Vương Trí Nhàn's Blog, page 75
April 2, 2014
Ba bài viết ngắn về Xuân Diệu
Khả năng tỏa sáng
Hè 1939, nhân cái
chết của Tản Đà , Xuân Diệu từng viết đại ý: anh – tức Xuân Diệu khi đó mới 23 tuổi – sẽ mang tiếng là người
bội bạc nếu không nhắc lại những kỉ niệm thuở nhỏ từng yêu thơ Tản Đà ra sao.
Những ngày này, khi Xuân Diệu nằm xuống, nhiều thế hệ nhà văn Việt Nam cũng sẽ
nói như vậy: Chắc chắn chúng ta sẽ mang tiếng bội bạc, nếu không ghi nhận những
đóng góp của Xuân Diệu trong cuộc đời văn học của mỗi người.
Chúng ta biết ơn một Xuân Diệu – nhà thơ. Bây giờ mà nói yêu
thơ Xuân Diệu hồi Thơ Mới, nghe như cổ cổ thế nào ấy! Nhưng quả thật với lớp
người ở lứa tuổi như tôi, chúng tôi đã vào nghề cùng với việc nhập tâm những bài
thơ, nhiều câu thơ của Xuân Diệu , từ Huy
hoàng trăng rộng nguy nga gió, từ Hoa
bưởi thơm rồi đêm đã khuya ngày nào, tới những câu thơ anh mới viết một hai
chục năm gần đây, loại như Vai anh khi để
đầu em tựa, Cân cả buồn vui của cuộc đời. Mà những câu thơ như thế nhiều
lắm.
Chúng ta biết ơn một
Xuân Diệu -- nhà văn. Đối với riêng tôi, văn xuôi Xuân Diệu luôn luôn là một cái
gì kì lạ, nếu không nói là một bí mật. Nó du dương đầy nhạc tính mà lại không
sa vào biền ngẫu; nó dồn dập như hơi thở, bề ngoài có cái vẻ rối rắm không mạch
lạc gì cả, mà rút lại vẫn trong sáng tự nhiên; nó rất gây ấn tượng.
Xuân Diệu đã dùng thứ
văn xuôi tài ba đó để viết bút kí sau những chuyến đi. Nhưng chỗ đắc dụng nhất
của văn xuôi Xuân Diệu phải kể là những bài viết về thơ Hồ Xuân Hương, Kiều, về
ca dao Nam Trung Bộ. Bên cạnh Xuân Diệu giảng rất hay về Nadim Hikmét, P.Nêruda,
A. Musset… có một Xuân Diệu chân thành cởi mở “trân trọng muôn vàn, muôn vàn
trân trọng” khi nói về các bậc thầy làm nên di sản văn học dân tộc. Chúng ta sẽ
bội bạc, nếu sau những bài đó của Xuân Diệu không tìm cách hiểu thêm và yêu
thêm các nhà thơ cổ điển Việt Nam,
như Xuân Diệu từng mong muốn.
Sau hết - thật ra, đối với một số người đây là
điều đáng nói đầu tiên – chúng ta sẽ mang tiếng là bội bạc, nếu không nhắc tới
con người tác giả Thơ Thơ, Riêng chung,Cầm
tay… người từng để lại trong chúng ta một ấn tượng hết sức mạnh mẽ về khả
năng làm việc, sức đọc, sức viết, về lòng yêu nghề và tinh thần không ngừng
trau dồi nghề nghiệp. Chỉ cần một vài lần dự họp với Xuân Diệu là người ta
không thể quên được anh với lối nói trực tiếp, nồng nhiệt, sẵn sàng bất bình phẫn
nộ nếu chưa cột được mọi người vào những ý kiến gan ruột của mình. Chỉ cần một
vài lần đến nhà đặt bài, lấy bài anh viết là người ta không thể quên được anh
với nếp làm việc tỉ mỉ, kỹ lưỡng và một quan niệm sống thiết thực, luôn luôn
chú trọng hiệu quả cụ thể.
“Lòng Xuân Hương là lửa, tay Xuân Hương có điện”.
Xuân Diệu đã viết về Bà chúa thơ Nôm như vậy. Bởi cái lửa, cái điện ấy luôn
luôn thấy cháy lên, nhói lên ở chính anh, trong cái cách Xuân Diệu sống và
viết. Có việc gì dính dáng đến văn học mà anh ngại ngần! Vâng, so với người
khác, anh đã làm được rất nhiều, trước tác của anh bằng sự nghiệp vài ba người
khác cộng lại. Nhưng lúc nào anh cũng lo để làm nữa, làm nữa.
Như hôn
mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu
bờ lắm lắm bờ ơi!
Cái không thỏa, cái lắm lắm ấy, là hồn cốt của
thơ anh, của con người anh mà không hề giấu giếm!
… Trong số những kỷ niệm làm việc với Xuân Diệu,
tôi nhớ lần gặp anh trước cửa Hội Nhà Văn hơn một năm trước khi anh mất. Theo
chủ trương của nhà xuất bản Tác phẩm mới
nơi tôi công tác, tôi tìm cách gợi ý để Xuân Diệu viết hồi ký về cuộc đời mình.
Dĩ nhiên là Xuân Diệu không nhận vì anh cho rằng còn lâu mới đến lúc ấy, trước
mắt anh còn nhiều việc cần hơn và phải làm ngay. Chúng tôi nói lan man sang một
ít chuyện khác và để trở lại với đề nghị viết hồi ký của mình, tôi buột miệng:
-
Tưởng như đã
viết rất nhiều, nhưng còn bao nhiêu chỗ, chính Xuân Diệu chưa khai thác hết mình!
Lần đầu tiên tôi thấy ở Xuân Diệu có một thoáng
buồn, một chút như là chạnh lòng. Chẳng lẽ là như thế chăng, một người đã chịu
viết như anh lại còn nhiều điều chưa viết?
Như thế chẳng là buồn lắm sao!
Một
chút chạnh lòng hôm ấy ở Xuân Diệu – như bao nhiêu sự hứng khởi, sự bền bỉ ở
anh bấy lâu, như bản thân công việc của Xuân Diệu xưa nay – truyền sang cho tôi,
người đang nói chuyện với anh, một lòng
ham muốn khôn cùng: ham sống, ham viết, muốn dồn tất cả những gì đã sống lên
trang viết.
Sự sống
chẳng bao giờ chán nản: tôi nghĩ
rằng ấy là một trong những câu thơ đáng khắc lên mộ một con người sống và làm
việc không biết mệt mỏi này.
Và tôi xin nhắc lại: Chúng ta sẽ chịu tiếng là
bội bạc nếu quên đi không ghi nhận sức tỏa sáng ấy của Xuân Diệu giữa mọi
người. Có phải dễ dàng gì để lúc nào trong đời cũng gặp được một người như vậy!
19- 12- 1985
Bài viết cho
báo Văn Nghệ, ngày Xuân Diệu
qua đời
Xuân Diệu và Hà Nội
Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại
hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957),
Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà
Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.
- Thưa chị,
trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế.
Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh
khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi
mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông
của chị. Ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào,
cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy
đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ
thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em
thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh
quí báu, hiếm hoi...”.
Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà
một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà
Nội.
Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú
tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu
thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở
hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như
kỳ diệu.
“Tôi được
đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó
còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có
thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nẩy nở lần thứ hai... Đi vào những trại trồng
hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoà đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi 18, 19
như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.
Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến
tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với
miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.
Trên phưong diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ
rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn trào lên mạnh mẽ
hơn.
Ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản
Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm
hỏi .
Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một Ngày nay, nơi
Xuân Diệu bước vào nghề làm báo hỏi không vui sao được .
Quan trọng nhất, ở Hà Nội, Xuân Diệu quả quyết nhập bằng được vào Tự lực văn đoàn và trở thành một thành viên của cái văn đoàn lừng lẫy một thời này.
Cùng làm Ngày nay có người bá chủ thi đàn đương thời là Thế Lữ. Tác giả
Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ
thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những
trang đề tựa.
Các sách văn học sử về sau thường ghi Thế Lữ đã nhường ngôi bá chủ thi đàn cho nhà thơ mới chuyển từ Quy Nhơn ra Hà Nội.
Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của Xuân Diệu in
báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng
một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch
Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và
v.v...
Những chi
tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã sống tự nhiên hòa hợp
trong vòng tay các đồng nghiệp, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng
nghiệp... mà ngòi bút có thêm cái hứng khởi của một người tìm ra chính mình.
Trường hợp của ông chỉ chứng tỏ cái quy luật chắc
chắn là đúng với đời sống tiền chiến: Người ta chỉ trở thành nhà văn khi về với
thủ đô, bản thân trở thành một bộ phận của đời sống văn học văn học thủ đô.
Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái
chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho
nó thêm mềm mại sâu sắc hơn.
Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình
thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức,
năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại
lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác
phẩm theo thứ tự thời gian in ở
cuối sách.
Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội trước cách mạng, Xuân
Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc.
Những trang văn xuôi của tác giả in trên Ngày
nay, trước khi đưa vào Phấn thông vàng có một không khí buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm
hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách
mạng mà ở người khác không thật rõ.
Nơi ở của một người bạn hiện ra dưới ngòi bút ông
với vẻ đa dạng của cái buồn:
“Tôi biết
nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không
rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng
không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng
tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải
của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:
“Đoạn
đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một
ngõ hẻm. Đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu,
không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. Ánh sáng không
chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi
chiều dài. Ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để
vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách
mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân
Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra
sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ
nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.
Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã
quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...
Trong Những bước đường tư tưởng của tôi,
ông kể:
“Năm
1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết
văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và
giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.
Trước
khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo
nói trên, Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. Trong ngôi nhà này
Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Lưu
Trọng Lư từ miền trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi
bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san , và đặc biệt làm cho tờ Tao đàn, lương
mỗi tháng sáu chục đồng.
Nhưng
bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên
tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm.
Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy
hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người.
Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng.
Xuân Diệu
nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách
thơ”, thật là cụ thể.
Có lẽ là
nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân
Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy
Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.
Khi nghe
tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước
mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng
gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói ngay lúc đó. Hà Nội bây giờ là
cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy
nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo
thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây.
Ngoài ra, phải nói là từ sau
cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ
Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến
Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân...
Trong khi đường trăng- đường
thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc
hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những
con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu hối hả gấp gáp " Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứ" của thời trẻ.
1984
Đã
in trong Một số nhà văn VN hôm nay với Hà
Nội, 1986
Toà ngang
dãy dọc đồ sộ,
nhưng sau đó sao đây?
Nhân việc
xuất bản toàn tập Xuân Diệu, 2001
I
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi nghe tin Toàn
tập Xuân Diệu được in ra là ở dưới
suối vàng, nhà thơ chắc rất sung sướng.
Còn nhớ những
quyển sách đầu tiên của Xuân Diệu mà chúng tôi được đọc sau khi Hà Nội đươc
tiếp quản (tháng 10/1954).
Mặc dầu sách ra
đời ngay trong lòng Việt Bắc kháng chiến nghĩa là được in trên giấy dó làm theo
lối thủ công chỗ dày chỗ mỏng không đều,
mặt giấy nhiều khi còn lẫn cả một mẩu rơm -- như Xuân Diệu từng tả khi nói về những số Văn nghệ đầu
tiên; và mặc dầu đó chỉ là những tập thơ mỏng, song sau trang một đề tên sách,
lật đến trang hai, bao giờ chúng tôi cũng tìm thấy một dấu
hiệu riêng của Xuân Diệu: phải có cái mục Cùng một tác giả, ở đó nhà thơ
trình với độc giả cho đến thời điểm ấy ông đã có bao nhiêu đầu sách.
Sau này sách
in đẹp hơn giấy trắng hơn thì việc liệt kê việc mình đã làm càng được Xuân Diệu
xem trọng, và nhìn qua những cuốn sách ông soạn trong những năm cuối đời chúng
tôi đôi khi phải bái phục chẳng riêng vì nội dung sách và khối lượng công việc
- điều này thì tất nhiên rồi - mà phục
ngay ở cái cách ông tận tuỵ với mình, ghi chép bằng hết những gì đã viết.
Từ những trang Cùng một tác giả đó, trong
lòng chúng tôi, Xuân Diệu hiện ra như
một người làm nghề chuyên nghiệp hơn ai hết.
Trong khi nhiều nhà văn nhà thơ ở Việt Nam
không thích nói nhiều về những gì mình đã làm, họ muốn tỏ ra khiêm tốn, muốn chứng tỏ rằng mình nhìn đời một cách hư
vô sao cũng được và cái chính là vì họ dừng
lại ở một quan niệm khá tài tử về chuỵện cầm bút, thì Xuân Diệu không
thế.
Học theo Tản Đà
hồi nào, ông có ý thức rằng mình có quyền tồn tại như một thi sĩ, mình là người
có nghề đàng hoàng và trong nghề này ai chăm chỉ siêng năng hơn người đó đáng
đươc kính trọng hơn.
Có một câu nói
Xuân Diệu hay nhắc lại với cánh chúng tôi - những người thường được mệnh danh
là lực lượng trẻ trong những năm chống Mỹ
đại ý: các cậu còn trẻ quá các cậu hay phung phí sức lực. Còn mình ấy ư,
Xuân Diệu này chỉ tồn tại nhờ biết dồn sức mạnh của năm ngón tay thành sức mạnh
chung của một nắm đấm.
Và Xuân Diệu đã làm đúng như
vậy. Điều mà ông sợ nhất là sự dang dở. Làm
gì ông cũng muốn đào cùng tát cạn.
Lại nhớ một câu thơ tự thuật
của Xuân Diệu : Rất tồi toán pháp khá văn chương. Có thể là điểm toán của ông khi đi học không cao, nhưng
sự tính toán của ông cho đời mình thì chẳng xoàng tí nào cả.
Khả năng nhìn xa trông rộng ; sự
lịch lãm trong nghề; vốn hiểu biết phong phú; và thói quen lao động cật
lực...bấy nhiêu yếu tố dồn cả lại làm nên một sự nghiệp mà ngày nay nhìn lại
qua bộ toàn tập sáu cuốn mới in phải nói là một thứ toà ngang dãy dọc đồ sộ.
Trong từng lúc từng chỗ có thể
nói con người này là một thi sĩ bẩm sinh luôn
luôn mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Nhưng nhìn chung cả một đời
người thì lại có thể nói là ông rất
tỉnh. Ông tìm cách huy động tất cả những gì vốn có.
Cũng tức là ông đã tìm ra được cái cách hữu hiệu nhât để
vắt kiệt sức lực của mình.
Và ông muốn chung quanh ghi nhận
cho ông cái nỗ lực ông đặt vào công việc.
Ai đã từng có lần ngồi nghe Xuân Diệu
nói chuyện thơ hẳn nhớ ông rất chú ý tạo không khí cho buổi trình diện của
mình, phải thêm lọ hoa như thế này, phải đặt mi-cơ-rô như thế kia và sau những
đoạn nói hay người nghe phải ủng hộ diễn giả bằng cách vỗ tay ra sao...
Thành thử những hình thức tổng
kết về một tác giả như làm tuyển tập làm toàn tập là nằm trong sự tính toán của
ông.
Ông luôn ước ao một sự trình diện đầy đặn, một sự kỉểm kê chặt chẽ chính
xác ngay về số lượng, tức những gì ông đã làm được mang bày hết và ông muốn có
được cái hình thức tồn tại như nhiều nhà văn nhà thơ của thế kỷ này đã được
hưởng.
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Có thể mượn lại câu Kiều đó để
diễn tả sự hoan hỉ mà Xuân Diệu dành cho toàn tập nếu như ông còn sống.
II
Thế nhưng sau khi đã thông cảm với
niềm ao ước khôn nguôi của Xuân Diệu và mừng cho tác giả, có lẽ sẽ không có gì
là quá nếu với tư cách bạn đọc, chúng ta thử nêu lên một ít điều ước ao thêm từ
bộ sách sáu tập dày cộp này.
Những ngày
đầu 1945, trong một buổi nói chuyện với các bạn sinh viên lúc ấy, tác giả Thơ thơ có nêu một căn bệnh mà theo ông là phổ biến ở dân mình, ấy là
bệnh chuộng hình thức, làm cái gì cũng muốn làm thật to, sơn phết cho thật hào
nhoáng.
Ông gọi đó là
bệnh voi nan (Toàn tập mới in, tập 3, trang 18).
Vậy mà, hỡi
ôi, với căn bệnh mà ông chế giễu đó, ông đâu có tìm được vắc-xin miễn dịch !
Ông từng có
lý luận cái rễ của cây cúc cũng có mùi
hăng hắc, nói nôm na là những gì do ông viết ra vẫn có cái duyên riêng mà phi Xuân
Diệu không ai viết được.
Có điều, tôi nghĩ việc gì rồi cũng phải có chừng mực.
Mặc
dù vẫn mang cái giọng riêng của Xuân Diệu, song những bài viết loàng xoàng dưới cơ so với tài năng của ông khi được đặt cạnh
nhau, lại có cái phản tác dụng kỳ lạ.
Mấy chục năm trước đọc đã mệt mỏi, đến
nay, lại càng khó ai kham nổi!
Những nhận xét
này có thể với cả những bài thơ yếu, lẫn những bài nói về kinh nghiệm làm thơ cũng như bình thơ mà ở đó
ngòi bút Xuân Diệu rơi vào dài dòng kể lể.
Cầu cho vong
linh ngưởi đã khuất tha cho kẻ hậu sinh và cũng xin đừng ai bắt bẻ tôi theo cái kiểu “Anh đã viết đươc như thế
chưa mà anh chê ?!”.
Tôi không muốn
phải chứng kiến những phút yếu đuối kém cỏi của con người mà tôi hằng yêu kính
dù tôi biết rằng bất cứ ai, kể cả các
thiên tài, cũng có những phút như thế.
Và tôi muốn đối
xử với Xuân Diệu không phải như một người đã qua đời cách đây gần mười sáu năm,
mà như một người đang sống và còn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc tương
lai.
Nhưng đây là toàn tập cơ mà -- có
bạn sẽ nhắc.
Vâng, đồng ý với bạn : một dịp kiểm kê tất cả những gì Xuân Diệu đã
viết như thế này là một việc thiết yếu
-- chẳng hạn, chính nhờ có toàn tập sáu tập hôm nay mà người ta thấy rõ hơn
những điều lâu nay tôi mới thấy
lờ mờ .
Với những ai làm công tác nghiên cứu văn học thì toàn tập này là rất cần
với điều kiện là ngoài việc khảo chứng kỹ lưỡng đồng thời người biên soạn phải tự sưu tầm lấy nhiều bài viết
lẻ rải rác đây đó của Xuân Diệu trong đó có những bài rất hay mà chưa từng được đưa vào tập sách nào.
Còn đối với đa số bạn đoc, tôi
cầu mong sớm có một người làm công việc gạn lọc để rút ra từ toàn bộ sáng tác
của Xuân Diệu khoảng độ ngàn trang gì đấy mà toàn những trang tinh tuý bộc lộ hết cỡ tài năng của Xuân Diệu.
Theo chỗ tôi biết, mặc dù rất chủ
quan và hay lo vun vén cho bản thân, nhưng Xuân Diệu cũng là người trọng lẽ
phải và biết phục thiện.
Được thấy những cuốn sách xứng đáng gọi là tinh tuyển của
mình như vậy, nhà thơ sẽ có cái hào hứng như Từ Hải gặp Kiều và sau khi khen
cho con mắt tinh đời, sẽ xem như một người tri kỷ.
Vải nét về bộ toàn tập nói ở trên
Toàn tập Xuân Diệu (6 tập) in ra ở
NXB Văn học, H.2001.
Sách do Nguyễn Bao sưu tầm biên soạn và giới thiệu. Tổng cộng
tới hơn 5.000 trang
Tập 1,1020 trang in lại toàn bộ thơ trong
các tập từ Thơ thơ đến Thanh ca, nhưng do
không chọn bài lẻ nên lại thiếu Thơ duyên, Hoa đêm, Hy mã lạp sơn…
Tập 2, 784 trang gồm các tập văn xuôi Phấn
thông vàng,Trường ca..
Tập 3, 1144 trang gồm Thanh niên với
quốc văn,Tiếng thơ, Những bước đường tư tưởng của tôi…
Tập
4, 844 trang gồm Đi trên đường lớn,Và cây đời mãi mãi xanh tươi, Mài sắt nên
kim.
Tập
5, 676 trang gồm Công việc làm thơ
và một số tác phẩm lẻ giới thiệu mấy nhà thơ Nadim Hikmet, Tagor, Tú
Mỡ, Huy Cận...
Tập
6, 896 trang, gồm các bài giới thiệu các nhà thơ cổ điển và cận đại, từ Nguyễn Trãi tới Trần Tuấn Khải.
Bài đã inTT&VH,2001
Hè 1939, nhân cái
chết của Tản Đà , Xuân Diệu từng viết đại ý: anh – tức Xuân Diệu khi đó mới 23 tuổi – sẽ mang tiếng là người
bội bạc nếu không nhắc lại những kỉ niệm thuở nhỏ từng yêu thơ Tản Đà ra sao.
Những ngày này, khi Xuân Diệu nằm xuống, nhiều thế hệ nhà văn Việt Nam cũng sẽ
nói như vậy: Chắc chắn chúng ta sẽ mang tiếng bội bạc, nếu không ghi nhận những
đóng góp của Xuân Diệu trong cuộc đời văn học của mỗi người.
Chúng ta biết ơn một Xuân Diệu – nhà thơ. Bây giờ mà nói yêu
thơ Xuân Diệu hồi Thơ Mới, nghe như cổ cổ thế nào ấy! Nhưng quả thật với lớp
người ở lứa tuổi như tôi, chúng tôi đã vào nghề cùng với việc nhập tâm những bài
thơ, nhiều câu thơ của Xuân Diệu , từ Huy
hoàng trăng rộng nguy nga gió, từ Hoa
bưởi thơm rồi đêm đã khuya ngày nào, tới những câu thơ anh mới viết một hai
chục năm gần đây, loại như Vai anh khi để
đầu em tựa, Cân cả buồn vui của cuộc đời. Mà những câu thơ như thế nhiều
lắm.
Chúng ta biết ơn một
Xuân Diệu -- nhà văn. Đối với riêng tôi, văn xuôi Xuân Diệu luôn luôn là một cái
gì kì lạ, nếu không nói là một bí mật. Nó du dương đầy nhạc tính mà lại không
sa vào biền ngẫu; nó dồn dập như hơi thở, bề ngoài có cái vẻ rối rắm không mạch
lạc gì cả, mà rút lại vẫn trong sáng tự nhiên; nó rất gây ấn tượng.
Xuân Diệu đã dùng thứ
văn xuôi tài ba đó để viết bút kí sau những chuyến đi. Nhưng chỗ đắc dụng nhất
của văn xuôi Xuân Diệu phải kể là những bài viết về thơ Hồ Xuân Hương, Kiều, về
ca dao Nam Trung Bộ. Bên cạnh Xuân Diệu giảng rất hay về Nadim Hikmét, P.Nêruda,
A. Musset… có một Xuân Diệu chân thành cởi mở “trân trọng muôn vàn, muôn vàn
trân trọng” khi nói về các bậc thầy làm nên di sản văn học dân tộc. Chúng ta sẽ
bội bạc, nếu sau những bài đó của Xuân Diệu không tìm cách hiểu thêm và yêu
thêm các nhà thơ cổ điển Việt Nam,
như Xuân Diệu từng mong muốn.
Sau hết - thật ra, đối với một số người đây là
điều đáng nói đầu tiên – chúng ta sẽ mang tiếng là bội bạc, nếu không nhắc tới
con người tác giả Thơ Thơ, Riêng chung,Cầm
tay… người từng để lại trong chúng ta một ấn tượng hết sức mạnh mẽ về khả
năng làm việc, sức đọc, sức viết, về lòng yêu nghề và tinh thần không ngừng
trau dồi nghề nghiệp. Chỉ cần một vài lần dự họp với Xuân Diệu là người ta
không thể quên được anh với lối nói trực tiếp, nồng nhiệt, sẵn sàng bất bình phẫn
nộ nếu chưa cột được mọi người vào những ý kiến gan ruột của mình. Chỉ cần một
vài lần đến nhà đặt bài, lấy bài anh viết là người ta không thể quên được anh
với nếp làm việc tỉ mỉ, kỹ lưỡng và một quan niệm sống thiết thực, luôn luôn
chú trọng hiệu quả cụ thể.
“Lòng Xuân Hương là lửa, tay Xuân Hương có điện”.
Xuân Diệu đã viết về Bà chúa thơ Nôm như vậy. Bởi cái lửa, cái điện ấy luôn
luôn thấy cháy lên, nhói lên ở chính anh, trong cái cách Xuân Diệu sống và
viết. Có việc gì dính dáng đến văn học mà anh ngại ngần! Vâng, so với người
khác, anh đã làm được rất nhiều, trước tác của anh bằng sự nghiệp vài ba người
khác cộng lại. Nhưng lúc nào anh cũng lo để làm nữa, làm nữa.
Như hôn
mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu
bờ lắm lắm bờ ơi!
Cái không thỏa, cái lắm lắm ấy, là hồn cốt của
thơ anh, của con người anh mà không hề giấu giếm!
… Trong số những kỷ niệm làm việc với Xuân Diệu,
tôi nhớ lần gặp anh trước cửa Hội Nhà Văn hơn một năm trước khi anh mất. Theo
chủ trương của nhà xuất bản Tác phẩm mới
nơi tôi công tác, tôi tìm cách gợi ý để Xuân Diệu viết hồi ký về cuộc đời mình.
Dĩ nhiên là Xuân Diệu không nhận vì anh cho rằng còn lâu mới đến lúc ấy, trước
mắt anh còn nhiều việc cần hơn và phải làm ngay. Chúng tôi nói lan man sang một
ít chuyện khác và để trở lại với đề nghị viết hồi ký của mình, tôi buột miệng:
-
Tưởng như đã
viết rất nhiều, nhưng còn bao nhiêu chỗ, chính Xuân Diệu chưa khai thác hết mình!
Lần đầu tiên tôi thấy ở Xuân Diệu có một thoáng
buồn, một chút như là chạnh lòng. Chẳng lẽ là như thế chăng, một người đã chịu
viết như anh lại còn nhiều điều chưa viết?
Như thế chẳng là buồn lắm sao!
Một
chút chạnh lòng hôm ấy ở Xuân Diệu – như bao nhiêu sự hứng khởi, sự bền bỉ ở
anh bấy lâu, như bản thân công việc của Xuân Diệu xưa nay – truyền sang cho tôi,
người đang nói chuyện với anh, một lòng
ham muốn khôn cùng: ham sống, ham viết, muốn dồn tất cả những gì đã sống lên
trang viết.
Sự sống
chẳng bao giờ chán nản: tôi nghĩ
rằng ấy là một trong những câu thơ đáng khắc lên mộ một con người sống và làm
việc không biết mệt mỏi này.
Và tôi xin nhắc lại: Chúng ta sẽ chịu tiếng là
bội bạc nếu quên đi không ghi nhận sức tỏa sáng ấy của Xuân Diệu giữa mọi
người. Có phải dễ dàng gì để lúc nào trong đời cũng gặp được một người như vậy!
19- 12- 1985
Bài viết cho
báo Văn Nghệ, ngày Xuân Diệu
qua đời
Xuân Diệu và Hà Nội
Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại
hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957),
Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà
Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.
- Thưa chị,
trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế.
Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh
khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi
mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông
của chị. Ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào,
cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy
đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ
thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em
thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh
quí báu, hiếm hoi...”.
Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà
một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà
Nội.
Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú
tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu
thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở
hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như
kỳ diệu.
“Tôi được
đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó
còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có
thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nẩy nở lần thứ hai... Đi vào những trại trồng
hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoà đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi 18, 19
như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.
Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến
tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với
miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.
Trên phưong diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ
rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn trào lên mạnh mẽ
hơn.
Ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản
Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm
hỏi .
Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một Ngày nay, nơi
Xuân Diệu bước vào nghề làm báo hỏi không vui sao được .
Quan trọng nhất, ở Hà Nội, Xuân Diệu quả quyết nhập bằng được vào Tự lực văn đoàn và trở thành một thành viên của cái văn đoàn lừng lẫy một thời này.
Cùng làm Ngày nay có người bá chủ thi đàn đương thời là Thế Lữ. Tác giả
Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ
thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những
trang đề tựa.
Các sách văn học sử về sau thường ghi Thế Lữ đã nhường ngôi bá chủ thi đàn cho nhà thơ mới chuyển từ Quy Nhơn ra Hà Nội.
Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của Xuân Diệu in
báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng
một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch
Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và
v.v...
Những chi
tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã sống tự nhiên hòa hợp
trong vòng tay các đồng nghiệp, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng
nghiệp... mà ngòi bút có thêm cái hứng khởi của một người tìm ra chính mình.
Trường hợp của ông chỉ chứng tỏ cái quy luật chắc
chắn là đúng với đời sống tiền chiến: Người ta chỉ trở thành nhà văn khi về với
thủ đô, bản thân trở thành một bộ phận của đời sống văn học văn học thủ đô.
Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái
chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho
nó thêm mềm mại sâu sắc hơn.
Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình
thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức,
năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại
lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác
phẩm theo thứ tự thời gian in ở
cuối sách.
Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội trước cách mạng, Xuân
Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc.
Những trang văn xuôi của tác giả in trên Ngày
nay, trước khi đưa vào Phấn thông vàng có một không khí buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm
hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách
mạng mà ở người khác không thật rõ.
Nơi ở của một người bạn hiện ra dưới ngòi bút ông
với vẻ đa dạng của cái buồn:
“Tôi biết
nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không
rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng
không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng
tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải
của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:
“Đoạn
đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một
ngõ hẻm. Đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu,
không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. Ánh sáng không
chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi
chiều dài. Ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để
vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách
mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân
Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra
sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ
nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.
Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã
quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...
Trong Những bước đường tư tưởng của tôi,
ông kể:
“Năm
1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết
văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và
giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.
Trước
khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo
nói trên, Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. Trong ngôi nhà này
Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Lưu
Trọng Lư từ miền trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi
bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san , và đặc biệt làm cho tờ Tao đàn, lương
mỗi tháng sáu chục đồng.
Nhưng
bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên
tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm.
Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy
hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người.
Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng.
Xuân Diệu
nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách
thơ”, thật là cụ thể.
Có lẽ là
nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân
Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy
Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.
Khi nghe
tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước
mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng
gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói ngay lúc đó. Hà Nội bây giờ là
cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy
nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo
thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây.
Ngoài ra, phải nói là từ sau
cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ
Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến
Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân...
Trong khi đường trăng- đường
thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc
hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những
con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu hối hả gấp gáp " Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứ" của thời trẻ.
1984
Đã
in trong Một số nhà văn VN hôm nay với Hà
Nội, 1986
Toà ngang
dãy dọc đồ sộ,
nhưng sau đó sao đây?
Nhân việc
xuất bản toàn tập Xuân Diệu, 2001
I
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi nghe tin Toàn
tập Xuân Diệu được in ra là ở dưới
suối vàng, nhà thơ chắc rất sung sướng.
Còn nhớ những
quyển sách đầu tiên của Xuân Diệu mà chúng tôi được đọc sau khi Hà Nội đươc
tiếp quản (tháng 10/1954).
Mặc dầu sách ra
đời ngay trong lòng Việt Bắc kháng chiến nghĩa là được in trên giấy dó làm theo
lối thủ công chỗ dày chỗ mỏng không đều,
mặt giấy nhiều khi còn lẫn cả một mẩu rơm -- như Xuân Diệu từng tả khi nói về những số Văn nghệ đầu
tiên; và mặc dầu đó chỉ là những tập thơ mỏng, song sau trang một đề tên sách,
lật đến trang hai, bao giờ chúng tôi cũng tìm thấy một dấu
hiệu riêng của Xuân Diệu: phải có cái mục Cùng một tác giả, ở đó nhà thơ
trình với độc giả cho đến thời điểm ấy ông đã có bao nhiêu đầu sách.
Sau này sách
in đẹp hơn giấy trắng hơn thì việc liệt kê việc mình đã làm càng được Xuân Diệu
xem trọng, và nhìn qua những cuốn sách ông soạn trong những năm cuối đời chúng
tôi đôi khi phải bái phục chẳng riêng vì nội dung sách và khối lượng công việc
- điều này thì tất nhiên rồi - mà phục
ngay ở cái cách ông tận tuỵ với mình, ghi chép bằng hết những gì đã viết.
Từ những trang Cùng một tác giả đó, trong
lòng chúng tôi, Xuân Diệu hiện ra như
một người làm nghề chuyên nghiệp hơn ai hết.
Trong khi nhiều nhà văn nhà thơ ở Việt Nam
không thích nói nhiều về những gì mình đã làm, họ muốn tỏ ra khiêm tốn, muốn chứng tỏ rằng mình nhìn đời một cách hư
vô sao cũng được và cái chính là vì họ dừng
lại ở một quan niệm khá tài tử về chuỵện cầm bút, thì Xuân Diệu không
thế.
Học theo Tản Đà
hồi nào, ông có ý thức rằng mình có quyền tồn tại như một thi sĩ, mình là người
có nghề đàng hoàng và trong nghề này ai chăm chỉ siêng năng hơn người đó đáng
đươc kính trọng hơn.
Có một câu nói
Xuân Diệu hay nhắc lại với cánh chúng tôi - những người thường được mệnh danh
là lực lượng trẻ trong những năm chống Mỹ
đại ý: các cậu còn trẻ quá các cậu hay phung phí sức lực. Còn mình ấy ư,
Xuân Diệu này chỉ tồn tại nhờ biết dồn sức mạnh của năm ngón tay thành sức mạnh
chung của một nắm đấm.
Và Xuân Diệu đã làm đúng như
vậy. Điều mà ông sợ nhất là sự dang dở. Làm
gì ông cũng muốn đào cùng tát cạn.
Lại nhớ một câu thơ tự thuật
của Xuân Diệu : Rất tồi toán pháp khá văn chương. Có thể là điểm toán của ông khi đi học không cao, nhưng
sự tính toán của ông cho đời mình thì chẳng xoàng tí nào cả.
Khả năng nhìn xa trông rộng ; sự
lịch lãm trong nghề; vốn hiểu biết phong phú; và thói quen lao động cật
lực...bấy nhiêu yếu tố dồn cả lại làm nên một sự nghiệp mà ngày nay nhìn lại
qua bộ toàn tập sáu cuốn mới in phải nói là một thứ toà ngang dãy dọc đồ sộ.
Trong từng lúc từng chỗ có thể
nói con người này là một thi sĩ bẩm sinh luôn
luôn mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Nhưng nhìn chung cả một đời
người thì lại có thể nói là ông rất
tỉnh. Ông tìm cách huy động tất cả những gì vốn có.
Cũng tức là ông đã tìm ra được cái cách hữu hiệu nhât để
vắt kiệt sức lực của mình.
Và ông muốn chung quanh ghi nhận
cho ông cái nỗ lực ông đặt vào công việc.
Ai đã từng có lần ngồi nghe Xuân Diệu
nói chuyện thơ hẳn nhớ ông rất chú ý tạo không khí cho buổi trình diện của
mình, phải thêm lọ hoa như thế này, phải đặt mi-cơ-rô như thế kia và sau những
đoạn nói hay người nghe phải ủng hộ diễn giả bằng cách vỗ tay ra sao...
Thành thử những hình thức tổng
kết về một tác giả như làm tuyển tập làm toàn tập là nằm trong sự tính toán của
ông.
Ông luôn ước ao một sự trình diện đầy đặn, một sự kỉểm kê chặt chẽ chính
xác ngay về số lượng, tức những gì ông đã làm được mang bày hết và ông muốn có
được cái hình thức tồn tại như nhiều nhà văn nhà thơ của thế kỷ này đã được
hưởng.
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Có thể mượn lại câu Kiều đó để
diễn tả sự hoan hỉ mà Xuân Diệu dành cho toàn tập nếu như ông còn sống.
II
Thế nhưng sau khi đã thông cảm với
niềm ao ước khôn nguôi của Xuân Diệu và mừng cho tác giả, có lẽ sẽ không có gì
là quá nếu với tư cách bạn đọc, chúng ta thử nêu lên một ít điều ước ao thêm từ
bộ sách sáu tập dày cộp này.
Những ngày
đầu 1945, trong một buổi nói chuyện với các bạn sinh viên lúc ấy, tác giả Thơ thơ có nêu một căn bệnh mà theo ông là phổ biến ở dân mình, ấy là
bệnh chuộng hình thức, làm cái gì cũng muốn làm thật to, sơn phết cho thật hào
nhoáng.
Ông gọi đó là
bệnh voi nan (Toàn tập mới in, tập 3, trang 18).
Vậy mà, hỡi
ôi, với căn bệnh mà ông chế giễu đó, ông đâu có tìm được vắc-xin miễn dịch !
Ông từng có
lý luận cái rễ của cây cúc cũng có mùi
hăng hắc, nói nôm na là những gì do ông viết ra vẫn có cái duyên riêng mà phi Xuân
Diệu không ai viết được.
Có điều, tôi nghĩ việc gì rồi cũng phải có chừng mực.
Mặc
dù vẫn mang cái giọng riêng của Xuân Diệu, song những bài viết loàng xoàng dưới cơ so với tài năng của ông khi được đặt cạnh
nhau, lại có cái phản tác dụng kỳ lạ.
Mấy chục năm trước đọc đã mệt mỏi, đến
nay, lại càng khó ai kham nổi!
Những nhận xét
này có thể với cả những bài thơ yếu, lẫn những bài nói về kinh nghiệm làm thơ cũng như bình thơ mà ở đó
ngòi bút Xuân Diệu rơi vào dài dòng kể lể.
Cầu cho vong
linh ngưởi đã khuất tha cho kẻ hậu sinh và cũng xin đừng ai bắt bẻ tôi theo cái kiểu “Anh đã viết đươc như thế
chưa mà anh chê ?!”.
Tôi không muốn
phải chứng kiến những phút yếu đuối kém cỏi của con người mà tôi hằng yêu kính
dù tôi biết rằng bất cứ ai, kể cả các
thiên tài, cũng có những phút như thế.
Và tôi muốn đối
xử với Xuân Diệu không phải như một người đã qua đời cách đây gần mười sáu năm,
mà như một người đang sống và còn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc tương
lai.
Nhưng đây là toàn tập cơ mà -- có
bạn sẽ nhắc.
Vâng, đồng ý với bạn : một dịp kiểm kê tất cả những gì Xuân Diệu đã
viết như thế này là một việc thiết yếu
-- chẳng hạn, chính nhờ có toàn tập sáu tập hôm nay mà người ta thấy rõ hơn
những điều lâu nay tôi mới thấy
lờ mờ .
Với những ai làm công tác nghiên cứu văn học thì toàn tập này là rất cần
với điều kiện là ngoài việc khảo chứng kỹ lưỡng đồng thời người biên soạn phải tự sưu tầm lấy nhiều bài viết
lẻ rải rác đây đó của Xuân Diệu trong đó có những bài rất hay mà chưa từng được đưa vào tập sách nào.
Còn đối với đa số bạn đoc, tôi
cầu mong sớm có một người làm công việc gạn lọc để rút ra từ toàn bộ sáng tác
của Xuân Diệu khoảng độ ngàn trang gì đấy mà toàn những trang tinh tuý bộc lộ hết cỡ tài năng của Xuân Diệu.
Theo chỗ tôi biết, mặc dù rất chủ
quan và hay lo vun vén cho bản thân, nhưng Xuân Diệu cũng là người trọng lẽ
phải và biết phục thiện.
Được thấy những cuốn sách xứng đáng gọi là tinh tuyển của
mình như vậy, nhà thơ sẽ có cái hào hứng như Từ Hải gặp Kiều và sau khi khen
cho con mắt tinh đời, sẽ xem như một người tri kỷ.
Vải nét về bộ toàn tập nói ở trên
Toàn tập Xuân Diệu (6 tập) in ra ở
NXB Văn học, H.2001.
Sách do Nguyễn Bao sưu tầm biên soạn và giới thiệu. Tổng cộng
tới hơn 5.000 trang
Tập 1,1020 trang in lại toàn bộ thơ trong
các tập từ Thơ thơ đến Thanh ca, nhưng do
không chọn bài lẻ nên lại thiếu Thơ duyên, Hoa đêm, Hy mã lạp sơn…
Tập 2, 784 trang gồm các tập văn xuôi Phấn
thông vàng,Trường ca..
Tập 3, 1144 trang gồm Thanh niên với
quốc văn,Tiếng thơ, Những bước đường tư tưởng của tôi…
Tập
4, 844 trang gồm Đi trên đường lớn,Và cây đời mãi mãi xanh tươi, Mài sắt nên
kim.
Tập
5, 676 trang gồm Công việc làm thơ
và một số tác phẩm lẻ giới thiệu mấy nhà thơ Nadim Hikmet, Tagor, Tú
Mỡ, Huy Cận...
Tập
6, 896 trang, gồm các bài giới thiệu các nhà thơ cổ điển và cận đại, từ Nguyễn Trãi tới Trần Tuấn Khải.
Bài đã inTT&VH,2001
Published on April 02, 2014 07:27
March 31, 2014
Thơ tình và con người riêng tư trong thơ Xuân Diệu sau 1945
Bài đã in trên blog này
ngày 23-3-2010
Những thích ứng với hoàn cảnh đã làm
nên sự thay đổi lớn lao trong số phận một nhà thơ. Với
Cách mạng và kháng chiến, một Xuân Diệu từng mang tiếng
là chỉ biết mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây không chỉ trở thành một nhà thơ công
dân sôi nổi mà còn nhà thơ tình có một cảm quan rất thực tế, luôn luôn biết
chăm sóc đến những cái nho nhỏ bình thường trong đời sống, đồng thời lại
tự mở rộng trong việc ghi lại những xúc cảm đa dạng ở con người.
Chữ bình thường vốn có thể hiểu với nhiều nghĩa khác nhau. Thời tiền
chiến, bình thường ở Xuân Diệu có hàm ý thiên về cuộc sống trần trần mà ai cũng
thấy hàng ngày. Ông đã có dịp bộc lộ điều này qua những lời chê trách Hàn
Mặc Tử. Với ông, thơ Hàn nhiều khi như tiếng nói của kẻ trần truồng
đi ngoài phố, đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, miệng kêu tôi điên đây, tôi
điên đây. Ông cho Hàn là quá đáng. Và là những gì gì nữa không thể hiểu được.
Dưới cái bề ngoài giống như một bà
già lắm lời khó tính, ở đây ( cũng như nhiều lần về sau ) Xuân Diệu đã nói
thực. Ông không chịu được những gì siêu việt tức vượt lên thông thường,
hư vô, xa lạ.
Thơ tình Xuân Diệu hồi ấy đã mang dáng dấp phàm trần.
Thế nhưng người ta lại phải nói ngay rằng nó có chút
gì đó cao sang, nuột nà, quý phái.
Còn thơ từ sau 1945 có một cốt cách khác.
Nó bình thường với nghĩa mộc mạc giản dị như thứ quà của người nghèo.
Nhà thơ lắng nghe lòng mình và ghi lại đủ thứ rung
động mà người khác có thể cho là lặt vặt.
Một lần đèo người yêu trên xe đạp:
-- Em ngồi ríu rít ở
sau xe
Em nói lòng anh mải lắng nghe
Thỉnh
thoảng tiếng cười em lại điểm
Đời vui khi được có em kề.
Một lần nghe mưa, nhớ tới người yêu
đang xa cách, tự hỏi không biết giờ này em đang làm gì, để rồi thầm
nhủ:
-- Thôi em nghỉ việc khuya rồi
Chăn mưa em đắp cùng
trời với anh .
Nhìn áo mà nhớ người, cái mô-típ ca dao
ấy được một nhà thơ thời nay nhắc lại, sao có gì tội tội:
Áo
nhìn anh lại thương em
Hiểu vì vất vả cho nên vai gầy .
Ngay những lần đón nhau sau xa cách, người ta vẫn giữ được cái
chừng mực phải chăng, biết hoà tình cảm riêng của mình vào đời sống cộng
đồng :
-- Anh là quê hương của em, em trở lại nhà
Em là quê
hương của anh, anh mừng đi đón
Đó là tâm tình ngự trị ở những con người của một thời
đại quá vất vả do đó dễ sinh ra khắc kỷ.
Thuở ấy, người ta luôn
luôn phải tự nhủ rằng mình không có quyền lo cho cá nhân, không có quyền đòi
hỏi, nay không phải lúc hưởng thụ. Sự tự nguyện sống cái đời sống hàng
ngày với bao nhiêu lo toan chắt chiu nhặt nhạnh, làm thay đổi cả những cảm quan
con người bình thường.
Ai cũng biết rằng thịt bổ lắm nhưng không có thịt thôi
thì hãy khen rau là ngon; và bởi vì đã từng có phen bị đói nữa không có cả
rau mà ăn, nên cái điều kêu rau ngon vẫn chính là lời nói thật.
Nam Chi Đặng Tiến từng có sự ví von xác đáng về Xuân Diệu
giữa hai thời kỳ: "Xuân
Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần
thế cho những người ăn vì cần ăn, chứ không phải ăn
cho vui miệng. Thơ Xuân Diệu ngày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay
là manh áo nâu sứt chỉ đường tà.”
Cái điều đúng cho thơ Xuân Diệu nói chung đó càng đúng với
thơ tình nói riêng.
Trong cái vẻ bình dân cơm bụi, nhiều bài thơ tình Xuân Diệu
thời gian sau 1945 đơn sơ mộc mạc trong cách cảm cách nói.
Khi xuất thần, nó có vẻ đẹp của ca dao hoặc
thơ cổ điển, tưởng không thuộc về thời gian nào, tuy rằng nhìn kỹ thì lại vẫn
mang dấu ấn của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Mở đầu bài thơ Nguyện là hai câu nói
về những ước ao nho nhỏ:
--Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng em
Nguyện
cảnh đẹp có êm bên cạnh.
Những câu thơ như thế chỉ có thể
có ở một nhà thơ Việt Nam, mà cũng
chỉ có thể có ở Xuân Diệu. Bởi đọc lại người ta
không khỏi nhận ra cái điều nằm sâu mãi dưới đáy lòng bao nhiêu người
Việt và từng được những Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao diễn tả
theo nhiều cách khác nhau:
miếng ăn là nỗi ám ảnh con người một thời;
miếng ăn là chuyện tình
nghĩa.
Xuân Diệu cũng vậy, mặc dầu là một nhà
thơ, nhưng ông luôn xem trọng chuyện đời thường chuyện thực
tế. Ai đã có dịp gần nhà thơ đều biết, tác giả Thơ thơ hàng
ngày rất hay nói về chuyện ăn uống. Trong lúc người khác chỉ nói điều ấy
ở chỗ riêng tư thì Xuân Diệu viết thẳng nó lên mặt giấy.
Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng
em …Người đời sau có thể xem thường cái vẻ chân thành cổ cổ của người viết.
Thế nhưng cả đến ngày hôm nay nưã, chỉ những người đã có tiếp xúc nhiều với
phương Tây và dám nói lên ý nghĩ của mình một cách trực tiếp nhất,
mới có thể viết những câu như vậy.
Trong văn nghiệp của Xuân Diệu có một bộ phận
là thơ dịch.Thế hệ những người yêu thơ những năm chống
Mỹ hẳn nhớ hồi ấy có một giọng thơ bạn bè xa
lạ song lại hết sức thân thiết, nhờ Xuân Diệu mà
trở nên thân thiết, đó là thơ Blaga Dmitrova.
Lạ một điều nếu khi sáng tác và
trong việc nhìn nhận đánh giá sáng tác trong nước, Xuân Diệu rất kỵ thơ không
vần thì khi dịch Dmitrova, ông lại sử dụng thứ thơ không vần này một cách tinh
tế.
Thơ dịch bộc lộ một phía khác trong
con người nghệ thuật ở Xuân Diệu : ông phục thiện, ông tìm ra hình
thức để thích ứng với nội dung, và ông dám có những thể nghiệm.
Hơn thế nữa, có thể nói thơ dịch là nơi
ông gửi gấm tâm sự cũng tức là nơi ông nói thông qua người khác.
Trở lại với thơ tình Xuân Diệu và thử so sánh với những
bài thơ tình chính Xuân Diệu đã dịch. Một điều dễ thấy: người
thi sĩ Việt Nam vẫn có cái cách biểu hiện tình cảm
riêng của người Việt.
Thơ nhà thơ Pháp Paul Eluard :
Anh bước tới em anh bước mãi
mãi về ánh sáng
Đời có thịt xương hạnh phúc đã
căng buồm
Ánh sáng tràn trề những mộng và đêm
Hẹn với rạng đông những cái nhìn tin cậy.
Hoặc thơ nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet
:
-- Khi đạt tới em anh mới biết em
là nơi không đạt tới bao giờ.
Ngay trong thơ tình, họ vẫn có xu hướng
triết lý.
So với họ, thì thơ Xuân Diệu cũng như các nhà thơ Việt
Nam đời thường và thiết thực hơn nhiều.
Nhưng đấy là xét đại thể. Sự tiếp nhận phương Tây vẫn ngấm
dần dần, con người tự mình khác đi mà không hay
biết. Xuân Diệu cũng có lúc chạm tới triết lý. Sau đây là hai câu thơ thuộc loại " thượng thặng" của Xuân Diệu:
Vai anh khi để đầu em tựa
Cân cả buồn vui của một đời
Ở chỗ riêng tư, các nhà thơ tiền chiến riêng tôi có quen như Tế Hanh, Đào Xuân Quý... mỗi khi nói về Xuân Diệu đều nhắc tới với vẻ khâm phục.
Trong số những bài thơ Xuân Diệu đã dịch, có bài sau đây ít người để ý, nhưng
theo tôi mang rõ chất dịch giả:
THƠ NGỢI NÀNG ĐI- TÔ
RENE DEPESTRE
Những ngày mai của anh
hiện trên mặt em
Như gân
lá trên lá cây- ăn -bánh
Miệng em khi cười
như chạm trong lửa thắm
Vẻ dịu dàng ánh
lên trong đôi mắt em
Như giọt nước long
lanh trên tấm cừu sinh động mượt êm
Sóng gợn reo say trên
làn thân thể
Và lòng anh yêu da
thịt của em
Như tiếng chuông
ngân đổ hồi ròn rã
Đổ liên hồi trong máu
khiến say thêm
Anh như những dòng
sông bỏ dòng chảy cũ
Để chảy vào lòng cát sắc
em xinh
Anh như những đàn
én bay về tổ
Năm năm
về tìm trời của em xanh
Mùa lại mùa anh vững bền
vẫn ở
Trong mùa xuân bất tận
những mơn trớn ân tình
Anh ở trên đất
này đặng mà vĩnh viễn
Được lở và bồi trong
sóng mạnh của em
Em ái ân hồi anh
lại mỗi đêm
Như một trái tim
lại hồi nhịp đập
Đời anh, hỡi nàng tiên
rượu bồ đào trong mắt
Đời anh hỡi niềm
say mía ngọt mê li
Đời em tạo đời anh như
một ngọn lửa gỗ cháy diệu kỳ
Ngọn lửa in lên chân
trời vô biên của nhân loại
Nên nhớ không gian đây là Hà Nội và thời gian là khoảng những năm sáu
mươi. Hồi ấy không ai tưởng tượng được có lúc thơ văn tiếng Việt lại đi
vào diễn tả những cách nghĩ kiểu Vi Thuỳ Linh hay Đỗ Hoàng Diệu bây giờ.
Bởi thế việc một bài thơ như Thơ
ngợi nàng Đi-tô thế này được dịch ra đã là bạo lắm.
Khoảng 1986-1988, khi cùng ở Moskva, nhà
nghiên cứu văn học Huỳnh Như Phương lớn lên ở miền nam trước 1975 tỏ ra rất
thích thú khi nghe tôi đọc bài này. Anh vốn không nghĩ Xuân Diệu lại viết
ra dưới hình thức dịch một bài thơ có nhiều cảm giác về xác thịt như thế. Huỳnh
Như Phương phải nhờ tôi chép lại hộ, vì Thơ ngợi nàng Đi - tô
in ra trong tập thơ Những nhà thơ da đen, và sau này không mấy
khi được nhắc tới.
Cần phải nhắc lại Thơ ngợi nàng Đi-tô, vì ở sáng tác Xuân
Diệu cũng có những bài mà người ta thấy có bóng dáng của nó.
Trong
bài Phượng mười năm (viết
từ 1948 và in trong Riêng chung 1960) đã có hai câu thơ
hôi hổi nồng nàn
Ta
cùng mình như cành cây riết quấn
Vương
lòng nhau ràng rịt biết bao đời
Còn đây là một bài in trong Cầm tay (1962):
ĐỔI TRAO
Đêm qua mới thật là đêm
Tình như biển
cả nghĩa thêm sông dài
Đôi ta hoá một con người
Bốn trời con mắt một nơi
tâm hồn.
Hai ta đã đổi trao
hồn
Đổi trao thân vẫn
hãy còn đổi trao
Những gì đẹp
nhất thanh cao
Chứa chan bốn mắt nghẹn
ngào bờ tim
Tìm nhau mãi giữa bầu
đêm
Ngôi sao anh với sao em
mỉm cười
Đổi trao ánh mắt qua trời
Đôi bông hoa đỏ giữa vời vô biên
Chỗ mới trong chất liệu thơ thì quá rõ, theo chỗ tôi
nhớ xưa nay chưa có bài nào của Xuân Diệu nói chuyện chung
chạ đôi ta hoá một con người rõ như bài này (kể cả thơ tình trước
1945 ).
Có
điều có vẻ như chỉ sau mấy câu ấy, tác giả đã hoảng, phải có bốn
câu cuối làm nhoè đi, đánh trống lảng.
Mà lúc đã phải đối phó như thế thì
chữ nghĩa có sáo mòn cổ lỗ cũng là tự nhiên không ai không thấy.
Có thể nói tâm thế tác giả là vừa cũ vừa mới, ông đã đón nhận của thế
giới nhiều thứ nhưng rồi lại vẫn bám chắc trên mảnh đất Việt Nam hôm nay.
Hồi Thơ thơ, chữ em trong thơ Xuân Diệu chỉ
để dành cho những người mà nhà thơ yêu. Cô gái bị gián cách bởi một khoảng
không mà chàng trai không bao giờ vượt nổi.
Từ sau 1945, chữ em này
đổi nghĩa, người con gái có vai mới: vai người vợ, người ấy ở ngay đây,
hai người chung sống hàng ngày.
Anh thương em khi ngủ, Anh
đợi em về ăn cơm, Đi đâu anh cũng nhớ em, Đánh đau em -- ngay
tên một số bài thơ đã nói lên điều đó.
Nhưng rồi người ấy chỉ ở với với Xuân Diệu
trong một thời gian ngắn. Cuộc chia tay đã tới, xót xa cho cả hai bên.
Xuân Diệu đã làm một số bài thơ ghi lại
nỗi đau đớn của mình trong giờ phút chia tay. Bài Chầm chậm
đừng quên... sau khi nhắc lại những kỷ niệm cũ, chốt lại ở cái ý: tình yêu
như sợi dây trói đã dính vào da thịt cả hai, nay dứt ra, trong sợi dây có dính
cả máu và nước mắt.
Muôn sợi ngàn dây đã thắt nhau
Em ơi chầm chậm tháo gì mau
Tháo dây, rứt cả vào da thịt
Anh biết bao giờ mới hết đau
Dây buộc đôi ta lại với đời
Gỡ dây, gỡ cả cuộc đời
thôi
- Chớ quên hoa duối, hoa sim dại
Em hỡi! Đừng quên “hoa anh ơi”
Biết tạc đâu ra
em của anh có những đoạn trong đó người làm thơ như chết lặng đi trước
cuộc vĩnh biệt sắp sửa:
Anh lấy thịt xương đâu chứa đầy mộng ước
Anh lấy gì biến hoá để thành em?
Anh bóp vụn ngày, anh xé nát đêm
Anh vá víu những người trên trái đất
Người ta có thể vô cùng xinh đẹp
Có thể thông minh, có thể
rạng ngời
Có thể yêu anh đi nữa - em ơi
Anh
không thể kiếm tìm em đâu cả!
Với thơ tình vậy
là thơ Xuân Diệu giàu thêm bao sắc thái tình cảm mới, mà phần
thơ công dân không có. Ở đó có những phút rợn ngợp,
có tiếng nức nở, có sự thất vọng. Ở đó lại
có cả nỗi sợ, dù chỉ một nỗi sợ nho nhỏ làm người ta tê
tái :
Anh có nhà có cửa
Nhưng không vợ không con
Sợ cái bếp không
lửa
Sợ cái cửa không đèn.
Cũng có cái vẻ buồn buồn tội tội là cái cách mà Xuân Diệu
công bố thơ tình của mình, cùng là cái cách mà ông đến với
bạn đọc.
Thời ấy tình cảm cộng đồng lấn át. Người ta bảo nhau sẽ là có lỗi
nếu ngồi làm loại thơ đi sâu vào tình cảm cá nhân. Thơ tình không được khuyến
khích mà chỉ là một thứ vợ lẽ con thêm cho phần nào hay phần ấy. Vì thế, sự
thực là sinh thời tác giả, trừ tập Cầm tay chỉ là một chùm nhỏ
in chung với Mũi Cà Mâu (1962), Xuân Diệu không được in
một tập thơ tình nào của riêng mình.
Khi mới bước vào nghề văn, mà cũng là hồi đầu chiến tranh,
tôi cũng có cái thói quen của nhiều bạn bè thời ấy, là xin
phép được đến thăm Xuân Diệu, ở 24 Điện Biên Phủ Hà Nội.
Có một dạo đường Điện Biên Phủ còn mang
tên Cột Cờ.
Không biết ai viết, chỉ thấy cái câu lục
bát sau đây được truyền tụng như là lời Xuân Diệu “Nhà tớ
24 Cột Cờ – Ai thân thì đến, ai lờ thì đi".
Cũng có những hôm chúng tôi được
Xuân Diệu ân cần trò chuyện từ lúc tới đến lúc về ; lại cũng
có những hôm nhà thơ mải làm việc, chúng tôi ngồi đọc một số sổ tay ghi
chép của ông và đọc những bài thơ mới làm.
Sổ tay tôi còn ghi như sau :
-- Quà : 3/1/65-15/1/65
--Đêm mùng sáu tết 5-6/2/65
--Xuân
bên Hồ Tây 5/2/65
--Mặt em 27/1/65—9/2/65
--Một sớm mai xuân 1/4/65
-- Em tặng quạt 18/7/65
--Nhớ đôi mắt 13/3/66
vv.vv…
Như chỗ tôi chép được, trong số khoảng 40 bài làm
hai năm 65-66 này, có độ mươi mười lăm bài sẽ được Xuân Diệu chia vào các tập
như Tôi giàu đôi mắt, Thanh ca.. nhưng đáng tiếc số chưa in cũng
còn không phải là ít.
Không biết sinh thời Xuân Diệu có bao giờ nói với các anh
Vũ Quần Phương, Anh Ngọc, Hữu Nhuận, Hoàng Cát …không, nhưng
đúng là với tôi, có lần ông bảo ông sẽ làm đủ thơ để hình thành nên
một từ điển thơ tình, người đọc khi gặp điều gì xúc động trong tình yêu,
giở từ điển của ông, tra theo chữ cái đầu tiên, sẽ tìm ra bài thơ mà mình
cần.
Đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa nhìn thấy khả năng cái nguyện ước ấy của nhà
thơ được thực hiện.
Một bên là những cuốn sách của ông được
chất đống lại trong một toàn tập sáu tập dày cộp mà văn bản không hề được biên tập chọn lọc, không có khảo
chứng chú giải tối thiểu.
Một
bên là những tập thơ mỏng in theo kiểu hàng chợ bán rải rác cho đám bạn đọc
nghèo.
Xuân Diệu chỉ đang có hai cách ấy để sống mãi
với đời.
2005
ngày 23-3-2010
Những thích ứng với hoàn cảnh đã làm
nên sự thay đổi lớn lao trong số phận một nhà thơ. Với
Cách mạng và kháng chiến, một Xuân Diệu từng mang tiếng
là chỉ biết mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây không chỉ trở thành một nhà thơ công
dân sôi nổi mà còn nhà thơ tình có một cảm quan rất thực tế, luôn luôn biết
chăm sóc đến những cái nho nhỏ bình thường trong đời sống, đồng thời lại
tự mở rộng trong việc ghi lại những xúc cảm đa dạng ở con người.
Chữ bình thường vốn có thể hiểu với nhiều nghĩa khác nhau. Thời tiền
chiến, bình thường ở Xuân Diệu có hàm ý thiên về cuộc sống trần trần mà ai cũng
thấy hàng ngày. Ông đã có dịp bộc lộ điều này qua những lời chê trách Hàn
Mặc Tử. Với ông, thơ Hàn nhiều khi như tiếng nói của kẻ trần truồng
đi ngoài phố, đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, miệng kêu tôi điên đây, tôi
điên đây. Ông cho Hàn là quá đáng. Và là những gì gì nữa không thể hiểu được.
Dưới cái bề ngoài giống như một bà
già lắm lời khó tính, ở đây ( cũng như nhiều lần về sau ) Xuân Diệu đã nói
thực. Ông không chịu được những gì siêu việt tức vượt lên thông thường,
hư vô, xa lạ.
Thơ tình Xuân Diệu hồi ấy đã mang dáng dấp phàm trần.
Thế nhưng người ta lại phải nói ngay rằng nó có chút
gì đó cao sang, nuột nà, quý phái.
Còn thơ từ sau 1945 có một cốt cách khác.
Nó bình thường với nghĩa mộc mạc giản dị như thứ quà của người nghèo.
Nhà thơ lắng nghe lòng mình và ghi lại đủ thứ rung
động mà người khác có thể cho là lặt vặt.
Một lần đèo người yêu trên xe đạp:
-- Em ngồi ríu rít ở
sau xe
Em nói lòng anh mải lắng nghe
Thỉnh
thoảng tiếng cười em lại điểm
Đời vui khi được có em kề.
Một lần nghe mưa, nhớ tới người yêu
đang xa cách, tự hỏi không biết giờ này em đang làm gì, để rồi thầm
nhủ:
-- Thôi em nghỉ việc khuya rồi
Chăn mưa em đắp cùng
trời với anh .
Nhìn áo mà nhớ người, cái mô-típ ca dao
ấy được một nhà thơ thời nay nhắc lại, sao có gì tội tội:
Áo
nhìn anh lại thương em
Hiểu vì vất vả cho nên vai gầy .
Ngay những lần đón nhau sau xa cách, người ta vẫn giữ được cái
chừng mực phải chăng, biết hoà tình cảm riêng của mình vào đời sống cộng
đồng :
-- Anh là quê hương của em, em trở lại nhà
Em là quê
hương của anh, anh mừng đi đón
Đó là tâm tình ngự trị ở những con người của một thời
đại quá vất vả do đó dễ sinh ra khắc kỷ.
Thuở ấy, người ta luôn
luôn phải tự nhủ rằng mình không có quyền lo cho cá nhân, không có quyền đòi
hỏi, nay không phải lúc hưởng thụ. Sự tự nguyện sống cái đời sống hàng
ngày với bao nhiêu lo toan chắt chiu nhặt nhạnh, làm thay đổi cả những cảm quan
con người bình thường.
Ai cũng biết rằng thịt bổ lắm nhưng không có thịt thôi
thì hãy khen rau là ngon; và bởi vì đã từng có phen bị đói nữa không có cả
rau mà ăn, nên cái điều kêu rau ngon vẫn chính là lời nói thật.
Nam Chi Đặng Tiến từng có sự ví von xác đáng về Xuân Diệu
giữa hai thời kỳ: "Xuân
Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần
thế cho những người ăn vì cần ăn, chứ không phải ăn
cho vui miệng. Thơ Xuân Diệu ngày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay
là manh áo nâu sứt chỉ đường tà.”
Cái điều đúng cho thơ Xuân Diệu nói chung đó càng đúng với
thơ tình nói riêng.
Trong cái vẻ bình dân cơm bụi, nhiều bài thơ tình Xuân Diệu
thời gian sau 1945 đơn sơ mộc mạc trong cách cảm cách nói.
Khi xuất thần, nó có vẻ đẹp của ca dao hoặc
thơ cổ điển, tưởng không thuộc về thời gian nào, tuy rằng nhìn kỹ thì lại vẫn
mang dấu ấn của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Mở đầu bài thơ Nguyện là hai câu nói
về những ước ao nho nhỏ:
--Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng em
Nguyện
cảnh đẹp có êm bên cạnh.
Những câu thơ như thế chỉ có thể
có ở một nhà thơ Việt Nam, mà cũng
chỉ có thể có ở Xuân Diệu. Bởi đọc lại người ta
không khỏi nhận ra cái điều nằm sâu mãi dưới đáy lòng bao nhiêu người
Việt và từng được những Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao diễn tả
theo nhiều cách khác nhau:
miếng ăn là nỗi ám ảnh con người một thời;
miếng ăn là chuyện tình
nghĩa.
Xuân Diệu cũng vậy, mặc dầu là một nhà
thơ, nhưng ông luôn xem trọng chuyện đời thường chuyện thực
tế. Ai đã có dịp gần nhà thơ đều biết, tác giả Thơ thơ hàng
ngày rất hay nói về chuyện ăn uống. Trong lúc người khác chỉ nói điều ấy
ở chỗ riêng tư thì Xuân Diệu viết thẳng nó lên mặt giấy.
Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng
em …Người đời sau có thể xem thường cái vẻ chân thành cổ cổ của người viết.
Thế nhưng cả đến ngày hôm nay nưã, chỉ những người đã có tiếp xúc nhiều với
phương Tây và dám nói lên ý nghĩ của mình một cách trực tiếp nhất,
mới có thể viết những câu như vậy.
Trong văn nghiệp của Xuân Diệu có một bộ phận
là thơ dịch.Thế hệ những người yêu thơ những năm chống
Mỹ hẳn nhớ hồi ấy có một giọng thơ bạn bè xa
lạ song lại hết sức thân thiết, nhờ Xuân Diệu mà
trở nên thân thiết, đó là thơ Blaga Dmitrova.
Lạ một điều nếu khi sáng tác và
trong việc nhìn nhận đánh giá sáng tác trong nước, Xuân Diệu rất kỵ thơ không
vần thì khi dịch Dmitrova, ông lại sử dụng thứ thơ không vần này một cách tinh
tế.
Thơ dịch bộc lộ một phía khác trong
con người nghệ thuật ở Xuân Diệu : ông phục thiện, ông tìm ra hình
thức để thích ứng với nội dung, và ông dám có những thể nghiệm.
Hơn thế nữa, có thể nói thơ dịch là nơi
ông gửi gấm tâm sự cũng tức là nơi ông nói thông qua người khác.
Trở lại với thơ tình Xuân Diệu và thử so sánh với những
bài thơ tình chính Xuân Diệu đã dịch. Một điều dễ thấy: người
thi sĩ Việt Nam vẫn có cái cách biểu hiện tình cảm
riêng của người Việt.
Thơ nhà thơ Pháp Paul Eluard :
Anh bước tới em anh bước mãi
mãi về ánh sáng
Đời có thịt xương hạnh phúc đã
căng buồm
Ánh sáng tràn trề những mộng và đêm
Hẹn với rạng đông những cái nhìn tin cậy.
Hoặc thơ nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet
:
-- Khi đạt tới em anh mới biết em
là nơi không đạt tới bao giờ.
Ngay trong thơ tình, họ vẫn có xu hướng
triết lý.
So với họ, thì thơ Xuân Diệu cũng như các nhà thơ Việt
Nam đời thường và thiết thực hơn nhiều.
Nhưng đấy là xét đại thể. Sự tiếp nhận phương Tây vẫn ngấm
dần dần, con người tự mình khác đi mà không hay
biết. Xuân Diệu cũng có lúc chạm tới triết lý. Sau đây là hai câu thơ thuộc loại " thượng thặng" của Xuân Diệu:
Vai anh khi để đầu em tựa
Cân cả buồn vui của một đời
Ở chỗ riêng tư, các nhà thơ tiền chiến riêng tôi có quen như Tế Hanh, Đào Xuân Quý... mỗi khi nói về Xuân Diệu đều nhắc tới với vẻ khâm phục.
Trong số những bài thơ Xuân Diệu đã dịch, có bài sau đây ít người để ý, nhưng
theo tôi mang rõ chất dịch giả:
THƠ NGỢI NÀNG ĐI- TÔ
RENE DEPESTRE
Những ngày mai của anh
hiện trên mặt em
Như gân
lá trên lá cây- ăn -bánh
Miệng em khi cười
như chạm trong lửa thắm
Vẻ dịu dàng ánh
lên trong đôi mắt em
Như giọt nước long
lanh trên tấm cừu sinh động mượt êm
Sóng gợn reo say trên
làn thân thể
Và lòng anh yêu da
thịt của em
Như tiếng chuông
ngân đổ hồi ròn rã
Đổ liên hồi trong máu
khiến say thêm
Anh như những dòng
sông bỏ dòng chảy cũ
Để chảy vào lòng cát sắc
em xinh
Anh như những đàn
én bay về tổ
Năm năm
về tìm trời của em xanh
Mùa lại mùa anh vững bền
vẫn ở
Trong mùa xuân bất tận
những mơn trớn ân tình
Anh ở trên đất
này đặng mà vĩnh viễn
Được lở và bồi trong
sóng mạnh của em
Em ái ân hồi anh
lại mỗi đêm
Như một trái tim
lại hồi nhịp đập
Đời anh, hỡi nàng tiên
rượu bồ đào trong mắt
Đời anh hỡi niềm
say mía ngọt mê li
Đời em tạo đời anh như
một ngọn lửa gỗ cháy diệu kỳ
Ngọn lửa in lên chân
trời vô biên của nhân loại
Nên nhớ không gian đây là Hà Nội và thời gian là khoảng những năm sáu
mươi. Hồi ấy không ai tưởng tượng được có lúc thơ văn tiếng Việt lại đi
vào diễn tả những cách nghĩ kiểu Vi Thuỳ Linh hay Đỗ Hoàng Diệu bây giờ.
Bởi thế việc một bài thơ như Thơ
ngợi nàng Đi-tô thế này được dịch ra đã là bạo lắm.
Khoảng 1986-1988, khi cùng ở Moskva, nhà
nghiên cứu văn học Huỳnh Như Phương lớn lên ở miền nam trước 1975 tỏ ra rất
thích thú khi nghe tôi đọc bài này. Anh vốn không nghĩ Xuân Diệu lại viết
ra dưới hình thức dịch một bài thơ có nhiều cảm giác về xác thịt như thế. Huỳnh
Như Phương phải nhờ tôi chép lại hộ, vì Thơ ngợi nàng Đi - tô
in ra trong tập thơ Những nhà thơ da đen, và sau này không mấy
khi được nhắc tới.
Cần phải nhắc lại Thơ ngợi nàng Đi-tô, vì ở sáng tác Xuân
Diệu cũng có những bài mà người ta thấy có bóng dáng của nó.
Trong
bài Phượng mười năm (viết
từ 1948 và in trong Riêng chung 1960) đã có hai câu thơ
hôi hổi nồng nàn
Ta
cùng mình như cành cây riết quấn
Vương
lòng nhau ràng rịt biết bao đời
Còn đây là một bài in trong Cầm tay (1962):
ĐỔI TRAO
Đêm qua mới thật là đêm
Tình như biển
cả nghĩa thêm sông dài
Đôi ta hoá một con người
Bốn trời con mắt một nơi
tâm hồn.
Hai ta đã đổi trao
hồn
Đổi trao thân vẫn
hãy còn đổi trao
Những gì đẹp
nhất thanh cao
Chứa chan bốn mắt nghẹn
ngào bờ tim
Tìm nhau mãi giữa bầu
đêm
Ngôi sao anh với sao em
mỉm cười
Đổi trao ánh mắt qua trời
Đôi bông hoa đỏ giữa vời vô biên
Chỗ mới trong chất liệu thơ thì quá rõ, theo chỗ tôi
nhớ xưa nay chưa có bài nào của Xuân Diệu nói chuyện chung
chạ đôi ta hoá một con người rõ như bài này (kể cả thơ tình trước
1945 ).
Có
điều có vẻ như chỉ sau mấy câu ấy, tác giả đã hoảng, phải có bốn
câu cuối làm nhoè đi, đánh trống lảng.
Mà lúc đã phải đối phó như thế thì
chữ nghĩa có sáo mòn cổ lỗ cũng là tự nhiên không ai không thấy.
Có thể nói tâm thế tác giả là vừa cũ vừa mới, ông đã đón nhận của thế
giới nhiều thứ nhưng rồi lại vẫn bám chắc trên mảnh đất Việt Nam hôm nay.
Hồi Thơ thơ, chữ em trong thơ Xuân Diệu chỉ
để dành cho những người mà nhà thơ yêu. Cô gái bị gián cách bởi một khoảng
không mà chàng trai không bao giờ vượt nổi.
Từ sau 1945, chữ em này
đổi nghĩa, người con gái có vai mới: vai người vợ, người ấy ở ngay đây,
hai người chung sống hàng ngày.
Anh thương em khi ngủ, Anh
đợi em về ăn cơm, Đi đâu anh cũng nhớ em, Đánh đau em -- ngay
tên một số bài thơ đã nói lên điều đó.
Nhưng rồi người ấy chỉ ở với với Xuân Diệu
trong một thời gian ngắn. Cuộc chia tay đã tới, xót xa cho cả hai bên.
Xuân Diệu đã làm một số bài thơ ghi lại
nỗi đau đớn của mình trong giờ phút chia tay. Bài Chầm chậm
đừng quên... sau khi nhắc lại những kỷ niệm cũ, chốt lại ở cái ý: tình yêu
như sợi dây trói đã dính vào da thịt cả hai, nay dứt ra, trong sợi dây có dính
cả máu và nước mắt.
Muôn sợi ngàn dây đã thắt nhau
Em ơi chầm chậm tháo gì mau
Tháo dây, rứt cả vào da thịt
Anh biết bao giờ mới hết đau
Dây buộc đôi ta lại với đời
Gỡ dây, gỡ cả cuộc đời
thôi
- Chớ quên hoa duối, hoa sim dại
Em hỡi! Đừng quên “hoa anh ơi”
Biết tạc đâu ra
em của anh có những đoạn trong đó người làm thơ như chết lặng đi trước
cuộc vĩnh biệt sắp sửa:
Anh lấy thịt xương đâu chứa đầy mộng ước
Anh lấy gì biến hoá để thành em?
Anh bóp vụn ngày, anh xé nát đêm
Anh vá víu những người trên trái đất
Người ta có thể vô cùng xinh đẹp
Có thể thông minh, có thể
rạng ngời
Có thể yêu anh đi nữa - em ơi
Anh
không thể kiếm tìm em đâu cả!
Với thơ tình vậy
là thơ Xuân Diệu giàu thêm bao sắc thái tình cảm mới, mà phần
thơ công dân không có. Ở đó có những phút rợn ngợp,
có tiếng nức nở, có sự thất vọng. Ở đó lại
có cả nỗi sợ, dù chỉ một nỗi sợ nho nhỏ làm người ta tê
tái :
Anh có nhà có cửa
Nhưng không vợ không con
Sợ cái bếp không
lửa
Sợ cái cửa không đèn.
Cũng có cái vẻ buồn buồn tội tội là cái cách mà Xuân Diệu
công bố thơ tình của mình, cùng là cái cách mà ông đến với
bạn đọc.
Thời ấy tình cảm cộng đồng lấn át. Người ta bảo nhau sẽ là có lỗi
nếu ngồi làm loại thơ đi sâu vào tình cảm cá nhân. Thơ tình không được khuyến
khích mà chỉ là một thứ vợ lẽ con thêm cho phần nào hay phần ấy. Vì thế, sự
thực là sinh thời tác giả, trừ tập Cầm tay chỉ là một chùm nhỏ
in chung với Mũi Cà Mâu (1962), Xuân Diệu không được in
một tập thơ tình nào của riêng mình.
Khi mới bước vào nghề văn, mà cũng là hồi đầu chiến tranh,
tôi cũng có cái thói quen của nhiều bạn bè thời ấy, là xin
phép được đến thăm Xuân Diệu, ở 24 Điện Biên Phủ Hà Nội.
Có một dạo đường Điện Biên Phủ còn mang
tên Cột Cờ.
Không biết ai viết, chỉ thấy cái câu lục
bát sau đây được truyền tụng như là lời Xuân Diệu “Nhà tớ
24 Cột Cờ – Ai thân thì đến, ai lờ thì đi".
Cũng có những hôm chúng tôi được
Xuân Diệu ân cần trò chuyện từ lúc tới đến lúc về ; lại cũng
có những hôm nhà thơ mải làm việc, chúng tôi ngồi đọc một số sổ tay ghi
chép của ông và đọc những bài thơ mới làm.
Sổ tay tôi còn ghi như sau :
-- Quà : 3/1/65-15/1/65
--Đêm mùng sáu tết 5-6/2/65
--Xuân
bên Hồ Tây 5/2/65
--Mặt em 27/1/65—9/2/65
--Một sớm mai xuân 1/4/65
-- Em tặng quạt 18/7/65
--Nhớ đôi mắt 13/3/66
vv.vv…
Như chỗ tôi chép được, trong số khoảng 40 bài làm
hai năm 65-66 này, có độ mươi mười lăm bài sẽ được Xuân Diệu chia vào các tập
như Tôi giàu đôi mắt, Thanh ca.. nhưng đáng tiếc số chưa in cũng
còn không phải là ít.
Không biết sinh thời Xuân Diệu có bao giờ nói với các anh
Vũ Quần Phương, Anh Ngọc, Hữu Nhuận, Hoàng Cát …không, nhưng
đúng là với tôi, có lần ông bảo ông sẽ làm đủ thơ để hình thành nên
một từ điển thơ tình, người đọc khi gặp điều gì xúc động trong tình yêu,
giở từ điển của ông, tra theo chữ cái đầu tiên, sẽ tìm ra bài thơ mà mình
cần.
Đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa nhìn thấy khả năng cái nguyện ước ấy của nhà
thơ được thực hiện.
Một bên là những cuốn sách của ông được
chất đống lại trong một toàn tập sáu tập dày cộp mà văn bản không hề được biên tập chọn lọc, không có khảo
chứng chú giải tối thiểu.
Một
bên là những tập thơ mỏng in theo kiểu hàng chợ bán rải rác cho đám bạn đọc
nghèo.
Xuân Diệu chỉ đang có hai cách ấy để sống mãi
với đời.
2005
Published on March 31, 2014 19:07
March 29, 2014
Nhân ngày hội sách, thấy rõ hơn tình trạng quà vặt của văn hóa hiện thời
Thiếu một cái gì lặng lẽ sang trọng. Thiếu một cái gì cao quý trí thức.
Đó là cảm giác chính của tôi sau hai buổi tới mua sách tại Hội sách TPHCM được tổ chức trong tuần.
So với những hội sách ra cái vẻ tầm cỡ trung ương nhưng lại hết sức công thức và tẻ nhạt ở Hà Nội, thì ở đây mọi việc được làm ăn thật bài bản và rầm rộ. Giới làm sách tỏ ra chuyên nghiệp, vừa trường vốn hơn vừa nhạy bén với những nhu cầu hiện đại hơn. Bạn đọc cũng tỏ ra những người đầy khao khát và sẵn sàng chi cho hiểu biết.
Nhưng sao tôi vẫn thấy nó giống như trăm ngàn thứ hội khác, chứ không có những đặc điểm riêng mà một hội sách phải có.
Tôi chưa từng được dự một hội sách nào ở nước ngoài. Nhưng qua đọc báo, tôi biết những hội chợ sách lớn là dịp để người ta ghi nhận cả một hướng đi trong ngành hoặc "lăng xê" được những tác giả sẽ chi phối đời sống tinh thần của bạn đọc nhiều nước cả chục năm sau.
Tới những hội chợ đó là những con người nghiêm túc làm việc để nghiên cứu thị trường và xác định những hướng đi của đời sống sách vở trong những năm tới.
Tới các hội chợ đó có rất nhiều trí thức.
Qua hội chợ người ta thấy rõ thêm khuynh hướng và sự vận động trong đời sống trí thức cả quốc gia hay cả một khu vực gồm nhiều nước.
Đằng này, hội chợ của mình tóm gọn lại là một dịp để tiêu thụ sách. Một không khí ồn ào tíu tít bao trùm theo kiểu các loại chợ huyện chợ tỉnh chợ phiên thời đầu thế kỷ XX.
Không phải ngẫu nhiên bất cứ gian hàng nào cũng nổi bật lên tấm bảng ghi thật rõ mức độ giảm giá sách là bao nhiêu phần trăm.
…
Nhưng thôi, trách các bạn làm xuất bản và phát hành sao được. Chúng ta đều đang nằm trọn trong cái không khí bành trướng của văn hóa đại chúng và sự suy đồi của văn hóa tinh hoa kéo dài suốt từ những năm chiến tranh tới nay.
Để tiếp tục ghi nhận nỗi ngậm ngùi cho cái tình cảnh đã kéo dài ngoài ý muốn đó, xin phép giới thiệu lại một bài báo ngắn tôi đã viết từ hơn hai chục năm trước. Các chi tiết nêu trong bài nay không còn mang tính cập nhật, nhưng tôi tin cái tinh thần nêu lên trong bài thì nay vẫn đúng. Cả những cuốn sách dày tới hàng ngàn trang vừa được in ra thì chẳng qua cũng chỉ là những chàng lùn to xác, vốn đã được hình thành theo phong cách quà vặt.
VĂN HÓA QUÀ VẶT
Mười lăm năm trước, một người bạn tôi sau thời gian đèn sách công phu từ nước ngoài trở về hăm hở bắt tay vào xây dựng sự nghiệp như trước đây hằng ao ước. Anh dịch. Và dịch toàn những tác phẩm cổ điển của thế giới: Goethe, Schiller, Brecht v.v...
Bẵng đi một dạo, không thấy anh mang đến những cuốn sách dịch "nặng đồng cân" ấy nữa.
Bảo rằng thay đổi nghề thì hơi quá, nhưng độ hơn một năm gần đây, thì cách kiếm sống của anh hoàn toàn khác hẳn. Đến nhà anh chơi, thấy la liệt quanh bàn hàng chồng báo. Báo Anh, Pháp, Mỹ, Đức, đã đành rồi. Lại cả báo Thái Lan, báo Ấn Độ nữa. Công việc của anh là lọc ra những tờ báo có các mẩu tin vui, lạ, giật gân, có kèm theo ảnh càng tốt. Rồi anh phỏng dịch và cắt dán gửi cho các báo. Báo này không dùng lại gửi báo khác. Thu nhập đều đều so với việc dịch cổ điển hồi nào, còn nhỉnh hơn nữa.
Ở các nước khác, mới học dịch thì chỉ được dịch các mẩu tin và phải từng trải trong nghề lắm rồi, người ta mới được phép dịch tác phẩm cổ điển của các nhà văn hóa lớn trên thế giới.
Hành trình văn hóa của anh bạn tôi diễn ra theo chiều ngược lại. Tuy nhiên, điều đáng nói là hành trình ấy của anh không phải do ý anh muốn mà là do diễn biến của đời sống văn hóa trong nước qui định.
Từ một đời sống văn hóa được quan niệm một cách cổ điển - non kém yếu ớt, và nhiều khi giả tạo nữa, nhưng vẫn là theo kiểu cổ điển - giờ đây chúng ta đang có một đời sống văn hóa nhộn nhịp, màu sắc sặc sỡ, biến đổi luôn luôn để cuối cùng thành một món "tạp pí lù" hỗn độn. Sách nghiêm chỉnh bị sách nhí nhố đánh bại. Và giữa sách với báo, tạp chí, thì cái sau được ưa chuộng hơn cái trước, trừ một vài tiểu thuyết Tàu hoặc các tiểu thuyết thông tục kiểu Angiêlích... còn nói chung người ta ngại đọc sách dày. Thà để tiền mua báo, ở đó, cái gì cũng có một tí, một tí thời sự vùng Vịnh, một tí chống tham nhũng, rồi một tí lượm lặt gần xa, soi ống kính vào từ cuộc sống riêng của diễn viên này đến thói xấu kỳ cục của chính khách kia; tất cả được xào xáo đến điếc cả mũi, song thực chất là một thứ quà vặt, nhẹ nhàng dễ tiêu và chả gây ra tác hại cũng như đã không mang lại lợi ích gì.
Bên cạnh phần văn hóa nước ngoài thì phần văn hóa trong nước gần đây cũng được báo chí săn sóc chu đáo. Phần lớn đó là giai thoại, là chuyện đồn thổi, một thứ mách lẻo, nói cho vui, nghe cho vui.
Cách đây một năm, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Tản Đà, một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội đã tung ra một cuốn sách viết về ông. Nhưng không phải là một chuyên khảo đi vào phân tích khuynh hướng sáng tác hoặc một số tác phẩm chính của tác giả (Loại sách ấy bây giờ gần như tuyệt chủng). Trước mắt tôi giờ đây là một tập sách mỏng, ngoài bìa đề rõ giai thoại Tản Đà, tóm lại là một số mẩu chuyện về ông, mẩu nào cũng ngồ ngộ, hay hay (cố nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ thì cũng thấy có ý nghĩa!).
Thậm chí, hãy nhìn vào cả một số tiểu thuyết cũng thấy không gì khác, cũng là thứ quà vặt giúp người đọc giết thì giờ, ngoài ra cam đoan không bắt người đọc phải nghĩ ngợi. Người viết tặc lưỡi: "Cốt sao có tiền". Nhà xuất bản có lý lẽ hẳn hoi "sách phải có người đọc chứ? Thời buổi dịch vụ cơ mà". Quà vặt đã chiến thắng! Phong cách quà vặt đã hoàn toàn thắng.
Cái gì tồn tại đều có lý của nó. Phải ngớ ngẩn lắm, mới tính chuyện cấm hẳn quà vặt. Chỉ hiềm đã gọi là quà, đều không được lấn át bữa chính. Một người chủ gia đình bình thường khi xem sổ tiêu pha, nếu thấy tiền quà trội hơn khoản tiền ăn mấy bữa chính, hẳn không khỏi giật mình, và phải tìm cách hãm ngay tình trạng lộn tùng phèo ấy lại.
Chỉ có một điều đời sống văn hóa một nước không giống hẳn tình hình tiêu pha trong gia đình. Nó có vẻ của tất cả mọi người mà lại không phải của riêng ai. Bởi vậy, cái xu hướng quà vặt kia mới có cơ ngạo nghễ lấn tới.
Không biết có phải là quá không khi dự đoán rằng người ta có thể chết đói về văn hóa ngay khi no ứ thứ quà vặt đó?
Đã in trong Những kiếp hoa dại 1993
Đó là cảm giác chính của tôi sau hai buổi tới mua sách tại Hội sách TPHCM được tổ chức trong tuần.
So với những hội sách ra cái vẻ tầm cỡ trung ương nhưng lại hết sức công thức và tẻ nhạt ở Hà Nội, thì ở đây mọi việc được làm ăn thật bài bản và rầm rộ. Giới làm sách tỏ ra chuyên nghiệp, vừa trường vốn hơn vừa nhạy bén với những nhu cầu hiện đại hơn. Bạn đọc cũng tỏ ra những người đầy khao khát và sẵn sàng chi cho hiểu biết.
Nhưng sao tôi vẫn thấy nó giống như trăm ngàn thứ hội khác, chứ không có những đặc điểm riêng mà một hội sách phải có.
Tôi chưa từng được dự một hội sách nào ở nước ngoài. Nhưng qua đọc báo, tôi biết những hội chợ sách lớn là dịp để người ta ghi nhận cả một hướng đi trong ngành hoặc "lăng xê" được những tác giả sẽ chi phối đời sống tinh thần của bạn đọc nhiều nước cả chục năm sau.
Tới những hội chợ đó là những con người nghiêm túc làm việc để nghiên cứu thị trường và xác định những hướng đi của đời sống sách vở trong những năm tới.
Tới các hội chợ đó có rất nhiều trí thức.
Qua hội chợ người ta thấy rõ thêm khuynh hướng và sự vận động trong đời sống trí thức cả quốc gia hay cả một khu vực gồm nhiều nước.
Đằng này, hội chợ của mình tóm gọn lại là một dịp để tiêu thụ sách. Một không khí ồn ào tíu tít bao trùm theo kiểu các loại chợ huyện chợ tỉnh chợ phiên thời đầu thế kỷ XX.
Không phải ngẫu nhiên bất cứ gian hàng nào cũng nổi bật lên tấm bảng ghi thật rõ mức độ giảm giá sách là bao nhiêu phần trăm.
…
Nhưng thôi, trách các bạn làm xuất bản và phát hành sao được. Chúng ta đều đang nằm trọn trong cái không khí bành trướng của văn hóa đại chúng và sự suy đồi của văn hóa tinh hoa kéo dài suốt từ những năm chiến tranh tới nay.
Để tiếp tục ghi nhận nỗi ngậm ngùi cho cái tình cảnh đã kéo dài ngoài ý muốn đó, xin phép giới thiệu lại một bài báo ngắn tôi đã viết từ hơn hai chục năm trước. Các chi tiết nêu trong bài nay không còn mang tính cập nhật, nhưng tôi tin cái tinh thần nêu lên trong bài thì nay vẫn đúng. Cả những cuốn sách dày tới hàng ngàn trang vừa được in ra thì chẳng qua cũng chỉ là những chàng lùn to xác, vốn đã được hình thành theo phong cách quà vặt.
VĂN HÓA QUÀ VẶT
Mười lăm năm trước, một người bạn tôi sau thời gian đèn sách công phu từ nước ngoài trở về hăm hở bắt tay vào xây dựng sự nghiệp như trước đây hằng ao ước. Anh dịch. Và dịch toàn những tác phẩm cổ điển của thế giới: Goethe, Schiller, Brecht v.v...
Bẵng đi một dạo, không thấy anh mang đến những cuốn sách dịch "nặng đồng cân" ấy nữa.
Bảo rằng thay đổi nghề thì hơi quá, nhưng độ hơn một năm gần đây, thì cách kiếm sống của anh hoàn toàn khác hẳn. Đến nhà anh chơi, thấy la liệt quanh bàn hàng chồng báo. Báo Anh, Pháp, Mỹ, Đức, đã đành rồi. Lại cả báo Thái Lan, báo Ấn Độ nữa. Công việc của anh là lọc ra những tờ báo có các mẩu tin vui, lạ, giật gân, có kèm theo ảnh càng tốt. Rồi anh phỏng dịch và cắt dán gửi cho các báo. Báo này không dùng lại gửi báo khác. Thu nhập đều đều so với việc dịch cổ điển hồi nào, còn nhỉnh hơn nữa.
Ở các nước khác, mới học dịch thì chỉ được dịch các mẩu tin và phải từng trải trong nghề lắm rồi, người ta mới được phép dịch tác phẩm cổ điển của các nhà văn hóa lớn trên thế giới.
Hành trình văn hóa của anh bạn tôi diễn ra theo chiều ngược lại. Tuy nhiên, điều đáng nói là hành trình ấy của anh không phải do ý anh muốn mà là do diễn biến của đời sống văn hóa trong nước qui định.
Từ một đời sống văn hóa được quan niệm một cách cổ điển - non kém yếu ớt, và nhiều khi giả tạo nữa, nhưng vẫn là theo kiểu cổ điển - giờ đây chúng ta đang có một đời sống văn hóa nhộn nhịp, màu sắc sặc sỡ, biến đổi luôn luôn để cuối cùng thành một món "tạp pí lù" hỗn độn. Sách nghiêm chỉnh bị sách nhí nhố đánh bại. Và giữa sách với báo, tạp chí, thì cái sau được ưa chuộng hơn cái trước, trừ một vài tiểu thuyết Tàu hoặc các tiểu thuyết thông tục kiểu Angiêlích... còn nói chung người ta ngại đọc sách dày. Thà để tiền mua báo, ở đó, cái gì cũng có một tí, một tí thời sự vùng Vịnh, một tí chống tham nhũng, rồi một tí lượm lặt gần xa, soi ống kính vào từ cuộc sống riêng của diễn viên này đến thói xấu kỳ cục của chính khách kia; tất cả được xào xáo đến điếc cả mũi, song thực chất là một thứ quà vặt, nhẹ nhàng dễ tiêu và chả gây ra tác hại cũng như đã không mang lại lợi ích gì.
Bên cạnh phần văn hóa nước ngoài thì phần văn hóa trong nước gần đây cũng được báo chí săn sóc chu đáo. Phần lớn đó là giai thoại, là chuyện đồn thổi, một thứ mách lẻo, nói cho vui, nghe cho vui.
Cách đây một năm, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Tản Đà, một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội đã tung ra một cuốn sách viết về ông. Nhưng không phải là một chuyên khảo đi vào phân tích khuynh hướng sáng tác hoặc một số tác phẩm chính của tác giả (Loại sách ấy bây giờ gần như tuyệt chủng). Trước mắt tôi giờ đây là một tập sách mỏng, ngoài bìa đề rõ giai thoại Tản Đà, tóm lại là một số mẩu chuyện về ông, mẩu nào cũng ngồ ngộ, hay hay (cố nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ thì cũng thấy có ý nghĩa!).
Thậm chí, hãy nhìn vào cả một số tiểu thuyết cũng thấy không gì khác, cũng là thứ quà vặt giúp người đọc giết thì giờ, ngoài ra cam đoan không bắt người đọc phải nghĩ ngợi. Người viết tặc lưỡi: "Cốt sao có tiền". Nhà xuất bản có lý lẽ hẳn hoi "sách phải có người đọc chứ? Thời buổi dịch vụ cơ mà". Quà vặt đã chiến thắng! Phong cách quà vặt đã hoàn toàn thắng.
Cái gì tồn tại đều có lý của nó. Phải ngớ ngẩn lắm, mới tính chuyện cấm hẳn quà vặt. Chỉ hiềm đã gọi là quà, đều không được lấn át bữa chính. Một người chủ gia đình bình thường khi xem sổ tiêu pha, nếu thấy tiền quà trội hơn khoản tiền ăn mấy bữa chính, hẳn không khỏi giật mình, và phải tìm cách hãm ngay tình trạng lộn tùng phèo ấy lại.
Chỉ có một điều đời sống văn hóa một nước không giống hẳn tình hình tiêu pha trong gia đình. Nó có vẻ của tất cả mọi người mà lại không phải của riêng ai. Bởi vậy, cái xu hướng quà vặt kia mới có cơ ngạo nghễ lấn tới.
Không biết có phải là quá không khi dự đoán rằng người ta có thể chết đói về văn hóa ngay khi no ứ thứ quà vặt đó?
Đã in trong Những kiếp hoa dại 1993
Published on March 29, 2014 07:42
March 23, 2014
Làm sao cứu vãn thứ giáo dục phi chuẩn mực này được ?
-- Ngành giáo dục ở ta đang trong tình trạng thế nào ?
-- Nói cho hình ảnh một chút, nó đang lê lết trong cảnh trì trệ. Về triển vọng, thì có vẻ bệnh ở dạng vô phương cứu chữa. Tức nếu không dỡ bỏ làm lại thì vùng vẫy đến mấy cũng sẽ không ra khỏi cái tình trạng suy thoái hiện có.
Tôi biết nói vậy là bi quan. Nhưng nếu biết vượt lên tình cảm thông thường và có cái nhìn khách quan, cũng như sử dụng tới những thước đo hiện đại khi đánh giá tình hình bàn việc cải cách, chắc chúng ta không thể nghĩ khác.
Một dạng "tiên thiên bất túc"
Lùi lại nhìn ngành giáo dục của ta từ hồi kháng chiến chống Pháp, rồi qua chống Mỹ và hậu chiến gần 40 năm nay, tôi thấy nó được xây dựng ngoài những chuẩn mực chặt chẽ mà mọi nền giáo dục phải có. Như một cơ thể, nó thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng .
Ta hay có lối làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm.
Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương tự… trở về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. Chỉ có riêng ta thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế thấp hơn chuẩn mực rất nhiều.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn đang bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Ta hay quen miệng nói chúng ta rất có truyền thống về giáo dục. Sự thực, giáo dục VN thời trung đại còn quá non nớt không đủ hình thành một hệ thống. Tới nền giáo dục mà người Pháp mang lại thì mới tàm tạm.
Nhưng rồi mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất ở ta, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền bắc bắt miền nam phải theo.
Tạm ví như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi chứ đâu có đứng yên.
Sửa vặt chỉ là vô nghĩa
Luôn luôn xảy ra tình trạng trường không đáp ứng đúng chuẩn mực cũng cố mà mở, giáo viên chưa đủ trình độ cũng cho dạy, học sinh không đủ trình độ cũng cho lên lớp, sinh viên ra trường không ai nhận cũng cứ xin thêm chỉ tiêu đào tạo.
Trước mắt chúng ta là một cơ thể lúc nào cũng ốm yếu quặt quẹo.
Đây đó, nó có được chấn chỉnh chỗ này thì chỗ khác lại làm bừa làm bậy rõ hơn. Mọi sự sửa chữa chẳng qua chỉ là đắp điếm giả tạo.
Tình trạng tuyệt vọng thấy rõ là khi mọi sự đã không còn thay đổi được nữa.
Dăm bảy năm nay, nhận thấy các trường công lập bị bao ràng buộc, nhiều người đã tính bàn nhau mở thêm các trường dân lập.
Gia đình tôi cũng thử xem sao, cho con đi học dân lập, sau mới ngớ ra. Nếp làm giáo dục ở ta mấy chục năm nay nó đã thế rồi, thì lúc ra tồn tại với danh nghĩa khác, người ta cũng cứ đường cũ mà đi.
Khi các giáo viên vẫn thế, người quản lý các trường cũng thế, chuyện các trường dân lập có đủ bệnh như trường công lập nói chung thật dễ hiểu.
Thế thì còn có cách nào mà cựa bây giờ?
Để cùng xác định mức độ nghiêm trọng, và sự bất lực đã trở thành chắc chắn, xin có một chút liên hệ:
Đọc báo gần đây, thấy các cơ quan quản lý giao thông đề nghị mọi người hiến kế để có cách làm sao tai nạn giao thông có thể mỗi ngày mỗi giảm.
Nhưng vấn đề là ở chỗ người ta phải dự tính điều này từ khoảng mười lăm hai mươi năm trước, khi số lượng các phương tiện giao thông còn tạm chấp nhận được. Chứ với mức độ xe máy như hiện nay, trên tình trạng đường sá hiện nay thì có tài thánh cũng không hạn chế nổi tai nạn.
Sức ì của người trong cuộc
Khi không có những điều kiện cần và đủ mà bắt buộc phải tồn tại, tự bản thân cơ chế giáo dục phải có cách thích ứng, lâu dần nó tự ổn định trong tình trạng hiện thời và tự nhiên là trở nên trơ lì, không thể phấn đấu thành cái đáng ra nó phải thế, cũng tức là không thể trở thành đúng như chuẩn mực nữa.
Quán tính tự bảo vệ không cho phép người trong ngành thấy hết bệnh tật đang có trong cái môi trường người ta tồn tại.
Một điều không ai nói ra nhưng ai cũng biết, lâu nay giáo dục đã là nơi sinh sống làm ăn của bao nhiêu con người. Nay giả thử có sự thay đổi thì những người đó đi đâu làm gì bây giờ?!
Không ai tự chặt chân mình, tự làm phiền mình trong công việc cả.
Thành thử cứ với nhận thức như hiện nay, thì dù nhiệt tình đến đâu cũng chỉ có thể có những cải cách hời hợt chứ không thể có những thay đổi cơ bản.
Qua các trang mạng tôi được biết một tờ báo của Pakistan cuối tháng 9 - 2012, có bài nói khá đúng về giáo dục VN. Tác giả bài báo kể một giáo viên VN nói với ông ta "Hệ thống giáo dục của chúng tôi đang đi xuống dốc".
Và người giáo viên VN bổ sung "Nếu xu hướng này tiếp tục, chúng tôi sẽ chỉ có các quan chức ngu ngốc và những con người xảo trá".
Vậy là tình trạng lê lết hiện nay ai cũng biết, nhưng không có cách cứu vãn.
Hai đề nghị của Myanmar về giáo dục mà chúng ta khó nuốt
Khi bàn về cải cách ở Myanmar, lãnh tụ dân chủ Aung San Suu Kyi có mấy ý kiến về giáo dục mà tôi thấy rất tâm đắc.
Trước tiên bà bảo, sau giai đoạn thuộc địa và thời kỳ sống trong chuyên chế, nay cái mà Myanmar cần là đào tạo nhiều thợ học nghề chứ không phải đào tạo kỹ sư.
Đội ngũ trí thức trẻ, cần thì cần thật nhưng phải là thứ thiệt. Lấy đâu ra đại học tử tế để có số kỹ sư cần thiết ấy? Vậy phải tạm xếp yêu cầu đó lại.
Cách chuẩn bị tích cực nhất là nhờ nước ngoài, theo kinh nghiệm của Myanmar là nhờ Anh.
Lâu nay sách sử dạy trong các trường học Myanmar vẫn soạn theo tinh thần của các nhà sử học Anh khi viết về Myanmar. Cả nền giáo dục trước sau tính là phải theo những chuẩn mực quốc tế.
Riêng đại học Rangoon vẫn là đại học có tiếng ở Đông Nam Á.
Vậy mà theo Aung San Suu Kyi, thế vẫn chưa đủ. Bà bảo trong thời gian giới quân sự nắm quyền, giới sinh viên được đào tạo thành những con người biết vâng lời và làm theo mệnh lệnh hơn là con người sáng tạo. Và bà đề nghị phải làm lại nền đại học này. Trong tình hình của Myanmar, nước phải nhờ là nước Anh.
Chỉ có cách đó
Thoáng đọc, chắc ai cũng thấy các đề nghị nói trên dựa trên những nguyên tắc xa lạ với giáo dục VN.
Ngay cái chuyện đừng tính đại học vội mà hãy lo đào tạo công nhân lành nghề -- ý kiến ấy cũng khó nuốt lắm. Như thế là thoái thác cái đề án “xây dựng công nghiệp hiện đại nông nghiệp hiện đại, văn hoá giáo dục tiên tiến” sao ? Ai mà chịu nổi.
Đến như cái điểm đi nhờ giáo dục nước ngoài, lại càng không ai nghe được.
Ta quen thói tự tin, cho rằng cái gì cũng phải lấy tinh thần độc lập tự chủ làm đầu. Thế thì ai lại muối mặt đi nhờ các nước phương Tây mà ta vừa thèm muốn được như họ, vừa căm ghét sao họ hơn mình nhiều thế?
Sở dĩ người Myanmar đi tới những định hướng trên đây, bởi ở họ có một tinh thần thực sự cầu thị.
Họ cho rằng họ phải học hỏi nước ngoài nhiều thì mới có được một nền giáo dục cần thiết.
Ta thì luôn luôn tự hào rằng mình có một truyền thống giáo dục hết sức tốt đẹp, và chỉ cần có tiền là sẽ làm được hết.
Trong mọi việc ta thường chỉ lo làm dáng. Khi đứng trước một việc mà thâm tâm thấy bất lực, liền đánh bài lấp liếm, mức cao hơn nữa là tự lừa dối chính mình cho xong chuyện.
Nhưng tôi vẫn thấy trong hoàn cảnh của ta, cái phương án Myanmar nói trên là phương hướng khả dĩ.
Trước mắt là không nên thảo luận về cải cách gì cả.
Bộ phận giáo dục hiện nay đã hỏng hẳn với nghĩa là tự nó không thể nghĩ ra phương hướng thay đổi. Và giả sử có phương hướng đúng thì những người trong cuộc cũng không theo nổi.
Ví dụ dù có tung ra bao nhiêu tiền của chăng nữa thì bộ phận soạn sách giáo khoa ở ta hiện nay cũng không sao làm nổi một bộ sách giáo khoa cần thiết.
Và giá có bộ sách ấy thì hệ thống giáo viên cũng không đủ sức dậy theo.
Vừa rồi có một đề nghị là phải trả lại tự do cho ngành giáo dục. Nhưng kinh nghiệm của tôi bên văn chương cho thấy một bài học khác. Các nhà văn của ta bị trói quá lâu, đúng hơn là bị đào tạo vội vàng, cũng tiên thiên bất túc y như bên giáo dục. Luôn miệng đòi tự do nhưng lại không biết làm gì với thứ tự do đó cả. Khi được cởi trói một chút thì chỉ có tự do hoang dại là phát triển.
Từ bỏ chủ nghĩa bình quân
Cũng phải nói thêm, sở dĩ chúng ta biết không đạt chuẩn mực vẫn cứ làm, lý do là vì muốn ai cũng được hưởng phúc lợi giáo dục. Ngay trong hoàn cảnh xã hội chưa trưởng thành mọi mặt trong đó khâu thấy rõ nhất là về kinh tế, ta cũng vẫn cố phổ cập giáo dục rộng rãi để lấy tiếng và để mọi người ai cũng có thể vừa lòng.
Nay có lẽ đã đến lúc chúng ta phải lựa chọn: hoặc chất lượng giáo dục hoặc số lượng.
Tức một việc đau xót có thể xảy ra, là phải tạm thời từ bỏ nguyên tắc phổ cập đó, lùi một bước tiến ba bước.
Giống như trong kiếm sống, phải có người giàu trước người giàu sau, -- thời gian trước mắt, trong giáo dục chúng ta chỉ có thể bảo đảm cho một số nhỏ thanh thiếu niên được học hành cẩn thận, còn đa số sẽ chỉ được trang bị một ít kiến thức cơ bản rồi lo học nghề, để ra làm thợ, có lẽ như thế sẽ hợp lý hơn chăng?
Còn làm như hiện thời, cố để mà phổ cập giáo dục là một việc quá sức, và thực tế là sẽ không bao giờ có thể có giáo dục với nghĩa đúng đắn của nó.
-- Nói cho hình ảnh một chút, nó đang lê lết trong cảnh trì trệ. Về triển vọng, thì có vẻ bệnh ở dạng vô phương cứu chữa. Tức nếu không dỡ bỏ làm lại thì vùng vẫy đến mấy cũng sẽ không ra khỏi cái tình trạng suy thoái hiện có.
Tôi biết nói vậy là bi quan. Nhưng nếu biết vượt lên tình cảm thông thường và có cái nhìn khách quan, cũng như sử dụng tới những thước đo hiện đại khi đánh giá tình hình bàn việc cải cách, chắc chúng ta không thể nghĩ khác.
Một dạng "tiên thiên bất túc"
Lùi lại nhìn ngành giáo dục của ta từ hồi kháng chiến chống Pháp, rồi qua chống Mỹ và hậu chiến gần 40 năm nay, tôi thấy nó được xây dựng ngoài những chuẩn mực chặt chẽ mà mọi nền giáo dục phải có. Như một cơ thể, nó thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng .
Ta hay có lối làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm.
Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương tự… trở về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. Chỉ có riêng ta thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế thấp hơn chuẩn mực rất nhiều.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn đang bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Ta hay quen miệng nói chúng ta rất có truyền thống về giáo dục. Sự thực, giáo dục VN thời trung đại còn quá non nớt không đủ hình thành một hệ thống. Tới nền giáo dục mà người Pháp mang lại thì mới tàm tạm.
Nhưng rồi mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất ở ta, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền bắc bắt miền nam phải theo.
Tạm ví như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi chứ đâu có đứng yên.
Sửa vặt chỉ là vô nghĩa
Luôn luôn xảy ra tình trạng trường không đáp ứng đúng chuẩn mực cũng cố mà mở, giáo viên chưa đủ trình độ cũng cho dạy, học sinh không đủ trình độ cũng cho lên lớp, sinh viên ra trường không ai nhận cũng cứ xin thêm chỉ tiêu đào tạo.
Trước mắt chúng ta là một cơ thể lúc nào cũng ốm yếu quặt quẹo.
Đây đó, nó có được chấn chỉnh chỗ này thì chỗ khác lại làm bừa làm bậy rõ hơn. Mọi sự sửa chữa chẳng qua chỉ là đắp điếm giả tạo.
Tình trạng tuyệt vọng thấy rõ là khi mọi sự đã không còn thay đổi được nữa.
Dăm bảy năm nay, nhận thấy các trường công lập bị bao ràng buộc, nhiều người đã tính bàn nhau mở thêm các trường dân lập.
Gia đình tôi cũng thử xem sao, cho con đi học dân lập, sau mới ngớ ra. Nếp làm giáo dục ở ta mấy chục năm nay nó đã thế rồi, thì lúc ra tồn tại với danh nghĩa khác, người ta cũng cứ đường cũ mà đi.
Khi các giáo viên vẫn thế, người quản lý các trường cũng thế, chuyện các trường dân lập có đủ bệnh như trường công lập nói chung thật dễ hiểu.
Thế thì còn có cách nào mà cựa bây giờ?
Để cùng xác định mức độ nghiêm trọng, và sự bất lực đã trở thành chắc chắn, xin có một chút liên hệ:
Đọc báo gần đây, thấy các cơ quan quản lý giao thông đề nghị mọi người hiến kế để có cách làm sao tai nạn giao thông có thể mỗi ngày mỗi giảm.
Nhưng vấn đề là ở chỗ người ta phải dự tính điều này từ khoảng mười lăm hai mươi năm trước, khi số lượng các phương tiện giao thông còn tạm chấp nhận được. Chứ với mức độ xe máy như hiện nay, trên tình trạng đường sá hiện nay thì có tài thánh cũng không hạn chế nổi tai nạn.
Sức ì của người trong cuộc
Khi không có những điều kiện cần và đủ mà bắt buộc phải tồn tại, tự bản thân cơ chế giáo dục phải có cách thích ứng, lâu dần nó tự ổn định trong tình trạng hiện thời và tự nhiên là trở nên trơ lì, không thể phấn đấu thành cái đáng ra nó phải thế, cũng tức là không thể trở thành đúng như chuẩn mực nữa.
Quán tính tự bảo vệ không cho phép người trong ngành thấy hết bệnh tật đang có trong cái môi trường người ta tồn tại.
Một điều không ai nói ra nhưng ai cũng biết, lâu nay giáo dục đã là nơi sinh sống làm ăn của bao nhiêu con người. Nay giả thử có sự thay đổi thì những người đó đi đâu làm gì bây giờ?!
Không ai tự chặt chân mình, tự làm phiền mình trong công việc cả.
Thành thử cứ với nhận thức như hiện nay, thì dù nhiệt tình đến đâu cũng chỉ có thể có những cải cách hời hợt chứ không thể có những thay đổi cơ bản.
Qua các trang mạng tôi được biết một tờ báo của Pakistan cuối tháng 9 - 2012, có bài nói khá đúng về giáo dục VN. Tác giả bài báo kể một giáo viên VN nói với ông ta "Hệ thống giáo dục của chúng tôi đang đi xuống dốc".
Và người giáo viên VN bổ sung "Nếu xu hướng này tiếp tục, chúng tôi sẽ chỉ có các quan chức ngu ngốc và những con người xảo trá".
Vậy là tình trạng lê lết hiện nay ai cũng biết, nhưng không có cách cứu vãn.
Hai đề nghị của Myanmar về giáo dục mà chúng ta khó nuốt
Khi bàn về cải cách ở Myanmar, lãnh tụ dân chủ Aung San Suu Kyi có mấy ý kiến về giáo dục mà tôi thấy rất tâm đắc.
Trước tiên bà bảo, sau giai đoạn thuộc địa và thời kỳ sống trong chuyên chế, nay cái mà Myanmar cần là đào tạo nhiều thợ học nghề chứ không phải đào tạo kỹ sư.
Đội ngũ trí thức trẻ, cần thì cần thật nhưng phải là thứ thiệt. Lấy đâu ra đại học tử tế để có số kỹ sư cần thiết ấy? Vậy phải tạm xếp yêu cầu đó lại.
Cách chuẩn bị tích cực nhất là nhờ nước ngoài, theo kinh nghiệm của Myanmar là nhờ Anh.
Lâu nay sách sử dạy trong các trường học Myanmar vẫn soạn theo tinh thần của các nhà sử học Anh khi viết về Myanmar. Cả nền giáo dục trước sau tính là phải theo những chuẩn mực quốc tế.
Riêng đại học Rangoon vẫn là đại học có tiếng ở Đông Nam Á.
Vậy mà theo Aung San Suu Kyi, thế vẫn chưa đủ. Bà bảo trong thời gian giới quân sự nắm quyền, giới sinh viên được đào tạo thành những con người biết vâng lời và làm theo mệnh lệnh hơn là con người sáng tạo. Và bà đề nghị phải làm lại nền đại học này. Trong tình hình của Myanmar, nước phải nhờ là nước Anh.
Chỉ có cách đó
Thoáng đọc, chắc ai cũng thấy các đề nghị nói trên dựa trên những nguyên tắc xa lạ với giáo dục VN.
Ngay cái chuyện đừng tính đại học vội mà hãy lo đào tạo công nhân lành nghề -- ý kiến ấy cũng khó nuốt lắm. Như thế là thoái thác cái đề án “xây dựng công nghiệp hiện đại nông nghiệp hiện đại, văn hoá giáo dục tiên tiến” sao ? Ai mà chịu nổi.
Đến như cái điểm đi nhờ giáo dục nước ngoài, lại càng không ai nghe được.
Ta quen thói tự tin, cho rằng cái gì cũng phải lấy tinh thần độc lập tự chủ làm đầu. Thế thì ai lại muối mặt đi nhờ các nước phương Tây mà ta vừa thèm muốn được như họ, vừa căm ghét sao họ hơn mình nhiều thế?
Sở dĩ người Myanmar đi tới những định hướng trên đây, bởi ở họ có một tinh thần thực sự cầu thị.
Họ cho rằng họ phải học hỏi nước ngoài nhiều thì mới có được một nền giáo dục cần thiết.
Ta thì luôn luôn tự hào rằng mình có một truyền thống giáo dục hết sức tốt đẹp, và chỉ cần có tiền là sẽ làm được hết.
Trong mọi việc ta thường chỉ lo làm dáng. Khi đứng trước một việc mà thâm tâm thấy bất lực, liền đánh bài lấp liếm, mức cao hơn nữa là tự lừa dối chính mình cho xong chuyện.
Nhưng tôi vẫn thấy trong hoàn cảnh của ta, cái phương án Myanmar nói trên là phương hướng khả dĩ.
Trước mắt là không nên thảo luận về cải cách gì cả.
Bộ phận giáo dục hiện nay đã hỏng hẳn với nghĩa là tự nó không thể nghĩ ra phương hướng thay đổi. Và giả sử có phương hướng đúng thì những người trong cuộc cũng không theo nổi.
Ví dụ dù có tung ra bao nhiêu tiền của chăng nữa thì bộ phận soạn sách giáo khoa ở ta hiện nay cũng không sao làm nổi một bộ sách giáo khoa cần thiết.
Và giá có bộ sách ấy thì hệ thống giáo viên cũng không đủ sức dậy theo.
Vừa rồi có một đề nghị là phải trả lại tự do cho ngành giáo dục. Nhưng kinh nghiệm của tôi bên văn chương cho thấy một bài học khác. Các nhà văn của ta bị trói quá lâu, đúng hơn là bị đào tạo vội vàng, cũng tiên thiên bất túc y như bên giáo dục. Luôn miệng đòi tự do nhưng lại không biết làm gì với thứ tự do đó cả. Khi được cởi trói một chút thì chỉ có tự do hoang dại là phát triển.
Từ bỏ chủ nghĩa bình quân
Cũng phải nói thêm, sở dĩ chúng ta biết không đạt chuẩn mực vẫn cứ làm, lý do là vì muốn ai cũng được hưởng phúc lợi giáo dục. Ngay trong hoàn cảnh xã hội chưa trưởng thành mọi mặt trong đó khâu thấy rõ nhất là về kinh tế, ta cũng vẫn cố phổ cập giáo dục rộng rãi để lấy tiếng và để mọi người ai cũng có thể vừa lòng.
Nay có lẽ đã đến lúc chúng ta phải lựa chọn: hoặc chất lượng giáo dục hoặc số lượng.
Tức một việc đau xót có thể xảy ra, là phải tạm thời từ bỏ nguyên tắc phổ cập đó, lùi một bước tiến ba bước.
Giống như trong kiếm sống, phải có người giàu trước người giàu sau, -- thời gian trước mắt, trong giáo dục chúng ta chỉ có thể bảo đảm cho một số nhỏ thanh thiếu niên được học hành cẩn thận, còn đa số sẽ chỉ được trang bị một ít kiến thức cơ bản rồi lo học nghề, để ra làm thợ, có lẽ như thế sẽ hợp lý hơn chăng?
Còn làm như hiện thời, cố để mà phổ cập giáo dục là một việc quá sức, và thực tế là sẽ không bao giờ có thể có giáo dục với nghĩa đúng đắn của nó.
Published on March 23, 2014 21:26
March 19, 2014
"Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ"
Bài trả lời phỏng vấn đã in trên VietNamNet 20/10/2007
Hoàng Lê thực hiện
Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn
xổi
Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung
quanh sự kiện một diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một
người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?
Có hai hiện tượng cần ghi nhận.
Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận
lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề
thói đạo đức thông thường.
Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một
đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như
một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu
ứng lửa rơm.
Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có.
Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý,
mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và
bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ
đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có
hại..
Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung
quanh một chuyện cá nhân là bất thường?
Bất thường theo nghĩa hẹp mà không bất thường theo nghĩa rộng. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh
quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc
điểm của tính cách người Việt.
Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm ( giáo sư , viện sĩ, nhà nghiên cứu văn hoá
- PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí
còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống
giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.
Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.
Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn,
thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ
qua đi nhanh.
Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt
lên một trình độ sống khác.
Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy
tình" có những điểm nào không đáng để tự hào?
Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của
tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.
Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái
gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc
thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, điều rất cần trong xã hội hiện đại.
Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng
sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát,
ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.
Đằng sau nó là những nguyên nhân lịch sử...
Một khối tự phát khổng lồ
Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông
muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không? Liệu ông
có biết rằng nhiều người không tán thành?
Biết chứ. Ngay như bản thân tôi, cũng đã
nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn
chứng phủ định thuyết phục.
Với những người muốn nói khác đi, tôi không ngại, tự nhủ miễn là chúng ta cùng
lắng nghe nhau một chút.
Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt
cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào
là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?
Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình
bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.
Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh
dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ". Người Việt ít đặt vấn đề
dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo
thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu
là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo
lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.
Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta
hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ
toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền",
"ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.
Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được
cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung
Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận
Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.
Bàn một chút về các yếu tố góp phần vào sự hình thành tính cách
dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?
Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho
rằng đó là bởi các lý thuyết này khác mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn chủ
thuyết cộng sản.... Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm
trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.
Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những
cách để nhận chân lại mình.
Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một
giống người với đặc điểm riêng của họ.
Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt
dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.
Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần
có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất
nhiều người đi chân đất.
Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho
cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức
chịu đựng hơn... Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách
dân tộc.
Chính chiến tranh đã nuôi dưỡng ảo
tưởng
Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển
ra sao?
Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành
cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính
nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.
Thời trung đại việc dùng chữ Hán trong đời sống chính thức -- mà lại dùng một cách vụng về thô thiển - đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi
sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ
thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng
thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói
và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.
Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều
các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách
dân tộc không, theo ông?
Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và
càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.
Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là
tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời,
thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.
Cụ thể hơn, hai cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa
qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?
Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói
chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như
thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra
mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với
trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình
hơn mà lại buông thả hơn.
Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính
cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?
Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa
thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn
cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến
tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức
lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với
một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏi, một sự mệt
mỏi kéo dài cho đến hôm nay.
Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng
nhìn đâu cũng thấy.
Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá
khắt khe khi quá dễ dãi, - tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến
giờ -- cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.
Hoàng Lê thực hiện
Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn
xổi
Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung
quanh sự kiện một diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một
người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?
Có hai hiện tượng cần ghi nhận.
Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận
lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề
thói đạo đức thông thường.
Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một
đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như
một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu
ứng lửa rơm.
Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có.
Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý,
mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và
bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ
đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có
hại..
Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung
quanh một chuyện cá nhân là bất thường?
Bất thường theo nghĩa hẹp mà không bất thường theo nghĩa rộng. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh
quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc
điểm của tính cách người Việt.
Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm ( giáo sư , viện sĩ, nhà nghiên cứu văn hoá
- PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí
còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống
giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.
Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.
Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn,
thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ
qua đi nhanh.
Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt
lên một trình độ sống khác.
Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy
tình" có những điểm nào không đáng để tự hào?
Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của
tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.
Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái
gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc
thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, điều rất cần trong xã hội hiện đại.
Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng
sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát,
ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.
Đằng sau nó là những nguyên nhân lịch sử...
Một khối tự phát khổng lồ
Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông
muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không? Liệu ông
có biết rằng nhiều người không tán thành?
Biết chứ. Ngay như bản thân tôi, cũng đã
nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn
chứng phủ định thuyết phục.
Với những người muốn nói khác đi, tôi không ngại, tự nhủ miễn là chúng ta cùng
lắng nghe nhau một chút.
Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt
cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào
là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?
Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình
bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.
Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh
dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ". Người Việt ít đặt vấn đề
dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo
thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu
là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo
lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.
Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta
hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ
toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền",
"ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.
Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được
cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung
Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận
Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.
Bàn một chút về các yếu tố góp phần vào sự hình thành tính cách
dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?
Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho
rằng đó là bởi các lý thuyết này khác mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn chủ
thuyết cộng sản.... Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm
trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.
Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những
cách để nhận chân lại mình.
Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một
giống người với đặc điểm riêng của họ.
Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt
dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.
Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần
có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất
nhiều người đi chân đất.
Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho
cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức
chịu đựng hơn... Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách
dân tộc.
Chính chiến tranh đã nuôi dưỡng ảo
tưởng
Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển
ra sao?
Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành
cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính
nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.
Thời trung đại việc dùng chữ Hán trong đời sống chính thức -- mà lại dùng một cách vụng về thô thiển - đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi
sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ
thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng
thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói
và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.
Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều
các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách
dân tộc không, theo ông?
Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và
càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.
Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là
tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời,
thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.
Cụ thể hơn, hai cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa
qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?
Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói
chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như
thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra
mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với
trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình
hơn mà lại buông thả hơn.
Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính
cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?
Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa
thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn
cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến
tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức
lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với
một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏi, một sự mệt
mỏi kéo dài cho đến hôm nay.
Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng
nhìn đâu cũng thấy.
Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá
khắt khe khi quá dễ dãi, - tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến
giờ -- cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.
Published on March 19, 2014 02:50
March 13, 2014
Ba ngày ở Myanmar, 3/2013
Bài đã in trên blog này 5-4-2013
Những "cái không" mà người VN thấy lạ
Một chút tò mò thúc đẩy tôi muốn sớm đến Yangon: người ta bảo thành phố
đó tuyệt đối không có xe gắn máy. Đến đây lại thấy cái chuyện tưởng là
kỳ lạ ấy thật ra không có gì phải ngạc nhiên.
Cuộc sống các nước nghèo Đông Nam Á lẽ ra nó phải như thế. Xe máy nhộn
nhạo cuồng loạn như chúng ta là hiện đại gắng gượng, hiện đại nửa vời,
hiện đại giả tạo.
Sau đây là một vài "cái không" khác của Yangon.
Nhà cửa không cao, không có các loại cao ốc vài chục tầng, chỉ có những
chung cư nhỏ. Tường nhà nhiều nơi cũ kỹ. Đường phố không dày đặc những
biển quảng cáo hàng ngoại.
Trên vỉa hè những bóng người thưa thớt đi lại chậm rải. Cộng với sự từ
tốn của phương tiện giao thông, vẻ thanh thản của con người trên đường
khiến khách phương xa mới tới có ngay cảm giác về sự ngự trị của trật
tự. Không thấy một bóng cảnh sát giao thông gọi là có.
Người đi đường không mỗi người một điện thoại cầm tay bấm nhoay nhoáy rồi nói cố gào thật to để át đi tiếng ồn phố xá.
Nhìn vào các gia đình, cũng như trong các công trình công cộng, không
thấy chỗ nào cũng một cái Tivi, hết quảng cáo mời chào mua hàng, lại
lôi kéo giục giã người ta dán mắt vào các bộ phim nước ngoài sặc mùi bạo
lực hoặc cải lương mùi mẫn.
Một chút so sánh khi nhìn vào cuộc sống tinh thần
Liên hệ tới xứ mình.
Đáng lẽ quay trở về với xã hội tiểu nông trước chiến tranh để bình tĩnh
băng bó những vết thương cũ dần dần khôi phục đất nước thì xã hội VN sau
1975 lại làm ngược lại.
Người ở nông thôn dồn lên đô thị. Các chiến binh -- vốn không được chuẩn
bị để có hiểu biết cần thiết về việc làm ăn xây dựng -- chia nhau lấp
đầy bộ máy quản lý, điều hành mọi mặt kinh tế xã hội văn hóa giáo dục.
Hỗn loạn chồng lên hỗn loạn. Nhưng mặc, tất cả hoan hỉ coi như xã hội
mình đã bước vào cuộc sống hiện đại, bất chấp thực tế đó là một thứ quả
chín ép dễ dàng biến dạng.
Chúng ta luôn luôn thèm muốn một cuộc sống khác với cuộc sống mình vốn
có. Cuống cuồng ăn nói đi lại. Cuống cuồng lừa đảo nhau hành hạ nhau.
Cuống cuồng hưởng thụ, cố bắt cho được cái gì gọi là giàu có hiện đại
mà người phương Tây đang có.
Sở dĩ cuống cuồng là vì ta biết mình xa lạ biết bao với cái hiện đại
thực sự. Càng bước gần hiện đại càng thiếu tự tin. Bằng con đường chính
thường không bao giờ đạt được ước muốn nên làm liều làm lấy được.
Đối lập lại là cách làm của Myanmar. Nội dung của sự thanh thản, yên
bình lương thiện ở Yangon, là cái tinh thần tự nhận thức âm thầm của xã
hội Miến. Người ta biết là người ta đang ở chỗ nào của thế giới này. Tự
bằng lòng với mình. Yên tâm là có một xã hội phù hợp với trình độ sống
vốn có.
Năm 2010, đến Siemriep Campuchia, tôi ngạc nhiên vì trong khi khách nước
ngoài nườm nượp thì thỉnh thoảng mới thấy một người bản địa. Giá VN có
một di tích như thế xem. Dân mình sẽ đổ xô đến, ngoài chuyện làm dịch vụ
kiếm sống trên lưng nhau, còn để thêm niềm “tự sướng” là ông cha mình
đã tài ba giỏi giang đến thế đấy, nước mình vĩ đại ghê lắm.
Chùa Vàng mà bọn tôi đến hôm nay cũng là một cái gì ngoại cỡ. Chiều thứ
bẩy, người ta đổ đến lấp kín khu chùa mênh mông. Không thấy có cảnh
chen vai thích cánh xô đẩy nhau chen bật nhau. Đến chùa ở đây là để
tưởng niệm. Để được sống dưới bóng từ bi, cả gia đình con cái cầu cúng
xong ăn bữa cơm đạm bạc bên chân tháp. Thế thôi.
Trong khi chúng ta làm khổ nhau bằng những ám ảnh đâu đâu, thì người ta lẳng lặng sống theo cái nếp làm người vốn có.
Ngoài đường, thỉnh thoảng lại gặp những đàn bồ câu lớn, tụ tập tự
nhiên, không biết sợ người là gì; cạnh đấy thường có một người ngồi bán
các loại thức ăn dành cho chim.
Tản mát khắp các phố xá là những nhà sư khất thực, kể cả các em nhỏ mới
vào chùa, tự nguyện sống cái cuộc sống đơn sơ của bao thế hệ đi trước.
Lặng lẽ để thay đổi
Sự ồn ào trên đường phố VN chẳng qua cũng là một biểu hiện của sự quá ồn quá lố trong đời sống nói chung.
Mà rõ nhất là cái ồn bắt nguồn từ mạng lưới truyền thanh truyền hình tuyên truyền quảng cáo làm khổ con người hàng ngày.
Tôi đã nói trên đường phố Yangon tịnh không nghe thấy những tiếng nói
đầy áp đặt đó. Trong căn phòng ở khách sạn, khi mở ti-vi, tôi cũng chỉ
thấy chỉ có một kênh riêng của nhà nước Miến, ngoài ra là một số kênh
nước ngoài, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở con số 12 .
Thế có phải là đất nước này cứ dứng lì một chỗ ? Không phải, giở lại lịch sử từ 1947 đến nay đã thấy họ bao thay đổi.
Khi tôi từ Myanmar trở về, mấy người quen hỏi ngay là sao liều thế, thấy
nói là ở bên đó quân ly khai các vùng đang nổ súng cơ mà. Không, tôi
có cảm tưởng là ở cái xứ thanh bình này ai làm việc đó, chính trị là
việc của một số người hiểu biết chứ không phải việc của bất cứ ai.
Ở họ là những rắc rối nhỏ của một tình thế bình thường. Mình thì là cả một tổng thể rắc rối. So làm sao được.
Trong cơn bế tắc, dân mình đang bàn tán nhiều tới những thay đổi bên
nước Myanmar mà tổng thống Thein Sein mang lại mấy năm nay. Và nhiều
người cấp tiến lại còn tính chuyện giá ta cũng làm như họ.
Tôi thử giải đáp cho mình những câu hỏi loại này bằng cách nhớ lại một
vài tin tức cũ. Ví dụ, trong số các tin tức mà tôi đọc được về Myanmar
hồi trước có mẩu tin công chức Myanmar rất chuyên nghiệp, người nào cũng
thành thạo tiếng Anh và không được đồng thời lo làm kinh tế riêng.
Bộ máy nhà nước và những con người của bộ máy đó khác chúng ta lắm, làm gì có chuyện ta sẽ có ngày như họ.
Mấy điều nhỏ sau đây hé ra cho thấy cung cách vận động của đời sống chính trị của Myanmar.
-- Xứ sở này không hề lệ thuộc vào những danh hiệu sẵn có. Lúc họ gọi
họ là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Miến Điện, lúc thì lại Liên bang
Myanmar.
-- Thủ đô Rangoon đang rộng rãi hợp lý như thế, nhưng thấy cần thì lại thiết lập thủ đô mới ở Naypydaw.
Cốt nhất là sự trung thành với tương lai chứ không phải trung thành với quá khứ.
Đáng phải lo nhất là sự tử tế của con người và sự thịnh vượng của xứ sở chứ không phải cái tiếng hão.
Đâu mới là xứ sở của vẻ đẹp tiềm ẩn
Khi viết bài này, tôi có lên mạng và đọc được một bài của một bạn trẻ tên
Phùng Kim Yến viết sau 6 ngày ở Myanmar, trong đó có câu nói về cái đẹp
tổng quát của xứ sở mà bọn tôi vừa tới: đất nước có vẻ đẹp và cái duyên
dáng tiềm ẩn ( the hidden charm ).
Sau khi bảo đây vốn là slogan của du lịch VN, bạn Yến nhấn mạnh:
Trong suy nghĩ của tôi, không phải Việt Nam mà chính Myanmar, mới là đất nước có vẻ đẹp và cái duyên dáng tiềm ẩn .
Tôi cũng thấy thế. Tôi muốn bổ sung, còn rất nhiều thứ khác xứ ta không
có, song dân ta lại thích đưa lên thật oách, và cố buộc mọi người tin
rằng ta có. Tức đua đòi và khoe khoang một cách lố bịch không phải là
bệnh riêng của ngành du lịch VN.
Published on March 13, 2014 17:40
March 12, 2014
Nguyễn Công Hoan và cuốn hồi ký "Đời viết văn của tôi"
Quyển sách phải có
Với khối lượng chữ nghĩa đã viết, trong văn
học VN hiện đại, tác giả Bước đường
cùng phải được xem như một trong số
những người viết hoạt động có hiệu quả bậc nhất.
Trong khi không sống hẳn giữa giới
cầm bút mà lấy dạy học làm nghề chính,
Nguyễn Công Hoan vẫn biết giữ cho mình một nếp làm việc đều đặn. Giữa dự định và công việc, thường khi có sự ăn
khớp. Đã viết là in được.
Ông lại luôn biết chăm lo tới tay nghề. Dễ không ai
say sưa nói về kỹ thuật viết truyện như ông, nào là dàn quân nào là bài binh bố
trận, và cuối cùng còn là bẫy độc giả là
đưa suy nghĩ của họ vào đúng cái luồng lạch mình đã bố trí sẵn khiến họ như cá
vào lờ không sao thoát ra nổi....
Từng cách thức được ông kể lại tỉ mỉ với niềm
tin không thể lay chuyển: viết văn phải có mẹo có mực chứ không lơ mơ tùy tiện
được.
Sự xuất hiện của một cuốn sách hồi ký như Đời
viết văn của tôi (1971) nằm trong cái mạch liên tục ấy. Nó là một bằng chứng nữa
đánh dấu tính cách chuyên nghiệp của ngòi bút tác giả.
Một cách tự nhiên, đúng
hơn một cách bản năng không cần tính toán gì nhiều, thật ra ông đã tiếp nhận
quan niệm về một nhà văn chuyên nghiệp thường thấy ở phương Tây: sau những năm
tháng cặm cụi làm việc một người làm
nghề thực thụ thể nào cũng
phải để ra một ít thời gian tính đếm lại đời mình. Hồi ký nên được coi
là cái dấu chấm hết đẹp đẽ nhất cho một đời viết sung mãn.
Hoàn cảnh ra đời
Cuộc hành nghề của Nguyễn Công Hoan trước 1945 có thể
gọi là khá thành đạt. Thế nhưng từ sau 1945, quá trình sáng tác của ông so với các đồng nghiệp trẻ
hơn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng... có nhiều chỗ khác, nếu không muốn nói là xỉn hơn, kém hơn rõ rệt.
Tám năm kháng chiến, trong khi nhiều nhà
văn đấu đầu lo liệu cho Hội văn nghệ
thì ông làm việc ở một trường bổ túc văn
hoá của quân đội, và chỉ sau hoà bình lập lại 1954 mới trở về nhận biên chế ở Hội nhà văn.
Sự nhập cuộc trở lại này không mấy hiệu
quả.
Trong khi những Sông Đà, Truyện Tây Bắc hoặc Riêng chung, Anh sáng và phù sa...viết
thẳng về cuộc sống mới và được dư luận đón đợi, được đủ các loại giải
thưởng to nhỏ thì Nguyễn Công Hoan chủ
yếu viết lại cuộc sống trước 1945 như Tranh
tối tranh sáng(1956), Hỗn canh hỗn cư
(1961), Đống rác cũ (1963), và mặc dù các sáng tác ấy đã được tác giả đặt
nhiều công sức, song có vẻ như chúng không tương xứng với tầm vóc và tiếng tăm của ông.
Khi ra đời chúng chỉ được chào đón một cách dè dặt.
Có cuốn chỉ in được tập một
rồi dừng lại hơn hai chục năm sau mới ra
nốt được tập hai (Đống rác cũ).
Có cuốn viết xong đành xếp tạm đấy mãi khi
nhà văn qua đời mới được in ( Anh con trai người bạn đọc ấy).
Một
người ưa hoạt động coi việc viết ngang
với cơm ăn nước uống hàng ngày như
Nguyễn Công Hoan trước cảnh bí bách không chịu bó tay. Ông xoay ra làm
một số việc khác như đi phỏng vấn các đồng nghiệp (Hỏi chuyện các nhà văn)
hoặc đính chính thơ văn của Nguyễn Khuyến,Tú Xương...
Dẫu sao có thể dự đoán, càng ngày ông càng
cảm thấy vốn liếng mình là ở như những hiểu biết về xã hội cũ và chỉ trong khi viết về xã hội cũ mình mới trở nên có ích hơn cho con người đương thời.
Cái định hướng này có thể ngẫu nhiên song đúng là đã trở thành nhất quán ở
Nguyễn Công Hoan.
Ông sớm tính chuyện viết hồi ký.
Qua bảng niên biểu của một nhà nghiên cứu làm về Nguyễn Công Hoan, tôi được biết ngay từ cuối năm 1957, Đời viết văn của tôi đã có bản sơ thảo.
Tới năm 1969 thì hoàn thành, và hai năm sau thì được in ra ở nhà
xuất bản chuyên về văn chương duy nhất
bấy giờ là nhà Văn học.
Tô
Hoài, trong một bài viết về Nguyễn Công Hoan, từng ghi lại đoạn đối thoại sau:
(... ) Lại đến năm trước anh kể :
--Tôi mới nghĩ ra cái truyện dài,cái truyện
dài này thì dài vô tận.
--Truyện
gì ạ ?
--Truyện
nhớ gì ghi nấy.
Tôi vẫn chưa hiểu. Anh cắt nghĩa: ở tuổi anh bây giờ, những từng trải những mắt thấy
tai nghe, từ lúc mất nước đến khi độc lập,biết bao phong phú, phải ghi lại cho
lớp người sau biết. Thế là anh đóng từng tập giấy hàng trăm trang, mỗi khi nhớ
việc gì,suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Ghi hết giấy anh đóng tập khác.
Những ý tưởng này chủ yếu liên quan đến tập
Nhớ gì ghi nấy, song cũng đã hé ra cho thấy một phần cái tâm sự của nhà văn
khi đến với Đời viết văn của tôi. Đặt vào thời điểm mà cuốn sách được
viết, phải nói sự xuất hiện của nó là táo bạo bởi lẽ khoảng những năm năm mươi
sáu mươi thế kỷ XX, số nhà văn ở ta tính chuyện nhìn lại đời mình một cách rành
mạch, số đó còn rất ít.
Một kiểu viết hồi ký, một kiểu tự phân tích
Thể hồi ký vốn mang trong nó một sự đa dạng
nhất định. Ở đây có những nguyên tắc chung, nhưng lại có chỗ rộng rãi cho sự sáng tạo. Lấy ngay thí dụ
trong văn học VN hiện đại. Có hồi ký gần
với tự truyện, tức là một thứ tiểu thuyết, như Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng. Có hồi ký có tính cách một sự suy nghĩ lại về đời mình và do đó
giàu chất chính luận như Tự phán của Phan Bội Châu.
Về
mặt nhân vật mà xét, có khi tác giả bám
sát quá trình cầm bút của bản thân như Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê, lại có khi người
viết như tránh sang một bên, để nói về
một ai đó hoặc nói chung về những người tác giả đã gặp và có vẻ chỉ nhân
tiện mà nói thêm về mình như Cát bụi chân ai của Tô Hoài.
Còn Đời viết văn của tôi thì sao ?
Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, cuốn
sách nhằm tới cái đích chung là phác hoạ
sự hình thành tính cách của tác giả và con đường tác giả đến với văn học. Ông
không chủ ý kể về đời mình một cách chi tiết, theo kiểu bám sát từng năm hoặc
từng thời kỳ một. Mà ông khái quát lại thành các phần Ảnh hưởng …Hoạt động…
Sáng tác...
Trong khi hàng ngày, nhà văn thường vẫn tuyên bố là mình viết
một cách hồn nhiên không đắn đo cân nhắc gì nhiều thì lúc bắt tay vào viết hồi ký, trên đại thể ông lại sử dụng một bút pháp
mang ý nghĩa tổng kết, tức là đi từ xa tới gần, từ tổng thể đến trường hợp
riêng, từ nguyên nhân tới kết quả lớp
lang đâu vào đấy.
Cái việc mang mình ra phân tích được làm một cách khá bài bản. Ông hiểu ông là sản phẩm của một hoàn cảnh,
cũng giống như tờ giấy thấm, con người ông đã thấm đẫm những ảnh hưởng của môi
trường xã hội chung quanh.
Người ghi chép phong tục
Khi bàn về thể tài của Bước đường cùng,
nhiều người thích xác định đấy là tiểu
thuyết xã hội, tiểu thuyết tố cáo. Song Nguyễn Công Hoan nói đơn giản hơn đấy
là tiểu thuyết phong tục, chẳng qua thạo nhiều chuỵện sinh hoạt ở nông thôn từ
chuyện đẻ đái cãi nhau vì mất gà tới cảnh vay nợ, cảnh ăn khao rồi bỏ ruợu lậu
vào ruộng của nhau… nên ông đưa cả vào trong sách.
Cách hiểu về chi tiết phong tục như thế này
cũng chi phối tác giả khi viết hồi ký Đời viết văn của tôi.
Sinh năm 1903, Nguyễn Công Hoan có thể tự nhận là
người cùng tuổi với thế kỷ XX. Trong lịch sử dân tộc, thế kỷ này là một bước rẽ ngoặt. Từ đây
xã hội rời bỏ mẫu hình phát triển trung đại của phương Đông để sải bước trên con đường Âu hoá.
Bởi
vậy những kỷ niệm của tác giả trong tuổi niên thiếu có thể coi như những chứng
tích về sự xâm nhập của văn hoá phương Tây thông qua mọi yếu tố của môi trường xã hội cũng như con đường các gia
đình nền nếp giáo dục các thành viên của mình để đứng vững trước mọi ảnh hưởng
mạnh mẽ đó.
Những trang kể lại thời đi học ở trường
Bưởi không hề mang tính cách thơ mộng như thường thấy ở hồi ký các nhà văn khác. Mà cũng vẫn là những
trang tự bộc lộ chân thành đến mức như là thách thức sự đời, lại còn
pha chút trắng trợn bất cần.
Nào
là việc làm giấy khai sinh với ít nhiều man trá.
Nào là học trò chia phe phái trọc ghẹo nhau và đánh nhau với bọn trẻ con Tây.
Nào là vào hùa chạy theo phong trào “đế
chế bắc hoá “, tức tẩy chay hàng Tàu....
Còn có hàng loạt những chi tiết có liên
quan đến mọi mặt đời sống được Nguyễn Công Hoan nhân tiện ghi lại làm nên da thịt của cuốn hồi ký văn học.
Tiếng nói của người trong cuộc
Nguyễn Công Hoan đã liên tục có mặt trong
những giai đoạn nối tiếp nhau của lịch sử văn học: ông vừa là người của thời kỳ
dò dẫm tìm đường (những năm hai mươi ), vừa là nhà văn hàng đầu khi đời sống
sáng tác đạt tới một sự chín đẹp (từ sau
1932 tới khoảng 44-45).
Mấy
chục năm đầu thế kỷ XX là thời đặt nền móng của nền quốc văn mới mà cũng là thời của
báo chí văn học. Đây cũng là môi trường tốt để ngòi bút Nguyễn Công Hoan tập
dượt.
Với tờ báo này, ông là bạn của người sáng
lập, nhân nể bạn thì viết giúp.
Với tờ tạp chí kia, ông là một trong
những cây bút chủ trò,người ta bàn với ông cả từ thể tài đến cách bán hàng.
Những năm hai mươi khi mở mục Việt
Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký trên An Nam tạp chí, Tản Đà chỉ viết
những bài đầu còn thực chất về sau là do Nguyễn Công Hoan gánh vác. Những quyển sách đầu tiên của ông
được in ra khi các nhà xuất bản còn chưa thành hình và chỉ có các nhà in hoặc
các hiệu sách đứng tên sau các xuất bản phẩm.
Đến
khi Tiểu thuyết thứ bảy và Phổ thông bán nguyệt san của Vũ Đình
Long ra đời, ông lại trở thành một trong những tác giả góp truyện đều đặn.
Dường như có thể soi vào đời viết của ông
để thấy bước đi của một mùa màng văn học từ lúc thịnh trị tới lúc lụi dần để chuyển giai đoạn.
Nếu như Vũ Trọng Phụng trẻ hơn
ông viết sau ông nhưng lại qua đời trước ông ( họ Vũ mất 1939 ) thì Nguyễn Công
Hoan còn lải rải viết thêm mãi về sau, cả khi những ngày đẹp nhất của văn
học đã qua.
Có
thể xem đây là một trong những yếu tố chủ đạo
tạo nên giá trị của cuốn hồi ký. Qua
Nguyễn Công Hoan chúng ta được biết nhiều chi tiết có liên quan đến những sự kiện văn hoá mà không sách vở nào ghi lại.
Chẳng hạn chung quanh Đông dương tạp chí và Nam phong,
tác giả Đời viết văn của tôi không chỉ nói rõ mục tiêu khuynh hướng mỗi tờ báo đó, mà còn biết họ được nhà nước bảo
hộ trợ cấp bao nhiêu tiền hàng năm.
Hoặc chẳng hạn chung quanh tờ Hữu thanh
của Bắc kỳ công thương đồng nghiệp ái hữu
hội. Lâu nay giới nghiên cứu chỉ nghe nói Tản Đà làm với báo này vài tháng rồi thôi. Giờ đây
cũng qua Nguyễn Công Hoan, chúng ta được
biết thực chất cái hội đó ra sao và ông chủ báo có cái thói kỳ cục thế
nào ( Nguyễn Công Hoan, kể Nguyễn Huy Hợi, chủ báo Hữu Thanh là một kẻ rất hiếu danh. Bài
viết ra để đăng báo, toà soạn họp để bàn thì bao giờ Nguyễn Huy Hợi cũng có mặt. Có
mặt không để góp ý kiến mà để thấy bài nào hay cũng thò vào một câu “Hay là ký
tên tôi “).
Có những chi
tiết thoạt nhìn có vẻ bâng quơ không đâu vào đâu nhưng nghĩ kỹ thấy có ý nghĩa,
giá Nguyễn Công Hoan không kể thì ít người biết.
Ở phần Hoạt động Nguyễn Công Hoan bảo rằng
một điều khiến ông tự hào là cuốn sách
đầu tay của ông mang tên Kiếp hồng nhan chỉ toàn sáng tác.
Mới nghe
người đọc thời nay hẳn lấy làm lạ. Tập truyện ngắn nào mà chẳng toàn sáng tác? Nhưng đọc thêm đoạn dưới của cuốn hồi ký mới biết hồi ấy, khoảng trước 1930, sách in thường tạp pí lù
mỗi thứ một tí, truyện lẫn với
thơ, truyện mới sáng tác chen lẫn truyện dịch.
Và như vậy
tình trạng ấu trĩ của văn học lúc ấy còn len vào cả trong quan niệm về sách, còn
Nguyễn Công Hoan thì có quyền tự hào là mình thuộc loại đi đầu trên con đường
thay đổi để đi tới một sự thuần chủng.
Một vài cải chính có ý nghĩa"sòng phẳng với lịch sử"
Chẳng
những biết sách vở khi nó đã được in ra, ông còn biết nhiều cuốn sách ngay từ
khi nó được thai nghén.
Đây là ví dụ :
Khi thuật lại nguyên cớ thúc đẩy Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công
Hoan nói rõ hồi ấy Ngô Tất Tố cũng chưa hề có ý thức tố cáo, chẳng qua thấy Vũ Trọng Phụng viết truyện Vỡ
đê thì ông nói ”Vũ Trọng Phụng viết thế nào được truyện nhà quê. Để tôi
viết cho“.
Ý Nguyễn Công Hoan muốn nhấn mạnh điểm
xuất phát ban đầu tiểu thuyết của Ngô
Tất Tố khá giản dị, tính chất tố cáo của sáng tác chỉ đến về sau (đây là điều không chỉ đúng với Ngô Tất Tố mà
còn đúng với nhiều nhà văn cùng thời ).
Cũng nên biết thêm là trong một bài viết mang tên Mấy ý kiến về
cuốn Văn học Việt Nam 1930 --1945 in trên Tạp chí Văn học 1962 (sau
đổi là Cần hiểu đúng Ngô Tất Tố in
vào tập sách Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội nhà văn 1993), Nguyễn Công Hoan từng đả động tới một
sự việc mà nhiều nhà văn học sử thích
nhắc lại coi như một niềm tự hào của ngòi bút nhà nho Ngô Tất Tố, ấy là việc quyển Tắt
đèn bị cấm.
Sau khi hạ một câu chắc chắn như đinh đóng
cột “Sự thực, thì tôi không nghe ai nói điều này“, Nguyễn Công Hoan để công
giảng giải khá kỹ về cách cấm sách thời trước, để khẳng định thêm chuyện này
không xảy ra với đồng nghiệp của mình.
Tinh thần này được Nguyễn Công Hoan tiếp tục
trong hồi ký Đời viết văn của tôi.
Không phải ngẫu nhiên mà khi trích đoạn
Nguyễn Công Hoan viết về Vũ Trọng Phụng ở đây vào sách Nhà văn Vũ Trọng
Phụng với chúng ta, một giáo sư đặt cho đoạn trích cái tên Chiêu
tuyết cho người đã khuất.
Để hiểu điều này cần biết là trước 1975 ở Hà
Nội Vũ Trọng Phụng được liệt vào loại
nhà văn "có vấn đề" và nói như ở đây là
một cách nói ngược, nếu không phải ở miệng Nguyễn Công Hoan chắc là không
được in.
Còn một nhân vật nữa lâu nay ít được nói cho
minh bạch, ấy là Phạm Quỳnh.
Ngay từ đầu Nguyễn Công Hoan đã nói rõ ai đã đứng tên trong việc tổ chức ra
báo Nam Phong. Song sau 1934, Phạm Quỳnh không làm báo nữa mà đi nhận chân thượng thư -- một việc thường được
người đương thời và hậu thế giải thích một cách như ta hay gọi là tiêu cực. Nguyễn
Công Hoan không cần rào đón nhiều. Ông đưa ra cách hiểu riêng.
Theo ông, Phạm Quỳnh là người yêu nước, cùng
với những người lương thiện khác chịu chung cảnh ngộ người dân mất nước “ai không
đau đớn ai không khóc thầm“, và việc người chủ bút Nam Phong bỏ báo để đi làm quan chẳng phải do hám lợi như người
ta vẫn nói, mà chỉ muốn có một dịp thuận lợi nói rõ ý mình, thế thôi.
Giá kể vào tay người khác thì khi viết
những chuyện này hẳn là phải ra cái điều quan trọng lắm coi như mình dám đi ngược
lại ý kiến của giới quyền uy và nhờ thế khôi
phục lai bộ mặt của lich sử. Và trước khi
nói ra tiếng nói cuối cùng, hẳn tác giả hồi ký phải rào trước đón sau đủ chuyện. Nguyễn Công Hoan
thì khác. Cách viết của ông ở chỗ này tự nhiên rành rẽ, dường như ông muốn nói
sự thực rất đơn giản chẳng qua những người đa sự
chỉ nói tầm phơ mà chẳng có ích cho ai !
Sự suồng sã cần thiết
Cái chết của nhiều nhà viết hồi ký là hay
quan trọng hoá những hoàn cảnh những sự kiện mình đã từng sống. Nguyễn Công
Hoan thì khác. Ông thích làm giảm tầm quan trọng của sự kiện đã nêu.
Trong nhiều
trường hợp, ông lưu ý một việc người đời sau coi là tày đình xảy ra chẳng qua
chỉ có lý do rất ngẫu nhiên.
Đây cũng là một cách để phản ứng lại lối vào hùa
hoặc thói cơ hội mà ông khinh bỉ.
Như trên đã nói, mặc dù viết đều viết khỏe
bậc nhất trong giới, song suốt trong thời tiền chiến, Nguyễn Công Hoan vẫn
không bỏ nghề dạy học. Không bao giờ người ta thấy ông kêu than là phải làm gấp
bản thảo để mang bán trong khi vợ đau con yếu kiểu như Vũ Trọng Phụng Nam Cao.
Mà ông cũng không ham chơi đến mức luôn luôn cần tiền như Nguyễn Tuân hoặc Lưu
Trọng Lư.
Như vậy là đối với nghề văn, ông không bị ràng buộc đến bị động. Luôn luôn
ông đứng cách nó một khoảng cách. Điều này chẳng những mang lại cho nhà
văn một cuộc sống độc lập mà còn giúp
ông thế đứng bên ngoài vốn rất cần thiết cho việc đưa ra một cái nhìn
bao quát về nghề nghiệp.
Chúng ta biết rằng suốt thời trung đại, văn
học VN không có hồi ký. Mà ngay trong thế kỷ XX, cả các nhà chính trị nhà
hoạt động xã hội lẫn các nhà văn các hoạ sĩ nhạc sĩ và nói chung là những người lẽ ra nên
viết hồi ký cũng không mấy ai tính chuyện động bút trong thể tài
này. Tại sao như vậy ?
Hình như ở đây có vấn đề của tư duy: người
Việt tuy luôn luôn lưu luyến quá khứ
song lại không thích chuyện tính sổ
quá khứ một cách rành mạch.
Xu thế tâm lý nói chung là tốt đẹp phô
ra xấu xa đậy lại.
Lại có tình trạng nhiều người trong thâm tâm thừa biết rằng mình sống dở, sống chẳng ra
sao, song khi kể chuyện cũ lại
tìm cách tô điểm cho cái quá khứ
ấy một vẻ dễ coi. Với những bộ sử những
tài liệu nghiên cứu có liên quan đến
mình, họ thường săn đón và tìm mọi cách
chăm sóc sao cho khuôn mặt mình được tô vẽ cho dễ coi một chút. Còn hồi ký ghi đích danh tên mình ấy ư
-- họ ngại!
Thế Nguyễn Công Hoan thì sao?
Những người thích đọc ông đều biết nhà văn
này có một cách nghĩ riêng về đời và đã phát biểu cách hiểu đời này ngay trong một số truyện ngắn viết trước 1945.
Đoạn văn sau đây là một tuyên ngôn :
Điều tôi lấy làm bực mình nhất là thế nào chẳng có một độc giả đa nghi,xem
xong câu chuyện này bảo một bạn rằng
--Hắn bịa.
Tôi hãy cãi trước rằng :
--Thưa
không bịa tí nào.
Rồi không để ông độc giả ấy nói thêm, tôi phải
tiếp luôn :
--Ngài
cho là vô lý ? Ngài nên hiểu nghe chuyện gì mà ngài cứ lấy cái óc cổ điển ra
mà xét thì cũng cho là vô lý cả. Vì thế
sự đã xoay thành ngược mà đời ngày nay
chẳng phải là một bà hiền mẫu thưởng phạt công minh. Đời đã hoá ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy sinh non ra toàn những hạng hoặc mất
dạy hoặc đói cơm.
Không. Ngài cho phép tôi nói nốt đã. Hạng
đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp mọi nơi. Thường họ gõ cửa nhà ngài xưng
là thất nghiệp. Họ bị ngài đuổi đi sau khi đã bố thí cho một bài học về siêng năng không hợp thời.
Còn hạng mất dạy cũng chẳng ít. Họ rất no đủ sang trọng,song,chuyên môn đeo mặt
nạ để lừa dối bóc lột lẫn nhau.
Được cái, trong khi giữ một cách nhìn bi
quan về xã hội, đồng thời ông không biệt
đãi bản thân, tính chuyện tô vẽ bản thân. Trong hồi ký ông tự trình bày bản thân với đủ thứ thói tật.
Nhìn quá rõ những mặt xấu trong con người, hoài nghi đối với nhân tâm thế đạo,
rồi khinh thế ngạo vật rồi lười biếng ẩu không coi việc gì là quan
trọng... xưa nay thật khó có ai tự nói
về mình như vậy.
Và cũng vì thế nên trong Đời viết văn
của tôi có những nhận xét về nghề cầm bút rất khắc nghiệt đại loại :
- Làng văn từ xưa đến giờ, quả là cái chợ
- Một dạo người ta sợ những người cầm bút như …sợ hủi
- Rất nhiều người viết chỉ láng tráng đến với nghề một
chốc rồi chuồn thẳng đến mức phải gọi cái cách tồn tại của họ là nửa đời nửa
đoạn.
Trong những trường hợp có thể, Nguyễn Công
Hoan đã sòng phẳng.
Cách tồn tại riêng trong nghề
Một kiểu
người Việt
Tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan, người ta không khỏi
nhận ra một sự éo le rõ rệt. Một mặt, đây là một trong những cây bút hàng đầu
của nền văn học dân tộc trong thế kỷ XX,
một đô vật lực lưỡng trong trường văn
trận bút. Mặt khác, đó hình như lại
là cây bút đặt rất ít sự nghiêm chỉnh
vào sáng tác.
Như ông đã
kể, có lần ông mang truyện của mình tặng cho người khác để người đó bán
cho các báo lấy tiền.
Lại như cái cảnh ông vừa chơi bài vừa viết
truyện, hoặc viết tiểu thuyết đăng báo
mà không thuộc hết tên nhân vật, phải để trống rồi nhờ toà soạn điền hộ.
Người đời vốn ranh mãnh. Có làm như vậy đi chăng nữa thì họ cũng giấu
biệt đi không muốn cho ai biết. Trong khi đó, Nguyễn Công Hoan lại bô bô kể hết cả ra trong sách.
Qua những phát biểu trực tiếp cũng như qua
cách làm việc của ông, thấy toát lên cái ý chẳng qua do lọc lõi thạo đời thì viết cho mọi người cùng đọc chứ trong bụng chả buồn để tâm gì đến nghĩa lý với lại vai trò
rắc rối mà người ta thường gán cho nghề nghiệp này.
Đại khái ông không phải trăn trở nhiều khi ngồi trước
trang giấy, thảng hoặc đôi lần có để ý đến ý nghĩa xã hội của công việc ( như khi viết Bước đường cùng ) thì cũng là làm vội
làm vàng, chứ chưa phải đã dồn hết vào đấy tất cả tâm sức vốn có.
Nguồn cảm hứng nào đã thúc đẩy Nguyễn Công Hoan kể chuyện mình theo kiểu như vậy ?
Chúng tôi có cảm tưởng điều đầu tiên ông muốn truyền đạt tới mọi
người, ấy là viết văn phải có năng khiếu và sự thành công không thể do ý
chí hay day tay mắm miệng mà có được.
Vốn thích đề cao những gì gọi là tự nhiên
ông chúa ghét những nhà văn nào quan trọng hoá nghề nghiệp của mình và lấy sự
viết lách ra để lừa bịp.
Sự dông dài tuỳ tiện mà ông hay nói, đúng
hơn sự đùa bỡn mà ông cố ý phô ra, là
một cái gì quán xuyến trong ông, nó buộc người ta sau đó phải hiểu dần ra những điều đơn giản mà ông
muốn nói: việc viết văn cũng là một
việc thường như mọi việc khác trên đời hoặc gán cho văn chương có lắm ý nghĩa đâu đâu tức là chẳng hiểu gì về nó cả.
Ở chỗ này có thể nói cách làm của Nguyễn
Công Hoan trùng khít với một xu thế của tư duy hiện đại ấy là nhìn đời sống ở
một khoảng cách gần gũi, phi huyền thoại hoá nó, làm cho mất đi cái vẻ thiêng liêng giả tạo mà con
người trung đại thích dùng để tự tô vẽ.
Đây cũng là cái cách mà nhà văn lõi đời phản ứng lại trước thói ấu trĩ của thời đại cách mạng, khi mà người ta quá đề cao ý nghĩa mục đích của việc cầm bút để rồi hướng nó vào việc phục vụ chính trị một cách xoàng xĩnh.
Đồng
thời sự phi huyền thoại hoá này, tác giả còn đi gần tới một quan niệm khác cũng chỉ thấy
ở con người hiện đại, ấy là nhấn mạnh tính chất trò chơi của cuộc đời, và cho
rằng trong trò chơi, cả ý nghĩa nghiêm chỉnh lẫn cái vẻ hư vô của kiếp nhân
sinh có dịp bộc lộ. Chơi để sống cho nhẹ nhàng và nếu có phải chết cũng là chết
một cách thoải mái.
Trong tiếng Việt chữ chơi hay gợi ra cái ý ham vui, gặp
chăng hay chớ, chả cần để tâm vào việc gì
mà tha hồ làm nhanh làm ẩu làm hàng giả
bịp bợm.
Có thể nói Nguyễn Công Hoan
chơi với nghĩa khác. Chơi ở đây thuộc về một cái gì nằm
trong cách nhìn đời trong ý thức của con người nó giúp cho một cây bút
như tác giả Bước đường cùng thêm
hào hứng trong sự sáng tạo, khi viết tìm
thêm được những trò hóm nghịch lôi cuốn bạn đọc.
Truy nguyên về tận nguồn gốc, có thể bảo cái
sự nhởn nhơ ở Nguyễn Công Hoan còn thuộc về hồn cốt dân tộc mà ông thấm nhuần
trong dòng máu mình.
Rải rác trong các đoạn trên chúng ta đã
nhắc qua một số đặc điểm làm nên cách nhìn đời sống của Nguyễn Công Hoan bộc lộ qua
các truyện ngắn truyện dài đã in:
Thích sự tự nhiên và luôn luôn tự nhắc nhở
mình là phải giữ bản sắc.
Không tin lắm ở sách vở mà thích đề cao một sự khôn
ngoan trời cho.
Trong khi gắng gỏi học theo mọi người thì bề ngoài lại tỏ ra
không coi cái gì là quan trọng và xem
thường mọi chuyện.
Lấy sự cười đùa làm vui tự nhiên, bài bác những sự quan trọng
hoá giả tạo song lại sẵn sàng để tâm và tỏ ra rất thích thú với những sự sắp
đặt tinh xảo v...v....
Đến Đời viết văn của tôi thì chúng ta lại gặp cái tinh thần đó trong
chính con người tác giả.
Trong khi nhìn lại đời mình, nhà văn hiện ra
như một cá tính cụ thể, mà trong đó đồng thời
thấy bao hàm những con người khác những cuộc đời khác. Xét theo nghĩa
này, Đời viết văn của tôi là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong sự nghiệp của tác
giả./.
1997.
Với khối lượng chữ nghĩa đã viết, trong văn
học VN hiện đại, tác giả Bước đường
cùng phải được xem như một trong số
những người viết hoạt động có hiệu quả bậc nhất.
Trong khi không sống hẳn giữa giới
cầm bút mà lấy dạy học làm nghề chính,
Nguyễn Công Hoan vẫn biết giữ cho mình một nếp làm việc đều đặn. Giữa dự định và công việc, thường khi có sự ăn
khớp. Đã viết là in được.
Ông lại luôn biết chăm lo tới tay nghề. Dễ không ai
say sưa nói về kỹ thuật viết truyện như ông, nào là dàn quân nào là bài binh bố
trận, và cuối cùng còn là bẫy độc giả là
đưa suy nghĩ của họ vào đúng cái luồng lạch mình đã bố trí sẵn khiến họ như cá
vào lờ không sao thoát ra nổi....
Từng cách thức được ông kể lại tỉ mỉ với niềm
tin không thể lay chuyển: viết văn phải có mẹo có mực chứ không lơ mơ tùy tiện
được.
Sự xuất hiện của một cuốn sách hồi ký như Đời
viết văn của tôi (1971) nằm trong cái mạch liên tục ấy. Nó là một bằng chứng nữa
đánh dấu tính cách chuyên nghiệp của ngòi bút tác giả.
Một cách tự nhiên, đúng
hơn một cách bản năng không cần tính toán gì nhiều, thật ra ông đã tiếp nhận
quan niệm về một nhà văn chuyên nghiệp thường thấy ở phương Tây: sau những năm
tháng cặm cụi làm việc một người làm
nghề thực thụ thể nào cũng
phải để ra một ít thời gian tính đếm lại đời mình. Hồi ký nên được coi
là cái dấu chấm hết đẹp đẽ nhất cho một đời viết sung mãn.
Hoàn cảnh ra đời
Cuộc hành nghề của Nguyễn Công Hoan trước 1945 có thể
gọi là khá thành đạt. Thế nhưng từ sau 1945, quá trình sáng tác của ông so với các đồng nghiệp trẻ
hơn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng... có nhiều chỗ khác, nếu không muốn nói là xỉn hơn, kém hơn rõ rệt.
Tám năm kháng chiến, trong khi nhiều nhà
văn đấu đầu lo liệu cho Hội văn nghệ
thì ông làm việc ở một trường bổ túc văn
hoá của quân đội, và chỉ sau hoà bình lập lại 1954 mới trở về nhận biên chế ở Hội nhà văn.
Sự nhập cuộc trở lại này không mấy hiệu
quả.
Trong khi những Sông Đà, Truyện Tây Bắc hoặc Riêng chung, Anh sáng và phù sa...viết
thẳng về cuộc sống mới và được dư luận đón đợi, được đủ các loại giải
thưởng to nhỏ thì Nguyễn Công Hoan chủ
yếu viết lại cuộc sống trước 1945 như Tranh
tối tranh sáng(1956), Hỗn canh hỗn cư
(1961), Đống rác cũ (1963), và mặc dù các sáng tác ấy đã được tác giả đặt
nhiều công sức, song có vẻ như chúng không tương xứng với tầm vóc và tiếng tăm của ông.
Khi ra đời chúng chỉ được chào đón một cách dè dặt.
Có cuốn chỉ in được tập một
rồi dừng lại hơn hai chục năm sau mới ra
nốt được tập hai (Đống rác cũ).
Có cuốn viết xong đành xếp tạm đấy mãi khi
nhà văn qua đời mới được in ( Anh con trai người bạn đọc ấy).
Một
người ưa hoạt động coi việc viết ngang
với cơm ăn nước uống hàng ngày như
Nguyễn Công Hoan trước cảnh bí bách không chịu bó tay. Ông xoay ra làm
một số việc khác như đi phỏng vấn các đồng nghiệp (Hỏi chuyện các nhà văn)
hoặc đính chính thơ văn của Nguyễn Khuyến,Tú Xương...
Dẫu sao có thể dự đoán, càng ngày ông càng
cảm thấy vốn liếng mình là ở như những hiểu biết về xã hội cũ và chỉ trong khi viết về xã hội cũ mình mới trở nên có ích hơn cho con người đương thời.
Cái định hướng này có thể ngẫu nhiên song đúng là đã trở thành nhất quán ở
Nguyễn Công Hoan.
Ông sớm tính chuyện viết hồi ký.
Qua bảng niên biểu của một nhà nghiên cứu làm về Nguyễn Công Hoan, tôi được biết ngay từ cuối năm 1957, Đời viết văn của tôi đã có bản sơ thảo.
Tới năm 1969 thì hoàn thành, và hai năm sau thì được in ra ở nhà
xuất bản chuyên về văn chương duy nhất
bấy giờ là nhà Văn học.
Tô
Hoài, trong một bài viết về Nguyễn Công Hoan, từng ghi lại đoạn đối thoại sau:
(... ) Lại đến năm trước anh kể :
--Tôi mới nghĩ ra cái truyện dài,cái truyện
dài này thì dài vô tận.
--Truyện
gì ạ ?
--Truyện
nhớ gì ghi nấy.
Tôi vẫn chưa hiểu. Anh cắt nghĩa: ở tuổi anh bây giờ, những từng trải những mắt thấy
tai nghe, từ lúc mất nước đến khi độc lập,biết bao phong phú, phải ghi lại cho
lớp người sau biết. Thế là anh đóng từng tập giấy hàng trăm trang, mỗi khi nhớ
việc gì,suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Ghi hết giấy anh đóng tập khác.
Những ý tưởng này chủ yếu liên quan đến tập
Nhớ gì ghi nấy, song cũng đã hé ra cho thấy một phần cái tâm sự của nhà văn
khi đến với Đời viết văn của tôi. Đặt vào thời điểm mà cuốn sách được
viết, phải nói sự xuất hiện của nó là táo bạo bởi lẽ khoảng những năm năm mươi
sáu mươi thế kỷ XX, số nhà văn ở ta tính chuyện nhìn lại đời mình một cách rành
mạch, số đó còn rất ít.
Một kiểu viết hồi ký, một kiểu tự phân tích
Thể hồi ký vốn mang trong nó một sự đa dạng
nhất định. Ở đây có những nguyên tắc chung, nhưng lại có chỗ rộng rãi cho sự sáng tạo. Lấy ngay thí dụ
trong văn học VN hiện đại. Có hồi ký gần
với tự truyện, tức là một thứ tiểu thuyết, như Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng. Có hồi ký có tính cách một sự suy nghĩ lại về đời mình và do đó
giàu chất chính luận như Tự phán của Phan Bội Châu.
Về
mặt nhân vật mà xét, có khi tác giả bám
sát quá trình cầm bút của bản thân như Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê, lại có khi người
viết như tránh sang một bên, để nói về
một ai đó hoặc nói chung về những người tác giả đã gặp và có vẻ chỉ nhân
tiện mà nói thêm về mình như Cát bụi chân ai của Tô Hoài.
Còn Đời viết văn của tôi thì sao ?
Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, cuốn
sách nhằm tới cái đích chung là phác hoạ
sự hình thành tính cách của tác giả và con đường tác giả đến với văn học. Ông
không chủ ý kể về đời mình một cách chi tiết, theo kiểu bám sát từng năm hoặc
từng thời kỳ một. Mà ông khái quát lại thành các phần Ảnh hưởng …Hoạt động…
Sáng tác...
Trong khi hàng ngày, nhà văn thường vẫn tuyên bố là mình viết
một cách hồn nhiên không đắn đo cân nhắc gì nhiều thì lúc bắt tay vào viết hồi ký, trên đại thể ông lại sử dụng một bút pháp
mang ý nghĩa tổng kết, tức là đi từ xa tới gần, từ tổng thể đến trường hợp
riêng, từ nguyên nhân tới kết quả lớp
lang đâu vào đấy.
Cái việc mang mình ra phân tích được làm một cách khá bài bản. Ông hiểu ông là sản phẩm của một hoàn cảnh,
cũng giống như tờ giấy thấm, con người ông đã thấm đẫm những ảnh hưởng của môi
trường xã hội chung quanh.
Người ghi chép phong tục
Khi bàn về thể tài của Bước đường cùng,
nhiều người thích xác định đấy là tiểu
thuyết xã hội, tiểu thuyết tố cáo. Song Nguyễn Công Hoan nói đơn giản hơn đấy
là tiểu thuyết phong tục, chẳng qua thạo nhiều chuỵện sinh hoạt ở nông thôn từ
chuyện đẻ đái cãi nhau vì mất gà tới cảnh vay nợ, cảnh ăn khao rồi bỏ ruợu lậu
vào ruộng của nhau… nên ông đưa cả vào trong sách.
Cách hiểu về chi tiết phong tục như thế này
cũng chi phối tác giả khi viết hồi ký Đời viết văn của tôi.
Sinh năm 1903, Nguyễn Công Hoan có thể tự nhận là
người cùng tuổi với thế kỷ XX. Trong lịch sử dân tộc, thế kỷ này là một bước rẽ ngoặt. Từ đây
xã hội rời bỏ mẫu hình phát triển trung đại của phương Đông để sải bước trên con đường Âu hoá.
Bởi
vậy những kỷ niệm của tác giả trong tuổi niên thiếu có thể coi như những chứng
tích về sự xâm nhập của văn hoá phương Tây thông qua mọi yếu tố của môi trường xã hội cũng như con đường các gia
đình nền nếp giáo dục các thành viên của mình để đứng vững trước mọi ảnh hưởng
mạnh mẽ đó.
Những trang kể lại thời đi học ở trường
Bưởi không hề mang tính cách thơ mộng như thường thấy ở hồi ký các nhà văn khác. Mà cũng vẫn là những
trang tự bộc lộ chân thành đến mức như là thách thức sự đời, lại còn
pha chút trắng trợn bất cần.
Nào
là việc làm giấy khai sinh với ít nhiều man trá.
Nào là học trò chia phe phái trọc ghẹo nhau và đánh nhau với bọn trẻ con Tây.
Nào là vào hùa chạy theo phong trào “đế
chế bắc hoá “, tức tẩy chay hàng Tàu....
Còn có hàng loạt những chi tiết có liên
quan đến mọi mặt đời sống được Nguyễn Công Hoan nhân tiện ghi lại làm nên da thịt của cuốn hồi ký văn học.
Tiếng nói của người trong cuộc
Nguyễn Công Hoan đã liên tục có mặt trong
những giai đoạn nối tiếp nhau của lịch sử văn học: ông vừa là người của thời kỳ
dò dẫm tìm đường (những năm hai mươi ), vừa là nhà văn hàng đầu khi đời sống
sáng tác đạt tới một sự chín đẹp (từ sau
1932 tới khoảng 44-45).
Mấy
chục năm đầu thế kỷ XX là thời đặt nền móng của nền quốc văn mới mà cũng là thời của
báo chí văn học. Đây cũng là môi trường tốt để ngòi bút Nguyễn Công Hoan tập
dượt.
Với tờ báo này, ông là bạn của người sáng
lập, nhân nể bạn thì viết giúp.
Với tờ tạp chí kia, ông là một trong
những cây bút chủ trò,người ta bàn với ông cả từ thể tài đến cách bán hàng.
Những năm hai mươi khi mở mục Việt
Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký trên An Nam tạp chí, Tản Đà chỉ viết
những bài đầu còn thực chất về sau là do Nguyễn Công Hoan gánh vác. Những quyển sách đầu tiên của ông
được in ra khi các nhà xuất bản còn chưa thành hình và chỉ có các nhà in hoặc
các hiệu sách đứng tên sau các xuất bản phẩm.
Đến
khi Tiểu thuyết thứ bảy và Phổ thông bán nguyệt san của Vũ Đình
Long ra đời, ông lại trở thành một trong những tác giả góp truyện đều đặn.
Dường như có thể soi vào đời viết của ông
để thấy bước đi của một mùa màng văn học từ lúc thịnh trị tới lúc lụi dần để chuyển giai đoạn.
Nếu như Vũ Trọng Phụng trẻ hơn
ông viết sau ông nhưng lại qua đời trước ông ( họ Vũ mất 1939 ) thì Nguyễn Công
Hoan còn lải rải viết thêm mãi về sau, cả khi những ngày đẹp nhất của văn
học đã qua.
Có
thể xem đây là một trong những yếu tố chủ đạo
tạo nên giá trị của cuốn hồi ký. Qua
Nguyễn Công Hoan chúng ta được biết nhiều chi tiết có liên quan đến những sự kiện văn hoá mà không sách vở nào ghi lại.
Chẳng hạn chung quanh Đông dương tạp chí và Nam phong,
tác giả Đời viết văn của tôi không chỉ nói rõ mục tiêu khuynh hướng mỗi tờ báo đó, mà còn biết họ được nhà nước bảo
hộ trợ cấp bao nhiêu tiền hàng năm.
Hoặc chẳng hạn chung quanh tờ Hữu thanh
của Bắc kỳ công thương đồng nghiệp ái hữu
hội. Lâu nay giới nghiên cứu chỉ nghe nói Tản Đà làm với báo này vài tháng rồi thôi. Giờ đây
cũng qua Nguyễn Công Hoan, chúng ta được
biết thực chất cái hội đó ra sao và ông chủ báo có cái thói kỳ cục thế
nào ( Nguyễn Công Hoan, kể Nguyễn Huy Hợi, chủ báo Hữu Thanh là một kẻ rất hiếu danh. Bài
viết ra để đăng báo, toà soạn họp để bàn thì bao giờ Nguyễn Huy Hợi cũng có mặt. Có
mặt không để góp ý kiến mà để thấy bài nào hay cũng thò vào một câu “Hay là ký
tên tôi “).
Có những chi
tiết thoạt nhìn có vẻ bâng quơ không đâu vào đâu nhưng nghĩ kỹ thấy có ý nghĩa,
giá Nguyễn Công Hoan không kể thì ít người biết.
Ở phần Hoạt động Nguyễn Công Hoan bảo rằng
một điều khiến ông tự hào là cuốn sách
đầu tay của ông mang tên Kiếp hồng nhan chỉ toàn sáng tác.
Mới nghe
người đọc thời nay hẳn lấy làm lạ. Tập truyện ngắn nào mà chẳng toàn sáng tác? Nhưng đọc thêm đoạn dưới của cuốn hồi ký mới biết hồi ấy, khoảng trước 1930, sách in thường tạp pí lù
mỗi thứ một tí, truyện lẫn với
thơ, truyện mới sáng tác chen lẫn truyện dịch.
Và như vậy
tình trạng ấu trĩ của văn học lúc ấy còn len vào cả trong quan niệm về sách, còn
Nguyễn Công Hoan thì có quyền tự hào là mình thuộc loại đi đầu trên con đường
thay đổi để đi tới một sự thuần chủng.
Một vài cải chính có ý nghĩa"sòng phẳng với lịch sử"
Chẳng
những biết sách vở khi nó đã được in ra, ông còn biết nhiều cuốn sách ngay từ
khi nó được thai nghén.
Đây là ví dụ :
Khi thuật lại nguyên cớ thúc đẩy Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công
Hoan nói rõ hồi ấy Ngô Tất Tố cũng chưa hề có ý thức tố cáo, chẳng qua thấy Vũ Trọng Phụng viết truyện Vỡ
đê thì ông nói ”Vũ Trọng Phụng viết thế nào được truyện nhà quê. Để tôi
viết cho“.
Ý Nguyễn Công Hoan muốn nhấn mạnh điểm
xuất phát ban đầu tiểu thuyết của Ngô
Tất Tố khá giản dị, tính chất tố cáo của sáng tác chỉ đến về sau (đây là điều không chỉ đúng với Ngô Tất Tố mà
còn đúng với nhiều nhà văn cùng thời ).
Cũng nên biết thêm là trong một bài viết mang tên Mấy ý kiến về
cuốn Văn học Việt Nam 1930 --1945 in trên Tạp chí Văn học 1962 (sau
đổi là Cần hiểu đúng Ngô Tất Tố in
vào tập sách Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội nhà văn 1993), Nguyễn Công Hoan từng đả động tới một
sự việc mà nhiều nhà văn học sử thích
nhắc lại coi như một niềm tự hào của ngòi bút nhà nho Ngô Tất Tố, ấy là việc quyển Tắt
đèn bị cấm.
Sau khi hạ một câu chắc chắn như đinh đóng
cột “Sự thực, thì tôi không nghe ai nói điều này“, Nguyễn Công Hoan để công
giảng giải khá kỹ về cách cấm sách thời trước, để khẳng định thêm chuyện này
không xảy ra với đồng nghiệp của mình.
Tinh thần này được Nguyễn Công Hoan tiếp tục
trong hồi ký Đời viết văn của tôi.
Không phải ngẫu nhiên mà khi trích đoạn
Nguyễn Công Hoan viết về Vũ Trọng Phụng ở đây vào sách Nhà văn Vũ Trọng
Phụng với chúng ta, một giáo sư đặt cho đoạn trích cái tên Chiêu
tuyết cho người đã khuất.
Để hiểu điều này cần biết là trước 1975 ở Hà
Nội Vũ Trọng Phụng được liệt vào loại
nhà văn "có vấn đề" và nói như ở đây là
một cách nói ngược, nếu không phải ở miệng Nguyễn Công Hoan chắc là không
được in.
Còn một nhân vật nữa lâu nay ít được nói cho
minh bạch, ấy là Phạm Quỳnh.
Ngay từ đầu Nguyễn Công Hoan đã nói rõ ai đã đứng tên trong việc tổ chức ra
báo Nam Phong. Song sau 1934, Phạm Quỳnh không làm báo nữa mà đi nhận chân thượng thư -- một việc thường được
người đương thời và hậu thế giải thích một cách như ta hay gọi là tiêu cực. Nguyễn
Công Hoan không cần rào đón nhiều. Ông đưa ra cách hiểu riêng.
Theo ông, Phạm Quỳnh là người yêu nước, cùng
với những người lương thiện khác chịu chung cảnh ngộ người dân mất nước “ai không
đau đớn ai không khóc thầm“, và việc người chủ bút Nam Phong bỏ báo để đi làm quan chẳng phải do hám lợi như người
ta vẫn nói, mà chỉ muốn có một dịp thuận lợi nói rõ ý mình, thế thôi.
Giá kể vào tay người khác thì khi viết
những chuyện này hẳn là phải ra cái điều quan trọng lắm coi như mình dám đi ngược
lại ý kiến của giới quyền uy và nhờ thế khôi
phục lai bộ mặt của lich sử. Và trước khi
nói ra tiếng nói cuối cùng, hẳn tác giả hồi ký phải rào trước đón sau đủ chuyện. Nguyễn Công Hoan
thì khác. Cách viết của ông ở chỗ này tự nhiên rành rẽ, dường như ông muốn nói
sự thực rất đơn giản chẳng qua những người đa sự
chỉ nói tầm phơ mà chẳng có ích cho ai !
Sự suồng sã cần thiết
Cái chết của nhiều nhà viết hồi ký là hay
quan trọng hoá những hoàn cảnh những sự kiện mình đã từng sống. Nguyễn Công
Hoan thì khác. Ông thích làm giảm tầm quan trọng của sự kiện đã nêu.
Trong nhiều
trường hợp, ông lưu ý một việc người đời sau coi là tày đình xảy ra chẳng qua
chỉ có lý do rất ngẫu nhiên.
Đây cũng là một cách để phản ứng lại lối vào hùa
hoặc thói cơ hội mà ông khinh bỉ.
Như trên đã nói, mặc dù viết đều viết khỏe
bậc nhất trong giới, song suốt trong thời tiền chiến, Nguyễn Công Hoan vẫn
không bỏ nghề dạy học. Không bao giờ người ta thấy ông kêu than là phải làm gấp
bản thảo để mang bán trong khi vợ đau con yếu kiểu như Vũ Trọng Phụng Nam Cao.
Mà ông cũng không ham chơi đến mức luôn luôn cần tiền như Nguyễn Tuân hoặc Lưu
Trọng Lư.
Như vậy là đối với nghề văn, ông không bị ràng buộc đến bị động. Luôn luôn
ông đứng cách nó một khoảng cách. Điều này chẳng những mang lại cho nhà
văn một cuộc sống độc lập mà còn giúp
ông thế đứng bên ngoài vốn rất cần thiết cho việc đưa ra một cái nhìn
bao quát về nghề nghiệp.
Chúng ta biết rằng suốt thời trung đại, văn
học VN không có hồi ký. Mà ngay trong thế kỷ XX, cả các nhà chính trị nhà
hoạt động xã hội lẫn các nhà văn các hoạ sĩ nhạc sĩ và nói chung là những người lẽ ra nên
viết hồi ký cũng không mấy ai tính chuyện động bút trong thể tài
này. Tại sao như vậy ?
Hình như ở đây có vấn đề của tư duy: người
Việt tuy luôn luôn lưu luyến quá khứ
song lại không thích chuyện tính sổ
quá khứ một cách rành mạch.
Xu thế tâm lý nói chung là tốt đẹp phô
ra xấu xa đậy lại.
Lại có tình trạng nhiều người trong thâm tâm thừa biết rằng mình sống dở, sống chẳng ra
sao, song khi kể chuyện cũ lại
tìm cách tô điểm cho cái quá khứ
ấy một vẻ dễ coi. Với những bộ sử những
tài liệu nghiên cứu có liên quan đến
mình, họ thường săn đón và tìm mọi cách
chăm sóc sao cho khuôn mặt mình được tô vẽ cho dễ coi một chút. Còn hồi ký ghi đích danh tên mình ấy ư
-- họ ngại!
Thế Nguyễn Công Hoan thì sao?
Những người thích đọc ông đều biết nhà văn
này có một cách nghĩ riêng về đời và đã phát biểu cách hiểu đời này ngay trong một số truyện ngắn viết trước 1945.
Đoạn văn sau đây là một tuyên ngôn :
Điều tôi lấy làm bực mình nhất là thế nào chẳng có một độc giả đa nghi,xem
xong câu chuyện này bảo một bạn rằng
--Hắn bịa.
Tôi hãy cãi trước rằng :
--Thưa
không bịa tí nào.
Rồi không để ông độc giả ấy nói thêm, tôi phải
tiếp luôn :
--Ngài
cho là vô lý ? Ngài nên hiểu nghe chuyện gì mà ngài cứ lấy cái óc cổ điển ra
mà xét thì cũng cho là vô lý cả. Vì thế
sự đã xoay thành ngược mà đời ngày nay
chẳng phải là một bà hiền mẫu thưởng phạt công minh. Đời đã hoá ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy sinh non ra toàn những hạng hoặc mất
dạy hoặc đói cơm.
Không. Ngài cho phép tôi nói nốt đã. Hạng
đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp mọi nơi. Thường họ gõ cửa nhà ngài xưng
là thất nghiệp. Họ bị ngài đuổi đi sau khi đã bố thí cho một bài học về siêng năng không hợp thời.
Còn hạng mất dạy cũng chẳng ít. Họ rất no đủ sang trọng,song,chuyên môn đeo mặt
nạ để lừa dối bóc lột lẫn nhau.
Được cái, trong khi giữ một cách nhìn bi
quan về xã hội, đồng thời ông không biệt
đãi bản thân, tính chuyện tô vẽ bản thân. Trong hồi ký ông tự trình bày bản thân với đủ thứ thói tật.
Nhìn quá rõ những mặt xấu trong con người, hoài nghi đối với nhân tâm thế đạo,
rồi khinh thế ngạo vật rồi lười biếng ẩu không coi việc gì là quan
trọng... xưa nay thật khó có ai tự nói
về mình như vậy.
Và cũng vì thế nên trong Đời viết văn
của tôi có những nhận xét về nghề cầm bút rất khắc nghiệt đại loại :
- Làng văn từ xưa đến giờ, quả là cái chợ
- Một dạo người ta sợ những người cầm bút như …sợ hủi
- Rất nhiều người viết chỉ láng tráng đến với nghề một
chốc rồi chuồn thẳng đến mức phải gọi cái cách tồn tại của họ là nửa đời nửa
đoạn.
Trong những trường hợp có thể, Nguyễn Công
Hoan đã sòng phẳng.
Cách tồn tại riêng trong nghề
Một kiểu
người Việt
Tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan, người ta không khỏi
nhận ra một sự éo le rõ rệt. Một mặt, đây là một trong những cây bút hàng đầu
của nền văn học dân tộc trong thế kỷ XX,
một đô vật lực lưỡng trong trường văn
trận bút. Mặt khác, đó hình như lại
là cây bút đặt rất ít sự nghiêm chỉnh
vào sáng tác.
Như ông đã
kể, có lần ông mang truyện của mình tặng cho người khác để người đó bán
cho các báo lấy tiền.
Lại như cái cảnh ông vừa chơi bài vừa viết
truyện, hoặc viết tiểu thuyết đăng báo
mà không thuộc hết tên nhân vật, phải để trống rồi nhờ toà soạn điền hộ.
Người đời vốn ranh mãnh. Có làm như vậy đi chăng nữa thì họ cũng giấu
biệt đi không muốn cho ai biết. Trong khi đó, Nguyễn Công Hoan lại bô bô kể hết cả ra trong sách.
Qua những phát biểu trực tiếp cũng như qua
cách làm việc của ông, thấy toát lên cái ý chẳng qua do lọc lõi thạo đời thì viết cho mọi người cùng đọc chứ trong bụng chả buồn để tâm gì đến nghĩa lý với lại vai trò
rắc rối mà người ta thường gán cho nghề nghiệp này.
Đại khái ông không phải trăn trở nhiều khi ngồi trước
trang giấy, thảng hoặc đôi lần có để ý đến ý nghĩa xã hội của công việc ( như khi viết Bước đường cùng ) thì cũng là làm vội
làm vàng, chứ chưa phải đã dồn hết vào đấy tất cả tâm sức vốn có.
Nguồn cảm hứng nào đã thúc đẩy Nguyễn Công Hoan kể chuyện mình theo kiểu như vậy ?
Chúng tôi có cảm tưởng điều đầu tiên ông muốn truyền đạt tới mọi
người, ấy là viết văn phải có năng khiếu và sự thành công không thể do ý
chí hay day tay mắm miệng mà có được.
Vốn thích đề cao những gì gọi là tự nhiên
ông chúa ghét những nhà văn nào quan trọng hoá nghề nghiệp của mình và lấy sự
viết lách ra để lừa bịp.
Sự dông dài tuỳ tiện mà ông hay nói, đúng
hơn sự đùa bỡn mà ông cố ý phô ra, là
một cái gì quán xuyến trong ông, nó buộc người ta sau đó phải hiểu dần ra những điều đơn giản mà ông
muốn nói: việc viết văn cũng là một
việc thường như mọi việc khác trên đời hoặc gán cho văn chương có lắm ý nghĩa đâu đâu tức là chẳng hiểu gì về nó cả.
Ở chỗ này có thể nói cách làm của Nguyễn
Công Hoan trùng khít với một xu thế của tư duy hiện đại ấy là nhìn đời sống ở
một khoảng cách gần gũi, phi huyền thoại hoá nó, làm cho mất đi cái vẻ thiêng liêng giả tạo mà con
người trung đại thích dùng để tự tô vẽ.
Đây cũng là cái cách mà nhà văn lõi đời phản ứng lại trước thói ấu trĩ của thời đại cách mạng, khi mà người ta quá đề cao ý nghĩa mục đích của việc cầm bút để rồi hướng nó vào việc phục vụ chính trị một cách xoàng xĩnh.
Đồng
thời sự phi huyền thoại hoá này, tác giả còn đi gần tới một quan niệm khác cũng chỉ thấy
ở con người hiện đại, ấy là nhấn mạnh tính chất trò chơi của cuộc đời, và cho
rằng trong trò chơi, cả ý nghĩa nghiêm chỉnh lẫn cái vẻ hư vô của kiếp nhân
sinh có dịp bộc lộ. Chơi để sống cho nhẹ nhàng và nếu có phải chết cũng là chết
một cách thoải mái.
Trong tiếng Việt chữ chơi hay gợi ra cái ý ham vui, gặp
chăng hay chớ, chả cần để tâm vào việc gì
mà tha hồ làm nhanh làm ẩu làm hàng giả
bịp bợm.
Có thể nói Nguyễn Công Hoan
chơi với nghĩa khác. Chơi ở đây thuộc về một cái gì nằm
trong cách nhìn đời trong ý thức của con người nó giúp cho một cây bút
như tác giả Bước đường cùng thêm
hào hứng trong sự sáng tạo, khi viết tìm
thêm được những trò hóm nghịch lôi cuốn bạn đọc.
Truy nguyên về tận nguồn gốc, có thể bảo cái
sự nhởn nhơ ở Nguyễn Công Hoan còn thuộc về hồn cốt dân tộc mà ông thấm nhuần
trong dòng máu mình.
Rải rác trong các đoạn trên chúng ta đã
nhắc qua một số đặc điểm làm nên cách nhìn đời sống của Nguyễn Công Hoan bộc lộ qua
các truyện ngắn truyện dài đã in:
Thích sự tự nhiên và luôn luôn tự nhắc nhở
mình là phải giữ bản sắc.
Không tin lắm ở sách vở mà thích đề cao một sự khôn
ngoan trời cho.
Trong khi gắng gỏi học theo mọi người thì bề ngoài lại tỏ ra
không coi cái gì là quan trọng và xem
thường mọi chuyện.
Lấy sự cười đùa làm vui tự nhiên, bài bác những sự quan trọng
hoá giả tạo song lại sẵn sàng để tâm và tỏ ra rất thích thú với những sự sắp
đặt tinh xảo v...v....
Đến Đời viết văn của tôi thì chúng ta lại gặp cái tinh thần đó trong
chính con người tác giả.
Trong khi nhìn lại đời mình, nhà văn hiện ra
như một cá tính cụ thể, mà trong đó đồng thời
thấy bao hàm những con người khác những cuộc đời khác. Xét theo nghĩa
này, Đời viết văn của tôi là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong sự nghiệp của tác
giả./.
1997.
Published on March 12, 2014 02:36
March 10, 2014
Nguyễn Công Hoan và những cái nháy mắt tinh nghịch
Lời
dẫn
Khi quá chán chường trước các sáng tác mới in hai chục năm nay,--
và cả phần lớn những bài thơ những thiên truyện in ở Hà Nội 1945-1986 mà một thời đã say mê đã ngấu nghiến - tôi thử
tìm lại văn chương tiền chiến, bao gồm từ
Tự lực văn đoàn tới Nam Cao Vũ
Trọng Phụng...
Niềm tự tin được tìm trở lại.
Tôi phải dằn lòng khi
chia tay những trang sách mà ban đầu chỉ
định ghé qua đó và tự nhủ sẵn sàng đọc lại.
Thử
đặt cho mình câu hỏi đâu là chỗ khác giữa hai nền văn học đó.
Câu trả lời: văn học thời nay
thích giáo huấn quá. Còn văn học trước 1945 thường dừng lại ở chỗ chỉ ra cho
mình đời là thế và không muốn lèo lái lôi kéo hướng dẫn người đọc gì thêm nữa.
Truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan là một trường hợp như thế. Chưa bao giờ tôi quá say ông. Nhưng vẫn cứ
sa đà, cầm các tập truyện ngắn của ông lên là phải đọc, đọc xong còn ngẫm nghĩ
đâu là mối liên hệ giữa những điều ông
viết với cuộc sống trước mắt.
Khoảng hai chục năm nay, việc đọc văn chương với tôi thêm ý nghĩa mới: phân
tích tính cách người Việt hiện đại, với những thói hư tật xấu vốn hình thành từ
lâu trong lịch sử và còn kéo dài đến ngày hôm nay.
May quá, tôi tìm thấy
ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhiều ví dụ” kinh điển”.
Không phải cách nhìn của nhà văn này là duy nhất đúng. Ông
chỉ có những mẫu nhất định. Người nghiên cứu cần biết đến cả các mẫu khác của Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Lê văn Trương Nam
Cao…
Nhưng đúng là trong bảng pha mầu người Việt, người ta không
thể quên Nguyễn Công Hoan.
Trong tấn hài kịch nhân gian mà ông trình bầy, người
Việt thường hiện ra với nhiều nét không
thể thương được. Lười biếng dối trá. Tham lam càm quắp. Giầu thì bỉ ổi mà nghèo thì nhếch nhác hèn hạ.
Khi diễn tả lại, ở ông thấy toát lên sự dửng dưng với một
lời khẳng định đời là thế, người mình là thế.
Lối khinh thế
ngạo vật, khinh bạc,
hư vô, bi quan đến cùng cực trước sự đời,
của ông cũng mang rõ chất Việt Nam mà
chúng ta cần tìm hiểu.
Với nền nghiên cứu của Hà Nội, một thời gian dài, người ta gọi đó là cái
nhìn tự nhiên chủ nghĩa và không quán
triệt lập trường giai cấp.
Tuy nhiên ngày nay
nhìn lại, chúng ta thấy là Nguyễn Công Hoan có lý của mình. Dù không có ý thức
đầy đủ, nhưng thực sự là ông đã sớm bắt tay vào việc phơi bày bản sắc dân tộc để phê phán.
Bài viết dưới đây được viết từ gần hai chục năm trước. Nó chưa nói hết được ý nghĩa tác phẩm Nguyễn Công Hoan theo hướng trên tôi vừa nói.
Đưa lại trên blog, tôi chỉ muốn nhân đây ghi nhận thêm một điều các thói hư tật xấu mà chúng ta đang nói hôm nay thật ra đã cố kết trong người Việt từ nhiều đời, sách vở đã ghi lại khá đầy đủ. Chẳng qua các nhà nghiên cứu lịch sử xã hội ở ta sau 1945 làm ngơ đó thôi.
Lại càng thấy có thể khai thác văn học tiền chiến theo nhiều cách khác nhau, chứ không phải chỉ có cái cách ta đã làm rồi đem giảng dạy ở nhà trường mấy chục năm nay.
Trạng là một loại nhân vật đặc biệt của văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng
tập trung của trí thông minh và cách sống khôn ngoan mà những người dân bình
thường vốn ưa thích.
Dù sống ở thời nào và khoác tên gì, song các nhân vật
trạng đều giống nhau ở chỗ tinh ranh ma quái, giỏi biến báo, và nhất là giỏi
đối đáp. Trước những tình thế khốn quẫn, những nghịch cảnh trớ trêu, họ linh
hoạt tìm ngay được cách thích ứng.
Không làm gì, nhưng họ biết tất cả. Không để
bị ai lừa, họ còn luôn luôn "đi guốc trong bụng thiên hạ". Lại cũng
do biết nhiều quá, nên một triết lý hư vô thường cũng phảng phất trong cách
nhìn đời của các trạng.
Óc thực tế chắc chắn cộng với một trí tưởng tượng hồn
nhiên thường trực, đã giúp cho các trạng nhìn đâu cũng thấy chuyện buồn cười,
dù sau khi cười, họ cũng không biết làm gì hơn!
Trước khi trở thành nhân vật của các truyện cười dân gian, các loại trạng nói
trên đã thả sức tung hoành trong xã hội trung cổ Việt Nam nhiều thế kỷ.
Sang
thời hiện đại, trong khi các truyện trạng trong quá khứ bắt đầu được sưu tầm
ghi chép, thì các trạng hiện đại tiếp tục hành nghề.
Lại có những nhà văn hấp
thụ được cái mạch truyện cười dân gian đó để viết đều đều, chẳng hạn như trường
hợp Nguyễn Công Hoan, cây bút cả đời sống đạo mạo trong nghề dạy học, song vẫn
mang tâm hồn nghịch ngợm trẻ trung của một thứ trạng hiện đại.
Tấn
kịch nhân gian
Có nhiều dấu hiệu khác nhau để xác nhận sự vững vàng và lý do tồn tại thật sự
của một ngòi bút, song dấu hiệu quan trọng nhất có lẽ là khả năng của ngòi bút
đó trong việc áp đặt một cách nhìn đời riêng cho bạn đọc.
Thế giới do nhà văn
tạo nên có thể lớn có thể nhỏ. Nhưng thế giới đó phải có sức sống nội tại, phải
thống nhất lại theo những quy luật riêng, cái cung cách riêng mà chỉ nhà văn đó
mới có.
Trong giới cầm bút ở xứ ta thế kỷ này, Nguyễn Công Hoan thuộc về một số ít ỏi
những người tìm được lý do tồn tại thật sự như vậy.
Từ cách khái quát hiện thực, cho tới
cách dựng truyện, cách tìm nhân vật, cách đặt câu dùng chữ, văn ông luôn luôn
có một thần thái riêng trộn không lẫn.
Mà nguồn gốc của tất cả những cái làm nên thần
thái riêng ấy là một lối nhìn đời theo kiểu trạng dân gian trên kia đã nói.
Vào các trang sách của ông, cuộc
sống xã hội Việt Nam thuở giao thời hiện lên với không biết bao nhiêu là vớ vẩn
nhảm nhí.
Đám nhà giàu xổi mới nảy nòi, nhố
nhăng lố bịch (Cô Kếu gái tân thời, Nỗi
lòng ai tỏ, Một tấm gương sáng).
Bọn quan lại keo bẩn ngu dốt, sẵn sàng làm bất
cứ việc gì xấu xa, miễn bóp nặn được người dân và thăng quan tiến chức (Thật là phúc, Cái nạn ô tô, Xuất giá tòng
phu...).
Sự suy đồi phong hóa diễn ra ở khắp
mọi nơi, trong mọi gia đình (Mất cái ví,
Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn...).
Từ thành thị đến nông thôn những
người dân thường túng bấn, nghèo khổ, chìm đắm trong cảnh tối tăm vô nghĩa (Sáng chị phu mỏ, Thanh! Dạ, Quyền chủ, Chính
sách thân dân...).
Bằng một cách nói có phần táo tợn,
trong cuốn hồi ký Đời viết văn của tôi (in ra năm 1971, lúc nhà văn đã 68 tuổi),
Nguyễn Công Hoan từng nhiều lần trình ra những "đức tính" bẩm sinh
chẳng có gì hay ho của mình lúc còn trẻ, nào là "khinh thế ngạo vật"
"nghịch ngợm ranh mãnh", nào là thích tìm những thói xấu của người
chung quanh để trêu ghẹo, đôi khi trở thành bất nhẫn "hư đốn, mất dạy"
(sách đã dẫn, các trang 42, 45).
Trong những lời lẽ đó, không phải
chỉ có chút ít thậm xưng, mà còn rất nhiều sự thực.
Bàng bạc sau các câu chuyện
tức cười là một khái quát thản nhiên về thói đời đen bạc. Ở đời có ai tốt bụng
với ai đâu, người ta chỉ tỏ ra tử tế khi cảm thấy có lợi, giống như người đàn
bà nọ, hết lòng trông nom một người ốm chỉ vì biết chẳng bao lâu người ốm đó sẽ
chết, và mình sẽ xin được mái tóc (Tôi
xin hết lòng). Hoặc ông chủ nhà đòn đám ma mang lê táo đến thăm một gia
chủ, cốt để xí phần trông nom ma chay (Một
tin buồn).
Bởi vậy, sẽ là ngớ ngẩn, nếu ta tin
ở những lời hứa hão, như lời hứa trở về của người vợ đi du học ở nước ngoài (Thế là mợ nó đi tây), hoặc lời mời chào
của một kẻ thị dân trong cơn túng quẫn (Thằng
điên).
Theo cách trình bày của Nguyễn Công
Hoan, sự nông nổi phải được xem như một thứ bản tính thứ hai của con người. Với
sự nông nổi ấy, người ta đã làm bao tội ác mà không hay biết, tình thế trớ trêu
chẳng khác cảnh đám lính huyện lỵ nọ hùa nhau chôn sống cười cợt trên sự đau
đớn của một con ngựa già, hoặc một ông tri châu bắn bừa bắn bãi sáu mạng người
- thực ra là những kẻ vô tội - sau đó vu cho họ là giặc, và đi báo quan trên
lĩnh thưởng.
Không phải ngẫu nhiên, trong hồi ký, Nguyễn
Công Hoan kể lại rằng khi đi học, có lần thầy giáo ra đầu bài "ở đời anh
có hy vọng gì", ông đã viết có mỗi một câu "ở đời tôi không có hy
vọng gì cả", rồi đem nộp.
Để hiểu cái đành hanh khinh bạc
trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có lẽ nên xem mẩu chuyện bâng quơ đó
như một thứ chìa khóa đích thực.
Khinh bạc, hư vô, bi quan đến cùng
cực trước sự đời, nên trong nhiều tác phẩm, ông đã
đứng ra vạch vôi vào những gì gọi là giá trị, là tốt đẹp,
từ vẻ nghiêm chỉnh
của một ông giáo (Thầy cáu)
tới cái
mải miết của một kẻ đi theo dõi các hành tung nghi vấn (Cái lò gạch bí mật),
từ sự trịnh trọng của một ông đồ già viết
phúng điếu (Xin chữ cụ nghè)
cho tới
những lời quảng cáo của một gánh hát nghèo nơi tỉnh nhỏ (Đào kép mới).
Với Nguyễn Công Hoan, hình như bao giờ cũng thế,
không có gì mới trên đời này cả!
Kẻ
sống bên lề
Trong số các nhà văn Việt Nam sống và viết ở thế kỷ XX, Nguyễn Công Hoan thuộc
loại viết khỏe, viết nhiều bậc nhất.
Truyện dài đã in của ông lên tới
trên 30 quyển, bao gồm cả những tiểu thuyết dài dài và nổi tiếng bởi những lý
do khác nhau như Tắt lửa lòng, Lá ngọc
cành vàng, Bước đường cùng.
Truyện ngắn - lĩnh vực bộc lộ đầy đủ
văn tài của ông - cũng vậy, số lượng những cái ông đã cho in đâu những trên
200, mà riêng số thật hay, thường được in đi in lại cũng đến dăm sáu chục.
Năm 1963, vào dịp Nguyễn Công Hoan lên lão 60,
với tư cách một kẻ hậu sinh, một cậu học trò, nhà văn Tô Hoài đã ghi nhận
"Lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan
sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ,
tiến vào Cách mạng tháng Tám"
(Kiếp hồng nhan là tập truyện ngắn đầu tay
của Nguyễn Công Hoan in ra năm 1923; hai thời kỳ nói ở đây là trước và sau 1930
- V.T.N).
Ấy vậy mà trước sau Nguyễn Công Hoan không sống hẳn về nghề văn. Nghề tay phải
của ông vẫn là nghề dạy học.
Chẳng ai ngăn cản, mà chủ ý của ông
là vậy. Nghe người ta gọi mình là nhà văn, ông thấy ngần ngại. Nguyễn Công Hoan
chỉ nhận mình là người viết văn, thế thôi! Mỗi lần có thể được, ông đều tìm
cách làm ngược những điều thiên hạ quen hình dung về các nhà văn, coi đó làm
vui.
Ví như xưa nay ai cũng nghĩ người
viết văn phải đọc sách nhiều. Thì ông công khai bảo là rất ngại đọc sách, có
những cuốn rất nổi tiếng đã cầm lấy rồi, cũng chỉ đọc ít trang rồi bỏ.
Người ta chỉ có thể hiểu được những điều ấy, nếu nhớ tới cá tính riêng của
Nguyễn Công Hoan và nhất là đặt con người ông, nhân cách ông, trong mối quan hệ
với cái môi trường mà ông chịu nhiều ảnh hưởng.
Thời gian hình thành tính cách
của ông là hai chục năm đầu của thế kỷ XX. Tuy lúc ấy sự cai trị của người Pháp đã được xác
lập ổn định để dần hướng xã hội theo hướng tư bản, song tàn tích phong kiến còn rất
nặng.
Bản thân Nguyễn Công Hoan lại lớn
lên trong một gia đình quan lại, loại quan nhỏ, sống có phần thanh bạch. Lý
tưởng phong kiến - ở cái phần thanh cao tốt đẹp - cộng với cảm hứng dân gian
lành mạnh đã giúp cho ông một thái độ sống có lương tri, thương người nghèo,
ghét kẻ giàu, nhất là luôn luôn cười giễu những cái xấu xa dơ bẩn.
Nhưng quan niệm phong kiến về văn
hóa vốn nghiệt ngã. Nó rất ghét những gì gọi là phi chính thống vượt ra ngoài
khuôn khổ. Nói chung thì đó là một quan niệm hẹp hòi khô cứng. Có lẽ là do tâm
thức ăn sâu những quan niệm kiểu đó, nên một người thạo viết quen viết, sinh ra
để viết, như Nguyễn Công Hoan, chỉ coi những chuyện mình viết ra là để cười cợt
cho vui, mà không phải việc nghiêm chỉnh.
Mặt khác, cũng phải nhận là vào thời Nguyễn
Công Hoan viết nhiều viết khỏe, nghề viết văn ở Việt Nam chưa ra quy củ nền nếp
gì cả.
Những điều mà Nguyễn Công Hoan mang
rêu rao (nào là ở đây "như một cái chợ", quá nhiều kẻ tầm thường theo
đuổi những cái danh hão; nào là "một dạo người ta sợ những người làm nghề
cầm bút như sợ... hủi") không phải là không có lý.
Quá trình dân chủ hóa trong xã hội
bấy giờ vừa mới bắt đầu thì đã bị làm hỏng. Cách nhìn cao ngạo, lối sống bên lề
mà Nguyễn Công Hoan lựa chọn là một cách phản ứng trước thời đại.
Sự phản ứng ấy lại nhiều phần phù
hợp với bản chất tự do của sự sáng tạo và cũng ăn nhịp với xu hướng vận động
của lịch sử, nên đã góp phần giải phóng ở Nguyễn Công Hoan một sức làm việc dồi
dào mà mỗi lần nghĩ tới, không ai là không kính phục.
Đã in trong Cánh bướm và đóa hướng dương,1999
dẫn
Khi quá chán chường trước các sáng tác mới in hai chục năm nay,--
và cả phần lớn những bài thơ những thiên truyện in ở Hà Nội 1945-1986 mà một thời đã say mê đã ngấu nghiến - tôi thử
tìm lại văn chương tiền chiến, bao gồm từ
Tự lực văn đoàn tới Nam Cao Vũ
Trọng Phụng...
Niềm tự tin được tìm trở lại.
Tôi phải dằn lòng khi
chia tay những trang sách mà ban đầu chỉ
định ghé qua đó và tự nhủ sẵn sàng đọc lại.
Thử
đặt cho mình câu hỏi đâu là chỗ khác giữa hai nền văn học đó.
Câu trả lời: văn học thời nay
thích giáo huấn quá. Còn văn học trước 1945 thường dừng lại ở chỗ chỉ ra cho
mình đời là thế và không muốn lèo lái lôi kéo hướng dẫn người đọc gì thêm nữa.
Truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan là một trường hợp như thế. Chưa bao giờ tôi quá say ông. Nhưng vẫn cứ
sa đà, cầm các tập truyện ngắn của ông lên là phải đọc, đọc xong còn ngẫm nghĩ
đâu là mối liên hệ giữa những điều ông
viết với cuộc sống trước mắt.
Khoảng hai chục năm nay, việc đọc văn chương với tôi thêm ý nghĩa mới: phân
tích tính cách người Việt hiện đại, với những thói hư tật xấu vốn hình thành từ
lâu trong lịch sử và còn kéo dài đến ngày hôm nay.
May quá, tôi tìm thấy
ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhiều ví dụ” kinh điển”.
Không phải cách nhìn của nhà văn này là duy nhất đúng. Ông
chỉ có những mẫu nhất định. Người nghiên cứu cần biết đến cả các mẫu khác của Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Lê văn Trương Nam
Cao…
Nhưng đúng là trong bảng pha mầu người Việt, người ta không
thể quên Nguyễn Công Hoan.
Trong tấn hài kịch nhân gian mà ông trình bầy, người
Việt thường hiện ra với nhiều nét không
thể thương được. Lười biếng dối trá. Tham lam càm quắp. Giầu thì bỉ ổi mà nghèo thì nhếch nhác hèn hạ.
Khi diễn tả lại, ở ông thấy toát lên sự dửng dưng với một
lời khẳng định đời là thế, người mình là thế.
Lối khinh thế
ngạo vật, khinh bạc,
hư vô, bi quan đến cùng cực trước sự đời,
của ông cũng mang rõ chất Việt Nam mà
chúng ta cần tìm hiểu.
Với nền nghiên cứu của Hà Nội, một thời gian dài, người ta gọi đó là cái
nhìn tự nhiên chủ nghĩa và không quán
triệt lập trường giai cấp.
Tuy nhiên ngày nay
nhìn lại, chúng ta thấy là Nguyễn Công Hoan có lý của mình. Dù không có ý thức
đầy đủ, nhưng thực sự là ông đã sớm bắt tay vào việc phơi bày bản sắc dân tộc để phê phán.
Bài viết dưới đây được viết từ gần hai chục năm trước. Nó chưa nói hết được ý nghĩa tác phẩm Nguyễn Công Hoan theo hướng trên tôi vừa nói.
Đưa lại trên blog, tôi chỉ muốn nhân đây ghi nhận thêm một điều các thói hư tật xấu mà chúng ta đang nói hôm nay thật ra đã cố kết trong người Việt từ nhiều đời, sách vở đã ghi lại khá đầy đủ. Chẳng qua các nhà nghiên cứu lịch sử xã hội ở ta sau 1945 làm ngơ đó thôi.
Lại càng thấy có thể khai thác văn học tiền chiến theo nhiều cách khác nhau, chứ không phải chỉ có cái cách ta đã làm rồi đem giảng dạy ở nhà trường mấy chục năm nay.
Trạng là một loại nhân vật đặc biệt của văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng
tập trung của trí thông minh và cách sống khôn ngoan mà những người dân bình
thường vốn ưa thích.
Dù sống ở thời nào và khoác tên gì, song các nhân vật
trạng đều giống nhau ở chỗ tinh ranh ma quái, giỏi biến báo, và nhất là giỏi
đối đáp. Trước những tình thế khốn quẫn, những nghịch cảnh trớ trêu, họ linh
hoạt tìm ngay được cách thích ứng.
Không làm gì, nhưng họ biết tất cả. Không để
bị ai lừa, họ còn luôn luôn "đi guốc trong bụng thiên hạ". Lại cũng
do biết nhiều quá, nên một triết lý hư vô thường cũng phảng phất trong cách
nhìn đời của các trạng.
Óc thực tế chắc chắn cộng với một trí tưởng tượng hồn
nhiên thường trực, đã giúp cho các trạng nhìn đâu cũng thấy chuyện buồn cười,
dù sau khi cười, họ cũng không biết làm gì hơn!
Trước khi trở thành nhân vật của các truyện cười dân gian, các loại trạng nói
trên đã thả sức tung hoành trong xã hội trung cổ Việt Nam nhiều thế kỷ.
Sang
thời hiện đại, trong khi các truyện trạng trong quá khứ bắt đầu được sưu tầm
ghi chép, thì các trạng hiện đại tiếp tục hành nghề.
Lại có những nhà văn hấp
thụ được cái mạch truyện cười dân gian đó để viết đều đều, chẳng hạn như trường
hợp Nguyễn Công Hoan, cây bút cả đời sống đạo mạo trong nghề dạy học, song vẫn
mang tâm hồn nghịch ngợm trẻ trung của một thứ trạng hiện đại.
Tấn
kịch nhân gian
Có nhiều dấu hiệu khác nhau để xác nhận sự vững vàng và lý do tồn tại thật sự
của một ngòi bút, song dấu hiệu quan trọng nhất có lẽ là khả năng của ngòi bút
đó trong việc áp đặt một cách nhìn đời riêng cho bạn đọc.
Thế giới do nhà văn
tạo nên có thể lớn có thể nhỏ. Nhưng thế giới đó phải có sức sống nội tại, phải
thống nhất lại theo những quy luật riêng, cái cung cách riêng mà chỉ nhà văn đó
mới có.
Trong giới cầm bút ở xứ ta thế kỷ này, Nguyễn Công Hoan thuộc về một số ít ỏi
những người tìm được lý do tồn tại thật sự như vậy.
Từ cách khái quát hiện thực, cho tới
cách dựng truyện, cách tìm nhân vật, cách đặt câu dùng chữ, văn ông luôn luôn
có một thần thái riêng trộn không lẫn.
Mà nguồn gốc của tất cả những cái làm nên thần
thái riêng ấy là một lối nhìn đời theo kiểu trạng dân gian trên kia đã nói.
Vào các trang sách của ông, cuộc
sống xã hội Việt Nam thuở giao thời hiện lên với không biết bao nhiêu là vớ vẩn
nhảm nhí.
Đám nhà giàu xổi mới nảy nòi, nhố
nhăng lố bịch (Cô Kếu gái tân thời, Nỗi
lòng ai tỏ, Một tấm gương sáng).
Bọn quan lại keo bẩn ngu dốt, sẵn sàng làm bất
cứ việc gì xấu xa, miễn bóp nặn được người dân và thăng quan tiến chức (Thật là phúc, Cái nạn ô tô, Xuất giá tòng
phu...).
Sự suy đồi phong hóa diễn ra ở khắp
mọi nơi, trong mọi gia đình (Mất cái ví,
Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn...).
Từ thành thị đến nông thôn những
người dân thường túng bấn, nghèo khổ, chìm đắm trong cảnh tối tăm vô nghĩa (Sáng chị phu mỏ, Thanh! Dạ, Quyền chủ, Chính
sách thân dân...).
Bằng một cách nói có phần táo tợn,
trong cuốn hồi ký Đời viết văn của tôi (in ra năm 1971, lúc nhà văn đã 68 tuổi),
Nguyễn Công Hoan từng nhiều lần trình ra những "đức tính" bẩm sinh
chẳng có gì hay ho của mình lúc còn trẻ, nào là "khinh thế ngạo vật"
"nghịch ngợm ranh mãnh", nào là thích tìm những thói xấu của người
chung quanh để trêu ghẹo, đôi khi trở thành bất nhẫn "hư đốn, mất dạy"
(sách đã dẫn, các trang 42, 45).
Trong những lời lẽ đó, không phải
chỉ có chút ít thậm xưng, mà còn rất nhiều sự thực.
Bàng bạc sau các câu chuyện
tức cười là một khái quát thản nhiên về thói đời đen bạc. Ở đời có ai tốt bụng
với ai đâu, người ta chỉ tỏ ra tử tế khi cảm thấy có lợi, giống như người đàn
bà nọ, hết lòng trông nom một người ốm chỉ vì biết chẳng bao lâu người ốm đó sẽ
chết, và mình sẽ xin được mái tóc (Tôi
xin hết lòng). Hoặc ông chủ nhà đòn đám ma mang lê táo đến thăm một gia
chủ, cốt để xí phần trông nom ma chay (Một
tin buồn).
Bởi vậy, sẽ là ngớ ngẩn, nếu ta tin
ở những lời hứa hão, như lời hứa trở về của người vợ đi du học ở nước ngoài (Thế là mợ nó đi tây), hoặc lời mời chào
của một kẻ thị dân trong cơn túng quẫn (Thằng
điên).
Theo cách trình bày của Nguyễn Công
Hoan, sự nông nổi phải được xem như một thứ bản tính thứ hai của con người. Với
sự nông nổi ấy, người ta đã làm bao tội ác mà không hay biết, tình thế trớ trêu
chẳng khác cảnh đám lính huyện lỵ nọ hùa nhau chôn sống cười cợt trên sự đau
đớn của một con ngựa già, hoặc một ông tri châu bắn bừa bắn bãi sáu mạng người
- thực ra là những kẻ vô tội - sau đó vu cho họ là giặc, và đi báo quan trên
lĩnh thưởng.
Không phải ngẫu nhiên, trong hồi ký, Nguyễn
Công Hoan kể lại rằng khi đi học, có lần thầy giáo ra đầu bài "ở đời anh
có hy vọng gì", ông đã viết có mỗi một câu "ở đời tôi không có hy
vọng gì cả", rồi đem nộp.
Để hiểu cái đành hanh khinh bạc
trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có lẽ nên xem mẩu chuyện bâng quơ đó
như một thứ chìa khóa đích thực.
Khinh bạc, hư vô, bi quan đến cùng
cực trước sự đời, nên trong nhiều tác phẩm, ông đã
đứng ra vạch vôi vào những gì gọi là giá trị, là tốt đẹp,
từ vẻ nghiêm chỉnh
của một ông giáo (Thầy cáu)
tới cái
mải miết của một kẻ đi theo dõi các hành tung nghi vấn (Cái lò gạch bí mật),
từ sự trịnh trọng của một ông đồ già viết
phúng điếu (Xin chữ cụ nghè)
cho tới
những lời quảng cáo của một gánh hát nghèo nơi tỉnh nhỏ (Đào kép mới).
Với Nguyễn Công Hoan, hình như bao giờ cũng thế,
không có gì mới trên đời này cả!
Kẻ
sống bên lề
Trong số các nhà văn Việt Nam sống và viết ở thế kỷ XX, Nguyễn Công Hoan thuộc
loại viết khỏe, viết nhiều bậc nhất.
Truyện dài đã in của ông lên tới
trên 30 quyển, bao gồm cả những tiểu thuyết dài dài và nổi tiếng bởi những lý
do khác nhau như Tắt lửa lòng, Lá ngọc
cành vàng, Bước đường cùng.
Truyện ngắn - lĩnh vực bộc lộ đầy đủ
văn tài của ông - cũng vậy, số lượng những cái ông đã cho in đâu những trên
200, mà riêng số thật hay, thường được in đi in lại cũng đến dăm sáu chục.
Năm 1963, vào dịp Nguyễn Công Hoan lên lão 60,
với tư cách một kẻ hậu sinh, một cậu học trò, nhà văn Tô Hoài đã ghi nhận
"Lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan
sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ,
tiến vào Cách mạng tháng Tám"
(Kiếp hồng nhan là tập truyện ngắn đầu tay
của Nguyễn Công Hoan in ra năm 1923; hai thời kỳ nói ở đây là trước và sau 1930
- V.T.N).
Ấy vậy mà trước sau Nguyễn Công Hoan không sống hẳn về nghề văn. Nghề tay phải
của ông vẫn là nghề dạy học.
Chẳng ai ngăn cản, mà chủ ý của ông
là vậy. Nghe người ta gọi mình là nhà văn, ông thấy ngần ngại. Nguyễn Công Hoan
chỉ nhận mình là người viết văn, thế thôi! Mỗi lần có thể được, ông đều tìm
cách làm ngược những điều thiên hạ quen hình dung về các nhà văn, coi đó làm
vui.
Ví như xưa nay ai cũng nghĩ người
viết văn phải đọc sách nhiều. Thì ông công khai bảo là rất ngại đọc sách, có
những cuốn rất nổi tiếng đã cầm lấy rồi, cũng chỉ đọc ít trang rồi bỏ.
Người ta chỉ có thể hiểu được những điều ấy, nếu nhớ tới cá tính riêng của
Nguyễn Công Hoan và nhất là đặt con người ông, nhân cách ông, trong mối quan hệ
với cái môi trường mà ông chịu nhiều ảnh hưởng.
Thời gian hình thành tính cách
của ông là hai chục năm đầu của thế kỷ XX. Tuy lúc ấy sự cai trị của người Pháp đã được xác
lập ổn định để dần hướng xã hội theo hướng tư bản, song tàn tích phong kiến còn rất
nặng.
Bản thân Nguyễn Công Hoan lại lớn
lên trong một gia đình quan lại, loại quan nhỏ, sống có phần thanh bạch. Lý
tưởng phong kiến - ở cái phần thanh cao tốt đẹp - cộng với cảm hứng dân gian
lành mạnh đã giúp cho ông một thái độ sống có lương tri, thương người nghèo,
ghét kẻ giàu, nhất là luôn luôn cười giễu những cái xấu xa dơ bẩn.
Nhưng quan niệm phong kiến về văn
hóa vốn nghiệt ngã. Nó rất ghét những gì gọi là phi chính thống vượt ra ngoài
khuôn khổ. Nói chung thì đó là một quan niệm hẹp hòi khô cứng. Có lẽ là do tâm
thức ăn sâu những quan niệm kiểu đó, nên một người thạo viết quen viết, sinh ra
để viết, như Nguyễn Công Hoan, chỉ coi những chuyện mình viết ra là để cười cợt
cho vui, mà không phải việc nghiêm chỉnh.
Mặt khác, cũng phải nhận là vào thời Nguyễn
Công Hoan viết nhiều viết khỏe, nghề viết văn ở Việt Nam chưa ra quy củ nền nếp
gì cả.
Những điều mà Nguyễn Công Hoan mang
rêu rao (nào là ở đây "như một cái chợ", quá nhiều kẻ tầm thường theo
đuổi những cái danh hão; nào là "một dạo người ta sợ những người làm nghề
cầm bút như sợ... hủi") không phải là không có lý.
Quá trình dân chủ hóa trong xã hội
bấy giờ vừa mới bắt đầu thì đã bị làm hỏng. Cách nhìn cao ngạo, lối sống bên lề
mà Nguyễn Công Hoan lựa chọn là một cách phản ứng trước thời đại.
Sự phản ứng ấy lại nhiều phần phù
hợp với bản chất tự do của sự sáng tạo và cũng ăn nhịp với xu hướng vận động
của lịch sử, nên đã góp phần giải phóng ở Nguyễn Công Hoan một sức làm việc dồi
dào mà mỗi lần nghĩ tới, không ai là không kính phục.
Đã in trong Cánh bướm và đóa hướng dương,1999
Published on March 10, 2014 19:58
March 5, 2014
Có một "triết lý" đang chi phối cuộc kiếm sống hàng ngày của chúng ta
Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, -- khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá!
Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh. Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.
Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại. Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả.
Nhưng ông không chịu!
Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm, tôi chưa hiểu để làm gì.
Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước. Thì ra ông lấy gạch để tạo lớp sóng nhỏ, từ đó lái cho cá trôi dần vào bờ.
Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi ni - lông trong tay ông gìa sột soạt.
Có thế chứ!- tôi như nghe thấy lời ông thầm nhủ - Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước!
Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người hiện nay.
Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị:
Tay trắng lập nghiệp.
Nghề ngỗng chẳng có.
Đồ nghề không tức là công cụ không.
Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước giành hết cả rồi.
Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc gì người ta thuê mướn, dù là mồ hôi đổ ra nhiều, mà đồng bạc thu về chẳng khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.
Thế nhưng đáng sợ nhất vẫn là cái “triết lý” toát lên từ việc kiếm sống đơn giản này.
Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường. Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu ? Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?
Nhưng tôi không mở miệng nổi.
Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống,con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc môi trường sống chung quanh đến như thế nào.
Lại nhớ nhà văn Nga Tchékhov (1860 – 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa.
Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hoả thì đi bộ đã chết ai?- người mugich lý sự.
Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.
Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa những việc đó với việc người đời quanh ta đang làm
-rải đinh trên đường cao tốc,
-bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,
-đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,
Rồi chặt phá rừng vô tội vạ.
Rồi mua bán bằng cấp và chức sắc.
Rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng.
Rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm...
Các việc ấy thực chất có khác nhau là bao ?
Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người trong thời đại chiến tranh và cách mạng. Khi bản chất của nó chưa được thấu hiểu và mức độ tàn phá nhân tính của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại?
1997
Đã in trong Nhân nào quả ấy 2003
Với nhan đề Kiếm sống với bất cứ giá nào
Published on March 05, 2014 22:10
March 4, 2014
Nâng trình độ sống để thích nghi - phát triển
Bài viết này của tôi
—dưới dạng trả lời phỏng vấn nhà báo Phương Loan (VNN) – đã in trên doanhnhan.vneconomy.vn ngày 29-1-2009,
sau đó đã được một số mạng khác đưa lại.
Đọc lại những suy nghĩ của mình từ năm năm trước, giờ đây, người viết muốn sửa
chữa và bổ sung khá nhiều. Nhưng một phần sự sửa chữa và nối dài này đã được thực hiện trong một số bài viết khác. Ngoài ra, có một số ý tưởng cần được làm thành chuyên đề riêng chứ không thể chỉ viết thêm
vài dòng đặt ở cuối bài như các lần
trước. Theo nghĩa ấy, việc in lại Nâng
trình độ sống … hôm nay chính là để mở đường cho một số bài viết mới mà tôi
đang chuẩn bị. Chùm bài sắp tới sẽ tập trung quanh chủ đề Chính nền văn hóa vốn có đã khiến chúng ta khó phát triển .
Trong sự thích nghi có sự buông trôi bất lực
Quan sát người Việt và dân tộc Việt Nam trong cuộc sống hội nhập hôm nay,
với tư cách một người dành nhiều thời gian nghiên cứu về Việt Nam và đặc tính dân tộc
Việt, ông có ấn tượng, suy nghĩ gì?
Nhìn lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đã trải
qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co, hỗn loạn,
nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo để chuyển sang
giai đoạn mới.
Đã đến lúc chúng ta có thể tổng kết, đánh giá cả một chu kì phát triển. Một
hướng suy nghĩ là nhìn những thành công hay vấp váp về kinh tế xã hội dưới góc
độ văn hóa, bởi con người kinh tế chẳng qua cũng chỉ là một khía cạnh của con
người Việt Nam.
Từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ chỗ tách ra để làm công việc riêng của
dân tộc đến chỗ quay trở về hội nhập với thế giới, cái quá trình ấy là cả một
khúc quanh đột ngột. Tôi ngờ rằng nhiều người lớn tuổi đã sống hết lòng với đời
sống hẳn cũng chung tâm lý như tôi, đêm nằm ngẫm nghĩ thấy thương cho chính
mình và những người thân quen xung quanh, rộng ra là thương cho cả dân tộc.
Chiến tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, ta lại
lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái không người
dạy dỗ, cũng hư hỏng đi.
Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xói mòn mà không khỏi
xót xa.
Người Việt xưa tới giờ khổ quá, đến khi ra với thế giới thì mắt như bị chói,
cái gì cũng thèm thuồng. Hết gồng mình lên chiến đấu nay lại gồng mình lên để
hưởng thụ. Cha mẹ cứ cái gì ngon nhất, đẹp nhất là lo dành cho con. Trong gia
đình, ta cúi mặt xuống chiều chuộng nhau mà không dám đặt ra yêu cầu cao với
nhau.
Theo tôi, căn nguyên của cái cách ứng xử này là cảm giác tự ti, nhìn thấy cái
sung sướng vừa đến với mình nó mong manh quá, còn thế giới vẫn xa lạ quá. Che
mắt mình lại, không muốn lộ ra ở mình cái phần bất lực, bởi tận thâm tâm, tin
rằng không bao giờ đạt được cái phần nhân loại hôm nay đã tới.
Nghịch lý là ở chỗ do mang tâm thức tự ti đó, khi quay lại nhìn bản thân, ở
nhiều người - không ai bảo ai - sinh ra tâm lý tự huyễn hoặc. Rằng so ra ta
cũng ghê gớm lắm; rằng không có cái phần hơn hẳn thiên hạ nhưng mình lại có cái
khác: di sản thế giới (thực chất phần nhiều là di sản thiên nhiên, đâu phải là
văn hóa), văn hóa ẩm thực...
Bình tĩnh lại để nghĩ sẽ thấy cái để Việt Nam khoe ra với thiên hạ thường chỉ
là phần trời cho mà không phải phần con người làm ra, chỉ là những gì bản năng
mà không phải là phần của trí tuệ: ta không có cuốn sách, bức họa nào ở tầm thế
giới. Trong âm nhạc, phần khó nhất của nó là hòa âm thì nhạc Việt Nam lại kém,
lấy đâu ra tác phẩm lớn.
Cái rõ nhất và duy nhất chúng ta có thể khoe với thế giới chính là sự thích
nghi, thích nghi nên thế nào cũng tồn tại. Tôi nhớ trong Anh em Karamazov, Dostoievski có một câu khái quát: "Tồn tại
trong bất cứ điều kiện nào là truyền thống của dòng họ Karamazov nhà ta".
Người Việt Nam cũng thế. Khó khăn đấy, nhưng chúng ta vẫn tồn tại - ta tự nhủ.
Có điều hôm qua trong chiến tranh nghĩ thế là cần thiết, nhưng hôm nay không đủ
nữa. Đã đến lúc đặt vấn đề là tồn tại sẽ như thế nào, thế nhỡ sự thích nghi làm
cho chúng ta mòn mỏi, kém cỏi, tầm thường và hư hỏng đi thì sao?
Làm kinh tế bằng tư duy chiến tranh
Ông vừa hơn một lần nói tới chiến tranh. Phải ông cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân gần dẫn tới những khó khăn kinh tế hiện nay? Nhưng ba
chục năm là thời gian quá dài, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Liệu ta có nên
cường điệu vai trò của nó?
Không, chả có gì là cường điệu cả. Ta đã ra khỏi cuộc chiến, nhưng lòng ta,
cách sống, cách nghĩ của ta chưa ra khỏi.
Chiến tranh cho phép người ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo hiệu
quả, còn cái giá của nó thì không cần biết. Trong chiến tranh, nhất là chiến
tranh ở Việt Nam, cứ chờ có những điều kiện cần và đủ thì không ai dám làm gì.
Phải liều. Phải duy ý chí. Cách làm đó nay vẫn được ta áp dụng.
Nói tóm lại, nếu trong chiến tranh ta phá với bất cứ giá nào thì nay ta xây với
bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tin đại loại cây cầu này sang năm
phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi, hoặc xây nhà máy ào ào mà
chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Thì đó là kiểu tư duy chiến
tranh chứ còn gì nữa?!
Bản thân chiến tranh Việt Nam lạ, không giống cuộc chiến nơi khác. Việt Nam
thắng được trong chiến tranh là nhờ chơi theo luật Việt Nam, tuy nhiên, trong
làm kinh tế, thì phải chơi theo luật chung của thế giới.
Những suy nghĩ về chiến tranh còn thường xuyên đến với tôi, mỗi khi nghĩ tới
quốc nạn tham nhũng. Đọc cuốn Bước thịnh
suy của các triều đại phong kiến Trung
Quốc của Cát Kiếm Hùng (nhà sử học Đài Loan), biết rằng trong lịch sử nước
này, tham nhũng ghê nhất là triều đại nhà Nguyên, một chính quyền quân sự.
Nữa là ở ta lại phổ biến hiện tượng coi ai giỏi chiến đấu thì cũng biết làm
kinh tế, nới lỏng luật pháp, dễ dãi với người có công và tuỳ tiện lấy quyền lợi
kinh tế trả ơn cho người góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh... tham
nhũng là tránh sao nổi.
Tâm lý tiểu nông tư duy tiểu nông
Ngoài nguyên nhân chiến tranh, để cắt nghĩa tình hình hiện thời, theo ông đâu
là những nguyên nhân lịch sử văn hoá sâu xa hơn?
Trước khi Pháp sang, "cả nước sống leo lắt trong một tình trạng thôn
dã" - tôi đọc được câu này trong một cuốn sách mới dịch in gần đây, cuốn
"Người Pháp và người An Nam bạn hay thù?" của Philippe Devillers.
Tôi chia sẻ với cách nhìn của nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại
Việt - Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, rằng tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn sâu trong cách
đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư duy tiểu nông.
Tôi trộm nghĩ, ở ta, một khi nếp sống làng xã còn ngự trị, không có triết học
ghê gớm cao xa gì tồn tại nổi, chỉ tư tưởng tiểu nông chi phối tất cả.
Nhìn sang nước Trung Quốc, nông thôn ở họ cũng nặng nề, sao họ vẫn phát triển
tốt?
Vì tư tưởng nông dân ở đó tuy mạnh (bắt nguồn từ tầm vóc một nông thôn bao la),
nhưng vẫn không phải là tư tưởng chủ đạo. Xưa đã vậy mà nay càng vậy. Người ta
bảo rằng trọng nông ức thương là nguyên tắc chi phối chính sách những nước theo
đạo Khổng. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Từ thời Tần Hán đô thị Trung Quốc
đã phát triển, từ Đường Tống trở đi thì đã có vai trò của một cơ chế năng động
kéo cả xã hội tiến theo.
Đô thị phát triển nghĩa là quốc gia trở thành một đơn vị có sức kết dính mạnh
mẽ. Việc kinh doanh của thương nhân ở đây được sự hỗ trợ của trí tuệ, giới nhà
nho cũng tham gia nghề buôn, làm cho nghề này đạt tới quy mô quốc gia và xuyên
quốc gia.
Nhìn chung trong thương trường, tư duy con người trở nên thông thoáng hơn, năng
động hơn. Giở các cuốn lịch sử tư tưởng ở Trung Quốc bao giờ tôi cũng thấy
người ta nói tới phần tư tưởng kinh tế. Thời nào, bộ phận này trong tư tưởng xã
hội Trung Hoa cũng có tiến triển.
Trong khi ấy, nhìn lại mình thì ngược lại. Quen sống tự nhiên ở làng quê, ta
không dám tổ chức lại cuộc sống qua các đô thị. Ta làm gì cũng chỉ theo bản
năng, sự tham gia của lý trí chỉ dừng lại ở mức tối thiểu.
Là một nước nông nghiệp nhưng cho tới lúc này, Việt Nam hầu như không có sách
nào tổng kết kinh nghiệm trồng lúa, còn nói chi tới các nghề khác.
Nghề buôn thì lại càng bị coi thường khinh rẻ. Mọi người cho đó là nghề lừa lọc
và thường bảo nhau: "Thật thà như thể lái trâu". Bản thân người làm
nghề buôn cũng làm ăn trong thế quẩn quanh lặt vặt, sản xuất càng lụn bại thì
họ càng có cơ hội để bắt chẹt người có nhu cầu.
Ông cho rằng năng lực sản xuất và kinh doanh lại là chỉ số chủ yếu đánh giá sự
phát triển xã hội?
Xét về mặt tư duy, sản xuất và kinh doanh được là nhờ người ta có một quan niệm
rộng rãi về thế giới. Người ta theo đuổi sự hoàn hảo. Người ta làm gì cũng
chuyên nghiệp.
Cũng là cái diều làm để chơi, nhưng diều các nước nhiều kiểu dáng kỳ lạ, còn
diều Việt Nam chỉ là mảnh giấy bồi phất vào mấy cái nan tre. Thế nên không
trách được khi người ta bảo hàng hoá Việt Nam vừa nghèo nàn đơn điệu về mẫu mã,
vừa kém về phẩm chất.
Về tác động xã hội, bản thân truyền thống kinh doanh yếu kém là dấu hiệu của
một xã hội chưa trưởng thành. Xã hội phát triển tự nó sẽ đặt ra các nhu cầu
mới, trong khi với Việt Nam hình như chỉ cần tàm tạm là được, cải tiến mà làm
gì. Khi không có quá nhiều những nhu cầu phải thỏa mãn thì sự phát minh, sáng
chế cũng như đổi mới việc phân công lao động lại trở thành xa xỉ.
Tóm lại ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại.
E sợ khi bước ra với thế giới
Những hạn chế trong việc làm ăn này đã tiếp tục chi phối chúng ta trong việc
làm ăn buôn bán với thế giới?
Rải rác tôi đã thấy người ta nêu ra đủ thói xấu của ta sau khi gia nhập WTO: e
ngại, chỉ muốn đánh quả, lanh chanh kiếm chác mà lại dại dột ngớ ngẩn dễ bị
lừa, đau chết điếng đi mà không cách gì thoát nổi...
Tôi muốn mở rộng thêm mà nói rằng đây là cả một "truyền thống" của
Việt Nam, thứ quán tính nó ràng buộc chúng ta từ nhiều đời.
Đọc lịch sử sẽ thấy nền ngoại thương của Việt Nam bây giờ không khác các thế kỷ
17-18 là bao. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh nói
chung cấm cửa lái buôn ngoại quốc, sợ họ vào gây náo loạn nhân tâm. Nhưng ngồi
nghĩ, lại tiếc, nên chính sách cứ khi thò khi thụt, dùng dằng, dang dở, nay thế
này mai thế khác. Mà chính sách càng tuỳ tiện đỏng đảnh, quan lại càng dễ đi
đêm để hưởng lợi.
Còn ở Đàng Trong, tiếng rằng mở cửa - và đây là một bước tiến đáng kể so với
Đàng ngoài - nhưng toàn là người ta đến bán hàng cho mình và mang hàng của mình
đi, chứ dân ta có lái buôn chủ động vươn ra với họ đâu!
Đến người phiên dịch dắt mối trong các vụ làm ăn này cũng thường là người Tàu,
ta không có nhân viên của mình. Quan chức quản ngoại thương chủ yếu chỉ lo thu
thuế, khi kiểm tra thương thuyền nước ngoài, thường lợi dụng chức vụ để xin xỏ
kiếm chác cho mình, bao che cho thương nhân nước ngoài. Được lợi chút đỉnh, họ
sẵn sàng bán rẻ cả quyền lợi của quốc gia.
Từ góc độ văn hoá ông cắt nghĩa hiện tượng này như thế nào?
Với quá trình lịch sử liên miên bị đe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen nghĩ
rằng những tai vạ của mình là do nước ngoài mang tới. Trong mắt ta, họ thường
là là kẻ thù nhiều hơn là đối tác cùng tồn tại. Nên ta nhìn họ với nhiều e ngại
và tự dặn nhau càng ít tiếp xúc với người ngoài càng ít càng tốt.
Ta quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Trong tiếp
xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói quen và kinh
nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn.
Cho đến thời gian thế hệ chúng tôi lớn lên, tâm lý này vẫn chi phối mạnh mẽ. Thôi con đừng khóc chi con/ Sống nhờ đất
khách, thác chôn quê người. Đây là một câu tôi nghe thuộc lòng từ nhỏ, mới đầu tưởng là
ca dao, sau mới biết là trong Truyện Kiều.
Lớn lên đọc sách, càng thấy cái tâm lý ăn quẩn vườn nhà đã ngấm vào tâm thức
của dân mình. Người dân đồng bằng Bắc Bộ xưa thường chỉ biết đến phạm vi 20 km
quanh vùng họ ở. Luôn luôn tâm niệm "ta về ta tắm ao ta", vừa ra khỏi
làng đã nước mắt ngắn nước mắt dài sùi sụt. Ngần ngại, sợ hãi...
Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để
ra với thế giới và hiểu thế giới.
Đợt hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộc phải bung ra, mở cửa, chứ thật ra
chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen, vừa không chuẩn bị thích đáng,
cuối cùng ta "nhảy đại" cho xong. Chính cái đó sinh ra nhiều tệ nạn:
tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, "lừa", lách luật...
Nhìn ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế giới
trong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn. Đại khái thấy
ai làm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã muộn. Định bán hàng
cho người ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý dân tộc cách sống của người
ta, cái gu của người ta thì bán sao được?
Một xã hội chưa trưởng thành
Ông chỉ mới giải thích những yếu kém về văn hoá liên quan đến mối quan
hệ làm ăn với nước ngoài. Nhưng một nền kinh tế không phải chỉ có chuyện đối
ngoại. Thế còn những khó khăn của kinh tế trong nước thì sao? Đâu là những
nguyên nhân về mặt văn hoá - xã hội?
Có thể hình dung xã hội Việt Nam trong quá khứ là đoàn quân tổ chức với nhiệt
tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn.
Một xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên, vừa
khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với tư duy hái
lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức sản xuất tạo ra của
cải. Một ví dụ, so với đất đai, Việt Nam có tỉ lệ bờ biển khá dài. Nhưng người
Việt gần như không biết khai thác biển, khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ.
Các nhà văn đồng nghiệp của tôi thường chỉ hay nói ở Việt Nam cá nhân chưa phát
triển. Nhưng nên nhớ là cả xã hội Việt Nam thời trung đại cũng ở vào một tình
trạng như vậy. Cách quản lý xã hội từ xưa vẫn rất đơn sơ: thu thuế trên đầu
người chứ không phải thu thuế sản xuất và kinh doanh.
Trong một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại (in trong kỷ yếu hội
thảo Quản lý và phát triển Thăng Long Hà
Nội tháng 3/2008), tôi thấy người ta lưu ý là trong số các văn bản
đưa ra, pháp lệnh về an ninh chiếm tới 65,56%, trong khi chỉ 16,42% văn bản ban
hành là có liên quan tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liên quan tới quản lý
văn hoá xã hội. Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn của chính quyền hầu
như không có.
Một xã hội phát triển là một xã hội có sự phân tầng cao và kết cấu phức tạp mà
hợp lý. Xã hội Việt Nam chỉ đang trên đường đạt tới trình độ đó.
Nói một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn là một cánh rừng nguyên sinh thì
Việt Nam có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Về mặt cá nhân con người chúng
ta còn nặng về bản năng và tự phát - người Pháp nói đó là dạng "tư duy
tiền Descartes" - trước sự duy lí. (Song đến nay cái kiểu tư duy ít lí trí
này vẫn được bênh che và tự hào, thế mới đáng sợ!)
Người ta có câu: một người Việt Nam không thua kém một người Nhật Bản nhưng
ba người Việt Nam thì chắc chắn thua ba người Nhật Bản. Tính hợp tác, cộng đồng
của người Việt hình như là trở ngại. Trong khi đó, nhiều người lí giải trong
chiến tranh Việt Nam chiến thắng chính là tính cộng đồng và sự đoàn kết. Liệu
hai góc nhìn này có quá trái ngược và phủ định lẫn nhau. Điều gì trong chiến
tranh đã gắn kết người Việt Nam với nhau và trong thời nay, cần phải xem xét
lại yếu tố cố kết như thế nào?
Tôi e bản thân câu "một người Việt không thua kém một người Nhật"
cũng là một nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một
cảm tưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy.
Còn cái chuyện ba người Việt so với ba người Nhật thì liên quan tới cấu
trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảo xã hội ta còn ở tình trạng của
những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước có tới vài chục cảng nước sâu mà
không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Thế nên các đô thị hiện nay không thiếu những
căn nhà đẹp nhưng không có được những khu nhà đẹp. Nói cách khác, chất kết dính
của xã hội Việt kém - kết dính theo nghĩa nội tại, cấu trúc, chứ
không phải đặt cạnh nhau mà buộc phải sống với nhau.
Ra ngoài hớt phần váng
Chúng ta cũng đã và đang mở cửa và ra với thế giới. Những nhân tố mới sẽ vào,
kích thích sự thay đổi, sáng tạo bên trong Việt Nam?
Trong trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cú
hích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường tác động
ngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón nhận. Nghèo là như
vậy, kém phát triển, thiếu kinh nghiệm như vậy, nhưng Việt Nam lại không biết
học hỏi để chủ động phát triển.
Ông có quá lời? Bản thân người Việt Nam vẫn thường tự hào rằng chúng ta là dân
tộc thông minh, cần cù, sáng tạo và ham học hỏi?
Giao lưu văn hoá là xu thế chung của thế giới. Một nền văn hoá lớn như văn hoá
Trung Hoa luôn luôn tự hào là có thái độ chủ động tiếp xúc với bên ngoài, lấy
văn hoá ngoại lai làm giàu cho văn hoá mình, và rất nghiêm túc trong học hỏi.
Từ đời Đường đạo Phật của Ấn Độ đã được tiếp thu trên quy mô lớn. Triều đình cử
hẳn Đường Tam Tạng qua Ấn Độ lấy kinh và về cho dịch thật kỹ càng thật đầy đủ.
Đến Trung Hoa, đạo Phật ngoại lai có thêm một bước phát triển mới. Người ta nói
rằng nhờ học theo lối kể chuỵện trong kinh Phật mà nghệ thuật tự sự nẩy nở dẫn
đến sự ra đời của các tiểu thuyết lớn. Từ đời Đường những điệu múa có nguồn gốc
Trung Á,... đã xâm nhập vào tận cung đình.
Nhật Bản cũng coi việc tiếp thu nước ngoài như một cái nguồn lớn làm nên sức
sống của văn hoá mình. Riêng về sách thôi, Nhật Bản thiết lập một mối giao lưu
thường xuyên với Trung Quốc. Một con đường sách trên mặt biển đã hình thành,
được coi là tương đương với con đường tơ lụa nổi tiếng. 50-60% sách in ở Trung
Quốc có bản lưu ở Nhật Bản.
Còn Việt Nam mình thì sao? Trong các cuốn lịch sử văn hoá Việt Nam, phần viết
về sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài thường rất đơn sơ, nhiều ngành nghề nhiều bộ
môn nghệ thuật rõ ràng học từ bên ngoài, nhưng lờ đi, coi là ta nghĩ ra. Chỉ
một vài việc buộc phải ghi nhận nhưng chỉ nói qua loa và lúc nào cũng không
quên nói thêm là chúng ta tiếp thu có sáng tạo.
Trong thực tế sự học hỏi diễn ra khá “tế nhị”. Từ xưa ta đã học của Trung
Hoa rất nhiều, nhưng chỉ học lỏm, bắt chước mà không nghiêm túc tuân theo
bài bản, ăn bớt bài gốc của người ta rất nhiều. Đến thời tiếp xúc với văn hoá
Tây phương, lúc đầu từ chối, sau buộc phải tiếp nhận thì bên cạnh phần tiếp thụ
sáng tạo cũng nhiều phần chỉ qua loa láng tráng, mà tình trạng học đòi những
cái lặt vặt lại diễn ra dài dài.
Quan sát bề ngoài, người Việt Nam hôm nay thích nghi nhanh, học nhanh. Nhìn
quần áo, đầu tóc, cách nghe nhạc cách chơi xe của người Việt, nhiều người nước
ngoài phải kêu lên: sao mà Tây thế! Thế nhưng đó lại là cái học, cái thích nghi
hời hợt, dễ dãi chứ không phải tiếp nhận ở bề sâu văn hóa. Thành ra nhiều khi
chỉ hớt váng, hớt lấy cái phần hời hợt của người và hệ quả tất yếu là những rác
rưởi của thế giới đã vào quá dễ dàng, cả rác công nghiệp và rác văn hoá.
Những khó khăn trong việc làm ăn quan hệ với nước ngoài bắt nguồn từ chính
chúng ta. Hay dở tốt xấu cái cần cho mình cái phải xa lánh... không có sự phân
biệt. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình là một thành
phần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật của thế giới. Cho
đến tương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung nổi.
Tìm cho mình những động lực lớn
Theo cách trình bày của ông thì có vẻ như trong khi phát triển đang là
chuyện sống còn thì những điều kiện - hay là những điểm tựa - từ văn hóa
và truyền thống dân tộc lại có phần không đầy đủ. Vậy thời gian tới, chúng ta
phải làm gì?
Cũng đã nhiều lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi như thế, và đến nay vẫn chưa tìm
được câu trả lời thích đáng. Chính bởi còn thắc mắc, nên tôi - trong lúc tự xác
định là phải nghiên cứu tiếp - mạnh dạn cứ “xới” vấn đề lên như trên. Biết đâu
khi phản bác tôi, các đồng nghiệp lại tìm ra được những câu trả lời đúng. Khi
đó tôi sẽ tâm phục khẩu phục!
Nếu được nêu lên một đề nghị tổng quát cuối cùng, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một
điều là xã hội cần có sự khai phá thay đổi trong tư duy. Thích nghi bị động chỉ
đủ để tồn tại, thay đổi một cách chủ động mới có thể phát triển.
Trước tiên cần đầu tư nhiều hơn vào khâu tự nhận thức. Ông Nguyễn Đình Lương
nói thẳng là nhiều khi ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu luật chơi thế
giới. Ông Lê Đăng Doanh bảo so với thế giới chúng ta không chỉ lạc hậu là còn
lạc lõng và cái sau là đáng sợ hơn cái trước. Những gợi ý loại đó đáng để chúng
ta cùng suy nghĩ.
Điều may mắn là chúng ta đang sống trong một thế giới thức tỉnh; bộ mặt của thế
giới bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết, kể cả sự bất lực của nhân loại trước nhiều
vấn đề. Ngay những thất bại của các cộng đồng dân tộc khác cũng đáng được
nghiên cứu để nhờ thế mà ta tránh được những hy sinh vô ích.
Sức ép của thời đại đến với mỗi dân tộc đều đang rất lớn. Nếu biết chủ động, đó
lại là động lực thúc Việt Nam mau chóng mạnh hơn, lớn lên nhanh hơn.
—dưới dạng trả lời phỏng vấn nhà báo Phương Loan (VNN) – đã in trên doanhnhan.vneconomy.vn ngày 29-1-2009,
sau đó đã được một số mạng khác đưa lại.
Đọc lại những suy nghĩ của mình từ năm năm trước, giờ đây, người viết muốn sửa
chữa và bổ sung khá nhiều. Nhưng một phần sự sửa chữa và nối dài này đã được thực hiện trong một số bài viết khác. Ngoài ra, có một số ý tưởng cần được làm thành chuyên đề riêng chứ không thể chỉ viết thêm
vài dòng đặt ở cuối bài như các lần
trước. Theo nghĩa ấy, việc in lại Nâng
trình độ sống … hôm nay chính là để mở đường cho một số bài viết mới mà tôi
đang chuẩn bị. Chùm bài sắp tới sẽ tập trung quanh chủ đề Chính nền văn hóa vốn có đã khiến chúng ta khó phát triển .
Trong sự thích nghi có sự buông trôi bất lực
Quan sát người Việt và dân tộc Việt Nam trong cuộc sống hội nhập hôm nay,
với tư cách một người dành nhiều thời gian nghiên cứu về Việt Nam và đặc tính dân tộc
Việt, ông có ấn tượng, suy nghĩ gì?
Nhìn lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đã trải
qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co, hỗn loạn,
nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo để chuyển sang
giai đoạn mới.
Đã đến lúc chúng ta có thể tổng kết, đánh giá cả một chu kì phát triển. Một
hướng suy nghĩ là nhìn những thành công hay vấp váp về kinh tế xã hội dưới góc
độ văn hóa, bởi con người kinh tế chẳng qua cũng chỉ là một khía cạnh của con
người Việt Nam.
Từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ chỗ tách ra để làm công việc riêng của
dân tộc đến chỗ quay trở về hội nhập với thế giới, cái quá trình ấy là cả một
khúc quanh đột ngột. Tôi ngờ rằng nhiều người lớn tuổi đã sống hết lòng với đời
sống hẳn cũng chung tâm lý như tôi, đêm nằm ngẫm nghĩ thấy thương cho chính
mình và những người thân quen xung quanh, rộng ra là thương cho cả dân tộc.
Chiến tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, ta lại
lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái không người
dạy dỗ, cũng hư hỏng đi.
Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xói mòn mà không khỏi
xót xa.
Người Việt xưa tới giờ khổ quá, đến khi ra với thế giới thì mắt như bị chói,
cái gì cũng thèm thuồng. Hết gồng mình lên chiến đấu nay lại gồng mình lên để
hưởng thụ. Cha mẹ cứ cái gì ngon nhất, đẹp nhất là lo dành cho con. Trong gia
đình, ta cúi mặt xuống chiều chuộng nhau mà không dám đặt ra yêu cầu cao với
nhau.
Theo tôi, căn nguyên của cái cách ứng xử này là cảm giác tự ti, nhìn thấy cái
sung sướng vừa đến với mình nó mong manh quá, còn thế giới vẫn xa lạ quá. Che
mắt mình lại, không muốn lộ ra ở mình cái phần bất lực, bởi tận thâm tâm, tin
rằng không bao giờ đạt được cái phần nhân loại hôm nay đã tới.
Nghịch lý là ở chỗ do mang tâm thức tự ti đó, khi quay lại nhìn bản thân, ở
nhiều người - không ai bảo ai - sinh ra tâm lý tự huyễn hoặc. Rằng so ra ta
cũng ghê gớm lắm; rằng không có cái phần hơn hẳn thiên hạ nhưng mình lại có cái
khác: di sản thế giới (thực chất phần nhiều là di sản thiên nhiên, đâu phải là
văn hóa), văn hóa ẩm thực...
Bình tĩnh lại để nghĩ sẽ thấy cái để Việt Nam khoe ra với thiên hạ thường chỉ
là phần trời cho mà không phải phần con người làm ra, chỉ là những gì bản năng
mà không phải là phần của trí tuệ: ta không có cuốn sách, bức họa nào ở tầm thế
giới. Trong âm nhạc, phần khó nhất của nó là hòa âm thì nhạc Việt Nam lại kém,
lấy đâu ra tác phẩm lớn.
Cái rõ nhất và duy nhất chúng ta có thể khoe với thế giới chính là sự thích
nghi, thích nghi nên thế nào cũng tồn tại. Tôi nhớ trong Anh em Karamazov, Dostoievski có một câu khái quát: "Tồn tại
trong bất cứ điều kiện nào là truyền thống của dòng họ Karamazov nhà ta".
Người Việt Nam cũng thế. Khó khăn đấy, nhưng chúng ta vẫn tồn tại - ta tự nhủ.
Có điều hôm qua trong chiến tranh nghĩ thế là cần thiết, nhưng hôm nay không đủ
nữa. Đã đến lúc đặt vấn đề là tồn tại sẽ như thế nào, thế nhỡ sự thích nghi làm
cho chúng ta mòn mỏi, kém cỏi, tầm thường và hư hỏng đi thì sao?
Làm kinh tế bằng tư duy chiến tranh
Ông vừa hơn một lần nói tới chiến tranh. Phải ông cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân gần dẫn tới những khó khăn kinh tế hiện nay? Nhưng ba
chục năm là thời gian quá dài, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Liệu ta có nên
cường điệu vai trò của nó?
Không, chả có gì là cường điệu cả. Ta đã ra khỏi cuộc chiến, nhưng lòng ta,
cách sống, cách nghĩ của ta chưa ra khỏi.
Chiến tranh cho phép người ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo hiệu
quả, còn cái giá của nó thì không cần biết. Trong chiến tranh, nhất là chiến
tranh ở Việt Nam, cứ chờ có những điều kiện cần và đủ thì không ai dám làm gì.
Phải liều. Phải duy ý chí. Cách làm đó nay vẫn được ta áp dụng.
Nói tóm lại, nếu trong chiến tranh ta phá với bất cứ giá nào thì nay ta xây với
bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tin đại loại cây cầu này sang năm
phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi, hoặc xây nhà máy ào ào mà
chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Thì đó là kiểu tư duy chiến
tranh chứ còn gì nữa?!
Bản thân chiến tranh Việt Nam lạ, không giống cuộc chiến nơi khác. Việt Nam
thắng được trong chiến tranh là nhờ chơi theo luật Việt Nam, tuy nhiên, trong
làm kinh tế, thì phải chơi theo luật chung của thế giới.
Những suy nghĩ về chiến tranh còn thường xuyên đến với tôi, mỗi khi nghĩ tới
quốc nạn tham nhũng. Đọc cuốn Bước thịnh
suy của các triều đại phong kiến Trung
Quốc của Cát Kiếm Hùng (nhà sử học Đài Loan), biết rằng trong lịch sử nước
này, tham nhũng ghê nhất là triều đại nhà Nguyên, một chính quyền quân sự.
Nữa là ở ta lại phổ biến hiện tượng coi ai giỏi chiến đấu thì cũng biết làm
kinh tế, nới lỏng luật pháp, dễ dãi với người có công và tuỳ tiện lấy quyền lợi
kinh tế trả ơn cho người góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh... tham
nhũng là tránh sao nổi.
Tâm lý tiểu nông tư duy tiểu nông
Ngoài nguyên nhân chiến tranh, để cắt nghĩa tình hình hiện thời, theo ông đâu
là những nguyên nhân lịch sử văn hoá sâu xa hơn?
Trước khi Pháp sang, "cả nước sống leo lắt trong một tình trạng thôn
dã" - tôi đọc được câu này trong một cuốn sách mới dịch in gần đây, cuốn
"Người Pháp và người An Nam bạn hay thù?" của Philippe Devillers.
Tôi chia sẻ với cách nhìn của nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại
Việt - Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, rằng tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn sâu trong cách
đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư duy tiểu nông.
Tôi trộm nghĩ, ở ta, một khi nếp sống làng xã còn ngự trị, không có triết học
ghê gớm cao xa gì tồn tại nổi, chỉ tư tưởng tiểu nông chi phối tất cả.
Nhìn sang nước Trung Quốc, nông thôn ở họ cũng nặng nề, sao họ vẫn phát triển
tốt?
Vì tư tưởng nông dân ở đó tuy mạnh (bắt nguồn từ tầm vóc một nông thôn bao la),
nhưng vẫn không phải là tư tưởng chủ đạo. Xưa đã vậy mà nay càng vậy. Người ta
bảo rằng trọng nông ức thương là nguyên tắc chi phối chính sách những nước theo
đạo Khổng. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Từ thời Tần Hán đô thị Trung Quốc
đã phát triển, từ Đường Tống trở đi thì đã có vai trò của một cơ chế năng động
kéo cả xã hội tiến theo.
Đô thị phát triển nghĩa là quốc gia trở thành một đơn vị có sức kết dính mạnh
mẽ. Việc kinh doanh của thương nhân ở đây được sự hỗ trợ của trí tuệ, giới nhà
nho cũng tham gia nghề buôn, làm cho nghề này đạt tới quy mô quốc gia và xuyên
quốc gia.
Nhìn chung trong thương trường, tư duy con người trở nên thông thoáng hơn, năng
động hơn. Giở các cuốn lịch sử tư tưởng ở Trung Quốc bao giờ tôi cũng thấy
người ta nói tới phần tư tưởng kinh tế. Thời nào, bộ phận này trong tư tưởng xã
hội Trung Hoa cũng có tiến triển.
Trong khi ấy, nhìn lại mình thì ngược lại. Quen sống tự nhiên ở làng quê, ta
không dám tổ chức lại cuộc sống qua các đô thị. Ta làm gì cũng chỉ theo bản
năng, sự tham gia của lý trí chỉ dừng lại ở mức tối thiểu.
Là một nước nông nghiệp nhưng cho tới lúc này, Việt Nam hầu như không có sách
nào tổng kết kinh nghiệm trồng lúa, còn nói chi tới các nghề khác.
Nghề buôn thì lại càng bị coi thường khinh rẻ. Mọi người cho đó là nghề lừa lọc
và thường bảo nhau: "Thật thà như thể lái trâu". Bản thân người làm
nghề buôn cũng làm ăn trong thế quẩn quanh lặt vặt, sản xuất càng lụn bại thì
họ càng có cơ hội để bắt chẹt người có nhu cầu.
Ông cho rằng năng lực sản xuất và kinh doanh lại là chỉ số chủ yếu đánh giá sự
phát triển xã hội?
Xét về mặt tư duy, sản xuất và kinh doanh được là nhờ người ta có một quan niệm
rộng rãi về thế giới. Người ta theo đuổi sự hoàn hảo. Người ta làm gì cũng
chuyên nghiệp.
Cũng là cái diều làm để chơi, nhưng diều các nước nhiều kiểu dáng kỳ lạ, còn
diều Việt Nam chỉ là mảnh giấy bồi phất vào mấy cái nan tre. Thế nên không
trách được khi người ta bảo hàng hoá Việt Nam vừa nghèo nàn đơn điệu về mẫu mã,
vừa kém về phẩm chất.
Về tác động xã hội, bản thân truyền thống kinh doanh yếu kém là dấu hiệu của
một xã hội chưa trưởng thành. Xã hội phát triển tự nó sẽ đặt ra các nhu cầu
mới, trong khi với Việt Nam hình như chỉ cần tàm tạm là được, cải tiến mà làm
gì. Khi không có quá nhiều những nhu cầu phải thỏa mãn thì sự phát minh, sáng
chế cũng như đổi mới việc phân công lao động lại trở thành xa xỉ.
Tóm lại ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại.
E sợ khi bước ra với thế giới
Những hạn chế trong việc làm ăn này đã tiếp tục chi phối chúng ta trong việc
làm ăn buôn bán với thế giới?
Rải rác tôi đã thấy người ta nêu ra đủ thói xấu của ta sau khi gia nhập WTO: e
ngại, chỉ muốn đánh quả, lanh chanh kiếm chác mà lại dại dột ngớ ngẩn dễ bị
lừa, đau chết điếng đi mà không cách gì thoát nổi...
Tôi muốn mở rộng thêm mà nói rằng đây là cả một "truyền thống" của
Việt Nam, thứ quán tính nó ràng buộc chúng ta từ nhiều đời.
Đọc lịch sử sẽ thấy nền ngoại thương của Việt Nam bây giờ không khác các thế kỷ
17-18 là bao. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh nói
chung cấm cửa lái buôn ngoại quốc, sợ họ vào gây náo loạn nhân tâm. Nhưng ngồi
nghĩ, lại tiếc, nên chính sách cứ khi thò khi thụt, dùng dằng, dang dở, nay thế
này mai thế khác. Mà chính sách càng tuỳ tiện đỏng đảnh, quan lại càng dễ đi
đêm để hưởng lợi.
Còn ở Đàng Trong, tiếng rằng mở cửa - và đây là một bước tiến đáng kể so với
Đàng ngoài - nhưng toàn là người ta đến bán hàng cho mình và mang hàng của mình
đi, chứ dân ta có lái buôn chủ động vươn ra với họ đâu!
Đến người phiên dịch dắt mối trong các vụ làm ăn này cũng thường là người Tàu,
ta không có nhân viên của mình. Quan chức quản ngoại thương chủ yếu chỉ lo thu
thuế, khi kiểm tra thương thuyền nước ngoài, thường lợi dụng chức vụ để xin xỏ
kiếm chác cho mình, bao che cho thương nhân nước ngoài. Được lợi chút đỉnh, họ
sẵn sàng bán rẻ cả quyền lợi của quốc gia.
Từ góc độ văn hoá ông cắt nghĩa hiện tượng này như thế nào?
Với quá trình lịch sử liên miên bị đe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen nghĩ
rằng những tai vạ của mình là do nước ngoài mang tới. Trong mắt ta, họ thường
là là kẻ thù nhiều hơn là đối tác cùng tồn tại. Nên ta nhìn họ với nhiều e ngại
và tự dặn nhau càng ít tiếp xúc với người ngoài càng ít càng tốt.
Ta quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Trong tiếp
xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói quen và kinh
nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn.
Cho đến thời gian thế hệ chúng tôi lớn lên, tâm lý này vẫn chi phối mạnh mẽ. Thôi con đừng khóc chi con/ Sống nhờ đất
khách, thác chôn quê người. Đây là một câu tôi nghe thuộc lòng từ nhỏ, mới đầu tưởng là
ca dao, sau mới biết là trong Truyện Kiều.
Lớn lên đọc sách, càng thấy cái tâm lý ăn quẩn vườn nhà đã ngấm vào tâm thức
của dân mình. Người dân đồng bằng Bắc Bộ xưa thường chỉ biết đến phạm vi 20 km
quanh vùng họ ở. Luôn luôn tâm niệm "ta về ta tắm ao ta", vừa ra khỏi
làng đã nước mắt ngắn nước mắt dài sùi sụt. Ngần ngại, sợ hãi...
Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để
ra với thế giới và hiểu thế giới.
Đợt hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộc phải bung ra, mở cửa, chứ thật ra
chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen, vừa không chuẩn bị thích đáng,
cuối cùng ta "nhảy đại" cho xong. Chính cái đó sinh ra nhiều tệ nạn:
tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, "lừa", lách luật...
Nhìn ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế giới
trong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn. Đại khái thấy
ai làm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã muộn. Định bán hàng
cho người ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý dân tộc cách sống của người
ta, cái gu của người ta thì bán sao được?
Một xã hội chưa trưởng thành
Ông chỉ mới giải thích những yếu kém về văn hoá liên quan đến mối quan
hệ làm ăn với nước ngoài. Nhưng một nền kinh tế không phải chỉ có chuyện đối
ngoại. Thế còn những khó khăn của kinh tế trong nước thì sao? Đâu là những
nguyên nhân về mặt văn hoá - xã hội?
Có thể hình dung xã hội Việt Nam trong quá khứ là đoàn quân tổ chức với nhiệt
tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn.
Một xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên, vừa
khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với tư duy hái
lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức sản xuất tạo ra của
cải. Một ví dụ, so với đất đai, Việt Nam có tỉ lệ bờ biển khá dài. Nhưng người
Việt gần như không biết khai thác biển, khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ.
Các nhà văn đồng nghiệp của tôi thường chỉ hay nói ở Việt Nam cá nhân chưa phát
triển. Nhưng nên nhớ là cả xã hội Việt Nam thời trung đại cũng ở vào một tình
trạng như vậy. Cách quản lý xã hội từ xưa vẫn rất đơn sơ: thu thuế trên đầu
người chứ không phải thu thuế sản xuất và kinh doanh.
Trong một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại (in trong kỷ yếu hội
thảo Quản lý và phát triển Thăng Long Hà
Nội tháng 3/2008), tôi thấy người ta lưu ý là trong số các văn bản
đưa ra, pháp lệnh về an ninh chiếm tới 65,56%, trong khi chỉ 16,42% văn bản ban
hành là có liên quan tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liên quan tới quản lý
văn hoá xã hội. Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn của chính quyền hầu
như không có.
Một xã hội phát triển là một xã hội có sự phân tầng cao và kết cấu phức tạp mà
hợp lý. Xã hội Việt Nam chỉ đang trên đường đạt tới trình độ đó.
Nói một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn là một cánh rừng nguyên sinh thì
Việt Nam có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Về mặt cá nhân con người chúng
ta còn nặng về bản năng và tự phát - người Pháp nói đó là dạng "tư duy
tiền Descartes" - trước sự duy lí. (Song đến nay cái kiểu tư duy ít lí trí
này vẫn được bênh che và tự hào, thế mới đáng sợ!)
Người ta có câu: một người Việt Nam không thua kém một người Nhật Bản nhưng
ba người Việt Nam thì chắc chắn thua ba người Nhật Bản. Tính hợp tác, cộng đồng
của người Việt hình như là trở ngại. Trong khi đó, nhiều người lí giải trong
chiến tranh Việt Nam chiến thắng chính là tính cộng đồng và sự đoàn kết. Liệu
hai góc nhìn này có quá trái ngược và phủ định lẫn nhau. Điều gì trong chiến
tranh đã gắn kết người Việt Nam với nhau và trong thời nay, cần phải xem xét
lại yếu tố cố kết như thế nào?
Tôi e bản thân câu "một người Việt không thua kém một người Nhật"
cũng là một nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một
cảm tưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy.
Còn cái chuyện ba người Việt so với ba người Nhật thì liên quan tới cấu
trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảo xã hội ta còn ở tình trạng của
những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước có tới vài chục cảng nước sâu mà
không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Thế nên các đô thị hiện nay không thiếu những
căn nhà đẹp nhưng không có được những khu nhà đẹp. Nói cách khác, chất kết dính
của xã hội Việt kém - kết dính theo nghĩa nội tại, cấu trúc, chứ
không phải đặt cạnh nhau mà buộc phải sống với nhau.
Ra ngoài hớt phần váng
Chúng ta cũng đã và đang mở cửa và ra với thế giới. Những nhân tố mới sẽ vào,
kích thích sự thay đổi, sáng tạo bên trong Việt Nam?
Trong trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cú
hích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường tác động
ngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón nhận. Nghèo là như
vậy, kém phát triển, thiếu kinh nghiệm như vậy, nhưng Việt Nam lại không biết
học hỏi để chủ động phát triển.
Ông có quá lời? Bản thân người Việt Nam vẫn thường tự hào rằng chúng ta là dân
tộc thông minh, cần cù, sáng tạo và ham học hỏi?
Giao lưu văn hoá là xu thế chung của thế giới. Một nền văn hoá lớn như văn hoá
Trung Hoa luôn luôn tự hào là có thái độ chủ động tiếp xúc với bên ngoài, lấy
văn hoá ngoại lai làm giàu cho văn hoá mình, và rất nghiêm túc trong học hỏi.
Từ đời Đường đạo Phật của Ấn Độ đã được tiếp thu trên quy mô lớn. Triều đình cử
hẳn Đường Tam Tạng qua Ấn Độ lấy kinh và về cho dịch thật kỹ càng thật đầy đủ.
Đến Trung Hoa, đạo Phật ngoại lai có thêm một bước phát triển mới. Người ta nói
rằng nhờ học theo lối kể chuỵện trong kinh Phật mà nghệ thuật tự sự nẩy nở dẫn
đến sự ra đời của các tiểu thuyết lớn. Từ đời Đường những điệu múa có nguồn gốc
Trung Á,... đã xâm nhập vào tận cung đình.
Nhật Bản cũng coi việc tiếp thu nước ngoài như một cái nguồn lớn làm nên sức
sống của văn hoá mình. Riêng về sách thôi, Nhật Bản thiết lập một mối giao lưu
thường xuyên với Trung Quốc. Một con đường sách trên mặt biển đã hình thành,
được coi là tương đương với con đường tơ lụa nổi tiếng. 50-60% sách in ở Trung
Quốc có bản lưu ở Nhật Bản.
Còn Việt Nam mình thì sao? Trong các cuốn lịch sử văn hoá Việt Nam, phần viết
về sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài thường rất đơn sơ, nhiều ngành nghề nhiều bộ
môn nghệ thuật rõ ràng học từ bên ngoài, nhưng lờ đi, coi là ta nghĩ ra. Chỉ
một vài việc buộc phải ghi nhận nhưng chỉ nói qua loa và lúc nào cũng không
quên nói thêm là chúng ta tiếp thu có sáng tạo.
Trong thực tế sự học hỏi diễn ra khá “tế nhị”. Từ xưa ta đã học của Trung
Hoa rất nhiều, nhưng chỉ học lỏm, bắt chước mà không nghiêm túc tuân theo
bài bản, ăn bớt bài gốc của người ta rất nhiều. Đến thời tiếp xúc với văn hoá
Tây phương, lúc đầu từ chối, sau buộc phải tiếp nhận thì bên cạnh phần tiếp thụ
sáng tạo cũng nhiều phần chỉ qua loa láng tráng, mà tình trạng học đòi những
cái lặt vặt lại diễn ra dài dài.
Quan sát bề ngoài, người Việt Nam hôm nay thích nghi nhanh, học nhanh. Nhìn
quần áo, đầu tóc, cách nghe nhạc cách chơi xe của người Việt, nhiều người nước
ngoài phải kêu lên: sao mà Tây thế! Thế nhưng đó lại là cái học, cái thích nghi
hời hợt, dễ dãi chứ không phải tiếp nhận ở bề sâu văn hóa. Thành ra nhiều khi
chỉ hớt váng, hớt lấy cái phần hời hợt của người và hệ quả tất yếu là những rác
rưởi của thế giới đã vào quá dễ dàng, cả rác công nghiệp và rác văn hoá.
Những khó khăn trong việc làm ăn quan hệ với nước ngoài bắt nguồn từ chính
chúng ta. Hay dở tốt xấu cái cần cho mình cái phải xa lánh... không có sự phân
biệt. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình là một thành
phần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật của thế giới. Cho
đến tương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung nổi.
Tìm cho mình những động lực lớn
Theo cách trình bày của ông thì có vẻ như trong khi phát triển đang là
chuyện sống còn thì những điều kiện - hay là những điểm tựa - từ văn hóa
và truyền thống dân tộc lại có phần không đầy đủ. Vậy thời gian tới, chúng ta
phải làm gì?
Cũng đã nhiều lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi như thế, và đến nay vẫn chưa tìm
được câu trả lời thích đáng. Chính bởi còn thắc mắc, nên tôi - trong lúc tự xác
định là phải nghiên cứu tiếp - mạnh dạn cứ “xới” vấn đề lên như trên. Biết đâu
khi phản bác tôi, các đồng nghiệp lại tìm ra được những câu trả lời đúng. Khi
đó tôi sẽ tâm phục khẩu phục!
Nếu được nêu lên một đề nghị tổng quát cuối cùng, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một
điều là xã hội cần có sự khai phá thay đổi trong tư duy. Thích nghi bị động chỉ
đủ để tồn tại, thay đổi một cách chủ động mới có thể phát triển.
Trước tiên cần đầu tư nhiều hơn vào khâu tự nhận thức. Ông Nguyễn Đình Lương
nói thẳng là nhiều khi ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu luật chơi thế
giới. Ông Lê Đăng Doanh bảo so với thế giới chúng ta không chỉ lạc hậu là còn
lạc lõng và cái sau là đáng sợ hơn cái trước. Những gợi ý loại đó đáng để chúng
ta cùng suy nghĩ.
Điều may mắn là chúng ta đang sống trong một thế giới thức tỉnh; bộ mặt của thế
giới bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết, kể cả sự bất lực của nhân loại trước nhiều
vấn đề. Ngay những thất bại của các cộng đồng dân tộc khác cũng đáng được
nghiên cứu để nhờ thế mà ta tránh được những hy sinh vô ích.
Sức ép của thời đại đến với mỗi dân tộc đều đang rất lớn. Nếu biết chủ động, đó
lại là động lực thúc Việt Nam mau chóng mạnh hơn, lớn lên nhanh hơn.
Published on March 04, 2014 17:56
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
