Vương Trí Nhàn's Blog, page 77

January 25, 2014

Xuân Diệu và lời đề nghị “hãy giã từ những cái tết trung cổ.”

 Lúc thân tình, một bạn người Nga có lần nói thẳng với bọn tôi là cưới xin ở các anh sao mà kỳ thế, mỗi người
đến dự nộp một phong bì, tiền đặt trong phong bì thay đổi theo thời giá thị trường.
Không khí thường ồn mà nhạt.
Thiếu sự tự nhiên. Nghèo mà lại còn rơi vào xa hoa
nữa. Lễ cưới được làm để khoe, để trả nợ miệng hơn là vì chuyện tình yêu của
đôi trai gái.


Tôi nghe giật mình. Thấy
người nước ngoài người ta hiểu mình rõ quá. Nhất là thấy các phong tục ở ta
nhiều khi quá rườm rà. Rỗng. Hình thức lặt vặt. Quá phí phạm thời gian. Nó là
dấu vết của cách sống thời xa xưa, không hợp với đời sống hiện đại.




Chuyện Tết nhất cũng
tương tự. Đã là người Việt, ai chẳng nói đến ngày Tết với cả tấm tình rung
động. Mỗi người xem đây là dịp để trở về với tinh thần dân tộc. Vậy mà, như
cách chúng ta tổ chức hiện nay, thì ở đó có bao nhiêu cổ hủ, bao nhiêu đắp điếm
giả tạo, và ngày tết không khỏi trở thành là một dịp phô bầy ra cái sự lạc hậu
trong nếp sống nếp nghĩ đã từng ngự trị trong quá khứ, và ngày nay còn để lại
nhiều di lụy.




Diễn biến của sự đề cao phong tục

Cách cưới xin ở trên vừa
nói là vốn mang đậm dấu vết một thời làng xã xa xưa. Thời ấy, nghèo đói quá, phải
chờ đến ngày cưới mới được bữa no. Mỗi nhà không đủ tiền lo cho con, nên đành
làm lối chơi họ. Hôm nay tôi góp cho nhà anh, mai này anh góp cho nhà tôi. Góp
trước trả sau cũng có, mà trả trước đòi sau cũng có. Tình trạng đến ăn
cưới phải nộp phong bì chính là vết tích của cái thời nghèo khó trên diện rộng ấy.

Còn cách ăn tết?

Im lìm, lặng lẽ vốn là
đặc điểm của cuộc sống trầm lặng thời phong kiến. Nhân dịp xuân về, người ta
muốn kêu to lên về sự có mặt của mình trong cuộc đời. Những quả pháo được mượn để
nói hộ.

Nền sản xuất nông nghiệp
thời ấy mang nặng tính cách thời vụ. Khi bận thì bận tối mắt, nhưng ngoài ra
chơi dài. Quanh năm đói kém nên chờ đến ngày tết là có dịp xả láng. Chỉ riêng
câu ca tháng giêng là tháng ăn chơi
đã cho thấy nhịp điệu uể oải chậm chạp của một xã hội u tối.

 Đặc điểm của 
các xã hội hiện đại là sự thu nhập thường xuyên dồi dào dựa trên một nền
sản xuất năng động và kỷ luật chặt chẽ. Nghỉ ngơi và làm việc đã luân phiên cả
năm. Tự nhiên tết nhất không được phép kéo dài và mỗi người cũng không cần những
phong tục ngày Tết rườm rà làm khổ nhau như ở mình.




Phải gọi cách ăn tết dềnh
dang là phong cách trung cổ.

Cách gọi đó tôi học từ
Xuân Diệu.

Trên tạp chí Tiên Phong số ra ngày 16-2 1946, Xuân
Diệu có bài Tết độc lập thứ nhất và tết trung cổ cuối cùng. 




Ông bảo cách đón Tết cho
thấy dân ta lười quá. Các cửa hàng không
chịu mở. Chẳng ai muốn làm gì, ngoài chuyện vui chơi
. Đã thế, nó lại kéo
dài quá.

Sau khi kêu lên: 

"Chúng ta chưa phải là những người lớn hay
sao? Chúng ta còn muốn là trẻ con hay sao
?",

 tác giả đề nghị :

 "Chúng
ta [hãy] bỏ cái tâm hồn trung cổ, và quả quyết cải cách cái Tết thân yêu của
chúng ta, rút nó lại đúc nó thành hai ngày vui vẻ tin tưởng đầy đủ
". 

Bài viết kết thúc bằng
một câu được nhấn mạnh trong nguyên bản: 




Đúc Tết lại, tức là làm cho Tết mạnh thêm, mà kéo Tết dài, tức là giết
Tết”. 





Lời lẽ hơi bốc, rõ ra
khẩu khí của một thời hào hứng, chưa biết đến chỗ khó trong lịch sử và lòng
người. Nhưng tinh thần trong cái bài trên đây của Xuân Diệu là tinh thần cách
mạng. Hai chữ cách mạng nói ở đây không phải là hè nhau đi đánh ai giết
ai. Mà  chỉ có nghĩa muốn sống khác đi so với cách sống cũ.




Từ một cái nhìn lịch sử

 Điều một Xuân Diệu 30 tuổi đề nghị chỉ là tiếp
tục cái xu hướng canh tân được khai phá bởi nhiều bậc trí giả từ trước 1945.

 Trong thời kỳ hiện đại hóa thứ nhất, dưới sự
bảo trợ và cầm chịch của văn hóa Pháp, việc đẩy lùi nhiều phong tục cổ hủ được
tiến hành từng bước khá vững chắc.

Từ những năm đầu thế kỷ
XX, trong việc miêu tả các phong tục cha ông để lại, một nhà thâm nho như Phan
Kế Bính thường không bao giờ quên nhấn mạnh những mặt cổ hủ của nó. 

Nhiều tiếng nói xuất sắc
trong văn học tiền chiến đều chung một ý hướng là đề nghị cộng đồng phải thay
đổi cách sống.

Và tinh thần đó lan ra
một cách từ tốn nhưng chắc chắn. Người ta có thể chưa làm được, nhưng đều biết
việc gì nên làm.

Cuộc cách mạng 1945 đón lấy cái xu hướng đó. Một trong những động cơ khiến nhiều trí thức đến với cuộc
cách mạng 1945  là người ta muốn đổi mới
thật triệt để.

 Sau khi ra mắt(10-11-1945), tạp chí Tiên Phong– cơ quan của Hội Văn hóa Cứu
quốc - luôn có bài viết về đời sống mới.
Nhiều vấn đề phong tục tập quán được đặt lại. Trên số 19-8-1946 có bài Xây dựng con người của Nguyễn Đình Thi.
Số 2, ra ngày 1-6-1946, có bài bàn về Cải cách hôn nhân
 mà tuy ký bút danh khác, song có người
bảo là của Nguyễn Huy Tưởng.

Xu hướng này cần mẫn kéo
dài và đi vào đời sống.

Những năm sáu mươi bảy
mươi của thế kỷ trước, các đám cưới cũng như Tết nhất ở Hà Nội của chúng tôi, đơn
giản mà vẫn thiêng liêng ấm cúng.




Giải thích một định hướng ngược

Thế  tại sao ngày nay lại có cái sự lại gạo của các phong tục cổ hủ như
trên vừa nói?

Sự kiện chủ yếu của đời
sống dân tộc thế kỷ XX là cuộc chiến tranh ba mươi năm. Để tiến hành chiến
tranh thắng lợi, chúng ta phải phá vỡ nhịp sống thông thường. Không ai lo sống
cho ra sống nữa. Cách sống mới đồng nghĩa với 
tính tự phát.

 Bắt vào thời chiến, một số nếp sống hiện đại,
như chống mê tín, như tinh giản mọi lễ tiết , thiết thực, tiết kiệm… sở dĩ được
khuyến khích bởi nó thích hợp với tình trạng nghèo đói. Trong cảnh cái chết kề
bên, người ta mơ về thuở thanh bình, chẳng cần biết nó là cũ hay mới.

Tiếp đó là thời hậu
chiến.  Với tâm lý của kẻ sống sót, con
người lúc này muốn truy lĩnh, muốn đòi
lại một cuộc sống dễ chịu để bù lại những ngày gian khổ đã qua. Và Tết thì thi
nhau làm thật linh đình, giá có nhắc chuyện tiết kiệm liền bị coi là cổ lỗ, lạc
lõng. 

Cuộc chiến tranh ba mươi
năm là cuộc chiến tranh của nông dân. Những người nông dân nói theo chữ hồi
chống Pháp, là quân chủ lực.

Các phong tục vốn gốc
nông thôn, đi đâu người ta vẫn mang theo nó. Nhất là sau một thời chiến tranh
mà chiến thắng có được nhờ những nỗ lực to lớn của nông thôn và nông dân, người
ta càng thích quay về với truyền thống , bất kể là hay hay dở. 

Kéo dài suốt hơn một nửa
thế kỷ, sự dang dở trong phong tục nói chung trong cách tổ chức tết nói riêng, ngày
càng trở thành sự lộn xộn.

Những mục đich ban đầu
của cách mạng bị xếp sang một bên. Cuộc cách mạng gần như đã bị đánh tráo. Các
thói hư tật xấu của giai cấp thống trị cũ nay được những cốt cán của chế độ mới
học theo. Còn nhân dân --một nhân dân bị đơn giản hóa và được chiều nịnh, lại
thiếu đi sự khai phá theo đời sống mới của giới trí thức làm đầu tầu - , một nhân dân như thế có ồ ạt quay về
với cái cũ cũng là dễ hiểu.




Bảo thủ trì trệ và khéo biện hộ

Nét đặc biệt của cuộc lại gạo lần này là đã có đủ loại lý
lẽ che chở. Việc quay về với cái lạc hậu được mệnh danh là sự trở về truyền
thống.  Có cả một trò chơi, có sức lôi
cuốn đám đông, tạm gọi là trò “nhân danh phong tục”. Lấy cớ ai cũng làm vậy,
người ta một chiều xem việc theo sát phong tục xưa là điều tự hào, lâu lâu lại
tìm ra vài khía cạnh mới để lăng-xê mốt, coi như mình trở về nguồn kỹ càng tinh
vi lắm.

Không phải là lòng người
không cảm thấy sự cần thiết và khao khát những đổi mới trong cách sống. Nhưng tình
trạng đất nước cô lập kéo dài quá lâu khiến mọi người như mất tự tin, nhìn ra
thế giới chỉ thấy hoang mang. Nẩy sinh tâm lý nước đôi. Vừa muốn thay đổi vừa
không biết thay đổi như thế nào. Đối với cái mới vừa thèm vừa sợ. Âu là cứ lối
cũ mà làm.

Quan hệ của chúng ta với
phong tục tập quán xưa đang ở trong cái thế như vậy. 

Từ hồi bước sang thời
thị trường, không phải không có những đám cưới được tổ chức theo lối thịnh hành
ở xã hội công nghiệp, nhưng thường là tân
cổ giao duyên
. Người ta cứ mặc váy trắng ra chụp ảnh ở các công viên để rồi
ở cửa đại sảnh dẫn vào bàn tiệc không quên đặt hòm chờ phong bì. Lớp trẻ ở các
đô thị  vừa đổ xô ra đường ăn tết theo
kiểu tây vào tết dương lịch, vừa quay về đi thả cá ngày ông công ông táo, đi hái
lộc đêm giao thừa, cùng là lên chùa xin thẻ, quay về đốt vàng mã và vào cuộc cờ
bạc đỏ đen trong mấy ngày đầu năm, như ông cha cả trăm năm trước.

 Từ ngày Xuân Diệu viết bài báo nói trên đến
nay đã sáu mươi tám năm. Căn cứ theo tinh thần nhà thơ đề nghị, thì thấy, trong
hơn hai phần ba thế kỷ ấy, bên cạnh một số mặt đổi mới để hội nhập và tiến lên
theo con đường hiện đại hóa, trên phương
diện phong tục tập quán và những khía cạnh ẩn sâu trong tâm linh, có thể nói cộng
đồng chúng ta vẫn duy trì một nếp sống trung cổ và chưa biết ngày nào mới đủ
sức thay đổi theo hướng hiện đại.










Ảnh kèm – Bài viết của Xuân Diệu , in trong Sưu tập trọn bộ Tiên phong 1945-1946,


 










Nhà xuất bản Hội nhà văn H. 1996 Tr 237-240




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 25, 2014 01:02

January 21, 2014

Một dịp trở về với dĩ vãng


    Đêm 30
Tết Tân Hợi (1971), về công tác ở một đơn vị bộ đội và đón giao thừa giữa rừng Quảng Bình, tôi chỉ còn tìm
thấy niềm an ủi ở một bếp lửa.

 Từ khoảng mười giờ đêm trở đi, không biết làm gì
mà cũng không thể ngủ nổi, tôi và mấy anh lính Hà Nội  nghĩ ra cách giết thời gian là ngồi đun nước.
Nghĩa là đun đầy một cặp lồng cho sôi lên sùng sục, rồi đổ đi. Lại một cặp lồng
khác. Cố nhiên chẳng để làm gì, nhưng bù lại, tôi thấy vui vui. Và có điều lạ
là nhiều năm sau, sống những cái tết bình thường khác bên gia đình, vợ con, tôi
vẫn nhớ Tết năm 1971 ấy như một thời khắc đẹp trong đời mình.


Có lẽ
là trong sự đơn sơ của tình thế, tôi như được đối mặt với những gì thuộc về vẻ bao la huyền bí của thiên nhiên. Và một bếp lửa, nó thuộc loại dấu hiệu đẹp nhất nói về sự có mặt của con người trên mặt đất. “Đưa người ta trở
về sống trọn vẹn trong cái trong trắng tinh khôi của dĩ vãng” - phải chăng có
thể xem đấy là một trong những định nghĩa đơn giản nhất về Tết mà ngày nay đã
bị quên lãng?

Nông thôn và Tết

Do
tính chất ước lệ của nó, văn chương cổ điển Việt Nam không có điều kiện mô tả
trực tiếp những nét đẹp của sinh hoạt dân tộc. Phải đợi đến thế kỷ XX, dưới ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây, ngòi bút các nhà văn mới hướng vào việc tả thực
và trong văn thơ người ta bắt đầu thấy hiện lên những bức tranh của đời sống,
trong đó có cảnh Tết.

 Nhưng, từ rất sớm, đã thấy bộc lộ một xu hướng, ấy là
những cảnh Tết đầm ấm nhất, tươi đẹp nhất thường khi là Tết ở nông thôn (như
trong thơ Nguyễn Bính, thơ Đoàn Văn Cừ). 

Còn tết thành thị lại mang sắc thái bẽ
bàng, trớ trêu (trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hoặc
trong tuỳ bút Một chuyến đi của Nguyễn Tuân). 

Tại sao lại có tình trạng
đó? Tôi có suy nghĩ và thấy Tết là một cách sống lại dĩ vãng. Mà trong đời sống
một dân tộc, nông thôn bao giờ cũng mang rõ dấu vết của dĩ vãng hơn cả. Nói
cách khác, Tết tự trong bản chất của nó, là gắn với nông thôn. Nó xuất phát từ
nông thôn và chỉ hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp trong môi trường nông thôn. Thí dụ
như câu chuyện chung quanh cái bánh chưng. Thời buổi đói kém qua đi, mấy ai bây
giờ nhớ tới bánh chưng với vẻ thèm thuồng tối thiểu. Chính các cụ xưa cũng đã
khái quát: “Dửng dừng dưng như bánh chưng ngày tết”. Nghĩ lại thì hoá ra
cái thú bánh chưng không phải ở chuyện ăn, mà là chuyện chuẩn bị. Đãi đỗ, vo
gạo, rồi rửa lá. Nhất là gói thì càng vui. Còn cái thú của việc ngồi canh bánh
chưng thì đã được Nguyễn Bính nhắc tới từ hơn sáu chục năm trước.

Trời đen như
thể  tối ba mươi


Diễm trốn nhà sang
để gặp tôi


Hai chúng tôi ngồi
trên đệm rạ


Lắng
nghe nồi bánh rộn ràng sôi.


Nên đón Tết như thế nào?

Trong trường kỳ lịch sử, với tư cách một lễ hội đặc
biệt, cố nhiên Tết còn được người xưa giải thích theo những cách khác nhau. Tết
để tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Tết để có dịp gia đình sum họp. Đến ngày nay, dịp
đầu năm này tiếp tục khoác thêm nhiều ý nghĩa mới: tết, ấy là dịp tổng kết mừng
công. Là thời gian nghỉ ngơi trước khi bước vào một chu kỳ công việc mới v.v...

Thế
nhưng, căn cứ vào cách tổ chức Tết từ cổ các cụ truyền lại và lắng nghe tâm trí
mình mỗi dịp Tết đến, thì phải nói ở đây nhu cầu trở về với quá khứ vẫn là cái
cảm giác bao trùm. Và nét tâm lý ấy di truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia, đến
mức chỉ mơ hồ cảm thấy những dấu hiệu của nó, lòng dạ chúng ta đã xốn xang.

Khốn
nỗi, xã hội ngày mỗi trở nên hiện đại, có nghĩa là càng ngày, niềm khao khát
trở lại ngày xưa càng khó thực hiện.

 Trước 1945, ở Hà Nội, nhiều gia đình có
cái lệ là Tết đến đóng cửa, giao cho bọn thằng nhỏ trông nhà, để mọi người cùng
kéo về quê ăn Tết. 

Ngày nay, những chuyến đi thú vị ấy trở nên quá diệu vợi,
không mấy ai dám tính chuyện rắc rối ấy nữa. 

Và để bù vào cái khoảng trống vắng
vừa mở ra, một số người xoay ra tổ chức Tết thật linh đình. Tết trở thành một
thời điểm thuận tiện, tiến hành các thủ tục ngoại giao, biếu sếp cái này, thết
đãi bạn cũ món kia. Tết đóng vai trò một sàn diễn lý tưởng để người ta khoe
giàu, khoe của. Nói chung, vừa là tết trưng diện, vừa là tết hưởng thụ.

Nói
những chuyện này để thấy hoá ra có được một cái Tết như ta vẫn thầm mong đợi,
quả là chuyện khó, trong mỗi đời người hoạ chăng chỉ có một hai cái Tết mà mãi
về sau ta còn thấy nhớ. Để những cái Tết ấy đến sớm và còn tiếp tục đến, ta hãy
tự chuẩn bị bằng cách bảo nhỏ với nhau, một là từ bỏ hẳn ý tưởng coi Tết là một
dịp đua đả bon chen, khoe khoang tị nạnh và hai là trong khi thực hiện những
tập tục xưa với lòng thành kính, hãy cố gắng mang vào đấy những suy nghĩ riêng,
tức không dừng lại ở những cách giải thích sẵn có mà tự lắng nghe để tìm ra ở
Tết những ý vị mới.



 Chắc chắn nhờ thế, dịp Tết sẽ bớt nhàm chán,
và ra giêng người ta sẽ không phải nghĩ về nó với một sự than tiếc ngẩn ngơ
rằng vừa trải qua một chuỗi ngày dông dài vô bổ.




Đã in Nhân nào quả ấy 2003

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 21, 2014 01:11

January 18, 2014

Lì xì ba vạ tức là trao con dao sắc cho trẻ

    Nỗi khổ của những ngày Tết
là chủ đề mà cánh già ngoài bãi sông Hồng chúng tôi mấy ngày qua hay
bàn. Chủ đề sáng nay lái sang câu chuyện về việc người lớn lì xì, hay nói theo lối đồng bằng Bắc bộ, gọi là mừng tuổi lớp trẻ.



    
Anh A mào đầu kể một chuyện nhiều năm lặp đi lặp lại. Mấy ngày tết đi chúc tết đã mệt nhoài, tối nào về
cũng có một việc phải làm là quản tiền mừng tuổi mà đứa con trai anh đã
nhận hôm ấy. Sau đó, tết xong, đây cũng là việc anh phải lo tổng kếtlên kế hoạch  đối phó với cậu quý tử khá tỉ mỉ.

     -- Sao lại căng thẳng đến thế ?-- tôi hỏi lại.

   -- Trẻ con giờ khôn lắm, nó biết đấy là dịp trời cho, tiền kia là tiền
của nó, mình không thể muối mặt đòi lại nó được. Sẽ được tùy nghi tùy
tiện, muốn làm gì thì làm. Được phiêu lưu trong hư hỏng… 

     Thật chẳng khác
gì người ta -- không cần biết con mình còn vụng về thế nào -- đưa cho
con mình con dao sắc, bố mẹ có gỡ mãi cũng không nổi.

 
   Chỉ còn có cách an ủi là nghĩ rằng trước đó mình cũng đã tham gia
vào việc trao con dao sắc cho con người khác nghịch chơi. Trách ai được
nữa.

      Anh B kể về một nỗi khó xử khác:

     
-- Có lần đến một nhà quen, đôi bên mừng tuổi con cái. Tôi cứ theo thói
quen đưa cái bao sắp sẵn hai mươi ngàn, nghĩ là lì xì trẻ lấy lệ. Nhưng
về hỏi con mới biết hôm ấy con tôi được anh bạn lì xì một trăm ngàn. Tự
nhiên cảm thấy như mắc một món nợ. Vợ tôi thì bảo thôi rút kinh nghiệm
sang năm phải tìm hiểu trước, xem bạn bè mình năm vừa qua làm ăn thế nào
sẽ lì xì cho con mình bao nhiêu để mà ra đòn tương tự, chứ không lại
mang tiếng là bủn xỉn.

     Anh C tiếp tục trở lại khía cạnh tiền làm hư trẻ:

    
-- Chưa nói chuyện tiêu vung cả lên sau, --  ngay lúc nhận tiền, ở đứa
trẻ lập tức hình thành một thái độ. Hễ ai cho nhiều tiền thì đó là người
tử tế đàng hoàng, ngược lại thì đó là người kém cỏi nếu không muốn nói
là tồi tàn, bất lịch sự, không biết cách cư xử. Đồng tiền mừng tuổi trở
thành yếu tố quyết định trong việc đánh giá con người của chúng, đã đáng
sợ chưa? Phần lớn trẻ hiện nay cư xử như tôi vừa kể.  Nội cái việc cỏn
con này, đã chứng tỏ chúng ta vụng về  thế nào trong việc  đối xử với
cái thế hệ tương lai mà lúc nào ta cũng lo lắng.



       Lúc nào đó, phải nghiên cứu lai lịch cái chuyện lì xì này, xưa thế nào và nay ra sao.

       Có một điều chắc, cũng như nhiều phong tục khác, nó bắt nguồn từ Trung quốc.

      Trong cuốn Cội nguồn văn hóa Trung Hoa (bản dịch tiếng Việt 2003), tôi đọc thấy người ta viết rằng “sau bữa cơm đêm giao thừa, người bề
trên mừng tuổi cho đám hậu sinh….Cũng có khi vào buổi sáng mồng một Tết,
khi trẻ em đến chào hỏi người trên, thì cũng được mừng tuổi tặng
tiền”... Có người dùng tiền mừng tuổi đặt trong bao đặt dưới gối con trẻ
để xua đuổi tà ma…”.
 

     Còn ở VN, ngay trong những câu chuyện kể về Tết ngày xưa, chuyện này cũng chỉ được nhắc qua loa.

     Việt Nam phong tục của  Phan Kế Bính giới hạn mừng tuổi trong phạm vi gia đình.  

    Nếp cũ làng xóm Việt Nam
của Toan Ánh cho biết “con cháu chúc tết các cụ xong, các cụ cũng chúc
tết lại  […] Và các cụ cũng mở hàng lại cho con cháu một món tiền gọi
là tiền mừng tuổi, người giàu mừng tuổi nhiều, người nghèo cũng mừng
tuổi tượng trưng một vài đồng[ …] miễn sao để con cháu gặp được may mắn
tốt đẹp
“.

    Phong tuc làng xóm Việt Nam
của Nhất Thanh—Vũ Văn Khiếu ghi: trong quan hệ với họ hàng bè bạn, mừng
tuổi cũng gọi là mở hàng, nhiều ít tùy cảnh. Với giới kinh doanh, tất cả đều hiểu  ngầm với nhau rằng việc
khách mừng tuổi cho con chủ nhà chỉ là việc thiện chí. Tiện thì làm không thì thôi,
không ai đánh giá nhau qua việc đó cả. 

   

     Đối chiếu lại như thế, thì thấy mừng tuổi với con người gọi là thời kinh tế thị trường hôm nay đã biến thành một tệ nạn.

    Sau chiến tranh, nhiều phương diện đời sống ở ta có thiên hướng trở lại với cái thời tiền hiện đại.

    
Nhân danh tiếp nối truyền thống, người ta thả mình vào vòng tay của mê
tín dị đoan, đằng sau đó không gì khác chính là nỗi lo lắng thường trực
cho tương lai và liều lĩnh làm tất cả để mưu sinh. Mối quan hệ giữa người với người trong trường hợp này không tìm được những chuẩn mực hợp lý.

      Với dân làm ăn phi pháp, kể cả đám chạy chức chạy quyền, mừng tuổi là hình thức hối lộ. Là để ra giá, mặc cả, hoặc khi các phi vụ đã xong, để thanh toán. Trong cơn bốc đồng, mừng tuổi người lạ là để khoe của ngạo đời.

       Nhưng hãy để các việc đó sang một bên. Hãy nói việc mừng tuổi trong mối
quan hệ hàng ngày giữa những người công nhân viên chức lao động bình
thường.

        Đặt tiền vào tay con trẻ một cách vô tội vạ hiện nay chính là một bằng
chứng cho thấy con người không đủ sức kiểm soát nổi các hành động của
chính mình. Ta tưởng ta làm việc tử tế với người khác. Hóa ra ta đẩy đối
tượng của mình vào một tình thế hết sức khó xử. Ta muốn tỏ ra yêu
thương con bạn nhưng làm thế là nối giáo cho giặc, đánh thức cái phần hư
hỏng trong đứa trẻ. Làm một việc dễ dẫn đến hậu quả tai hại, trong phần lớn trường hợp có những tác động xấu xa, mà lại cứ đinh ninh mình đang làm
việc tốt và vênh vang tự hào vì điều đó.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 18, 2014 20:25

January 16, 2014

Cái nạn mừng tuổi

Câu chuyện mồng một đi chúc tết bè bạn,

 dưới con mắt nhà văn Nguyễn Công Hoan

hơn bảy mươi năm trước



Ngòi bút đã viết nên những Oẳn-tà roằn, Đôi giày mất dạy, Cô Kếu gái tân thời.... vốn nhạy cảm với những gì là phi tự
nhiên, éo le, kỳ cục.

Trong những sáng tác viết về tết, thói quen ấy vẫn
được ông khai thác triệt để.

Sở dĩ một thiên truyện như Người ngựa và ngựa người
để lại trong bạn đọc cái dư vị chua xót là do nó đã nêu lên một nghịch
cảnh mà trong những khi bận rộn tết nhất, người ta ít để ý: ấy là giữa
lúc thiên hạ náo nức vui tết với gia đình, có những kẻ vẫn phải lang
thang kiếm sống. Và tình thế lại càng thê
thảm hơn, khi xảy ra cảnh đò nát đụng nhau, tức là trong cơn tuyệt vọng,
hai kẻ khốn khổ đó (ở đây là một phu xe ế hàng và một gái nhà thổ không
bói ra khách) còn lừa lọc nhau, rút cục là người nọ làm khổ người kia,
và đứng ngoài nhìn, chúng ta chỉ có cách cười ra nước mắt.


 Trong một truyện ngắn mang tên Năm mới tôi mừng ông
(in trong một tập sách tết, 1943) Nguyễn Công Hoan lại trình ra một
cảnh trớ trêu khác.

 Lần này, ông lấy một chuyện chính ông đã trải để kể
với bạn đọc.

Ấy là một lần, đúng mồng một tết, ông tới thăm nhà một đồng
nghiệp dạy học tên là Định.

Người này với ông không thật thân nên không
mấy khi ông đến chơi.

 Mà ông lại không nhớ số nhà, chỉ ang áng quãng ấy
quãng ấy.

Vào cửa, ông được con sen trong nhà tưởng là khách quen nên
mời ngay lên gác để gặp chủ và trong khi đang lên cầu thang, ông được
chủ mời làm một chân tổ tôm.

 Nghe tiếng, đã hơi ngờ ngợ, đến lúc chủ nhà
ngẩng mặt lên, mới biết đã vào nhầm nhà, đành xin lỗi quay ra. Lúc ông
xuống thang còn nghe chủ nhà mắng đầy tớ:

- Con ranh con, cửa cứ mở toang, ông Hoan đấy chứ, giá là kẻ gian thì có
chết không
?

 Đến nước này, tự nhiên tác giả cảm thấy bẽ bàng vô hạn: “Như bị một phát đạn nữa, tôi vội vàng trút trả miếng trầu và điếu thuốc lá, cút thẳng một mạch”. 



Kể ra đây cũng là một tình thế trớ trêu, mà người ta ai cũng có thể gặp,
nhất là những khi sơ ý.
Có điều, đằng sau câu chuyện mua vui, cái dụng ý của Nguyễn Công Hoan
trong thiên truyện này  ở chỗ khác.

 Mặc dù là một người ghét lý luận,
lại càng ghét sự dông dài trong khi thuật truyện, song trước khi kể lại
cái “kỷ niệm để đời” nói trên, Nguyễn Công Hoan vẫn để ra một đoạn dài gọi là trữ tình ngoài đề mà chúng tôi muốn chép lại đầy đủ như sau:

 “Tối ba mươi tết năm ấy, tôi cố xong
tất cả các công việc để đến hôm sau, chịu cái tai nạn nó làm mất cả
ngày: nạn tiếp bạn đến mừng tuổi và nạn mừng tuổi bạn.

 Việc đi mừng tuổi nhau hôm mùng một đầu năm thật là một cái nạn. 

Còn gì
khổ cho bằng phải tiếp những người hoặc đi đến nhà những người quanh năm
chẳng gặp nhau lần nào, trừ tết nguyên đán. Chuyện đã chẳng có gì để
nói, mà cứ phải cười gượng, nịnh nhau sằng, rồi mắt trước mắt sau chỉ
muốn chuồn cho mau đến nhà khác để cũng làm cái công việc nhạt nhẽo ấy. 


 Còn gì dơ dáng cho bằng mình vừa ở nhà một ông bạn chẳng thân gì, đã
không có chuyện để nói, mà độ nửa giờ sau, ông bạn ấy đã lại nghễu nghện
đến nhà mình cũng chẳng để nói một chuyện gì hơn là để mình khỏi trách
là xử quỵt. 


Cho nên, ngày mồng một tết, ở nhà nhưng nói dối là đi vắng, tức là đã
làm một việc nghĩa rất to tát. Nhiều ông chỉ cần dò xem mình không có
nhà lúc nào là đến tót ngay, để quảng lại trên bàn tấm danh thiếp rồi đi
cho mau, để lại quẳng vào nhà khác tấm danh thiếp. 


Đến nhà người ta
mừng tuổi mà được chủ đi vắng, nhiều người cho là một sự may. 


Vậy mà lối giao thiệp giả dối này lại rất cần cho những chỗ bè bạn sơ
sơ. Vì quanh năm chẳng đến nhà nhau, hôm mồng một tết cũng chẳng đoái
hoài đến nhau nốt, ấy là tỉnh bằng hữu đi đứt
”.



 Không chỉ các nhà nghiên cứu mà trước tiên, bản thân Nguyễn Công Hoan đã
chú ý tới một nét tiểu sử bản thân nó quy định tính cách con người ông. Ấy là
ông xuất thân từ một gia đình phong kiến có nền nếp, thứ phong kiến
thanh đạm, biết giữ đạo trung dung, và thường có một chút bảo thủ trong
cách nhìn nhận sự đời.

 Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khái quát :

 “Nếu
có quan hệ đối lập giữa nam và nữ thì ông đứng về phía nam. Giữa bố mẹ
và con cái thì ông đứng về phía bố mẹ. Giữa vợ cả và vợ lẽ thì đứng về
phía vợ cả”.



Thế thì giải thích làm sao cái trường hợp phá cách nói trên, nghĩa là
thái độ ngán ngầm ra mặt của ông với một nghi lễ thiêng liêng và phổ
biến trong ngày tết?

Ở đây, chúng ta phải đối chiếu giữa nghi thức và
cái cách người ta thường tiến hành nó để cùng nhận chân ra một sự thực:

--Nghi thức ra đời và tồn tại là để bảo đảm tính chất trang nghiêm của một
buổi lễ.
Trong những quy định đôi khi rườm rà, cổ nhân cốt lưu ý con cháu rằng
đây không phải là một chuyện thông thường mà là một dịp đặc biệt.

Các
nhà nghiên cứu về Nho giáo thường nói lễ là để bày tỏ cái thành ý, kính
ý.

Trong cuốn sách viết về Khổng Tử, từ con mắt nhìn của con người hiện
đại, Nguyễn Hiến Lê cũng nhấn mạnh “các nghi thức mà ngày nay chúng ta
cho là phiền phức chính là có mục đích phát dương những tình cảm đôn hậu
của ta
”.



Tuy nhiên, là một sản phẩm của lịch sử, nghi thức cũng không tránh khỏi
một tình trạng mà ngày nay, ta gọi là sự tha hoá, tức là hình thức không
đi kèm với nội dung, và ở một số người trong một số trường hợp, sự cảm
động thiêng liêng càng ít, thì nghi thức càng trở nên cầu kỳ rắc rối.

 Nghi thức trong những ngày tết cũng không tránh khỏi sự biến dạng đó.

 Sự
thực này không lọt khỏi con mắt quan sát tinh quái của Nguyễn Công
Hoan.

Trong ông không chỉ có con người trọng lễ giáo mà còn có con người
thực sự cầu thị, chán ghét mọi chuyện phi tự nhiên, giả dối, cho nên
ông đã lên tiếng. Mà khi đã nói, thì ông nói hơi trắng trợn , đến mức
như là bất chấp tất cả.



Về phần mình, giờ đây đọc lại thiên truyện, chúng tôi cho rằng một mặt
nghi thức rất cần, bao giờ cũng cần, mặt khác, những gì quá ư cầu kỳ mà
lại vô bổ nên được xem xét lại.

 Và nhất là trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không nên tiến hành nghi thức một cách giả tạo.

 Với lối nói có phần cực đoan của mình trong thiên truyện nói trên,
Nguyễn Công Hoan còn kể là ông chia bạn bè ra làm bốn loại:

“--Hạng nhất là các bạn quen xoàng hoặc hay giận

-- Hạng nhì là các bạn quen xoàng nhưng đại lượng.

-- Hạng ba là các bạn thân vừa 

-- Hạng bét là các bạn thân”.

Và mỗi năm ngày mùng một tết ông cư xử như sau:

 ” Tôi chỉ cần đi chúc tết các bạn hạng nhất, còn từ hạng nhì trở đi, không tết năm nào tôi xử lại sòng phẳng”.

 Chúng tôi chép đoạn văn này ra đây, không phải để... khuyên bạn đọc làm
theo, mà là để bạn đọc tham khảo và tìm ra cách đi chúc tết tốt nhất và
phù hợp nhất với bản thân.



Đã in Chuyện cũ văn chương –2001






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 16, 2014 19:12

January 15, 2014

Nguyễn Khải trong sự tiếp nhận của tôi trước 1996 (phần tiếp)




III/ Nhu cầu khẳng định và lối tiếp cận đa
dạng trong các tác phẩm viết về chiến tranh - Coi thắng lợi của cách mạng như
thắng lợi của chính mình - Trở lại với những xung đột tư tưởng - Các nhân vật
thánh hoá và sự hài lòng kín đáo ở người viết


Khi tiếng
súng của cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, Nguyễn Khải mới có 16, chưa gia
nhập quân đội, lại càng chưa viết văn. Từ đó đến khi trở thành tác giả Xây dựng, khoảng cách còn là xa xôi, nói
chi đến Xung đột, Mùa lạc?



Nhưng khi
cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lan rộng trên miền Bắc, trở
thành đời sống bình thường đối với mọi thành viên xã hội, thì một người như
Nguyễn Khải đã có một vai trò hoàn toàn khác. Cái khác lớn nhất là lúc này, ông
đã được coi một nhân vật xã hội có uy tín. Một nhà văn nổi tiếng như ông, phải
tiếp tục tự khẳng định ngay trong chiến tranh. Nhu cầu khẳng định ấy không chỉ
là của riêng ông, mà còn là của cơ quan ông công tác, của bạn bè đồng nghiệp
trong giới và nói rộng hơn, yêu cầu của xã hội với chính ông nữa.

Điều đáng
khâm phục không chỉ ở thành tựu ông đạt được mà còn là cách ông vượt qua trở
ngại để tiếp tục tồn tại như một nhân vật hàng đầu của văn học.



Mở đầu cho
đợt đi viết về chiến tranh, Nguyễn Khải có mặt trong đội ngũ văn nghệ sĩ quân
đội ra Cồn Cỏ và ông trở về với một thiên ký sự 130 trang. Trong cái tên gọi
tổng quát Họ sống và chiến đấu, thiên
ký sự này nổi lên với những cảm giác trong lành tươi tắn.

Sự thực là
hồi đó, cuộc chiến đấu chỉ vừa mới bắt đầu trở lại, và nhiều người cùng sống
cái cảm giác Nguyễn Khải đã sống, tức là cảm giác lãng mạn: vẻ đẹp tự nhiên ở
con người, một vẻ đẹp có thực và thật dễ làm say lòng người.

Thêm vào
đấy, với tư cách một chiến sĩ quân đội đã trải qua tám năm chống Pháp, Nguyễn
Khải sớm nhận ra ở cuộc chiến đấu hôm nay một cái gì như là sự tiếp tục cái
mạch hào hùng hôm qua. Từ thiên ký sự thấy toát ra một lòng tin mạnh mẽ và chắc
chắn.

Sau Họ sống và chiến đấu, ngòi bút của nhà
văn quân đội này còn nhiều lần trở lại với đời sống muôn mặt của các lực lượng
vũ trang trong thời chiến. Khi ông đi miền Tây với một đại đội công binh và trở
về viết Đường trong mây. Khi ông trở
lại với các đơn vị vận tải tiếp tế cho Cồn Cỏ để viết Ra đảo. Lần khác nữa ông đến với các đơn vị xe tăng đã có mặt trong
chiến dịch Đường 9- Nam Lào, để từ đó tìm hiểu và cắt nghĩa cốt cách các chiến
sĩ mới, những gương mặt thuộc lớp chống Mỹ.

 Chỉ trừ Hoà
Vang
có được bằng cách lấy tài liệu gián tiếp, ngoài ra những tập ký, tập
tiểu thuyết này của Nguyễn Khải đều khởi đầu từ những chuyến đi đến các vùng đã
có chiến sự.

Theo cách
miêu tả của tác giả, cuộc chiến đấu hôm nay thường hiện lên với hai khuôn mặt.
Nhìn đại thể, đó là một guồng máy tổ chức hết sức chu đáo, cả những diễn biến
phức tạp nhất của cuộc chiến dường như cũng đã được lường tính trước. Mặt khác,
ngòi bút Nguyễn Khải luôn luôn "đọc" ra trong tình thế những diễn
biến bất ngờ, và ngầm mách bảo với chúng ta rằng đến với chiến tranh là cả một
quá trình phát hiện thi vị.

Kể từ Họ sống và chiến đấu trở đi, có tới trên
ngàn trang sách đã được Nguyễn Khải viết trong những năm tháng gian lao ấy.
Trong cuộc chiến đấu chung, sự đóng góp của một ngòi bút như thế cũng đã là dày
dặn và từ chỗ đứng của một cán bộ một đảng viên tự trọng, Nguyễn Khải đã có thể
yên tâm với công việc của mình.

Tuy nhiên
dù được cả những chuyến đi, lẫn sự nỗ lực của tác giả bảo đảm, mấy quyển tiểu
thuyết trên của Nguyễn Khải vẫn không tạo được dư luận rộng rãi, đọc sách người
ta biết thêm về chiến tranh mà không được cùng với tác giả cảm thấy nó.

Cả Đường trong mây lẫn Ra đảo, Chiến sĩ đều thiếu đi một cái hồn phóng khoáng như mọi
người mong đợi.

Mãi đến mấy
tác phẩm viết ra để tổng kết chiến tranh, để khái quát một giai đoạn đấu tranh
cách mạng, tức những tác phẩm viết sau chiến thắng 1975, như Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
người
cái sinh khí sôi nổi rất riêng của ngòi bút Nguyễn Khải mà người ta
từng đọc được qua Xung đột, Mùa lạc,
mới có dịp bộc lộ trở lại và bừng lên trong những tự phát hiện mới của ngòi
bút.

Sau thiên
ký sự, tổng kết chiến tranh mang tên Tháng
ba ở Tây Nguyên
, Nguyễn Khải đột ngột bước sang một thể loại xưa nay vốn xa
lạ với ông là kịch.

Trong Cách mạng, ông viết về những cuộc đấu
khẩu trong một gia đình khi Sài Gòn được đặt dưới chế độ quân quản, cũng tức là
phản ứng của những con người thuộc các lứa tuổi các số phận khác nhau, khi phải
đối mặt với những biến động lịch sử làm thay đổi hẳn cuộc đời của họ.

Phải nói
ngay là tuy có khởi điểm xuất phát khác hẳn, có những từng trải khác hẳn, song
ở con người trong Cách mạng, cũng
thấy có nhiều nét tương tự với con người ta đã gặp trong tiểu thuyết Xung đột.

Mới mươi
mười lăm năm trước, tưởng như nhà văn ấy chỉ có một ám ảnh lớn là làm sao nói bằng
được nói cho hết vẻ đẹp khỏe mạnh cùng sự khôn ngoan kỳ lạ của con người.

 Nay gần như lần đầu tiên, người ta chứng kiến
sự cuồng nhiệt của Nguyễn Khải trong việc cày xới vào những cùng quẫn bất lực
mà con người phải gánh chịu. Trong nhà văn thức dậy một nỗi khát khao không
kém, là cùng với các nhân vật của mình xé toạc những tấm màn đang che đậy cho
mọi sự xấu xa dơ bẩn ở đời, để mọi người cùng nhận rõ thực chất của mọi chuyện,
rồi từng người... liệu mà sống.

Đây là một
tác phẩm mà Nguyễn Khải lần đầu tiên công khai đứng ra làm, làm một cách triệt
để, cái việc lâu nay ông vẫn lảng tránh: mang tiểu sử riêng, cuộc đời riêng vào
trang sách, lấy chính đời tư của mình làm tài liệu cho sáng tác.

Từ 1975 trở
về trước, Nguyễn Khải hầu như đóng chặt mọi cánh cửa, không cho phép ai tìm
hiểu tiểu sử riêng của mình qua văn mình, và cái tôi của ông hiện lên qua các
trang sách, chỉ là cái tôi của một chiến sĩ cầm bút.

Trong mùa
hè 1974, nổi lên một cuộc đấu tranh, phê phán Đêm đợi tàu, Vòng trắng, Sẹo đất... Cả những nhà văn quan trọng
nhất của văn học như Tô Hoài, Vũ Tú Nam cũng bị "đặt vấn đề". Nguyễn
Khải cũng có dính một chút với vở kịch Đối
mặt.


 Đã sống qua cái "mùa hè đỏ lửa" 1974,
tự nhiên là trong nhận thức của nhà văn có những biến chuyển.

 Cùng với  bước ngoặt lịch sử mùa xuân 1975, trong cuộc
đời riêng của ông cũng có những thay đổi đột ngột. Ông gặp lại gia đình lớn của
mình sau mấy chục năm xa cách.

Từ đây, ông
không thể lảng tránh cái cách tồn tại của mình: tồn tại thông qua một nghề
nghiệp nhạy cảm như nghề viết văn.

 Hình như ông bắt đầu cảm thấy chính mình, cuộc
đời riêng của mình, những ân oán thù hận cũng như những rung động vui buồn của
mình có thể và cần được trực tiếp trình bày trên mặt giấy?

Có lẽ là vì
tất cả những lý do đó mà Cách mạng ra
đời và có cái bộ mặt như chúng ta thấy.

Đối chiếu
với Cách mạng với những bài phát biểu
của Nguyễn Khải mấy năm ngay sau 1975, cũng như với một tác phẩm mang rõ tính
cách tự truyện, như Một giọt nắng nhạt,
người ta thấy Nguyễn Khải đã đi từ cực đoan nọ đến cực đoan kia, từ chỗ
"đóng chặt cửa" đến chỗ tìm cách đưa tất cả cuộc đời riêng, lai lịch
riêng lên trang giấy, gần như cái gì phục vụ được cho sáng tác thì đưa ra hết.

Nếu hôm qua
chia tay với người thân, chàng thanh niên đó tủi nhục bao nhiêu thì hôm nay,
gặp lại bố mẹ và anh chị em, con người đó ngẩng cao đầu bấy nhiêu.

Mối hận xưa
đã được rửa sạch.

Trong lời
lẽ và giọng điệu của nhân vật Phượng, người ta nghe ra niềm tin của chính
Nguyễn Khải. Cuộc đời cũ là đáng phỉ nhổ, giá có băm vằm ra làm trăm ngàn mảnh
cũng xứng đáng. Còn để đến với cuộc sống mới, phải chịu nhẫn nhục. Và kẻ nào có
quyết tâm sống, kẻ ấy sẽ sống.

Tiếp tục
cái mạch đã mở ra trong kịch Cách mạng,
Nguyễn Khải có tiểu thuyết Gặp gỡ cuối
năm
. Bảo đây là cuộc đối thoại giữa
những người trí thức
(như tên gọi của một bài phê bình) e quá sang, đây chỉ
là đối thoại của những người vừa thông minh, vừa thạo đời, cùng hiểu biết các
vấn đề của xã hội. Chỉ vì chọn những con đường khác nhau, thành bên thắng bên
thua, bên thắng không cần nói cũng đã tỏ ra có lý, và bên thua càng nói càng
xoay xoả giãy giụa bao nhiêu càng tỏ ra quanh quẩn, bế tắc, vô lý bấy nhiêu.

Nếu Cách mạng cô đúc chặt chẽ khi đi vào
thực chất nhưng quyết liệt và đanh ác, độp thẳng vào mặt nhau, đọc hơi rờn rợn,
thì Gặp gỡ cuối năm ngồn ngộn chất tư
liệu, nào những cuộc đảo chính, những mưu đồ, nào sự khinh bỉ lẫn nhau giữa đám
cùng hội cùng thuyền, những sự phản trắc cùng những trò chơi quái đản mà chỉ
bọn người lắm tiền, nhiều của mới có, nhừo thế, đọc truyện như đuợc làm một bữa
ẩm thực sướng miệng, rồi cuối cùng thì nhu cầu khẳng định cuộc chiến thắng lớn
lao của dân tộc, cái nhiệm vụ chính trị mà nhà văn đặt ra cho mình khi cầm bút,
vẫn được thực hiện.

Cũng trên
đường hướng khẳng định chiến thắng, Thời
gian của người
chọn một con đường đi hơi khác. Tiếng cười ròn rã và nhiều
khi không kém phần tai ác của Nguyễn Khải khi giễu những người ở phía bên kia
nay chìm đi, thay vào đấy là những suy nghiệm nghiêm chỉnh của tác giả về những
vấn đề lớn lao mà cả đời ông theo đuổi.

Vượt lên
trên tính chất địa phương của những Cồn
Cỏ, Hoà Vang
, cuộc chiến đấu được miêu tả trong Thời gian của người  thực ra
là một trận chiến mang tầm cỡ dân tộc, và hơn nữa, tầm vóc triết lý. Còn nhân
vật của Nguyễn Khải thì mặc dù cương vị không phải là cao trong xã hội, song
lại có tầm mắt bao quát rộng rãi. Cả bốn nhân vật của ông lần này (một cán bộ
huyện, một cha đạo, một chiến sĩ quân báo và một công nhân cao su) đều vượt xa
hẳn trình độ của những nhân vật tích cực như Môn, Nhàn, Biền, Thụ, Vinh...
trước đây, để làm công việc tổng kết đời mình và đời mọi người.

Trong khi
lý sự về đủ chuyện có liên quan đến cuộc chiến đấu, họ trở thành những triết
nhân. Và đối chiếu với các nguyên mẫu phản ánh vốn có, thì chắc chắn là họ đã
được thánh hoá.

Như trên đã
nói, sự thánh hoá này vốn là một đặc điểm của văn xuôi Nguyễn Khải.  Nếu liên tục theo dõi sáng tác của ông hẳn
người ta đều biết ngòi bút ông thường tỏ ra hưng phấn cao độ khi miêu tả những
đam mê vượt thoát của con người để rồi mang lại cho hành động cũng như lời nói
của họ một lớp sương khói siêu nhiên đầy sức quyến rũ. Không chỉ trong Xung đột, trong Cha và con và... chất tôn giáo đã phảng phất sương khói, mà nó còn
thấp thoáng cả một những trang văn xuôi lãng mạn của Nguyễn Khải hồi viết Mùa lạc. Nay đến Thời gian của người, trước một sự nghiệp to lớn quá, cùng những con
người cao đẹp quá, ngòi bút ấy có tự cho phép mình như là bay bổng chới với lên
trong phút chốc thì cũng là điều dễ hiểu.

Đối với
cuộc chiến đấu mà bao người đã đổ xương máu hy sinh, như vậy là ngòi bút của
nhà văn đã theo sát, đã động viên, đã chia sẻ, đã đọc ra từ đó những ý nghĩa
lớn lao.

 Mặt khác, chính trong cuộc phục vụ tự nguyện
và đầy kết quả này mà trình độ ngòi bút của nhà văn cũng đã được tôi luyện.

Không phải
chỉ chúng ta, những người đọc, mà hình như chính tác giả cũng cảm thấy thế.

Hãy để ý
hình ảnh nhà văn sau các trang viết: khi nghiêm chỉnh tự vấn, khi tự giễu mình
chơi, khi góp vài lời pha trò, khi chân thành tỏ lòng cảm phục, tác giả đã tự
cho phép xuất hiện bên cạnh câu chuyện và mặc dù ông không nói rõ ra, nhưng
người ta cảm thấy ông nhiều phần tự hài lòng.

Tuy nhiên,
từ khoảng 1986 -1987, xã hội lại chuyển sang một bước ngoặt mới và tác giả lại
bược vào một cuộc biến hoá mới.




IV/
Cái nhìn sắc sảo vốn có từ sớm và khao khát có mặt trong ngày hôm nay - Đối
thoại với chính mình và tự phát hiện trở lại - Một phong cách vừa dân dã vừa
hiện đại


Có một nét
đặc biệt trong tâm thế nhà văn ở Nguyễn Khải là ngòi bút này không bao giờ có
cái nhìn xuôi chiều dễ dàng.

Trên cái
mạch lớn huy động sáng tác phục vụ cách
mạng
, ngòi bút xuất thần của ông, đồng thời vẫn là một ngòi bút rất có năng
khiếu và đầy sinh lực.

 Bởi vậy, một mặt ông không rơi vào công thức
ngây ngô, khi phác hoạ những nhân vật mà ông xem là kẻ thù chính trị, mặt khác
lúc cần miêu tả các nhân vật cùng phía với mình, ông vẫn giữ được sự chừng mực,
kể cả cái nhìn phê phán.

 Đặc điểm ấy của ngòi bút Nguyễn Khải đã bộc lộ
ngay từ hồi viết Xung đột, Mùa lạc. Mặc dù rất bái phục Môn, coi
Môn là một thứ "anh hùng thời đại" song trong Xung đột không khỏi có lúc, tác giả đứng lùi ra một chút mỉa mai
cái tự cao, cùng là một chút hống hách và cả cái bao biện của Môn.

Với những
nhân vật về sau như Đào, Thoa, Biền, Lâm, Khang trong Mùa lạc , Hãy đi xa hơn nữa
thì trong khi ca ngợi họ, nêu gương họ, tác giả vẫn không quên chọc ghẹo chế
giễu mọi tật xấu của họ.

 Đọc những đoạn Nguyễn Khải "cấu véo"
các nhân vật được coi là tích cực ấy, người ta không khỏi sung sướng bởi trước
mặt mình vẫn là một nhà văn xa lạ với lối nghĩ sơ đồ, một nhà văn thông minh
tỉnh táo, có cách tiếp cận suồng sã với cuộc sống, vừa thấy nó là chưa bao giờ
hoàn chỉnh vừa hết lòng say mê theo đuổi nhằm nắm bắt được cái tinh thần sống
động của nó.

Không phải
đợi đến mấy năm từ 1988-89 trở đi, mà lối nghĩ, lối viết này của Nguyễn Khải đã
có dịp bộc lộ trong cái năm 1974 kỳ lạ và tuy chỉ mới hé ra thấp thoáng song đã
làm điên đảo dư luận.

Khi được cơ
quan có thẩm quyền nhất trong dư luận là báo Nhân Dân của Đảng đặt bài, ông đã viết một loạt tạp văn ngắn gọn
nhưng sắc bén. Đại khái đó là các bài Lối
sống ở khoảng giữa, Chúng tôi chăm sóc tài năng
... và nhiều bài khác. Đồng
thời, với cùng một cách nghĩ, ông cho in một số truyện ngắn, như Một trường hợp ly dị, Nghĩ về anh L. M.,
và đoạn kịch ngắn mang tên Đối mặt.

So với
những tác phẩm đã viết từ trước tới nay thì các sáng tác này của Nguyễn Khải
mang một sắc thái khác hẳn. Đây không chỉ là cách nhìn vạch vòi rõ rệt, một cái
nhìn phê phán như người ta vẫn nói. Đây còn là những xót xa đau đớn về sự buông
tuồng của xã hội; tiếng kêu thảm thiết về sự xuống cấp của những mối quan hệ
giữa người và người, và đôi khi là tiếng cười cay đắng về những khuyết tật rõ
ràng đến thế, mà không ai nói ra, để cùng tính chuyện thay đổi.

Một điều
thú vị khi đọc các bài viết này của Nguyễn Khải, ta thấy những tài liệu ông đưa
vào tác phẩm không ở đâu xa, mà là cuộc sống ở ngay bên cạnh mọi người (nhất là
với đám cán bộ, thì đây là chuyện thời sự trong đời sống cơ quan và gia đình
họ). Và tuy chỉ giới hạn trong một ít chi tiết, làm nên những tiểu phẩm ngắn
nhưng lỗi diễn tả của Nguyễn Khải có sức khái quát cao, đằng sau những chuyện
nhỡn tiền, người ta hiểu là tác giả còn biết thêm nhiều điều sâu xa khác, mà
không tiện nói.

Những ai đã
sống năm 1974 ở Hà Nội, hẳn còn nhớ khi những tiểu phẩm này của Nguyễn Khải
xuất hiện trên báo Nhân Dân, chúng
thật đã như một gáo nước lạnh dội vào nhiều người, và một luồng dư luận sôi nổi
đã bùng lên chung quanh những bài báo ngắn ấy. Lời khen có, lời chê có, nhưng
tựu trung người ta đều chịu tác giả là kẻ sắc sảo.

Cố nhiên,
là do hoàn cảnh chiến tranh, đợt viết này của Nguyễn Khải sớm phải gác lại. Đối
chiếu với nhu cầu lớn của xã hội lúc ấy là tập trung sức lực để đẩy tới cuộc
chiến đấu, những nỗ lực tự nhận thức kiểu Nguyễn Khải ở đây, có gì như không
được hợp thời.

Giữa năm
1978, một trong những tác phẩm quan trọng bậc nhất của nhà văn là tiểu thuyết Cha và con và... có dịp ra mắt. Tiếp tục
cái mạch đã mở ra từ Xung đột (t.I), Cha và con và... đi vào tố cáo sự lỗi
thời sự bất lực của các thế lực thiên chúa giáo.

Song, nhân
vật cha đạo ở đây, không bị bôi nhọ, không bị hạ thấp về mặt nhân cách.

Ngược lại,
đó là một con người trẻ trung, tỉnh táo, tự trọng,  chẳng qua rơi vào một cộng đồng ù lì, cũ kỹ
nên không còn biết xoay xoả bề nào, thậm chí, càng muốn thay đổi, càng trở nên
lố bịch.

Thử nghĩ
rộng hơn một chút: Trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Khải đây là lần đầu tiên,
chủ đề về sự bất lực của con người được ông
tìm cách thể hiện và lý giải.

Từ chỗ
chuyên viết về các nhân vật yêu ghét rõ ràng nhìn đâu cũng sáng sủa mạch lạc,
luôn luôn biết mình nên làm gì, nói gì, và phải hành động ứng xử như thế nào để
vừa đỡ khổ cho mình, vừa có lợi cho mọi người, nay lần đầu tiên, Nguyễn Khải đi
vào miêu tả loại nhân vật nói năng lúng búng, cử chỉ vụng về, càng làm càng
thấy là không nên làm, và nhìn sự đời thấy mọi chuyện rối như mớ bòng bong, không
làm sao gỡ ra nổi.

Trong tình thế
của một con người đối lập với xã hội hình ảnh cha Thư, do đó, vẫn có thể có ý
nghĩa rộng rãi, và đây chính là ví dụ về tính điển hình mang màu sắc thế tục,
có thể có ở nhân vật hành nghề tôn giáo đó.

Sau hai đợt
viết hào hứng trước đây (một là thời Xung
đột, Mùa lạc
, tiếp đó là Tầm nhìn
xa...
, một nữa là thời của Cách mạng,
Gặp gỡ cuối năm
...), mấy năm từ khoảng 1988-1989 trở đi, người ta lại chứng
kiến một đợt viết sôi nổi nữa của Nguyễn Khải.

 Đều đều, vài tháng một kỳ, báo Văn nghệ có in truyện hay phát biểu của
ông.

Trong khi
ấy, trên tạp chí Văn nghệ quân đội,
bạn đọc  quen thuộc thỉnh thoảng vẫn có
dịp nghe ra giọng văn của ông qua những truyện viết về mấy vị cán bộ quân đội
về hưu.

 Báo Lao
động
từng đăng Sư già chùa Thắm...
của ông theo lối  feuilleton và có thời gian dành riêng cho ông mục Hà Nội trong mắt tôi. Rồi Kiến thức ngày nay, rồi Tuổi trẻ, rồi Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh...

 Trong khi khá nhiều nhà văn cỡ tuổi 50, 60
ngại viết, viết thưa hẳn đi thì Nguyễn Khải đều đều có mặt, mà lại luôn luôn
gây được ấn tượng, tính chuyên nghiệp ở ông có thể so sánh với Tô Hoài, Xuân
Diệu là những kiện tướng quen viết
đều từ hồi tiền chiến, và vẫn được coi là viết khoẻ nhất trong đời sống văn học
sau Cách mạng.

Trên đại
thể, những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ 1988-89 đến thời gian gần đây,
khơi vào hai cái mạch chính:

Một
cuộc sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè đồng nghiệp quen biết,
cùng tuổi tác và tâm sự.

Hai là số phận của những người thân trong
họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu bà mợ mà tâm tư tình cảm của
Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến.

Nhà văn của
chúng ta, như chính ông tiết lộ, vốn xuất thân từ tầng lớp trên, quan hệ dây mơ
rễ má khá nhiều, ở Hà Nội sau 1974 cũng có mà ở Sài Gòn sau 1975 cũng có.

Vào thời điểm
mới gặp lại nhau, sau giai đoạn dài hận thù, ông chỉ muốn trêu chọc, móc máy,
vừa để chứng tỏ cái hướng đi đúng cái quyết tâm sống mạnh mẽ của bản thân, vừa
nói cho hả giận.

Nay thì
thời thế đã khác. Ông không còn thấy xa lạ với họ nữa.

 Ngược lại mỗi người, với số phận riêng, giúp
ông suy ngẫm thêm về cuộc đời. Khi đã được đặt không phải trên cái nền chật hẹp
trước mắt, mà trong khung cảnh rộng rãi của lịch sử, tự nhiên các nhân vật này
của Nguyễn Khải hiện ra với nhiều nét xót xa đáng thương cảm.

Có trường
hợp như bà Bo, người đàn bà tưởng cũng con giòng cháu giống, hoá ra cả đời hầu
hạ các cháu các em, và về già mới có được chút hạnh phúc riêng (Nắng chiều).

 Lại có trường hợp như bà Hiền, người cô của
tác giả trong Một người Hà Nội: Nhìn
qua thì thấy cả đời bà là một người bình thường, không có kỳ tích chiến công gì
đặc biệt. Có điều phải nhận thế là giữa thời buổi có nhiều biến động này, bà
vẫn giữ được cách sống hợp lý, giữ được chồng con, giữ được danh dự, giữ được
cả sự thanh thản và cốt cách riêng nữa.

Việc Nguyễn
Khải, một người đã viết Gặp gỡ cuối năm,
Khoảnh khắc đang sống
, giờ lại nhìn thấy ở bà Hiền một "hạt bụi vàng
của Hà Nội" và thầm mong đợi "những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở
một góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh
vàng", thật đã chứng tỏ nhà văn đã tự khác đi rất nhiều.

Trên một
phương diện nào đó, có thể nói chúng ta được chứng kiến một cuộc đối thoại giữa
Nguyễn Khải của những năm 1989, 90 trở đi, với Nguyễn Khải khoảng chục năm
trước.

Lần nào nhà
văn cũng có lý.

Nhưng cái
lý lần sau có gì đó bắt nguồn từ một cái nhìn khoáng đạt hơn, lại kèm theo cả
độ lượng, nên có sức thuyết phục hơn.

Nhưng cuộc
đối thoại lớn nhất giữa ngòi bút Nguyễn Khải hôm nay với những trang viết mấy
chục năm qua, xảy ra là trong việc nhìn nhận và miêu tả người cán bộ, những
người cùng cảnh ngộ và tuổi tác với tác giả.

Xưa, loại
nhân vật này của nhà văn thường khi lúc nào cũng bừng bừng những xúc cảm mạnh
mẽ: Đấy là thời của họ! Họ phải làm gì để đánh dấu ý chí, nghị lực , và sự sáng
suốt của mình!

Nay ở các
nhân vật, hầu như không trừ một ai mất hẳn vẻ hiếu thắng vốn có. Là do tuổi
tác, cái đó có. Nhưng cái chính là do mỗi người bắt đầu cảm thấy mình có một
thân phận riêng.

Với mỗi
người trong họ, việc đời đâu phải lúc nào cũng chỉ có công tác có chiến dịch
này, phong trào nọ mà còn có gia đình, người thân, những lo toan riêng và tính
toán riêng.

Ở truyện
này, chúng ta bắt gặp một người đàn bà gần như cả đời chỉ biết lo liệu, hết hầu
chồng lại hầu con, cúi mặt xuống để sống, mà số phận vẫn không buông tha, thỉnh
thoảng lại tìm thêm cớ hành hạ.

 Ở truyện kia, nhân vật chính là người biết
điều, không làm điều gì quá đáng, vậy mà do vụng lo vụng tính, ngay trong gia
đình cũng không tìm thấy chỗ yên ổn.

Liệu có thể
nói là so với hôm qua trong các nhân vật của Nguyễn Khải hôm nay đang có một sự
lột xác hoàn toàn nghĩa là cái định hướng về cuộc đời ở từng người đã hoàn toàn
thay đổi? Kể ra cũng không hẳn như vậy.

Đúng là
trước một thực tế hoàn toàn đổi khác, so với cuộc sống khi trẻ, nhiều người
trong họ cảm thấy đất dưới chân sụt lở, người như ở tù ra, xét đoán đánh giá
mọi sự đều lầm lẫn, lỡ cỡ (mấy chữ "người ở tù ra" là lấy từ Chuyện tình ở mỗi người, in trong Một thời gió bụi).

Những tưởng
những người như Dụ, Tú, anh Tạo, chị Vách... khó lòng sống qua được những hờn
tủi, thách thức, mà cái thời gió bụi này ném vào mặt họ!

May thay,
theo cách miêu tả của tác giả, ở họ vẫn tiềm ẩn một sức sống dẻo dai và đôi khi
cả những lẽ sống thâm trầm cao xa, nên họ vẫn tận tuỵ sống, tha thiết mà sống.
Và như vậy, họ lại đã tìm được một sự thích ứng mới.

Dù sự thích
ứng của những nhân vật ở Nguyễn Khải hôm nay, đã khác với sự thích ứng của các
nhân vật Môn, Mẫn, Biền, Khang... nói ở phần trên, song trước sau, trong việc
tìm ra sự thích ứng như nhân tố chủ đạo trong con người, tác giả vẫn cho thấy
sự liên tục của chính ông, một sự liên tục thường có ở mỗi người viết văn có
bản lĩnh.

Với thói
quen của một ngòi bút xông xáo, khi quan sát hiện thực, Nguyễn Khải thường có
nỗi náo nức khôn nguôi là cố đi tìm cho ra những nhân vật trẻ khoẻ, cái yếu tố
đang lên trong xã hội, nhân vật sẽ đóng vai trò chính trong cuộc sống tương
lai.

Đó là
Khang, anh bộ đội phục viên, với cách sống cách nghĩ rèn luyện trong quân ngũ,
như vượt hẳn lên so với nếp sống có phần cổ lỗ ở làng xóm cũ (Người trở về).

Đó là Bình,
người kỹ sư có học thức và có cách nhìn mới về mọi mặt đời sống, tự tin, sang
trọng, nổi bật lên giữa đám xác chết là mấy người già cả tiền nhiều, của cải và
kinh nghiệm lắm, nhưng cũ nát, ọc ạch cả (Gặp
gỡ cuối năm
).

Đó là
Giang, người thanh niên trẻ sắn tay làm mọi việc và luôn luôn muốn là người
phải có cái nhìn sòng phẳng trước việc đời (Vòng
sóng đến vô cùng
).

 Còn như đến các truyện ngắn gần đây thì sao?
Nguyễn Khải vẫn không quên loại nhân vật đang tung hoành ngang ngửa ấy ở đây,
họ vẫn hiện ra như một lớp trẻ táo tợn, quyết liệt muốn dứt tung ra khỏi khuôn
phép cũ, đặc biệt khao khát kiếm tiền.

 Điều thú vị là ở chỗ, trong việc miêu tả loại
nhân vật mới, lần này nhà văn không có thái độ một chiều, không chầm bập, tha
thiết như trước.

Lý trí của
ông vẫn đủ sáng suốt để giúp ông công nhận rằng họ có lý, họ là nhân vật đẩy
tới sự vận động của xã hội và giá kể rồi đây ông và loại người như ông có bị họ
gạt sang một bên để tiến lên, thì cũng không có gì quá đáng.

Song trong
tình cảm, nhà văn vẫn không giấu được sự khó chịu, ông không sao yêu được họ,
và bằng sự sáng suốt của lương tri - khác với sự sáng suốt thông thường - ông
thầm nhủ rằng bên cạnh họ, trong đời này còn nhiều sự tốt đẹp cao sang khác.

 Một cách nhìn có lui có tới, có thế này và có
thế kia, hơn nữa, cái nhìn không "phù thịnh", không "hùa theo
đời" như thế này không thể có ở Nguyễn Khải lúc trẻ, mà chỉ đến với ông
khi đã sang tuổi 60, từng trải hơn, nhẹ nhõm hơn, biết vui mà cũng biết sợ,
biết có cuộc đời này mà cũng còn có những cuộc đời khác.

Tổng hợp cả
lại chúng ta thấy gì? Cả trong việc miêu tả những nhân vật yếu đuối, không gặp
thời lẫn cả trong việc khắc hoạ hình ảnh thế giới đang lên, Nguyễn Khải đã làm một
cuộc tự phát hiện trở lại.

Ở tuổi 60,
ông vẫn hóm hỉnh như xưa, hào hứng với sự đời như xưa, song lại có gì đó tự
nhiên, dân dã, có cái nhìn thanh thản và sáng suốt về mọi chuyện hơn hẳn trước
kia.

Lúc thì ông
nói đến những lẽ huyền vi của tạo hoá.

Lúc thì ông
trở lại với những lý lẽ giản dị của dân gian, cái lý lẽ đàn bà, thực tế, và
phải nói có mang chút thực dụng, nhưng không phải là thứ vụ lợi mà ông căm
ghét.

Các truyện
trước đây của Nguyễn Khải, dù đã rất uyển chuyển sinh động, thường khi chỉ gắt
lên một sắc thái nhất định.

Còn ngày
nay đến với truyện của ông, người ta được đến với một thế giới đa dạng hơn,
nhiều sắc thái hơn, cái anh hùng xen với cái bình thường, cái đáng căm giận đáng
phỉ nhổ không thiếu, nhưng còn bao nhiêu cái đáng cảm động, đáng để tin yêu, nó
góp phần làm nên một cuộc sống thú vị có cả tiếng cười lẫn nước mắt.

Về mặt bút
pháp thì trước sau Nguyễn Khải vẫn trung thành với mình. Vẫn thích lối kể hơn
lối tả. Vẫn không để ý nhiều tới cốt truyện, cái hình, cái đồ thị diễn biến của
câu chuyện, mà tập trung vào việc làm nổi một nhân vật, một kiểu người, một
cách sống.

 Vẫn có một giọng văn vừa tự nhiên, vừa duyên
dáng, cái duyên dáng dân dã, chứ không phải do làm điệu làm dáng mà có.

 Dẫu sao, chỉ đến hôm nay, tương ứng với các
nội dung nhân bản kia, giọng văn ấy mới trở nên hiền hoà thuần thục như chưa
bao giờ nó từng có.

Giá như có
một công trình nghiên cứu riêng về phong cách Nguyễn Khải, thì theo chúng tôi,
cuối cùng người ta phải đi đến một kết luận rằng, trong những trường hợp thành
công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la
cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui buồn khi quan sát việc đời. Đó là một
phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại.




Đoạn kết: Người anh hùng của một thời

Men theo
thời gian, trở lên, chúng tôi đã thử phác hoạ cả chặng đường liên tục trên dưới
bốn chục năm của ngòi bút Nguyễn Khải. Sự gắn bó sâu sắc với đời sống chính trị
của đất nước, niềm ước ao vô tận muốn nắm bắt cho được bao đổi thay trong cuộc
sống cách mạng, cùng là khả năng dựng lên một loại nhân vật mới đầy ý chí và
khao khát cải biến xã hội... một thời gian dài, đấy đã là những đặc điểm chủ
yếu trong ngòi bút Nguyễn Khải.

Tiếp đó, trong
những năm 90s, nhịp với những thay đổi của một đất nước chuyển từ đấu tranh vũ
trang sang lo làm ăn sinh sống, ngòi bút của ông lại trở nên khoan hoà thắm
thiết trong những trang viết đầy yêu thương và thông cảm.

 Trước sau, sự thống nhất ở ngòi bút của Nguyễn
Khải là gì? Đó là một khao khát vô tận, khao khát khôn cùng, muốn được có mặt
trong đời sống. Là niềm vui sướng kỳ lạ mỗi khi được lắng nghe, được trò chuyện
với mọi người đương thời, rồi lại được ghi chép và trình bày ra trên mặt giấy,
được mọi người truyền tay nhau đọc, rồi bàn tán, rồi khen chê... Nguyễn Khải là
thế.

Cho đến cả
những nhược điểm một thời gian dài thấy ở ngòi bút Nguyễn Khải - một chút đanh
đá chua ngoa, pha lẫn một chút ngông nghênh hiếu thắng, lối nói băm bổ, lối
trình bày thẳng tuột những điều người khác chỉ dám nghĩ - những cái đó cũng rất
trần tục, thông thường, cũng là bắt nguồn từ nỗi đam mê Nguyễn Khải từng ôm ấp.


Có điều
trước sau ông vẫn giữ lấy những nét căn bản trong cốt cách. Lý lẽ của tác giả ở
đây có thể khá đơn giản: mỗi người có cái tật riêng, lấy ai hoàn chỉnh bây giờ?


Song theo
tôi hiểu, ở Nguyễn Khải còn ngấm ngầm có cái ý này:

-- Sao cũng được, miễn là tôi được viết.

-- Thà bị chê bai một chút nhưng luôn luôn
có mặt trong ngày hôm nay.


--Được lên tiếng trong ngày hôm nay, còn hơn
ngồi đó tu luyện, nói những chuyện cao xa và tạo ra những vẻ đẹp hoàn chỉnh,
nhưng không mấy liên quan đến cuộc sống.


Khi quyển
sách này được biên soạn, Nguyễn Khải ở tuổi 65, đường đời sự nghiệp sáng tác
của ông còn ở phía trước. Song bằng vào những gì ông đã viết ra đến ngày hôm
nay, người ta đã có thể nói ông đã là một trong những nhà văn dẫn đầu của giới
văn nghệ một thời gian dài.

 Sáng tác của ông luôn luôn đánh dấu những biến
chuyển của xã hội. Với cuộc Cách mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ
này, tác phẩm của ông là một bằng chứng một tài liệu tham khảo thực sự.

Và muốn
hiểu con người thời đại, với tất cả những cái hay cái dở của họ, nhất là muốn
hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải.

Nước đến đâu bèo đến đấy - luôn
luôn tận dụng được sự mở ra của hoàn cảnh để tung hoành ngòi bút, nhà văn cảm
thấy như thế đã là đủ lắm rồi.

Người anh
hùng nào cũng có thời của mình.

Còn nếu thời gian tới, sẽ có những người anh
hùng mới, thì với Nguyễn Khải, có gì là lạ?
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 15, 2014 20:31

January 14, 2014

Nguyễn Khải trong sự tiếp nhận của tôi trước 1996

           Nguyên
đây là bài viết  được dùng làm lời dẫn cho bộ Tuyển tập Nguyễn Khải
gồm ba tập, cuốn sách do tôi tuyển chọn và giới thiệu, in ra ở nhà xuất bản Văn học, H. 1996.

            Tên cũ của bài là Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945.



           Tên gọi cần sửa như trên là để nhấn mạnh thời điểm bài viết xuất hiện. Trong tâm niệm của tôi, nó là tổng hợp những nhận thức suy nghĩ mà tôi tích lũy được khi tiếp xúc với con người và
sự nghiệp tác giả. Là hình ảnh Nguyễn Khải trong tôi cho tới năm 1996.

           Từ sau thời điểm đó, Nguyễn Khải đã thay đổi nhiều , mà chính nhận thức của người viết phê
bình là tôi  thay đổi càng nhiều, mỗi bên có một mạch phát triển riêng.

             Nhưng người ta không thể và cũng không
nên sửa lại cái gì đã viết. Hãỹ cứ để đấy cho bạn đọc thấy cả cái non nớt hôm qua và những chuyển biến của mình hôm nay.



Một kỷ
niệm tôi ghi nhớ khi nhớ lại việc làm bộ tuyển tập .

Mặc dầu
thường trò chuyện thân mật với anh em trong giới phê bình chúng tôi, nhưng Nguyễn
Khải, cũng như hầu hết các nhà văn nhà thơ đương thời, vẫn quan niệm phê bình
như một thứ phụ trợ, hơn thế nữa, một thứ cận văn học, chứ không phải một thể loại
có tính độc lập và tiềm năng sáng tạo riêng.

            Thuở ấy, việc làm các bộ tuyển được
tiến hành khá chặt chẽ. Không phải nhà văn nào muốn đều có thể làm tuyển của mình, mà do nhà xuất bản chỉ định. Sách lại phải do một nhà phê bình đứng chủ trì, người này cũng do nhà xuất bản chọn.
Nguyễn Khải cũng không ngoài cái lệ  ấy.

           Có điều là, cũng như nhiều nhà văn khác, Ng
Khải  không bỏ mặc cuốn sách cho tôi muốn
làm thế nào thì làm. Sự can thiệp vốn đã được ông kiềm chế song không khỏi có
lúc gần như là thô bạo đến nỗi lòng tự ái nghề nghiệp của tôi bị đánh thức. Tôi
phải nói thẳng:

           --  Anh
Khải ạ, anh đã từng là chủ nhân duy nhất của tất cả những gì đã viết, và trong
những ấn bản khác vẫn nguyên cái quyền như vậy. Nhưng vào đây thì khác. Tạm so
nó với một tấm ảnh. Mặt vẫn là mặt anh, nhưng ảnh lại là ảnh tôi chụp, do tôi
xác định góc nhìn ánh sáng... Vậy anh phải để cho tôi làm việc với chứ! Nếu như
anh không thích cách làm của tôi lời giới thiệu của tôi, anh có thể đề nghị nhà
xuất bản giao cho người khác làm cơ mà.

           Cố nhiên đến đó thì Nguyễn Khải
không tìm cách lái tôi nữa.

         Nhờ sự xung đột nho nhỏ này, tôi rút
cho mình một bài học về nghề phê bình. Nếu mình không có sự tự trọng đúng mức và không biết tự ảo vệ thì sẽ không ai trọng mình cả. Và thế là toi một đời cầm bút.

           Một thu hoạch khác. Mỗi bức chân
dung hiện lên trong bài phê bình có tính thời sự của nó. Công việc của một
người viết phê bình không phải là tạo ra một bức ảnh thờ. Mà anh sẽ phác ra nhiều chân dung khác nhau để rồi  tổng hợp lại, mới làm nên chân dung đích thực
của đối tượng anh đề cập tới.

         Thay cho quan niệm khô cứng về về điển
hình hóa và phản ánh luận, ngày nay người ta thường nói về sự sáng tác: để
miêu tả một con quạ, văn chương cần đưa ra 11 hình ảnh khác nhau, và bạn đọc sẽ
từ đó hình dung ra hình ảnh thứ 12. Đó là con quạ của họ.


          Với phê bình văn học, cũng nên quan
niệm như vậy.

           Tôi sẽ còn viết khác về Nguyễn Khải trước 1996, cũng như về Nguyễn Khải nói chung.



----------




I/ Một người rất có năng khiếu - Nét căn
bản của nhà văn trong thời đại mới - Ba nghĩa khác nhau của hai chữ gặp thời -
Một sự phù hợp tự nhiên


Nhạy cảm
như phụ nữ và dễ ngạc nhiên như trẻ nhỏ. Biết phanh phui phân tích lòng người
như những nhà tâm lý, lại biết đặt ra những vấn đề cao siêu như những nhà triết
học. Có lối vẽ chỉ dùng vài nét mà phác ra cả một khung cảnh như một hoạ sĩ. Có
cái nhìn trong sáng đầy chất thơ... Đã bao nhiêu lần, những phẩm chất ấy được
nêu lên trong các bài viết về các nhà văn, nêu một cách thuyết phục, đến mức
tất cả chúng ta có lẽ không ai lại không 
tin rằng đó quả là những phẩm chất phải có ở những người làm nghề cầm
bút.

Để có một ý
niệm sơ bộ về tác giả Xung đột, tôi
nghĩ rằng vẫn chỉ có cách nhắc lại công thức đó, cố nhiên là không quên nhấn
mạnh: những phẩm chất ấy hiện ra ở Nguyễn Khải một cách độc đáo, chẳng giống
bất cứ một ai khác.

Từ đã lâu,
nói đến văn chương Nguyễn Khải là người ta bảo nhau "một ngòi bút phân
tích lạnh lùng", " một người độc miệng". Nhưng ai đã có dịp sống
gần Nguyễn Khải đều biết đấy là một con người có những phút rất yếu lòng và
thường thính nhạy trước mọi tai hoạ. Người thích khai thác Xung đột đó lại là người thường khi sống xuê xoa, biết tự giảm bớt
những yêu cầu bình thường và càng tránh va chạm càng tốt; người có những trang
viết hùng hồn ấy nhiều khi chỉ trông thấy máu chảy đã sa sẩm cả mặt mày! Và tất
cả những thói quen ấy đều vào văn ông, tạo trên trang viết những chỗ yếu chỗ
mạnh mà chỉ riêng tác giả này mới có.

Sự nhạy cảm
của Nguyễn Khải còn đi liền với một nhu cầu tự khẳng định và một bản lĩnh vững
vàng trong sống và viết.

Giả như
Nguyễn Khải vừa xem một phòng tranh nào đó. Tuy ông không bao giờ tự nhận là
một người sành hội hoạ và thường vừa xem vừa cười giễu với những người chung
quanh về sự kém hiểu biết của mình trước một lĩnh vực thú vị như thế, nhưng từ
phòng tranh ra, thế nào ông cũng được lời khen dứt khoát về một bức tranh này,
lời chê dứt khoát đối với một bức tranh khác.

Giá như
Nguyễn Khải vừa đọc xong một quyển sách mà ông cho là có giá trị, thế nào nhà
văn ấy cũng có được một ít nhận xét liên quan đến nghề nghiệp người cầm bút và
từ những đoạn viết ông cho là đạt nhất của tập sách, từ toàn bộ tác phẩm nói
chung, ông tìm cách rút ra những bài học về triết lý về bút pháp có thể áp dụng
ngay trong sáng tác trước mắt. Khả năng đồng hoá của Nguyễn Khải đối với sách
nước ngoài mạnh mẽ và trực tiếp đến nỗi sau nhiều lần nghe Nguyễn Khải kể và
phân tích một vài tác phẩm nào đó, một người như Nguyễn Minh Châu phải thốt
lên:

- Nghe ông
Khải ông ấy nói thì hoá ra không phải Nguyễn Khải bắt chước và học lỏm nước
ngoài nữa, mà phải nói ngược lại...

Đồng thời
với việc khai thác bản thân, ở các nhà văn thường vẫn có một nỗi ám ảnh là làm
sao xâm nhập vào lòng người, hiểu thêm kẻ khác, "đi guốc vào trong
bụng" những ai gặp gỡ hàng ngày, để qua họ, hiểu người hiểu đời và tìm
cách phô diễn trên mặt giấy. Làm thân với chung quanh là một yêu cầu thiết cốt
đối với nghề văn đến mức có thể bảo không có nó, người ta không thể làm nghề.

Nhưng một
thứ năng lực cốt yếu như thế, không cần cố gắng lắm, ở Nguyễn Khải vẫn có thừa.
Một người bạn tôi có dịp cùng đi với Nguyễn Khải trong chuyến công tác xuống
Nam Hà về còn thán phục mãi việc Nguyễn Khải trò chuyện tự nhiên với giáo dân.
Một cách khái quát, anh bạn này bảo:

- Đi với
ông Khải thì không bao giờ sợ đói!

Bản thân
Nguyễn Khải cũng có lần nói đùa:

- Tôi mà đã
định lấy lòng ai, thì người đó chỉ có chết, không cựa nổi!

Nhắc lại
những chuyện này để thấy chính năng khiếu bẩm sinh -- yếu tố làm nên sức sống
khả năng tồn tại của những người làm nghề cầm bút ở Việt Nam --, cái năng
khiếu ấy, ở những cây bút tiêu biểu cho văn học từ sau 1945 như Nguyễn Khải,
thật chẳng kém gì các thế hệ trước.

Tuy nhiên,
nét đặc biệt trong đời văn của Nguyễn Khải có lẽ không phải ở năng khiếu, mà là
ở một cái gì khác, nó thuộc về ý thức của các nhà văn này về sứ  mệnh của mình, về vai trò của ngòi bút trong đời
sống. Do chỗ những yếu tố này đã khác hẳn trước, nên những gì mà họ viết ra sẽ
rất khác, so với các thế hệ trước.




Năm 1963,
trong bài Con đường dẫn tới "nghề
văn"
in trong tập Đường vào nghệ
thuật
, Nguyễn Khải gần như lần đầu tiên đề cập tới một ít nét tiểu sử bản
thân. Mở đầu, ông kể một ít chuyện liên quan đến con người ông lúc trẻ, nào là
chậm chạp, ngốc nghếch, mó đâu hỏng đấy; nào là ăn nói đi đứng rụt rè, vẻ mặt
sầu muộn.

Tưởng một thiếu niên như vậy nên người đã khó, làm sao có thể nghĩ là
anh ta đi viết văn được? Thế mà thành đấy! 

Bài viết chốt lại ở một điểm: Nguyễn
Khải công khai tự nhận mình là một người gặp thời, mình đi vào thời này như
"rồng gặp mây" như "cá gặp nước", "tự do vùng vẫy cho
thoả chí bình sinh". Không phải chỉ có lần ấy mà về sau, Nguyễn Khải còn
nhiều lần đề cập tới sự gặp thời của mình.

- Viết đối
với tôi là một cái nghề. Bây giờ nhìn lại những gì làm được không thể không tự
hỏi mình đã bằng lòng chưa? Thật ra, nghĩ lại thấy mình đức như thế, tài như
thế, mà làm được, chủ yếu là nhờ thời thế
(Báo Thanh niên, xuân Ất Hợi, 1995)

Trong bài tham luận, phát biểu trong cuộc hội thảo Việt Nam- nửa thế kỷ văn học, Nguyễn Khải lại nhắc lại rằng: Tôi là
người có chí nhưng kém tài, may mà được gặp thời, rồi được gặp thày mà nên sự
nghiệp
 (Báo Văn nghệ, số ra 30-9-1995).

Theo tôi, ở
đây nhà văn muốn nói tới mấy điểm phù hợp:

1. giữa
những biến động lịch sử và thế hệ ông.

2. giữa
tính chất thời đại và hoàn cảnh riêng nhu cầu riêng của con người ông.

3. giữa yêu
cầu của nền văn học mới và cá tính sáng tạo nơi ông.

Thành thử
sự gặp thời chỉ là một cách để nhà văn
xác định ý nghĩa xã hội của các hành động của mình
. Và có thể coi đây là
một thứ chìa khoá để hiểu con người Nguyễn Khải, những nhà văn tương tự như
Nguyễn Khải.

Về điểm thứ
nhất, chúng ta chỉ nói tóm tắt:

Sinh năm
1930, Nguyễn Khải ra đời đúng vào cái năm quan trọng trong lịch sử hiện đại,
năm ra đời Đảng Cộng Sản.

1945, khi
nhà văn ở tuổi bắt đầu hiểu biết và có suy nghĩ thì cũng là lúc bùng nổ Cách mạng tháng
8. Tiếp đó, những năm Nguyễn Khải lớn lên, làm quen với nghề nghiệp
viết văn viết báo, thì cũng là những năm kháng chiến chống Pháp.

Sự trùng
khít kỳ lạ giữa những cái mốc quan trọng trong lịch sử và tiểu sử cá nhân, có
vẻ như đã giúp cho Nguyễn Khải cũng như một loạt các nhà văn cùng tuổi với ông
như Hồ Phương, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, hoặc sinh sau một hai năm như
Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Anh Đức... tìm thấy ở cách mạng một môi trường
phát triển lý tưởng. Với họ, với thế hệ của họ, tất cả sẽ được bắt đầu từ đầu.
Như người ta thường nói, họ sẵn sàng tự nhận "Đây là cuộc cách mạng của
chúng tôi
”  “chính chúng tôi sinh ra cho
cuộc Cách mạng này
". Và quả thật là trong lịch sử, họ trở nên một thế hệ
độc đáo, góp phần vào công cuộc sáng nghiệp sử,
trước không thể có và về sau cũng không có.

Tuy nhiên,
đây là câu chuyện đúng với nhiều người. Trong sự gặp gỡ chung của thế hệ với
Cách mạng, Nguyễn Khải còn tìm thấy cuộc gặp gỡ của riêng mình nữa. 

Như chính
Nguyễn Khải từng kể trong một số bút ký và tiểu luận, ông vốn là con trai của
một quan huyện, tức một quan chức loại trung bình, thời Pháp thuộc; nhưng bà mẹ
sinh ra ông lại là bà thứ, bị chồng hắt hủi. 

Lúc nhỏ thế nào không biết nhưng
lớn lên, đã có một thời gian sự sống của cái gia đình nhỏ gồm bà mẹ ông và hai
anh em, là cơ cực, đến độ chạy ăn từng bữa, ông phải bỏ học kiếm sống. 

Nghĩ đến
những ngày ấy thường ông cảm thấy hờn giận, căm ghét, không bao giờ có thể tha
thứ cho những người đã đẩy mẹ con ông vào hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. 

Vả
chăng sự khổ cực về vật chất, dẫu sao cũng là có giới hạn, ráng sức một chút,
là người ta có thể chịu được. Song sự khổ cực về tinh thần mới thật đáng sợ. 

Vẫn theo Nguyễn Khải  kể, mỗi khi nhớ lại
về thuở mới lớn, đau đớn nhất đối với ông là cái đận ông tạm từ giã mẹ và em về
sống với gia đình lớn. Thôi thì tủi hổ trăm bề! Khi không có gì xảy ra đã luôn
luôn cảm thấy mình là kẻ thừa kẻ ăn bám rồi. Lại có những phen rùng rợn, như bị
khinh ghét ra mặt, bị nghi là ăn cắp, gần như bị đuổi ra khỏi nhà. 

Dễ hiểu là
về sau khi tìm thấy trong Cách mạng một cơ hội để khẳng định con người mình,
giúp mình có thể nên người, mà cũng là một cơ hội để trả thù những ai khinh
ghét mình hôm qua, thì Nguyễn Khải sẽ đón nhận với tất cả tâm hồn và không bao
giờ xa rời cái môi trường lý tưởng này nữa. Sự hờn giận đã hun đúc nên ở ông
chí khí, nghị lực


Đây là một đoạn đối thoại giữa Nguyễn Khải và thân phụ ông,
năm 1975, tức là khi cách mạng đã thắng lợi hoàn toàn trên cả nước: "Ba
mươi năm sau, bố con lại gặp nhau, trong lúc trò chuyện bố tôi có nói:

- Trông anh
thế mà chịu khổ cũng tài nhỉ, nhưng mấy chục năm đâu có ít.

Tôi buột
miệng trả lời, là buột miệng thôi, chứ không cố ý:

- Thưa cậu,
đã biết cái nhục, thì chẳng có cái khổ nào là đáng kể." (Một giọt nắng nhạt)

Chúng ta
thường nghe nói Cách mạng giải phóng dân tộc; cách mạng trả lại cho mỗi con
người cái quyền lớn nhất, là quyền làm chủ đất nước mình.

 Nay với Nguyễn Khải,
ta chứng kiến một ý nghĩa nữa của Cách mạng: cách mạng đáp ứng những nhu cầu
riêng tư của một con người.

 "Tưởng là con ông cháu cha hoá ra không phải,
chỉ là con thêm con thừa. Bao nhiêu mộng mơ của một thuở ngây thơ phút chốc mất
sạch. Cái sự thật về thân phận qua mỗi tháng lại tuột ra một lớp vỏ, rút lại
cái lõi của nó không đáng một xu".

Bấy nhiêu hờn giận ở tuổi mới lớn,
tưởng không cách nào khoả lấp nổi, nay nhờ có Cách mạng mà được bù đắp được báo
thù, làm sao con người này không hết lòng với Cách mạng được
!

Chế Lan
Viên từng đề nghị, xem như một cách nghĩ phải có Đế quốc Mỹ là kẻ thù của mỗi trái tim ta. Nói rộng ra, mệnh đề này
của Chế Lan Viên có nghĩa: sự nghiệp Cách mạng phải là điều quan tâm riêng, sự
nghiệp riêng của từng người. Cái điều mà mãi đến thời chống Mỹ, tác giả Ánh sáng và phù sa mới nghiệm ra thì ở
Nguyễn Khải, như một mối lương duyên trời định, không cần cố, cũng đã tự nhiên
mà có từ sớm.




Những ai có
quen biết riêng tác giả Xung đột đều
biết thoạt nhìn đó là một con người có cách sống khá nhẹ nhõm. Lúc vui, chính
ông bảo đấy là một cách sống công chức, nghĩa là không cầu kỳ gì lắm, ăn ở thế
nào cũng được, đối xử suồng sã thế nào cũng được, không chấp nhặt, không đòi
hỏi, và dù có bị ai đó kêu là bằng phẳng, là nhạt nhẽo thì cũng không lấy đó
làm điều.

Lẽ tự nhiên
là trong hoàn cảnh khó khăn của cách mạng, cách sống này chỉ làm cho nhà văn dễ
chan hoà với mọi người, dễ tìm thấy những niềm vui bé nhỏ, và tránh cho mình
những bực bội vô ích.

Tuy nhiên,
Nguyễn Khải không bao giờ từ bỏ những ao ước lớn. Càng dễ dãi trong những
chuyện vặt như ăn ở, ông lại càng chặt chẽ nghiêm khắc trong những vấn đề quan
trọng của đời người, như danh dự, uy tín, quyền lực. 

Ở những điểm cốt lõi này,
ông cũng hiện ra như một con người đầy tham vọng. 

Có điều, đó không phải là
những ham muốn thông thường kể cả những ham muốn được chỉ huy người khác quát
mắng người khác, mà là ham muốn được bộc lộ hết tài năng được trở thành một
nhân vật lợi hại phục vụ cho Cách mạng. Những ham muốn loại đó, đòi hỏi ở người
ta một nghị lực, một quyết tâm, một sự tự nghiêm khắc với mình, đó là điều
không phải ai cũng có.

Đọc văn
xuôi Nguyễn Khải, ta biết rằng nhà văn này có một sự nhạy cảm riêng, tinh tế
riêng trong việc miêu tả cảm giác hướng
thượng
ở con người, những xúc động của người ta khi sống với những niềm tin
thiêng liêng thành kính. Có được ao ước hướng thượng đó, con người dám chấp
nhận những hành hạ khổ sở về tinh thần, miễn sao đạt được sự thanh thản trong
tâm hồn. 

Không phải khi đã từng trải, như trong Thời gian của người, ngòi bút Nguyễn Khải mới có những xúc động
kiểu đó, mà ngay từ tuổi 25-30, tức là khi đang viết Xung đột, Mùa lạc,  ông đã có những đoạn văn khá xuất thần nhằm
miêu tả cảm giác tôn giáo. Trong các đoạn dưới, chúng ta sẽ trở lại với đặc điểm
này trong văn Nguyễn Khải. Ở đây, chỉ xin lưu ý một điều: sở dĩ Nguyễn Khải có
được chỗ mạnh đó, trong văn chương, vì nó được chắt lọc ra từ con người ông.
Bản thân cách sống dễ dàng và hơi khổ hạnh một chút, để dồn tất cả sự quan tâm
vào khu vực đời sống tinh thần ở ông, đã là một cái gì bẩm sinh, không cần cố
gắng cũng có. 




Bây giờ
chúng ta hãy nói tới một điểm cốt tử là giữa yêu cầu của cách mạng với văn học, yêu cầu của thời đại này với các nhà
văn của mình
, và những phẩm chất riêng của ngòi bút Nguyễn Khải, có sự gặp
gỡ tự nhiên ra sao, sự phù hợp tuyệt vời ra sao.

Là sản phẩm
của một thời đại nhiều xáo trộn là thời đại cách mạng, dĩ nhiên văn chương từ
sau 1945 cũng có những đặc điểm riêng của nó. Qua rồi, cái thời văn chương tự
phát của nhà thơ như con chim lạ "ngửa cổ hát chơi". Lại cũng qua rồi
cái thời văn chương là một nghề kiếm sống bình thường, để cho ai có năng khiếu
và ai thích thì đến mà làm, như trước cách mạng đã thấy. Trong hoàn cảnh một xã
hội được tổ chức chặt chẽ, từ trên xuống dưới dồn tất cả sức lực để hoàn thành
những việc cần kíp, có ý nghĩa lịch sử, nay văn chương thật đã trở thành một
công cụ của nhà nước, một thứ đinh vít
nhỏ trong guồng máy lớn
mà người sáng lập ra nhà nước vô sản là V. I Lênin
đã xác định.

Đứng về một
phía nào đó mà xét, thì cả những ngòi bút quen sống trong xã hội cũ (những cây
bút bắt đầu viết từ thời tiền chiến)  lẫn
những cây bút hình thành về sau, nhưng tự phát đi theo lối xưa,-- hẳn đều cảm
thấy phải vất vả phải khó khăn, phải đấu tranh với bản thân, lại phải hy sinh
đi một cái gì đó, trong người, mới thích ứng được với yêu cầu mà xã hội mới
mong muốn.

Ở một người
như Nguyễn Khải, thì không thấy có sự phiền phức đó.

Trong việc phục vụ, ông tìm thấy cách khẳng định bản thân. Ở chỗ người khác cảm thấy mất
tự do, nhà văn này nhận ra một khoảng trống rộng rãi đủ cho mình múa bút. Bởi
thế những yêu cầu của nhà nước với người sáng tác văn chương được ông tiếp nhận
một cách tự nguyện
. Sự trung thành được ông xem là lẽ sống. Cho đến sự chỉ huy,
sự hướng dẫn hàng  ngày, một điều có thể
làm cho người khác bực bội, đối với Nguyễn Khải cũng là chuyện đương nhiên phải
đúng như thế, chứ không thể khác. Lúc mới bắt đầu nổi tiếng, năm 1963, ông viết:

"Đối
với mỗi người bắt đầu bước vào nghề viết hiện nay, thì người đỡ đầu quan trọng
nhất, có tác dụng quyết định nhất, là cuộc sống (...) và Đảng Cộng Sản thân
yêu, nơi nương tựa vững chắc, tin cậy về đời sống tinh thần, phương hướng của
mọi suy nghĩ và hoạt động, là lẽ sống, là cội nguồn của những đức tính đẹp đẽ
nhất của mỗi chúng ta" (Con đường dẫn tôi tới "nghề văn").

Tới năm
1995, ông tiếp tục nói một cách chắc chắn, gọn ghẽ, như đanh đóng cột:

"Trong
khoảng hai chục năm ngồi trước trang giấy, tôi không bao giờ phân vân về các
chức danh của mình: là người lính là đảng viên, là nhà văn. Với tôi, tất cả chỉ
là một (Tuổi trẻ Chủ nhật 30-7-1995).

 Khi cái nhu cầu phục vụ của người lính, người đảng viên đã trở thành một yêu
cầu tự thân của chính ngòi bút thì một người thông minh như Nguyễn Khải sẽ biết
làm tất cả, để vun đắp cho nó ngày một hoàn chỉnh.

Đối với
quan niệm chung chi phối sáng tác văn học sau 1945, ngoài nhiệm vụ phục vụ
đường lối chính sách của cấp trên, nhà văn phải là kẻ gắn bó với đời sống những người bình
thường, là anh cán bộ có mặt và chăm sóc từng vui buồn của đám đông quần chúng.

 Nhưng những việc ấy nào có khó khăn gì với
Nguyễn Khải!

Rất nhiều
năm, trước và sau 1954, ông đã đi đi lại lại khắp vùng ven biển Nam Định, hết
Nghĩa Hưng đến Hải Hậu. Lại có một thời, ông say mê mảnh đất nhỏ thuộc cái đội
6 nào đó, nông trường Điện Biên, như sau này ông sẽ trở lại với xã Đồng Tiến ở Phú
Thọ như về với quê mình. 

Những chuyện tương tự kéo dài đến hàng chục năm tới
mức người ta thưởng như Nguyễn Khải chỉ 
là con người của đồng đất Bắc Bộ.

 Nhưng thoắt một cái, Nguyễn Khải lại
là người của những phòng khách sang trọng ở thành phố Hồ Chí Minh, và trong câu
chuyện của đám quý tộc cùng trí thức Sài Gòn cũ, ông lại tìm ra ngay những khía
cạnh để có thể đưa vào sáng tác.

 Sự thực là cách say mê của Nguyễn Khải với đời
sống, bao giờ cũng thiên vị, cũng quá đáng: Bập vào rất nhanh và quên đi cũng rất
nhanh!

 Song chính cái đức tính bẩm sinh ấy nơi ông thật đã phù hợp với yêu cầu
thâm nhập quần chúng, mà văn học sau 1945 thường vẫn đòi hỏi.

Cùng với
việc chịu đi, chịu gắn bó với thực tế, cái sự học cũng trở thành một nền nếp tự
nhiên ở Nguyễn Khải. Không chỉ học những cái đơn giản, trần trần ai cũng thấy,
mà ông còn lo học lấy cả những chưởng độc,
những chiêu thức kỳ cục, những ngón nghề quái lạ, cốt sao cho ngòi bút
ngày một lợi hại, và đầy sức quyến rũ, để phục vụ cho cách mạng.

Nền nếp học
và đọc đều đều này đã giúp cho Nguyễn Khải trở thành một trong những cây bút
hiện đại của văn xuôi Việt Nam sau 1945 và trong chừng mực nào đó ở kỹ thuật
viết, cách kể cách hình thành những giọng khác nhau trên một trang sách, văn
xuôi Nguyễn Khải có sự tiếp cận với nền văn xuôi đầy biến động của thế kỷ XX.

Từ chuyện
học mà suy, có thể nói, trong quá trình trở thành một nhà văn mà thời đại yêu
cầu, một nhà văn của Đảng Cộng Sản, Nguyễn Khải thật đã khôn ngoan thành thạo
và hiểu đủ mọi phương diện. Hiểu rằng muốn giữ uy tín cho mình, phải giữ uy tín
cho Đảng. Hiểu những điều Đảng nói và cả những điều Đảng không nói. Hiểu điều
gì được phép và cái gì tuyệt đối không được đụng chạm tới.
Bằng sự nhạy cảm, tự
nhiên gần như vô thức trong con người, ông lui tới trong kỷ luật tuyên truyền
một cách thoải mái.

Cũng như
nhiều cây bút khác, trong cuộc đời viết văn của mình, thỉnh thoảng Nguyễn Khải
cũng gặp những tai nạn lao động, những nhầm nhỡ, những phút quá chớn: Làm sao
tránh khỏi được, trong hoàn cảnh của một đất nước đang phải đánh giặc, sự phát
ngôn, sự sáng tạo không ít thì nhiều chịu sự ràng buộc của hoàn cảnh. 

Nhất là
với một người như Nguyễn Khải, một ngòi bút muốn lượn sát cái khu vực cấm để
viết cho hấp dẫn, một tài năng muốn tự biểu hiện rằng mình đang hành nghề rất
tự do, thì những quá đà, những va chạm là không thể tránh khỏi. 

Tuy nhiên, ở
điểm này nữa, Nguyễn Khải cũng tự bộc lộ, như một ngòi bút có cái bản lĩnh
riêng mà nhà văn thời kỳ này mới có. 

Tự xác định như con em của cách mạng, ông
chấp nhận mọi chỉ thị nghị quyết của cấp trên và sẵn sàng từ bỏ chí hướng nếu bị
coi là sai lầm. 

Khả năng tự xác định được những khoảng không để lui tới, và
luôn luôn tìm tới sự thoải mái trong lui tới, tiếp đó, khả năng vượt qua những
thời khắc bê bối, khả năng lấy lại sức sống, và tìm lại cảm hứng sau những vụ
tai nạn nghề nghiệp, là một trong những sức mạnh kỳ lạ ở Nguyễn Khải.

 Nó chứng
tỏ sự phù hợp hoàn toàn giữa ngòi bút của ông với yêu cầu của chế độ. Nó là một
phần trong rất nhiều điểm vi diệu của
sự gặp thời mà ông nhấn mạnh. Và nó bảo đảm cho sự nghiệp của ông được liên
tục: suốt từ 1957 đến nay, luôn luôn ông thuộc loại những cây bút dẫn đầu trong
đời sống văn học.




 II/ Tính chất dự báo của thiên truyện viết ở
tuổi 27 - Tinh thần lãng mạn của một giai đoạn sáng tác - Về loại nhân vật khôn
ngoan: Khôn tức là thích ứng


Trên tạp
chí Văn nghệ số 33 ra ngày 1-11-1951
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có viết một bài giới thiệu chung về lực lượng viết văn
khu Ba (ghi chép sau chuyến ông từ Việt Bắc về dự hội nghị văn nghệ ở đồng
bằng). Bên cạnh những bậc đàn anh như Đoàn Văn Cừ, Trần Lê Văn, trong bài báo
ấy của Nguyễn Huy Tưởng, xuất hiện một cái tên chưa ai biết là Nguyễn Khải.
Cuối bài viết ngắn ngủi của mình, Nguyễn Huy Tưởng còn nhắc đến hình ảnh của
chính con người Nguyễn Khải nữa:

"Đêm 23-9 (...) là buổi từ biệt nhau. Bắt tay
nhau quyến luyến. chúc nhau chiến đấu, chúc nhau thành công. Cùng đi ra đường
Nho Quan với tôi, Lê Mai loắt choắt, Nguyễn Khải cao gầy, áo hai anh nhiều chỗ
vá (...) Nguyễn Khải nói:


- Tôi sẽ viết nhiều mẩu căm thù và anh dũng,
gửi lên Trung ương.


Trước mắt các anh không xa mấy, đã là đất
địch, thế giới của càn quét của bóc lột của tàn sát của ngục tù. Chúng ta hứa
với nhau công phá những ngục tù ấy, đem trở lại tự do và tình yêu."


Những nét
phác hoạ còn rất sơ lược. Qua đi một vài năm cho tới khi hoà bình lập lại
1954-1955, người ham thích văn học có thể đọc được vài tựa sách của Nguyễn
Khải:

1. Xây dựng: Đây là thiên truyện được giải
thưởng Hội Văn nghệ VN 1951-1952 và tới 1954 thì được in ra. Đây cũng là thiên
truyện khá nhất Nguyễn Khải viết trong kháng chiến chống Pháp.

2. Mùa
xuân ở Chương Mỹ
, phóng sự Ban Tuyên huấn Phòng Chính trị Quân khu 3 xuất
bản.

3. Người con gái quang vinh, NXB Thanh Niên.

Trong số
mấy quyển sách này có lẽ khá hơn cả, dày dặn hơn cả, vẫn là quyển thứ ba, tuy
nhiên, nó có tính cách một truyện ký về một anh hùng, và còn ít chất văn học.
Ra đời cùng thời với Đất nước đứng lên
của Nguyên Ngọc, Người con gái quang vinh
thường được Nguyễn Khải sau này nói tới như dấu hiệu về sự non nớt của mình.
Sau lần in đầu tiên không bao giờ nó được in lại.

Vậy tác
phẩm vào nghề, tác phẩm đánh dấu cái tên Nguyễn Khải trong lòng bạn đọc hâm mộ
là gì?

Dĩ nhiên,
phải kể Xung đột (1957).

Lúc bấy giờ
đời sống xã hội đang ở vào một giai đoạn có những xáo lộn nghiêm trọng. Đảng
Lao Động Việt Nam vừa tuyên bố hoàn thành cải cách ruộng đất trên toàn miền Bắc
(trung tuần tháng 7 - 1956), thì ngay sau đó, xác nhận đã phạm những sai lầm
nghiêm trọng trong chỉ đạo, và cho bắt đầu sửa sai (9-1956). 

Riêng trong văn
nghệ, báo Nhân Văn ra đời, rồi đóng
cửa. 

Cuộc phê phán báo Nhân Văn
các tập Giai phẩm còn đang đang dang
dở (mãi đến đầu năm 1958, nó mới thật trở nên quyết liệt). Cái đáng nhớ trong
đời sống văn nghệ mấy năm ấy, là sự thay đổi về tổ chức. Hội Nhà văn Việt Nam tách
ra từ Hội Văn nghệ. Một số tạp chí ra công khai, trong số đó có Văn nghệ quân đội.

Có vẻ như
mọi người lúc ấy quá bận bịu với chuyện thời sự, không tâm trí đâu mà nghĩ tới
những sáng tác sâu sắc và có chất lượng.

Chính trong
hoàn cảnh ấy, Xung đột xuất hiện. Ban
đầu, cuốn sách mới được in thành từng phần trên tạp chí Văn nghệ quân đội, phần nọ có khi cách xa phần kia đến vài tháng.
Song cái hơi cái mạch của nó là thống nhất.

Xét ở góc
độ thời sự, Xung đột trả lời rất đúng
cho những câu hỏi lúc ấy. Thông qua câu chuyện ở một xóm đạo Nghĩa Hưng, nhà
văn cho thấy hình ảnh của miền Bắc thu nhỏ, với những cuộc đấu tranh chính trị
quyết liệt xảy ra trong từng xóm thôn, từng gia đình, từng con người. Sau những
năm chiến tranh khói lửa, lực lượng nào sẽ nổi lên chi phối xã hội? Nông thôn
sẽ đi về đâu? Tiếp tục đi theo con đường đã đi trong kháng chiến hay là trở lại
với con đường u tối do thực dân và các thế lực tôn giáo phản động khống chế?
Phải nhận đặt được những câu hỏi như thế đã là cả một tiên cảm, một dự báo sâu
sắc của ngòi bút Nguyễn Khải.

Một phương
diện khác của tài năng Nguyễn Khải, người ta bắt đầu thấy bộc lộ rõ trong Xung đột.

Ở tác phẩm
này, ông đã phác hoạ ra một loạt nhân vật mới mà chỉ với cuộc đấu tranh chính
trị này mới có. Rõ nhất là trường hợp Môn, con người nhạy bén, cả quyết, dám
đối mặt với tất cả các thế lực thù địch, và bất cứ việc nhỏ việc lớn gì trong
xã, chỉ nghe qua, đã hiểu được là có âm mưu chính trị gì ở trong.

Bên cạnh
những Môn, Nhàn, Thuỵ, những nhân vật phụ cũng có những nét sắc sảo hiếm có. 

Chẳng hạn loại nhân vật cuồng tín sẵn sàng phá bĩnh. ở nam giới, đó là Minh gộc
"vừa bướng bỉnh vừa dễ bảo, rất ma mãnh và cũng rất ngốc nghếch"; là
Quảng, sẵn sàng giả vờ chết, ăn vạ bộ đội. ở nữ giới, đó là Lý, là vợ Tường. 

Nét quán xuyến trong những nhân vật cuồng tín này là họ không có tư tưởng
riêng, nhưng khi được mớm những tư tưởng lạ từ bên ngoài thì con người họ linh
hoạt hẳn lên, họ lồng lộn chống phá kẻ khác và trở nên cuồng nhiệt như những
con thú.

 Những tư tưởng vay mượn được họ thực hiện một cách tận tuỵ bằng tất cả
bản năng sẵn có trong người mình. Như Lý vừa được nghe mấy cha đạo dẫn dụ đã
quay về cà khịa ngay với cả ông chủ. Hoặc như vợ Tường, sẵn sàng ăn không nói
có, từ chuyện lên thăm chồng đi bộ đội, về dựng lên chuyện bộ đội bảo phải bỏ
đạo, cho tới chuyện đi đánh hôi "Hôm Quảng reo vạ, thị vén ngược áo vạch
hai bầu vú đánh nhau tay đôi với bộ đội, mồm lu loa: "Nào chúng mày có
giỏi thì đâm bà đi, bắn cho bà một phát xem nào!" Có một anh lấy tay du thẳng
thị ra, lập tức thị nắm chặt lấy cổ tay anh ấp ấp vào vú mình, chu chéo:
"ới ông bà ơi! Xem đây này, ban ngày ban mặt mà bộ đội dám bóp vú tôi đây
này".

Như thế là
cả trong việc chỉ ra vấn đề bao quát chung của thiên truyện lẫn việc phác hoạ
các nhân vật,  Xung đột thật đã có ý nghĩa một lời dự báo, một sự tiên tri. Đây
mãi mãi là một đỉnh cao trong sáng tác của Nguyễn Khải, mà mỗi khi nhớ tới,
người ta phải kính trọng.

Từ sau Xung đột, Nguyễn Khải hướng ngòi bút của
ông vào những vấn đề ít nhiều hiền lành hơn, và cũng hợp với nhu cầu của đông
đảo bạn đọc hơn.

 Cuộc đấu tranh nào muốn tiếp tục, cũng phải chỉ rõ những thành
quả cũng như hé ra những hứa hẹn đang chờ đợi. Từ Mùa lạc đến Đứa con nuôi,
Chuyện người tổ trưởng máy kéo
đều nhất quán trong cái giọng chung, cái mà
sau này  Nguyễn Khải gọi là cảm hứng lãng
mạn. Những nhân vật như chị Đào, như Thoa, như Thi, như bé Tấm (Đứa con nuôi)  là loại xưa nay vẫn được văn học Việt Nam
miêu tả khá sinh động. Họ đại diện cho một đại chúng thông minh mau mắn làm gì
cũng được, khổ đến mấy cũng tìm ra niềm vui, vừa trải qua cái khổ đã vui ngay
được, chòng ghẹo nhau mà vui, trước những hạnh phúc đơn sơ lại càng dễ dàng tìm
thấy niềm vui thực sự.

Nếu trong
tác phẩm của các nhà văn như Thạch Lam, Nguyên Hồng, các nhân vật này thường
được diễn tả như những nạn nhân của bất công của tai hoạ, thì trong văn học sau
1945, họ lại được miêu tả thành vai trò những chủ nhân chân chính của chế độ
mới. Ở Nguyễn Khải cũng vậy. Cái tài của nhà văn trong những truyện này là đã
miêu tả những nét hồn nhiên trong sinh hoạt của 
con người với tất cả niềm say mê có thể có.

Kể từ 1945,
đây là những năm đầu tiên, quần chúng lao động được hưởng thành quả của chế độ
mới, con người không phải chạy bom chạy đạn, lại có bát cơm trắng để ăn, có bộ
quần áo lành lặn để mặc, vợ chồng con cái tối tối quây quần chứ không còn chia
ly, xa cách như hồi nào, vì thế họ cảm thấy sung sướng mãn nguyện lắm rồi. Dưới
mắt họ, đời sống đất nước như đang phục sinh. Cho đến cả thiên nhiên cũng hiện
lên tha thiết, đắm đuối.

Như đây đó,
sau này Nguyễn Khải tự nhận, chưa bao giờ ngòi bút nhà văn ở ông ham tả cảnh
như trong thời viết Mùa lạc. Mượn
cảnh để nói những say đắm trong lòng người. Mà cũng là để bộc lộ cho hết những
rung động hồi hộp tha thiết trong chính lòng mình. Cách hiểu cách nghĩ của tác
giả về người và việc lúc này thường khi chan chứa những tình cảm hào hứng, một
sự thán phục không giấu giếm: Với cái hăm hở của tuổi trẻ, ông sẵn sàng đẩy mọi
thứ lên tới sự cực đoan mà cũng là những tổng kết có tính chất lý thuyết.

 Chẳng hạn, chỉ qua một ít may mắn ban đầu mà
nhân vật Đào tìm thấy ở cuộc sống mới, người ta đã đọc được những khái quát:

"Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh
phúc hiện hình trong những hy sinh, gian khổ. Ở đời này không có con đường
cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh, để bước qua
những ranh giới ấy".


Lại chẳng
hạn như trường hợp nhân vật Nam trong Hãy
đi xa hơn nữa
. Sự từng trải của người chiến sĩ bộ đội trước đây đã được
nhiều ngòi bút đương thời nói đến. Nhưng nói về nó một cáh nồng nhiệt, thì
không ai như Nguyễn Khải:

"Con người với đời sống tinh thần của con
người thường làm cho chính nó cũng phải ngạc nhiên vì sự phong phú, sự phức tạp
và sự vận động hết sức kỳ lạ của nó. Đấy, thoạt đầu thì tôi chỉ có tham vọng
được nghe một câu chuyện ly kỳ của Nam trong những ngày anh sống trong tay
giặc, và tôi đã hình dung được phần nào cái ý nghĩa đẹp đẽ của lòng trung
thành, trí dũng cảm với những mưu mẹo hết sức thông minh của một người chiến sĩ
bình thường. Nhưng cái khuôn khổ chật  hẹp cứng nhắc ấy đã bị phá vỡ vì những ý nghĩ chân thật. Cái giới hạn do mình suy tưởng đã
nứt ra, để lộ những khoảng vô cùng của một cái gì không giới hạn, không thể
biết ngay một lúc được. Và chính điều đó cắt nghĩa vì lẽ gì đến hôm nay, khi
viết về Nam, tôi vẫn ngờ rằng có lẽ mình chỉ mới biết đến những cái gì thuộc về
bên ngoài, có khi lại do sự tưởng tượng méo mó của mình bịa đặt ra cũng nên,
còn cái vẻ đẹp thực sự của Nam thì chẳng khác gì một ngôi sao rất sáng, lóng
lánh từ xa một cách khêu gợi, nhưng không có cách gì để với tới
".

Chỉ cần so
sánh một chút những cảm hứng chính về cuộc sống chi phối ngòi bút Nguyễn Khải
khi viết Mùa lạc (1959-1960) với
những khái quát đời sống toát ra qua nhiều thiên truyện ông viết, những năm
cuối 80, đầu 90 người ta sẽ thấy biết bao khác biệt:

Một bên là
cái say đắm có phần bốc đồng của tuổi trẻ; một bên là những chiêm nghiệm thâm trầm sâu
sắc của tuổi già.

Một bên nói ào ào, nói lấy được; một bên vừa
nói vừa ngập ngừng, vừa chậm rãi, chỉ sợ mình sẽ khái quát sai một lần nữa.

 Tuy nhiên, phải nhận những ý nghĩ về cuộc sống
trong giai đoạn Mùa lạc là thành
thực, cái cảm hứng chủ đạo chi phối ngòi bút Nguyễn Khải lúc ấy là thế, thì ông
viết ra thế, ở đó không một chút giả tạo, không nói theo ai hoặc vay mượn ở ai.


Trong sự
hồn nhiên của nó, những khái quát nói ở đây xác nhận một tâm lý thịnh hành đương
thời. Là cảm thấy cuộc đời ngày nay khác hẳn ngày xưa, lịch sử như vừa bắt đầu. Một cái gì phảng phất lối cảm lối nghĩ của những người có đầu óc
tôn giáo bắt đầu hé mở.

Có điều cái
mà ngòi bút nhà văn muốn tôn thờ là chính đời sống, ông không kêu gọi sự khổ
hạnh, sự ép xác, mà đặt tin yêu vào tất cả những gì tự nhiên đẹp đẽ của cuộc
sống, nên một thoáng tôn giáo nói ở đây, dễ lây lan và có sức truyền cảm.

Vào khoảng
những năm 1960 trở đi, một trong những đề tài lớn của các nhà văn sống ở miền
Bắc là viết về phong trào hợp tác hoá. Ngày nay, đọc lại những sáng tác mang
nặng tính cách phục vụ kịp thời hồi ấy, nhiều người mỉm cười. Tuy nhiên, không
phải ở đó không có những trang sách có giá trị, ngày nay, vẫn có thể đọc lại.

Riêng với
Nguyễn Khải, đọc những truyện ông kể về người về việc ở các xã Đồng Tiến, Phú
Thọ, chúng ta cũng bắt gặp một sự say mê hết lòng chẳng khác gì ngày nào ông đã
nói về cái "Đội 6" nông trường Điện Biên trong Mùa lạc.

Thường
trong các thiên truyện viết về hợp tác, Nguyễn Khải không giảng kỹ thuật sản
xuất, cũng không đi vào minh hoạ những bước đi thường có của phong trào, mà đưa
ra bức tranh toàn cảnh của nông thôn và dừng lại khá kỹ ở những rắc rối, vừa
hồn nhiên, vừa không thể tránh khỏi, khi đi vào làm ăn tập thể. 

Trong khi khéo
léo vạch ra những nhố nhăng buồn cười và cả những xót xa cảm động trong tính
toán mang tính cách vụ lợi vốn có ở người nông dân (bao gồm cả các cán bộ hợp
tác), tác giả không quên đặt vấn đề về nhân cách, về tầm nhìn, tầm suy nghĩ của
con người, và đó là một cách làm có sức thuyết phục. Cố nhiên say sưa ca ngợi
cái này, đôi khi là kèm theo sự phê phán chế giễu cái kia, và sự chế giễu của
Nguyễn Khải có khi cũng nông nổi thiên lệch, như ông đã ca ngợi, điều đó thấy rõ
hơn cả trong thiên truyện nổi tiếng, đã được đưa vào sách giảng văn mà học sinh các trường trung học phổ thông phải học: truyện Tầm
nhìn xa
.

Chẳng phải
ngẫu nhiên về sau trong phong trào đổi mới cách nghĩ, mấy năm 87 - 88, Nguyễn
Khải sẽ trở lại với "thế giới" ở xã Đồng Tiến, để tự so sánh những điều
mình dự đoán, với sự phát triển của bản thân hiện thực.

 Tuy nhiên, Cái thời lãng mạn được viết
về sau, không xoá sổ những Tầm nhìn xa,
Người trở về
viết mấy chục năm trước mà cả hai giai đoạn ấy ở Nguyễn Khải
cùng tồn tại, đánh dấu cho sự tiến triển dần dà của ý thức cá nhân, mà cũng là
của nhận thức xã hội. 

Qua các thiên truyện viết về sự làm ăn ở Điện Biên cũng
như không khí hợp tác ở Phú Thọ, ở Nguyễn Khải thấy nổi lên một nét đặc sắc sớm
được các nhà phê bình nhận xét, đây là việc hình thành ở ông một loại nhân vật
- mà riêng ông mới có.

 Dù là người nông dân "chân đất" cày cuốc nuôi
thân, hay đã khoác xà cột lên vai, đảm nhận một chức vụ nào đó trong guồng máy
xã hội, loại nhân vật này thường khi kèm theo những tính toán chặt chẽ, thiết
thực khiến người ta phải kinh sợ. Rồi ra sau những tính toán không chê vào đâu
được ấy, ta cảm nghe vang lên từ các trang sách tiếng cười ròn rã của họ, đánh
dấu những chiến thắng nho nhỏ của kẻ biết đùa, hoặc kẻ đáo để.

Chính loại nhân vật được tiếng là khôn và đã mang lại cho tác phẩm một vẻ sinh
động hiếm có này làm nên tính hiện đại của những trang văn xuôi của Nguyễn
Khải.

Một mặt, nó đánh dấu xu thế dân chủ của thời đại khi mà đại chúng đã thức
tỉnh và cái sự gọi là khôn ngoan không còn là đặc quyền
riêng của ai. 

Mặt khác
trong sự bằng lòng khá rõ của tác giả với thứ trí tuệ dân gian kiểu này, cũng
nên nhận ra một hạn chế. 

Khôn ở các nhân vật của Nguyễn Khải là gì? Đại khái đó
không phải là sự vận động tự thân của trí tuệ, mà chỉ là tìm ra một sự thích
ứng tối đa với hoàn cảnh. 

Gạt đi rất nhiều sự khác nhau về bề ngoài, sự khôn
ngoan của nhân vật Nguyễn Khải, rút lại có thể quy vào trong mấy câu khái quát
một thời của Chế Lan Viên:

- Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi ngây thơ thổi nghìn nến tắt

Ta vì ai? - khẽ xoay chiều ngọn bút

Bàn tay người  thắp lại triệu chồi xanh

Một khi đặt
ra cho mình hướng suy nghĩ như vậy, con người thường chỉ mải mê theo đuổi mục
đích sẵn có.

 Ở họ không có những gì bâng quơ, không đâu vào đâu.

 Không những
phút dư thừa, những chuyện khó giải thích (thậm chí không giải thích nổi). 

Lại
càng không thể có những nỗi buồn vô lý. 

Vì buồn và những tình cảm gần gũi với
buồn, như thương cảm cho mình và cho người, xót xa, ân hận, cho rằng tất cả
đáng lẽ có thể khác...  theo họ không phải là sự bắt đầu cho một suy nghĩ xứng với tầm người mà chỉ là xa xỉ vô ích, chả có lợi cho ai, nếu không nói là làm hại cho kẻ đang buồn nữa. 

Người khôn ngoan sao lại buồn bã cho được! 

Kể ra,
cũng là quá đơn giản hóa, cũng là rút gọn con người đi khá nhiều. 

Song, phải nhận lối
nghĩ như Chế Lan Viên, như Nguyễn Khải đề nghị, làm cho con người khoẻ lên, thích hành động hơn. Và đó chính là cái yêu cầu mà xã hội trong giai đoạn sắp bước vào chiến tranh lúc ấy đặt ra cho văn học, muốn văn học phải làm lây truyền bằng được.



(còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2014 21:34

January 8, 2014

Nông thôn tan nát hôm nay

cũng là một dạng "mất đất"

Chỉ
cần đứng ở các đầu ô, theo dõi hoạt động trên con đường nối Hà Nội với các
tỉnh, ngươi ta cũng sớm nhận ra thực chất các mối quan hệ giữa đô thị với các
vùng nông thôn chung quanh. 



Đổ lên Hà Nội, ngoài gạo nước chỉ thấy mấy xe cà tàng chở những bu gà và
đôi khi là mấy con lợn đã mổ, những xe thồ chở rau, thêm nữa là hàng đoàn xe đạp đang chở cây cảnh.

 Xuôi đi các tỉnh thì trăm thứ bà rằn, không kể vải vóc, đồ
điện, thuốc tây... gần đây đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều là hàng từ Hà Nội.

 Ngày xưa có ai đi mua diều để thả bao giờ? Bố khéo tay thì làm cho con cái
diều. Thô sơ, mộc mạc, nhưng mà đúng “cây nhà lá vườn”. Ngày nay diều từ Hà Nội
đưa về là diều nhựa, xanh xanh đỏ đỏ, có người bảo là nhập lậu từ Trung Quốc.



Kiểu
quan hệ hai chiều như thế, kể ra, cũng là một bước phát triển. Nông thôn ta
đang được hưởng nhiều thành tựu của công nghiệp.

Chỉ
phiền một nỗi, có phải như thế, tức là nông thôn ta không còn tự lập tự chủ mà ngày càng phụ thuộc vào thành thị? Lao động đã thừa, giờ đây
càng thừa thêm?

 Những ngày nông nhàn, giờ đây, những người khéo tay không biết
làm gì. Thị trường của họ bị thu hẹp.

 Báo chí đang nói nhiều về tình trạng nông dân mất đất theo nghĩa đen. 

Ở đây tôi muốn dùng theo nghĩa rộng hơn. Mất môi trường tự nhiên và xã hội để sinh sống - cũng tức là người nông dân đang mất đất ngay trên quê hương mình.

Tôi
không ngớ ngẩn đến mức đề nghị bịt đường, không cho hàng hoá thành thị về nông
thôn. 

Tôi chỉ ước ao thực hiện cái điều nhiều người đã biết, tức là làm sao
nông thôn được tổ chức lại, từng vùng có mặt hàng riêng, đủ sức cạnh tranh với
các mặt hàng vẫn bán trên đô thị (nếu không tốt hơn, đẹp hơn, thì cũng rẻ hơn,
vừa túi tiền hơn).

 Nó là chuyện giải quyết lao động thừa. 

 Nó lại cũng là một
cách để giữ gìn một số làng nghề truyền thống, và nhìn rộng ra, là giữ gìn cái
bản sắc riêng của dân mình.


điều, việc này không phải từng cá nhân có thể lo nổi.




thất nghiệp sinh làm bậy

Nghe
tới mấy chữ sau luỹ tre, không ai không hiểu đây là để chỉ nông thôn Việt Nam. Nhưng có
lẽ phải nói thêm đó là cái nông thôn xưa từng làng từng xóm khép kín trong một
cộng đồng chật hẹp. 

Nông thôn bây giờ khác hẳn. Chẳng những một số nơi luỹ tre
không còn, mà cái chính là làng xóm đã mất đi hẳn tính cô lập, để hoà đồng với
nhau, và xa hơn, hoà nhập với đô thị. Ở ngoại vi Hà Nội (thường cách
độ 100 cây số trở lại) nay có nhiều làng có ô tô hàng ngày chở người lên thủ đô
buôn bán, chiều lại đón về.

Cái
hay học được nhiều. Nhưng cái dở cũng theo đó mà thâm nhập.

Nay
là lúc nạn hút xách, đĩ điếm, rồi cả nạn đề đóm, nạn côn đồ đầu gấu... không
phải là đặc sản riêng của thành thị mà cũng có thể sâu cây bén rễ ở nông thôn,
như một bệnh dịch, không dễ gì ngăn chặn.

Thông
thường, người ta đổ lỗi cho sự giao lưu tiếp xúc đang được mở rộng. Nhiều cụ
già chép miệng “Giá cứ như ngày xưa làng nào thuần tuý làng ấy, thì đâu đến
nỗi”.

Nhưng
ngày xưa không thể trở lại!

Câu chuyện từng làng khép kín đã thuộc về dĩ vãng.


đây, tôi muốn đề nghị một cách nghĩ khác. Chẳng hạn chúng ta hãy thử tìm ra mối
quan hệ giữa tệ nạn xã hội và phong trào làm ăn sản xuất của một địa phương.
Hình như tình hình là như thế này:

-
Nơi làm ăn khó khăn, nghề ngỗng chẳng có, lên Hà Nội chẳng qua gồng thuê, gánh
mướn, thì các tệ nạn phát triển mạnh.

-
Còn những nơi con người có nghề nghiệp chắc chắn, làm ra mặt hàng cung cấp cho
thành phố, thì tuy cũng có chơi bời, nhưng người ta thường vượt lên, để tồn
tại.

Tục
ngữ xưa có câu: Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn.

Nay
có lẽ nên đổi đi đôi chút: Giàu tham việc, thất nghiệp tham làm bậy.

Nói
cách khác, cuộc vận động chống các tệ nạn xã hội ở nông thôn tuy có phụ thuộc
vào nền nếp truyền thống cũ, nhưng có lẽ cái mà nó phụ thuộc nhiều hơn cả là
trình độ tổ chức sản xuất của từng làng xóm. Cây khoẻ thì tự nó đã có thể chống
được sâu bệnh.




bao giờ  cho đến
ngày xưa


Một
người bạn tôi ở Hải Hậu, Nam Định lên Hà Nội chơi, kể rằng ở quê anh vẫn còn
tục lệ chỉ đàn ông mới được khiêng đòn đám ma. Vì vậy đang xảy ra tình trạng là
ở một số làng, người chết không tìm được người khiêng. Nông thôn, trong cảnh
thời tiết chất chưởng, làm ra hạt thóc chật vật khó khăn, cái nông thôn ấy, một
số nơi, đang rỗng. Người nháo đi các nơi. Đi không chắc đã kiếm được cái ăn.
Nhưng ở quê, biết làm gì hơn?

Những
người ấy đi đâu?

Tôi
nhớ những trai tráng ngồi quẩn bên nhau ở một số góc phố Hà Nội, chờ người đến thuê. 

Tôi nhớ những người bán
hàng rong, kẻ này đẩy một ôm chiếu trên chiếc xe đạp “không phanh không
gác-đờ-bu”, kẻ kia mặt mũi đỏ gay, lút đi giữa đống đồ nhựa. 

Và những em bé
đánh giày len lỏi ở các quán ăn, quán giải khát, đội quân ấy đang ngày một đông
thêm.

 Các nhà nghiên cứu về xã hội khái quát, đây là cả một xu thế xuất hiện ở
các nuớc đang phát triển và đã đề nghị có chính sách không để  tình thế tạm thời này kéo dài.

 Nhưng ba chục năm nay, cái  xu hướng này ngày càng tiếp diễn. Tức là xã hội tự cơ cấu lại một cách tự phát. Nhìn vào trình độ sống của người nông thôn ra đi ấy thấy có sự phân hóa. Một bộ phận biết thích ứng, nhưng một bộ phận khác thì lưu manh hóa. Họ chả bao giờ trở thành người đô thị hiện đại. Trong cuộc kiếm sống gian nan, họ dám làm bất cứ việc gì có người trả tiền. Họ đang làm hỏng hình ảnh tốt đẹp về người nông dân vốn có trong mỗi chúng ta.

Tôi muốn nói thêm một khía cạnh tâm lý vui vui.

Do những thói quen cố hữu, tận trong đáy lòng, không người nông dân nào muốn bỏ quê nhà ra đi. Chẳng qua nói như các cụ xưa, túng thì phải tính. Ra đô thị rồi, họ vẫn vấn vương với quê cũ.

Lại
nhớ lâu nay vẫn nghe nói ở nhiều nước, dân thành phố mắc phải một chứng bệnh
oái oăm là bệnh thương nhớ đồng quê. Tức là họ ngán các nhà chọc trời. Họ thèm
về sống với hương đồng cỏ nội .

Phải
chăng thứ bệnh sang trọng ấy không lan sang dân ta? Đâu có! 

Chính nhiều người thành thị hiện nay cũng đã bắt đầu
cảm thấy cuộc sống nơi đây là quá nặng nề (môi trường ô nhiễm không cách gì sửa
chữa). Một số thường ước ao có ngày được tận hưởng cái không khí yên ả sau luỹ
tre xanh. 

Chỉ có điều, thực tế trước mắt , vẫn chỉ cho người ta thấy chớ có mà tơ tưởng hão.

 Tôi vừa dùng lại cái chữ tơ tưởng trong câu ca dao cũ:

Duyên kia ai đợi mà chờ

Tình kia ai tưởng mà tơ tưởng tình

 Sẽ có
một ngày nông thôn là của tất cả chúng ta?

 Không, nông thôn hôm nay tan nát rồi. Nông thôn thanh bình ngày xưa, mãi mãi chỉ còn trong ký ức.







Đã in trên báo Nông thôn ngày nay, 2000,

và đưa vào tập Nhân nào quả ấy, 2003



 với nhan đề Gỡ ra cho thoát còn gì là thân.

Có sửa chữa và bổ sung một số ý nhỏ.








 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 08, 2014 00:08

January 5, 2014

Rác ngoại

     Hồi
đang còn đại dịch cúm gà, dân tình xem
TV thường sởn da gà khi  theo dõi cảnh
buôn lậu gà qua biên giới. Đó là những con gà bên Trung quốc họ phải thanh lý
vì sợ cúm nhưng ngại chôn nên gần như bán cho không mình,  và dân mình thì  bu lớn bu nhỏ buộc sau xe chở về Hà Nội, trộn
với gà lành để bán cho dân tiêu dùng.


        Cùng ống kính truyền hình hướng về
các cảng biển, lại gặp cảnh những công -
te -nơ đồ sộ được dỡ ra, bên trong toàn những máy giặt hỏng, ti vi hết hạn sử
dụng, ắc quy  phế phẩm cùng là các loại
dây điện và đồ nhựa nát toét hoặc cáu rỉ được lèn thật chặt, nghe đâu cũng chở
từ mấy nước lân cận về để rồi tìm nơi
vắng vẻ nào đó trên đất mình để vứt. Người nhập loại “ hàng đặc chủng“ này cố nhiên không  phải bỏ vốn mà lại còn được nhận những số
tiền lớn, ngoài số  đút lót cho Hải quan
và địa phương chứa rác,  chắc thu hoạch
cũng  kha khá, những ai  làm ăn đứng đắn không bao giờ theo kịp. 

         Không thạo gì hàng
hóa nhưng tôi cứ đồ chừng vậy, vì xem ra, việc nhập rác này cứ ngày một phát
triển, ngày càng có những vụ to hơn, liều lĩnh hơn, chứ chẳng cách gì thuyên
giảm.                   




       Một anh bạn làm kinh tế nói với tôi rằng
sở dĩ sản xuất  và thị trường đường trong
nước hết sức phập phù là vì khoảng mấy năm mới bung ra làm ăn, các tỉnh đua
nhau nhập về những nhà máy đường kỹ thuật quá cổ lỗ. Bên nước người, người ta
sẵn sàng bán tống bán táng đi. Gạ bán rẻ. Gạ cho nợ. Và thường lại ních đầy hầu
bao người mua tiền ăn đường. 

       Thế là các sếp nhà ta hý hửng rước những của nợ ấy
về. 

       Thứ rác này vô duyên ở chỗ sau khi
lộ tẩy, nó nằm chình ình ra đấy, các ông chủ bỏ thì thương vương thì tội.Trong cảnh chết không chết  mà sống cũng không ra sống, chúng tố cáo một
tội lỗi mà xưa nay ít ai để ý.

    Thuốc tây và xi măng, ô tô và vải vóc
…  -- không thể kể hết những loại hàng hết "đát"  từng bày bán, nó biểu hiện sự ngờ nghệch của
chúng ta khi nhập hàng ngoại. Song nó là hàng thuần túy. Việc nhập các loại máy
móc cổ lỗ đáng sợ hơn. Nó là thứ rác có khả năng sinh sôi nẩy nở. Hoặc đúng hơn
là sẽ sinh nở ra những lạc hậu cổ hủ trì trệ.

      

         Khoảng giữa những năm tám mươi, việc
nhập hàng ngoại bị hạn chế, như xe gắn máy chẳng hạn, may lắm chỉ có một số anh
em đi tàu viễn dương được mang về mấy cái xe loại bãi thải của bên Nhật. Để đỡ buồn, hồi đó một tờ báo
đã  mỉa mai, dân mình thật vô địch về
nhập hàng bãi thải. Nay thì  chuyện đó đã
lùi xa như chuyện cổ tích. Nhiều loại ô tô hiện đại đã xuất hiện trên đường
phố. Nhưng một người bạn tôi lại vẫn cứ thấy chua xót thế nào. Anh bảo trong
trường hợp này, cái mà chúng ta đang nhập tức là cái tư tưởng ăn chơi đua
đòi  hưởng thụ, bất chấp tình cảnh nghèo
đói chung của cộng đồng.    




    Thật vậy, cùng với các loại rác vật
chất, còn một loại rác nữa phải nói tới, cái mà người ta gọi là văn hóa  phi 
vật thể  như các  kiểu nhà, các loại nhạc phẩm, các loại mốt,
những  cách nghĩ cách sống những thị
hiếu vốn hôm qua bên nước người là đúng đắn tiến bộ, nhưng hôm nay đã không còn
thích hợp với thực tế và không còn khả
năng giúp cho ta phát triển theo kịp với thế giới.

    Ai bảo tôi lạc hậu tôi xin nhận, chứ tôi
chịu không chấp nhận được kiểu  nhuộm tóc
vàng của một số thanh niên hiện nay. Chịu không chấp nhận lối  chêm 
tiếng Anh trong nói và viết. Chịu không chấp nhận lối làm báo lá cải,
trang văn hóa đưa toàn chuyện giật gân về đào kép xi-nê xứ người. Những thứ rác
này làm hỏng thêm cái việc trọng đại mà chúng ta hướng tới là muốn sống cùng một nhịp với
thế giới.

  




     Ngay từ khi bắt đầu tính chuyện hội nhập một
kịch bản hai mặt, đã được dự kiến: cùng với tiền, vốn các phát minh kỹ thuật,
nói chung là những gì ưu tú của nước ngoài, thì những loại cặn bã thế giới cũng
sẽ tràn vào  xứ ta.

       Trong khi chờ đợi giới hữu trách có  biện pháp đối phó thích hợp, nhiều người đã lo.

        Nhưng lo sao lại được !

      Tuy đã được răn đe trước mà lúc này một
người như tôi  vẫn thấy sửng sốt. Một
là  không ngờ các thứ ấy lại đến với mình
nhanh đến vậy ; và thứ hai là  không ngờ
chúng lại gần gũi với chúng ta, y như là của chính chúng ta làm ra, hoặc vẫn
quanh quẩn ở những bãi rác ngay  bên nhà
ta.

     Rác ngoại gọi ra ý nghĩ về rác nội.



    Không biết có thể coi đây một lý do khả thủ của các của quý xa lạ ấy ? 

     Hóa
ra ở ta những thứ này đâu có thiếu. Rác theo nghĩa đen do mình xả ra  đang là một vấn đề đau đầu của xã hội. Và cả
rác với nghĩa bóng, rác với tư cách những lạc hậu vụ lợi phi  nhân bản trong cách sống cách nghĩ. Nếu không
có việc nhập rác ngoại thì những tư tưởng 
thoái hóa  thành rác trong đầu
nhiều người đâu có dịp bộc lộ cho chúng ta thấy để  mà ghê sợ và chờ đợi nó mỗi ngày lại có mặt
rộn rã thêm nữa
.




Đã in trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 05, 2014 22:08

January 4, 2014

Cuộc sống là gồm cả hoa và rác

Nhiều năm lại đây, sau những ngày lễ ngày Tết,báo chí đã kêu ầm lên là đường phố Hà Nội đầy rác. Chẳng hạn năm nào cũng vậy, khoảng từ rằm tháng giêng trở đi, một trong những dấu hiệu cho thấy những ngày tết nguyên đán chỉ vừa mới qua, là nhìn vào nhiều góc phố thường thấy chồng chất những cành đào tàn héo, và trước nhiều số nhà, dễ dàng bắt gặp những cây quất bị nhấc lên khỏi chậu đất bắt đầu vỡ tung ra, được ném ngay cạnh dòng nước chảy bên đường, chờ xe rác đến hốt.





Sinh thời đạo diễn Nguyễn Đình Nghi (qua đời đầu năm 2001) từng khái quát hai hình ảnh sâu đậm mà Hà Nội để lại trong ông là hoa và rác. Theo nghĩa này, tết nhất chính là một trong những thời điểm chính hoa trở thành rác, và cái sự kiện rác của hoa nó nói với chúng ta một vài điều mà lâu nay ta không để ý.

Rác -- chất thải nói chung --- là một cái gì rất phiền phức với nghiã vốn nó là một bộ phận của cuộc sống, nay đã thoái hóa đi. Song việc đời là thế, cái gì cũng có niên có hạn của nó, cái gì rồi cũng có thể trở thành rác cả. Thuốc quá đát dùng còn có hại, một số loại hoa đến kỳ héo còn bốc mùi khó chịu và gợi bực mình, ai giữ trong nhà mãi được ?



Nay là thời các thứ bao bì được làm rất đẹp, một hộp bánh mua về ăn hết rồi, nhiều người già cỡ tuổi tôi trở lên thường vẫn nhìn cái hộp với sự nuối tiếc, cố nghĩ ra lý do để giữ nó lại. Nhưng cái gì cũng giữ -- lọ đựng mấy viên thuốc cũng giữ, vỏ chai ruợu cũng giữ, hộp xốp đựng cái nồi cơm điện cái quạt cũng giữ --, thì nhà thành cái kho rồi còn gì, mà kho nào đựng hết ?

Phải tự lên dây cót một lúc như thế rồi mới cả quyết quăng mấy thứ chai hộp ấy ra rác.

Hoặc các loại báo tết, tờ nào giấy cũng trắng bìa cũng đẹp nhiều bài vở công phu nhiều nơi anh em biên tập mai phục cả năm chuẩn bị bài, nay đem bán cân cứ thấy dùng dằng.

Hoặc những quyển từ điển nó là vật tuỳ thân của mình, mua được những cuốn mới biên soạn tốt hơn mà đứng trước quyển cũ cũng phải nhấc lên bỏ xuống dăm bảy lần mới dám thay thế.

Rồi cả những con người nữa, người hôm qua rất được việc, nhưng hôm nay quá lứa nhỡ thì, vậy xử lý sao đây cho được cả tình lẫn lý.

Cứ vẩn vơ mãi với khúc Người ơi người ở đừng về.

Thay thì thấy áy náy, mà để nguyên thì hỏng việc. Ác một nỗi, người lại không ghi thời gian sử dụng như thuốc và không phải bao giờ cũng héo hon trông thấy như hoa, sự tình nghĩa khiến cả họ cả làng sống chung với loại di luỵ này hàng ngày mà không biết làm thế nào cho phải.

Người ta hình như không hay nghĩ nhiều về rác. Có cái gì thừa vứt ra đường cho xong. Khi riêng mình phải chịu đựng thì nó là rác, vứt ra đường thiên hạ chịu chung thì nó không là gì cả.

Vậy đó, trong thái độ của một con người đối với rác bộc lộ đủ thứ:

-- quan niệm của anh về sự vận động, sự đào thải của cuộc sống;

-- mức độ trưởng thành của anh về mặt ý thức (anh đã biết nghĩ về cả xã hội, đã hiểu rằng đang sống chung với xã hội chưa, hay là mới chỉ biết lo cho bản thân mình và gia đình mình?) ;

--thái độ của anh với cuộc sống ( anh vốn thực sự chi chút nâng niu nó và đòi hỏi cao về nó, hay thế nào cũng xong kiểu gì cũng được ? ).

...

Nói tóm lại thái độ một con người đối với rác biểu lộ một phần trình độ sống của người đó.

Lúc rỗi ngồi nghĩ viển vông -- giá như có dịp được đi nước ngoài một cách nhẩn nha, sẽ để công nghiên cứu cái cách của mỗi nước đối với rác thải.

Cuối 2003 nghe tin là ở Nhật có loại máy gọn nhỏ chuyên chế biến rác cho từng gia đình. Giá kể không đắt quá, có lẽ nên khuyến khích để mỗi gia đình mua một cái.

Thôi lan man kiểu này thì không biết đến đâu là cùng.

Chỉ biết trước mắt chúng ta nhiều rác quá.

Ai đó từng nói đùa về rác ở một lễ hội “nếu dồn tất cả rác đã xả ra, người ta có thể chôn cái di tích ấy như chơi “. Câu nói pha chút thậm xưng nhưng không phải là không có một chút hạt nhân hợp lý, cần nhắc lại ở đây như một lời nhắn gửi với cả người kiếm sống ở hội lẫn người thích đi các loại hội hè.

Về mặt nhận thức, hãy tự nhủ “Khi anh say sưa chọn lấy ít bông hoa đẹp và sung sướng đặt nó vào lọ thì cũng phải nhớ tới cái lúc nhấc nó ra khỏi lọ, và ném nó ra khỏi nhà ! “. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta ghi nhớ cái điều có vẻ khinh bạc đó, nhất là cuộc sống hiện đại.



Đã in Nhân nào quả ấy, 2003
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2014 20:18

January 2, 2014

Thầy không ra thầy, thợ không ra thợ

Nhìn vào các nghề thủ công, nhiều người có tuổi và kỹ tính một chút thường nhận ngay ra rằng nếu so với một người thợ ngày xưa thì thợ bây giờ non tay hơn nhiều. Những ngôi đình ngôi chùa nổi tiếng, giá bảo bây giờ dựng lại không sao dựng nổi. Thử đặt những cái chuông cũ trước cánh thợ đúc, những pho tượng trước cánh thợ mộc… Có cho tiền tỉ các vị cũng lắc đầu không dám nhận làm.




Nói tới thợ thủ công là phải nói sự tinh tế, cái hoa tay. Thợ bây giờ hơn hẳn người xưa ở các phương tiện hiện đại trợ giúp. Nhưng máy móc, trong khi giúp con người đỡ vất vả, lại làm thui chột đi năng khiếu và sự nhạy cảm mà chỉ con người mới có.

Nhân nhà có việc cần, tôi lên chợ Gia Lâm mua một cái cuốc. Lưỡi cuốc nhập từ Trung Quốc, không nói làm gì. Nhìn vào cái cán. Xưa chỉ cán tre, nay có cán gỗ. Chết nỗi, gỗ chỉ được đẽo gọt qua loa. Chưa bao giờ tôi thấy có một cái cán cuốc nham nhở như vậy.

Đã nhiều ý kiến ghi nhận con người thời nay suy thoái so với ngày xưa. Dối trá lừa lọc làm bậy bất chấp luật pháp… Còn một khía cạnh khác đáng ghi nhận hơn: Sự lỏng lẻo trong mối quan hệ con người với công việc. Sự kém cỏi trong chất lượng sản phẩm mà họ hoàn thành.

Có lẽ không nước nào như ở nhiều cơ sở sản xuất nước ta, hàng hóa chỉ được những mẻ đầu, càng về sau càng hỏng.

Nhiều con đường mới làm đã nứt vỡ toe toét.

Đình chùa được tu bổ ngày một lai căng xa lạ.

Trong nghề viết văn viết báo, văn chương chữ nghĩa chưa bao giờ bị rẻ rúng như bây giờ. Người viết viết bừa viết ẩu, người duyệt bài cứ ký đại đi cho in – chỉ cốt không sai chính trị, còn tội lỗi gì cũng tha bổng hết.



Xảy ra tình trạng lộn xộn không chỉ do sự dễ dãi thiếu chuẩn mực cùng sự kém cỏi của những người cầm trịch mà còn do sự tha hóa của bản thân người lao động. Nhiều người thiếu hẳn sự tha thiết với công việc hàng ngày vốn là lẽ sống của mình. Cứ ngong ngóng những chuyện đâu đâu trong khi chính nghề nghiệp bị thả nổi.

Ở Hà Nội những năm sau 1954 có một tình trạng khá kỳ quặc. Chủ nghĩa bình quân bộc lộ ra thành những biến tướng kỳ lạ. Những người lao động đơn giản được tôn lên vị trí rất cao trong khi người trí thức thì lại luôn luôn bị đặt thành vấn đề. Trước mắt là phải cải tạo họ bằng những thứ lao động đơn giản, người ta bảo vậy!

Ở nhiều cơ quan, người dọn dẹp vệ sinh (lúc ấy gọi là lao công) được bố trí đi học văn hóa ngay trong giờ làm việc, còn các nhân viên "bàn giấy" thì phải bỏ việc của mình đi làm những việc như lau nhà lau cửa, dọn dẹp vệ sinh. Công thức tóm lại là “Người quét rác đi học văn hóa, các nhà khoa học lo đi quét rác”. Từ đây đẻ ra cái tình trạng nhấp nhổm, chả ai yên tâm làm việc gì.



Trong các cuốn lịch sử nghệ thuật Nhật Bản, tôi đọc thấy họ hay nói là có những người theo nghề một cách hết lòng tới mức có những cô gái tự nguyện không lấy chồng để yên tâm cống hiến cả đời cho nghề.

Ở ta thì lâu lắm tôi không nghe thấy nói có ai “điên” kiểu ấy. Kiểu sống hết mình với một niềm tin nào đó được coi là lập dị và không chấp nhận được. Khi chuyển hóa vào trong cách ứng xử người lao động, nó hiện ra thành sự coi thường những việc nhỏ mọn.

Trong điều kiện một nước mới chuyển từ nông nghiệp lên hiện đại, xưa phố xá đi đâu cũng gặp những người thợ chữa những thứ lặt vặt như chữa khóa chữa giày. Nay thì nghề này ngày càng ít người làm.

Thằng cháu con đứa em tôi đang ở bên Đức thỉnh thoảng về chơi. Nó kể thời học đại học, mùa hè nó đi vác lợn trong lò sát sinh rồi lái xe chở lợn đến các cửa hàng. Nghe chuyện, hàng xóm bảo nhau: Ở Việt Nam không ai làm thế. Thanh thiếu niên có nghèo mấy nhưng bảo đi làm những việc phải đổ mồ hôi  là lảng xa. Nhiều gia đình ngấm ngầm khuyến khích con cái khôn ranh lừa lọc hơn là lặng lẽ trau dồi nghề nghiệp.



Sự hư hỏng công nhiên phô phang ra và biến thành sự trơ tráo không biết từ lúc nào. Những tiền đề tạo nên sự vô cảm, bạo lực ngày một tích tụ. Những nghề phục vụ ăn chơi đàng điếm chưa bao giờ phát triển nhiều như bây giờ, tuy ngó vào thì thấy cả ở đây nữa, người ta chỉ có một trình độ nghề nghiệp loàng xoàng
1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 02, 2014 19:54

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.