Vương Trí Nhàn's Blog, page 2

September 13, 2025

Cách chơi hoa kiểng , hôm qua và hôm nay - Trích từ bài của nhà văn Nguyễn Hoàng Văn -


      Nguồn: https://baotiengdan.com/2025/08/27/hoa-kieng-va-van-nuoc/

"Hoa kiểng và vận nước" của Nguyễn Hoàng Văn, là một bài viết dài có nhiều ý tưởng sâu sắc .Trong phạm vi của một blog cá nhân, chúng tôi xin phép lược bỏ nhiều đoạn và có đăt thêm các đầu đề nhỏ; rất mong tác giả thông cảm 

 --

XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG  

Tôi không nói đến cơn sốt “lan đột biến” như một thủ đoạn thương mại từng gây ồn ào một dạo, cũng không nhắc đến bonsai như một thú tiêu khiển tao nhã vẫn đang phổ biến đó đây [1]. 

Nếu bonsai có thể giúp con người tập trung trong tĩnh lặng và sự ngưng đọng của thời gian để hòa hợp với một thiên nhiên cô đọng nhằm giảm nhẹ những áp lực trần thế cho một đời sống thăng bằng và lành mạnh thì đại bonsai, thú tiêu khiển của những phú hào thời nay trong danh xưng “cây thế”, thực sự khác [2].


 KHI SẢN PHẨM TỰ NHIÊN BỊ PHÁ HỎNG

Cái trò chơi tốn kém và nặng nề cơ giới này, qua quan niệm lấy sự phì đại làm đẹp, đã lệch lạc hóa mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. 

Sản phẩm tự nhiên của đất trời, trong kích thước thật giữa đất trời, lại bị tách khỏi đất trời. 

Dưới  những cái chậu khổng lồ như cái nhà giam mà trên thì, bất cứ lúc nào, cũng có thể lơ lửng cỗ máy chém để cưỡng ép cây không được tự nhiên là cây, mà phải là những linh vật trong những khuôn sáo nào đó, cho những thông điệp cầu cạnh hay ước muốn nào đó, rất huyền nhiệm nhưng cũng rất thực dụng, phước thọ hay tài lộc v.v… 

Bị buộc phải là lân, long, hổ, phụng … trong những “thế” này hay “thế” kia thì chúng, dẫu cầu kỳ đến mấy về kỹ thuật, cũng hoàn toàn ngây ngô về mặt thẩm mỹ.

 Xem ra, trò linh vật hóa thiên nhiên này là một hình thức đồng bóng hóa thiên nhiên và, hệ quả, những thủ phạm cũng lâm vào tình trạng vong thân như những kẻ mê sảng, lên đồng, có thể vứt ra đến mấy chục gia tài đối với người bình thường, cả chục hay hàng trăm tỷ đồng, thậm chí đến 20 triệu Mỹ kim. 

Một cội cây thôi đã bằng mấy trường tiểu học và, cộng thêm hai nữa, là ngang ngửa với một bệnh viện [3]. 

Giữa cái thời thiếu thốn trầm trọng trường học và bệnh viện thì lệch lạc trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên này còn hàm ý một sự lệch lạc và mong manh của cấu trúc xã hội.

 -

Vì quá yêu thiên nhiên nên họ mới chấp nhận tốn kém như thế hay chăng? 

Nếu bảo đó là tình yêu thì, bất quá, cũng chỉ là thứ tình yêu mà những tên thực dân dành cho thuộc địa mà mình đã gắn bó đến già đời. 

Thú tiêu khiển nặng tính thực dân với đất trời này, phải chăng, là một biến thái của giới giàu xổi hãnh tiến trong giai đoạn phát triển hoang dã mang tên “chủ nghĩa tư bản thân hữu”?


 SỰ HÃNH TIẾN TRONG LỊCH SỬ

Thời nào cũng có bọn hãnh tiến của thời đó cùng những mối quan hệ “thân hữu” liên quan và, theo Phạm Đình Hổ (1768-1839), trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Chuyện cũ trong Phủ Chúa Trịnh”, đó đã từng là mốt dưới thời Trịnh Sâm, giai đoạn cuối của thời Lê Trung Hưng, thời rệu rã của nền quân chủ:

 “Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung bên Tây hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên…

 

Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyến bày vẽ ra hình núi non bộ trông giống như bến bể đầu non.

 

Mỗi đêm khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ”.

 

Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính tới lấy phăng đi rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì lớn quá, thậm chí phá nhà hủy tường để đem ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập núi non bộ hoặc phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường cũng trồng hai cây lựu trăng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy”.

 -

Tưởng tượng một “cây đa to, cành lá rườm rà”, rễ dài đến mấy chục thước mộc mà, để di chuyển, phải điều động cả một “cơ binh” – tức 200 binh lính, cỡ nửa tiểu đoàn – với hiệu lệnh từ tiếng phèng la, như một thứ quân nhạc [4]. 

Bề trên là vậy thì bề dưới, đám phú hào với những “hòn đá hoặc cây cối lớn quá” mà, để mang đi, phải “phá nhà hủy tường”:  

Bọn này, như thế, có khác gì những phú hào thời nay với những “cây thế” nặng đến 50 tấn? [5]

Lược bỏ một đoạn


NHỮNG CÁCH XỬ LÝ KHÁC

Trịnh Sâm, do đó, rất khác với Lê Thái Tổ, vị vua mà tháng 3 năm 1429, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ra lệnh quân binh và “phủ đệ của công hầu trăm quan” đã được chia đất phải “trồng cây, trồng hoa và các loại rau đậu”, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu. 

Lê Thái Tổ đã từng nhịn đói “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần” để mưu đồ việc lớn nên rất là thực tế. Một nền kinh tế bị đình trệ sau 10 năm khói lửa thì cần đến rau đậu như một thứ thực phẩm ngắn ngày. Và một Thăng Long điêu tàn sau 10 năm bị ngoại xâm tàn phá phải tươi lên với hoa để lòng người theo đó mà thắm lên, với một triều đại mới, cho một việc lớn mới.

 -

Nếu lệnh trồng hoa của Lê Thái Tổ mang tinh thần thực dụng thì lạc thú điền viên của Nguyễn Trãi, kể từ khi lùi về ẩn dật tại Côn Sơn khoảng 9 năm sau đó, lại biểu lộ một phong vị nghệ thuật.

 Qua những bài thơ để lại, chúng ta dễ dàng nhận ra điều này qua những cảnh sắc mang tính tượng trưng, sơn thủy hay lâm tuyền, rồi mai, cúc, trúc, đào, mai, sen v.v… 

 Trong phong vị nghệ thuật đó của Nguyễn Trãi, chúng ta còn nhận ra nỗ lực nhân cách hóa thiên nhiên qua phẩm cách của từng loại cây, từ tùng không rụng lá trong tiết lạnh đến trúc “tiết trực tâm hư”, rồi cúc “ẩn dật” và sen thanh cao như người quân tử “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” v.v…

...

Lược bỏ một đoạn


 -NGUYÊN TẮC CHƠI HOA , THEO PHẠM ĐÌNH HỔ

Trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Hoa thảo" Phạm Đình Hổ viết :

 “Ta xét ra những cách chơi cỏ, cây, hoa, đá từ đời nhà Hán đã có, đến các đời sau, mỗi ngày mỗi đổi cách chơi cho mới lạ thêm…. đến nay vẫn còn truyền miệng ở dân gian. 

Thế mới biết người xưa cũng thường cho tinh thần đi chơi ngoài cảnh vật, trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân, vậy nên mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác hoài bão cao cả, mở vườn trồng cây, chồng đá làm núi, khiến cho cái vẻ đẹp của cỏ cây, cái thế hùng vĩ của núi non trình bày ra trước sân, trước cửa sổ đó mà thôi, chứ có phải hết sức mà chăm chút cảnh vật đâu. 

Về sau này, thế thái đã suy, nhân tâm lại bạc, cái cây thẳng đem uốn cho cong đi, hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra, bàn tay nhân tạo càng khéo thì cái thú thiên nhiên lại càng kém!

 -

Ta chỉ quái lạ cho người đời bây giờ, chơi hoa, chơi đá, mà chỉ lấy cái ý kiến riêng, muốn làm khéo hơn người trước mà lại thành ra vụng, uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất, biết bao nhiêu cách không thể nói hết được. 

Ôi! Nếu trời sinh ra cây ra đá mà làm hệt như hình cầm thú thì tạo vật cũng đến phải hết nghề, còn có gì mà đáng thưởng ngoạn nữa! 

Phỏng như để những hình long, hổ ngoằn ngoèo, sư, lân hống hách và những hình xà thần, ngưu quỷ đầy cả nhà thì trông thấy, ai chẳng bịt mắt lắc đầu mà chạy. 

Thế nhưng người đời lại lấy cách chơi ấy làm cao, ta thực không hiểu ra làm sao cả”.

ĐOẠN KẾT

Viết về thời của mình mà Phạm Đình Hổ, cơ hồ, như là viết cho hai thế kỷ sau, thời của chúng ta. 

Cũng là mối quan hệ lệch lạc giữa con người với thiên nhiên. 

Cũng là “cái cây thẳng đem uốn cho cong đi hay “hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra”. 

Cũng là “uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất” khiến “tạo vật cũng đến phải hết nghề”.

 

...

Lịch sử, thường được hiểu như là những nỗ lực tái tạo quá khứ. 

Và lịch sử, trong cách nhìn của sử gia Edward Hallett Carr, là sự tương tác và đối thoại bất tận giữa hiện tại với quá khứ [9]. 

Nhưng bây giờ, qua những điều như thế, quá khứ đang tái hiện trong hiện tại và quá khứ đang tương tác hay đàm thoại với hiện tại, hoàn toàn một chiều.

 Lược bỏ một đoạn


Chú thích:

 

1. Theo những người thuộc giới kinh doanh tại VN thì đầu tiên “lan đột biến” với giá cao ngất là một chiêu thức rửa tiền, sau đó là sự bịp bợm của đám tinh ranh muốn khai thác lòng tham của giới trung gian, giống như cơn sốt “chim cút” mà giới Hoa kiều tại Chợ Lớn thổi bùng vào thập niên 1970 tại miền Nam.

 

2. Theo một phóng sự truyền hình tôi đã xem từ lâu trên đài SBS của Úc về những người sống thọ thì, ngoài những yếu tố như môi trường, dinh dưỡng,văn hóa cộng đồng v.v… người dân đảo Okinawa (Nhật) còn sống lâu nhờ bonsai: giúp họ thư giãn, xóa tan những áp lực, và việc tỉa bonsai nhẹ nhàng nhưng lập đi lập lại sẽ giúp họ giảm nguy cơ bị bệnh khớp với hai bàn tay.

 

3. https://doanhnghiepvn.vn/kham-pha/cay-canh-dat-gia-nhat-viet-nam-gia-tri-nghe-ma-choang-vang-mang-y-nghia-vo-cung-dac-biet/20241006095645411

Trong khi đó kết quả tra cứu trên google, cho thấy, vào thời điểm 2023, kinh phí xây dựng một trường tiểu học là 100 tỷ đồng, còn một bệnh viện là từ 60 triệu đến 187.5 triệu Mỹ kim.

https://thanhnien.vn/mot-truong-tieu-hoc-trong-diem-co-kinh-phi-xay-dung-gan-100-ti-dong-185230130161558658.htm

https://thietkebenhvien.vn/chi-phi-xay-dung-benh-vien/

 

4. Lúc này, đời vua Lê Hiển Tông (1740 –1786) – thì một cơ có 200 quân.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên, Quyển 40 ghi lại chuyện trong năm Mậu Thìn, (1748): “Trước đây, phân phối vệ binh lệ thuộc vào các vệ, người đứng cai quản phần nhiều đem binh lính sung làm việc riêng, hoặc tha cho về mà bắt nộp tiền cỏ ngựa; về phần binh lính thì thường mướn người nghèo yếu đi thay. Kỷ luật lỏng lẻo, nói về thực dụng không có ích gì. Triều đình bèn hạ lệnh cho vệ binh đều lệ thuộc vào trấn, chia đặt từng cơ, từng đội, cứ 200 người làm một cơ, cho phép một nửa ở quân ngũ, một nửa về làm ruộng, thay đổi lẫn nhau.”

 

5. https://www.techz.vn/196-923-5-top-3-cay-canh-dat-nhat-viet-nam-co-cay-gia-tri-len-den-460-ty-dong-voi-khoi-luong-khoang-50-tan-ylt601675.html

 

6. .

 7

8. 

 

9. Edward Hallett “Ted” Carr, sử gia Anh (1892-1982). Ý tưởng này trình bày trong cuốn What is History (University of Cambridge & Penguin Books. 1961)


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 13, 2025 21:02

September 7, 2025

Nhị Linh Cao Việt Dũng: Về "Không có vua" của Nguyễn Huy Thiệp

Nguồn: http://nhilinhblog.blogspot.com/2016/...  

-

May 5, 2016Không có vua
-----------

"Không có vua" đương nhiên có thể coi là phần trích ra từ một câu đầy đủ hơn, chẳng hạn "Bởi vì không có vua, cho nên...", và ở đây rất dễ dàng liên tưởng đến Nietzsche, người dường như đã tận mắt nhìn thấy Chúa bỏ đi. Nietzsche đã viết một loạt tác phẩm xoay quanh vấn đề có ý nghĩa duy nhất sau khi "Chúa đã bỏ đi": đạo đức. Có một chỗ, thuộc loạt tác phẩm xoay quanh đạo đức này, cụ thể là trong Morgenröthe (Bình minh), Nietzsche nói đến chuyện thay vào chỗ của Chúa có thể là gì, và bảo đó là tiền. Điều này không khác khi, trong truyện "Không có vua", nhân vật Khiêm trả lời nhân vật Tốn khi Tốn hỏi "Tiền là gì?": "Là vua".

***"Không có vua" là truyện ngắn tham vọng nhất của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng chưa bao giờ được hưởng một sự phân tích hữu hiệu. Có lẽ vì tham vọng của nó quá lớn, vượt hết tầm nhìn của mọi nhà diễn giải. Trong câu chuyện phê bình văn chương Nguyễn Huy Thiệp (rất phong phú), người ta tập trung nhiều nhất vào những truyện ngắn nào có tên người cụ thể, một cái tên từng tồn tại, nhất là xoay quanh Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, vân vân. Những quan tâm thuộc kiểu khác thì tập trung vào "Tướng về hưu", "Con gái thủy thần", "Những người thợ xẻ", "Thương nhớ đồng quê", vân vân.

(Nguyễn Huy Thiệp đã thực hiện một công việc rất bền bỉ: nhìn xuyên qua sương mù để viết lại câu chuyện của hàng loạt nhân vật từng tồn tại, những nhân vật bị sương mù phủ lên nhiều nhất; mọi chân dung mà Nguyễn Huy Thiệp từng vẽ đều đúng một cách văn chương và theo lối tâm lý.)

Như trên đã nói, ở tầng thứ nhất, "Không có vua" gợi ngay đến Nietzsche, tức là gợi ngay đến thời khắc xuất hiện của con người hiện đại, đi kèm với đó là thân phận của con người này (thân phận không còn được hưởng các mệnh lệnh đạo đức, vì các mệnh lệnh này không còn đầy đủ ý nghĩa như trước). Nhưng đó chỉ là tầng thứ nhất, một gợi ý nhỏ.

Bất kỳ ai từng đọc "Không có vua" đều nhận ra những cái tên riêng dường như có nhiều chủ ý. Ông bố của gia đình "Nguyễn Sĩ" này tên là Kiền, năm con trai lần lượt là: Cấn, Đoài, Khiêm, Khảm, Tốn, trong đó Tốn bị bệnh thần kinh. Cô con dâu thì tên là Sinh. Nhiều người đã nói đến tính chất bát quái của câu chuyện, nhưng tất cả đều bỏ rơi ngay chính gợi ý lớn nhất và nhiều ý nghĩa nhất này, có lẽ vì sau khi suy nghĩ (một lúc) thì thấy mấy cái tên ấy chẳng gợi lên một điều gì cụ thể, có lẽ tác giả chỉ đặt thế cho vui.

Cũng có thể là vậy, nhưng cũng có thể là hoàn toàn ngược lại.

Kiền, ông bố, là quẻ Càn, nhưng lục tung truyện này lên sẽ không thấy "Khôn" hay bất kỳ điều gì có thể gợi đến ý tưởng về quẻ "Khôn". Có đủ cặp Cấn-Đoài nhưng hai cặp còn lại đều thiếu một nửa giống như ở trường hợp Càn-Khôn: có Tốn nhưng không có Chấn và có Khảm nhưng không có Ly.

Và nhất là, người con chính giữa, Khiêm, hoàn toàn không phải tên một quẻ của bát quái. Điều này là quái lạ trong mô hình của "Không có vua". Đây chính là gợi ý lớn thứ hai.

Từ hai điều trên đây, kết luận duy nhất có thể rút ra là: gia đình "Nguyễn Sĩ" tượng trưng cho một bát quái, nhưng là một bát quái thiếu, và có một yếu tố "lạc quẻ", là Khiêm, nhân vật làm "nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm".

Sự cố kết của cái thế giới này (với tư cách một bát quái) không được thể hiện rõ trong "Không có vua", nhưng khi được viết lại thành kịch (nhan đề "Quỷ ở với người" hoặc "Gia đình") thì tác giả cho thấy rất rõ ý đồ của mình: trong kịch ấy nói rõ, Sinh về nhà "Nguyễn Sĩ" nghĩa là lấy cả bố con nhà này, trong đó Cấn chỉ đóng vai đại diện. Dễ dàng nhận ra là cách sắp xếp câu chuyện đã khiến cho đứa con sinh ra ở cuối, ta không thể chắc cụ thể là con của ai, khả năng chia đều cho cả sáu người, trong đó thậm chí khả năng Cấn là bố đứa trẻ còn nhỏ nhất (tác giả cũng đã gieo ngay từ đầu mầm mống của nghi ngờ: "Sinh không phải là người có nhiều định kiến hẹp hòi. Hơn nữa, trong tính cách, thậm chí ở cô có phần phóng túng"). Nhưng khi thiết lập liên hệ giữa "Không có vua" và vở kịch rút ra từ đó, cũng cần để ý đến những khác biệt, ví dụ trong truyện thì "Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi": điều này hoàn toàn trái ngược với vở kịch, trong đó cho biết Cấn 38 tuổi, Khiêm là em cách Cấn một mình Đoài thì 29 tuổi, mà Khảm còn là sinh viên đại học, tức là khoảng cách tuổi giữa họ không phải là "một, hai" như trong truyện đã nói.

Những điều trên đây cho thấy thứ nhất, tác giả không thực sự quá quan tâm đến các tiểu tiết và thứ hai, Nguyễn Huy Thiệp có cảm giác rõ câu chuyện này rất quan trọng, nên đã viết truyện rồi lại còn viết thành kịch, nhưng cả hai điều trên đây đều không quan trọng bằng điều thứ ba: Nguyễn Huy Thiệp cũng không thực sự hiểu câu chuyện "Không có vua" mà mình đã viết ra. Điều này, một cách rất logic, khiến cho các nhà phê bình chẳng hiểu nốt. Xung quanh "Không có vua" cho tới giờ phút này là những bình luận trời ơi đất hỡi về nhân tính, về sự băng hoại của đạo đức, về sự suy sụp của gia đình Việt Nam, tình cảnh cuộc sống hậu chiến, vân vân, tức là toàn những thứ rất tầm phào và chẳng nói lên một điều gì hết. Nhìn tổng quát, câu chuyện phê bình văn chương Nguyễn Huy Thiệp gần như gồm toàn những làm xàm nhảm nhí, mà khởi đầu là nhận xét về đặc tính nữ, phát ngôn của Hoàng Ngọc Hiến; điều Hoàng Ngọc Hiến nói hiển nhiên sai.

Dẫu có thiếu, bát quái của "Không có vua" vẫn cần được nhìn nhận thật cẩn thận. Bát quái là biểu hiện theo phương vị, kèm một số ý nghĩa cơ bản, của vũ trụ.

Cấu trúc của "Không có vua" cũng rất cần được quan tâm. Nó có bảy phần, "Gia cảnh", "Buổi sáng", "Ngày giỗ", "Buổi chiều", "Ngày Tết", "Buổi tối" và "Ngày thường". Dường như chưa ai nhìn thấy, ở các truyện có dung lượng lớn, Nguyễn Huy Thiệp đều dùng cấu trúc bội của 7: cả "Tướng về hưu" lẫn "Giọt máu" đều có 14 phần.

Bát quái là một hình dung vũ trụ, bảy ngày lại là một hình dung vũ trụ khác nữa: bảy ngày của Kinh Thánh Công giáo. Ngoài phần đầu tiên, "Gia cảnh", khiến ta nghĩ đến Sử ký ("Thế gia"), sáu phần còn lại được kết cấu hài hòa nhưng nổi lên một điều rất kỳ cục: phần "Buổi sáng" và "Buổi chiều" đúng là buổi sáng và buổi chiều bình thường (của ngày giỗ, với phần "Ngày giỗ" kẹp vào giữa "Buổi sáng" và "Buổi chiều"), nhưng phần "Buổi tối" lại không hoàn toàn là một buổi tối cụ thể nào. Từ đây cần phải nhìn ra yếu tố phúng dụ của "buổi tối": một cách đơn giản nhất, đây là buổi tối của sự suy tàn (lão Kiền chết) nhưng đồng thời Sinh lại mang thai (như trên đã nói, không thể rõ cái thai này là của ai trong số sáu người đàn ông).

Sáng Thế ký của Kinh Thánh bao gồm những gì ta đã biết, còn Sáng Thế ký của "Không có vua" thì bao gồm các đồ vật sau: "bốn bộ quần áo mỏng, một áo dạ mặc rét, hai áo len, một vỏ chăn hoa, bốn cái xoong nhôm, một cái xoong bột, một cái phích hai lít rưỡi, một cái chậu tắm, một tá khăn bông".

Một nhà phê bình ưa thích "hậu hiện đại" tới đây hẳn sẽ lao vào phân tích thủ pháp giễu nhại etc. Nhưng sẽ không có gì ngớ ngẩn hơn thế. Thật ra trong vòng vài chục năm vừa rồi những ai gieo rắc chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, bày ra ngập tràn những "giễu nhại", "phân mảnh" vân vân đã phạm tội lỗi đổ rác ra chỗ công cộng, làm tràn lan những điều nhảm nhí, rất giống nhai cỏ trệu trạo rồi sản xuất ra một số sản phẩm theo một cái lỗ khác.

Tổng chi, ít nhất ta đã có một hình dung lờ mờ về ý nghĩa ẩn sâu của truyện ngắn "Không có vua", những gì thực sự làm nên giá trị cho nó. Ngôn ngữ mà Nguyễn Huy Thiệp sử dụng không bao giờ tạo thuận lợi cho mọi sự nhìn nhận đi sâu xuống: hiển nhiên là nó quá mức vớ vẩn nếu so với tính chất trang nghiêm của Sử ký hay của Kinh Thánh, và thật hoang mang khi thấy quẻ Đoài của bát quái cầm dao đứng trước quẻ Cấn mà rít lên: "Cút đi! Anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền!" (nhưng đây cũng chính là thời điểm ta thấy được, "Cấn" (tượng trưng cho núi) và "Đoài" (tượng trưng cho sông) được đặt tên như vậy không hề vu vơ, hai quẻ đối lập (cặp đối lập đủ duy nhất của một bát quái nhếch nhác) này thực sự phải đối đầu với nhau). Thật ra, chỉ cần hình dung hai người công nhân bàn về Kant hay một tài xế taxi đọc Nhật ký của Kafka là ta cũng đã thấy chuyện như vô lý cũng vẫn có lý.

Và quan trọng hơn cả, "Không có vua" cần phải được kéo xuống thấp hơn nữa, đến những gì cơ bản và sơ đẳng. Toàn bộ câu chuyện cũng thuần túy là sự bốc lên của các "passion" (dục vọng), tức là những gì căn cốt nhất, sơ khai nhất của con người.

***Trong cuốn sách bàn về các biến hóa của tâm hồn và biểu tượng của chúng (cuốn sách đánh dấu sự ly khai giữa Jung và Freud, khi mà Jung bắt đầu thấy rằng libido không có ý nghĩa lớn đến như thế, con người cá nhân cũng không có ý nghĩa lớn đến như thế), Jung viết: "các xung đột sơ khai của loài người lưu giữ một căn cước độc lập với thời gian và không gian". Những gì đã có, ở mức độ sơ đẳng nhất, sẽ không bao giờ mất đi. OEdipe thật ra là người cùng thời với chúng ta.

Câu chuyện của con người tham vọng nhất là câu chuyện về sáng thế, về khởi sinh của vũ trụ. Huyền thoại là các cách diễn đạt của tham vọng ấy. Trong sinh hoạt cơ bản của con người, và chiếm vai trò trung tâm của huyền thoại, là nghi lễ: Mircea Eliade từng chỉ ra, mọi nghi lễ (đúng) đều là miêu tả khởi sinh của vũ trụ, đều làm vũ trụ mới có thể sinh ra.

Ta sẽ đến với hai lần xuất hiện nghi lễ trong "Không có vua": một lần trong "Ngày giỗ" và một lần trong "Ngày Tết". Khi các nhân vật cúng cho bà vợ chết từ lâu của lão Kiền, ta thấy câu chuyện giống như trò hề (với ông Vỹ em trai bà Nhớn quá cố - hai cái tên này đều được đặt với dụng ý gây cười, sự nhỏ mọn được hình dung như to lớn, kỳ vĩ - tuyên bố mình là người "vô thần": đây cũng là dấu chỉ cho thấy điều ngược lại của "vô thần", cũng như cái tên cô con dâu "Sinh" vừa mang ý nghĩa đúng là "sinh" lại vừa hướng đến điều ngược lại, "tử"). Đó là khi tất cả các yếu tố của bát quái thiếu (trừ Khiêm - "yếu tố lạc quẻ") tập hợp lại, có thêm vài người khách. (Còn có một cảnh liên quan đến nghi lễ nữa, ở phần "Buổi tối": đọc kinh "Vô thường" để lão Kiền chết đi được; người đọc kinh lại chính là Khiêm, người đã không có mặt ở nghi lễ trước đó, ngày giỗ mẹ). Một nghi lễ không đúng không tạo ra gì hết.

Đây là một thế giới, một vũ trụ đang tan rã, nó không gượng nổi sức sống ngay cả trong nghi lễ.

Đoạn duy nhất yên bình và có sức sống trong "Không có vua" nằm ở nghi lễ thứ hai: "Ngày Tết". Đây là khi mọi yếu tố chính của bát quái thiếu đều đi vắng, người cử hành nghi lễ là Sinh và Khiêm, với Tốn (ta nhớ đây là người con út bị tâm thần, nên vừa thuộc về bát quái vừa không thuộc về đó) đốt pháo. Một vũ trụ cũ cần được chết đi, thay vào đó là một vũ trụ mới. Chỉ các yếu tố nào không thực sự thuộc về vũ trụ cũ kia mới đủ sức tạo ra được sự khởi sinh này.

Nghi lễ đã thành công (vì nó đúng), sau đó Sinh có thai (với ai thì ta không rõ), lão Kiền chết, và đến phần cuối, "Ngày thường", thì ta đã chuyển sang một vũ trụ hoàn toàn mới. Lão Kiền đã chết, đứa bé mới sinh chưa có tên, ngoài đó ra ta có Cấn, Đoài, Khiêm, Khảm, Tốn, Sinh, My Lan và Mỹ Trinh, tám yếu tố mới cho một bát quái đầy đủ.

Chỉ khi này, lúc "vua" đã mất đi, sự xộc xệch của vũ trụ cũ đã được xử lý (thông qua nghi lễ), một vũ trụ mới đã có thể ra đời, đầy đủ. Câu chuyện hạ tông, trở về "ngày thường", với chút ngậm ngùi về một quá vãng phát ngôn từ Sinh: "Nhưng thương lắm!"


Tôi thấy văn chương của Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt gần với văn chương của một nhân vật: Borges. Cả hai không làm gì khác ngoài viết đi viết lại những khởi sinh của vũ trụ. Có thể nào động đến những vấn đề siêu hình trầm trọng như vậy thông qua các hình thức hết sức giản lược của ngôn từ không? Có chứ, đơn giản chính là nền tảng nhất, và minh chứng chính là Borges và Nguyễn Huy Thiệp đấy còn gì. Một người đọc giỏi, không vướng nhiều định kiến, sẽ tức khắc nhìn thấy giá trị văn chương của Nguyễn Huy Thiệp nằm ở mức độ nào. Một trong những ví dụ quan trọng nhất mà ta từng có là: Claudio Magris.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 07, 2025 02:46

August 27, 2025

Cái nhìn của Nhị Linh về Nguyễn Huy Thiệp

Nguồn: https://nhilinhblog.blogspot.com/2017...

May 22, 2017 Nguyễn Huy Thiệp: một lần nữaTôi đã chờ rất lâu (như đã nói ở kia) vì tôi muốn một ai đó khác chứ không phải tôi nói được chính xác về Nguyễn Huy Thiệp (cũng như văn chương cần đúng chứ không phải hay, phê bình trước hết phải chính xác, trong nhìn nhận, cũng như trong sắp xếp - đây là câu chuyện của giá trị, đây cũng là câu chuyện của ý nghĩa). Một số văn chương không thuộc về lối của tôi (Borges, Nabokov hay Nguyễn Huy Thiệp), tôi giữ khoảng cách với những văn chương ấy và không bao giờ thực sự muốn chạm đến những văn chương ấy.

Nhưng giờ ta sẽ nói đến Nguyễn Huy Thiệp, tôi sẽ chỉ lấy từ Nguyễn Huy Thiệp điều tối thiểu mà tôi cần. Sau khi viết về truyện Không có vua , tôi đã biết là không cần nói thêm nhiều lắm.

Các nhà phê bình Việt Nam hết sức sai lầm khi nghĩ rằng cần ở gần các "đối tượng" của mình thì mới hiểu được họ. Các mối quan hệ cá nhân giết chết sự hiểu. Phan Ngọc từng nói, trong tiểu luận về văn chương Nguyễn Tuân, rằng trong suốt rất nhiều năm, mình tránh gặp Nguyễn Tuân. Trực giác này hết sức đúng: cho đến giờ, vẫn chỉ mới có Phan Ngọc thực sự hiểu Nguyễn Tuân; bài viết của Phan Ngọc về Nguyễn Tuân là một kiệt tác của phê bình Việt Nam.

Không gặp, tức là giữ khoảng cách. Khoảng cách, đến lượt nó, trở thành cự ly. Cần phải có cự ly chuẩn. Marcel Proust từng than phiền: người ta cứ nghĩ Proust dùng "kính hiển vi", trong khi Proust biết rằng mình sử dụng "kính viễn vọng". Dẫu là hiển vi hay viễn vọng thì vẫn có một điều chung: cần phải chỉnh tiêu cự thì mới nhìn rõ nét được. Điều này (khoảng cách, cự ly) thuộc về cái nhìn của cấu trúc . Một nhà phê bình văn học có thể không nhất thiết phải là một môn đệ của cấu trúc luận, nhưng kiểu gì, một phần nào đó, cũng phải có hình dung về cấu trúc. Không thể có cái nhìn của phê bình nếu không có cấu trúc.

Hoặc quá gần, hoặc quá xa, người ta đều không thể nhìn rõ - cái nhìn, trong các trường hợp đó, trở nên ảo tưởng.

Cách đây khoảng một năm rưỡi, ở trường hợp Nguyễn Huy Thiệp (nhân vật mà tôi luôn luôn giữ khoảng cách), tôi tìm được chi tiết cuối cùng mà tôi còn thiếu: khởi đầu của Nguyễn Huy Thiệp là khi nào?

Các nghiên cứu của Mai Anh Tuấn vào giai đoạn ấy cho biết Nguyễn Huy Thiệp đã bắt đầu viết các bản thảo từ trong thập niên 70 của thế kỷ 20, tức là trước rất lâu sự "xuất hiện chính thức" của Nguyễn Huy Thiệp.

Tôi đi tìm điều đó là bởi từ trước tôi đã biết rất rõ "thời điểm cuối cùng" của Nguyễn Huy Thiệp.

Điểm cuối của văn chương Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn "Cánh buồm nâu thuở ấy" (cụ thể là đăng trên số Xuân của tờ Thanh niên, đầu năm 2005).

Nguyễn Huy Thiệp, trước hết, là câu chuyện rất lớn của khởi đầu và kết thúc. Nguyễn Huy Thiệp đi vào con đường văn chương Việt Nam bằng sự bùng nổ từ thập niên 70 đến những năm đầu thế kỷ 21, sự bùng nổ ấy ban đầu được cất giấu kín đi, không ai nhìn thấy.

Con đường văn chương Việt Nam là gì? Là con đường gồm các văn chương không lệch khỏi một lối đi nào đó. Những văn chương ấy, cho tới thời điểm hiện tại, có một số biểu hiện chung. Trong đó "con đường Nguyễn Du" hết sức quan trọng; tôi sẽ không gọi Nguyễn Du là hình mẫu, nhưng đó là gợi ý lớn nhất. Dường như, một số văn chương có sự hồi đáp, làm vang lên một tiếng vọng trở lại Nguyễn Du và con đường của Nguyễn Du.

Trước hết, đó là vòng tròn. Điều này tôi đã nói tương đối rõ khi viết về văn chương Dương Nghiễm Mậu (xem ở kia). Vòng tròn nghĩa là, khi đã mở ra, thì phải khép lại, nếu không sẽ không có vòng tròn nào cả; cho dù trông có phong phú đến như thế nào, mọi thứ cũng không tồn tại thực sự nếu không khép lại một cách đầy đủ (tức là, tương đương với chuyện không tạo ra được cấu trúc riêng: không có tồn tại nếu thiếu cấu trúc - trong tính chất riêng cũng đồng thời có các điểm chung).

Cũng trong bài về Dương Nghiễm Mậu, tôi đã nói rất cụ thể, Khái Hưng, Nhượng Tống và Dương Nghiễm Mậu chính xác là một nửa những gì kiệt xuất nhất của con đường văn chương Việt Nam (chỉ đơn giản, văn chương của họ đúng với một con đường). Ba nhân vật còn lại (nửa còn lại) là những ai? Đó là Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh.

Bài "Con đường Nguyễn Du", ngoài một số ý nghĩa khác, có ý nghĩa này: tôi cố gắng chỉ ra, trong yếu tính của văn chương Việt Nam, như thể hiện ở Nguyễn Du: có bên nàybên kia (sống và chết, ở riêng trường hợp Nguyễn Du); bên này và bên kia, ở đây và ở kia, cái này và cái kia - tất nhiên, những điều này vẫn tuyệt đối liên quan đến "câu chuyện vòng tròn".

Ở Dương Nghiễm Mậu, tương đối nổi bật "cái này" và "cái kia" trong cấu trúc nền tảng (tương tự trường hợp Nguyễn Du). Các nhân vật còn lại không đơn giản như vậy.

Tôi từng nghĩ, Nhượng Tống là "văn chương và cách mạng", nhưng về sau tôi thấy cần phải sửa lại: bởi vì Khái Hưng mới là như vậy. Vòng tròn Khái Hưng nghĩa là văn chương và cách mạng; vòng tròn Nhượng Tống nghĩa là văn chương và sự ngây thơ. Còn Nguyễn Tuân? Tôi nghĩ, đó là văn chương và tội lỗi. Riêng về Nguyễn Tuân, thời gian tới đây tôi sẽ đi sâu vào hơn.

Trong bài "Con đường Nguyễn Du", tôi nói đến Văn Cao. Một số người hiểu ngay là tôi nói không thực sự đúng. Đúng, "trong khi ngộ biến tùng quyền biết sao", tôi đã "mượn" Văn Cao để trám vào một vị trí không thực sự chuẩn xác, vì vào thời điểm ấy điều tôi cần là chỉ ra "con đường văn chương Việt Nam" có những lặp lại.

Nhân vật cần đặt ở đó không phải Văn Cao, mà là Bảo Ninh. Tôi đã sắp viết xong bài về Nỗi buồn chiến tranh.

Như vậy, ta có Khái Hưng, Nhượng Tống, Nguyễn Tuân, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Ta cũng có, ở đằng sau, người giữ nhịp, là Nhất Linh ở một giai đoạn, về giai đoạn về sau, vai trò ấy rơi vào Dương Thu Hương (Dương Thu Hương là tác giả của ba kiệt tác: Những thiên đường mù thì tôi nghĩ ai cũng thấy ngay, một số người cũng dễ dàng thấy kiệt tác thứ hai là Chuyện tình kể trước lúc rạng đông, nhưng kiệt tác thứ ba chắc chắn không mấy người thấy: đó là Hành trình ngày thơ ấu).

Nhưng tại sao lại có thể là sáu người? Cần phải bảy chứ? Một con người của cái nhìn cấu trúc sẽ phản đối tôi.

Đúng, lẽ ra phải là bảy. Nhân vật thứ bảy lẽ ra phải là Nguyên Hồng. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ quay trở lại với Nguyên Hồng. Nhưng Nguyên Hồng gần đủ mà không thực sự đủ.

Và sẽ lại có người hỏi: đấy mới chỉ là văn xuôi, còn thơ?

Đúng, phải nói đến thơ.

Văn xuôi - vì tính chất chiều ngang của nó - thật ra mới khó nhìn nhận (chỉ nhìn được dưới thấp nếu ở trên cao, còn cái gì cao thì từ dưới thấp vẫn có thể thấy, cf. Machiavelli), thơ thì cao vút lên, cái gì thực sự cao thì sẽ thấy ngay. Đây là thất tinh của thơ Việt Nam: Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Dần, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Bắc Sơn. Và phía sau, cũng như thể "giữ nhịp", là các nhà thơ như Văn Cao hay Quang Dũng.

Và bởi vì đã bắt đầu bằng Nguyễn Huy Thiệp, ta cũng cần kết thúc với Nguyễn Huy Thiệp: vòng tròn Nguyễn Huy Thiệp nghĩa là gì? Là cùng một lúc văn chương và sự vô tri. Vô tri là một trong những gì lớn nhất, là thứ không bao giờ được coi thường.

Một biểu hiện sự vô tri của Nguyễn Huy Thiệp: ngoài các "tiểu luận", đó là chuyện Nguyễn Huy Thiệp lăng xê một số nhà thơ.


Xét cho cùng, tôi vẫn không hề thực sự động sâu vào văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, tôi vẫn để lại đó, rất có thể sẽ có người nhìn ra. Văn chương của Nguyễn Huy Thiệp tập trung vào một hình ảnh, một hình ảnh rất đơn giản, và có liên quan đến nước
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 27, 2025 03:05

August 19, 2025

Việt Nam 1945: Khoảnh khắc không gì là không thể

 https://nghiencuuquocte.org/2015/04/0...

Hanoi,_The_uprising_on_August_19,_1945

Nguồn: David G. Marr, “A moment when everything seemed possible”, Inside Story, 10/10/2013.

David G. Marr mô tả sự ra đời tác phẩm mới của mình, một cái nhìn chi tiết về bước ngoặt trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.

Tôi bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam vào những năm 1960, tự hỏi vì sao có quá nhiều người kể về nơi họ đã ở và những việc họ làm trong giai đoạn 1945-46 với một vẻ hào hứng đến vậy. Nhưng những tài liệu của Việt Nam về thời kỳ này quả thật rất khó tìm kiếm. Những thư viện hay tiệm sách ở Sài Gòn hầu như chẳng có gì. Tôi tìm được một hiệu sách thiên tả tại Hồng Kông có bán những ấn phẩm xuất bản định kì từ Hà Nội, đáng chú ý là Tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Năm 1964, một ngày nọ, hai đặc vụ FBI tới ký túc xá sinh viên sau đại học trường Berkeley của chúng tôi và hỏi lý do tôi đặt nhận những ấn phẩm tuyên truyền của kẻ thù qua đường bưu điện.

Vào năm sau đó, khi đang nghiên cứu về phong trào đấu tranh chính trị của học sinh, sinh viên ở Sài Gòn, tôi được Đại tá Phạm Ngọc Liễu (chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa) giao cho một số lượng lớn các ấn phẩm bị tịch thu từ Hà Nội. Đây đúng là thứ khơi gợi cảm hứng cho tôi, tuy vậy chúng khó có thể được sử dụng cho một luận án tiến sĩ.

Luận án và cũng là cuốn sách đầu tiên của tôi, với tựa đề “Người Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, giai đoạn 1885-1925” (Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925), tập trung vào thiểu số người Việt phản kháng sự chiếm đóng và thuộc địa hóa của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Họ để lại một di sản toàn những thất bại nhuốm màu chủ nghĩa anh hùng, đồng thời là một thách thức trực tiếp đặt ra cho thế hệ mới gồm những người trẻ tuổi được hưởng nền giáo dục của Pháp: làm sao để học được từ sai lầm của người đi trước.

Cuốn sách thứ hai của tôi, “Truyền thống Việt Nam trong thời kì thử thách, 1920-1945” (Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945), nói về giới trí thức của thế hệ này khi họ tranh luận các vấn đề về đạo lý và chính trị, ngôn ngữ và văn học, địa vị của phụ nữ, những bài học từ quá khứ, sự hài hòa và tranh đấu, sức mạnh tri thức và tập quán chính trị. Những cuộc thảo luận sôi nổi này diễn ra giữa những thay đổi nhanh chóng về kinh tế-xã hội, những thay đổi liên tục trong chính sách thực dân của người Pháp, và cuối cùng là tình trạng rối loạn của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Không chỉ những trí thức, mà những người Việt Nam khác cũng trở nên tin tưởng rằng cuộc đời không phải được định trước, rằng tất cả mọi người trên thế giới đều có thể chạm tới tự do và hiện đại, và rằng một cá nhân có thể hợp sức cùng với những người khác để tạo ra sự thay đổi.

Trong cuốn sách thứ ba, “Việt Nam 1945: trong cuộc cạnh tranh giành quyền lực (Vietnam 1945: The Quest for Power), tôi cố gắng thể hiện một cách sống động các sự kiện và giải thích ý nghĩa quan trọng của cột mốc mà người Việt vẫn gọi là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước tiên tôi nghiên cứu tỉ mỉ giai đoạn năm năm trước đó, khi người Pháp của chính phủ Vichy, người Nhật, người Trung Quốc, người Mỹ, người Anh, người Pháp Tự do, những người cộng sản và những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả đều cố gắng kiểm soát hoặc gây ảnh hưởng đến các diễn biến ở Đông Dương.

Vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Quân đội Nhật Bản lật đổ chính quyền thực dân Pháp, điều này có nghĩa Pháp đã bị loại khỏi cuộc chơi trong sáu tháng quyết định sau đó. Người Việt Nam nhanh chóng nhận ra rằng họ có thể xuất bản tài liệu, tổ chức và biểu tình đòi độc lập dân tộc, miễn là không gây trở ngại đến sự chuẩn bị phòng vệ của quân Nhật. Lực lượng kháng Nhật Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, hay còn gọi là Việt Minh, tiếp tục tán dương những thắng lợi của phe Đồng minh và lên án “giặc lùn” [nguyên văn dwarf bandits, ý chỉ quân Nhật – ND], nhưng phần lớn tránh các cuộc đối đầu nhằm giành thời gian cho việc tuyển quân và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa cuối cùng. Ở một số địa phương, nông dân đột kích các kho thóc, tịch thu tài sản của địa chủ, bắt giam các lý trưởng và buộc các quan huyện phải bỏ trốn để giữ lấy tính mạng.

Tin tức về Tokyo đầu hàng quân Đồng minh vào ngày 15/8 nhanh chóng lan truyền khắp Việt Nam, châm ngòi cho sự bùng nổ các cuộc biểu tình tuần hành, chiếm đóng các cơ quan chính phủ, đốt hủy tài liệu và hình thành các ủy ban cách mạng. Thành viên của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) nắm được quyền kiểm soát Hà Nội, Huế, Sài Gòn và một số tỉnh thành dưới danh nghĩa Việt Minh, trong khi ở các nơi khác, các nhóm thanh niên cũng tự mình đạt được những thành công tương tự.

Đó là một khoảnh khắc mà mọi thứ dường như đều khả thi, khi mọi người cảm thấy họ đang làm nên lịch sử, chứ không chỉ chứng kiến nó. Một vài sĩ quan chỉ huy Nhật đã giao nộp lại những kho vũ khí và đạn dược chiếm được từ quân Pháp. Lực lượng nòng cốt Việt Minh, vốn đã xác nhận đứng cùng phe với quân Đồng Minh, hiện nắm giữ một lợi thế tuyên truyền lớn hơn hẳn những nhóm hội trước kia bắt tay với Nhật. Kết quả là phần lớn các nhóm thanh niên sớm đầu hàng Việt Minh và lặp đi lặp lại những khẩu hiệu của tổ chức này, mặc dù họ chưa hề tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao của Việt Minh và chẳng có khái niệm gì về cương lĩnh của Việt Minh nói chung.

Cuốn Việt Nam 1945 kết thúc ở ngày 2/9, khi những đám đông lớn tập trung tại Hà Nội và Sài Gòn để đón mừng độc lập dân tộc. Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Chủ tịch lâm thời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới, đã đọc một bản tuyên ngôn độc lập ngắn để tuyên bố với thế giới cũng như người dân trong nước. Những chiếc loa phóng thanh đảm bảo rằng khán thính giả không chỉ nghe được những gì ông Hồ và người khác nói, mà còn phản hồi một cách vang dội và hân hoan vô số lần. Sau khi Hồ Chí Minh kết thúc buổi mít-tinh, quân đội Việt Minh xuống phố tuần hành, tản ra và hòa chung vào với không khí tưng bừng cho tới giờ giới nghiêm.

Tuy nhiên, tại Sài Gòn, khi thành viên của Ủy ban Hành chính Nam Bộ vừa kết thúc bài phát biểu thì tiếng súng nổ ra ở vùng ngoại thành, dân chúng hoảng loạn. Đám đông bắt đầu tiến hành lùng bắt người Pháp, giết một số người, đánh đập những người khác, và khủng bố phần còn lại. Hai cái kết – một trật tự, một hỗn loạn – đã cho thấy những cuộc nổi dậy Tháng Tám của quần chúng có thể lái Việt Nam theo những hướng đi hoàn toàn khác nhau. Người dân nhận thấy cuộc sống của họ đã thay đổi mãi mãi, nhưng không ai có thể nhìn trước được tuần sau mọi thứ sẽ thế nào, nói gì đến những tháng năm về sau.

Cuốn sách mới của tôi, có tên Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng” (Vietnam: State, War and Revolution), tập trung vào các sự kiện diễn ra trong 16 tháng tiếp theo, khi đường hướng tương lai của Việt Nam đã được xác định. Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, Nhà nước Dân chủ Cộng hòa bắt đầu hoạt động, lực lượng quân đội quốc gia được hình thành. Nhật Bản, Anh, Mỹ và Trung Quốc mờ nhạt dần trong cán cân quyền lực tại Đông Dương, trong khi Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nỗ lực tìm cách đạt được lợi thế. Một nạn đói nữa hầu như đã được ngăn chặn, tài sản của người Pháp bị sung công và những chiến dịch gây quỹ không chính thức được tiến hành song song với hoạt động thu thuế chính thức. ĐCSĐD dần dần mở rộng sự kiểm soát đối với các lực lượng Việt Minh địa phương, rồi tạo áp lực buộc các đảng khác phải chấp nhận quyền lãnh đạo của đảng này, nếu không sẽ bị coi là phe phản bội. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ em tham gia các đoàn thể ở địa phương để bảo vệ và phát triển đất nước. Mùa hè năm 1946, tại Paris, Hồ Chí Minh cố gắng thương thảo một dàn xếp, nhưng căng thẳng lại gia tăng ở Việt Nam. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi Pháp chiếm Hải Phòng vào tháng 11, và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động tấn công tại Hà Nội và nhiều nơi khác vào ngày 19 tháng 12. Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã kéo dài thêm 7 năm rưỡi.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tiếp tục tồn tại và ngày càng chiếm ưu thế rộng rãi nhờ sự tham gia rộng lớn chưa từng thấy của quần chúng nhân dân, mà phần lớn trong số họ chưa bao giờ bắn một phát đạn nào trong cơn giận dữ. Người dân tham gia vì lý do gì và bằng cách nào là những câu hỏi mà tôi tiếp cận từ nhiều góc độ. Rõ ràng bên cạnh việc đánh bại kẻ thù, cá nhân mỗi người đều có những khát vọng khác. Nhà nước Dân chủ Cộng hòa đảm nhiệm nhiều chức năng không liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh vũ trang, mặc dù chính quyền thường gán mục đích kháng chiến cho những việc này. ĐCSĐD cũng dùng cuộc chiến để hợp thức hóa việc nắm quyền của mình. Trong quá trình nỗ lực để kiểm soát nội bộ, chiến tranh và cách mạng, đã xuất hiện những hậu quả không tiên liệu được trước mà người Việt chấp nhận phải sống cùng hàng thập niên sau này.

Tôi thường tự hỏi mình câu hỏi tương tự câu hỏi Thomas Carlyle đặt ra khi ông bắt tay vào viết về lịch sử của cuộc Cách mạng Pháp: “Mọi thứ ở đó như thế nào?”. Không có được tài năng kịch nghệ như Carlyle, tôi không thể dựng lên được một Mirabeau hay Robespierre của Việt Nam. Các nhân vật nổi tiếng như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh luôn ở trên sân khấu, nhưng tôi cũng có cùng niềm hứng thú với những câu chuyện về các nhà hoạt động trẻ tuổi trong Việt Minh, về những dân oan đang bất bình ở làng quê, về những vị chủ tịch ủy ban tỉnh, về các cựu viên chức (fonctionnaire) của chính quyền thuộc địa, về những anh phóng viên đầy phấn khởi, và về các em học sinh trung học Nam tiến để chiến đấu với người Pháp, với hành trang độc một con dao rựa.

Các tài liệu, tạp chí và sách xuất bản trong thời kỳ 1945-46 là nguồn động lực cho tôi trong suốt hàng năm trời, để mỗi buổi sáng tôi thức giấc, tìm cách giải quyết các bằng chứng rời rạc, tìm ra các mẫu hình và cả các mâu thuẫn nữa, và sau đó cố gắng dựng lên một câu chuyện lịch sử về cách con người phản ứng và tạo nên sự kiện tại một địa điểm và thời gian cụ thể. Thú vị nhất là bộ sưu tập tư liệu gouvernement de fait (chính phủ lâm thời) tại Viện lưu trữ Quốc gia về nước ngoài ở Aix-en-Provence: bảy mươi tám thùng carton chứa tài liệu về nhà nước Dân chủ Cộng hòa do Quân đội Pháp đóng tại Hà Nội chiếm được vào cuối năm 1946. Đó là một bằng chứng cho thấy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cực kì hoang mang vào đêm 19/12/1946, đến nỗi hai tiếng trước khi cuộc tấn công bắt đầu, các thư ký chính phủ vẫn ngồi tại bàn làm việc ở Hà Nội, và sau đó họ không kịp hủy hàng ngàn tập tài liệu đặt ở tầng hầm Văn phòng miền Bắc trước khi rời đi.

Nếu như cuốn sách này được viết hai mươi năm trước đây, những người quan sát Việt Nam đã nhanh chóng nhận ra những luận điệu chính trị, các giả định chính sách và thái độ của người dân những năm cuối thập niên 1940. Ở hiện tại, quá nhiều thứ đã thay đổi. Giữa những câu chuyện ngày nay về điện thoại di động, các thị trường năng động, các nhà đầu tư nước ngoài, nhà máy giầy Nike và những gia đình thượng lưu mới, những chuyện kể về chiến tranh và cách mạng có vẻ đã cổ lỗ, không hợp thời. Những người Việt trẻ vẫn cần phải học về cuộc kháng chiến chống Pháp đủ để vượt qua các bài kiểm tra và kì thi ở trường học, nhưng ngoài ra thì thời kì này dường như trở nên xa cách và chẳng quan trọng nữa. Những người Việt trẻ theo học ở phương Tây cho rằng chẳng thể tìm hiểu được điều gì quan trọng về nhà nước Dân chủ Cộng hòa, Việt Minh hay cuộc kháng chiến trong tất cả những chiến dịch tuyên truyền của Đảng Cộng sản.

Tuy vậy còn nhiều thể chế nhà nước được hình thành cuối thập niên 1940s vẫn tồn tại không suy chuyển ở Việt Nam ngày nay, cũng như niềm tin của nhân dân vào tính hiện đại, hay sự hiệu quả của quy mô và sự tập trung quyền lực. Ngay dưới lớp bề mặt này, nỗi sợ hãi trước sự can thiệp hay lôi kéo từ bên ngoài cũng vẫn còn tồn tại dai dẳng. Đảng sẽ tiếp tục dựa vào những thành tựu của Cách mạng tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp để biện minh cho nền chuyên chính của mình. Những người chỉ trích đảng đôi khi nhắc lại thời kì báo chí tương đối tự do năm 1945-46, cuộc tổng tuyển cử toàn quốc tháng 1/1946, Đảng Dân chủ, và Hiến pháp tháng 11/1946, nhưng họ lại thiếu kiến thức chi tiết về từng sự kiện.

Năm 1995, khi Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức một hội thảo ở Hà Nội để luận bàn về cuốn “Việt Nam 1945” của tôi, một số người tham gia đã phản đối quan điểm: “sự thật duy nhất trong lịch sử là chẳng có sự thật lịch sử nào cả, mà đó chỉ là vô vàn những trải nghiệm.” Trái lại, chỉ duy nhất một người chỉ trích tôi vì đã coi nhẹ vai trò của ĐCSĐD trong lịch sử, trong khi một vài người khác chọn cách kể lại những trải nghiệm cá nhân trong năm 1945 để ngầm ủng hộ luận điểm của tôi. Ngày nay, thế hệ trẻ ở Việt Nam có vẻ ít bị trói buộc bởi các sự thật lịch sử, và sẵn sàng phản biện lại những lời giáo điều. Tôi thực sự trông chờ những cuộc tranh luận sôi nổi và sinh động như vậy.

David G. Marr là Giáo sư hưu trí bộ môn Lịch sử tại Đại học Quốc gia Australia. Bài viết là một phần trích đã được biên tập từ tác phẩm Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng (Vietnam: State, War and Revolution, University of California Press).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 19, 2025 03:10

Phạm Hoàng Quân: Một thoáng chữ vuông

 

 

Nguồn: báo Tuổi trẻ cuối tuần 12/08/2025         

 

https://cuoituan.tuoitre.vn/mot-thoan...

·       

 

Hơn mươi năm trước, tôi đãnói ở đâu đó rằng Sài Gòn kém Phnom Penh ở những hiệu sách ngoại văn, nên nhìntổng diện mạo văn hóa thì cái thành phố hòn ngọc tưng trời này thiếu néttuệ. 

Khoảng năm 2010, đùng mộtcái nhà sách Đại Thế Giới ngưng bán sách Trung văn, một khách hàng hụt hẫng làtôi đến nay vẫn chưa hiểu vì sao những hiệu sách như Xuân Thu ở trung tâm SàiGòn và Đại Thế Giới ở trung tâm Chợ Lớn lại lần lượt đóng cửa. 

Những hiệu sách ngoại vănnày thiệt tình mà nói, nó mang chứa một giá trị lớn hơn mục đích kinh doanh gấpbội lần, dù phải ki cõm ngân lượng hết mức để đem đến giao nộp thì tôi vẫn thầmkính trọng những chủ nhân của nó vô vàn.

Những hiệu sách ngoại vănthời trước vốn chủ đạo là sách Trung văn, tức loại sách mang "chữvuông" như nay gọi theo ngoại vi con chữ. 

Nhưng nếu dò la gốc ngọnthì cái loại chữ vuông này không hẳn là ngoại văn mà nó vốn là loại chữ đượclai giữa nội văn với ngoại văn. Trung văn hiện đại cũng bắt nguồn từ Hán tự, màHán tự thì ông bà ta đã coi như của mình, dùng đã hơn ngàn năm để chép sử mầnthơ, rồi dù có phân nhánh chế ra chữ Nôm thì vẫn trên nền Hán tự. 

Cho nên gọi Trung văn hayHán văn là "ngoại văn" chỉ là cách gọi theo vùng địa lý, còn ở cáivùng tinh thần - hay lấy huyền bí phối với thị trường thì thấy kêu là "cõitâm linh" - thì chưa hẳn, cứ nhìn cách người nay kính cẩn ra sao trướcnhững chữ vuông khắp các di tích thì cũng hiểu.

Trong bối cảnh chính trị,người ta e ngại vài ba phụ lục bản đồ nhột nhạt gì đó lẫn trong một phần trămngàn mấy sách Trung văn rồi cấm lưu hành từ Thi kinh chú giải đến Sử ký hayTuyên Hòa họa phổ với Tề dân yếu thuật các thứ vân vân thì, nói hơi kỳ một chútnhưng dễ hiểu thì tình trạng này cũng giống như việc lỡ dính tí phân thằn lằnbèn chặt bỏ bàn tay vậy.

Ngày nay, tuy trên mạng cómuôn trùng sách báo Trung văn để đọc, vẫn có nhiều loại cần phải có bản sáchin, tạm gọi là nguồn để ghi thư mục tham khảo cho chắc cú. 

Nếu muốn vậy, một năm đôilần, cứ cầm độ hai ngàn đô qua Sing, giữa cái xứ đất đai chật hẹp này có mộtchỗ cỡ ba ngàn thước vuông bày sách đủ thứ ngôn ngữ do tập đoàn Kynokuniya ở xứhoa anh đào qua bày biện mần ăn, chìm đắm trong không gian này rồi về mới thấyrối bời khi vẩn vơ suy nghĩ về những khái niệm kinh tế với văn hóa, hỏng biếtmấy huynh đài Nhựt Bổn này làm ăn có lời hay không nữa.

Người Pháp chiếm Nam Kỳ,thấy phần đông trí thức Việt đọc Hán văn thạo hơn quốc ngữ abc nên sớm lập báochữ Hán, như tờ Gia Định báo (嘉定報) ra đời năm1862, Nam Kỳ lục tỉnh báo (南圻六省報/1872-1873), rồi mấy tờ còn thấy được như Bảo hộ Nam dân (保護南民/1888), Đại Nam Đồng Văn nhật báo (大南同文日報/1891) cùng nhiều tờ khác lần lượt xuất hiện. 

Việc dùng loại chữ vuônglàm công cụ truyền bá tư tưởng và kiến thức kéo dài đến những năm 1930, như tờnguyệt san đa ngữ Việt - Pháp - Hán lừng danh Nam Phong tạp chí (1917-1934).

Ở Chợ Lớn, báo do người Hoalập có thể lấy mốc năm 1925, là năm ra đời tờ Quần báo (群報), từ lúc này đến 50năm sau đó, khu vực Chợ Lớn rộn ràng báo chí với cỡ 50 tờ lớn nhỏ, các báo tuy theo từng giai đoạn có lập có tan, nhưng đến khoảng thập niên 1970 vẫn trụ vững những danh gia như Thành Công nhựt báo (成功日報), phát hành15.000 bản mỗi ngày. Viễn Đông nhựtbáo (遠東日報) phát hành 13.000 bản mỗi ngày; cùng với khoảng chục tờ khác đuanhau cất tiếng.

Một nghiên cứu từ TrungQuốc gần đây thống kê là tổng lượng phát hành các báo cỡ 90.000 bản mỗi ngàycho dân số 1,73 triệu người Hoa Nam Việt, ở thời điểm 1970. (Chu Nam Kinh chủbiên, Hoa kiều Hoa nhân bách khoa toàn thư, 1999).

Người Hoa sở dĩ đọc báo dữdằn đa phần là do báo đăng nhiều quảng cáo. Mỗi tờ báo đăng quảng cáo cỡ 2/3 sốtrang, khối buôn bán thì thượng xe hơi hạ dầu gió còn khối dịch vụ thì từ vétàu thủy phi cơ Sài Gòn - Hương Cảng - Tân Gia Ba cho đến cho thuê xe kéo haymời gọi đến hưởng thụ ở Ngọc Lan Đình tửu lầu đều có đủ trên báo, không khínhộn nhịp kiểu như chợ online ngày nay. Nói cho hình tượng thì sự rầm rộ báochí nó cũng tương ứng với sự nhộn nhịp tấp nập của hàng hóa sỉ và lẻ ở khu vựcChợ Lớn.

Ở một chiều kích khác,không đơn giản với tin nhanh và quảng cáo, cũng có những góc hẹp dành cho guđộc giả ưa tìm tòi theo kiểu giải trí sâu sâu, như tờ Viễn Đông hồi năm 1960bỗng nổi hứng cho in nhiều kỳ 3 quyển Tinh dã, Sơn xuyên và Cương vực của bộGia Định thành thông chí, suốt từ tháng 3 đến tháng 9, hầu để độc giả ngao duvới lịch sử địa lý Nam Kỳ hơn trăm năm trước.

Ở một cấp độ khác, nếunghiên cứu chuyện kinh doanh của người Hoa bài bản ra sao, có thể coi những sốTuần báo Kinh tế (經濟週報) của Việt Nam Trung Hoa Tổng Thương hội hồi những năm 1950. 

Tờ tuần báo Kinh tế hìnhnày thức và nội dung gần giống tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn gần đây, gồm cácchuyên mục: Chuyên luận về Kinh tế, Kinh tế Thế giới, Kinh tế Đông Dương, Tìnhhình thị trường Sài Gòn - Chợ Lớn (giá cả các loại), Pháp lệnh về kinh tế, Xãhội, Kiến thức kinh tế, Nhân vật thành đạt.

Trong những chuyên mụcthường xuyên nói trên, ngoài việc thông tin và tổng hợp hoặc phân tích tìnhhình kinh tế đương thời thì cũng thấy có vài khảo cứu công phu về lịch sử kinhtế, tiêu biểu như thiên khảo cứu "Việt Nam xã hội kinh tế phát triểnsử"

(南社會經濟發展史) đăng liên tục mấy chục sốtrong mục Kinh tế Đông Dương (từ số 10tháng 5-1951).

Ngoài ra, thỉnh thoảng còncó chuyên mục Sử liệu kinh tế, như số ra ngày 12-9-1951 có dịch bài "Chiêmtộc tản ký" (占族散記) của Đàm Long thân vương[Prince Damrong/ Phraya Damrong Rajanubhab 1862-1943], nói về tình hình người Chăm di cư đến Thái Lan qua chứng kiến của tác giả; và bản dịch bài Lịch sử quan hệ Trung Quốc -Sri Lanca (中國錫蘭交通史) của S.Durai Raja Singam.

Nhìn chung thì, qua báo chícủa người Hoa trong khoảng 50 năm ấy, với hình thức tổ chức và nội dung đăngtải, có thể hiểu được phần nào lý do vì sao cộng đồng này mạnh và luôn tiênphong trong lĩnh vực kinh tế, một tờ báo chuyên việc kinh thương có thể đăngquảng cáo cao đơn hoàn tán và cũng đầu tư để nghiên cứu sâu sát lịch sử kinh tếViệt Nam - địa bàn kinh doanh của họ - từ thời cổ đại cho đến hiện tại. 

Và báo chí Hoa văn thờinày, không chỉ phục vụ cho nhu cầu riêng người Hoa Chợ Lớn hay một số ngườiViệt địa bàn Sài Gòn, nó còn là một vật phẩm mang giá trị giao thương hầu khắpĐông Nam Á.

Sau năm 1975, tờ Giải Phóngnhựt báo (解放日報) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vốn hoạt động bí mật trước đây ở địa bàn Chợ Lớnchuyển mình thành tờ Sài GònGiải Phóng Hoa văn. 

Nói cho kỹ hơn thì tờ GiảiPhóng nhựt báo đến năm 1976 mới đổi tên là SGGP Hoa văn, trong một năm quá độnày, Giải Phóng nhựt báo đã tổ chức xuất bản thêm một số sách, tôi thời maythâu tàng được bản dịch Kim Vân Kiều sang Trung văn của Huỳnh Dật Cầu (黄軼球), với lời tựa của cụ Bùi Kỷ, bản dịch này vốn đã hoàn thành từ 1958, âu cũng là cơ duyên chữ vuông kết nối mà độc giả đồng văn biết thêm mộtgiai phẩm. 

Cụ Khổng biểu là "Dĩvăn hội hữu" (lấy văn kết bạn), Nguyễn Du sang Trung Quốc gặp được sángtác bạch thoại của Thanh Tâm Tài Nhân rồi về làm nên tuyệt phẩm thơ Nôm, rồihơn trăm năm sau thơ Nôm ấy lại được dịch ra Trung văn hiện đại, lần quần trongcái chữ vuông này mà các văn nhân nhiều đời gặp nhau như thể xuyên không hộihữu.

SGGP Hoa văn tiếp tục đápứng nhu cầu ham thích đọc báo của cộng đồng người Hoa, dù với nội dung nhiềuphần khác xưa thì cơ bản nó vẫn là món ăn tinh thần mà vài thế hệ người Hoa đãgắn bó, hơn nữa nó còn được xem là vật phẩm mang nét đặc trưng khó lẫn trongcộng đồng những dân tộc anh em. 

Trong tiến trình hội nhậpquốc tế, tờ báo này lại là kênh giao lưu văn hóa và kinh thương thuận lợi hơnnhiều báo tiếng Việt khi đối tác là doanh nghiệp đến từ lục địa Trung Quốc hayđảo Đài Loan.

Một bản dịch chớp nhoáng AIbây giờ có thể giúp công việc nhanh chóng, nhưng làm sao thay được đôi chânphóng viên luồn lách vào hẻm nhỏ kiếm mấy cụ già tìm ký ức xa xưa, nhiều lớpphóng viên người Hoa người Việt đào luyện tác nghiệp với sân tập này để cónhững bài viết Hoa văn hòa nhịp với cộng đồng Hoa ngữ rộng lớn - một phần trongcộng đồng các dân tộc Việt Nam, cũng là góp vào diện mạo đáng kể của một thànhphố năng động. 

·       Tags:

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 19, 2025 02:44

August 16, 2025

Nguyễn Huy Thiệp những ngày sau khi bị tai biến - trong mắt Dương Phương Vinh

 

Nguyên là bài viết của nhà báo Dương Phương Vinh

NGUYỄN HUY THIỆP: TRÁI TIM ẤY CÓ ĐỦ MÁU KHÔNG?

--

Thăm Nguyễn Huy Thiệp về, tôi gặp Bảo Ninh vàNguyễn Việt Hà. Nhà văn “Nỗi buồn chiến tranh” nói đi nói lại (như không chỉcho tôi và anh Hà nghe): “Các người làm gì thì làm, cả nước này chỉ có mộtNguyễn Huy Thiệp! Anh ấy là nhà văn tầm châu lục, không phải bệnh nhân bìnhthường. Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng có cuộc sống tốt hơn, tốt nhất".

-

“Tôi nom giống Hawkingchưa”

Qua điện thoại, giọng Nguyễn Huy Thiệp không yếu ớtgì cả thậm chí có phần phấn khích, cho nên tôi sững người khi tận thấy ôngtrong căn nhà quen thuộc ở xóm Cò (Khương Hạ).

Đó là cuối tháng 5. Đã nghe về bệnh tình Nguyễn HuyThiệp nhưng tôi chưa xem ảnh nào chụp ông trên giường bệnh. Biết tôi sắp đếnthăm, ông chủ động gọi điện: “Đến đi, nhiều chuyện để nói lắm”.

Và nhà văn hiện ra với thân hình tiều tụy, da rấtxám, tay chân như của ai, lòng khòng loèo khoèo co quắp. Mặt mũi cũng vậy, nhưlà ai ấy, và thần sắc kém.

 

Vẫn biết tai biến liệt nửa người là thế nào nhưngtôi nói thật với Nguyễn Huy Thiệp rằng không ngờ ông đến mức này. Hôm qua ngheđiện thoại tôi lại có cảm giác an lòng mới chết.

“Quan trọng nhất trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệplà đọc nó người ta mỉm cười hoặc phá lên cười. Nụ cười là dấu hiệu đầu tiêntrong phong cách đạo đức của một nhà văn. Văn học Việt Nam bao năm nay kể cảtrong chiến tranh cho đến Đổi Mới đều rất ít tiếng cười. Văn tôi may mắn luôngiữ được tiếng cười lý thú, hóm hỉnh. Khi nào không cười được nữa thì không cònNguyễn Huy Thiệp”

 

Bệnh nhân cũng chẳng buồn rào đón: “Cô trông tôi cógiống cái tay tìm ra hố đen không, cái tay về cuối đời chỉ còn mỗi hốc mắt ấy.Người chẳng ra người ngợm chẳng ra ngợm”. “Anh muốn nói Stephan Hawking đúngkhông”. “Đúng rồi. Người ta nói chỉ quỉ sứ mới tìm ra hố đen vũ trụ, thế mà taynày tìm ra. Những người lao động trí óc nặng quá thì khi bệnh tật càng khócoi”.

 

 

“Anh thấy trong người thế nào”? “Chỗ nào cũng têmỏi, đau nhức. Đầu óc nghĩ ngợi lung tung, lúc nào cũng như trong mộng”.

Tôi kể mình có người nhà cũng như ông, và sao bâygiờ lắm người bị bệnh này quật thế.

Nguyễn Huy Thiệp cắt nghĩa: “Ngày xưa có đạo hơn,con người sống giản dị nên ít bệnh. Bây giờ đuổi theo vật chất, vô đạo. Tôi làmột trong những ca điển hình. Mình phải trả giá”.

“Anh ơi, số phận cả thôi, trời kêu ai nấy dạ. Ởhiền mà chắc chắn gặp lành thì ai dám ác”.

“Đúng rồi, do số phận nữa. Nhưng xã hội đang suyđồi, con người tha hóa là chắc chắn. Ngày xưa sống thanh đạm, gần đạo hơn, nétmặt vô tâm thư giãn chứ không cố ý thư giãn”.

 

Chừng như thấy chưa đủ, ông lại tự bồi cho mình cúnữa: “Xem lại ảnh ngày xưa thấy mình lương thiện, tử tế hơn, gần đạo hơn. Bắtđầu có chút tiền, chút tên tuổi danh lợi là không được như trước nữa, các nétchất phác mất dần. Bà vợ nói trông tôi ác”. “Vâng em vẫn nhớ anh kể (trong cuộcra mắt tái bản tiểu luận Giăng lưới bắtchim) rằng vợ nói anh ác khẩu, anh còn giải thích là người viết văn có xuhướng nói quá lên”.

 

Cuộc đó, bốn năm trước, khi Nguyễn Huy Thiệp tựnhận ác khẩu thì Chu Văn Sơn (nhà phê bình, mất năm 2019)

đỡ lời: “Văn chương Nguyễn Huy Thiệp lắm lúc phũ,ác khẩu nhưng anh Thiệp “tâm Phật” và “lòng không đang”.

Giọng của “vua truyện ngắn Việt Nam” hôm nay nghevẫn ấm, khẩu khí may thay vẫn thế! Ưa kiến giải, suy tưởng, ức đoán, triết lý,hay lẩy lót thơ phú. Vẫn là người “căm thù sâu sắc những kết thúc truyền thống”(Trương Chi)…

 

Nhớ câu trong tiểu luận Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn mà chính chủ viếtnăm 1989, tôi đọc: “Mỗi người chỉ có một số kiếp, một cõi sống và điều đó làmcho lòng ta run lên vì căm giận”. Ông gật đầu: “Đang căm giận đây”. Và “Chánchường nhưng tôi vẫn rất khao khát sống”.

 

Về sự phũ, ác khẩu, tác giả Kiếm sắc kể tiếp: “Các vị thiền sư ngày xưa mở miệng là đánh làquát đấy chứ. Vì trong ác có thiện, trong thiện có ác. Mình cứ nghĩ mãi vì saohọ mở miệng là quát. Lòng họ cũng rối đấy. Sống đến tuổi 71, viết lách ngẫmnghĩ nhiều nên mình phần nào cảm thông với các vị thiền sư. Bản chất cuộc sốnglà giản dị thanh đạm, xa lánh cái ác, xa danh lợi nhưng trớ trêu thay, nhữngngười càng nghĩ nhiều về những điều đó thì càng bị giời đày vào tình huống phảichịu áp lực để giải quyết, và kết cục là thế này đây!”.

 

Người này vẫn mặn chuyện như mọi khi nhưng chốc lạiphải dừng vì sức khỏe không cho phép. Chị Trang vợ anh mà tôi biết 29 năm nay,ngồi trân trối nhìn hai chúng tôi từ đầu đến cuối chứ không lui cui bếp núc,dọn dẹp như mọi bận. Ánh mắt cũng không giống trước, không ra lo âu. Các connói chị bị trầm cảm, và mất ngủ kéo dài. Một phụ nữ khác ẩn hiện trong cănphòng tối om. Chị Trang cho biết đó là em gái chị, cũng bệnh nhân nặng.

 

Nhấp ngụm nước vợ đưa, Nguyễn Huy Thiệp hỏi thăm:“Nghe nói Phú Quang, Phó Đức Phương cũng đang khốn đốn vì bệnh tật, như tôi?”.

Bạn già Nguyễn Bảo Sinh cũng hay được Nguyễn HuyThiệp trích dẫn, hôm nay là câu thơ “Một khi đã biết điểm dừng/Nghĩa là đã quáđiểm dừng từ lâu”. Rồi triết lý: “Cuộc đời chúng ta, người nào đáo bỉ ngạn -tức là đến được bờ bên kia - bơi qua được vòng sinh lão bệnh tử, thì mới gọi làthành công. Còn nếu vẫn lấn cấn với bốn ngọn núi sinh lão bệnh tử thì sẽ thântàn ma dại như mình đây”.

“Họ phải nghệ sĩ hơn nữa”

 

“ Phải có tài mới biết chuyển

truyện của tôi  lên phim”.

Trên giường bệnh, ngoài chủ nhân nằm cũng khổ ngồicũng khổ thì có hai cuốn sách của ông và một cuốn của người khác nhưng ông nhìnbị nhầm.

Vợ ông nói “Ông ấy không đọc được chữ nào nữa đâu”.

Giơ sách lên, ông tâm tình: “Hai cuốn này của tôiđược dịch ra tiếng Thụy Điển. Ai theo văn chương mà chẳng mơ được giới thiệu ởđất nước của giải Nobel. Đây là vinh hạnh nhưng cũng gây nhiều khủng hoảng,nhiều mâu thuẫn cho tôi, khiến mình mơ mộng lẫn ảo tưởng”. Tôi trêu “Vậy baogiờ anh thôi ảo tưởng”. “Chắc chết”.

 

Tôi kể vừa xem lại phim Tướng về hưu làm năm 1988, thấy cho dù kịch bản Nguyễn Huy Thiệpviết chứ ai, diễn viên cũng có nghề hẳn hoi: Hoàng Cúc, Hoàng Dũng, Trần Hạnh,Đoàn Anh Thắng…, nhưng cả bộ phim là vỡ lòng điện ảnh. Nhà văn gật đầu: “Đúng rồi,xem thế nào được”.

 

Người có dăm bảy truyện lên màn ảnh kể: “La KhắcHòa (nhà phê bình- DPV) xem Ký sinh trùngphim đoạt giải Oscar, bảo tôi rằng thấy rất hay, thấy nhiều ý mà kịch ‘Nhà ô sin’ của Thiệp từng phát hiện ra.Nhưng Hàn Quốc có đạo diễn giỏi nên phim của họ ra được thế giới. Ở ta ngườilành nghề hiếm lắm, tôi rất muốn ai có tài chuyển Không có vua của mình lên phim mà khó”.

 

Lại nhớ kỷ niệm xem phim của Nguyễn Huy Thiệp mấychục năm trước. Ra khỏi phòng chiếu Hội Điện ảnh 51 Trần Hưng Đạo, họa sĩNguyễn Hồng Hưng bạn Nguyễn Huy Thiệp cười cười nhận xét Thương nhớ đồng quê (đạo diễn Đặng Nhật Minh) là “phim của bọnthành phố thương hại đồng quê”. Còn Nguyễn Huy Thiệp cũng cười ý nhị gọi Những người thợ xẻ (đạo diễn Vương Đức)là Vụ án những người thợ xẻ (ý nói bị hình sự hóa so với truyện).

 

Giờ này Nguyễn Huy Thiệp tỉnh queo “Em xem lại màxem, chả Vụ án những người thợ xẻ là gì. Thương nhớ đồng quê cũng đúng làthương hại đồng quê”. Và: “Ta về ta tắm ao ta, cho nên diễn viên, quay phim,những bộ phận lặt vặt thì nên là người Việt. Nhưng đạo diễn nếu không nướcngoài thì dù kịch bản Nguyễn Huy Thiệp cũng khó đi xa”.

 

Thương nhớđồng quê là truyện hay và rất khó viết. Tướngvề hưu thì “cập thời vũ”, hợp thời thôi, hợp với trình độ chính trị và vănhọc nước ta thời ấy. Sống dễ lắm, Mưa NhãNam, Cánh buồm nâu thuở ấy... làm phim mà không hay à. Sao người ta khôngtính chuyển thể những câu chuyện ngắn ngắn như vậy? Nó không tốn tiền quá,không mất nhiều công sức quá, mà lại có độ cảm động. Các đạo diễn muốn làm phimcủa tôi thì phải chú trọng tính nghệ sĩ trong con người quay phim, con ngườidiễn viên, con người tác giả, con người đạo diễn cơ! Tức là anh vừa đá bóngtrên sân của anh lại vừa là khán giả và nhà chỉ huy. Nếu diễn viên chỉ là diễnviên, quay phim chỉ là quay phim thì không đạt, tôi yêu cầu cao hơn thế!”.

 

“Cứ nghĩ sao mình cố thế màvẫn lâm bệnh”

Nguyễn Huy Thiệp ngã bệnh đã nhiều tháng, xôn xaovăn đàn. Trời giáng cú này kinh khủng quá. Nguyễn Việt Hà rất thân Nguyễn HuyThiệp, kể về lần đầu đến thăm ông anh nhập viện. Thấy Việt Hà, bệnh nhân nghẹnngào Anh thành phế nhân rồi Hà ơi, làm Việt Hà chỉ biết quay đi giấu giọt nướcmắt.

Hôm đến xóm Cò vừa thấy ông trong bộ dạng tuyệtvọng đó, tôi đã hoảng đến nỗi quăng bừa túi của mình lên một chỗ cao cao so vớisàn nhà, về sau mới biết là chiếc ghế đặc biệt dành cho bệnh nhân khi cần vệsinh cá nhân. Làm sao thao tác bình thường được nữa.

 

“Để ý thì rất nhiều dân chữ nghĩa mắc bệnh này (tai biến mạch máu não). Đó là bệnh của danh của lợi”- Nguyễn Huy Thiệp nói. Và trích dẫn thơ Ôn Như Hầu, về những thất vọng nội tâm sau một đời phấn đấu:

Mùi phú quí nhử làng xa mã

Bả vinh hoa lừa gã côngkhanh

Giấc Nam Kha khéo bất bình

Bừng con mắt dậy thấy mìnhtay không.

Hỏi người bệnh, khi mới bị hẳn ông sốc lắm? “Sốcchứ. Cứ nghĩ sao mình quyết tâm thế, cố gắng sống tử tế đến thế mà vẫn lâmbệnh. Có thể do kiếp trước tôi tu không ra gì chăng. Đuổi theo danh vọng đưalại cho tôi cả hay lẫn dở và thường thì hay ít dở nhiều”.

 

Giữa tháng 8 tôi gọi điện, nói tôi với Bảo Ninh định thăm nhưng chờ dịch dã yên yên tí đã. Họa sĩ Bách cho biết tinh thần của bố khá lên nhiều,và chịu khó tập đi hơn nên tiến bộ trông thấy. “Cô mà vào bây giờ thì bố cháusẽ làm tặng cô mấy chục câu thơ và đòi vẽ chân dung ngay, sẽ có chỗ giống chỗkhông. Bố cháu dạo này hàng ngày ngồi trên giường lấy bìa giấy làm thơ và vẽchân dung mọi người”- Bách cười bảo. Bệnh nhân Thiệp đế vào: “Làm thơ và vẽ đểcòn in vào tập di cảo!”.

 

“Ước không có giông bão lọtvào đấy”

Năm 1991 dò dẫm vào nghề, tôi được đồng nghiệp XuânBa dẫn đến ngôi nhà đặc biệt này, sâu tít trong làng, đường sá vô cùng ngoắtngoéo mà tận bây giờ dù tới lui bao lần, tôi vẫn không tài nào nhớ nổi.

Về sau Nguyễn Huy Thiệp vui lòng làm cộng tác viêncủa tôi, gửi những truyện ngắn khiến chúng tôi thật hỉ hả mỗi khi đặt họa sĩminh họa: Chuyện tình kể trong đêm mưa,Cánh buồm nâu thuở ấy, Đưa sáo sang sông, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt,Chuyện ông Móng…

Đầu những năm 2000, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn ViệtHà chéo tay viết mục Tạp văn cho báo. “Chéo tay” nghĩa là hai anh em thay nhauviết. Bút danh Dương Thị Nhã, dân trong giới bảo: Đọc nửa câu là nhận ra NguyễnHuy Thiệp. Những tạp văn và truyện ngắn đó thực sự khiến trang văn nghệ của bảnbáo sinh sắc sang trọng hẳn lên.

Nguyễn Phan Bách- cậu cả, hay được bố cử đến lấynhuận bút. Mình mừng vì mời được “người sang của nước”, thế mà về sau tôi ngheViện phó Viện Sân khấu Nguyễn Văn Thành- con rể nhà thơ Lưu Trọng Lư kể lại:hồi xưa có lúc nghe Thiệp nói “Vinh báo Tiền Phong lại đặt truyện Tết, thế làTết này có món nhuận bút khá rồi”. Nghe ông Thành thuật lại như thế thì nhớmình từng hơn một lần đanh đá “đấu tranh” nhuận bút cho các đại danh Nguyễn HuyThiệp, Bảo Ninh…

Không huỵch toẹt trắng phớ không phải Nguyễn HuyThiệp, và bạn phải quen thôi! Chẳng hạn hồi tôi mới về báo vài năm chứ mấy, là“ôn con”, ngoan ngoãn nghe ông cộng tác viên xịn này chỉ dạy (nhưng nước đổ lámôn thôi): “Em bị không khí gia đình của cái báo ấy làm hỏng, nhé! Em phảikhông ngừng phản bội họ đi, phải đổi dòng liên tục thì nước mới trong được!”.

Nhớ lần ba, bốn người chúng tôi lên thăm trang trạicủa họa sĩ Lưu Công Nhân ở Tam Đảo. Xe dừng ở Việt Trì, Nguyễn Huy Thiệp trầmgiọng- một chất giọng rất Hà Nội, đọc câu thơ Hữu Thỉnh: Chiều trung du đến chậm/Như thư của người thân, nghe sao mà hợpcảnh. Cả bàn về ca từ Trịnh Công Sơn nữa, những câu mà ông cho là tuyệt: Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè; Tình yêunhư trái phá, con tim mù lòa… Và sôi nổi đọc thơ Tagore, thơ Neruda... Tôihiểu Nguyễn Huy Thiệp rất yêu thơ. Vừa hôm trước biết tôi chuẩn bị đến thăm,qua điện thoại ông nói không nghĩ tôi lại để ý mà trích dẫn thơ ông (in trongtruyện Mưa Nhã Nam): “Trái tim ấy có rộnglượng không/Có đủ chỗ cho mày ngụ không/ Trái tim ấy có đủ máu không/Ước khôngcó giông bão lọt vào đấy…”.

Hôm nay, ông Mưa Nhã Nam ủ ê: “Trái tim này khôngđủ máu rồi. Dù sao, ước không có giông bão lọt vào đấy, nhỉ. Lắm lúc thật xấuhổ về tình cảnh mình. Cô nói đúng đấy, Nguyễn Huy Thiệp kiêu bạc đã quen”.

Ngồi được một chặp, bệnh nhân đành nằm tiếp chuyện.Rồi lại khó nhọc ngồi dậy khi vợ mang bát cơm với giá xào, xúc từng thìa đưalên miệng chồng nhưng ông rất khó nuốt trọn, cứ lẩy bẩy mãi.

“Ước không có giông bão lọt vào đấy”. Vâng, giônggió đến thế thì thôi. Còn Bảo Ninh nói thế này, thì biết làm thế nào đây: “Đókhông phải bệnh nhân bình thường. Đó là Nguyễn Huy Thiệp. Các người làm gì thìlàm”.

 

Kỷ niệm nhỏ ở xóm Cò

Văn giới, nhiều người nói Nguyễn Huy Thiệp và BảoNinh chả hoạt khẩu gì cả, riêng Nguyễn Huy Thiệp có lúc còn nói lắp. Nhưng biếthai người nhiều năm nay, tôi thấy họ luôn nói năng có hương có nhụy dù khônghẳn lúc nào tôi cũng đồng tình với quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp

Người nổi tiếng nhất văn đàn hơn ba chục năm quacho rằng “nhà văn nên sống trung dung dù khó, đừng tả quá hữu quá, phải khôngthừa không thiếu, đặc biệt không nên quá khích. Sống trung dung để đáo bỉ ngạn,đi đến đích của cuộc sống”.

Ngẫm cảnh buồn bây giờ lại nhớ lần vui nọ- cùng ĐỗHoàng Diệu (ở Mỹ về) thăm vợ chồng ông. Ông lôi đám gốm ra rủ con gái tôi vẽ.Con muốn vẽ gì thì vẽ, còn bác vẽ cháu. Ngồi chuyện với vợ ông và Diệu, tôithỉnh thoảng ngó hai bác cháu mà cảm động. Hai “họa sĩ” đều vô cùng tập trung. NguyễnHuy Thiệp lúc ấy nom vừa nghệ sĩ vừa ấm áp.

 

Hôm đó thấy con tôi có lúc tha thẩn chơi với mấy con gà mới nở vàng óng, bà chủ Trang bắt nó mang một con về nuôi.Con tôi thích lắm, ôm về hì hục chăm bẵm, vừa học bài vừa hí hoáy ký họa cụcbông mà nó đặt tên là Chiếp-“con bé Chiếp” vì suốt ngày chiêm chiếp chiêmchiếp.

Là trẻ con ở phố, biết gì về gà qué đâu nên nhàchăn nuôi này có hôm thấy Chiếp không được sạch sẽ bèn lôi ra tắm táp kỳ cọ -việc tối kỵ với gà. Thế rồi một sáng tỉnh dậy hốt hoảng không thấy đâu, hóa rađêm qua gà con đã tự chui khỏi cái lồng úp, bay từ tầng 6 xuống. Con tôi khócmãi, sau đó hai chúng tôi cứ lờ đi, không dám kể về con bé Chiếp với bác Trang,cho đến lúc buộc phải nói thật.

Cảnh đó người đây nhưng nay đà khác xưa. Biết làmsao được, đời là thế…

 

Bài viết củaNhà báo Dương Phương Vinh đăng trên báo Tiền Phong ngày 2/9/2020.Văn bản trênlà dẫn theo Fb Mậu Nguyễn Đức 13-8-25

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 16, 2025 18:29

August 13, 2025

Những người tài đi hết, rồi ta sẽ sống với ai?

Bài viết sau đây lần đầu được đưa trên blog này của tôi ngày 12/03/2018 với tên " Thế nào thì được gọi là người tài?"xin xem  tại đường link:

https://vuongtrinhan.blogspot.com/201...

Tới 11/08/2023, bài lại được đưa trên facebook:

https://www.facebook.com/share/p/1ECV...

Hôm nay một lần nữa, tôi xin đưa lại bài viết trên fb kèm theo một số comment của các bạn xa gần (khi đưa lại, các cmt này đã được tôi khôi phục đầy đủ mọi chữ viết tắt và đôi khi chỉnh sửa câu chữ cho đúng ngữ pháp, nhưng bảo đảm là vẫn giữ trọn tinh thần của nguyên bản). 

-----

Lớp 10C Chu Văn An bọn tôi khóa 1958-1961 có bạnPhạm Đình Tuấn. Tuấn thông minh, nhưng thường điểm các môn không cao lắm, nênkhông được coi là học sinh giỏi. Tôi chỉ bái phục Tuấn khi được biết rằng hồiấy anh đã đọc được “Thủy hử” trong nguyên văn bằng chữ Hán.

Hết lớp mười (lớp 12 hiện nay)Tuấn thi vào đại học hàng hải, những mong theo tàu viễn dương đi khắp thế giới.Cái lý lịch là dân Hà Nội cũ đã làm hại anh. Người ta sợ những người như anh điđây đi đó rồi sẽ bỏ ra nước ngoài. Anh phải chuyển về nông lâm khoa nuôi cánước ngọt và học xong được điều lên Sơn La.

Bạn bè ai cũng nghĩ chắc anh bị quên giữa núi rừngmịt mùng tức đã lẫn vào đám công chức xã hội chủ nghĩa tỉnh lẻ ở miền Bắc. Cáiđiều lo lắng đó của chúng tôi được coi là sai khi biết sau 1975 được tin Tuấn bỏSơn La vào Sài Gòn tính chuyện làm ăn, rồi nhanh chóng vượt biên.

Thật tôi không hiểu tại sao mà trong những ngày ởSơn La anh còn làm được hai việc rất khó khăn là tiếp tục học thêm về nuôitrồng thủy sản và nhất là học được tiếng Anh đến mức khi đi di tản sang Mỹ nhậpngay được vào xã hội đó, như một người lao động giỏi giang. Làm sao lại khôngkinh ngạc khi biết về hưu của anh lên tới 4.000USD.

Tôi không có điều kiện gặp anh từ 1961, chỉ biếtqua lời kể của các bạn Nguyễn Nghĩa Bùi Hồng, nên không biết có gì sai trongcác chi tiết vừa kể.

Nhưng tôi chắc rằng về căn bản Phạm Đình Tuấn củatôi là người Hà Nội sau 1954 không bị cách giáo dục của xã hội làm cho tầmthường đi và nhất là không bị cuộc chiến tranh 1965- 75 làm hỏng. Tôi muốn coianh người bạn nay đã qua đời này là một công dân Hà Nội tiêu biểu. Tại sao?

Ở đây không chắc các bạn xa gần đồng ý với tôi,nhưng tôi có cái chuẩn mực riêng của mình.

Theo tôi, cái tinh thần chính mà người Hà Nội“trong thời Pháp thuộc” đã học hỏi được -- đúng hơn là cái thời mà các công dânđô thị đã được nền văn hóa phương Tây do người Pháp đưa vào hướng dẫn -- đó làtinh thần hướng ra thế giới và ở đâu cũng tự rèn cho mình cái khả năng gia nhậpvào xã hội hiện đại.

Những người như thế hiện nay đang là thiểu số. Cònđa số chúng ta thì khác. Lớp người thuộc lứa tuổi tôi đa số thích ứng với chiếntranh và nay đang sống rất khó khăn trong cái thời mà xã hội cần phát triển.

Nhìn từng người thì có người nọ người kia và taphải buộc lòng mà chấp nhận vậy. Nhưng xét chung cả cộng đồng thì sao? Chúng taloay hoay mang chút uy tín có được trong chiến tranh ra làm bảo đảm để đi vaymượn rồi cùng với chút tài nguyên ông cha để lại bán đi để tiêu xài.

Đáng lẽ chúng ta phải để cho những người đã có sựchuẩn bị cho hội nhập và phát triển như Tuấn hướng dẫn xã hội này thì chúng talại để cho họ bỏ ra nước ngoài. Và đó là nguyên nhân lớn nhất khiến tôi tinrằng chúng ta sẽ còn tụt lùi nữa.

 

Một số comment đưa sau trang fb ngày 11/08/2023

 

Dang Cuong Nguyen

Người tài ở trong nước cũngchả có được việc làm.

 

Đinh Hữu Trường

Người đi, để lại ta với ai!

 

Nguyen Duy Quang

Đinh Hữu Trường Nguoi tài thì đã vượtbiên / Những ai còn lại vừa điên vừa khùng.

 

Laooquy Lạc Hoa Phi

Nguyen Duy Quang hahahuhu vừa phải thui ,ai lại huỵch tẹc thẳng thừng thế . Đúng câu cười ra nước mắt ... hahahuhu

 

Bottomof Form

Ha Hai

Chẳng cứ tài ba như các nhânvật bác kể. Là người lương thiện và có chút tri thức đều muốn con mình ra điđến một quốc gia dân chủ văn minh tiến bộ bác ạ.

 

Trần Nguyên Phong

Báo chí chính thống cũng đangcổ vũ cho việc ra đi của dân ta đấy ạ!

 

Hồ Lê Bảo

Chưa có giai đoạn lịch sử nàongười Việt Nam muốn bỏ nước rađi nhiều từ sau 1975 đến nay. Có rất nhiều nguyên nhân: chính trị, kinh tế…nhưng tựu trung lại họ muốn thoát ra khỏi nơi mà họ chôn nhau cắt rốn để tìmcuộc sống khá giả hơn, tự do hơn.

Lớp trẻ hiện nay đi rahải ngoại học tập để tiếp thu cái văn minh, hiện đại, tiến bộ…rất nhiều nhưngrất tiếc hầu hết các cháu không muốn về để phục vụ quê hương đất nước. Rất tiếc…và cứ hỏi vì sao???

 

Minh Phong

Sâu sắc và thật nhiều nỗiniềm...

 

Trần Đức Trung

Người tài ca

Những người tài lại hay có tật

Lại vô tư vô ý giống trẻ con

Vua cởi truồng cứ bô bô chỉtrỏ

Rồi lại hay hỏi lắm, khó trảlời

Thôi xéo hết đi làm công dânnước khác

Để cho người ở lại được bìnhan

Chữ hồng đánh chết chữ chuyên

Này thì tài lắm cho phiền lòngnhau

 

Kim Cúc Ngô Thị

Cái tệ hại nhứt của nền vănhoá/giáo dục hủ lậu là tiêu diệt khả năng thích ứng và hội nhập của người dân vớithế giới văn minh. Tội ác lớn nhất từ sự ngu dân.

 

Bottomof Form

Dung Nguyenviet

Tui nhớ trước 75 trong miềnNam, có đi viễn xứ, đi du học ... ai ai rồi cũng muốn quay về quê hương. Một sựđổi thay ... buồn.

 

Dao Thu

Đau lắm, nhưng mảnh đất nàykhông dung dưỡng người tài chú ạ.

 

Hoa Thúy

Ôi, bài viết chuẩn lắm. Giáodục phương Tây thời Pháp dạy con người giỏi toàn diện, tự tin. Em thấy đặc điểmấy ở bố em.

 

Hoa Lan

Ra đi; như một mệnh lệnh thôithúc những người có chút khả năng. Buồn!

Ở Mỹ, các xứ khác không biết, khivào các cơ quan chính phủ đôi khi gặp những cụ chống gậy lộm khộm làm việc, họlà chuyên gia.

 

Laooquy Lạc Hoa Phi

Luu Hongluu Đó chỉ là lương hưu .người giỏi lương làm việc lương tháng , lương năm của họ hơn nhìu , hong tínhngàn mà hằng chục chứ lỵ .

 

Bottomof Form

Giang Nguyen

Nếu đã học và bắt đầu làm việcở một nước thuộc nhóm G7 thì câu chuyện về VN để sống, làm việc, phục vụ xã hội sẽ khá đau đầu các bác ạ.Những người còn rành tiếng Việt hẳn sẽ đi đi về về chứ bảo bỏ hết, đưa cả giađình về Việt Nam sống chắc rấtkhó. Bỏ sang một bên cảm xúc này, tình tự kia, thì chúng em luôn phải nghĩđể trẻ con đi học bên này (trường hợp nhà em là Anh Quốc), và các cháu đượchưởng dịch vụ y tế miễn phí 100%, từ thuốc ghẻ tới phẫu thuật phức tạp cho đến18 tuổi. Khi chúng nó lên đại học thì tất nhiên là theo hệ thống bên này. Các trườngở tầm cao nhất thế giới, không nên so với giáo dục đại học ở Việt Nam làm gì vì quáchênh lệch, nói là cách một vài thế kỷ cũng ko sai. Ví dụ cậu con em vào khoaHoá đại học UCL London, coitrang web của họ mới rõ chỉ khoa đã có 6 giải Nobel. Cả trường đó có 29 giải Nobel chocác nhà khoa học, thấp hơn đại học Oxford(69)…nhưng cũng là cao trên thế giới rồi. Cháu gái thì vào Nottingham Uni,trường trong top20 nên “chỉ có hai giải Nobel”. Nhưng để ý cách cô con gái họcLuật em mới thấy sinh viên không phải chỉ đọc sách như ở Việt Nam mà có rất nhiềuthảo luận, nghe các nhân vật làm những ngành liên quan nói chuyện, trực tiếphoặc qua mạng, ví dụ như Phó Tổng thư ký LHQ, như cựu Chủ tịch Uỷ ban châu Âu…Cácbạn sinh viên Luật năm thứ nhất nhưng đã dự nhóm luật sư Mỹ bào chữa chocác tử tù ở Texas. Ngồi ở Anh nhưng giúp soạn hồ sơ, tìm bằng chứng kháng cáo rồithảo luận với các luật sư bên Mỹ. Nhưng cách học/dạy như thế ở Việt Nam có lẽ chưa có hoặc có ở một số nơi nhưng còn rất ít. Chia sẻ để bácVương Trí Nhàn và các bác biết câu chuyện nhìn từ 1-2 thế hệ sau.


 

Bottomof Form

Lê Quang Lãm

Đọc bài này thấy buồn day dứt!

 

Thành Đoàn

Ở lại hay về cũng là câu hỏicủa cháu khi có cơ hội định cư ở lại Anh Quốc. Cuối cùng cháu rất happy khi ởlại vì

- con cái mình và cả mình luônđược hưởng những điều tốt đẹp về y tế, giáo dục, văn hoá xã hội. Cách giáo dụccủa họ rất hay, giúp phát triển hết khả năng của đứa trẻ

- môi trường sống sạch đẹp,văn minh, con người có học văn minh lịch sự

- có công việc tốt, ổn định,môi trường làm việc tốt, đồng nghiệp tốt, không phải lo đi nhậu nhẹt quan hệnày nọ. Về VN chắc gì đã kiếm được việc như này, mà có kiếm đc thì làm vất vảlắm, chưa kể môi trường làm việc thì khó so với bên này

- chính phủ về cơ bản là tốt,không phải bức xúc quá nhiều, chế độ dân chủ, thôi cái này khỏi bàn, nhưngriêng việc ko phải bức xúc và đau đầu với chính phủ cũng giúp mình sống happyhơn

- ở UK là ngoan hơn, hết việcthì về nhà lo vợ con, đi tập thể thao, cuối tuần đi chơi, thi thoảng mới tụ tậpbạn bè chứ ko phải suốt ngày bù khú nhậu nhẹt như ở VN

- đi du lịch dễ vì ko cần visanếu có quốc tịch Anh

tất nhiên ko giàu như nhiềungười ở VN [image error] nhưng giàu cũng có đểlàm gì đâu khi mà có những giá trị khác không mua được bằng tiền, chưa kể phảikhổ sở để kiếm tiền, là một Phật tử cháu được dạy và suy nghĩ rằng thấy đủ làhạnh phúc. chưa kể giờ công nghệ phát triển, gọi về hàng ngày rất dễ. Quantrọng hơn, với cháu, nơi nào cho ta một cuộc sống hạnh phúc thì nơi đó là quêhương, và mình biết ơn điều đó

p/s: tự nhận là người tài thìcháu không dám ạ, thực sự rất nhiều anh chị giỏi bên này, cháu chỉ may mắn đượcở lại

 

Laooquy Lạc Hoa Phi

Tôi hiểu ý tác giả như saukhông biết có đúng không. Nỗi buồn không nằm ở chỗ RA ĐI hay Ở LẠI hoặc TRỞ VỀ. Cái TÀI của mọi người không được phép giúp cho VN trở nênhay hóa Rồng. Trong khi nhìn ra thế giới người ta dù thế nào đều đã hóa RỒNG thực sự.

 

Minh Võ

Đau xót lắm! Cải cách ruộng đất đã giết mấtnhiều người tài, đa số những người đức tài còn lại và lớp kế thừa của họ bị vô hiệu hoáhoá hoàn toàn bằng chủ nghĩa lý lịch, thanh lọc triệt để để xây dựng một độingũ cán bộ lãnh đạo như ngày hôm nay.Bottomof Form

 

Ductien Tran

Tôi có nhiều người bạn bè làcán bộ hưu trí, từng là lảnh đạo cấp sở, huyện..không bao giờ chuyện trò về thờisự_ xã hội. Họ sợ phải đề cập đến chuyện ấy..và hình như họ tâm nguyện một điều: mọi việc đã có đảng lo.

 

Phạm Huy Định

Tôi là lính thời chiến tranh với Mỹ, khi học xong lớp mười. Có tính cương trực theo giencha mẹ, đã cãi lệnh của tiểu đoàn trưởng về vụ phân công công tác, rồi qua đại học đi làm công ty nhà nước cũngcự cãi với giám đốc côngty, nhưng tôi lạichưa nghĩ ra là theo bác tìm đường cứu nhà, bây giờ già rồi có muốn nhưng lại “lực bất tòng tâm” huhu

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 13, 2025 21:27

August 8, 2025

Từ lịch sử các báo quán từng làm nên phố "Hàng Báo", hiểu thêm lịch sử báo chí Việt Nam thời hiện đại

         

 

Nguyên là bài Một di sản phố "Hàng Báo" của Hà thành của NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ đưa trên Tuổi trẻ cuốituần 21/06/2025

 

Nguồn

https://cuoituan.tuoitre.vn/mot-di-sa...


 

·       TTCT - Từ những tờ báo vànhà in ở khu vực Hàng Bông - Hàng Gai, các trí thức Việt Nam đã hình thành nênmột hệ sinh thái tri thức quan trọng, lan tỏa nhiều giá trị văn hóa cho xã hội.


Nửa đầu thế kỷ 20, Hà Nội đã có cả một tuyến phố hội tụ nhiều tòa báo, nhà in và thư quán làm nên sinh khí cho cuộc hiệnđại hóa tư tưởng người Việt, tiếp sức cho tinh thần ham học và đón nhận trithức trong quảng đại quần chúng. 

Nhiều thế hệ tân học đãkhao khát tìm đến để gửi gắm những sản phẩm chữ nghĩa, để rồi gây dựng cho mìnhthành tên tuổi của nền tư tưởng và văn chương Việt Nam hiện đại. Đó là trục phố Hàng Bông -Hàng Gai, ở rìa nam khu phố cổ, nối khu vực bắc hồ Gươm với cửa Nam thành HàNội, chỉ dài chưa đầy một cây số.

 

Từ phố inkhắc đến báo quán "thực tự do"

Đoạn đầu Hàng Bông giáp CửaNam từng có Quảng Văn Đình do Lê Thánh Tông lập ra. Đây được xem là nơi đăngcông báo đầu tiên thời trung đại, cũng gần trạm dịch chuyển thông tin Hà Trungthời Nguyễn (dấu vết là các phố Hà Trung và Ngõ Trạm). Phố Hàng Bông với các đoạnnối tiếp nhau Hàng Bông Lờ, Hàng Hài, Hàng Bông Đệm mất dần nghề nhuộm, làmhài, bật bông, nối tiếp với Hàng Gai đã mất nghề làm dây đai thừng mà trở thànhtuyến phố nghề in khắc ván.

Khi người Pháp chiếm HàNội, tòa Công sứ đầu tiên đặt ở 80-82 Hàng Gai, dinh Kinh lược sứ đóng ở số 83đối diện, kề cận dãy phố nhiều nhà in sách mộc bản truyền thống của người Việtở phố Hàng Gai.  

Phố Hàng Gai có một loạtnhà in mộc bản như Quan Văn Đường, Phú Văn Đường, Tụ Văn Đường, Cẩm Văn Đường,Liễu Văn Đường,… là nơi đã cho ra đời những bản khắc chữ Nôm Truyện Kiều sớmnhất còn lại ngày nay. Vì vậy đây có thể là nhữnglý do để nhà in đầu tiên theo kiểu Tây do chính phủ bảo hộ lập ở Hà Nội đặt ởphố Hàng Bông, "trong một ngôi chùa", vào tháng 11-1883, chưa đầy 3tháng sau khi Hòa ước Quý Mùi được ký, triều Nguyễn nhượng Hà Nội choPháp.  

Ngoài công việc in ấn giấytờ hành chính, nhà in này in tờ công báo. Điều này cho thấy tầm quan trọng củangành in ấn và báo chí từ khi công cuộc thực dân hóa còn chưa thực sự bắt đầu ởđất Bắc. 

Một năm sau, tờ báo tiếngPháp đầu tiên là Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) ra ngày 13-12-1884, trị sựngay bên hồ Gươm, số 114 Jules Ferry (trước là Hàng Trống, 44 Lê Thái Tổ hiệnnay). 

Năm 1884, "các thôngtín viên của tờ Thời Báo (Le Temps) và hãng thông tấn Havas (Agence Havas, tiềnthân của AFP) phải ở trong một ngôi chùa ven bờ hồ, còn Paul Bonnetain, thông tínviên của tờ Figaro ở bờ bên kia. Để thăm nhau, các nhà báo phải qua hồ bằngthuyền" (André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Lưu Đình Tuân dịch, NXBHà Nội 2009). 

Đã có một vài "địachí" báo chí của Hà Nội, chẳng hạn Hà Nội chỉ nam (1923) của Nguyễn BáChính, quản lý của tờ báo Công giáo Trung Hòa nhật báo, liệt kê các báo, nhà invà cửa hàng bán sách vở ở Hà thành kèm theo địa chỉ và cả số điện thoại, cungcấp một hình dung sơ bộ về hệ sinh thái chữ nghĩa đất Hà thành.

 

Vũ Ngọc Phan, một ngườitừng làm trị sự một tờ báo quan trọng là Hà Nội Tân Văn, đã nhấn mạnh sự quantrọng của những tờ báo, nhà xuất bản ở Hà Nội: "Ông viết những sách, nhữngbáo chỉ lưu hành quanh quẩn trong một vài tỉnh xa lắc mà Hà Nội không biết đến,tôi đố ông có thể trở nên một nhà văn hay nhà báo có tên tuổi trên văn đàn haytrong báo giới Việt Nam" ("Báo chí và văn chương của Hà Nội",viết năm 1940, in trong Chuyện Hà Nội, 1944).

 Bộ sách quan trọng Nhà vănViệt Nam hiện đại (1942-1945) của Vũ Ngọc Phan đã được in ở nhà in Tân Dân trênphố Hàng Bông.

Người đầu tiên biến phốHàng Bông thành phần nối dài thịnh vượng của phố in khắc ván Hàng Gai là F. H.Schneider.

Năm 1887, ông đã lập ra nhàin của mình tại số 49-51 phố Hàng Bông, trên cơ sở mua lại các thiết bị in ấncủa nhà in nhà nước thuộc địa. Đây chính là mốc sẽ quy tụ những nhà in và tòabáo trên tuyến phố Hàng Bông - Hàng Gai, làm thành một trung tâm sớm nhất củabáo chí quốc ngữ Hà Nội.  

Tại đây ông đã in tờ quanbáo chữ Hán Đại Nam Đồng Văn nhật báo của triều đình, ra đời năm 1891. Đến số793 ra ngày 28-3-1907, tờ này đổi thành tờ báo song ngữ Việt - Hán là Đăng CổTùng Báo (Khêu đèn gióng trống), in tại nhà in của Schneider, do Nguyễn VănVĩnh chủ trương phần tiếng Việt: "Chánh phủ nước Đại Pháp cũng đã biếtrằng dân An Nam đã qua thuở âm a rồi, cho nên bây giờ đặt ra báo quán tự do.Trước kia là quan báo, nay đổi ra một trường nhật báo thực tự do"(Schneider, dẫn theo Phan Trần Chúc, Lịch sử nghề báo Bắc Kỳ, 1936). 

Trước đó đã có tờ báo đầutiên in quốc ngữ và chữ Hán ở Hà Nội là Đại Việt Tân Báo do Alfred-Ernest Babutxuất bản số đầu ngày 7-5-1905 ở 90 Hàng Mã Nam (nay là Mã Mây), có sự tham giacủa Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ và sau là Phan Chu Trinh. Tờ báo này tồn tại được3 năm thì đình bản.

Đăng Cổ Tùng Báo dù tự gọilà nhật báo nhưng thực chất là tuần báo, có nhiều bài khẩu khí phản biện khásắc sảo do Nguyễn Văn Vĩnh viết. 

Báo chỉ tồn tại 8 tháng, rađược 33 số. Nguyễn Văn Vĩnh tiếp tục con đường báo chí tạo ra được ảnh hưởng xãhội to lớn. Ông gắn bó với hệ thống cáctờ báo in tại nhà in của F. H. Schneider, đảm nhiệm chủ bút cho các tờ báo từhệ sinh thái này.

Rẽ nhánhtừ cây Trung Bắc tân văn

Năm 1913, Schneider xuấtbản tờ Đông Dương Tạp Chí và 2 năm sau ra tờ Trung Bắc Tân Văn, đều ghi đậm dấuấn văn bút của Nguyễn Văn Vĩnh. Chính ông đã mua lại nhà in vào năm 1918 và tờTrung Bắc Tân Văn một năm sau đó trước khi Schneider trở về Pháp (năm 1923). Nhà in và báo quán nàychuyển về số nhà 61-63 cùng phố Hàng Bông, qua vài lần thay đổi đã trở thànhnơi in hai tờ báo Trung Bắc Tân Văn và Hà Thành Ngọ Báo (thường gọi là Ngọ báo,ra số đầu ngày 2-5-1927), cũng là những tờ báo phổ thông nhất lúc bấygiờ.  

Sau khi Nguyễn Văn Vĩnh phásản (1931) và mất ở Lào (1936), các cơ sở của Trung Bắc chia cho bốn chủ sở hữukhác nhau:

36 Henri d'Orléans (PhùngHưng, sau là nhà in Tiến Bộ, tiếp tục in Trung Bắc Tân Văn), 107 Hàng Buồm vàmột cơ sở sau này thuộc nhà in Ngô Tử Hạ.

Tờ Ngọ báo chuyển ban biêntập lẫn xưởng in về các địa chỉ khác, thay đổi tùy giai đoạn nhưng đều không xaHàng Bông.

"Hệ sinh thái TrungBắc" đã tạo nên sự sôi động của khu vực Hàng Bông - Hàng Gai, quy tụ nhiềutên tuổi lớn của báo chí quốc ngữ hai thập niên 1920 và 1930.

 

Trên phố Hàng Gai là trụ sởcác tờ Khai Hóa Nhật Báo, Nam Phong (đều tòa soạn ở 80-82 Hàng Gai), Hữu Thanh(59 Hàng Gai), Thực Nghiệp Dân Báo (43Hàng Dầu, sau về 83 Hàng Gai rồi 42 Phùng Hưng), cùng các nhà in và cửa hàngsách vở, các thiết chế liên quan chặt chẽ trong khâu in ấn và phát hành.

Ngoài nhà in Trung Bắc TânVăn, các nhà in chạy suốt ngày đêm dọc phố Hàng Gai - Hàng Bông như Đông Kinhấn quán của Lê Văn Phúc (80-82 Hàng Gai, sau chuyển về 14-16 Hàng Bông), Ngô TửHạ (101 Hàng Gai và 24 Lý Quốc Sư), Nghiêm Hàm ấn quán (58 Hàng Bông),  Mạc Đình Tư – Lê Văn Tân (136 Hàng Bông). Xahơn một chút là Trung Hòa Nhật Báo (15, sau về 33 Nhà Chung). 

Và phải kể tới các hiệusách

Cẩm Văn Đường (11 HàngBông),

 Nhật Nam thư quán (26 Hàng Bông),

Tản Đà thư điếm (58 HàngBông, thập niên 1920), Thụy Ký (98 Hàng Gai),

Cát Thành (3, chuyển về 40Hàng Gai),

Văn Minh (86, sau chuyển về103 Hàng Bông), Văn Hương (63 Hàng Gai), Văn Hưng thư quán (59 Hàng Gai), gầncận có Đông Mỹ (43 Hàng Trống), cũng là địa chỉ đặt nhà in của Thụy Ký. 

Cuốn hồi ký nổi tiếng củaVũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, cung cấp thông tin về những tòa soạn trênđất Hà Nội mấy thập niên sôi động. 

Ông cho biết ba tờ hằngngày Thực Nghiệp, Trung Bắc và Khai Hóa bán nhiều nhất, song tờ Ngọ báo ra muộnhơn, với sự đổi mới về văn phong của Hoàng Tích Chu "làm được một phát rấttrì là làm sôi động cả ngành báo chí, đem lại cho tờ báo một bộ mặt mới, mộthơi thở mới, một sinh lực mới. Ngọ báo một xu bán chạy không chêđược", và khi Hoàng Tích Chu ra tờ Đông Tây, "tôi không thể tả đượcsự khâm phục của tôi lúc thấy ở các bức tường đầu Hàng Trống, Hàng Bông dánnhững bức quảng cáo to bằng cái chiếu vẽ một ông quỳ xuống đội quả địa cầu ởtrên vai. Mới quá, cao cấp quá!" ("Nghề báo đưa người ta đến bất cứđâu", "Phong trào Đông Tây") Hoàng Tích Chu đã mời VũBằng đến tòa báo ở 12 Nhà Thờ. Đây chính là tờ báo đã đăng truyện ngắn đầu tiêncủa cậu học trò Vũ Bằng, để rồi dọn đường cho một văn nghiệp dài hơi.

"Đếchế" bền bỉ Tân Dân

Vũ Đình Long, tác giả vởChén thuốc độc, năm 1925 mở Tân Dân thư quán ở 93 Hàng Bông. Năm 1930, ông mởnhà in và năm 1934, xuất bản tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, mà theo Vũ Bằng thì trongcả nước khi đó, là tờ báo duy nhất "chuyên về tiểu thuyết".  

Tiếp đó ông cho ra tờ ÍchHữu, Phổ Thông bán nguyệt san, Tao Đàn, Truyền Bá, hướng tới đa dạng thành phầnbạn đọc và nhiều lứa tuổi. 

Ông được nhiều người đánhgiá là đa năng, vừa có óc kinh doanh vừa có gu thẩm văn: "Qua những câuchuyện, lần lần tôi được biết ông Vũ Đình Long tự tay làm hết các công việc củabáo: từ việc đọc các bài của các độc giả - trừ mấy bạn cộng tác thường xuyên(…) - đến cách xếp đặt trang báo, trình bày tranh vẽ, chọn lựa tiểu thuyết Tàu,Tây để dịch" (Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo). 

Sự vận hành uyển chuyển củaTân Dân đã đưa nơi này từ in ấn và phát hành thông thường thành nơi cho ra đời nhữngxuất phẩm đẹp và có nội dung cao cấp, trở thành một tiêu chuẩn để so kè vớinhững "đế chế" báo chí khác, chẳng hạn Tự lực văn đoàn với các tờPhong Hóa, Ngày Nay và Nhà xuất bản Đời Nay. 

Tuổi thọ các tờ báo của hainhóm Trung Bắc, Tân Dân tương đối bền bỉ, các báo quán của chúng dẫu xê dịchnhưng cũng chủ yếu quanh trục Hàng Bông - Hàng Gai, khiến cho chúng nổi bật hơncác đa phần các tờ báo vốn chỉ kéo dài dăm ba năm.  

Do cấu trúc tòa soạn ngồicùng nhà in nên một số địa chỉ cũng quy tụ nhiều tờ, cùng với đó là hiệu sách. 

 Số 3 Hàng Gai, nhìn ra quảng trường Đông KinhNghĩa Thục hiện nay, từng là nơi đóng trụ sở của một loạt tờ báo của hệ thốngTrung Bắc Tân Văn như Đông Dương tạp chí, Học Báo, L'Annam Nouveau và chính tờTrung Bắc Tân Văn.  

Sau này con trai của NguyễnVăn Vĩnh là Nguyễn Giang cũng từng mở lại các tờ tục bản của cha mình tại đây. Kế cận là số 7, nơi có tòasoạn tờ Khoa học nổi tiếng của nhà khoa học Nguyễn Xiển vào các năm 1942-1944,sau đó chuyển địa chỉ cũng vẫn trên cùng trục phố: 214 Hàng Bông. 

Địa chỉ 80-82 Hàng Gai cũnglà một tâm điểm quan trọng, nơi đặt nhà in Đông Kinh ấn quán thời kỳ đầu, vàtòa soạn của hai tờ báo lớn là Nam Phong Tạp Chí và Khai Hóa.  

Cách vài số nhà là tờ ĐôngPháp (số 94), bên kia đường là Hữu Thanh (số 59), Đông Phương (số 65, sau về83) và Thực Nghiệp (số 83), chính là khu vực đặt dinh Công sứ và dinh Kinh lượcsứ cũ.

Khu vực ngã ba Hàng Bông vàPhùng Hưng vào nửa sau thập niên 1930 nổi lên với một loạt nhà in và tòa báo,mà lớn nhất là nhà in Trung Bắc tân văn ở số 36 Phùng Hưng, nửa đầu thập niên1940 cũng là nơi trị sự tờ Trung Bắc Tân Văn Chủ Nhật lẫy lừng.  

Trên đoạn Hàng Bông ở đây,các tờ Đông Tây Báo (kế tục tờ Văn Học Tạp Chí, số 193), Tri Tân Tạp Chí (số195) cũng gần với tờ Thanh Nghị (số 102), đều là những tờ có dấu ấn quan trọngđối với giới trí thức khoa học. Các tờ Bắc Kỳ Thể Thao, Rạng Đông, ConOng) và sau này là nơi in tờ Độc Lập, cơ quan của Đảng Dân chủ Việt Nam trongViệt Minh, vào năm 1945-1946.  

Đây chính là nơi Văn Caolàm việc như một họa sĩ trình bày và gặp gỡ người bạn đời tương lai là con gáiông chủ nhà in, bà Nghiêm Thúy Băng. Khu vực Phùng Hưng giáp Hàng Bông còn gầnTrường Thăng Long cùng địa chỉ của nhiều nhà hoạt động trong phong trào Mặttrận Dân chủ Đông Dương giai đoạn 1936-1939 nên cũng là nơi đặt tòa soạn củanhiều tờ báo có xu hướng Marxist ở phố Nguyễn Văn Tố hay Ngõ Trạm.

 

Những phố lân cận ăn raHàng Bông - Hàng Gai cũng là nơi có các tòa soạn và nhà in phụ trợ, chẳng hạnLý Quốc Sư với Nông Công Thương Nhật Báo (số 7), nhà in Ngô Tử Hạ (số 24) hayPhủ Doãn với dãy số lẻ đầu phố là một loạt tờ: Vịt Đực, Tin Mới, Sportsjeunesse d'Indochine (Thể thao thanh niên Đông Dương, cơ quan của Tổng cục Thểdục, thể thao và thanh niên Đông Dương thời toàn quyền Decoux), và một số tờbáo sau Cách mạng tháng Tám 1945.


 

Di sảntinh thần của một không gian tri thức

Với tính chất là kênhtruyền thông nổi bật của thế kỷ 20, những tòa báo và nhà sách cũng là nhữngđiểm hội họp và truyền bá các tư tưởng canh tân và chủ nghĩa dân tộc. Hàng Bông– Hàng Gai với sự dày đặc của các tòa soạn, nhà in và hiệu sách, là một nơitruyền bá các tư tưởng giải phóng dân tộc cũng như hiện đại hóa xã hội Việt Namtrong hai thập niên bản lề trước năm 1945.  

Nguyễn Công Hoan viết trongtruyện ngắn Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo (1934), chế giễu việc làm chủnhiệm báo là một công việc "đeo công mắc nợ" để bám lấy cái danh hão:"Bỏ tiền ra thì xót ruột, nhưng cái lá nhãn tờ báo ngày nào cũng an ủitôi. Ngắm cái chỗ đề tên chủ nhiệm, nó hay hay, nó thinh thích. Thôi thì cũnghả lòng; mấy ai đã đủ tư cách đứng đầu một cơ quan ngôn luận!".

 

Nhiều thương nhân, dân biểuhay những người viết có động cơ chính trị đã nhảy ra làm báo, trong khi các câybút chạy qua chạy lại giữa các tờ để kiếm sống. Chính bà mẹ Vũ Bằng, vốn là mộtnhà buôn giấy đã vô cùng thất vọng khi thấy con trai theo nghề báo: "Anhtrông thì biết: tôi bán giấy, các ông nhà báo đến mua hàng ngày đấy, có ngườinào khá không?".

 

Cảnh tượng làm báo dẫu vậy,vẫn đem lại cho các thanh niên yêu văn chương và báo chí một thế giới hứa hẹnsự tiến bộ. Tô Hoài đã ghi lại việc những truyện ngắn đầu tiên của ông đượcđăng trên tờ Hà Nội Tân Văn là nhờ nữ sĩ Hằng Phương, vợ của nhà văn Vũ NgọcPhan, nhặt lên từ đám bản thảo đã loại. Tô Hoài kể, những đồng nhuận bút đầutiên là "cây gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi" và "Thếlà tôi vào nghề văn". 

Từ những tờ báo và nhà in ởkhu vực Hàng Bông - Hàng Gai, các trí thức Việt Nam đã hình thành nên một hệsinh thái tri thức quan trọng, lan tỏa nhiều giá trị văn hóa cho xã hội. 

 

Ngày nay nào trên trục phốnày, không còn tòa soạn hay nhà in nào, cũng không có một hiệu sách nào đúngnghĩa. Hàng Bông - Hàng Gai trở thành tuyến phố của du lịch với các cửa hiệu đồlưu niệm và khách sạn, cùng một vài nhà giữ nghề may quần áo hay cờ, trướng cholễ lạt. 

 

Chỉ dài một cây số, tuyếnphố có còn được ghi nhớ như một phố thứ 37 của Hà Thành: Phố Hàng Báo?

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 08, 2025 07:13

July 28, 2025

Hoàng Ngọc Hiến thời gian viết về chủ nghĩa hiện thực phải đạo


Tháng 11 năm 1978, Nguyễn Minh Châu cho đăng trêntờ Văn Nghệ Quân Đội một bài viết nhan đề là "Viết về chiến tranh".

Trong bài này, Nguyễn Minh Châu nhận định rằng nềnvăn học Miền Bắc trước năm 1975 và cả Việt Nam sau đó đều chưa hề có tiểuthuyết thực sự về chiến tranh, vì còn bề bộn sự kiện, nhân vật toàn là lýtưởng, chưa mô tả được các vấn đề đời thường của con người và xã hội trongchiến tranh.

Bài viết gợi ra ở Hoàng Ngọc Hiến những suy nghĩkhá bất ngờ về văn học xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của ông được phản ảnh trongbài viết tựa là "Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giaiđoạn vừa qua", đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số 23 ra ngày 9 tháng 6 năm1979.

Sau khi tóm lược ý kiến của Nguyễn Minh Châu, HoàngNgọc Hiến viết :

 "Hình như, Nguyễn Minh Châu viết, trong ý niệm sâuxa nhất của người Việt Nam chúng ta, hiện thực của văn học có khi không phải làcái hiện thực đang tồn tại, mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng, đang mơước. Đứng ở bình diện cái phải tồn tại, người nghệ sĩ dễ bị cuốn hút theo xuhướng miêu tả cuộc sống cho phải đạo, còn đứng ở bình diện cái đang tồn tại,thì mối quan tâm hàng đầu là mô tả sao cho chân thật.

Đọc một số tác phẩm, chúng tôi thấy tác giả dườngnhư quan tâm đến sự phải đạo nhiều hơn tính chân thật. Có thể gọi loại tác phẩmnày là chủ nghĩa hiện thực phải đạo".

Hoàng Ngọc Hiến còn đi tới những khái quát sâu hơn:

"Thực ra ngay trong đời sống thực tại, do quy luật của sự thích nghi sinh tồn,dần dần được hình thành những kiểu người “phải đạo” với những cung cách suynghĩ nói năng ứng xử được xem là “phải đạo”. Khái quát những hiện tượng hết sứcthực tại này vẫn nảy sinh chủ nghĩa hiện thực phải đạo”.

---

Để hiểu tác động của bài trên hãy nghe nhà văn Nguyễn Kiên một người thường không "dấn thân" mà chỉ đứng ngoài quan sát - bình luận:

-- Ông Hiến chắc khó lòng qua khỏi. Trên họ ghét lắm.Tuyên huấn rất ghét cái chữ hiện thực phải đạo, nó hơi đểu. Phủ nhận toàn bộ họcòn gì! Rồi lại cái ý viết không thật, vì đời sống không thật nữa. Nặng lắm.(Trong chỉ thị của Tuyên huấn, có nói rõ: phải cử người xuống trường viết văngiải thích lại các vấn đề anh Hiến đã nêu trong bài viết)

-------

Tạp chí Văn học có bài phê phán Hoàng Ngọc Hiến ngay từ cuối năm1979. Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật số 1/1980 cũng vậy.

Chính diện nhất là bài Hà Xuân Trường (tạp chí Cộngsản 1/1980).

Hoàng Ngọc Hiến tức lắm, viết bài trả lời, gửithẳng đến tạp chí Cộng sản .

Buổi sáng cậu trợ lý biên tập đến nhà Hoàng Ngọc Hiến 

Hoàng Ngọc Hiến  mời nước, thuốc, cậu ta chiếu cố hút cho, và nói như ban ơn

- 9g sáng, anh đến để đại diện biên tập gặp.

- Tôi bận công việc hôm nay không đến được.

Đến lúc này, cậu ta hoảng, biện ra lý do xin lỗi. 

Cuối cùng Hoàng Ngọc Hiến bảo nếu thế 8g30 tôi đến. 

Đến nơi, họ mời lên gác lên đó nóichuyện văn chương cho tiện. Hoàng Ngọc Hiến bảo bây giờ người ta bàn văn chương ngoài hàngnước chứ gì. Nhưng rồi cũng lên.

Họ chưa nói lý do không đăng bài, mà còn nói xaxôi.

- Nghe nói anh có viết bài trả lời Tô Hoài.

- Điều đó ta không bàn ở đây. Tôi thừa hiểu là cácanh đã đọc nát bài đó, bên cạnh bài tôi gửi tới tạp chí Học Tập, việc gì phảigiấu nhau cho khổ nữa.

Khi họ từ chối chưa nhận vội, ông Hiến đốp chát:

- Tôi chỉ đề nghị các anh một điều là in đínhchính. Đính chính cho rõ Hoàng Ngọc Hiến nói A, mà Xuân Trường nói B.

- Anh thông cảm cho, hiện nay thiếu giấy.

- Nhưng lúc nào cũng thừa giấy để vu khống tôi. Làmnhư thế là mao ít. Xuân Trường mao ít. Hồng Chương mao ít. Chính tôi cũng maoít nốt, nhưng tôi đang cố vượt lên, và bị các anh cản trở.

Trung quốc bây giờ nó đánh nhau, nó phê phán nhau,nó gọi nhau là kẻ thù. Còn anh Hà Xuân Trường đánh tôi vẫn gọi tôi là đồng chí.Như thế là đểu.

Các anh bảo đời sống là tốt đẹp văn nghệ ta là tốtđẹp. Với tất cả tinh thần của người cộng sản, tôi xin nói rằng các anh rất cơhội. Đảng ta chưa tốt đẹp. Văn nghệ ta chưa tốt đẹp, ta còn bao nhiêu việc phảiđấu tranh. Tại sao các anh lại cơ hội như thế được.

-----

Trong hội nghị “35 năm Văn học yêu nước và cáchmạng” tháng 7 1980, Xuân Trường ra vỗ về Hiến.     Hoàng Ngọc  Hiến làm ầm lên. Sau lên nóigiữa hội nghị:

- Tôi đồng ý là hoãn cuộc luận chiến lại. Để chúngbao người phản bác, chúng ta phải tạm hoãn chống bạo ngược trong nước.

Trước đó, gặp ông Trường, nói rất căng.

Xuân Truờng: Chúng tôi sẽ phê phán anh Châu. Cònnếu đăng bài của anh, chúng tôi sẽ cho tiếp tục phê phán.

Hoàng Ngọc Hiến: Việc ông Châu, tôi không biết.Nhưng còn việc của tôi, anh cứ cho đăng đi, sau sẽ hay.

Tại một cuộc họp sau đó khi họp với một số nhân vật văn nghệ, Trần Độ còn bảo :

- Lâu nay, có một xu hướng đánh giá lại văn nghệcủa ta, đặt lại vấn đề quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực, do đó, vi phạm tớinhững nguyên tắc mà nếu cần chúng ta phải lấy máu ra bảo vệ.

Xuân Trường lên án tình hình sách vở nước ngoài vàolung tung. Các anh đừng thấy sách Liên xô có ý gì, nói theo ngay. Nhiều vấn đềchúng tôi nói đã lâu rồi. Nhưng chúng tôi viết thì các anh không đọc.

LỜI GIẢI THÍCH NGHE

TỪ CHÍNH MIỆNG HOÀNG NGỌC HIẾN

*Hoàng Ngọc Hiến:

...Không phải là họ không biết đâu, thành ra khôngthể tranh luận với họ được. Họ chống lại tôi một cách vô thức. Còn chính tôi,một chữ như chữ hiện thực phải đạo thực ra nó cũng vọt ra một cách rất tựnhiên, tôi không phải cân nhắc kỹ lắm, thế mới lạ. Bây giờ tôi đọc lại, tôikhông thấy có gì là sai cả.

*Nhàn:

- Như vậy là anh đã tiến từ tri thức, kiến thứcsang quan điểm chứ không phải ngược lại, như thường thấy ở cách giáo dục củata.

(Kiến thức tụ lại buộc anh phải phủ nhận ngày hômnay, Nhưng người ta chỉ nghĩ, còn anh thì nói)

* Hoàng Ngọc Hiến:

- Đúng.

*Nhàn:

--Có bao giờ anh cảm thấy đơn độc?

*  Hoàng Ngọc Hiến:

--Không. Người tốt nhiều chứ. Vụ này của tôi cũnglàm cho mọi người vui chứ. Có thể rút kinh nghiệm bao nhiêu điều.

*Nhàn:

--Anh thấy bài học chính qua đợt này là gì?

* Hoàng Ngọc Hiến:

--Nó không phải ở chỗ dũng cảm kiểu hăng máu vịt.Phải có một sự tỉnh táo trí tuệ ghê lắm.

*Nhàn:

--Vấn đề chính anh đã nói trong một số sách đã viếtthời gian vừa qua là gì? và chủ đề trong thời gian tới?

*Hoàng Ngọc Hiến:

--Tôi tưởng đó là điều tôi đã nói khá rõ trong tậpsách đầu; đó là cần phải có những nhân cách lớn. Phải đấu tranh chống lại thóitư sản phàm tục. Đó chính là cảm hứng rất rõ qua kịch Mai a - mà do làm, tôimới hiểu được.

-----

Có mấy buổi họp toàn những vị cốp trong giới vănnghệ diễn ra trong ba ngày 17, 18, 19/12/1980.

Tôi không được dự chỉ nghe BùiVăn Ba (Phương Lựu) kể mấy ông Phan Cự Đệ, Đông Hoài, Lê Xuân Vũ sớm quay racông kích bài HNgHiến: nào gây khó khăn cho việc giảng dạy của họ, nào là rơivào luận điểm tư sản (L. Goldman, A.Camus)

Hoàng Ngọc Hiến lên trả lời ngay. Nhưng ông khôngbào chữa cho mình vội mà hãy nêu một số ý kiến về đời sống lý luận

1. Về vấn đề đóng - mở. Sự thực đây là vấn để bảotồn và phát triển.

Có nhiều người nghĩ bảo tồn là bảo tồn nguyên tắc,còn chỉ phát triển về mặt khoa học. Thật ra thì nguyên tắc cũng phải pháttriển, nếu không, nó sẽ trở nên ẩm ương, hoặc dở hơi nữa.

Ví dụ như chuyên chính vô sản, ở một số nước thìchuyển thành vấn đề đảng toàn dân, ở ta thì chuyển thành làm chủ tập thể.

Ví dụ nội dung tính đảng đang đuợc chuyển thànhnhân đạo cộng sản chủ nghĩa.

2. Về yêu cầu của lý luận phê bình

Người ta thường chỉ nói tới hai yêu cầu: quan điểmlập trường, và chất lượng thông tin của các bài.

Nhưng còn một điểm nữa, phải nhấn mạnh đó là chấtlượng văn hoá - ngôn ngữ của bài. Có những người, có đủ hai yếu tố trên rồi,cũng vẫn không trở thành nhà phê bình, nếu thiếu yếu tố cuối cùng.

3. Về yêu cầu đào tạo đội ngũ

Như tôi - Hoàng Ngọc Hiến nói, tôi có thể làm đượcmột ít việc, vì hồi trước, tôi có được học tiếng Pháp và sau đó, tôi có đi họcNga.

Nhiều anh em viết phê bình khác, anh anh Đức, anhĐệ, không đọc chắc chắn được một ngoại ngữ, thì làm sao có thể bàn chuyện gìđến đầu đến đũa được.

Về bài của mình Hoàng Ngọc Hiến bảo đây là một bài tôi viếttrong chùm bài viết cho tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, trong đó, tôi đề cập đếnhàng loạt vấn đề: quản lý vận động của văn học thời kỳ mới, quản lý vận độngcủa văn học mao ít của ta.

Phải nói là chưa bao giờ viết xong tôi hào hứng nhưvậy. 

Tôi tưởng là anh Trần Độ sẽ tăng lương cho tôi ngay.

Chính tôi cũng bất ngờ vì bài báo bị người ta lợidụng. Có những người đến bảo vào tai tôi “Cậu phải đánh chúng nó thế mới đíchđáng” Tôi rất phản đối.

Theo tôi, rất nên chú ý là bài viết của tôi có cáinhan đề là “Về một đặc điểm...” như vậy, tôi chỉ nói một đặc điểm, chứ khôngphải nói tất cả. Vả chăng, bài viết của tôi là thuộc loại tiểu luận mỹ học,viết để đăng trên một tạp chí chuyên ngành, phạm vi phục vụ hẹp. Tôi đã cókhuyết điểm là không kiên trì để lại đăng ở tạp chí đó mà lại mang đăng ở báoVăn nghệ,

....

Theo Phương Lựu, bài nói của  Hoàng Ngọc Hiến tốt, tạo đượckhông khí.

Còn nhiều người khác, công kích Hoàng Ngọc Hiến, nhưng khôngcó gì sắc sảo. Kể cả  Chế Lan Viên.

Trước lúc lên diễn đàn, Chế Lan Viên bảo với  Hoàng Ngọc Hiến:

- Tôi sẽ đánh anh. Đáng nhẽ tôi với anh phải chungmột trận tuyến đánh giáo điều đã. Nhưng bây giờ tôi đánh xét lại trước, rồiđánh giáo điều sau.

- Vâng, xin mời anh. Nhưng ta hẹn với nhau nếu anhkhông đánh được tôi, anh phải khao tôi một chầu thịt chó đấy nhé.

Thế là Chế Lan viên lợi dụng, vào đề ngay. Chúngta đánh anh Hiến hơn một năm nay, mà anh vẫn tự hào là anh đúng. Chế Lan Viêngọi đây là hiện tượng Nhân văn 2. Nhớ được lý luận gì, tên tuổi nào ở phươngTây, ông lôi ra hết. Ông đặt cho Hiến 15 câu hỏi, theo lối bắt nọn, rất khóchịu. Rồi ra ngoài Chế Lan Viên còn bắt tay ông Hiến .

(Số 2 của năm1981 báo Văn nghệ mới đăng bài Chế LanViên phê phán Hoàng Ngọc Hiến và Nguyên Ngọc - nhưng gọi tắt là ông X. 

NguyễnVăn Hạnh cho là phen này Chế sẽ mất hết vốn liếng sẵn có, mất hết bạn bè, hoàntoàn cô độc.)

Ý của NgĐThi ở hội nghị:

- Nói như anh Hiến cũng là cực đoan và bè phái. Vănnghệ cao cả cũng có cái hay của nó. Thời cổ, Sôphốc là cao cả , và một ngườikhác (Arítstôphan(hay Ơripít ?) là tả như thực, hai người đều hay.

Gớt là cao cả, là hay v.v. và v.v

Cho nên, nói viết như thế này hay thế kia khônghay, là còn hiểu nông lắm.

Tôi (Nhàn) Theo ý anh, lý luận bây giờ có vấn đềgì?

Nguyễn Đình Thi: Phải trở về với những cái cơ bản.Gớt bàn về thơ, Bandắc bàn về tiểu thuyết đều nên dịch và cho in cả, tạo nêncái nền cho chắc. Thứ hai, là suy nghĩ về dân tộc, về nguồn của mình cho tốt.Đừng có tin ở những ông óp ông ép nào đó hiện nay. Họ sẽ bị quên đi thôi. Đừngđể họ úm mới phải.

Trích "Nhật ký văn nghệ 1980"

đưa trên blog của tôi 30.5.2019

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 28, 2025 18:00

July 27, 2025

Kém văn hóa tổ chức xã hội -- đấy có phải là nguyên nhân mọi sự lạc hậu của người Việt?

  Bài từng đưa trên Fb của tôi 28-7-2020

--------------

Có lần trên Fb Nhân Thế Hoàng, tôi đọc thấy đoạnvăn sau đây:

“Nhiều bạn bè trong nước cứ chê rằng: Người Việtmình xấu xí, lười nhác, giỏi làm thầy hơn làm thợ nên đất nước mới không pháttriển chứ không phải do đường lối chính sách, vì đường lối chính sách đưa ra làđúng, chỉ do người thực hiện không làm đúng theo chỉ thị mà thôi.

Cái này là điệp khúc mà mấy bạn trẻ cuồng đảng hayphát ngôn để bảo vệ khi có ý kiến trái chiều chê trách về các vấn đề xã hội haytình trạng bê bết của nền kinh tế hiện nay.

Thế bạn có biết, cũng là người Việt nhưng năng suấtlao động của 3 triệu người Việt ở Mỹ tương đương với năng suất lao động của 90triệu người Việt trong nước hay không? Con số 100 tỷ USD tạo ra hằng năm của 3triệu người Việt ở Mỹ đã nói lên điều đó, điều này chứng minh người Việt khôngthua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới về độ thông minh, cần cù, chịu khó,chỉ là do bị kèm cặp quá nên 90 triệu người trong nước mới làm việc kém năngsuất và hiệu quả như vậy. Người xưa có câu: "Cây quýt trồng ở đất này thìngọt mà mang sang đất khác thì chua", và lạ thay cây quýt Việt thường chuaở xứ mình nhưng lại ngọt ở xứ người!”

---

Xin ghi nhanh ở đây mấy suy nghĩ của bản thân tôivề chuyện này:

LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: Nhiều thói hư tật xấu liên quan đếnsự làm ăn kém cỏi ở người Việt mà chúng ta mới phát hiện, theo tôi, đã có từthời trung đại, từ thế kỷ XIX về trước.

Khi làm chuyên mục những lời cảnh tỉnh của ngườixưa, đăng trên TTVH hồi 2005-2007 và sau có đưa vào blog cá nhân, tôi chủ yếulấy ý kiến của các nhà trí thức VN đầu thế kỷ XX.

Đối tượng phê phán của họ là cách sống cách suynghĩ làm ăn của người Việt trước khi bước sang thời hiện đại, tức là trước khichuyển qua thời Pháp thuộc.

Bản thân các trí thức này sở dĩ có cái nhìn sángsuốt đó cũng là sau khi theo học ở các nhà trường người Pháp mới mở, có đượccách nhìn cách nghĩ của phương Tây.

Từ sau 1945, yếu tố tự phê phán trong tư duy ngườiViệt ngày càng thui chột, các trí thức Hà Nội được đào tạo sau cách mạng khisuy nghĩ về người Việt chủ yếu làm nổi bật các mặt tích cực trong tính cáchngười Việt.

Để làm gì? Để động viên người ta đi đánh giặc.

Vì cái mục đích cao cả nhưng lại thiển cận ấy, dânta tự cho phép mình khen lu bù, "khen cho nó chết", không cần biếthậu quả sẽ tới.

Trong và sau chiến tranh, nhiều thói xấu cũ củangười Việt càng cô kết đậm đà sâu sắc hơn, người ta lại hay giở lý ra để tựbiện hộ.

Chỉ đến khi bắt tay vào việc làm ăn sinh sống theonhịp sống bình thường, gặp nhiều cú sứt đầu mẻ trán, thì cái nhu cầu tự phêphán kia mới trở lại.

Nhưng dùng lại một câu trong Truyện Kiều -- rằngquen mất nết đi rồi, -- chúng ta thiếu hẳn những nhà nghiên cứu nhìn sâu vàocác quá trình tâm lý xã hội và xem xét sự phát triển của cộng đồng trong chiểudài lịch sử, đối chiếu với những chuẩn mực phổ quát của con người hiện đại, từđó làm cuộc phân tích toàn diện để giúp cho cả cộng đồng có được một cuộc tựnhận thức chính xác.

Các lời bàn cãi hiện nay còn loanh quanh và thiếusức thuyết phục, nhiều khi lại đi lạc hướng.

Tại sao lại có hiện tượng ở trong nước thì dở, ranước ngoài mới tử tế?

Dẫn chứng mà bạn Nhân Thế Hoàng nêu lên là khôngthể cãi được.

Theo tôi nó chỉ chứng tỏ, cái hay cái tốt ở ngườimình không bền chắc.

Tự chúng ta không định hướng nổi cuộc sống chúngta.

Chỉ khi bị buộc phải làm theo sự chỉ đạo của ngườikhác, chúng ta mới dứt bỏ được thói quen cố hữu từ ngàn đời ông cha để lại đểcó thể sống và làm việc như mọi con người tử tế khác trên thế giới.

Chính trường hợp 3 triệu người VN ở Mỹ mà bạn Hoàngnêu là nằm trong hoàn cảnh đó.

Trở lại với đầu thế kỷ XX. Tôi nói điều sau đây vớitâm lý hơi ngần ngại – nó đi ngược với những điều tôi cùng với lọai người nhưtôi quen cho là như vậy nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy không tự bác bỏ được nênbuộc phải nói -- đó là, chính do sự bảo trợ của người Pháp, sống trong một nhànước do người Pháp quản lý, mà người Việt có được sự thay đổi trong tính cáchvà có những bộ phận đạt được cách sống cách suy nghĩ trình độ làm việc của conngười hiện đại.

KẾT LUẬN TẠM THỜI : chúng ta là một cộng đồng kémvề năng lực tự quản lý. Trong những điều mà chúng ta học được từ văn hóa TrungHoa, cái chúng ta học được ít nhất là văn hóa tổ chức xã hội, văn hóa quyềnlực.

Cai trị học – bên Trung quốc người ta gọi là TRỊQUỐC CHI ĐẠO -- là cả một vấn đề lớn, muốn có kết luận thuyết phục cần trở lạivới các tài liệu lịch sử, phải nhiều người nghiên cứu và suy nghĩ công phu mớilàm được, tôi chỉ nêu sơ sơ như vậy.

Dưới đây để chứng minh cho ý kiến trên, tôi lấythêm một số ví dụ không phải trong khu vực chính trị mà chỉ là trong phạm viđời sống thông thường.

Trong thế kỷ XX, chúng ta bắt đầu có những nhà khoahọc tự nhiên đạt chuẩn quốc tế. Nhưng nhìn vào tiểu sử của họ ta thấy ngaykhông người nào trong họ là không trải qua việc một thời gian dài học ở nướcngoài.

Thực tế VN, nền giáo dục VN, không thể đào tạo rahọ.

Ngô Bảo Châu – cũng như Tôn Thất Tùng, Trần ĐứcThảo trước kia -- không chỉ là hiện tượng của văn hóa VN mà còn là hiện tượngcủa văn hóa Tây phương, trước tiên là văn hóa Pháp.

Sao ta lại cứ cố quên như vậy?

Trong phạm vi hướng nghiệp cho con em trong các giađình bình thường hiện nay, chị Phương Quỳnh bạn tôi có lần kể cho tôi chuyệnsau.

-- Con mình học khá giỏi, nhưng đi làm cho các ôngchủ trong nước một hồi, thấy đằng nào cũng chết.

Làm cho nhà nước thì gặp toàn những ông dốt, lạicòn cái lối phong kiến cổ lỗ, coi bọn mới ra trường như kẻ ăn người ở, chuyênsai vặt.

Làm cho tư nhân - nhất là tư nhân xuất thân Hà Nội- cũng phần lớn là bọn trương ra cái biển thật to để dọa thiên hạ, chưa làm đãlo buôn lậu với lại đi hối lộ cấp trên cùng là sẵn sàng cạnh tranh với các đồngnghiệp bằng mọi thủ đoạn man rợ.

Và Phương Quỳnh khuyên:

-- Các cậu có con bây giờ thì phải tính trước đi,cố hướng con cái kiếm được việc cho các hãng nước ngoài, ở đó cắn răng mà họclấy nghề thì mới nên người được.

----

Vài điều tôi tạm rút ra cho mình:

+ Xã hội VN từ nhiều thế kỷ nay chỉ được tổ chứctheo những nguyên tắc quá đơn giản. Việc quản lý con người theo nghĩa đầy đủnhất của chữ này chưa bao giờ được coi như một nghiệp vụ mà người ta phải họchỏi mới làm được. Cái khó nhất với nhiều người Việt có năng lực là tìm ra ôngchủ xứng đáng với mình.

+ Chính vì chúng ta không có những nhà quản lýgiỏi, những ông chủ giỏi mà mọi nghề nghiệp trong xã hội đều cứ mãi mãi lạchậu, và trước mắt chỉ đi làm ăn dưới quyền chỉ đạo của người nước ngoài, ta mớikhá lên được.

+Chỉ khi có được những người biết tổ chức cho nhữngngười khác làm việc - trên phương diện chính trị là những người biết quản lýquốc gia -- , ta mới có quyền nói rằng đã đi đúng đường hứa hẹn một sự pháttriển bền vững.

Chỉ lúc đó, dân ta mới sửa được những tính xấu cốhữu như lười biếng dối trá ăn cắp …và – cho tôi bổ sung thêm một thói xấu nữa-- là chỉ giỏi cãi bừa cãi sằng, rồi hễ ai động vào tử huyệt của mình liền chửingười ta thiếu thiện chí.

GHI CHÚ NGÀY 17 THÁNG 7 2020

Bài viết này tôi viết từ ngày 30 tháng 10 năm 2014và lần đầu tiên được đưa trên blog cá nhân vào thời điểm đó.

Hôm nay xem lại tôi thấy tôi đã không chỉ rõ có mộtthực tế nhiều phần ngược lại là con người trong xã hội miền Nam 1954 /75 khi đóchúng ta phát triển không kém gì các nước Đông Nam Á , nhìn chung có thể nóingười Việt hồi đó là những người rất biết làm ăn sinh sống trình độ nghề nghiệpđạt tiêu chuẩn quốc tế năng suất xã hội cũng vậy, và trước tiên là đã biết làmgiáo dục để tạo ra những thay đổi căn bản trong nòi giống .

Nhưng đây là chỗ tôi hiểu rất ít nên không có điềukiện để triển khai các ý chính của bài cho được chặt chẽ hơn.

Phần lớn những tìm hiểu nghiên cứu của tôi lâu nayvề thói hư tật xấu người Việt và rộng ra về người Việt nói chung -- ví dụ ngườiViệt sau chiến tranh có cái triết lý “chỉ có những việc không làm được chứkhông có những việc không được làm” -- là chủ yếu liên quan đến tình hình kinhtế xã hội và con người ở "bên thắng cuộc".



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 27, 2025 23:14

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.