như anh đi xa về, hoặc tôi, sau một chuyến đi sơ
tán lâu lâu, lần nào cũng vậy, muốn trở lại với một cái gì ổn định của Hà Nội, chúng
ta tìm đến nhà Thảo.
Sao ở ngay cạnh một đường phố lớn của Thủ
đô lại có một cái ngõ vắng như thế, toàn những nhà gác giản dị, xinh xắn; để rồi
trong một căn gác đó, có một cái phòng con giản dị xinh xắn, cửa sổ xoà bóng một
cây hoàng lan, phòng của Thảo.
Vào đấy, chúng ta ngồi uống nước trên mấy
tấm phản kê sát xuống sàn đá hoa thứ mặt ghế ngựa nước gỗ bóng loáng, ta đặt
tay lên cái bàn lim chắc chắn, nhũn nhặn. Ta bắt gặp những chồng sách xếp dày,
quyển nào cũng bọc bằng một thứ giấy bóng mờ, thứ giấy người mê sách xưa trữ
riêng để bọc sách.
Có những cánh hồng nhung rơi xuống mặt
bàn trải một tấm khăn thêu thanh nhã - cánh hoa rơi từ lúc nào mà còn đậm đà một
sắc đỏ thắm thiết như thể vừa rơi. Tất cả ở đấy, giản dị, thanh nhã. Tưởng như
chiến tranh không thể len mắt vào đây - đã một lần nào, một người bạn nhận xét
vậy. Gian phòng nền nếp đến nỗi những ngày gần đây đôi lúc bọn tôi đâm ngại có
ít đến chơi. Một dịp nào đó, tôi chợt nhận thấy điều ngại ngùng ấy, và tôi tìm
ra lý do: chỉ vì ở đó mọi thứ tĩnh lặng quá.
Những ngày này, bạn bè chúng ta chia đi
khắp nơi, mỗi đứa bận bịu vì bao nhiêu việc, mỗi đứa một thằng hay vội.
Còn Thảo, Thảo không thế, Thảo ít biến đổi
đến nỗi tưởng như cô vẫn đứng nguyên trong cái quá khứ êm đẹp của chúng ta.
Tôi đã nói hơi kỹ về Thảo - bởi anh hẳn cũng
đoán ra, kỳ này Thảo cũng bị “lôi vào cuộc” như người ta thường nói. Theo chính
lời cô kể, chúng ta có thể tưởng tượng ra một phía của Hà Nội trong thời gian
mười hai ngày.
Những buổi tối báo động, cô ngồi trên
căn phòng nhỏ của mình, sẵn sàng lao xuống gầm cầu thang. Cái chính là ngồi đấy
cô sống hết với mọi diễn biến bên cạnh nhà, dưới đường, trong cả thành phố. Mọi
khi ai đến chơi, có hỏi về những chuyện xóm giềng thì Thảo tỏ ra không biết - chính
là cô cố làm như vậy. Hôm nay, theo lời cô kể, ngồi trong đêm báo động, cô nhớ
lại cuộc đời những người hàng xóm như cô đã biết. Ban ngày, cô chia sẻ nhiều
câu chuyện, nhiều nỗi lo với họ, và chính nhờ thế, cô cảm thấy đỡ cô đơn. Những
người ở mấy gian buồng tầng dưới nhà Thảo người nào ở lại cũng tìm đến nhau. Họ
chuyện trò đúng nghĩa hàng xóm láng giềng.
Đến nhà Thảo trong những ngày ấy, tôi có
thể đọc được những đổi mới ngay từ ngoài cửa. Một hàng chữ viết bằng phấn hằn
lên trên nền gỗ sơn lâu ngày đã loang lổ. “Thảo theo trường đi sơ tán”. “Nam về
thì lấy chìa khoá ở bác Tài”.
Xưa nay, Thảo chưa hề làm thế. Những người
con gái Hà Nội kín đáo không thích người ngoài vừa đến cửa đã có thể biết người
trong nhà có những ai và tên là gì. Bây giờ thì mọi người đâm ra cởi mở hơn bao
giờ hết. Những cánh cửa có dòng chữ viết vào đấy đứng đối diện như những căn
nhà đang nói chuyện với nhau.
Phần lớn chúng tôi bây giờ có một cuộc sống
khác Thảo. Nhưng chúng ta vẫn quý một Hà Nội như vậy. Sau này, Thảo còn kể với
tôi về một kỷ niệm. Những ngày cuối đợt đánh phá, trong lúc chuẩn bị đi sơ tán,
tự nhiên “giời cho” cô mua được một chục cúc rất đep. Chưa bao giờ cô có những
bông hoa vừa ý như vậy, cánh hoa dày, vồng chắc khoẻ, sau khi cô đi sơ tán mấy
hôm về, lá xanh rụng cả cánh hoa xác xơ, mà trông vẫn còn ra hình ra vóc. Mặc
dù chỉ đuợc sống với nó có mấy tiếng đồng hồ, cô vẫn nhớ mãi. Cũng chẳng sao,
nó là hình bóng của cô ở lại với căn nhà - ở nơi xa cô nghĩ. Anh thấy đấy, sau tất cả những biến đổi, vẫn có một
cô Thảo cũ, Thảo chỉ cứng cáp hơn, lịch sự hơn.
*
Nếu
ai hỏi đâu là đặc trưng cho Hà Nội của tôi, tôi - cũng như nhiều người - sẽ nói
đến phố xá. Đối với những người như chúng ta, Hà Nội chưa phải là một gian
phòng đủ tiện nghi, một “tổ ấm” riêng tư. Nhưng giá kể có tất cả những thứ ấy,
tôi vẫn nghĩ nhiều đến phố xá. Tôi thích những phố đông, ở đấy nhiều những bộ mặt
Hà Nội khác nhau, những cảnh ngộ khác nhau. Tôi càng yêu những phố vắng, ở đấy,
lại được ngắm nhìn từng kiểu kiến trúc, từng vòm cây, chậu hoa - khi cần, có thể
đi thật chậm rãi ngắm nghía mà không sợ làm phiền ai hết. Mỗi người Hà Nội đều
còn nghèo, căn phòng của chúng ta còn hẹp. Nhưng mỗi người Hà Nội lại rất giàu,
giàu với cả phố xá ngoài kia.
Tôi đã nói trong mười hai ngày tháng chạp
1972, mỗi người Hà Nội nhận lại chính mình, và nhận lại cả thành phố. Thì mỗi
người cũng nhận lại từng căn nhà, từng góc phố, những đường phố của Thủ đô.
… Phố xây nên từ những làng, những phường
buôn bán cũ. Đường phố nhỏ, nhiều khi không được thẳng, nhà xây còn thụt ra thụt
vào ít chút. Phố nhiều nhà lợp ngói lá đề, màu ngói cổ như màu áo của những người
mẹ người chị một thời mà bây giờ, chỉ ở nông thôn, người ta còn mặc. Và sau quầy
hàng buôn bán, nhìn sâu vào trong lòng nhà, còn thấy những đôi câu đối, những
chậu hoa, đôn sứ, như thể ở những làng quê…
Đối với
những người khác thế nào không biết, đối
với tôi, đối với những người ở khu Bắc thành phố như cánh ta, Hà Nội trước hết
là những dãy phố ấy, phố buôn bán, phố nghề thủ công, những Hàng Đường Hàng
Khoai, những phố Lò Rèn bây giờ còn đập lò, những Hàng Vải Thâm, đi qua rất nhiều nhà bán cần câu và bột đá. Những phố buôn bán
sầm uất của Hà Nội cũ.
Những
phố tưởng như không lúc nào vắng người, thì vào những ngày này có lúc trở nên rộng
ra một cách đáng ngại. Mặt đường thoáng đãng - có phố hiện ra là một cái dốc,
có phố hai đầu cao, ở giữa võng xuống, chả trách những ngày mưa, nước cứ đọng lại.
Và khi có việc phải đi qua, tôi chú ý tới cả cái phần trước không bao giờ chú
ý, cái chất đất ở dưới lòng phố. Cái hố cá nhân nói với tôi điều đó. Ở Hàng Đường,
các hố thường có nước, ở mặt sau, phố Hàng Cân chẳng hạn, các hầm khô sạch hơn.
Bây giờ tôi muốn đưa anh trở về mấy cái
phố chung quanh nhà máy điện. Riêng với chúng ta, nó là những phố nhiều kỷ niệm
từ nhỏ, nó cũng là một ít phố độc đáo của cái khu bắc mà chúng ta thân thuộc. Cửa
Bắc và Hàng Bún, Hàng Than và Nguyễn Trường Tộ, Châu Long và Yên Ninh. Ngay từ
những ngày đầu chiến tranh, người ta đã chú ý tới những phố ấy. Mấy năm 1965 -
66, ở đâu còn dềnh dàng, ở đấy người ta đã phải cuốn đồ đạc chạy, và gần như là
chạy hẳn. Nhiều gia đình cửa giả mang đi, nhìn ngoài đường vào cứ thông thống,
như một thứ nhà hoang. Lại thêm màu một thứ thuốc đen mà người ta xì vào các tường
nhà để hòa lẫn nhà máy điện với không gian chung quanh. Ban ngày trông đã hoang
vắng, ban đêm lại càng thăm thẳm.
Vào cái đêm 24 tháng chạp, đêm Noel tạm ngừng
tiếng súng, tôi đã đi lần lần trên vỉa hè những đường phố đó. Tôi nhẩm lại những
gia đình quen. Tôi ngước lên nhìn những cửa sổ không một chút ánh sáng. Những
tán bàng thu mình, như chết đứng ở đó. Dưới chân, nhiều chỗ cỏ đã mọc từ lớp đất
không hiểu vì sao bồi dày một vài góc vỉa hè. Lá bàng rụng, lá rụng từ bao giờ,
gió xô nép cả vào chân tường. Căn nhà ngay bên đường cổng ngỏ. Thử vào một
chút? Nhưng nhỡ có ma?! Một ý nghĩ hình như chỉ có trong những năm còn rất bé bỗng
ở đâu trở về, tôi tự cười thầm, mà cố tìm cách cắt nghĩa vì sao lại nảy ra ý
nghĩ vậy. Cái chính là căn nhà đã vắng quá.
Quành về phía dưới, tôi bước trên đoạn phố
đầu đường Nguyễn Trường Tộ, nơi nối vào Hàng Than. Đã thành lệ nhiều năm, bao
giờ khoảng gần tết đến đây, tôi cũng nghe mùi hăng hăng của quả xanh, mùi những
quả bí người ta thái làm mứt Tết. Hôm nay căn nhà tổ hợp tác không còn vẻ huyên
náo thường có. Dưới chân tôi, lớp vỏ bí gọt lâu ngày phơi khô cong.
Cả phố toát ra vẻ lam lũ. Chỉ thỉnh thoảng
lắm, giữa những mái nhà cúi mặt trong đêm, thấy hé ra những ánh đèn. Có khi là
một ánh đèn điện đỏ lờ mờ nơi một gác xép, nó như một con mắt thức. Người đi đường
thoáng lo: số phận những người trong căn phòng đó ra sao, nhỡ có chuyện gì xảy
ra ai lo cho họ? Nhưng thấy được một dấu hiệu có người, vẫn là vui vui, nỗi vui
đồng cảm giữa những người cùng sống chết với một thành phố. Chúng tôi cùng sống
trong đêm. Thành phố đã góp lửa lại để chiến đấu những đêm qua, và trong những
đêm tới. Thành phố trong đêm im lặng sẽ là thành phố rực sáng khi địch đến, và
đó sẽ là một thứ lửa kinh thành mới, thêm vào thứ lửa kinh thành mỗi chúng ta từng
đọc trong sách vở ngày trước.
IV
Chắc trong thành phố có nhiều đám bạn bè
như tốp thanh niên chúng tôi - trong đó
có những đồng nghiệp mới, do nghề nghiệp mà tôi phải làm quen, chính anh cũng
chưa biết. Bọn tôi ở nhiều khu phố khác nhau, nhưng thích tụ tập. Cả bọn làm
công việc động, thường đi công tác ở các tỉnh, cho nên tụ tập lại là nói đủ mọi
chuyện mà mỗi người biết. Vào những ngày “có việc” của thành phố, các thành
viên lại càng có ý tìm nhau, như là muốn bàn luận một số điều cùng chứng kiến.
Những điều tôi ghi lại là của người nọ người kia nhưng nói cho đúng, bao giờ
cũng là có một phần của tôi trong đó - Xin anh thứ lỗi cho một số đoạn như là
cao giọng dưới đây.
- Những ngày này, chính là nhiều người Hà
Nội đâm ra hay nói. Nghĩ để nói được một điều gì đó, tiếng nói đó cùng với tiếng
súng chứng tỏ rằng Hà Nội lúc nào cũng sống, phải không các ông? Tôi nhớ một cậu
ở chiến trường kể ngay ở chốt, cũng phải tìm cách duy trì sinh hoạt đơn vị.
Sinh hoạt là hơi thở của quân đội. Nếu phân tán ra cho mỗi người ngồi một góc,
lại dễ sinh ra tư tưởng lắm. Hà Nội bây giờ cũng thế.
Không hiểu sao, nói về Hà Nội đánh nhau là mình
lại nhớ quyển Sống mãi với Thủ đô của
ông Nguyễn Huy Tưởng, mà trong quyển Sống
mãi… ấy lại nhớ nhất một đoạn tác giả kể, đêm 19 tháng Chạp ấy, một thanh
niên là Nhật Tân làm một bữa nhắm thật sang, rồi ra đường, “túm” bừa bốn người
không quen biết, chỉ tình cờ đi qua, bắt họ vào ăn với mình. Vừa ăn, họ vừa bàn
luận về Hà Nội; nghĩa là cao đàm, khoát luận, cũng dài dòng mà cũng sâu sắc.
Chúng ta đọc và chúng ta hiểu. Chẳng qua tác giả mượn mồm các nhân vật mà nói một
ít suy nghĩ của mình về Hà Nội. Nhưng mà nói như thế thì hả thật, tôi vẫn thấy
đấy là một trong những chương hay nhất của Nguyễn Huy Tưởng.
- Hãy để cái Sống mãi với Thủ đô của ông ấy sang một bên. Trong ý kiến của cậu,
mình chỉ thấy nên phát triển cái ý này: Đúng Hà Nội trong những ngày đánh B.52
đã trở thành một thứ chốt, một thứ cửa tử rất ác liệt.
Không hiểu các cậu thế nào, mình nghiệm thấy
chịu đựng bom đạn ở Hà Nội hoàn toàn không giống chuyện chịu đựng bom đạn ở mọi
nơi, ở chiến trường, bom đạn nổ ngay bên cạnh hầm cũng có thể cứ nằm trong hầm
mà ngủ, đất có chuyển kệ nó. Nhưng ở đây, không thế được, ở Hà Nội, nó đánh ở
đâu, cũng cứ như là ở ngay bên cạnh, có cảm giác như mọi nhà đều liền tường, phố
liền phố, ngõ liền ngõ.
Ngoài bom đạn, lại còn lo bao nhiêu chuyện nhà
sập, ngói đổ, rất dễ bị thương, mà người thì nhiều quá. Mình vốn yếu lòng. Thường
mình không thể chịu được tiếng trẻ con khóc. Những ngày này, trông thấy các vị
bố mẹ doạ chúng nó, rồi chúng lại hết hồn sợ hãi vì bom, nhưng vẫn cứ thập thò
thập thò ở cửa những chuyến xe ô tô đi sơ tán chẳng hạn, thì mình cho thế cũng
đã là một thử thách lớn lắm đối với mỗi người Hà Nội rồi, những người ở lại bám
Hà Nội chiến đấu lúc này càng phải nhớ tới những cảnh ngộ đó, mà bắt kẻ địch phải
trả một cái giá cho xứng đáng.
- Buổi sáng hôm 27, tức là sau cái đêm nó
đánh Khâm Thiên, tôi là một trong những người có mặt sớm nhất ở đấy. Sau này, nghe
kể, đêm hôm trước, người còn vắng ngắt, có một số người sau loạt bom, cảm thấy
như được sống sót, hãy cứ lặng lẽ, cúi mặt xuống mà đi ra khỏi cái khu vực ấy,
đến một quãng nào đó, mới sực nhớ ra, chợt tỉnh ra, quay lại cứu những người sập.
Giờ nói chuyện sáng hôm sau khi tôi đến, thì người ta đã cứu được một số kha
khá. Một số không cứu được nữa thì được đặt thành hàng bên hè, người nào mặt
cũng xanh như tàu chuối.
Tôi xin nói thêm một hình ảnh, nó nằm
trong cái ý con người và đất mà một lần tôi đã nói. Buổi sáng hôm ấy, rất nhiều
thân nhân đến nhận người chết, và những người sống lúc áy loay hoay đi tìm cái
gì các ông có biết không? Đi tìm một nắm đất để cắm hương. Đến lúc có một nắm
hương cắm ở trên đầu, thì mỗi người chết mới được coi như có người nhận. Hương
bay nghi ngút. Tôi ngửi mùi hương mà nghe sờ sợ, đến nỗi những ngày sau, về nhà
bà cụ tôi có thắp hương, là tôi phải tránh cho xa.
Tôi kể lại chuyện trên này để làm gì? Để
các ông tin rằng không ai lại bàng quan với những đau thương của Hà Nội trong
những ngày qua. Nhưng tôi nói thêm: tôi cho rằng chính vì thế, mà lần này Hà Nội
đứng ở đúng tầm của mình hơn. Hà Nội hiểu được các nơi khác, và bất cứ mảnh đất
nào ở Nam hay ở Bắc cũng cảm thấy gần gũi hơn với Hà Nội. Còn những người lính ở
chiến trường về sẽ nhìn ra một Hà Nội với tất cả mọi khía cạnh của nó, khía cạnh
nào cũng được đẩy đến mức mãnh liệt.
- Đồng ý, đồng ý đấy! Lâu nay mình vẫn có một
cái bực, bực vì người ta vẫn cho là Hà Nội đứng xa chiến tranh quá. Làm sao mà
thủ đô một đất nước có chiến tranh lại đứng xa như vậy được, hãy nhìn lại xem,
cuộc sống chiến đấu thâm nhập vào Hà Nội theo cả hai chiều xuôi ngược. Một mặt
thì người Hà Nội toả đi các nơi, con trai khoác áo bộ đội, con gái vào thanh
niên xung phong phục vụ trong Trường Sơn. Chẳng phải là rất nhiều cậu kể trên
tuyến đường nọ -- hình như đường 20 thì phải - có những tốp nữ thanh niên Hà Nội
vẫn sống rất lịch sự. Họ làm đường phá bom rất giỏi, nhưng trong đêm liên hoan đầu xuân lại xuất hiện trong những
tà áo dài may từ dù pháo sáng. Đến đâu, họ cũng vẫn nhớ họ là người Thủ đô. Đấy
là một mặt. Mặt khác, những nếp sống ở chiến trường cũng tràn về Hà Nội, và đây
là một mặt thứ hai, mặt này cũng rất quan trọng, chỉ vì nó đến dần dà mà không
ai nói rõ ra.
-- Chắc
các ông còn nhớ những cảnh thế này: một buổi sáng nào đó, trên quãng đường nhựa,
một đại lộ lớn chạy ngang thành phố, chúng ta chợt gặp một vài chiếc xe tải, đỗ
dọc vỉa hè, trên nóc mỗi xe mắc một chiếc màn trắng dây màn buộc túm vào cành
cây, sáng bảnh rồi người ngủ trong màn cũng chưa thèm dậy, chắc hẳn hôm trước
anh ta về đến đây đã muộn… Có phải đấy là dấu hiệu của những nếp sống chiến trường
tràn về thành phố?
- Lại còn những ông bộ đội nhà mình đeo ba
lô dày cộp và mặc bộ quần áo trên mặt vải còn khâu những mẩu dây nhỏ để buộc
nguỵ trang, hay những ông không đeo xắc mà đeo cái túi mìn định hướng đi lại
thoải mái nữa chứ?
- Những cái đó thì khỏi phải nói, mình cho
là những bóng dáng nhắc nhở có ý nghĩa thường xuyên nhất rồi, chính nó làm cho
mình nhớ đến chiến trường. Để mình nói tiếp, đấy Hà Nội của mình như thế đấy,
cùng là đổi mới bao nhiêu nếp sống nữa, vậy mà nó vẫn bị gán cho là vô can, và chính
mình cũng nghĩ là nó vô can. Xưa nay, đi đâu về, mình vẫn cứ nghĩ đến Hà Nội là
được nghỉ. Trước kia, Hà Nội thường gắn với những chuyện ngơi nghỉ. Hôm nay, Hà
Nội cũng là hy sinh, chiến đấu, mà cái mức hy sinh phấn đấu của một Thủ đô,
nghĩa là có những khía cạnh lại ghê gớm
hơn ở đâu hết.
- Không hiểu các ông thế nào, lúc đầu tôi
cũng hơi lo lo về cái thành phố của mình cơ đấy. Lo dân tình xao xuyến thì ít,
mà lo người ta chủ quan thì nhiều. Quả thật, người Hà Nội mình có cái gì đó hồn
nhiên, vô tư lắm. Cho nên, trong thời gian vừa qua, bản thân tôi thú nhất là được
chứng kiến cái sắc sảo của mỗi người dân, để rồi tự mình có khái niệm đầy đủ
hơn về sự tinh tế, lịch sự của Thủ đô. Sao mà bây giờ người ta nhanh vậy! Nghe
ngóng tình hình tin tức, đoán nhận mọi chuyện, thêu dệt đủ thứ, mà như các ông
đã biết đấy, bao giờ những chuyện thêu dệt cũng có một cơ sở rất thực! Thế này
mới cừ chứ: các ông các bà ở phố nhà mình quan sát cả đường bay trinh sát của
nó để đoán ra hướng nó ném bom. Bao nhiêu trí tuệ vốn để buôn bán, để xoay xoả
lẫn nhau, bây giờ được huy động vào việc đối phó với địch - quả không có sự đối
phó nào lại tuyệt hơn thế được.
Tìm hiểu cách thức phân tích tình hình của
người dân thường nhiều lúc mình thấy rất lạ.
Nói cho đúng, họ không có lý lẽ. Họ chỉ có
một sự nhạy cảm nào đó, mà ta gọi là bản năng. Nhưng trong những ngày này, hình
như nhiều lúc lý lẽ không giải thích được mọi chuyện cho thật rõ, còn chính bản
năng lại có thể nói với người ta một ít điều sẽ đến trong đời sống. Đó là vì
thường khi cái lý lẽ của mình mới đến nửa vời, mà bản năng thì đã đi hết chính
nó. Nói thế này cho phải: đi đến cùng đường, thì cả bản năng lẫn lý trí đều gặp
nhau. Bằng chứng là những dự đoán của người dân Hà Nội trong thời gian vừa qua
đều khá chính xác.
- Thế nghĩa là theo anh, có một cái gì đó
thuộc về bí mật trong những người dân “đất thánh”, như anh em mình vẫn nói?
Cũng là một cách đặt vấn đề đấy. Còn rất nhiều bí mật ẩn giấu trong khả năng của
những người dân nơi đây, mà chỉ trong những ngày chiến tranh, chúng ta mới hé nhìn thấy, và càng ngày, càng nghĩ ra.
V
Và bây giờ tôi muốn nói trực tiếp với
anh, anh - người công dân Thủ đô không ở Hà Nội đã gần mười năm nay, và lần cuối
cùng ghé về thăm nhà đã sáu năm có lẻ. Sau cùng, với anh, với tôi, đâu là những
điều chúng ta nghĩ được về thành phố trong thời gian qua? Sau cùng, đâu là những
ý nghĩ về Hà Nội trở đi trở lại trong đầu chúng ta, một thứ ý nghĩ mà chúng ta
dựa vào đấy, như một lý do để sống?
Để bắt đầu, tôi vẫn thấy không có cách gì
khác là kiểm điểm lại quá khứ. Đó là cái năm đầu tiên Hà Nội được giải phóng. Với
chúng ta, đó là năm đầu tiên lên học Trường cấp hai. Còn nhớ trong bọn có đứa lớn
lên từ Hà Nội tạm chiếm, có đứa tuy gốc người Thủ đô nhưng theo gia đình ra
kháng chiến vừa mới trở về, chúng ta quây quần học trong mái trường có từ mấy
chục năm nay, và trong thời gian tạm chiếm, thành một trại lính — trường Chu
Văn An. Ngày ấy, mọi thứ ở thuở ban đầu, trường sở rộng rãi, cánh thanh niên cấp
hai chúng ta đã ra dáng những cậu học trò học hành nghiêm chỉnh. Ngày ấy, tất cả
đều nhịp nhàng, hòa hợp. Đường phố người đi lại vừa phải, có những bãi cỏ để học
trò đá bóng. Và những buổi đi mít-tinh, đi họp, đi lao động xây dựng Thủ đô, tất
cả thành kính, nghiêm trang. Anh có nhớ lần đầu tiên chúng ta—tôi với anh--
phát hiện ra bầu trời xanh trên thành phố, lúc đứng giữa quảng trường trong một
buổi mít tinh vào đầu hè, hình như là mít tinh nhân ngày 1 tháng 5? Tương lai,-- lúc ấy chúng ta hình dung
ra tương lai qua hình ảnh một đôi chim bay mãi vào thinh không xa thẳm. Chúng
ta cùng thi nhau xem trong hai đứa, đứa nào mắt tinh, nhìn thấy cánh chim lâu
hơn.
Hãy tạm bắt đầu bằng không khí một Hà Nội
như thế để cảm nghe mọi đổi mới của Hà Nội hôm nay - Những năm 1963, 1964, cái
thời gian chín đầy của cuộc sống hoà bình, lúc ấy chúng ta dửng dưng như mọi thời
gian vẫn qua, có ai biết đâu nó là thời gian sắp sửa của những gì đổi mới trong
cả lịch sử, do đó trong vận mệnh mỗi con người trong thành phố.
Kể cũng là may cho những ai mà sự thay đổi
trong cuộc đời riêng lại trùng với những thay đổi trong lịch sử. Mà anh là thế.
Mùa hè năm đó, sau khi học xong một ngành học cần cho chiến tranh là ngành y,
cũng như bao nhiêu thanh niên Hà Nội khác, anh đi. Còn năm học mới của chúng
tôi, những người ở lại, trùng vào những năm tháng bắt đầu của cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại - ở một khía cạnh nào đó, chúng tôi có điều kiện sống
trong một hoàn cảnh mà thời gian trước không ai hình dung ra nổi.
Hẳn anh còn nhớ mới một năm trước, không,
nửa năm trước đó thôi, đôi lúc nghe nói đến chuyện đào hầm, chúng ta còn nghe
như ai đùa bỡn: cứ nói quá như thế, làm gì ra có chuyện nó đánh Thủ đô? Chủ yếu
là mơ màng, đôi lúc như tặc lưỡi mặc kệ - đó là cách nghĩ của những người chưa
hiểu chiến tranh.
Bởi thế, về sau, nhìn lại mình, chúng tôi
cũng ngạc nhiên: phút chốc mà mình đã quen với những cảnh nhuộm áo trắng thành
áo xanh, xếp hàng ăn mì - nước một - hào (mì không người lái )và đi sơ tán.
Ngày tháng trôi đi không còn theo nhịp điệu cũ. Nhớ lại những năm 66, 67, bây
giờ tôi chỉ hình dung ra những chuyến đi, và những lần trở về liên tiếp.
Tôi không nhớ mình đã đi bao nhiêu nơi,
cũng là bao nhiêu lần trở về - cái chính là trở về, trở về với Hà Nội, Hà Nội
báo động, Hà Nội mất điện trong đêm và vắng vẻ trong cả những giờ người đi làm
và người hết giờ trở về nhà.
Một lần nào đó, trên đường phố, một thằng
bạn trong bọn chúng ta cũng đã ứa nước mắt khi thấy một xe chở nước làm việc
phun nước rửa đường. Tưởng là “thời chiến”, ai làm việc đó nữa!
Thực
ra thì có bao nhiêu chuyện có thể ứa nước mắt được.
Những
lần đi về trên những nhịp cầu bắc tạm của cây cầu qua sông thân thuộc, những lần
nép mình bên một hố cá nhân, còn kịp thấy hoa sấu rụng lưa thưa mặt đường.
Và
một lần nào đứng trên cái mảnh đất công viên ở ven Hồ Tây đã hơi trống đi vì phải
chặt cây nhường chỗ cho pháo.
Tôi tin chỉ những đứa học trò con gái
con trai từng tự tay đẩy xe bò chở cát sông Hồng về mở rộng đường Cổ Ngư để làm
nên cái vườn hoa, như bọn chúng mình, mới cảm thấy hết sự vắng vẻ bóng cây,
cùng là cảm thấy hết những phút nao lòng vì đối diện với một bầu trời thành phố
khác đi trên đầu.
Để bao giờ anh về, tôi sẽ kể tiếp với anh
tất cả những kỷ niệm ngày ấy, cũng như những ngày Hà Nội gọi là trở lại bình
thường sau đợt ném bom Giôn-xơn. Bốn năm trời, rồi bốn năm nữa, đủ để bao nhiêu
chuyện xảy ra - ở đây, tôi chỉ có thể nói một điều. Trước sau, Hà Nội vẫn biến
đổi theo một hướng. Khi nhanh khi chậm, dần dần, nhưng bao giờ Hà Nội cũng tự
chuẩn bị cho mình thật là Hà Nội, như những ngày tháng chạp 1972.
Mấy năm gọi là bình ổn sau năm 1968, cũng
chỉ là một sự trở lại nửa vời tạm bợ.
Trong suốt thời gian ấy, người ta cảm thấy như
sống trong một ngày dài không mưa không nắng công việc cứ thế kéo đi, chậm rãi,
triền miên, cho đến cái thời gian chiến đấu mười hai ngày, nó là một cái đêm
dài như tôi đã nói, nó hoàn thành một giai đoạn nào đó của cuộc chiến đấu ở Thủ
đô.
Và chúng ta, dù ở Hà Nội, hay ở nơi xa,
chúng ta có thêm một dịp để suy nghĩ, để sống hết mình với Hà Nội những năm
này.
Bị
cuốn đi trong những vất vả kiếm sống, có lúc mỗi người trong chúng ta tưởng
không đủ sức nhớ được gì về những năm tháng qua. Nhưng tận trong thâm tâm,
chúng ta biết đó là cái thời gian để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong đời mình: những
năm mình như một thanh niên lớn lên, vào đời, sống, làm việc.
Mãi gần đây, trong những chuyến đi công
tác các nơi, tôi vẫn bắt gặp nỗi kinh ngạc của nhiều người, khi hỏi về Hà Nội,
về thành phố bị ném bom trong mười hai ngày ấy. Vì sao vậy? Hình như trong đầu
óc mọi người, Hà Nội có tham dự, thì cũng chỉ là nên tham dự như mấy năm 66-67
về trước. Chúng ta ở Hà Nội, ta hơi tự ái vì Hà Nội bị kêu là vô can. Nhưng các
địa phương, các chiến trường sẵn sàng chịu đựng để Hà Nội yên lành - Hà Nội chỉ
là nơi để mọi người có dịp về nghỉ.
Với
một số người, Hà Nội vừa là dư âm những năm hoà bình ngày trước, vừa là hình ảnh
mới của đất nước về sau.
Hà Nội hãy là quá khứ, hoặc là tương lai!
Nhưng với mười hai ngày lịch sử, Hà Nội trở
thành hiện tại trong cuộc chiến tranh này. Hiện tại như nó phải thế, không ai
hiểu khác được. Hiện tại như mọi miền và mọi công việc của đất nước.
Nói tới đây, tôi lại nhớ tới câu chuyện câu
một đồng chí ở một chiến trường, sau khi ra Hà Nội công tác trở về đơn vị. Theo
thường lệ, mọi người quây quần nghe anh kể chuyện:
- Bọn này đang thiu thiu ngủ thì xe hãm
phanh đỗ lại. “Bến phà nào đây nhỉ ?”. Có cậu nhìn ra mặt nước càu nhàu. Phà
nào, phà nào à? Phà Hồ Gươm đấy. Về đến Hà Nội rồi, có xuống cho không, mơ màng
mãi”. Đồng chí ngồi trên ca bin xe gắt lên. Cả bọn nhảy ra. Đúng là đặt chân xuống
mặt đường nhựa Hà Nội thật.
Chiến tranh lạ thế, nó làm cho mọi người mải
mốt quên đi một số việc - ý đồng chí kể chuyện là vậy. Mọi người đang gật gù
trước một nhận xét sâu sắc.
Chợt một cậu từ nãy vẫn im lặng vụt đứng dậy,
gắt um lên.
- Cậu kể bậy, mình không tin, không bao giờ
mình có thể tin. Đặt điều kiện xe có đi vài ba ngày liền, đi cả ngày cả đêm nữa,
về đến Hà Nội, mình vẫn tỉnh như sáo. Gần đến Hà Nội là đầu óc người ta nhộn nhạo
cả lên rồi. Hình ảnh Hà Nội ở phía trước đánh thức trong người trở về bao nhiêu
ý nghĩ khác nhau, làm sao có thể về đến Hồ Gươm còn mơ màng tưởng là một bến
phà nào được.
Như sực tỉnh, mọi người cùng ngả ngay về
cái phát hiện người bạn vừa nói ra, xem đó như một tình cảm có thật của mỗi người
đối với Hà Nội.
Đúng thế thôi, chỉ ý nghĩ được đặt chân lên
mặt đường Thủ đô cũng làm cho mọi người ngồi trên bất cứ một chuyến xe nào trở
về cảm thấy nao lòng.
Tôi nhắc lại câu chuyện đó ở đây để nói với
anh, mà cũng là nói với chính mình. Tình cảm của mỗi chúng ta đối với Hà Nội thật
là sâu nặng, có lẽ càng ở xa như các anh lại càng sâu nặng.
Hoá ra điều tôi hứa ban đầu chỉ là nhẹ dạ:
làm sao tôi có thể nói hết những điều sau cùng chúng ta nghĩ được, qua những
ngày tháng lịch sử của cuộc chiến đấu của cả một thành phố? Tôi chỉ muốn gợi ra
ở đây, để anh, để tôi, để những người bạn khác cùng suy nghĩ. Rồi lúc nào đó,
vào một thời gian khác, những lúc khổ
hơn, những lúc sướng hơn, chúng ta còn nói về Hà Nội - có một Hà Nội hồi ấy,
Hà Nội của đất nước chiến đấu, Hà Nội của hy vọng mong chờ, Hà Nội như một lý
do để sống.
12-1973
Published on December 16, 2013 06:12
December 14, 2013
Xã hội học chiến tranh
Ghi chép từ một công trình nghiên cứu xã hội học Nga
Nếu đọc bài viết Bối cảnh lịch sử Việt nam giai đoạn 1558-1802 trên Nghiên cứu Huế tập VII, NXB Thuận Hóa 2010, ở tr 93-95, người ta sẽ thấy nhà sử học Nguyễn Hữu Châu Phan cho biết :
“Họ Nguyễn trong lãnh thổ Đàng Trong từng dùng chính sách táo bạo biến hết dân làm binh ”.
“Một tu viện trưởng là Choisy, đến Đàng Trong vào năm 1656, nhận xét “Người Đàng Trong chỉ sống với chiến tranh.”
Thích Đại Sán, một nhà sư Trung quốc cũng có mặt thời ấy thì ghi
nhận là "trong nước[ Đàng Trong] , hay bàn việc võ bị, chẳng chuộng văn
đức".
Ông này còn kể:
"hỏi chuyện biết rằng trong nước trăm thứ thợ đều
do quân nhơn làm. Mỗi năm vào khoảng tháng ba tháng tư quân nhơn đi các
làng, bắt dân từ 16 trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng
gông lại bằng một cái gông tre, hình như cái thang, nhưng hẹp hơn, để
giải về phủ, sung quân;
vào quân đội rồi mỗi người bắt chuyên học một
nghề ...có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm
xâu ... Những dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu tàn tật chẳng có mấy người
mạnh mẽ “.
Cả Đàng Ngoài thời ấy cũng được tổ chức để sẵn sàng chinh chiến.
Nhiều tài liệu của các giáo sĩ phương Tây gọi các chúa Trịnh là các
tướng quân, các đại nguyên súy...
Nhưng đó không phải là đặc điểm riêng của nước Việt thế kỷ XVII - XVIII .
Mà
trên nét lớn, phải nhận là tình hình chung của dân mình xứ sở mình quốc
gia mình kéo dài suốt cả trường kỳ lịch sử .
Có cảm tưởng như trong
quá khứ, trong phần lớn thời gian tồn tại, cộng đồng chúng ta sống như
một đạo quân hơn là một xã hội bình thường. Hoặc đó là một xã hội quân
sự hóa hơn là xã hội dân sự.
Muốn hiểu một quá khứ như thế, người nghiên cứu phải đi vào tìm
hiểu tác động của chiến tranh tới cách tổ chức xã hội cũng như sự hình
thành cá nhân nói chung.
Nhưng ở ta hướng nghiên cứu này gần như chưa được triển khai.
Trên
đường tìm tới một cái nhìn khái quát, chúng ta không thể không bảo
nhau cầu viện những sự trợ giúp của sách vở nước ngoài, nhất là thành tựu của
các ngành khoa học xã hội hiện đại.
Sau đây là một tài liệu tiếng Nga tôi đã tìm được và tạm ghi chép lại
( chứ không phải là bản lược thuật chính xác cuốn sách đã đọc ).
Xã hội học chiến tranh
Bản tiếng Nga của V.V. Serebryannikov
Tác giả sách là giáo sư tiến sĩ khoa học triết học .Sách
nằm trong chương trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội chính
trị Viện hàn lâm khoa học Nga và Trung tâm xã hội học các vấn đề an
ninh quốc gia
Nhà xuất bản Thế giới khoa học , Moskva, 1977
Chương III
Chiến tranh và xã hội.
Tác động chiến tranh tới xã hội
Chiến tranh khá hào hiệp trong việc “chặt phá” “đốn ngã” những người
mạnh khoẻ, tài năng đương sức. Số phần trăm người xuất sắc có tài có đạo
lý mà chết lớn hơn nhiều so với số phần trăm những kẻ bình thường.
Điều này khiến cho sau chiến tranh, tiềm năng sáng tạo của xã hội bị hạ thấp. (Theo P.Sorokin Tình trạng hiện thời của nước Nga , in trên tạp chí Novyi Mir 1992 số 4-5 ).
Đầu chiến tranh vệ quốc, tất cả nam giới ở các trường cao đẳng đi lính. Số này chết với tỷ lệ cao, gấp 6-7 lần người thường.
P. Sorokin kết luận, tất cả các cuộc chiến tranh và cách mạng đều là
công cụ chọn lọc có tính chất tiêu cực trước hết với những yếu tố ưu tú trong cư dân.
[tr 90] Chiến tranh đưa đám đông trở lại tình trạng dã man, làm tan rã
đời sống tinh thần, làm họ hung bạo như thú dữ, làm họ hoang dã như các
giống vật chưa thuần hoá. Cùng với chiến tranh là sự phổ biến của bạo
lực, sự phi nhân hoá, sự thụt lùi, tan vỡ các giá trị cuộc sống. Các
cuộc chiến tranh lớn là nhân tố làm thoái hoá con người.
Trong chiến tranh các dân tộc trở nên phân hoá, người theo ta, người
theo địch, người đi du kích, người trốn tránh. Chiến tranh làm cho con người trở nên
giống nhau, làm cho dân tộc tự tách biệt khỏi thế giới. Chỉ với các xã
hội theo mô hình chủng tộc -- những dạng xã hội không có cá nhân và,
nói cho chính xác ra là chưa hình thành V.T.N.-- chiến tranh mới là
nhân tố khiến nó trở nên gắn kết.
[tr 94] Chiến tranh phục vụ lớp người có quyền. Còn những nhà văn hoá,
nhà khoa học thì đóng vai “chiến đấu” – “ca ngợi” - theo đơn đặt hàng
của lớp người có quyền đó.
Chiến tranh làm cho những người thuộc loại dân đen song liều lĩnh táo
gan – nói một cách sang trọng là có tinh thần dũng cảm, thông minh --
sớm được đứng vào hàng ngũ quý tộc quân sự và chuẩn bị bước vào giai
tầng lãnh đạo.
Chớ nên dừng lại ở những cuộc chiến tranh lớn. Chính những cuộc chiến tranh nhỏ cũng làm mòn sức lực con người.
Các dân tộc quen chiến tranh cũng sinh thói quen dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
[Tr 95] Chiến tranh là một hiện tượng chém giết tự phát ….
Từ thời cổ, chiến tranh tạo ra sự vận động xã hội. Tính chất tiến bộ của
chiến tranh là thuộc về quá khứ. Trong xã hội hiện đại, người ta không
tìm thấy ở đây một cái gì tương tự; ngược lại, người ta chỉ thấy kinh
tởm và xa lạ.
Với chiến tranh, người ta đánh mất mình. Họ không còn khả năng chịu đựng
sức ép nặng nề của nó, không còn khả năng bình phục trước mọi đòn đánh
của nó.
Trong lúc các nhà quân sự hay nghĩ tới đại chiến thế giới (!), thì thật
ra cả những cuộc chiến tranh nhỏ cũng không phải là không tránh khỏi.
Giờ đây, người ta thường coi nó chẳng qua chỉ là kết quả của những lựa
chọn sai lầm tuỳ tiện của các nhà chính trị, khi những người này suy
nghĩ bằng những phạm trù của các thế kỷ cũ.
Mang lên mà cân tính, thì thấy:
1. Chiến tranh hại nhiều hơn lợi.
2. Số cuộc chiến tranh “thúc đẩy tiến bộ” chỉ là một số nhỏ trong lịch sử.
3. Phạm trù “tính tiến bộ” không áp dụng được với những cuộc chiến tranh hiện đại (thời khoa học kỹ thuật)
Vũ khí hiện đại biến chiến tranh thành một hiện tượng bùng phát của huỷ diệt.
Riêng về các cuộc nội chiến:
- Vật hy sinh ở đây là dân thường
- Sau chiến tranh, họ rất khó chuyển sang đời sống lao động bình thường
Nẩy sinh nội chiến khi có thay đổi ghê gớm trong hệ thống giá trị của
xã hội. Với nhóm xã hội này, hệ thống ấy là bắt buộc; với nhóm khác lại
không thể chịu được.
Chương VII
Con người và chiến tranh
[tr
224] Chiến tranh bộc lộ tài thao lược, sáng kiến. Chiến tranh cho thấy
một chiều sâu và cả quy mô của sự suy nghĩ. Tạo nên sự dũng cảm, hy
sinh, sự cứu giúp lẫn nhau.
Đồng thời trong con người có sẵn yếu tố muốn chiếm đoạt, gây gổ, chém giết. Chiến tranh đẩy nhanh những cái đó.
[tr 227] Dẫn lại P. Sorokin
“Trong chiến tranh, tầng lớp tinh hoa và cả
những người theo quan niệm dân gian là “người tốt”, thường dễ chết, do
đó chết nhiều hơn; bọn tội phạm, cầu an, lưu manh làm bậy... dễ sống
sót hơn.
Trong từng con người, những yếu tố tiêu cực ấy cũng chiến thắng luôn
phần tốt đẹp. Chiến tranh làm nghèo đi các quỹ “gien” của nhân loại”.
Sorokin cho chiến tranh giống với người làm vườn phá bỏ thứ rau lành, nhưng để lại cỏ dại, và hơn thế làm cỏ dại nhân lên nhiều lần.
Với việc cổ động cho việc giết người hàng loạt, chiến tranh làm mất giá bản thân đời sống.
Từ
đây người ta hiểu tại sao những kẻ chủ trương chiến tranh thường cổ
động cho sự sùng bái khuynh hướng tội ác. Khắc nghiệt tàn bạo; khát máu;
sẵn sàng tàn phá các giá trị vật chất và tinh thần.
Kể cả thói quen
cướp bóc cũng được dung túng.
Sau chiến tranh, nhân loại trở nên kém cỏi tồi tàn đi về mọi phương diện, đặc biệt về đạo đức.
Chiến tranh ảnh hưởng tới sinh lý con người. Ảnh hưởng tới việc xã hội hoá con người.
Đám đông tha hóa
[Tr 229] Với K. Clausevítz, chiến tranh là một loại hoạt động chung sống
của con người. Người ta thấy nó ở mọi thời đại mọi cộng đồng.
Chiến tranh có tác dụng tới việc lựa chọn xã hội chọn lọc .
Nhưng chiến tranh càng phát triển, vai trò này càng giảm thiểu và nó trở thành một cái gì có thể tiêu diệt cả nhân loại.
Tác dụng tiêu cực bộc lộ theo nhiều hướng. Nó làm tha hoá đám đông, làm
họ xa rời lao động xây dựng và sáng tạo, làm cho phần lớn cư dân rơi
vào chết chóc, thương tật.
Tăng tổng số người chết, hạn chế số sinh đẻ. Hạn chế tự do. Làm xấu đi
điều kiện xã hội hoá con người cũng tức là những điều kiện để phát triển
và bộc lộ tài năng sáng tạo.
[tr 233] Chiến tranh càng phi nghĩa - phi lý, thì sự suy thoái càng rõ.
Tình trạng thoái hoá xảy ra ở những kẻ điên cuồng, “anh hùng hoá“ trong
chiến tranh. Đạo lý chỉ còn ở những người có ý thức từ bỏ nó, chống lại
nó, lên án kẻ chủ trương nó.
[ tr 234] Trong chiến tranh người ta không thể thắng nếu không hình
thành nối trong đội quân mình, giữa các đồng đội của mình, lòng căm thù
với quân địch.
[Rồi lòng căm thù ấy không rời bỏ họ nữa.Họ quay sang căm thù lẫn nhau]
[tr 235] Các chế độ quyền uy không quan tâm tới việc biến nhân dân thành chủ thể lịch sử mà chỉ là muốn kiểm soát và chỉ huy họ.
Nỗi sợ
[tr 236] Theo N. Golovin, có hai hướng nghiên cứu quá trình chiến
tranh.
Nghiên cứu bề ngoài -- các chiến dịch, trận đánh.
Và nghiên cứu
phía bên trong. Sự thể nghiệm của con người -- bằng máu thịt của mình
-- những cảm giác về tình trạng đạo đức của bản thân.
Cả hai đều là nội dung chủ yếu của việc
nghiên cứu về con người trong chiến tranh.
[tr 239] Cần nghiên cứu sự tiến hoá trong tính tích cực chiến đấu của
chiến sĩ, những yếu tố phát triển sáng kiến sự sáng tạo để đạt tới thắng
lợi.Tuỳ theo con người mà các hành động trong chiến tranh có thể thế
này có thể thế khác.
Lại cần nghiên cứu về nỗi sợ. Người nào cũng có ám ảnh.
[tr 243.]75% những người tham gia chiến tranh tự nhận dù đã được học
hỏi, quen với các vấn đề kỹ thuật có tinh thần kỷ luật… song vẫn tỏ ra
tiêu cực “lúng túng, hèn, ngại khi vào cuộc, trước tiên là vì mặc cảm
yếu kém, cảm thấy mình không là gì cả, lo âu, sợ hãi”
Quân đội Liên xô có thời gian chạy dài từ 28-6 tới 24-7 1942. Một cuộc
rút chạy kinh khủng. Trong gần một tháng, rút 400km. Một ngày một đêm đi
15 km.
28-7-1942 có một lệnh đặc biệt của Stalin. Cấm không được quay ngược.
Chỉ huy có quyền bắn. Lệnh này hết sức tàn nhẫn, nhưng không có quy định
như vậy, không có chiến thắng Stalingrad. Qua đây ta hiểu cái gì đã
giúp con người vượt qua nỗi sợ.
Nhiều thống kê cho thấy độ co dãn của người chiến binh Nga rất cao và các nhà chỉ huy đã khai thác nó triệt để.
Chủ nghĩa anh hùng và thời hiện đại
[tr 254] Hiện nay, nhiều người nói về sự phi anh hùng hoá tức sự sụp đổ
của chủ nghĩa anh hùng. Nguyên do = cách mạng khoa học kỹ thuật biến
người lính thành cái máy.
Hết chủ nghĩa anh hùng = hết những người lãng mạn.
Chủ nghĩa anh hùng liên quan đến vị trí mang tính không gian của người
lính trong chiến đấu.
Nó cần khi đánh nhau giáp lá cà, gươm dáo, đánh
nhau bằng súng nhỏ.
Và không thật cần, chẳng hạn, khi đánh nhau bằng pháo
binh (lúc ấy không nhìn thấy nhau). Khoảng cách vũ khí càng xa càng ít
yêu cầu dũng cảm mà chỉ cần thực hiện đúng mệnh lệnh.
Đúng hơn, lúc này cần một thứ chủ nghĩa anh hùng trí thức, tức sự dũng cảm trong việc thực hiện những quyết định.
Thời chiến tranh các đơn vị thông tin kỹ thuật không có anh hùng.

“Họ Nguyễn trong lãnh thổ Đàng Trong từng dùng chính sách táo bạo biến hết dân làm binh ”.
“Một tu viện trưởng là Choisy, đến Đàng Trong vào năm 1656, nhận xét “Người Đàng Trong chỉ sống với chiến tranh.”
Thích Đại Sán, một nhà sư Trung quốc cũng có mặt thời ấy thì ghi
nhận là "trong nước[ Đàng Trong] , hay bàn việc võ bị, chẳng chuộng văn
đức".
Ông này còn kể:
"hỏi chuyện biết rằng trong nước trăm thứ thợ đều
do quân nhơn làm. Mỗi năm vào khoảng tháng ba tháng tư quân nhơn đi các
làng, bắt dân từ 16 trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng
gông lại bằng một cái gông tre, hình như cái thang, nhưng hẹp hơn, để
giải về phủ, sung quân;
vào quân đội rồi mỗi người bắt chuyên học một
nghề ...có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm
xâu ... Những dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu tàn tật chẳng có mấy người
mạnh mẽ “.
Cả Đàng Ngoài thời ấy cũng được tổ chức để sẵn sàng chinh chiến.
Nhiều tài liệu của các giáo sĩ phương Tây gọi các chúa Trịnh là các
tướng quân, các đại nguyên súy...
Nhưng đó không phải là đặc điểm riêng của nước Việt thế kỷ XVII - XVIII .
Mà
trên nét lớn, phải nhận là tình hình chung của dân mình xứ sở mình quốc
gia mình kéo dài suốt cả trường kỳ lịch sử .
Có cảm tưởng như trong
quá khứ, trong phần lớn thời gian tồn tại, cộng đồng chúng ta sống như
một đạo quân hơn là một xã hội bình thường. Hoặc đó là một xã hội quân
sự hóa hơn là xã hội dân sự.
Muốn hiểu một quá khứ như thế, người nghiên cứu phải đi vào tìm
hiểu tác động của chiến tranh tới cách tổ chức xã hội cũng như sự hình
thành cá nhân nói chung.
Nhưng ở ta hướng nghiên cứu này gần như chưa được triển khai.
Trên
đường tìm tới một cái nhìn khái quát, chúng ta không thể không bảo
nhau cầu viện những sự trợ giúp của sách vở nước ngoài, nhất là thành tựu của
các ngành khoa học xã hội hiện đại.
Sau đây là một tài liệu tiếng Nga tôi đã tìm được và tạm ghi chép lại
( chứ không phải là bản lược thuật chính xác cuốn sách đã đọc ).
Xã hội học chiến tranh
Bản tiếng Nga của V.V. Serebryannikov
Tác giả sách là giáo sư tiến sĩ khoa học triết học .Sách
nằm trong chương trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội chính
trị Viện hàn lâm khoa học Nga và Trung tâm xã hội học các vấn đề an
ninh quốc gia
Nhà xuất bản Thế giới khoa học , Moskva, 1977
Chương III
Chiến tranh và xã hội.


Chiến tranh khá hào hiệp trong việc “chặt phá” “đốn ngã” những người
mạnh khoẻ, tài năng đương sức. Số phần trăm người xuất sắc có tài có đạo
lý mà chết lớn hơn nhiều so với số phần trăm những kẻ bình thường.
Điều này khiến cho sau chiến tranh, tiềm năng sáng tạo của xã hội bị hạ thấp. (Theo P.Sorokin Tình trạng hiện thời của nước Nga , in trên tạp chí Novyi Mir 1992 số 4-5 ).
Đầu chiến tranh vệ quốc, tất cả nam giới ở các trường cao đẳng đi lính. Số này chết với tỷ lệ cao, gấp 6-7 lần người thường.
P. Sorokin kết luận, tất cả các cuộc chiến tranh và cách mạng đều là
công cụ chọn lọc có tính chất tiêu cực trước hết với những yếu tố ưu tú trong cư dân.
[tr 90] Chiến tranh đưa đám đông trở lại tình trạng dã man, làm tan rã
đời sống tinh thần, làm họ hung bạo như thú dữ, làm họ hoang dã như các
giống vật chưa thuần hoá. Cùng với chiến tranh là sự phổ biến của bạo
lực, sự phi nhân hoá, sự thụt lùi, tan vỡ các giá trị cuộc sống. Các
cuộc chiến tranh lớn là nhân tố làm thoái hoá con người.
Trong chiến tranh các dân tộc trở nên phân hoá, người theo ta, người
theo địch, người đi du kích, người trốn tránh. Chiến tranh làm cho con người trở nên
giống nhau, làm cho dân tộc tự tách biệt khỏi thế giới. Chỉ với các xã
hội theo mô hình chủng tộc -- những dạng xã hội không có cá nhân và,
nói cho chính xác ra là chưa hình thành V.T.N.-- chiến tranh mới là
nhân tố khiến nó trở nên gắn kết.
[tr 94] Chiến tranh phục vụ lớp người có quyền. Còn những nhà văn hoá,
nhà khoa học thì đóng vai “chiến đấu” – “ca ngợi” - theo đơn đặt hàng
của lớp người có quyền đó.
Chiến tranh làm cho những người thuộc loại dân đen song liều lĩnh táo
gan – nói một cách sang trọng là có tinh thần dũng cảm, thông minh --
sớm được đứng vào hàng ngũ quý tộc quân sự và chuẩn bị bước vào giai
tầng lãnh đạo.
Chớ nên dừng lại ở những cuộc chiến tranh lớn. Chính những cuộc chiến tranh nhỏ cũng làm mòn sức lực con người.
Các dân tộc quen chiến tranh cũng sinh thói quen dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
[Tr 95] Chiến tranh là một hiện tượng chém giết tự phát ….
Từ thời cổ, chiến tranh tạo ra sự vận động xã hội. Tính chất tiến bộ của
chiến tranh là thuộc về quá khứ. Trong xã hội hiện đại, người ta không
tìm thấy ở đây một cái gì tương tự; ngược lại, người ta chỉ thấy kinh
tởm và xa lạ.
Với chiến tranh, người ta đánh mất mình. Họ không còn khả năng chịu đựng
sức ép nặng nề của nó, không còn khả năng bình phục trước mọi đòn đánh
của nó.
Trong lúc các nhà quân sự hay nghĩ tới đại chiến thế giới (!), thì thật
ra cả những cuộc chiến tranh nhỏ cũng không phải là không tránh khỏi.
Giờ đây, người ta thường coi nó chẳng qua chỉ là kết quả của những lựa
chọn sai lầm tuỳ tiện của các nhà chính trị, khi những người này suy
nghĩ bằng những phạm trù của các thế kỷ cũ.
Mang lên mà cân tính, thì thấy:
1. Chiến tranh hại nhiều hơn lợi.
2. Số cuộc chiến tranh “thúc đẩy tiến bộ” chỉ là một số nhỏ trong lịch sử.
3. Phạm trù “tính tiến bộ” không áp dụng được với những cuộc chiến tranh hiện đại (thời khoa học kỹ thuật)
Vũ khí hiện đại biến chiến tranh thành một hiện tượng bùng phát của huỷ diệt.
Riêng về các cuộc nội chiến:
- Vật hy sinh ở đây là dân thường
- Sau chiến tranh, họ rất khó chuyển sang đời sống lao động bình thường
Nẩy sinh nội chiến khi có thay đổi ghê gớm trong hệ thống giá trị của
xã hội. Với nhóm xã hội này, hệ thống ấy là bắt buộc; với nhóm khác lại
không thể chịu được.
Chương VII
Con người và chiến tranh

[tr
224] Chiến tranh bộc lộ tài thao lược, sáng kiến. Chiến tranh cho thấy
một chiều sâu và cả quy mô của sự suy nghĩ. Tạo nên sự dũng cảm, hy
sinh, sự cứu giúp lẫn nhau.
Đồng thời trong con người có sẵn yếu tố muốn chiếm đoạt, gây gổ, chém giết. Chiến tranh đẩy nhanh những cái đó.
[tr 227] Dẫn lại P. Sorokin
“Trong chiến tranh, tầng lớp tinh hoa và cả
những người theo quan niệm dân gian là “người tốt”, thường dễ chết, do
đó chết nhiều hơn; bọn tội phạm, cầu an, lưu manh làm bậy... dễ sống
sót hơn.
Trong từng con người, những yếu tố tiêu cực ấy cũng chiến thắng luôn
phần tốt đẹp. Chiến tranh làm nghèo đi các quỹ “gien” của nhân loại”.
Sorokin cho chiến tranh giống với người làm vườn phá bỏ thứ rau lành, nhưng để lại cỏ dại, và hơn thế làm cỏ dại nhân lên nhiều lần.
Với việc cổ động cho việc giết người hàng loạt, chiến tranh làm mất giá bản thân đời sống.

đây người ta hiểu tại sao những kẻ chủ trương chiến tranh thường cổ
động cho sự sùng bái khuynh hướng tội ác. Khắc nghiệt tàn bạo; khát máu;
sẵn sàng tàn phá các giá trị vật chất và tinh thần.
Kể cả thói quen
cướp bóc cũng được dung túng.
Sau chiến tranh, nhân loại trở nên kém cỏi tồi tàn đi về mọi phương diện, đặc biệt về đạo đức.
Chiến tranh ảnh hưởng tới sinh lý con người. Ảnh hưởng tới việc xã hội hoá con người.
Đám đông tha hóa
[Tr 229] Với K. Clausevítz, chiến tranh là một loại hoạt động chung sống
của con người. Người ta thấy nó ở mọi thời đại mọi cộng đồng.
Chiến tranh có tác dụng tới việc lựa chọn xã hội chọn lọc .
Nhưng chiến tranh càng phát triển, vai trò này càng giảm thiểu và nó trở thành một cái gì có thể tiêu diệt cả nhân loại.
Tác dụng tiêu cực bộc lộ theo nhiều hướng. Nó làm tha hoá đám đông, làm
họ xa rời lao động xây dựng và sáng tạo, làm cho phần lớn cư dân rơi
vào chết chóc, thương tật.
Tăng tổng số người chết, hạn chế số sinh đẻ. Hạn chế tự do. Làm xấu đi
điều kiện xã hội hoá con người cũng tức là những điều kiện để phát triển
và bộc lộ tài năng sáng tạo.
[tr 233] Chiến tranh càng phi nghĩa - phi lý, thì sự suy thoái càng rõ.
Tình trạng thoái hoá xảy ra ở những kẻ điên cuồng, “anh hùng hoá“ trong
chiến tranh. Đạo lý chỉ còn ở những người có ý thức từ bỏ nó, chống lại
nó, lên án kẻ chủ trương nó.
[ tr 234] Trong chiến tranh người ta không thể thắng nếu không hình
thành nối trong đội quân mình, giữa các đồng đội của mình, lòng căm thù
với quân địch.
[Rồi lòng căm thù ấy không rời bỏ họ nữa.Họ quay sang căm thù lẫn nhau]
[tr 235] Các chế độ quyền uy không quan tâm tới việc biến nhân dân thành chủ thể lịch sử mà chỉ là muốn kiểm soát và chỉ huy họ.
Nỗi sợ
[tr 236] Theo N. Golovin, có hai hướng nghiên cứu quá trình chiến
tranh.
Nghiên cứu bề ngoài -- các chiến dịch, trận đánh.
Và nghiên cứu
phía bên trong. Sự thể nghiệm của con người -- bằng máu thịt của mình
-- những cảm giác về tình trạng đạo đức của bản thân.
Cả hai đều là nội dung chủ yếu của việc
nghiên cứu về con người trong chiến tranh.
[tr 239] Cần nghiên cứu sự tiến hoá trong tính tích cực chiến đấu của
chiến sĩ, những yếu tố phát triển sáng kiến sự sáng tạo để đạt tới thắng
lợi.Tuỳ theo con người mà các hành động trong chiến tranh có thể thế
này có thể thế khác.
Lại cần nghiên cứu về nỗi sợ. Người nào cũng có ám ảnh.
[tr 243.]75% những người tham gia chiến tranh tự nhận dù đã được học
hỏi, quen với các vấn đề kỹ thuật có tinh thần kỷ luật… song vẫn tỏ ra
tiêu cực “lúng túng, hèn, ngại khi vào cuộc, trước tiên là vì mặc cảm
yếu kém, cảm thấy mình không là gì cả, lo âu, sợ hãi”
Quân đội Liên xô có thời gian chạy dài từ 28-6 tới 24-7 1942. Một cuộc
rút chạy kinh khủng. Trong gần một tháng, rút 400km. Một ngày một đêm đi
15 km.
28-7-1942 có một lệnh đặc biệt của Stalin. Cấm không được quay ngược.
Chỉ huy có quyền bắn. Lệnh này hết sức tàn nhẫn, nhưng không có quy định
như vậy, không có chiến thắng Stalingrad. Qua đây ta hiểu cái gì đã
giúp con người vượt qua nỗi sợ.
Nhiều thống kê cho thấy độ co dãn của người chiến binh Nga rất cao và các nhà chỉ huy đã khai thác nó triệt để.
Chủ nghĩa anh hùng và thời hiện đại
[tr 254] Hiện nay, nhiều người nói về sự phi anh hùng hoá tức sự sụp đổ
của chủ nghĩa anh hùng. Nguyên do = cách mạng khoa học kỹ thuật biến
người lính thành cái máy.
Hết chủ nghĩa anh hùng = hết những người lãng mạn.
Chủ nghĩa anh hùng liên quan đến vị trí mang tính không gian của người
lính trong chiến đấu.
Nó cần khi đánh nhau giáp lá cà, gươm dáo, đánh
nhau bằng súng nhỏ.
Và không thật cần, chẳng hạn, khi đánh nhau bằng pháo
binh (lúc ấy không nhìn thấy nhau). Khoảng cách vũ khí càng xa càng ít
yêu cầu dũng cảm mà chỉ cần thực hiện đúng mệnh lệnh.
Đúng hơn, lúc này cần một thứ chủ nghĩa anh hùng trí thức, tức sự dũng cảm trong việc thực hiện những quyết định.
Thời chiến tranh các đơn vị thông tin kỹ thuật không có anh hùng.
Published on December 14, 2013 20:16
December 11, 2013
Những cảnh báo cay đắng
Một vài năm gần đây, giải Nobel
văn học bị nhiều người kêu rêu, không chấp nhận và thậm chí là phản đối.
Năm 2004 là trường hợp
Elfriede Jelinek (Áo), năm 2009 là trường hợp Herta Muller (Đức).
Ở thời điểm
2013, nhìn lại chúng ta thấy còn thêm cả những trường hợp khác.
Nhưng trong bài bày, tôi chỉ muốn dừng lại ở hai tên tuổi nói
trên.
Sở dĩ cả Jelinek lẫn Herta Muller bị “đặt thành vấn đề” không
phải do họ viết dở – xưa nay không thiếu tác giả được giải Nobel xong là rơi
vào quên lãng – mà cái chính là bởi cả hai bà này có nhiều tư tưởng lạ.
Có lần Elfriede Jelinek tự nhận mình là người chuyên đi dọn những thứ rác rưởi
trong cảm xúc: “Có ai chịu làm công việc bẩn thỉu đó đâu? Tôi thì lại xem như
được số phận giao phó”. Có lẽ vì thế Vatican có lần đã gọi Jelinek là người đàn
bà điên loạn, hư vô.
Một hướng suy nghĩ tương tự cũng thấy ở Herta Muller. Trong tác phẩm của bà,
con người được miêu tả như là họ bị nhốt trong ác mộng. Họ là nhân chứng của một
thế giới bị thống trị bởi hận thù. Bằng các nghi lễ và chuẩn mực giả dối, thế
giới này đối xử với họ tàn ác, vô cảm.
Muller quan niệm: “Tôi không có bổn phận gì hết đối với văn học. Những gì tôi
viết là để hoàn thành sứ mệnh đối với bản thân tôi”. Thủ tướng Đức A. Merkel
thì bảo tác phẩm của Herta Muller là “bằng chứng về nỗi sợ hãi nhưng
cũng chứng tỏ [ở người viết có] một lòng dũng cảm phi thường”.
Một điều đặc biệt là thái độ của hai nhà văn này với xứ sở mà họ lớn lên. Họ
thường sống cô độc, ít người biết tiếng. Jelinek đã gây sốc cho chính đất nước
quê hương, khi bà đay đi đay lại chuyện nước Áo trong Chiến tranh thế giới thứ
2. Bà phát biểu vào năm 1980: “Áo là một quốc gia tội ác”.
Trường hợp Herta Muller hơi tế nhị một chút. Sinh ra ở Romania nhưng bà lại là
người Đức và hiện sống ở Đức. Từ hoàn cảnh riêng, bà bảo “quê hương là thứ người ta không thể chịu đựng
được mà cũng lại là thứ không buông tha người ta bao giờ” .
Với người có cách nghĩ cổ điển – luôn coi quê hương là một thứ khái niệm thiêng
liêng – những phát biểu này chỉ gây những phản cảm.
Nhưng sự phát triển của lịch sử là thế. Nhìn chung cả giải Nobel văn học mấy chục
năm nay, tôi có cảm tưởng nay là lúc những giá trị kinh điển, những đầu óc kỳ
vĩ được cả nhân loại công nhận – cỡ như Sartre và Camus – không còn nữa.
Nhân loại đang quằn quại đi tìm những tư tưởng mới. Mỗi một tư tưởng mới mẻ này
có phần độc đáo riêng của nó, nhưng nhìn chung, phần lớn giống nhau ở chỗ đều
đi vào hướng nghịch thường.
Nó gây sốc, bởi nó muốn vượt qua những giới hạn mà
xưa nay người ta phải dừng lại. Nếu các tư tưởng cổ điển là thuộc về thần
thánh, thì những tư tưởng mới nhiều khi có bộ mặt của quỷ dữ.
Nó là cái người
ta muốn từ bỏ mà không nổi.
Năm 2005, giải Nobel văn học được trao cho nhà văn người đảo quốc Trinidad là
V.S.Naipaul. Trong lời phát biểu khi nhận giải, Naipaul chỉ cảm ơn nước Anh mà
ông gọi là ngôi nhà của tôi, và Ấn Độ là đất nước của tổ tiên tôi.
Lý do là, theo ông, nếu
không có nước Anh, ông sẽ không hiểu được những gì xảy ra tại Trinidad. Khi có người hỏi ông sao không cảm ơn tổ quốc
mình, ông bảo họ phải cảm ơn ông mới đúng, vì nhờ có ông mà người ta biết rằng
có một xứ sở tên là Trinidad. Toàn cách trả lời mà giá như gặp
phải dân mình thì no đòn!
Chung quanh con người hiện nay, thế giới cũng đang đi tới những quan niệm mà
thoạt nhìn dễ cho là kỳ quặc, phi nhân đạo.
Năm 1991, nhân dịp chiến
tranh lạnh kết thúc, triết gia A. Gluksman (Pháp) đưa ra mấy điều tổng kết, trong
đó cảnh báo:
1. Cái ác luôn ẩn chứa trong con người;
2. Cần phải luôn luôn hoài nghi về cái thiện, cần phải thừa nhận
vĩnh viễn rằng thế giới là lộn xộn, có một nguy cơ hỗn loạn thường xuyên hiện
diện.
“Không có gì không thuộc về con người lại xa lạ
với chúng ta cả”, Gluksman khái quát.
Nên nói ngay là cũng công thức này, nhưng một giáo sư đại học đồng thời là nhà
văn, Umberto Eco, phát biểu một cách khác.
Theo Eco, đang hình thành một hình thái mới của cái tôi,của con người nói chung.
Nó không còn chắc đặc và thống nhất
nữa mà được cấu thành bởi tính cách vô chính phủ của các nguyên tử.
Trở lại với
Nietzsche, Eco giả định rằng nay không
phải là thời của các siêu nhân mà là thời của những con – người – bên – kia –
con – người.
Tức nay là lúc con người tiến
mãi về phía cái phi nhân.
Một lời cảnh báo cay đắng!
Như vậy là Gluksman, cũng như Jelinek, Muller của giải Nobel, không đơn độc.
Từ mấy mẩu chuyện trên, quay về với đời sống trí thức xứ mình, trong đầu óc tôi
trở đi trở lại những câu hỏi.
Có phải mọi dự báo đều có quyền tồn tại, miễn nó
đã được nghiền ngẫm một cách khoa học?
Ai mà biết được sự vận động sẽ đưa nhân
loại tới đâu?
Đến bao giờ chúng ta mới biết rằng tiêu chuẩn của chân lý không
phải là sự chấp nhận của đám đông?
Mặt khác, đến bao giờ những đầu óc ưu tú của
cộng đồng mới được làm công việc thể nghiệm, rồi dự báo những xu thế sẽ tới của
xã hội Việt Nam, và mang chia sẻ với thế giới, nhờ họ kiểm tra hộ, mà cũng là giúp họ tự nhận thức?
Chúng ta đã có những đầu óc ưu tú loại đó chưa? Nếu chưa có, thì làm sao
để đào tạo? Mà với tình hình này, có đào tạo được không?
Đã in TBKTSG 11-2009
văn học bị nhiều người kêu rêu, không chấp nhận và thậm chí là phản đối.
Năm 2004 là trường hợp
Elfriede Jelinek (Áo), năm 2009 là trường hợp Herta Muller (Đức).
Ở thời điểm
2013, nhìn lại chúng ta thấy còn thêm cả những trường hợp khác.
Nhưng trong bài bày, tôi chỉ muốn dừng lại ở hai tên tuổi nói
trên.
Sở dĩ cả Jelinek lẫn Herta Muller bị “đặt thành vấn đề” không
phải do họ viết dở – xưa nay không thiếu tác giả được giải Nobel xong là rơi
vào quên lãng – mà cái chính là bởi cả hai bà này có nhiều tư tưởng lạ.
Có lần Elfriede Jelinek tự nhận mình là người chuyên đi dọn những thứ rác rưởi
trong cảm xúc: “Có ai chịu làm công việc bẩn thỉu đó đâu? Tôi thì lại xem như
được số phận giao phó”. Có lẽ vì thế Vatican có lần đã gọi Jelinek là người đàn
bà điên loạn, hư vô.
Một hướng suy nghĩ tương tự cũng thấy ở Herta Muller. Trong tác phẩm của bà,
con người được miêu tả như là họ bị nhốt trong ác mộng. Họ là nhân chứng của một
thế giới bị thống trị bởi hận thù. Bằng các nghi lễ và chuẩn mực giả dối, thế
giới này đối xử với họ tàn ác, vô cảm.
Muller quan niệm: “Tôi không có bổn phận gì hết đối với văn học. Những gì tôi
viết là để hoàn thành sứ mệnh đối với bản thân tôi”. Thủ tướng Đức A. Merkel
thì bảo tác phẩm của Herta Muller là “bằng chứng về nỗi sợ hãi nhưng
cũng chứng tỏ [ở người viết có] một lòng dũng cảm phi thường”.
Một điều đặc biệt là thái độ của hai nhà văn này với xứ sở mà họ lớn lên. Họ
thường sống cô độc, ít người biết tiếng. Jelinek đã gây sốc cho chính đất nước
quê hương, khi bà đay đi đay lại chuyện nước Áo trong Chiến tranh thế giới thứ
2. Bà phát biểu vào năm 1980: “Áo là một quốc gia tội ác”.
Trường hợp Herta Muller hơi tế nhị một chút. Sinh ra ở Romania nhưng bà lại là
người Đức và hiện sống ở Đức. Từ hoàn cảnh riêng, bà bảo “quê hương là thứ người ta không thể chịu đựng
được mà cũng lại là thứ không buông tha người ta bao giờ” .
Với người có cách nghĩ cổ điển – luôn coi quê hương là một thứ khái niệm thiêng
liêng – những phát biểu này chỉ gây những phản cảm.
Nhưng sự phát triển của lịch sử là thế. Nhìn chung cả giải Nobel văn học mấy chục
năm nay, tôi có cảm tưởng nay là lúc những giá trị kinh điển, những đầu óc kỳ
vĩ được cả nhân loại công nhận – cỡ như Sartre và Camus – không còn nữa.
Nhân loại đang quằn quại đi tìm những tư tưởng mới. Mỗi một tư tưởng mới mẻ này
có phần độc đáo riêng của nó, nhưng nhìn chung, phần lớn giống nhau ở chỗ đều
đi vào hướng nghịch thường.
Nó gây sốc, bởi nó muốn vượt qua những giới hạn mà
xưa nay người ta phải dừng lại. Nếu các tư tưởng cổ điển là thuộc về thần
thánh, thì những tư tưởng mới nhiều khi có bộ mặt của quỷ dữ.
Nó là cái người
ta muốn từ bỏ mà không nổi.
Năm 2005, giải Nobel văn học được trao cho nhà văn người đảo quốc Trinidad là
V.S.Naipaul. Trong lời phát biểu khi nhận giải, Naipaul chỉ cảm ơn nước Anh mà
ông gọi là ngôi nhà của tôi, và Ấn Độ là đất nước của tổ tiên tôi.
Lý do là, theo ông, nếu
không có nước Anh, ông sẽ không hiểu được những gì xảy ra tại Trinidad. Khi có người hỏi ông sao không cảm ơn tổ quốc
mình, ông bảo họ phải cảm ơn ông mới đúng, vì nhờ có ông mà người ta biết rằng
có một xứ sở tên là Trinidad. Toàn cách trả lời mà giá như gặp
phải dân mình thì no đòn!
Chung quanh con người hiện nay, thế giới cũng đang đi tới những quan niệm mà
thoạt nhìn dễ cho là kỳ quặc, phi nhân đạo.
Năm 1991, nhân dịp chiến
tranh lạnh kết thúc, triết gia A. Gluksman (Pháp) đưa ra mấy điều tổng kết, trong
đó cảnh báo:
1. Cái ác luôn ẩn chứa trong con người;
2. Cần phải luôn luôn hoài nghi về cái thiện, cần phải thừa nhận
vĩnh viễn rằng thế giới là lộn xộn, có một nguy cơ hỗn loạn thường xuyên hiện
diện.
“Không có gì không thuộc về con người lại xa lạ
với chúng ta cả”, Gluksman khái quát.
Nên nói ngay là cũng công thức này, nhưng một giáo sư đại học đồng thời là nhà
văn, Umberto Eco, phát biểu một cách khác.
Theo Eco, đang hình thành một hình thái mới của cái tôi,của con người nói chung.
Nó không còn chắc đặc và thống nhất
nữa mà được cấu thành bởi tính cách vô chính phủ của các nguyên tử.
Trở lại với
Nietzsche, Eco giả định rằng nay không
phải là thời của các siêu nhân mà là thời của những con – người – bên – kia –
con – người.
Tức nay là lúc con người tiến
mãi về phía cái phi nhân.
Một lời cảnh báo cay đắng!
Như vậy là Gluksman, cũng như Jelinek, Muller của giải Nobel, không đơn độc.
Từ mấy mẩu chuyện trên, quay về với đời sống trí thức xứ mình, trong đầu óc tôi
trở đi trở lại những câu hỏi.
Có phải mọi dự báo đều có quyền tồn tại, miễn nó
đã được nghiền ngẫm một cách khoa học?
Ai mà biết được sự vận động sẽ đưa nhân
loại tới đâu?
Đến bao giờ chúng ta mới biết rằng tiêu chuẩn của chân lý không
phải là sự chấp nhận của đám đông?
Mặt khác, đến bao giờ những đầu óc ưu tú của
cộng đồng mới được làm công việc thể nghiệm, rồi dự báo những xu thế sẽ tới của
xã hội Việt Nam, và mang chia sẻ với thế giới, nhờ họ kiểm tra hộ, mà cũng là giúp họ tự nhận thức?
Chúng ta đã có những đầu óc ưu tú loại đó chưa? Nếu chưa có, thì làm sao
để đào tạo? Mà với tình hình này, có đào tạo được không?
Đã in TBKTSG 11-2009
Published on December 11, 2013 23:47
December 9, 2013
Một nguồn ánh sáng
Vài kỷ niệm về ảnh hưởng của ngôn ngữ Pháp, văn hoá Pháp với những người cầm bút ở Hà Nội từ sau 1945.
I
Nhân nói chuyện gì đó có
liên quan đến với đời sống văn nghệ ở Việt Bắc mấy năm 1946-1954, có
lần tôi đã buột miệng nêu ra một nhận xét với nhà thơ Huy Cận:
- Có thể nói chính các anh đã đi kháng chiến chống Pháp bằng cái tinh thần rút ra từ văn hoá Pháp.
Tác giả Lửa thiêng
nhìn tôi tỏ ý ngạc nhiên. Thế hệ các ông là thế hệ đã được đào tạo từ
nhà trường Pháp và sau đó bằng những cách khác nhau, chuẩn bị cho cuộc
Cách mạng Tháng Tám; rồi khi thực dân Pháp muốn cướp lại thành quả của
cuộc cách mạng ấy thì lại sẵn sàng lên đường kháng chiến. Nghĩa là với
các ông, quá trình trưởng thành, theo một nghĩa nào đó, cũng là quá
trình từ bỏ cái ảnh hưởng đã hấp thụ được trên ghế nhà trường.
Sau chuyến thăm nước
Pháp, năm 1946, Xuân Diệu đã nhận xét một cách liều lĩnh "văn hoá Pháp
đã hết cái thời của nó" và cho rằng "văn hoá Việt Nam sẽ không đi theo
nấm mồ văn hoá Pháp" (tạp chí Tiên Phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc, số ra 19-8-1946).
Bài viết của Xuân Diệu
không phải là xác đáng trên phương diện phán đoán, song vẫn dễ hiểu ở sự
bồng bột tình cảm. Vậy thì cái nhận xét đột ngột của tôi, đối với Huy
Cận, chắc giống như một điều trái khoáy, không dễ chấp nhận. Rồi chúng
tôi cùng lảng ngay sang những chuyện khác, song về phần mình, tôi thấy
không có gì phải hối hận vì sự buột miệng ấy, nó có lý do riêng của nó.
Từ những cuộc phiêu lưu giữa báo chí kháng chiến, không ít chi tiết mách bảo với tôi điều đó.
Nhìn vào tờ tạp chí của giới cầm bút ra đời từ 1948, tờ Văn Nghệ, sao thấy cái cách hình thành của nó quá gần gũi với những tờ báo hay nhất đã in ra hồi tiền chiến, từ Phong Hoá, Ngày Nay đến Tao Đàn, Thanh Nghị...
Nghĩa là những kinh nghiệm làm báo viết sách của các văn nghệ sĩ lớp
trước được mang ra tận dụng. Mục đích khác đi, song cách làm thì vẫn
vậy, nếu có thay đổi thì cũng chỉ là gia giảm ít chút cho hợp với hoàn
cảnh. Lại nữa, trên tờ Văn Nghệ ấy, ngay từ những số đầu tiên, tôi được đọc những bài điểm sách, trong đó có cả những cuốn sách mới in bên Pháp (cuốn Làng tôi giờ Đức chiếm
của Jean -Louis Bory). Cũng phải nói thêm là hồi bấy giờ, tiếng Pháp
cũng rất tiện cho những người muốn tìm hiểu đời sống văn nghệ Xô viết
hoặc Bungari, Tiệp Khắc... Hồi còn làm ở Văn Nghệ quân đội, nhà thơ Vũ
Cao có lần kể với tôi: đơn vị báo Vệ Quốc Quân, mà ông là một thành viên, có kiếm được từ Hà Nội mang lên mấy bộ Cơn bão táp của Ehrenburg, Đội cận vệ trẻ
của Fadeev. Nghe tin, Nguyễn Huy Tưởng rồi Nguyễn Đình Thi nói tiếp
nhau tìm đến ngồi lì ở cơ quan Vũ Cao để đọc, đọc bằng xong mới về. Vũ
Cao mỗi khi kể lại câu chuyện này hay nói đùa , mình vừa phải cung cấp
sách cho các bố ấy đọc, vừa phải nuôi báo cô, thế mà trong bụng cứ thấy
sung sướng, như là làm được việc gì tử tế lắm!
II
Như các nhà nghiên cứu
đã xác định, ngôn ngữ có tính độc lập tương đối của nó, so với mục đích.
Đến như văn hoá mới thật kỳ lạ: trong khi không hoàn toàn vô can như
ngôn ngữ, nó vẫn là một cái gì nằm ở những tầng rất sâu trong ý thức con
người, trở thành mẫu số chung cho những người rất khác nhau. Lịch sử đã
từng biết đến không ít những cuộc chiến tranh mà người ở hai bên chiến
tuyến thuộc về cùng một nền văn hoá.
Rất nhiều thành viên
tích cực của cuộc kháng chiến chống Pháp mà ở trên tôi vừa nhắc là những
người đã ngồi trên ghế nhà trường thực dân, hơn nữa, còn là những học
sinh xuất sắc. Nhà báo Pháp Léo Figuères, qua thăm vùng tự do của nước
Việt Nam năm 1950, từng rất thú vị khi được biết nhiều cán bộ tiểu đoàn,
trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam lúc ấy rất thành thạo tiếng
Pháp. Còn nói chi là tới các cán bộ văn nghệ! Với việc ký kết hiệp nghị
Genève, vai trò lịch sử của người Pháp ở Đông Dương đã chấm dứt. Song
nếu tìm hiểu đời sống văn hoá văn nghệ ở Hà Nội sau 1954, sẽ thấy ngôn
ngữ Pháp, văn hoá Pháp vẫn là một nhân tố đóng góp vào việc xây dựng nền
văn hoá mới ở nước Việt Nam còn trẻ.
III
Những năm chống Mỹ, sách báo mới in ở Pháp chuyển sang thật ít ỏi, cơ quan tôi làm việc là tờ Văn Nghệ Quân Đội, nhờ quen biết lắm mới đặt mua được hai tờ báo là Văn học Pháp (Les Lettres Francaises) và Nhân Đạo Chủ Nhật
(L' Humanité Dimanche). Nhưng đó lại chính là những tờ báo được các nhà
văn trong cơ quan vồ vập nhất, cánh học sinh trung học cũ, những Vũ
Cao, Từ Bích Hoàng, Nhị Ca... chuyền tay nhau để đọc.
Không chỉ riêng các
nhà văn ở 4 Lý Nam Đế mà nhiều nhà văn ở 65 Nguyễn Du những năm ấy cũng
tìm hiểu thời sự văn học thế giới qua các báo Pháp. Riêng nhà văn
Nguyễn Khải hay lại phòng làm việc của tôi trò chuyện thì tự nhận là còn
có may mắn hơn một chút. Năm ấy, ông mới được bổ sung vào ban thường vụ (giống
như ban thư ký) của Hội Nhà văn. Mà một trong những quyền lợi của các
thành viên ban thường vụ là được phép đọc một số sách loại hiếm bên Pháp
người ta gửi cho, và phải qua nhiều cấp bảo trợ, Hội Nhà văn mới được
nhận. Tôi nhớ vào thời điểm đó, những quyển sách loại livre de poche
của Pháp thỉnh thoảng Nguyễn Khải mang về, gợi lên trong tôi những cảm
giác thật lạ lùng. Trong khi những sách báo viết bằng tiếng Việt in ra
bấy giờ giấy đen, chữ đã quá mòn, lại đóng bằng tay nên dễ xộc xệch, thì
những cuốn sách kia mới gọn nhẹ thanh thoát làm sao mà vẫn chắc chắn
làm sao! Do chỗ đạt tới sự hoàn hảo, nó cũng đồng nghĩa với văn hoá -
cái đó ở trong hình thức mà cũng ở trong nội dung của mỗi cuốn sách.
IV
Nói cho công bằng, phải
nhận là trong việc hình thành nền văn hoá riêng của nước Việt Nam từ sau
1945, những ảnh hưởng không phải chỉ đến từ văn hoá Pháp mà còn có vai
trò văn hoá Trung Hoa, văn hoá Nga, và ở Sài Gòn trước 1975 là văn hoá
Mỹ. Ngoài ra, do sự bùng nổ của quá trình giao lưu văn hoá trong thời
hiện đại, tưởng như mấy chục năm qua, không nền văn hoá nào trên thế
giới này là còn xa lạ với chúng ta.
Có điều, những ai có làm
công việc dính dáng đến giấy bút chữ nghĩa đều biết trong sự tiếp xúc
đa dạng này, để vượt qua ngỡ ngàng ban đầu, thường phải có những trung
gian. Mà với người Hà Nội trước 1975, trung gian tiện nhất là văn hoá và
ngôn ngữ Trung Hoa, cùng là văn hoá và ngôn ngữ Pháp. Những năm ấy,
chẳng những Lê Phát dịch Phía tây không có gì lạ của Remarque, Trần Dần dịch Những người chân đất của Z. Stancu, Huy Phương dịch Ông già và biển cả của Hêmingway ra tiếng Việt thông qua các bản tiếng Pháp, mà cả các thiên truyện của N.Gogol, cả Anna Karénina của L.Tolstoi cũng dịch qua tiếng Pháp nốt. Tiếng Nga mới qua, chưa ăn rễ được sâu vào tiếng Việt. Người biết tiếng Pháp thật chín trong cái tiếng mình sử dụng, chín hơn hẳn so với người dùng tiếng Nga chín tiếng
Nga. Các nhà văn rành về sách dịch bảo với tôi rằng bản dịch mấy truyện
Gogol dịch từ tiếng Nga như một thứ mặt trái của tấm thảm, trong khi
một vài truyện được dịch qua tiếng Pháp nhuần nhị hơn và chính xác hơn
nhiều. Thành thử thứ lý luận của mấy dịch giả còn trẻ lúc ấy cho rằng
nhất thiết phải dịch từ tiếng Nga nguyên bản mới có giá trị, thớ lý
luận ấy bị những người thạo nghề coi là quá ấu trĩ.
Một sự thực khác: vào
cái thuở ở Moskva người Nga biết tiếng Việt còn ít, những Nguyễn Tuân,
Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc... mỗi lần tới Liên Xô hội họp
thường vẫn có các bà phiên dịch thông thạo tiếng Pháp giúp đỡ.
Sau hết, có điều này
tuy không tiện nói ra nhưng trong thâm tâm ai cũng biết và tự nguyện
chấp nhận, ấy là trên nhiều phương diện, văn hoá Pháp vẫn được coi là
chuẩn mực. Mặc dù chỉ biết tiếng Pháp đủ để đọc mấy cái tên riêng, tôi
hay lần giở đống Bách khoa toàn thư Pháp để xem những nhà văn
Liên Xô nào được Pháp xem trọng, và quả thật tôi đã thấy yêu hơn, gần
gũi hơn với những K.Paoustovski, Ts.Aitmatov, Ju.Trifonov... khi biết
rằng tác phẩm của họ được những nhà xuất bản cỡ lớn ở Pháp như nhà Gallimard cho in.Do mò mẫm giữa đống sách Liên xô ở Thư viện quốc gia Hà Nôi, tôi đã biết tới M.M. Bakhtin từ khoảng 1970 qua sách báo tiếng Nga. Nhưng niềm tin ở Bakhtin chỉ thật trọn vẹn khi thấy giới trí thức Pháp đưa ông lên cỡ các tác giả lớn nhất của thế kỷ XX.(Bộ mặt giới nghiên cứu văn học Pháp đã thay đổi sau khi đọc M. Bakhtin. Một lần Nguyễn Khải đọc ở đâu đó về kể với tôi, dân Pháp đang trầm trồ ca tụng người Nga dạy người Pháp đọc F. Rabelais như thế nào. "Bakhtin đã giúp cho cánh trí thức Pháp vượt qua Marx"-- đó là một trong những công thức đúng với cả VN.)
V
Có những kỷ niệm không
phải sự thành công, sự mỹ mãn tới đích, mà là cái gì dang dở không
thành, nhưng chính vì vậy, người ta lại thấy nhớ mãi.
Câu chuyện người bạn đã quá cố của tôi là Xuân Quỳnh học tiếng Pháp thuộc loại những kỷ niệm như thế.
Sinh năm 1942, Quỳnh
cũng như một số bạn bè thuộc về lớp người viết văn ở Hà Nội không được
chuẩn bị một ngoại ngữ nào hết. Mà không biết ngoại ngữ, theo tôi, là
thiếu cơ hội để hướng tới những chân trời cao rộng mà suy nghĩ - chúng
tôi sớm cảm thấy như thế và càng nhìn vào các bậc đàn anh thạo tiếng
Pháp càng buồn. Cũng may Xuân Quỳnh có một người bạn vong niên là nhà
văn Vũ Thị Thường. Những năm từ 1975 về trước, nhà thơ Chế Lan Viên -
chồng chị Thường - giúp vợ học tiếng Pháp theo một cách đặc biệt là học
thẳng vào thơ, cứ một bên nguyên bản, bên bản dịch xuôi, đặt cạnh nhau
mà đối chiếu. Thế là Quỳnh cũng mượn về chép rồi học cho thuộc.
Có một dạo đi đâu thì trong cái làn của Xuân Quỳnh cũng mang theo cuốn sổ có mấy bản dịch đó.
Trước sau 1986, nhà văn
Vũ Tú Nam sau khi đi Pháp về có tặng cho Xuân Quỳnh một cuốn từ điển
loại bỏ túi, Quỳnh lấy làm sung sướng lắm.
Sự học tiếng Pháp của
Quỳnh đứt nối, dang dở, thu hoạch chả bao nhiêu - theo tôi nhớ đâu chỉ
có một lần, với sự hỗ trợ của anh Ngô Vĩnh Viễn, Xuân Quỳnh có dịch được
một bài thơ từ tiếng Pháp để đăng báo Văn Nghệ.
Câu chuyện Xuân Quỳnh
học tiếng Pháp dừng lại ở đấy, song mỗi lần nhớ tới quá trình tự học của
lớp người cầm bút cùng tuổi với mình, tôi lại nhớ tới nó - có thể là
chúng tôi vô duyên, là thiếu một chút may mắn, song chúng tôi từng đã
khao khát khôn nguôi, chúng tôi cũng muốn hiểu biết, giỏi giang, cũng
muốn hướng về ánh sáng - ánh sáng đây trước tiên là văn hoá dân tộc,
nhưng cũng là những nền văn hoá khác mà chúng ta có dịp tiếp xúc, trong
đó có văn hoá Pháp (và đã có một thời thì trước tiên phải nói là văn hóa Pháp).
2003
Published on December 09, 2013 18:30
December 5, 2013
Hà Nội cuối 1973 - kỳ III
29/11
Ở tất cả các xung đột xã hội,
người ta luôn bắt gặp cả hai loại dấu hiệu.
1/ Loại dấu hiệu cho thấy nó nằm
trong những vấn đề chung của thế giới,
2/ loại dấu hiệu cho thấy vấn đề này chỉ
có ở Việt Nam, nó “Việt Nam không thể chịu được.”
Thế giới là một toàn thể. Nhìn về đâu anh cũng
thấy những chuyện như ở chính mình. Chính vì vậy mà sẽ không có lối thoát nào được mang từ đâu tới, chỉ có anh mới tìm ra giải quyết cũng tức là cách vượt
mình.
3/12
Khải:
--Bây giờ đúng là lúc mỗi kẻ
phải tự lột mặt nạ. Các quân tử phải xuống trần, trở thành những tiểu nhân, như
những người dân thường khác. Không thể điệu bộ mãi được.
Điều Nguyễn Khải nói liên
quan tới chuyến đi B của các anh—B dài. Ông Xuân Thiều xin hoãn. Xuân Sách dự định
từ chối. Tất cả là một mất một còn.
Và không phải chỉ những người
văn nghệ từ chối. Các ngành khác cũng có.
Điều mà nhiều người cùng thấy,
nhưng không dám nói ra. Cái xã hội này đang khủng hoảng lòng tin. Mọi người
không biết ngày mai mình sẽ như thế nào. Cuộc sống là không có tiêu chuẩn,
không có nguyên tắc gì cả. Những người quản lý xã hội chẳng biết làm việc cần
làm. Công lý không ngự trị. Sức lao động làm ra không được đánh giá đúng mức.
Nhiều người cảm thấy xã hội không lo cho ai cả, vậy thì hãy tự lo cho mình.
Từ đó sinh ra sự chạy đua.
Bề ngoài thấy mọi người mệt mỏi -- hết sức
mệt mỏi khi làm công việc chung. Chỉ trong việc lo cho cái riêng họ mới guồng hết
sức.
Một thứ kết dính kiểu “cơm
nguội” lỏng lẻo vớ vẩn đang chi phối mối quan hệ giữa người với người.
Tất cả hiểu rằng người ta
phải sống khác đi, nhưng sống khác thế nào thì chưa biết.
Cái chính là người dân hiện
nay khổ quá, như là bị đầy đoạ. Đói ăn vụng túng làm càn. Sức chịu đựng của người
ta là có giới hạn. Khi hiểu biết của người ta khá lên, mà mức sống lại thấp đi,
thì mọi sự cân bằng bị phá vỡ... Căng thẳng, phá phách.
... Một lần, chúng tôi ngồi
bàn về một chuyện khác. Về ông Xuân Vũ giờ vào Sài Gòn.
Mai Ngữ kể, Bùi Đức Ái bảo rằng thằng Vũ còn để
lại nhiều bản thảo lắm. Mà lâu nay, vào đó, nó đi có phải là ít. Căn bản chỉ
là ở chỗ nó cho rằng, cuộc chiến tranh này sẽ chẳng đi đến đâu.
Nguyễn Khải bảo đúng, thằng
ấy hăng đi đấy, không phải là kẻ sợ khổ. Mà viết bút ký rất bợm.
Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
-- Nhưng liệu ông ấy có trở
thành một nhà văn lớn ?
-- Lớn lớn thế nào?-- Đang
ngồi, Khải vụt đứng dậy-- Xã hội ta bây giờ cần gì đến nhà văn mà có nhà văn lớn
được. Bây giờ chỉ cần đến người tuyên
truyền. Và anh hãy làm tốt cái việc đó, thì có cơm ăn.
Việc Xuân Vũ đi, tôi nghĩ,
chứng tỏ người làm văn nghệ vẫn còn cựa quậy. Liệu có thể dùng cái công thức, người
có thể bắt một nền văn nghệ đầu hàng, nhưng không thể giết chết nó?
10/12
Nói chuyện với Anh Ngọc:
-- Như ông Phú Bằng, về Sài
Gòn trong phái đoàn bốn bên, tha hồ thích.
-- Tôi không thích vào Sài
Gòn bây giờ. Bị kèm cặp, chả được ăn nói tự do. Cho tôi đi nước ngoài, tôi vẫn
thích hơn.
-- Bao giờ tôi cũng thích
được bước trên đất nước mình. Cảm hứng về đất nước ghê gớm hơn chứ.
-- Đi nước ngoài về, có tiền
có đồ, tự nhiên có đất nước. Giờ tôi có cái xe mô tô xem, nay tôi lên Hà Bắc,
mai tôi xuống Hải Hưng, tôi hiểu thêm bao nhiêu chuyện. Như lúc này đây tôi cái
xe hỏng, lốp không có mà đi, thì ở Hà Nội
cũng chẳng hiểu Hà Nội thế nào.... Đấy, cái nọ liên quan đến cái kia như
vậy.
…
...Trên đây là một đoạn đối
thoại đặc trưng cho cách nói trơ tráo mà tôi mới học được. Sau này, tôi có hối
hận. Anh Ngọc còn đơn giản quá, tôi nói với cậu ấy như thế làm chi. Tự lý giải là vì ở đây có vấn đề về mối liên
quan giữa độc lập dân tộc và cái khía cạnh quan trọng bậc nhất của nhân sinh: hạnh
phúc. Nếu có đất nước mà không có cuộc sống tử tế thì anh có chấp nhận không?
Nhưng mà hạnh phúc sao có
được trong 20 năm tới? Đường lối trên đưa xuống vẫn như cũ. Đảng ta kiên quyết
làm tròn nhiệm vụ giải phóng miền Nam...
Trước mắt tình hình chiến
tranh có ngưng đi. Ngưng trong một vài năm. Chỉ có những vụ biến động nhỏ. Cả
hai bên đều tích luỹ thêm sức lực. Để rồi lại đánh. Những bậc cha mẹ hãy tính lớp
trẻ năm nay 5-6 tuổi, vẫn có khả năng phải đi lính.
Kissinger bảo bây giờ là vấn
đề của người Việt Nam với nhau. Việt Nam đang biến thành nội chiến.
Ta bảo không phải thế. Quân
nguỵ chỉ là kẻ thù trực tiếp. Kẻ thù
chính, là đế quốc Mỹ.
Khải:
-- Nói thế cho dễ xác định. Hai bên sẽ đánh nhau
đến khi bên mất, bên còn, thế mới có lý. Và mình cũng đỡ hoảng lên về hôm nay.
Về văn học chẳng hạn, cái cổ lỗ bảo thủ sẽ thắng, phe các ông Hồ Phương tiếp tục
trùm lớp.
Nguyễn Khải rất ham chuyện tức ham phân tích lý
giải thử bằng miệng trước khi viết. Lại chính Nguyễn Khải muốn tung hê những thứ
vừa nói:
-- Cứ nói đi nói lại mọi chuyện chán thế này,
không viết được đâu. Vì như một người viết văn, không phải lúc nào anh cũng nhắm
đồng tiền. Anh còn muốn làm một cái gì hơn thế nữa chứ?
Rồi tự nhiên lại bắt sang chuyện khác:
-- Đọc lại quyển Hoàng Lê nhất thống chí thấy phần Nguyễn Huệ ra Bắc chỉ có hai
trang, một chiến công hiển hách mà có hai trang. Còn toàn chuyện đâu đâu. Có
nhiều chương tác giả không có ý thức, nhưng bây giờ đọc thấy ghê. Thí dụ chương
kiêu binh đến phá một cái phủ gì đấy. Lúc đầu quần chúng không thể có ý thức được.
Họ vừa làm vừa sợ. Chỉ nhân đà không ai cản trở, rồi họ mới dám làm dấn lên
thôi.
18/12
Một thứ dòng ngược chiều,
nhưng là vì nó gắn với những mong mỏi của mình, cho nên vẫn thích. Trong mấy
ngày qua, -- cái gọi là hai bên ta và nguỵ lại hoà hoãn với nhau thì phải. Lại
thực hiện chuyến bay Sài Gòn- Lộc Ninh.
Ngày 22/12 tới đây lại định tổ chức to: ở
trong kia, sân bay Tân Sơn Nhất, sẽ mời nó đến. Nguyễn Khải chuẩn bị đi.
Khải :
-- Có thể là thế. Hôm qua
đánh nhau bắn nhau, hôm nay bình thì đối thoại... Hôm qua giết người, hôm nay
xin lỗi bắt tay rối rít. Như Lỗ Tấn đã nói, chỉ có thường dân khổ; mỗi trận ném
bom, bao giờ cũng rất nhiều người bị thương bị chết.
...
Biết là hão hiền, tôi vẫn ước
ao giá kể có được một nền hoà bình, một sự hoà hợp thật sự. Cả hai bên kết hợp
lại, tươi đẹp biết bao.
Đọc đâu đó, R. Muzil nói về nền quân chủ Áo
Hung. Đó là một cơ cấu cai trị không tên, một bóng ma thực sự. Một cái hình
không cốt lõi, xuyên qua bởi những ảnh hưởng không chính đáng. Vì không tìm đâu
ra những ảnh hưởng chính đáng.
21/12
Điều đáng ghê sợ là đôi khi
cứ phải ngần ngại khi nhìn vào những người chung quanh mình. Không thể yêu được,
tôi ngán ngẩm tự nhủ vậy. Toàn là những trò khiến tôi phát ớn. Những câu bông
lơn tục tằn mà nhạt, sự kém linh hoạt, kém thông minh. Hơn thế nữa, là thói vô
học, cái này biểu hiện ra trong bao nhiêu cách khác nhau. Trình độ làm người của
chúng ta rất thấp, phải công nhận vậy.
Một nhà văn Mỹ sang Việt
Nam nhận xét đến Việt Nam, cảm thấy dân rất tốt, nhưng cứ cảm thấy thiếu thiếu
thế nào đó.
Sau ông ta mới nghĩ ra, trong khi thế giới người
ta sống theo ba chiều, thì ở Việt Nam, chỉ sống theo hai chiều.
Ng Khải:
-- Nói thế chứ, con người
Việt Nam mình cũng phức tạp, cũng sống theo vài ba chiều chứ tưởng!
25/12
Nhiều đoạn đường Hà Nội thoáng ra trong những
ngày nắng hanh. Xe ô tô qua. Lòng đường hết
bụi bóng loáng lên thành vệt. Nhưng tận hai mép hè két bụi. Bụi kết thành tầng
dày đặc. Và trên các cành cây cũng bụi, màu xanh của lá bạc đi trong bụi. Mỗi lần
một xe ô tô đi qua, không khí vẩn lên, trời đất nhờ nhờ. Một cái gì đó kết tinh
từ năm tháng, bây giờ đọng lại đây. Nghĩ thấy vô cùng kinh hãi, vì nó ngày mỗi sinh
sôi.
Những cặn bã sinh ra từ trong lòng xã hội cũng
vậy .
Thử đưa mắt nhìn cả đoạn hè
phố. Bọn trẻ con chơi cầu ở đó. Ở đó người ta phơi dưa, người ta giặt giũ, ăn
cơm xong mang chậu bát đũa ra đó rửa. Lê Đường Phong có lần bảo Hà Nội bây giờ
sân thì tiến ra đường còn vỉa hè chui sâu vào trong từng nhà.
Tôi đứng ở đầu đường Lý Nam
Đế, chỗ vườn hoa hàng Đậu. Lòng đường từ phía Cửa Đông hiện lên những đoàn xe
bò chở than. Trời, sao cái không khí trời đất này ghê sợ làm vậy, chuyến xe
đen, người đánh xe bò đen, cho đến gió bốc lên, làm đen cả những mặt người. Tôi
hoà nhập vào cái buổi chiều đổ quanh tôi, nó là một cái thực thế mù xám dâng
lên dần dần rồi nhấn chìm mọi vật.
Những đêm tối, tôi nghe từ
lòng đường tiếng móng bò điểm đều đều từng nhịp trên đường. Thanh vắng, trong
cái lặng lẽ của một buổi sáng trời đất mới trở dậy, tôi nghe rõ từng tiếng một,
cái thứ tiếng móng bò đó. Nó thanh, khô, gọn, mà lại thoáng như là ngân lên
trên đường phố.
Đất nước của tôi chỉ có thế
thôi, trung cổ một cách không thể lẫn với đâu được.
Những ngày nắng hanh, cái
thành phố xác ướp giống như là được giữ nguyên. Mọi vật phơi ra cái vẻ đang úa
tàn dần. Anh có thể cảm thấy một chút gì đó, như là vẻ đẹp của thành phố hôm
qua. Nó từng là một vẻ đẹp thật, và bởi vì nó đang úa tàn, nên lòng càng thấy
luyến tiếc.
Còn trong những ngày ẩm ướt,
thì cái cảm thấy rõ nhất, là chính quá trình chết, chứ không phải xác chết.
Không gian lầm lụi trong bùn đất bẩn thỉu và bởi vì mọi vật chỉ sắp chết nên
cũng có nghĩa là nó đang sống. Nó đang trên đường đi tới sự chết, dù chẳng bao
giờ đi tới.
Ngược với khái niệm về cá
nhân là khái niệm về đám đông. Nhưng vì những cá nhân của chúng ta là hèn hạ loạn
xị, cho nên những đám đông của chúng ta cũng tạp nhạp, phân tán, mà lại đơn điệu
nữa.
Làm sao để chúng ta sống một
mình nổi, chúng ta luôn luôn sống với những người chung quanh. Nhưng hình như
đây là một quy trình biện chứng: Càng nhập vào chung quanh, càng có yêu cầu trở
về nương náu trong cái tôi cũng đã trở nên vô tận của mình. Cũng như, càng nghĩ
về mình, lại càng thấy cần phải trao đổi, bàn luận với những người khác, ghét
người khác, yêu người khác, tóm lại là thấy tất cả những người khác đang cùng
mình sống, mình không sao đứng riêng ra được.
Những thoáng buông tay vì
thấy cuộc đời không công bằng. Những ghê rợn, vì thấy những chuyện vô nhân đạo,
bất công. Và một nỗi buồn lâu bền, âm ỉ, nhưng ăn rục ăn mòn mình, nỗi buồn vì
những nghiệp chướng không sao dứt ra được, nó là cái trình độ vớ vẩn của mình
và những người chung quanh... Tôi chứng kiến ở tôi tất cả những nỗi niềm kinh
khủng đó, nó là những vết thương trong tôi. Tôi có thể nói một cách nào đó, rằng
chính biết những vết thương đó, mà tôi biết tôi còn sống chăng?
29/12
Một năm đi qua, năm 1973.
Nghe tin một ông cốp ở Thành uỷ nói cố lo cho dân cái Tết này. Năm 1974 sẽ gay go lắm.
Nghĩa là năm 1973 này còn
khá. Nhìn về phía trước, một lòng tin sụp đổ, những ảo tưởng đúng vào lúc va chạm
với thực tế thì tan vỡ.
Phải nói lâu nay ta sống bằng
những huyền thoại. Chúng ta sẽ xây dựng đất nước sau hoà bình. Các nước khác sẽ
giúp đỡ... Ngày nay, cái bong bóng ấy bắt đầu tan vỡ.
Cũng không biết nên bắt đầu
từ đâu nữa. Có thể là có những nước khác họ sẵn lòng giúp. Nhưng mình không có
ai biết nhận -- không có ai biết làm. Lâu nay mình chỉ quen phá của.
Vả chăng chính mình cũng lại
không rõ là chiến tranh hay hoà bình. Hình như ai cũng biết đằng sau sự ngắc ngứ
đó, tức là chiến tranh đang được chuẩn bị, một cuộc chiến tranh ghê hơn cuộc
chiến hôm qua.
Mà thế giới nó chỉ muốn nói
hoà bình. Liên Xô, Trung quốc không muốn đánh nhau nữa.
Năm 1973, chỉ xây được mấy
cái cầu (từ đầu chiến tranh đến nay hỏng bao nhiêu cầu không biết). Còn những
Khâm Thiên, lấy đâu sức làm lại. Đất nước nhơm nhếch tàn lụi. Những sự biến được
trình bày trên báo chí loanh quanh chỉ là
những cuộc viếng thăm chính trị của những vị khách nước ngoài. Chủ khách
nói với nhau toàn những lời rỗng tuếch, như trò hề.
Có một điều lớn hơn những sự bê bối cụ thể.
Người ta mất lòng tin vào những cái lớn, cái rường cột của quốc gia. Huyền thoại
về quân đội bách chiến bách thắng không còn nữa (ông Văn bị báo chí trong kia
nó mang ra nó giễu như kiểu Đờ Lát trước kia vậy!).
Nếu được đẩy đến tận cùng,
người ta buộc phải nghĩ lại về cái thể chế này, một thứ thể chế phong kiến hệt kiểu
chế độ sa hoàng ngày trước. Ở cả chính quyền lẫn nhân dân, cả đám đông quần
chúng, lẫn các sếp sòng bề trên, -- những gì tốt đẹp hồi đầu chiến tranh đều đã
mất hết.
Chỉ ngày càng thấy có thêm
nhiều chức sắc nhà nước. Rất nhiều đại tá đi trên đường phố.
Một đại tá làm báo QĐND bảo tình hình này mà
dân Hà Nội nó chưa nổi lên, thì cũng lạ. Rối ren, bế tắc. Ai cũng thấy chúng ta
đang sống thiếu nguyên tắc. Những việc trước mắt người ta làm, chỉ vẫn là chữa
cháy tạm thời. Quây chợ, bắt người. Trong những vụ dẹp loạn đó, bao giờ cũng chỉ
bắt được những tôm tép. Những con cá lớn chuồn sạch. Bởi chính người đi bắt mới
là những thứ cá lớn nhất.
Nguyễn Khải kể một đoạn đối
thoại. Nguyễn Địch Dũng bảo ở chợ trời, mình làm phát xít quá.Thép Mới bảo nhưng
mà, ông ơi, mọi việc mình đã trót phát xít hoá từ lâu rồi.
Ở tất cả các xung đột xã hội,
người ta luôn bắt gặp cả hai loại dấu hiệu.
1/ Loại dấu hiệu cho thấy nó nằm
trong những vấn đề chung của thế giới,
2/ loại dấu hiệu cho thấy vấn đề này chỉ
có ở Việt Nam, nó “Việt Nam không thể chịu được.”
Thế giới là một toàn thể. Nhìn về đâu anh cũng
thấy những chuyện như ở chính mình. Chính vì vậy mà sẽ không có lối thoát nào được mang từ đâu tới, chỉ có anh mới tìm ra giải quyết cũng tức là cách vượt
mình.
3/12
Khải:
--Bây giờ đúng là lúc mỗi kẻ
phải tự lột mặt nạ. Các quân tử phải xuống trần, trở thành những tiểu nhân, như
những người dân thường khác. Không thể điệu bộ mãi được.
Điều Nguyễn Khải nói liên
quan tới chuyến đi B của các anh—B dài. Ông Xuân Thiều xin hoãn. Xuân Sách dự định
từ chối. Tất cả là một mất một còn.
Và không phải chỉ những người
văn nghệ từ chối. Các ngành khác cũng có.
Điều mà nhiều người cùng thấy,
nhưng không dám nói ra. Cái xã hội này đang khủng hoảng lòng tin. Mọi người
không biết ngày mai mình sẽ như thế nào. Cuộc sống là không có tiêu chuẩn,
không có nguyên tắc gì cả. Những người quản lý xã hội chẳng biết làm việc cần
làm. Công lý không ngự trị. Sức lao động làm ra không được đánh giá đúng mức.
Nhiều người cảm thấy xã hội không lo cho ai cả, vậy thì hãy tự lo cho mình.
Từ đó sinh ra sự chạy đua.
Bề ngoài thấy mọi người mệt mỏi -- hết sức
mệt mỏi khi làm công việc chung. Chỉ trong việc lo cho cái riêng họ mới guồng hết
sức.
Một thứ kết dính kiểu “cơm
nguội” lỏng lẻo vớ vẩn đang chi phối mối quan hệ giữa người với người.
Tất cả hiểu rằng người ta
phải sống khác đi, nhưng sống khác thế nào thì chưa biết.
Cái chính là người dân hiện
nay khổ quá, như là bị đầy đoạ. Đói ăn vụng túng làm càn. Sức chịu đựng của người
ta là có giới hạn. Khi hiểu biết của người ta khá lên, mà mức sống lại thấp đi,
thì mọi sự cân bằng bị phá vỡ... Căng thẳng, phá phách.
... Một lần, chúng tôi ngồi
bàn về một chuyện khác. Về ông Xuân Vũ giờ vào Sài Gòn.
Mai Ngữ kể, Bùi Đức Ái bảo rằng thằng Vũ còn để
lại nhiều bản thảo lắm. Mà lâu nay, vào đó, nó đi có phải là ít. Căn bản chỉ
là ở chỗ nó cho rằng, cuộc chiến tranh này sẽ chẳng đi đến đâu.
Nguyễn Khải bảo đúng, thằng
ấy hăng đi đấy, không phải là kẻ sợ khổ. Mà viết bút ký rất bợm.
Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
-- Nhưng liệu ông ấy có trở
thành một nhà văn lớn ?
-- Lớn lớn thế nào?-- Đang
ngồi, Khải vụt đứng dậy-- Xã hội ta bây giờ cần gì đến nhà văn mà có nhà văn lớn
được. Bây giờ chỉ cần đến người tuyên
truyền. Và anh hãy làm tốt cái việc đó, thì có cơm ăn.
Việc Xuân Vũ đi, tôi nghĩ,
chứng tỏ người làm văn nghệ vẫn còn cựa quậy. Liệu có thể dùng cái công thức, người
có thể bắt một nền văn nghệ đầu hàng, nhưng không thể giết chết nó?
10/12
Nói chuyện với Anh Ngọc:
-- Như ông Phú Bằng, về Sài
Gòn trong phái đoàn bốn bên, tha hồ thích.
-- Tôi không thích vào Sài
Gòn bây giờ. Bị kèm cặp, chả được ăn nói tự do. Cho tôi đi nước ngoài, tôi vẫn
thích hơn.
-- Bao giờ tôi cũng thích
được bước trên đất nước mình. Cảm hứng về đất nước ghê gớm hơn chứ.
-- Đi nước ngoài về, có tiền
có đồ, tự nhiên có đất nước. Giờ tôi có cái xe mô tô xem, nay tôi lên Hà Bắc,
mai tôi xuống Hải Hưng, tôi hiểu thêm bao nhiêu chuyện. Như lúc này đây tôi cái
xe hỏng, lốp không có mà đi, thì ở Hà Nội
cũng chẳng hiểu Hà Nội thế nào.... Đấy, cái nọ liên quan đến cái kia như
vậy.
…
...Trên đây là một đoạn đối
thoại đặc trưng cho cách nói trơ tráo mà tôi mới học được. Sau này, tôi có hối
hận. Anh Ngọc còn đơn giản quá, tôi nói với cậu ấy như thế làm chi. Tự lý giải là vì ở đây có vấn đề về mối liên
quan giữa độc lập dân tộc và cái khía cạnh quan trọng bậc nhất của nhân sinh: hạnh
phúc. Nếu có đất nước mà không có cuộc sống tử tế thì anh có chấp nhận không?
Nhưng mà hạnh phúc sao có
được trong 20 năm tới? Đường lối trên đưa xuống vẫn như cũ. Đảng ta kiên quyết
làm tròn nhiệm vụ giải phóng miền Nam...
Trước mắt tình hình chiến
tranh có ngưng đi. Ngưng trong một vài năm. Chỉ có những vụ biến động nhỏ. Cả
hai bên đều tích luỹ thêm sức lực. Để rồi lại đánh. Những bậc cha mẹ hãy tính lớp
trẻ năm nay 5-6 tuổi, vẫn có khả năng phải đi lính.
Kissinger bảo bây giờ là vấn
đề của người Việt Nam với nhau. Việt Nam đang biến thành nội chiến.
Ta bảo không phải thế. Quân
nguỵ chỉ là kẻ thù trực tiếp. Kẻ thù
chính, là đế quốc Mỹ.
Khải:
-- Nói thế cho dễ xác định. Hai bên sẽ đánh nhau
đến khi bên mất, bên còn, thế mới có lý. Và mình cũng đỡ hoảng lên về hôm nay.
Về văn học chẳng hạn, cái cổ lỗ bảo thủ sẽ thắng, phe các ông Hồ Phương tiếp tục
trùm lớp.
Nguyễn Khải rất ham chuyện tức ham phân tích lý
giải thử bằng miệng trước khi viết. Lại chính Nguyễn Khải muốn tung hê những thứ
vừa nói:
-- Cứ nói đi nói lại mọi chuyện chán thế này,
không viết được đâu. Vì như một người viết văn, không phải lúc nào anh cũng nhắm
đồng tiền. Anh còn muốn làm một cái gì hơn thế nữa chứ?
Rồi tự nhiên lại bắt sang chuyện khác:
-- Đọc lại quyển Hoàng Lê nhất thống chí thấy phần Nguyễn Huệ ra Bắc chỉ có hai
trang, một chiến công hiển hách mà có hai trang. Còn toàn chuyện đâu đâu. Có
nhiều chương tác giả không có ý thức, nhưng bây giờ đọc thấy ghê. Thí dụ chương
kiêu binh đến phá một cái phủ gì đấy. Lúc đầu quần chúng không thể có ý thức được.
Họ vừa làm vừa sợ. Chỉ nhân đà không ai cản trở, rồi họ mới dám làm dấn lên
thôi.
18/12
Một thứ dòng ngược chiều,
nhưng là vì nó gắn với những mong mỏi của mình, cho nên vẫn thích. Trong mấy
ngày qua, -- cái gọi là hai bên ta và nguỵ lại hoà hoãn với nhau thì phải. Lại
thực hiện chuyến bay Sài Gòn- Lộc Ninh.
Ngày 22/12 tới đây lại định tổ chức to: ở
trong kia, sân bay Tân Sơn Nhất, sẽ mời nó đến. Nguyễn Khải chuẩn bị đi.
Khải :
-- Có thể là thế. Hôm qua
đánh nhau bắn nhau, hôm nay bình thì đối thoại... Hôm qua giết người, hôm nay
xin lỗi bắt tay rối rít. Như Lỗ Tấn đã nói, chỉ có thường dân khổ; mỗi trận ném
bom, bao giờ cũng rất nhiều người bị thương bị chết.
...
Biết là hão hiền, tôi vẫn ước
ao giá kể có được một nền hoà bình, một sự hoà hợp thật sự. Cả hai bên kết hợp
lại, tươi đẹp biết bao.
Đọc đâu đó, R. Muzil nói về nền quân chủ Áo
Hung. Đó là một cơ cấu cai trị không tên, một bóng ma thực sự. Một cái hình
không cốt lõi, xuyên qua bởi những ảnh hưởng không chính đáng. Vì không tìm đâu
ra những ảnh hưởng chính đáng.
21/12
Điều đáng ghê sợ là đôi khi
cứ phải ngần ngại khi nhìn vào những người chung quanh mình. Không thể yêu được,
tôi ngán ngẩm tự nhủ vậy. Toàn là những trò khiến tôi phát ớn. Những câu bông
lơn tục tằn mà nhạt, sự kém linh hoạt, kém thông minh. Hơn thế nữa, là thói vô
học, cái này biểu hiện ra trong bao nhiêu cách khác nhau. Trình độ làm người của
chúng ta rất thấp, phải công nhận vậy.
Một nhà văn Mỹ sang Việt
Nam nhận xét đến Việt Nam, cảm thấy dân rất tốt, nhưng cứ cảm thấy thiếu thiếu
thế nào đó.
Sau ông ta mới nghĩ ra, trong khi thế giới người
ta sống theo ba chiều, thì ở Việt Nam, chỉ sống theo hai chiều.
Ng Khải:
-- Nói thế chứ, con người
Việt Nam mình cũng phức tạp, cũng sống theo vài ba chiều chứ tưởng!
25/12
Nhiều đoạn đường Hà Nội thoáng ra trong những
ngày nắng hanh. Xe ô tô qua. Lòng đường hết
bụi bóng loáng lên thành vệt. Nhưng tận hai mép hè két bụi. Bụi kết thành tầng
dày đặc. Và trên các cành cây cũng bụi, màu xanh của lá bạc đi trong bụi. Mỗi lần
một xe ô tô đi qua, không khí vẩn lên, trời đất nhờ nhờ. Một cái gì đó kết tinh
từ năm tháng, bây giờ đọng lại đây. Nghĩ thấy vô cùng kinh hãi, vì nó ngày mỗi sinh
sôi.
Những cặn bã sinh ra từ trong lòng xã hội cũng
vậy .
Thử đưa mắt nhìn cả đoạn hè
phố. Bọn trẻ con chơi cầu ở đó. Ở đó người ta phơi dưa, người ta giặt giũ, ăn
cơm xong mang chậu bát đũa ra đó rửa. Lê Đường Phong có lần bảo Hà Nội bây giờ
sân thì tiến ra đường còn vỉa hè chui sâu vào trong từng nhà.
Tôi đứng ở đầu đường Lý Nam
Đế, chỗ vườn hoa hàng Đậu. Lòng đường từ phía Cửa Đông hiện lên những đoàn xe
bò chở than. Trời, sao cái không khí trời đất này ghê sợ làm vậy, chuyến xe
đen, người đánh xe bò đen, cho đến gió bốc lên, làm đen cả những mặt người. Tôi
hoà nhập vào cái buổi chiều đổ quanh tôi, nó là một cái thực thế mù xám dâng
lên dần dần rồi nhấn chìm mọi vật.
Những đêm tối, tôi nghe từ
lòng đường tiếng móng bò điểm đều đều từng nhịp trên đường. Thanh vắng, trong
cái lặng lẽ của một buổi sáng trời đất mới trở dậy, tôi nghe rõ từng tiếng một,
cái thứ tiếng móng bò đó. Nó thanh, khô, gọn, mà lại thoáng như là ngân lên
trên đường phố.
Đất nước của tôi chỉ có thế
thôi, trung cổ một cách không thể lẫn với đâu được.
Những ngày nắng hanh, cái
thành phố xác ướp giống như là được giữ nguyên. Mọi vật phơi ra cái vẻ đang úa
tàn dần. Anh có thể cảm thấy một chút gì đó, như là vẻ đẹp của thành phố hôm
qua. Nó từng là một vẻ đẹp thật, và bởi vì nó đang úa tàn, nên lòng càng thấy
luyến tiếc.
Còn trong những ngày ẩm ướt,
thì cái cảm thấy rõ nhất, là chính quá trình chết, chứ không phải xác chết.
Không gian lầm lụi trong bùn đất bẩn thỉu và bởi vì mọi vật chỉ sắp chết nên
cũng có nghĩa là nó đang sống. Nó đang trên đường đi tới sự chết, dù chẳng bao
giờ đi tới.
Ngược với khái niệm về cá
nhân là khái niệm về đám đông. Nhưng vì những cá nhân của chúng ta là hèn hạ loạn
xị, cho nên những đám đông của chúng ta cũng tạp nhạp, phân tán, mà lại đơn điệu
nữa.
Làm sao để chúng ta sống một
mình nổi, chúng ta luôn luôn sống với những người chung quanh. Nhưng hình như
đây là một quy trình biện chứng: Càng nhập vào chung quanh, càng có yêu cầu trở
về nương náu trong cái tôi cũng đã trở nên vô tận của mình. Cũng như, càng nghĩ
về mình, lại càng thấy cần phải trao đổi, bàn luận với những người khác, ghét
người khác, yêu người khác, tóm lại là thấy tất cả những người khác đang cùng
mình sống, mình không sao đứng riêng ra được.
Những thoáng buông tay vì
thấy cuộc đời không công bằng. Những ghê rợn, vì thấy những chuyện vô nhân đạo,
bất công. Và một nỗi buồn lâu bền, âm ỉ, nhưng ăn rục ăn mòn mình, nỗi buồn vì
những nghiệp chướng không sao dứt ra được, nó là cái trình độ vớ vẩn của mình
và những người chung quanh... Tôi chứng kiến ở tôi tất cả những nỗi niềm kinh
khủng đó, nó là những vết thương trong tôi. Tôi có thể nói một cách nào đó, rằng
chính biết những vết thương đó, mà tôi biết tôi còn sống chăng?
29/12
Một năm đi qua, năm 1973.
Nghe tin một ông cốp ở Thành uỷ nói cố lo cho dân cái Tết này. Năm 1974 sẽ gay go lắm.
Nghĩa là năm 1973 này còn
khá. Nhìn về phía trước, một lòng tin sụp đổ, những ảo tưởng đúng vào lúc va chạm
với thực tế thì tan vỡ.
Phải nói lâu nay ta sống bằng
những huyền thoại. Chúng ta sẽ xây dựng đất nước sau hoà bình. Các nước khác sẽ
giúp đỡ... Ngày nay, cái bong bóng ấy bắt đầu tan vỡ.
Cũng không biết nên bắt đầu
từ đâu nữa. Có thể là có những nước khác họ sẵn lòng giúp. Nhưng mình không có
ai biết nhận -- không có ai biết làm. Lâu nay mình chỉ quen phá của.
Vả chăng chính mình cũng lại
không rõ là chiến tranh hay hoà bình. Hình như ai cũng biết đằng sau sự ngắc ngứ
đó, tức là chiến tranh đang được chuẩn bị, một cuộc chiến tranh ghê hơn cuộc
chiến hôm qua.
Mà thế giới nó chỉ muốn nói
hoà bình. Liên Xô, Trung quốc không muốn đánh nhau nữa.
Năm 1973, chỉ xây được mấy
cái cầu (từ đầu chiến tranh đến nay hỏng bao nhiêu cầu không biết). Còn những
Khâm Thiên, lấy đâu sức làm lại. Đất nước nhơm nhếch tàn lụi. Những sự biến được
trình bày trên báo chí loanh quanh chỉ là
những cuộc viếng thăm chính trị của những vị khách nước ngoài. Chủ khách
nói với nhau toàn những lời rỗng tuếch, như trò hề.
Có một điều lớn hơn những sự bê bối cụ thể.
Người ta mất lòng tin vào những cái lớn, cái rường cột của quốc gia. Huyền thoại
về quân đội bách chiến bách thắng không còn nữa (ông Văn bị báo chí trong kia
nó mang ra nó giễu như kiểu Đờ Lát trước kia vậy!).
Nếu được đẩy đến tận cùng,
người ta buộc phải nghĩ lại về cái thể chế này, một thứ thể chế phong kiến hệt kiểu
chế độ sa hoàng ngày trước. Ở cả chính quyền lẫn nhân dân, cả đám đông quần
chúng, lẫn các sếp sòng bề trên, -- những gì tốt đẹp hồi đầu chiến tranh đều đã
mất hết.
Chỉ ngày càng thấy có thêm
nhiều chức sắc nhà nước. Rất nhiều đại tá đi trên đường phố.
Một đại tá làm báo QĐND bảo tình hình này mà
dân Hà Nội nó chưa nổi lên, thì cũng lạ. Rối ren, bế tắc. Ai cũng thấy chúng ta
đang sống thiếu nguyên tắc. Những việc trước mắt người ta làm, chỉ vẫn là chữa
cháy tạm thời. Quây chợ, bắt người. Trong những vụ dẹp loạn đó, bao giờ cũng chỉ
bắt được những tôm tép. Những con cá lớn chuồn sạch. Bởi chính người đi bắt mới
là những thứ cá lớn nhất.
Nguyễn Khải kể một đoạn đối
thoại. Nguyễn Địch Dũng bảo ở chợ trời, mình làm phát xít quá.Thép Mới bảo nhưng
mà, ông ơi, mọi việc mình đã trót phát xít hoá từ lâu rồi.
Published on December 05, 2013 21:00
November 28, 2013
Cô Kiều nay đã đổ đốn
Nguyên là bài viết Những lối đoạn trường
đã in TBKTSG 2008 và in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
Thư viện quốc gia Hà Nội hàng tháng thường có những buổi nói chuyện về đủ loại vấn đề đang được dư luận quan tâm. Một ngày hè năm 1976, tôi có dịp được nghe một buổi nói chuyện như vậy mà diễn giả là kỹ sư Trần Đại Nghĩa.
Bấy giờ nước Nhật còn là cái gì xa xôi lắm. Trần Đại Nghĩa kể, ở Tokyo các kỹ sư đứng ở ngã tư để nghe mọi người phát biểu về kinh tế, ai nói họ cũng ghi để tham khảo, ai nói hay họ còn trả tiền. Quay về mình, ông bảo đừng ỷ vào tài nguyên, mà phải dành nhiều quan tâm cho chuyện quản lý, không quản lý tốt thì nền kinh tế không khác gì thùng không đáy.
Đất nước được quản lý kém thì có độc lập cũng chỉ là độc lập hờ, độc lập giả.
Nước mình lạ lắm, càng những ngành then chốt càng lạc hậu, ông nói tiếp. Về hướng phát triển, ông gợi ý đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn.
Chuyện nhỏ (đúng ra phải nói “có vẻ là nhỏ”) -- đào tạo công nhân lành nghề khó lắm, thợ hàn cao áp ở Việt Nam đào tạo một trăm người chỉ đậu được bốn người.
Chuyện lớn (cái này thì lớn thật) -- phải hiện đại hóa về giao thông và thông tin. Phải tiêu chuẩn hóa mọi chuyện. Tiêu chuẩn hóa là công cụ để đạt tới hiệu lực, biến khó thành dễ.
Một điều lạ nữa với chúng tôi là ở chỗ, tuy làm khoa học kỹ thuật, nhưng Trần Đại Nghĩa lại xem trọng khoa học xã hội. Ông báo động là cả nước có 50 triệu người mà gần như không có ai nghiên cứu tâm lý. Hiểu và xử lý đúng tâm lý xã hội, tâm lý nhân dân không tốt thì quản lý kinh tế cũng không tốt.
Tổng quát hơn, ông nói đến việc mình phải minh bạch với mình, rành mạch với mình. Bấy giờ là những năm tháng đầu tiên sau chiến tranh, nên cái sự giấu giấu giếm giếm còn tạm tha thứ được. Song, Trần Đại Nghĩa đã thấy đủ những tai hại mà cái lối “gì cũng coi là bí mật” ấy gây ra. Theo Trần Đại Nghĩa, trong quản lý xã hội, phải xác định bằng được số liệu chính xác. Vì đây là bước đầu để đi tới mình hiểu rõ được mình, tự xác định được vị trí của mình trên thế giới.
Lần giở lại những trang ghi chép được hôm ấy, tôi thấy nó giống như một lời tiên tri. Bởi nó đúng quá, đúng cả với “thời gian lớn” là hơn ba chục năm nay, cả với “thời gian nhỏ” là khoảng dăm bảy năm nay. Cả cái cách nó bị quên lãng nữa chứ!
Và tôi thầm nghĩ sao lịch sử oái oăm vậy, những suy nghĩ đúng thì không được thực hiện, những cảnh báo đúng thì không được đề phòng, khiến cho đất nước cứ ì ạch mãi, chưa bứt phá lên được.
"Đất nước được quản lý kém thì có độc lập cũng chỉ là độc lập hờ, độc lập giả".
Trần Đại Nghĩa
Lúc này báo chí đang đăng tải nhiều ý kiến liên quan tới tình hình lạm phát. Nhân đó thử nêu ra những “cách đọc” khác nhau với nền kinh tế. Không kể nhiều chuyên gia nước ngoài, ngay các nhà chuyên môn trong nước cũng nêu được nhiều sự lý giải rất xác đáng. Có người nói nhiều ngành kinh tế của ta đang trong tình trạng học việc, lại học không đến nơi đến chốn, ngân hàng thì có cái như tiệm cầm đồ cho vay. Vừa rồi có chuyện nông dân nuôi cá ba sa lao đao vì không bán được hàng, còn doanh nghiệp xuất khẩu thì không vay được tiền để mua cá.
Tôi lại nhớ cái buổi nói chuyện hơn ba chục năm trước của Trần Đại Nghĩa.
Hàng ngày có nhiều việc khiến tôi hối hận. Ai mà chẳng thế, có làm là có sai. Nhưng tôi nhớ một số trường hợp rất lạ, trước đó mình đã nghĩ đúng rồi, vậy mà khi bắt tay hành động, vẫn lầm lỡ thảm hại. Những lần như thế khiến tôi đau xót và tiếc nuối bội phần. Tại sao mình lại đổ đốn vậy? Do dốt một phần. Nhưng tôi nghĩ đến một thủ phạm nữa là những thói quen cũ không chế ngự nổi.
Để chỉ cái tình trạng lưỡng phân rất đáng tiếc này, người xưa có nhiều cách nói thú vị:
-- Hòn vàng thì mất hòn đất thì còn,
-- Hoa thường hay héo cỏ thường tươi,
-- Răng cắn phải lưỡi.
Nghe hơi tục thì có câu “Miệng khôn trôn dại”.
Nhưng tôi thích hơn cả là câu trong Truyện Kiều: “Ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những lối đoạn trường mà đi”. Đoạn trường có nghĩa là đứt ruột. Có những lầm lỡ làm người ta tiếc đến đứt ruột, và e sợ hình như ở đây đã có vai trò chi phối của ma quỷ.
Cá nhân mắc nạn loại này đã đau lắm rồi. Đến như cả cộng đồng cả xã hội, nếu không tránh được, thì sự đời chẳng phải là oan nghiệt quá sao?
Viết thêm 29-11-2013 : Cố tình "đường quang không đi, đâm quàng đường rậm"
Bài này tôi viết từ năm năm trước. Nhìn lại thấy chỉ mới mấy năm mà tình hình đã khác hẳn. Trước vì dốt nát nóng vội nên làm liều làm ẩu. Nay đã biết trước là làm bậy rồi vẫn cứ làm, nghiến răng mà làm, ép nhau cùng làm.
Học sinh xưa bí quá mới cóp bài nhau. Nay học sinh đi thi chuẩn bị sẵn các loại phao. Và nhà trường và giám thị coi thi hùa thêm vào giúp học sinh làm chuyện man trá cho trót lọt, coi đó là thành tích của mình.Trời cao đất dày nào bỏ qua cho những tội lỗi kiểu ấy!
Trong giáo dục sao thì trong các chuyện sản xuất làm ăn phát triển kinh tế xã hội ở cấp vĩ mô cũng thế.
Nàng Kiều xưa -- mà chúng ta hay vận vào số mệnh của dân Việt -- tự trách ma đưa lối quỷ đưa đường. Nàng Kiều ngày nay tự biến thành ma quỷ, lấy đủ các thứ lý lẽ ra để thuyết phục bản thân đi theo những lối đoạn trường. Chỉ có những kẻ mất hết niềm tin và trách nhiệm trước tương lai của chính mình mới hành động như chúng ta đang hành động.
đã in TBKTSG 2008 và in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
Thư viện quốc gia Hà Nội hàng tháng thường có những buổi nói chuyện về đủ loại vấn đề đang được dư luận quan tâm. Một ngày hè năm 1976, tôi có dịp được nghe một buổi nói chuyện như vậy mà diễn giả là kỹ sư Trần Đại Nghĩa.
Bấy giờ nước Nhật còn là cái gì xa xôi lắm. Trần Đại Nghĩa kể, ở Tokyo các kỹ sư đứng ở ngã tư để nghe mọi người phát biểu về kinh tế, ai nói họ cũng ghi để tham khảo, ai nói hay họ còn trả tiền. Quay về mình, ông bảo đừng ỷ vào tài nguyên, mà phải dành nhiều quan tâm cho chuyện quản lý, không quản lý tốt thì nền kinh tế không khác gì thùng không đáy.
Đất nước được quản lý kém thì có độc lập cũng chỉ là độc lập hờ, độc lập giả.
Nước mình lạ lắm, càng những ngành then chốt càng lạc hậu, ông nói tiếp. Về hướng phát triển, ông gợi ý đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn.
Chuyện nhỏ (đúng ra phải nói “có vẻ là nhỏ”) -- đào tạo công nhân lành nghề khó lắm, thợ hàn cao áp ở Việt Nam đào tạo một trăm người chỉ đậu được bốn người.
Chuyện lớn (cái này thì lớn thật) -- phải hiện đại hóa về giao thông và thông tin. Phải tiêu chuẩn hóa mọi chuyện. Tiêu chuẩn hóa là công cụ để đạt tới hiệu lực, biến khó thành dễ.
Một điều lạ nữa với chúng tôi là ở chỗ, tuy làm khoa học kỹ thuật, nhưng Trần Đại Nghĩa lại xem trọng khoa học xã hội. Ông báo động là cả nước có 50 triệu người mà gần như không có ai nghiên cứu tâm lý. Hiểu và xử lý đúng tâm lý xã hội, tâm lý nhân dân không tốt thì quản lý kinh tế cũng không tốt.
Tổng quát hơn, ông nói đến việc mình phải minh bạch với mình, rành mạch với mình. Bấy giờ là những năm tháng đầu tiên sau chiến tranh, nên cái sự giấu giấu giếm giếm còn tạm tha thứ được. Song, Trần Đại Nghĩa đã thấy đủ những tai hại mà cái lối “gì cũng coi là bí mật” ấy gây ra. Theo Trần Đại Nghĩa, trong quản lý xã hội, phải xác định bằng được số liệu chính xác. Vì đây là bước đầu để đi tới mình hiểu rõ được mình, tự xác định được vị trí của mình trên thế giới.
Lần giở lại những trang ghi chép được hôm ấy, tôi thấy nó giống như một lời tiên tri. Bởi nó đúng quá, đúng cả với “thời gian lớn” là hơn ba chục năm nay, cả với “thời gian nhỏ” là khoảng dăm bảy năm nay. Cả cái cách nó bị quên lãng nữa chứ!
Và tôi thầm nghĩ sao lịch sử oái oăm vậy, những suy nghĩ đúng thì không được thực hiện, những cảnh báo đúng thì không được đề phòng, khiến cho đất nước cứ ì ạch mãi, chưa bứt phá lên được.
"Đất nước được quản lý kém thì có độc lập cũng chỉ là độc lập hờ, độc lập giả".
Trần Đại Nghĩa
Lúc này báo chí đang đăng tải nhiều ý kiến liên quan tới tình hình lạm phát. Nhân đó thử nêu ra những “cách đọc” khác nhau với nền kinh tế. Không kể nhiều chuyên gia nước ngoài, ngay các nhà chuyên môn trong nước cũng nêu được nhiều sự lý giải rất xác đáng. Có người nói nhiều ngành kinh tế của ta đang trong tình trạng học việc, lại học không đến nơi đến chốn, ngân hàng thì có cái như tiệm cầm đồ cho vay. Vừa rồi có chuyện nông dân nuôi cá ba sa lao đao vì không bán được hàng, còn doanh nghiệp xuất khẩu thì không vay được tiền để mua cá.
Tôi lại nhớ cái buổi nói chuyện hơn ba chục năm trước của Trần Đại Nghĩa.
Hàng ngày có nhiều việc khiến tôi hối hận. Ai mà chẳng thế, có làm là có sai. Nhưng tôi nhớ một số trường hợp rất lạ, trước đó mình đã nghĩ đúng rồi, vậy mà khi bắt tay hành động, vẫn lầm lỡ thảm hại. Những lần như thế khiến tôi đau xót và tiếc nuối bội phần. Tại sao mình lại đổ đốn vậy? Do dốt một phần. Nhưng tôi nghĩ đến một thủ phạm nữa là những thói quen cũ không chế ngự nổi.
Để chỉ cái tình trạng lưỡng phân rất đáng tiếc này, người xưa có nhiều cách nói thú vị:
-- Hòn vàng thì mất hòn đất thì còn,
-- Hoa thường hay héo cỏ thường tươi,
-- Răng cắn phải lưỡi.
Nghe hơi tục thì có câu “Miệng khôn trôn dại”.
Nhưng tôi thích hơn cả là câu trong Truyện Kiều: “Ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những lối đoạn trường mà đi”. Đoạn trường có nghĩa là đứt ruột. Có những lầm lỡ làm người ta tiếc đến đứt ruột, và e sợ hình như ở đây đã có vai trò chi phối của ma quỷ.
Cá nhân mắc nạn loại này đã đau lắm rồi. Đến như cả cộng đồng cả xã hội, nếu không tránh được, thì sự đời chẳng phải là oan nghiệt quá sao?
Viết thêm 29-11-2013 : Cố tình "đường quang không đi, đâm quàng đường rậm"
Bài này tôi viết từ năm năm trước. Nhìn lại thấy chỉ mới mấy năm mà tình hình đã khác hẳn. Trước vì dốt nát nóng vội nên làm liều làm ẩu. Nay đã biết trước là làm bậy rồi vẫn cứ làm, nghiến răng mà làm, ép nhau cùng làm.
Học sinh xưa bí quá mới cóp bài nhau. Nay học sinh đi thi chuẩn bị sẵn các loại phao. Và nhà trường và giám thị coi thi hùa thêm vào giúp học sinh làm chuyện man trá cho trót lọt, coi đó là thành tích của mình.Trời cao đất dày nào bỏ qua cho những tội lỗi kiểu ấy!
Trong giáo dục sao thì trong các chuyện sản xuất làm ăn phát triển kinh tế xã hội ở cấp vĩ mô cũng thế.
Nàng Kiều xưa -- mà chúng ta hay vận vào số mệnh của dân Việt -- tự trách ma đưa lối quỷ đưa đường. Nàng Kiều ngày nay tự biến thành ma quỷ, lấy đủ các thứ lý lẽ ra để thuyết phục bản thân đi theo những lối đoạn trường. Chỉ có những kẻ mất hết niềm tin và trách nhiệm trước tương lai của chính mình mới hành động như chúng ta đang hành động.
Published on November 28, 2013 22:19
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
