Vương Trí Nhàn's Blog, page 8

February 6, 2024

Sau Cung oán ngâm khúc một kiểu chuyển đổi mỹ cảm khác, trường hợp thơ Tú Xương

 


Đọc Tú Xương chắc chẳng ainhớ câu "Thành thì đen kịt đốc thì lang ... ". Nhưng đây là một ví dụvề sự chuyển đổi mỹ cảm đáng ghi nhận.

Nguyên đây là một câu thơ trong bài Phố hàng Song

Ở phố hàng song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ, kìa cô bố

Đậulạy quan xin, nọ chú hàn

 Thành là tên gọi viên phòng thành,  chức quan chỉ huyquân sự một tỉnh, cũng như đốc học là người phụ trách giáo dục cuả tỉnh.Cả hai nằm trong hàng loạt gương mặt những con người đương thời mà TúXương từng phác họa.  

 LOẠT THƠ “HƯỚNG NGOẠI”

      Làmột ngòi bút trào phúng thực thụ và có bản lĩnh, Tú Xương thường không ngạimang chính mình ra mà chế giễu. Loạt thơ tự trào, cộng với những bài trữ tìnhthuần túy (loại như Sông kia rày đã nên đồng...) gộp cả lại làmnên một mảng thơ riêng, khá đặc sắc.

    

 

    Có điều, dẫu sao, trong số hơn trăm bài thơ hiện đang lưu truyền và đượcxác định là của tác giả, các bài thơ “hướng nội” nói trên chỉ chiếm một phầnnhỏ.

 

 

   Ngược lại, nói tới Tú Xương,nhiều khi người ta nhớ ngay tới loại thơ khắc họa chân dung những người đươngthời.

   Những bài “hướng ngoại” này thường nói tới một đối tượng cụ thể: một ôngphủ, ông đốc học nào đó trong vùng hoặc một người bạn nào đó của tác giả.

   Và chúng thường có nhan đề ngắn gọn (do người sau đặt): Mừng ông lang, Chế ông huyện, Đùa ông hàn, Bỡn ôngĐiềm v.v…

 

MỘT PHÒNG TRIỂN LÃM

Nhậnxét thứ nhất nảy sinh khi người ta đọc loại thơ này: Tú Xương có một phạm viquan sát khá rộng.

Sốngtrong một đô thị nhỏ nơi vừa thoát thai từ làng xóm, ông vẫn giữ được thói quenthường thấy trong sinh hoạt tinh thần nơi thôn xã. Là để mắt đến mọi việc xảyra chung quanh, và sẵn sàng lên tiếng về những chuyện ấy.

 

 

 Lọt vào kính ngắm thường xuyên của ông là đủloại nhân vật, từ quan chức đến sư sãi, từ ông tú ông cử cho đến đám học tròđang mài đũng quần trong các lớp bình văn, rồi cô ký, me tây, rồi thầy thông,thầy phán… sơ sơ có thể ước tính tổng cộng số người được Tú Xương nhắc tới.

 

 

 Tất cả hiện ra như các hình nhân trong mộtchiếc đèn kéo quân khổng lồ mà tác giả đã kỳ công vẽ mặt tô mày để kiếm chútniềm vui giữa cuộc đời tẻ nhạt.

 

 

Theosự ghi nhận của nhà văn Nguyễn Công Hoan – một người nổi tiếng có trí nhớ tốtvà đã một thời gian dạy học ở Nam Định – thì hầu hết các nhân vật được nói tớitrong thơ Tú Xương có địa chỉ thật ở ngoài đời. Các bài thơ đã hình thành nhưmột cách để tác giả đánh dấu những gương mặt mà mình từng biết và phải chung sống.

 

 

Tuynhiên, điều đó không làm hại đến ý nghĩa khái quát mà các chân dung có thể có.

 

NHỮNG NÉT KỲ DỊ

Khiphác họa các nhân vật ấy trước sau bút pháp của Tú Xương là khá nhất quán.

Điều này liên quan đến nhận xét thứ hai: ông thiênvề một lọai mỹ cảm hiện đại so với tình trạng thơ ca đương thời.

 

Sựhài hước được nhà thơ sử dụng như một loại “chiếu yêu kính” tức một công cụ đểnhận thức bản chất con người và sự việc.
 Vấn đề không phải chỉ ở chỗ tác giả thường xuyên miêu tả những thói xấucủa các nhân vật, tức vạch ra sự không bình thường của nó về mặt xã hội (quanlại tham nhũng, đốc học rong chơi, cờ bạc; sư ở tù; con cái khinh bỉ bốmẹ…). 
Mà điều quan trọng hơn, là ông biết nhìn ra cả trong mặt mày hình dáng conngười cũng có sự biến dạng.

 

 

 Nếuông chỉ nói ở cái phố hàng Song lắm quan kia, cô Bố “chồng chung vợ chạ”, ôngHàn “đậu lạy quan xin”, ta thấy đã tài, đã sắc sảo. 
Song con mắt thi sĩ nơi ông còn nhìn thấy cái nét đặc sắc mà cái nhìn xã hộihọc dễ bỏ qua:

 “Thành thì đen kịt, đốc thì lang”.
 

 

Trongmột dịp khác, ông tả người bán sắt

 “Mũi nó gồ gồ, trán nó giô”,

cũngnhư ông không tha cả chính mình

Mắtthì lơ láo, mặt thì xanh”.


 Những câu thơ hơi khang khác này xui người ta nghĩ rằng hình như trongtiềm thức, tác giả bắt đầu cảm thấy rằng sự méo mó lệch lạc là nằm tận trongbản chất con người đương thời.

 

Đâynữa, những câu thơ tả sự dở dang, bất cập, một thứ nửa dơi nửa chuột tiênthiên bất túc không sao sửa chữa nổi trong con người đương thời, đại loại:

 

-Hán tự không biết Hán

  Tây tự chẳng biết Tây

- Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta

-Chẳng phải quan mà chẳng phải dân

-Ấm không ra ấm, ấm ra nồi.

 

Nhưcác nhà nghiên cứu nghệ thuật đã lưu ý, nét đặc biệt của nghệ thuật hiện đại(rõ nhất là trong hội họa) ấy là thiên về miêu tả con người với những nét kỳdị, hình ảnh méo mó, không những không ăn khớp với những khuôn mẫu sẵn có, màcòn thường xuyên có hiện tượng phân thân, và không tạo ra một sự ổn định, khôngcó những đường viền rõ rệt.

 

Donhững hạn chế của thời đại và của cộng, đương nhiên Tú Xương chưa thể có đượcmột tư duy nghệ thuật mới lạ như vậy.
 Những câu thơ trên chỉ được viết ra một cách tự phát.


 Song đọc Tú Xương, người ta vẫn không khỏi liên tưởng tới một quan niệmvề con người mới mẻ -- chưa xuất hiện ở thời của Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ, -- nhữngquan niệm về con người chỉ xã hội hiện đại mới có.

Đâychỉ nói về quan niệm; còn như mỗi tác giả đạt tới mức sâu sắc và độc đáo nhưthế nào trong quan niệm của mình, thì đấy lại là chuyện khác.

 

SỰ PHÁ CÁCH

Mặcdù chỉ sống được hơn 7 năm trong thế kỷ XX, Tú Xương vẫn đáng được xem như mộtnhà thơ có cốt cách hiện đại.

Cảmgiác hiện đại chủ yếu hình thành qua ấn tượng về con người tác giả, một ngườilàm thơ không phải để nói chí hoặc giáo hóa ai mà chỉ cốt phơi bày cho hếtnhững bức xúc chộn rộn trong lòng mình.

 Con người ấy gần như đánh mất sự quân bình vốncó, ngược lại lúc nào ông cũng sống trong trạng thái “ngồi không yên ổn đứngkhông vững vàng” luôn luôn bị ám ảnh bởi những ham hố trần tục.

 “Mình với ta tuy hai mà một” (thơ TảnĐà), con người tác giả trong thơ Tú Xương thế nào thì các nhân vật được ôngphác họa cũng vậy.

 Xưanay đã nhiều người tả cô đầu, song chỉ đến Tú Xương, loại người tưởng là dướiđáy xã hội này mới dám lớn tiếng tuyên bố “Cũng liều bán váy chơi xuân”

Nghethật trâng tráo nhưng bên trong có gì đó chua chát, bi phẫn, nó là cái tâmtrạng đến với người ta khi cuộc sống chung quanh đã trở nên đổ đốn quá mà bảnthân không biết làm gì để thay đổi nó.

 Cái tâm thế của người cô đầu TúXương diễn tả ở đây sẽ là tâm thế mà càng về sau càng phổ biến, và con ngườithời sau, dù làm bất cứ việc gì, trước những bất lực phải chịu, cũng muốn văngra những câu tương tự.

 

 

Chẳngnhững quyết liệt trong thái độ sống, Tú Xương còn quyết liệt trong các ứng xửnghệ thuật.  

Thờiông sống là thời trong văn chương Việt Nam còn đang ngự trị các quy phạm cổđiển. Thơ ca Việt Nam phải gần ba chục năm sau mới biết đến phong trào Thơmới, nên gì thì gì, Tú Xương cũng chỉ có cách trổ tài qua thơ Đường luật.

Songbản lĩnh và ý chí tự do của nhà thơ non Côi sông Vị là ở chỗ, trong khi bị gòbó bởi thi luật cổ điển, Tú Xương vẫn tìm đủ cách để công phá nó.

Mộtví dụ: bài thơ mang tên Bỡn ông Điềm.

 

Tôihỏi thăm ông đến tận nhà

Trước nhà có miếu có cây đa

Cửahè sân ngõ chừng ba thước

Nứa lá tre pheo đủ một tòa

Mớisáu bận sinh đà sáu cậu

Tronghai dinh ở có hai bà

Trôngông mốc thếch như trăn gió

Ôngtốt duyên vì có nước da

 

Cũnggiống như nhiều bài thất ngôn bát cú của Xuân Hương, bài thơ này, tuy bề ngoàivẫn giữ được sự đăng đối (câu ba đối câu bốn, câu năm đối câu sáu) song đó làmột sự đăng đối trời cho, người ta cảm thấy tác giả không cần một chút cố gắng.

Trongkhi ấy mạch đi của cả bài thơ quá tự nhiên, hầu như gặp đâu nói đấy, những ràngbuộc thừa-phá-đề-luận-kết… bị để sang một bên, hai câu cuối giống như một miếngbỏ nhỏ khá gây ấn tượng.

 

Nhấtlà về mặt mỹ cảm thì sự phá cách càng rõ rệt, cái chi tiết “mốc thếch như trăn gió” quáđậm chất văn xuôi, cũng như giọng thơ nửa thân tình nửa giễu cợt, tất cả làmcho sự vật con người mất hẳn cái vẻ cao thượng, thuần khiết, vốn được coi lànét tiêu biểu của thơ ca cổ điển.

--

Đãin Cánh bướm và đóa hướng dương, 1999

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 06, 2024 03:54

February 3, 2024

RỰC RỠ VÀ KHẮC KHOẢI - Thử nhìn "Cung oán ngâm khúc" bằng một số luận điểm của mỹ học phương Tây.

 


Bài được viết từ 1991 và đã được đọc trong hộithảo nhân 250 năm ngày sinh Nguyễn Gia Thiều

 

----------------

Giữa những hướng đi khác nhau và luôn luôn biếnhóa đắp đổi lẫn nhau, văn hóa hiện đại – rõ nhất trong mốt – không bao giờ quênmột kênh phát triển độc đáo: trở về với những giá trị cổ điển.

Quần áo giầy dép không chỉ ngày một giản dị gọngàng mà có khi lớp lang cầu kỳ như vẫn thấy ở các ông hoàng bà chúa ngày xưa.

 Nhà cửathì bên trong phải có những tiện nghi hiện đại, nhưng bề ngoài càng giống lâuđài cung điện càng tốt.

Cách đối xử có xu hướng hạn chế bớt những suồngsã thô thiển để tìm tới vẻ lịch sự và trang trọng.

Hình như nay đã đến lúc người ta bình tĩnh hơntrong việc nhìn nhận cái gọi là chất quý tộc và thấy rõ rằng quý tộc không chỉđồng nghĩa với suy đồi tàn tạ, quý tộc còn nên được hiểu như một phẩm chất củavăn hóa, và giá được sống như quý tộc mà không làm phiền đến xã hội thì cũnghay hay!

 

 

Không rõ một mỹ cảm như vậy sẽ ảnh hưởng đếncách ăn mặc vui chơi hay sáng tác của chúng ta ra sao, nhưng chắc chắn nó đã làđiều kiện thuận tiện để giúp chúng ta công bằng hơn trong việc nhìn nhận một sốhiện tượng văn hóa, chẳng hạn như trường hợp Cung oán ngâm khúc.

 

Mấy chục năm nay ở ta, khúc ngâm 356 câu ấy củanhà thơ Nguyễn Gia Thiều gần như bị đẩy vào quên lãng.

 Sách inthưa thớt: ở Hà Nội giữa hai lần in có khi cách nhau đến gần ba chục năm, phảivào các thư viện lớn mới tìm ra sách để đọc.

Trên ghế nhà trường phổ thông, học sinh khôngđược giảng Cung oán ngâm khúc, chỉ thỉnh thoảng lớp trẻ mới được nhắcqua rằng có một khúc ngâm như thế, song đại khái đó là tác phẩm tiêu cực, mộtthứ văn chương yếm thế lại kiểu cách khó hiểu.

Sự thực thì sáng tác của Nguyễn Gia Thiều đâucó một chiều đơn giản như vậy.

 

MỘT NGHỆ THUẬT ĐIÊU LUYỆN

Cũng như hàng loạt tác phẩm văn học cổ như TruyệnKiều, Nhị độ mai, Hoa tiên, Chinh phụ ngâm. v.v quả thật Cung oán ngâmkhông dễ đến với bạn đọc hiện đại.

Ngôn ngữ cô đọng, gò thắt, không chấp nhận bấtcứ sự “dừng chân” nào vội vàng chiếu lệ. Nhìn vào bản in, mỗi câu thơ kéo theocả đoạn dài chú thích, câu nào cũng chồng chất những điển tích lấy ra từ sách tậnđời Hán đời Đường thì làm sao khỏi ngại cho được!

Một thứ quy phạm nghiệt ngã đã khống chế ngòibút tác giả.

 

Chẳng những thế, câu chữ trong Cung oán ngâmthường khi có một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp vương giả, trau chuốt cầu kỳ mà kiêusa, tráng lệ:

- Trải vách quế gió vàng hiu hắt

Mảnh vũ y lạng ngắt như đồng

- Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ

Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu

Sóng cồn cửa bể nhấp nhô

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh

- Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ

Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn

- Lò cừ nung nấu sự đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

 

Ai người có thói quen đồng nhất cái đẹp với cáigiản dị và chỉ biết đến một sự hoàn thiện tự phát là hoàn thiện theo kiểu dândã, những người ấy dễ khó chịu với Cung oán ngâm.

Họ thường viết về thành tựu nghệ thuật của NguyễnGia Thiều với một sự thông cảm có pha chút chiếu cố.

 

Song đã đến lúc nên có một cách hiểu phóng túnghơn về cái đẹp: mộc mạc tự nhiên đã đành là đẹp rồi, song rực rỡ, óng ánh, thậmchí dụng công tô điểm như người con gái son phấn một cách khéo léo khiến ngườita phải trầm trồ khen ngợi, vẻ đẹp ấy vẫn cứ rất đẹp, đáng trân trọng.

 

Như những hàng cột uốn và các vòm mái huy hoàngở các nhà thờ, những pho tượng sơn son thiếp vàng lộng lẫy ở các cung điện đã rấtđẹp: ấy là khi con người muốn cạnh tranh với tự nhiên và tạo ra một thế giới bổsung bên cạnh tự nhiên

 

--

MỘT TRIẾT LÝ KHÔNG DỄ TỪ CHỐI

Vượt qua cái lạ của câu chữ là cái lạ của triếtlý, thứ triết lý này cũng toát ra qua từng câu thơ Cung oán ngâm với tấtcả vẻ đậm, gắt trong bút pháp tác giả.

 

Đạo Phật nói đời là bể khổ.

Nguyễn Gia Thiều không nói gì hơn, chỉ có mộtđiều ông thấm thía nó một cách sâu sắc và diễn tả như là chính người cung nữ củaông, chính ông nữa, vừa phát hiện cho mình.

- Kìa thế cục như in giấc mộng

Máy huyền vi mở đóng khôn lường

- Nghĩ thân phù thế mà đau

Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê.

 

Trong cái bể khổ đó, mỗi con người trở nên hếtsức bé nhỏ, sự tồn tại của họ là một cái gì phi lý (Phong trần đến cả sơnkhê - Tang thương đến cả hoa kia cỏ này… Trăm năm còn có gì đâu-- Chẳng qua mộtnấm cỏ khâu xanh rì  ).

 

Mỗi khi muốn bảo nhau rằng thơ Việt Nam cổ điểncũng trừu tượng siêu hình lắm, các nhà thơ hôm nay thường dẫn ra cách hình dungvề con người của Nguyễn Gia Thiều:

Cái quay búng sẵn trên trời—

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

 

Chúng tôi muốn bổ sung thêm: đấy còn là thứ thơđi sát cảm giác tôn giáo nữa. Khi con người bị đẩy vào cõi bơ vơ cũng là lúc ýniệm về một thế giới khác thường đến với họ.

Tại sao Nguyễn Gia Thiều lại đứng ra thuyếtminh cho một thứ triết lý như vậy?

Trả lời câu hỏi đó, người ta thường nói tới sựđiên đảo của cuộc đời trong cái thời mà một nhà thơ tài hoa và uyên bác như ôngphải sống.

 

Có điều cũng nên biết là trong nền nghệ thuậtthế giới, có một giai đoạn được xác định là nghệ thuật ba-rốc.

 

Qua cách diễn tả của nhiều tác giả ba-rốc nổitiếng như Bernini trong kiến trúc, Rubens, Van Dyck … trong hội họa, Tasso,Calderon v.v… trong văn học, cuộc đời thườnghiện lên với tất cả tính chất mong manh không ổn định của nó. Khi xem nó khôngkhác gì ảo ảnh, “cả cuộc đời này thật ra là một sân khấu lớn” - cũng là lúc ngườita cảm thấy vỡ mộng.

 

Mộng càng đẹp thì nỗi xót xa khi vỡ mộng càng lớn:giữa con người và hoàn cảnh mất đi sự hòa hợp vốn là đặc trưng của nghệ thuậtphục hưng.

Từ nay, những ám ảnh về cái chết không sao rờikhỏi đầu óc người ta nữa.

Thời gian cũng không còn mang cái chất trungtính bình thường, giờ đây thời gian trở nên một thế lực làm phai tàn mọi vẻ đẹp,làm hủy hoại mọi giá trị của đời sống. Phù du được coi như một thuộc tính khôngthể sửa chữa của tồn tại.

Tưởng như những nhận xét đó được viết để dànhriêng cho Cung oán ngâm và Nguyễn Gia Thiều.

 

Các nhà lịch sử và lý luận nghệ thuật đã có lýkhi coi nghệ thuật ba-rốc không chỉ là một hiện tượng Châu Âu và Ibêria Mỹ màlà một thành phần vĩnh hằng của văn hóa. Nó là cả một hướng phát triển của đờisống tinh thần con người.

Trong sự vận động liên tục của lịch sử, nhữngthời điểm con người có cái nhìn bi đát về mình cũng như về cuộc đời như vậy lànhững giai đoạn, những nấc thang, những pha cần thiết để họ có thêm sm tiếp tụcđi tới.

 

--

MỘT LỜI MỜI GỌI ĐẦY SỨC QUYẾN RŨ

Có một nghịch lý thường thấy ở nghệ thuật ba-rốc:sau khi bảo cuộc đời là phù du, là ảo ảnh, sau khi làm lây truyền một mối lo sợsiêu hình, các tác phẩm này đồng thời lại mời gọi người ta trở lại với cuộc sống,trên thực tế, chúng luôn luôn gợi ra niềm khao khát hưởng lạc, thậm chí có khicòn châm ngòi cho một sự bùng nổ nhục cảm mạnh mẽ.

 

 

Không hẹn mà nên, những quy luật phổ biến đótrong nghệ thuật ba-rốc cũng được Nguyễn Gia Thiều tận tình thực hiện.

 Nếu ở nhữngđoạn triết lý nói trên, người ta có thể trách tác giả đã gán cho người cung nữmột vai trò gượng gạo – lấy đâu ra một cung nữ uyên bác đến vậy! - thì khitrình bày nỗi khao khát hưởng thụ người ta mới thấy ông đã chọn được một ngườiphát ngôn tuyệt vời.

 

Xưa nay, trong văn học Việt Nam, mọi khoái cảm  xác thịt chỉ được diễn tả một cách lấp lửng nửa vời nếu không nói là giấu biệtđi, bảo nhau không nên đả động tới.

Cung oán ngâm khúc người phụ nữ mất hếtvẻ e thẹn vốn có, nàng sẵn sàng khoe ra tài năng vẻ đẹp , và cả khả năng quyếnrũ của mình.

Áng đào kiểm đâm bông não chúng

Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành

Bóng gương lấp ló trong mành

Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa

 

Trong cuộc đời chờ đợi dài dằng dặc của nàng,những giây phút cùng nhà vua chung chăn chung gối được xem như một kỷ niệm lớn

Đêm hồng thúy thơm tho mùi xạ

Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh

Mây mưa mấy giọt chung tình

Đỉnh trầm hương khóa một cành mẫu đơn

 

Niềm hạnh phúc vụt đến rồi lại vụt đi ấy đượcnàng nhắc lại với đầy đủ chi tiết (Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió…) và nỗiluyến tiếc lộ liễu (Cái đêm hôm ấy đêm gì…).

 Một mặt nàng oán trách số phậnđã đẩy mình tới cảnh “mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng”; mặt khác nàng vẫnkhông thôi hy vọng “Hòng khi động đến cửu trùng Giữ sao cho được máhồng như xưa.

Trong điều kiện của thế kỷ XX, con người hiện đạihẳn dễ dàng thông cảm với những ham muốn có vẻ tội lỗi ấy ở nhân vật.

 

 

Đọc Cung oán ngâm khúc, do vậy, là mộtcách để sống trọn vẹn hơn cái thế giới đa dạng bao quanh chúng ta. Cuộc du lịchtuy ngắn ngủi nhưng để lại những ấn tượng thật đậm. Ngôi đền nghệ thuật ấy có vẻđẹp riêng của một kiến trúc cổ, song lại gợi ra những suy tư, những xúc động rấttrần thế. Cho nên trước khi nói đến những hạn chế nào đó của tác phẩm, thiết tưởngviệc cần hơn là ghi nhận hết cái độc đáo có một không hai mà chỉ riêng nó mớicó, chính cái độc đáo ấy cũng là lý do khiến khúc ngâm này của Nguyễn Gia Thiềutrường tồn cùng lịch sử.

 

Vài néttiểu sử

NguyễnGia Thiều, sinh năm 1741, mất năm 1798, không rõ năm viết Cung oán ngâm khúc.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 03, 2024 03:20

January 29, 2024

Hồ Trung Tú - Lời kết viết cho cuốn "Có 500 năm như thế"

 

Chép theo Fb Tú Trung Hồ (Hồ Trung Tú) 23-1-2023---Trên Fb đang có cuộc trao đổi về nguồn gốc giọng Quảng Nam mà Hồ Trung Tú - viết trong cuốn "Có 500 năm như thế". Về ngôn ngữ học tôi không rõ. Riêng tôi thấy quan niệm về sự hình thành bản sắc dân tộc và tiếp nhận văn hóa mà tác giả trình bày trong Lời kết rất đáng ghi nhận. Vậy xin phép đưa vào đây. VTN
--
NHỮNG DÒNG ĐỂ KẾT THÚC.Vâng, ở Quảng Nam - Đà Nẵng vẫn còn nguyên đó những làng người Chàm trăm phần trăm cho dù họ mang họ gì đi nữa. Chỉ một ký ức bị đánh mất và ngôn ngữ là khác thôi. Số làng còn lại thì sự hòa huyết là chiếm tuyệt đại đa số. Như vậy tính về lượng, bằng cách gì đi nữa thì các yếu tố Chàm vẫn cứ chiếm tỷ trọng lớn trong máu huyết người Quảng Nam. Tiếc thay người ta vô tình, và cả cố tình lãng quên điều ấy.
Mà đâu phải chỉ chuyện huyết thống, cái di sản họ để lại trong tâm hồn người Quảng Nam, người Đàng Trong xem ra đâu phải là nhỏ. Những làn điệu dân ca Khu Năm buồn hiu hắt: “Chi mà tệ tệ rứa chàng, chi mà bạc bạc rứa chàng” thấm đẫm sự nhẫn nhịn ấy đầy ắp trong các bài dân ca Khu Năm. Những ông chồng Việt nhiều trách nhiệm với cộng đồng, có chức tước hẳn đã để các bà vợ Chàm hát ru con bằng những lời buồn nẫu ruột ấy.
Nhạc sĩ Trần Hồng, người lăn lộn cả một đời với dân ca Khu Năm đã phải thừa nhận rằng, dân ca Khu Năm chính là dân ca Chăm, không thể khác.
Không cần phải có sự học hành hoặc kiến thức về âm nhạc chúng ta cũng có thể thấy dân ca Khu Năm là một thế giới khác, nó không xuất phát từ đồng bằng Bắc Bộ, cũng không phải thoát thai từ Khu Bốn cũ, mà là một thế giới nào đó vừa dữ dội lại vừa dịu dàng, thô ráp mà cũng tinh tế.
Và nhất là cảm nhận thấy nó buồn hiu hắt, điều rất xa lạ với “tính tình hung hãn” như được chép trong “Dư địa chí”.
Và rõ ràng là những giai điệu này xa lạ với người phía Bắc đèo Ngang.
Mà đâu phải chỉ chuyện Quảng Nam, cả cái xứ Đàng Trong đến tận Sài Gòn rồi Cà Mau kia nữa, tất cả đều xuất phát từ sự giao hòa chủng tộc và văn hóa ấy.
Mở mang đất phương Nam là hoàn toàn của người Đàng Trong, mà lịch sử Đàng Trong thì bắt đầu bằng 300 năm hỗn cư không chính phủ (trước khi Nguyễn Hoàng vào) của vùng đất thuộc lưu vực sông Thu Bồn. Nó hình thành tính cách, trong đó có giọng nói, của cả một xứ Đàng Trong cho đến bây giờ.
Với lịch sử, chỉ có thêm chứ xin đừng bớt, chỉ có vơ vào chứ xin đừng đẩy ra. Bao nhiêu số phận, bao nhiêu con người đã sống, đã yêu thương và đấu tranh trải dài hàng ngàn năm qua nhưng rồi chỉ để lại thưa thớt đâu đó những câu ghi chép trong lịch sử không phải của mình, trong những nhận xét không thiện cảm, và cả trong sự miệt thị khôn nguôi của một xã hội vốn được trang bị một cái nhìn khác, lối sống khác, nhân sinh quan khác.

Họ đã giằng dai, giữ gìn từng mẩu bản sắc của cha ông trong sự thua kém ấy. Chỉ có thể trả lời cho sự thành công đó chính là nhờ vào số lượng đông đúc mà họ đã ở lại.

Thế nhưng 143 năm dưới các triều vua Nguyễn đã khiến họ đã phải từ bỏ tất cả, vì lý do gì chúng ta vẫn chưa thể biết tường tận , chỉ còn lại phảng phất đâu đó trong tính cách người Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên một nét văn hóa, tính cách bất chợt lộ ra, nhiều khi xa lạ như một người nước ngoài, khó nhọc diễn đạt ý tưởng, thô mộc trong ứng xử, chỉ lấy sự chân thành để bù đắp, lấy sự quyết liệt để thay thế cho sự tinh tế thị thành.*Vâng, thực sự chúng ta đã có 500 năm như thế, trước đây tôi chỉ đồ chừng rằng chỉ có 300 năm của một cuộc cộng cư (1306-1602) nhưng sau khi nhìn kỹ vào những tư liệu hiếm hoi có được chúng tôi đã phải nhìn nhận lại quãng thời gian đó. 500 năm là dài hay ngắn?
Câu hỏi rõ ràng là vô duyên này vẫn cứ buộc phải đặt ra để nhấn mạnh về sự hình dung cần thiết về độ dài thời gian “mờ mờ nhân ảnh ấy”.
Sau khi bản in lần thứ nhất công bố, có nhà nghiên cứu sâu sắc về lịch sử Đàng Trong vẫn cứ đặt ra câu hỏi trong một hội thảo quan trọng về văn hóa Đàng Trong: “Có xảy ra sự kỳ thị không khi người Việt vào vùng đất này”.
Câu hỏi này thoạt nghe thì hay, cần được bỏ công trả lời, thế nhưng đó là một câu hỏi phi phân kỳ, câu hỏi của cách nhìn cũ, 500 năm dồn lại một kỳ, một thế hệ, một đời người là xong. Với cái nhìn phân kỳ chúng ta thấy chắc chắn có lúc sự kỳ thị là người Chàm với người Việt, có lúc thì ngược lại, có lúc thì cộng cư hòa hiếu, có lúc thì quan lại cai trị là người Việt nhưng văn hóa chủ đạo lại là của người Chàm.
Cái cách mà chúng hiểu về chữ “kỳ thị” đó thực ra chỉ hình thành dưới thời các vua Nguyễn, câu văn tá thổ (lễ cúng thuê đất đầu năm của cư dân Quảng Nam) nhắc đến người Chàm như một sự kỳ thị “Lồi, Lạc, Chàm, Chợ, Mọi, Rợ, Man, Di, Ngung, Man Nương... ” chúng tôi chắc chắn chỉ hình thành dưới thời các vua Nguyễn khi người Chàm, văn hóa Chăm đã thực sự lùi bước ở Quảng Nam. Bằng chứng là trước khi Gia Long lên ngôi ta có được bức tranh trong sách của Barrow cho thấy cộng đồng người ở Đà Nẵng người Chăm được tôn trọng, các quan lại ngực đeo thẻ bài vẫn cùng vui cùng chơi với họ mà họ thì không ngại ngần gì chuyện ăn vận của mình không giống người Việt. (Xem ảnh)

Những bằng chứng thật ít nhưng may mắn là nó có được sự thuyết phục ở tính logic khá cao.

Giả sử, nếu như bây giờ chúng ta có được một đoạn phim nào đó được quay vào năm 1402 mô tả những cuộc tàn sát người Chăm trong một trận đánh nào đó, hoặc mô tả cuộc di dân mạnh mẽ đông đúc dưới thời nhà Hồ vào đất Quảng Nam nay thì bản thân tư liệu này cũng chỉ có giá trị ở không gian đó, lúc đó chứ ở không gian khác, thời gian khác thì có thể mọi chuyện đã không phải như vậy.
Ví dụ được nhiều người dùng là thành phần những lưu dân vào Nam, theo nhiều chỗ trong Sử Ký Toàn Thư thì nhiều tội nhân bị lưu đày vào Quảng Nam hoặc Thăng Hoa và từ đây rút ra tính cách của người Quảng.
Theo chúng tôi kết luận này là vội vàng, đơn giản vì số lượng người bị lưu đày này chắc chắn là không đáng kể so với những lưu dân ra đi vì mất mùa, đói kém hoặc dịch bệnh. Hơn nữa, những tội nhân xét cho cùng cũng là người bình thường, chỉ vì trong những hoàn cảnh đặc biệt mà phạm tội, nếu quy đó là thuộc tính tất nhiên thì có lẽ hẳn đã có công trình tâm lý học riêng về lĩnh vực này.

Vì vậy việc dùng tư liệu bao giờ cũng hạn chế nhất là khi ta xét đến những quãng thời gian dài. Những gì xảy ra năm 1306 sẽ rất khác với những gì xảy ra vào năm 1471 cũng như sẽ rất khác với những gì xảy ra ở Đà Nẵng khi Barrow cho thuyền cập bến Nam Ô ở vịnh Đà Nẵng năm 1793. Tương tự như vậy, những gì xảy ra ở vùng Bắc Thu Bồn cũng sẽ rất khác với những gì xảy ra ở Nam Thu Bồn hoặc với Bình Định, Phú Yên; những gì xảy ra ở đồng bằng ven biển cũng sẽ rất khác với những gì xảy ra ở miền núi trung du.

Có một thời nhiều người đặt nhiều hy vọng vào các bản “Bắc địa tấu từ” tương truyền là do các vị quan vào Nam viết báo cáo gởi ra Bắc, trong đó kể chuyện dành đất, tranh đất với người Chàm bằng cách thi xây dựng tháp, người Việt dựng tháp bằng tre bồi giấy, người Chàm dựng tháp bằng gạch nên thua và phải bỏ lên núi.
Những văn bản này nếu có thật và cho dù hoàn toàn đáng tin cậy về mặt tư liệu, như đoạn phim giả sử nọ, thì câu chuyện đó liệu có xảy ra trên tất cả xứ Đàng Trong? Và quan trọng hơn, điều gì xảy ra sau đó nữa, có phải họ, người Chàm đã bỏ chạy đi cả hay họ không bỏ đi đâu cả, vẫn ở lại và truyền cho người Việt di dân vào Nam cái nếp ăn nếp ở, mà có lúc thực sự đã văn minh hơn, giàu có, phong phú hơn những người ra đi từ những làng quê nghèo, phục trang phần nhiều là khố và nón mê.

Vì vậy kết luận có thể rút ra là cái chúng ta cần là một góc nhìn khả tín để tiếp cận với sự thật chứ không phải là những tư liệu đủ tin cậy hay bất cứ bằng chứng nào cho dù hay và chính xác đến đâu.Đã một thời gian dài chúng ta bằng lòng và kính trọng công lao của ông bà tổ tiên khi đọc thấy những dòng này trong gia phả: “Tiền hiền khai canh, hậu hiền khai cư... các ngài đến vùng đất này chiêu dân lập ấp...” mà không thử đặt câu hỏi rằng người dân nào đang ở đó cho các ngài ấy chiêu dân mộ đinh để lập làng, lập xã?

Bản thân những câu văn tôn xưng ấy không có lỗi, lỗi chăng là chúng ta chỉ biết nhìn vào đó, thấy lịch sử qua những câu văn như vậy, lịch sử được hình dung từ những câu văn tôn xưng ấy mà quên đi sự dịch chuyển, sự vận động của những cộng đồng dân cư bên dưới, không được ghi chép lại, nhưng chính họ, chính sự dịch chuyển và va chạm ấy đã tạo nên văn hóa, tạo nên cái hình hài bản sắc của người Quảng Nam hôm nay nói riêng và người Đàng Trong, người Việt nói chung.

Chúng ta thường nói nhân dân làm nên lịch sử nhưng hình như chúng ta đã làm ngược lại, dồn hết kính trọng cho các cá nhân !Và đây, tìm hiểu sự dịch chuyển, sự vận động, giao thoa của các tộc người, của các cộng đồng dân cư, của các nền văn hóa, trong lịch sử, mới chính là điều chúng ta cần hướng tới trong cuộc hành trình không đơn giản: hiểu đúng bản sắc.

Cũng vậy, ở miền Trung sự hình thành bản sắc đã diễn ra muộn hơn nhưng chính nhờ vậy nó lại cho ta một hình dung về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt trong quá trình vận động, va chạm của các tộc người, của các nền văn hóa khác nhau. Sự tự hào về nền văn hóa Việt không ngăn cản ta tự hào với bất cứ gốc gác nào đã góp phần tạo nên cái văn hóa đó.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2024 03:28

January 13, 2024

Huế: tiến thoái lưỡng nan của một kinh thành -- bài của Vũ Đức Liêm—

 Đăng lần đầu trênTia Sáng

Bản đưa dưới đây dẫn theo nguồn

https://nghiencuuquocte.org/tag/vu-duc-liem/

--- 

 

Nếu bạn là chúa Nguyễn Phúc Ánh, người vừa thống nhất Việt Namnăm 1802, bạn sẽ chọn vùng đất nào làm kinh đô?

Câu trả lời đương nhiên là Huế. Gia Định là vùng trù phú, cơ sởcủa việc phục hưng vương triều, nhưng cách Thăng Long gần 2000 km. Phương tiện(gần như duy nhất) để đi từ Sài Gòn ra Bắc là tàu bè trên biển.

Trong khi đó, Thăng Long là kinh đô cũ của nhà Lê Trịnh và trungtâm của vùng Bắc Hà, những người coi Nguyễn Phúc Ánh chỉ là một biên thần ‘kémvăn minh’ như cách mô tả của Lê Quý Đôn. Những người Bắc Hà sau đó chờ đợi việcchúa Nguyễn sẽ nhanh chóng lập lại vua Lê (Hoàng Xuân Hãn, 1998: 1405).

 

Tuy nhiên, việc Nguyễn Phúc Ánh ‘thất hứa’, lấy lí do là ônggiành được ngai vàng từ tay nhà Tây Sơn ‘tiếm ngụy’ chứ không phải nhà Lê đãngay lập tức làm cho dân chúng vùng châu thổ sông Hồng quay lưng lại với vươngtriều mới (Đại Nam liệt truyện (ĐNLT), sơ tập, quyển 10). Đó là lí do có cáccuộc nổi loạn chống lại nhà Nguyễn ngay sau năm 1802.

 

Việc chọn Huế làm kinh đô, tuy thế, không đơn giản là ‘tìm về chốncũ’ mà là một cuộc đấu trí địa-chính trị, địa-quân sự, địa-kinh tế cực kỳ phứctạp. Hệ quả của lựa chọn đó không chỉ là vận mệnh vương triều mà còn là triểnvọng của một lãnh thổ Việt Nam vừa mới được thống nhất. Lãnh thổ này sẽ đượcquản lí từ đâu? Liệu nhà nước tiếp theo ở Việt Nam có bị ‘vỡ vụn’ như Tây Sơn? 

Bài viết này không nhằm lên án “sai lầm” địa chính trị của GiaLong. Nó cũng không tìm cách đổ lỗi cho Huế vì những thăng trầm của lịch sửViệt Nam ở thế kỷ XIX. 

Điều quan trọng hơn,bài viết chỉ ra khó khăn của người Việt đầu thế kỷ XIX trong việc tìm kiếm cáchthức quản trị nhà nước ở Việt Nam, từ việc tìm vị trí đóng đô, cho đến điềuhành quân đội, thu thuế, xác lập đơn vị hành chính. 

Lãnh thổ Việt Nam năm 1802 là một cấu trúc địa chính trị, vùngmiền, cư dân, và kinh tế đặc biệt. Liệu nhà Nguyễn sẽ tìm kiếm một hình dunglãnh thổ mới hay tuân theo các tri thức và thói quen địa chính trị của chúaNguyễn để áp đặt nó lên một Việt Nam thống nhất. Quyết định này không chỉ phảnánh tri thức của thời đại, cán cân quyền lực vùng miền mà còn là sự tự tin củaNguyễn Phúc Ánh và cách thức ông nhận thức về tính chính thống và khả năng quânsự của mình. Nói cách khác, nó gợi mở về câu hỏi Nguyễn Phúc Ánh đã chọn conđường nào cho Việt Nam. 

Tôi đã lập luận rằng thất bại lớn nhất của Tây Sơn không phải làsự chia rẽ, hay quyền thần, hay vua nhỏ, hay tổ chức hậu cần… mà ở chỗ cácchính quyền Tây Sơn chưa phác thảo một bản đồ tác chiến cho toàn Việt Nam.

 

 

Vì điểm này, Tây Sơn hoàn toàn lúng túng trong việc đưa ra mộtgiải pháp quân sự hữu hiệu trên toàn bộ lãnh thổ mà họ kiểm soát, liên quan đếnchuyển quân, tuyển lính, dịch chuyển các trung tâm quân sự, tổ chức phòng thủvà yểm trợ lẫn nhau khi cần thiết (Vũ Đức Liêm, BBC, 2018).

 

Các chiến dịch theo mùa gió nồm của Nguyễn Phúc Ánh chính là đãđánh trúng điểm yếu này, làm cho Tây Sơn hoàn toàn lúng túng, bị động trong cảmột thập kỷ để tìm cách đối phó bằng cách kéo dãn lực lượng quân sự trên vùngduyên hải khoảng 800 km từ Diên Khánh đến Đồng Hới (Vũ Đức Liêm 2017; Đại Namthực lục (ĐNTL), I, 6: 1a-b).

 

 

 

Sau chiến thắng đó, việc đóng đô ở Huế, không phủ nhận, được coilà “tối ưu” từ cái nhìn của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, chính điều này đã gây ra khókhăn lớn trong việc quản trị nhà nước ở Việt Nam bởi vì Huế thích hợp là thủphủ của một vùng hơn là kinh đô của một nước.

 

 

Huế là trung tâm của chính quyền Đàng Trong khoảng hai thế kỷ,và việc lựa chọn vùng đất này bản thân nó là hệ quả của một quyết định khó khăncủa các chúa Nguyễn thuở ban đầu. Huế là kinh đô cũ của dòng họ, nơi NguyễnPhúc Ánh có chỗ dựa cũng như cơ sở hành chính. Tuy nhiên khi lãnh thổ đã kéodài ra hơn 2000 km về phía Bắc và Nam thì kinh đô này nhanh chóng bộc lộ haiđiểm yếu quan trọng.


Haiđiểm yếu quan trọng

Thứ nhất là khung cảnh tự nhiên chật hẹp và vị trí địa lý bị côlập.

Vùng đất này nằm ở trung tâm của một dải đồng bằng nhỏ hẹp vàrất khó để huy động một nguồn lực lớn để phản ứng nhanh với tình trạng thảm họahay tình thế khẩn cấp.

 

 

Việc Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn loay hoay trong nhiều thậpkỷ mới tìm được đất đặt trị sở lâu dài ở Phú Xuân chính là một phép thử của sựphức tạp địa lý. Từ ngã ba Bằng Lãng nơi dòng Tả Trạch hợp với Hữu Trạch thànhsông Hương ra cửa Thuận An là 33 km. Tuy nhiên, theo đường chim bay, khoảngcách này chỉ là 20 km. Trong khi phía tây là núi thì phía đông là dải bờ biểnchỉ rộng hơn 10 km.

 

 

Các vụng và đầm phá nông làm cho Huế cực kỳ ‘bị động’ từ gócnhìn quân sự và kinh tế. Huế vì thế không có không gian cho một ‘sân khấu’chính trị, quân sự, kinh tế lớn, hay các phương án tiến thoái cần thiết nếu nhưcửa Thuận An bị cô lập (như sẽ xảy ra vào năm 1883).

 

 

 Huế xa các nguồn hậu cầnvà (với kỹ thuật thời đó) không có khả năng kết nối với các nguồn ngày một cáchnhanh chóng, hiệu quả khi cần. Vào thời Nguyễn, các cuộc duyệt binh lớn nhất ởHuế thường vào khoảng 20,000 người và voi, tuy nhiên, không gian địa hình, hậucần, cũng như các cảng biển nhỏ, nông không cho phép một sự tập trung quân sựlớn và lâu dài ở khu vực này.

 

 

 

Huế không phải là nơi có thể phòng thủ tốt. Điều này sẽ đượcminh họa vào năm 1883, 1885, 1968 và 1975. Vào tháng 3/1975, khi quân Việt NamCộng hòa bị tấn công từ phía tây nam, con đường Huế-Đà Nẵng bị cắt đứt, Huế bịcô lập và cửa Thuận An, Tư Hiền trở thành đường thoát duy nhất của họ.

 

 

 

Thứ hai, khung cảnh kinh tế, xã hội, dân cư và quân sự của Huếgây ra trở ngại trong việc điều hành nền chính trị nhà nước. Có nhiều trung tâmchính trị trên thế giới có quy mô nhỏ và vẫn điều hành được một nhà nước, đếchế lớn. Tuy nhiên, đáng tiếc là điều này không dành cho Huế bởi vì triều đìnhở đây không chỉ làm chức năng hành chính đơn thuần mà thành bại của họ gắn vớikhả năng điều hành trực tiếp hệ thống kinh tế, quân sự tại hai trung tâm dân cưở hạ lưu Mekong và châu thổ sông Hồng.

 

 

Bất cứ phản ứng thiếu linh hoạt nào trước các biến động tại haikhu vực đông dân cư này đều để lại hậu quả khó lường cho cả vương quốc.

 

 

Thêm nữa, Huế và vùng lân cận không tự sản xuất đủ lương thực,không đủ nguồn lính dự trữ, vì thế việc điều phối kinh tế và điều hành quân sựlà sống còn cho chính bản thân Huế. Từ thời các chúa Nguyễn, Huế đã lệ thuộc vềlương thực, thuế khóa vào Thuận Quảng và Gia Định. Ghi chép của các giáo sĩphương Tây cho thấy khi Tây Sơn chiếm được Quy Nhơn và cắt đôi Đàng Trong, Huếđã rơi vào cuộc khủng hoảng lương thực. Khi quy mô của nhà nước mở rộng, sự lệthuộc này chỉ có ngày càng tăng lên.

 

 

 

Đối mặt với điều này, Nguyễn Phúc Ánh cũng không thể làm hơn, dùông là người chiến thắng. Ông biết tình thế nan giải về địa chính trị của mình,và dung hòa bằng cách cử hai vị tướng giỏi nhất án ngữ hai vùng châu thổ đôngdân, giàu có, còn bản thân ông cai trị một khu vực nghèo nàn ở miền Trung. Disản này buộc con trai ông, Minh Mệnh trả giá 15 năm để tìm cách thống nhất,theo sau một thập kỷ của biến loạn và xung đột khắp cả nước, từ Phan Bá Vành,Nông Văn Vân ở Bắc Kỳ đến Lê Văn Khôi ở Gia Định (1826-1836).

 

 

 

Cũng chính việc Nguyễn Ánh lựa chọn Huế làm kinh đô mà hàng loạtcác vấn đề kinh tế, xã hội quân sự được đặt ra khi triều Nguyễn luôn phải tìmcách tạo thế cân bằng và hoạch định chính sách cho hai đồng bằng lớn.

 

 

Riêng việc vận tải lúa gạo, lương thực, quân lính, tiền đúc…hằng năm giữa Gia Định, Huế, Nam Định-Hà Nội đã là một gánh nặng khổng lồ sovới nhân lực thời bấy giờ.

 

 

 

Thông tin liên lạc là một trong những trở ngại lớn nhất của quảntrị nhà nước ở Việt Nam sơ kỳ hiện đại (1600-1850). Đến tận 1748 mới có cáctuyến giao thương liên lạc đường bộ kết nối Gia Định với khu vực xung quanh.Liên lạc giữa Gia Định và Hà Tiên phải tiến hành bằng thuyền, dọc theo duyênhải, mất nhiều ngày.

 

 

Tới năm 1804, nhà Nguyễn mới bắt đầu kết nối các hệ thống giaothông Bắc Nam, được biết đến là đường Thiên Lý hay đường Cái Quan. Tuy nhiên,đến tận những năm 1830, Đại Nam Thực lục vẫn chép về việc hổ đi lang thang khắpnơi dọc theo các tuyến đường này. Cùng với hổ, ‘thổ phỉ’ cũng ở khắp nơi. Kể cảnhững vùng như Tam Điệp (Ninh Bình), Hà Trung (Thanh Hóa), nơi mà những năm1830, việc văn thư đi qua đây bị cướp là chuyện không hiếm. Phải mất nhiều thậpkỷ để đường xá, kênh đào, hệ thống liên lạc được xác lập.

 

 

 

Một hành khách “bất đắc dĩ’ trên con đường này là vị tiến sĩtriều Thanh Thái Đình Lan (1801-1859), người bị bão đánh dạt trên đường trở vềquê ở Bành Hồ tới phủ Tư Nghĩa (Quãng Ngãi) vào năm 1835. Sau đó ông xin phépMinh Mệnh theo đường bộ quay trở lại Trung Hoa và mô tả cuộc hành trình đầygian nan này, bao gồm thử thách leo đèo Hải Vân và nỗi ám ảnh giặc cướp phụckích suốt một dải hàng trăm km từ Quảng Bình ra Nghệ An: “Từ Quảng Bình đến NghệAn khoảng 400 dặm, đất đai thấp ướt, đường trơn như mỡ, bùn lầy dính chặt chânkhông rút chân lên được, đồng không mông quạnh, hàng mấy chục dặm không thấybóng một căn nhà nào, trộm cướp thường ẩn nấp trong các lùm cây rậm rạp khiếnkhách đi đường không thể không lo lắng đề phòng. Các nhà trọ thì thường bỏthuốc độc hại người, khách ăn phải thuốc độc trộn với thịt bò thì vô phương cứuchữa.” (Trần Ích Nguyên 2009: 200).

 

 

 

Sứcép cho việc

dịchchuyển các nguồn lực

 

Hệ quả lớn nhất của việc Huế trở thành kinh đô của Việt Namchính là việc phải dịch chuyển các nguồn lực từ lúa gạo, quân lính, tiền đúc,kim loại, súng đạn, thuốc súng, đá xây dựng cho đến dây mây, cá khô… giữa GiaĐịnh, Huế, và Hà Nội. Việc cung cấp tiêu dùng cho hoàng gia và chính quyềntrung ương trong điều kiện nửa đầu thế kỷ XIX là không đơn giản vì phần lớnđược vận chuyển bằng thuyền từ Nam Kỳ và Bắc Kỳ.

 

 

Chỉ riêng việc vận chuyển lương thực và tiền đồng bảo đảm nguồndự trữ, lương cho binh lính, quan lại, cứu đói, và phục vụ các chiến dịch quânsự dưới thời Minh Mệnh đã là một nỗi ám ảnh lớn đối với vương triều. Công việcnày hằng năm yêu cầu phục vụ của khoảng 650 thuyền và hàng vạn phu thuyền. Điềunày tạo ra sức ép khổng lồ về nhân lực ở thế kỷ XIX và gây ảnh hưởng đến việcgiải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội.

 

 

 

Chính việc này choán hết tâm sức của nhà Nguyễn và hệ thống quanliêu. Nhiều người đã tìm cách giải quyết, nhưng dường như không hữu hiệu. Đềxuất năm 1829, Nguyễn Công Trứ đề nghị lập các kho thóc tại xã (xã thương) đểđiều tiết giá cả, và tìm cách quản lí chính nguồn lương thực tại châu thổ sôngHồng (Châu bản triều Minh Mệnh, tập 30: 203).

 

 

Tuy nhiên điều này là khó khả thi vì không may là trong nhữngnăm 1802-1861, cứ hai năm thì Bắc Kỳ có một lần vỡ đê, một trong những tỉ lệcao nhất trong lịch sử gần 1000 năm khi người Việt bắt đầu “tiếp quản” vùngchâu thổ này. Vì thế, Bắc Kỳ thường xuyên lệ thuộc vào lúa gạo cứu trợ, vàtriều đình phải thường xuyên điều hành mạng lưới dòng chảy lương thực này.

 

 

 

Luân chuyển binh lính là một sức ép khác của nền hành chính điềuhành từ Huế. Triều Nguyễn không tin vào binh lính địa phương vì sợ các mối quanhệ họ hàng thân thuộc tiếp tay cho thế lực cát cứ, nổi loạn. Điều này đặc biệtđược nhấn mạnh sau khi Lê Chất qua đời (1826) và Bắc Kỳ chìm vào cơn hỗn loạnbạo lực.

 

 

Binh lính từ Hà Tĩnh ra Bắc phần nhiều được lấy từ Quảng Bìnhtrở vào Nam. Quy mô của chính sách này đã gây ra sức ép cho ngân khố đến mứcnăm 1833, Hộ bộ tấu lên Minh Mệnh, yêu cầu rà soát lại hệ thống lương bổng củaquan và binh Bắc Kỳ vì hệ thống này làm cho ngân khố không gánh được (Đại Namthực lục, II, 95: 16b).

 

 

 

Chỉ riêng việc lo tổ chức vận chuyển binh lính, lương thực… hằngnăm với hàng trăm tàu thuyền và hàng vạn người tham gia đã là một gánh nặng đốivới xã hội và nền chính trị, tạo ra sự kìm hãm sự phát triển của thương mại tựdo, của các nhà nước tài chính (fiscal-state) trong lúc quá trình hiện đại hóacủa các nhà nước và quản trị nhà nước trở nên cấp thiết hơn bao giờ.

 

 

Nói cách khác, vận mệnh của nước Việt Nam hiện đại đã bị đánhđổi bởi những chương trình nghị sự vương triều mà một phần không nhỏ đến từ vịthế tiến thoái lưỡng nan của Huế.

 

 

 

Một số vua triều Nguyễn ý thức phần nào về tác động của vị tríđịa lý của Huế, tuy nhiên rõ ràng là họ không có lựa chọn nào khác tối ưu.

 

 

Giống như Quang Trung, Nguyễn Ánh từng có ý tưởng đóng đô tạiNghệ An. Tuy nhiên, lựa chọn này dường như đơn thuần mang ý nghĩa khoảng cáchđịa lý nhiều hơn là các tính toán kỹ lưỡng về địa chính trị và quyền lực vùng.Con trai ông, vua Minh Mệnh sau đó đã cảnh báo con cháu một cách nghiêm khắcrằng không bao giờ được phép dời đô về Nghệ An hay ra Bắc (ĐNTL, II, 12: 1a-b).

 

 

 

Một trong những ảnh hưởng dễ nhận thấy từ vị trí địa lý của Huếchính là sự lúng túng trong việc điều quân, tổ chức lực lượng tiến hành cácchiến dịch quân sự trên lãnh thổ Việt Nam và sau đó là cuộc chiến tranh chốngPháp xâm lược.

 

 

Đương nhiên thái độ của triều đình, tình trạng sức khỏe của TựĐức, hay đối sách quân sự đóng vai trò cốt lõi, tuy nhiên vị thế của Huế và khókhăn của hệ thống thông tin liên lạc đã gây trở ngại lớn cho cách thức triềuđình tổ chức hệ thống quân sự, hậu cần, vũ khí, lương thực… để chống Pháp ở hạlưu Mekong và châu thổ sông Hồng.

 

 

 Vị thế nhỏ bé và ‘khônglối thoát’ của Huế cũng đã được định đoạt bằng cuộc bao vây quân sự của ngườiPháp tháng 8/1883, sau đó là cuộc tấn công trực diện vào cửa Thuận An và Huế đãkhông thể đưa ra một kế hoạch tác chiến cơ động nào. Cuộc rút chạy hai năm sauđó của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết qua gần 100 km tới Cam Lộ (Quảng Trị)cho thấy khả năng cơ động thấp của Huế và khả năng kết nối thấp với các vùnghậu cần chiến lược.

 

 

 

Cuối cùng, thế tiến thoái lưỡng nan của Huế cho thấy những giannan của người Việt trong nỗ lực xác lập hình hài Việt Nam hiện đại với lãnh thổthống nhất từ Lạng Sơn đến Hà Tiên. Dĩ nhiên, không thể ‘đổ lỗi’ cho tất cả cácbiến cố của lịch sử Việt Nam ở thế kỷ XIX là do Huế hay vị trí của Huế.

 

 

Lịch sử được quyết định bởi con người, do người cầm quyền đưa ralựa chọn.Tuy nhiên, địa lý luôn là yếu tố can dự vào các tương tác của conngười vì thế cần phải hiểu chúng đóng vai trò nào trong các biến cố của ViệtNam.

 

 

Bài viết vì thế đơn giản chỉ ra một góc nhìn khác về địa chínhtrị, lãnh thổ, quyền lực và ảnh hưởng của nó đến diễn trình lịch sử Việt Nam sơkỳ hiện đại. Nó gợi ý về những gian nan của cha ông trong bước đầu tổ chức quảnlí một lãnh thổ thống nhất và rộng lớn chưa có tiền lệ. Việc phải cân bằng batrung tâm quyền lực trên lãnh thổ Việt Nam: Huế, Gia Định, Hà Nội là điều khôngdễ, và chưa bao giờ dễ dàng.

Còn bây giờ, nếu bạn là Gia Long, bạn sẽ đóng đô ở đâu?

 

 

 

Tham khảo

---------‘‘‘a“Châu Bản Triều Nguyễn, Triều Minh Mệnh/阮朝硃本,明命朝, 1820-1841.” Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Yên Hồ, Tập 2. Hà Nội: Giáo Dục, 1998.

Vũ Đức Liêm. “‘Nam Tiến’ và Cái Bẫy Địa Lý Của Người Việt”, BBCVietnamese, October 2018.

 

———. “The Age of Sea Falcons: Naval Warfare in Vietnam,1771-1802.” In Warring Societies of Pre-Colonial Southeast Asia: Local Culturesof Conflict Within a Regional Context, edited by Kathryn Wellen and MichaelCharney, 103–29. Copenhagen: Nordic Institute of Asian Studies, 2017.

———. “Việt Nam: Lịch Sử Một Dân Tộc ‘Dễ Bị Tổn Thương.’” TiaSáng, 2018.

 

 

Nguồn:"https://tiasang.com.vn/.../hue-the-tien-thoai-luong.../...

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 13, 2024 20:24

January 11, 2024

Khi Thăng Long để mất rồng: Sự “giáng cấp” của Hà Nội thế kỉ XIX -- tác giả: Vũ Đức Liêm

 


Đăng lần đầu trên TiaSáng

Bản đưa dưới đây dẫn theo nguồn

https://nghiencuuquocte.org/tag/vu-du...

 

----------------------

Dù năm 1805, địa vị kinh đô của Thăng Long bị hạ cấp, nhưng đóchỉ là sự khởi đầu của một cuộc hành trình gian nan thời hiện đại giữa Huế-HàNội- Sài Gòn để tìm kiếm bản sắc của một Việt Nam hiện đại. Giữa những biếnloạn đó, dù kinh đô có đi đâu chăng nữa thì rồng vẫn ở lại với người Việt, ởtrên cõi Việt.

Mùa đông năm1802, bốn tháng sau khi nước Việt Nam được thống nhất và lần đầu tiên lãnh thổxuất hiện với hình dạng chữ S, nhà vua mới Gia Long phái một sứ đoàn đi BắcKinh để cầu phong.

Giống như tháchthức đè nặng phái đoàn của Phùng Khắc Khoan hơn 200 năm trước để lấy lại quyềntriều cống cho vua Lê, các sứ thần này có sứ mệnh làm rõ họ Nguyễn từ đâu tớivà tại sao họ chính danh để cai trị Việt Nam. Nguyễn Phúc Ánh có lẽ không ngờtới một trong các thử thách cam go với sứ đoàn tới từ chính niên hiệu của ông.Trong chữ “Gia Long” 嘉隆, “Gia” trùngvới niênhiệu hoàngđế Gia Khánh 嘉慶nhà Thanh, còn Long trùng vớiniên hiệucủa phụthân Gia Khánh: CànLong 乾隆.

Khỏi nói, sứ đoàn chắc đã toát mồhôi. Nhưng vị phó sứ Nguyễn Gia Cát, tiến sĩ nhà Lê người Bắc Ninh đã lêntiếng. Ông lí giải rằng niên hiệu đó xuất phát từ chỗ Nguyễn Phúc Ánh thốngnhất lãnh thổ mới từ Gia Định 嘉定 tớiThăng Long 昇龍 .Câu chuyệntương truyền nàychỉ đượcchép lạitrong các tậpđịa chíchứ khôngcó trong chính sửvì thếchúng ta vẫn chưacó thêmsự kiểmchứng nào(Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí). Nhưng nếuđiều đó xảy ra, Nguyễn Gia Cát rõ ràng đã có một ‘pha cứu thua’ ngoạn mục chotriều đại mới. Dù tới năm 1805, Gia Long mới đổi từ Thăng Long 昇龍 thànhThăng Long昇隆 (Từ“Long”[rồng] sang “Long”[thịnh vượng],nhưng BắcKinh đã khôngchất vấnthêm một lần nào nữa.1 Sausự kiện này, Gia Long được tấn phong Việt Nam Quốc Vương,và “Việt Nam” cũng “chính thức” bắt đầu.

Như thế, năm1805, Thăng Long đã mất “rồng” và chỉ còn ‘hưng thịnh’.

Gia Long khônggiải thích tại sao đổi từ “rồng” sang “hưng thịnh”. Chúng ta chỉ biết rằng rồngđã không còn ở chỗ cũ và địa vị kinh đô của Thăng Long bị hạ cấp. Sách Thực lục chép ngắn gọn: Đổi thành ThăngLong 昇龍 làm thànhThăng Long 昇隆, phủPhụng Thiênlàm phủHoài Đức,huyện QuảngĐức làmhuyện VĩnhThuận (Đệnhất kỷ, 27: 7b).

Đế đô cũ sẽ trởthành trung tâm của hệ thống hành chính cấp vùng mới gọi là Bắc Thành được lậpnăm 1802 và do một viên tổng trấn cai quản. Tới năm 1831, hệ thống hành chínhnày bị Minh Mệnh xóa bỏ và Bắc Thành được chia làm 11 tỉnh. Thăng Long giờ trởthành một phần của tỉnh Hà Nội mà phạm vi hành chính bao gồm cả một phần Hà Tây(cũ), Hà Nam và Nam Định. Về mặt tổ chức hành chính, trung tâm của Thăng Long(Lê-Trịnh) chủ yếu tập trung ở hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương (thuộc phủHoài Đức), mà quyền quản lí hành chính thuộc về viên tri huyện Thọ Xương.

Vậy rồng đi về đâu?

Một năm sau khirồng biến mất ở Thăng Long, nó xuất hiện ở Huế: trong lễ lên ngôi hoàng đế củaGia Long. Nhà vua mất 4 năm chuẩn bị trước khi quyết định chính thức xóa bỏ nhàLê và xác lập triều đại của dòng họ mình như là người cai trị của nước Việt Nammới.

Một trong nhữngcách thức để làm dân chúng quên đi vua cũ chính là hạ cấp vùng đất mà họ Lê caitrị, làm cho nó bớt ‘linh thiêng’, mất đi tính chất ‘thiên mệnh’ của đế đô cũ.Thậm chí triều Nguyễn còn tháo dỡ nhà cửa, thành quách cũ, thu hẹp lại quy môđể biến nó trở thành một trấn thành ‘thông thường’.

Gia Long tiếnhành “rà soát”, “quy hoạch” lại hệ thống thần linh trong cả nước (đặc biệt nhắmvào vùng châu thổ phía Bắc), xây dựng quy trình “bổ nhiệm” bách thần mới. Tấtcả các đền thờ vua Lê chẳng hạn, bây giờ dồn lại một nơi duy nhất, được dựng ởKiều Đại, cách thành phố Thanh Hóa 2 km về phía Nam.

Thăng Long bị hạ cấp

Chúng ta sẽ xemsự hạ cấp đó ảnh hưởng thế nào tới số phận một đô thị. Sự phân tích sẽ cho thấytính chất dễ bị tổn thương của các đô thị ở Việt Nam vốn gắn liền với một trungtâm chính trị. Sự hưng vong của trung tâm chính trị đó thường là yếu tố quyếtđịnh tới sinh mệnh đô thị. Điều này giúp bóc tách phần ‘đô’ và phần ‘thị’ trongmột cấu trúc thành thị Việt Nam và khuynh hướng phát triển của nó khi hạ cấpcủa yếu tố ‘đô’. Liệu phần ‘thị’ có thể tiếp tục sống và sống khỏe?

Đầu tiên triềuNguyễn đã tái cấu trúc lại khu vực hành chính và thành quách. Năm 1804, hoàngthành cũ bị phá và năm sau đó một thành chu vi nhỏ hơn (5 km), tường bị hạthấp, theo kiến trúc Vauban, với 5 cửa: Đông Nam, cửa Tây Nam, cửa Đông, cửaTây và cửa Bắc), mỗi cửa đều dựng bia để ghi. So với thành Huế có tường bao dàikhoảng 10.950 m và 10 cửa.

Thăng Long cấtđi vai trò là trung tâm giáo dục hàng đầu khi Văn miếu và Quốc tử giám mới đượcxây dựng ở Huế. Trung tâm giáo dục quan trọng của vùng bây giờ là học đường phủHoài Đức và Tràng Thi được xây dựng trên khu vực nay là Thư viện Quốc gia.

Không dừng lạiở đó, nhà vua thứ hai triều Nguyễn là Minh Mệnh, nhân chuyến ra Bắc nhận thụphong, tuyên bố cấm con cháu không được rời đô ra Thăng Long vào năm 1821:

“Nếu nghìn trăm năm sau,sự thế có khác đi thì làm thế nào? Bắc Thành không phảinơi hiểm đủ trông cậy được, quyết không thể dời đô đến được. Trẫm muốn dựng kếlâu dài cho con cháu, đêm ngày nghĩ ngợi, chưa từng chốc lát lãng quên” (Thựclục).
Bảnđồ các làng có dân lưu tán ở vùng châu thổ năm 1807 (Yumio Sakurai 1997).

Lúc này, vai trò chính trị quantrọng nhất của Thăng Long là trung tâm của đơn vị hành chính cấp thành, nơi tấtcả văn thư liên lạc và các quyết định từ các trấn phải được Tổng trấn Bắc thànhquyết định trước khi trình lên Huế. Thứ hai, là nơi vua nhà Nguyễn nhận thụphong từ hoàng đế Trung Hoa lúc mới lên ngôi. Tuy nhiên từ thời Tự Đức, sứ nhàThanh sẽ vào Huế để tấn phong cho vua Việt Nam thay vì vua Nguyễn ra Hà Nội.

Như vậy, từ1802 đến 1848, Hà Nội đã mất đi các chức năng hành chính quan trọng nhất của nóvới tư cách là một trung tâm chính trị. Điều này sẽ tác động tới kinh thế và tổchức đô thị ra sao?

Khi Lê Hữu Trácra Bắc năm 1782, vị thầy thuốc thấy “quán rượu, hàng cơm liên tiếp nối nhau”.Một thế kỷ trước, cũng tại nơi đó, thương nhân Samuel Baron (1683) mô tả:

“Vào các phiên chợ chínhngày mồng một và ngày rằm âm lịch hàng tháng, người dân cùng với hàng hóa đổ vềđây nhiều không xuể. Những con phố ngày thường vốn rộng rãi, quang đãng, giờđây trở nên chặt chội đến nỗi chỉ nhích được 100 bước trong nửa tiếng đồng hồcũng là tốt lắm rồi” (Nguyễn Thừa Hỷ, Văn hóa Việt Nam truyền thống, 124).

Tuy nhiên mộtngười Pháp trong đạo quân viễn chinh cuối thế kỷ XIX đã nhìn thấy một Hà Nộikhác. Đây là mô tả của ông trong những năm 1882-1893: “Đường phố của thành phố ở trong tình trạng tồi tệ, những phốphường rất hẹp … dọc theo hai bên đường, thực sự là những vũng nước đọng hôithối, không có lối thoát… thậm chí khách bộ hành có lúc phải lội bì bõm tronglớp bùn sâu có chỗ tới 1 bộ” (Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng Long-Hà Nội dưới thời Nguyễn,1999).

Thực tế cấutrúc địa-kinh tế của Hà Nội đã chuyển dịch mạnh mẽ chỉ trong vòng 3-4 thập kỷ,nơi mà các yếu tố ăn theo chính trị nhanh chóng lụi tàn, nhường chỗ cho cáckhuynh hướng đô thị mở rộng theo dòng thương mại.

Khu vực cư ngụcủa vua Lê chúa Trịnh cũ chịu thiệt hại đầu tiên. Sự suy sụp của khu vực xungquanh Hồ Gươm là ví dụ cho thấy sự biến mất của thành đã làm sụp đổ thị như thếnào. Khu vực này vốn được bao bọc bởi các cung điện và dinh thự của vua Lê,chúa Trịnh, gắn liền với nơi đồn trú và tập dượt của hạm đội thủy quân Bắc Hà.Sự thịnh vượng của nó vốn được thúc đẩy nhờ vào cung vua, phủ chúa, quan lại,cấm binh… nay chứng kiến quá trình nông thôn hóa trở lại. Sang thế kỷ XIX, hồđã bị thu hẹp đáng kể, biến thành nơi chứa rác, và nơi các gia đình xung quanhra rửa bát (Charles Hocquard, Une campagne au Tonkin, 1892; Paul Bourde, De Paris au Tonkin, 1885).

Đúng là:

Tạo hóa gây chi cuộc hýtrường

Đến nay thấm thoắt mấytinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thuthảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịchdương.

(Bà huyện ThanhQuan)

Sử gia NguyễnThừa Hỷ (1999) cũng chỉ ra quá trình nông thôn hóa tại hai khu vực từng làtrung tâm chính của Hà Nội. Một số phường thôn thời Lê có khả năng ở khu phíaTây trong hoàng thành bị nông thôn hóa trở lại, trở thành các trại, thôn củaTổng Nội. Tuy nhiên các khu vực phía Nam của Thăng Long cũ chịu ảnh hưởng nặngnề hơn so với việc mất mát dân cư quy mô lớn, nơi mà Thực lục nói rằng có nhữngthôn chỉ còn ba bốn suất đinh. Một nhà thơ đương thời là Cao Bá Quát thì mô tảtình trạng dân lưu tán ở phường Phúc Lâm (quận

Hai Bà Trưng ngày nay):  “…Mười phần chỉ còn một hai/  Nào lính, nào phu, nỗi khổ chưaqua/ Con bé, cháu nghèo đều bỏ đi hết”.

Một phần của sựchuyển dịch và mất mát dân cư này có thể chịu ảnh hưởng bởi khung cảnh khu vựcvùng châu thổ đầu thế kỷ XIX. Cuộc nổi loạn của Phan Bá Vành chẳng hạn, tạo ramột vành đai bạo lực xung quanh Thăng Long. Dịch bệnh và các vụ vỡ đê thườngxuyên trong khoảng 1800-1860 cũng là xúc tác của sự dịch chuyển dân cư này.

Sau khi mất điphần ‘thành’, thị trở thành động lực duy nhất gánh vác sức sống cho Hà Nội.Hoạt động kinh tế duy nhất được nhà nước bảo trợ chính là Cục Bảo Tuyền (nơiđúc tiền đồng và kẽm) cho triều đình đặt tại khu vực Tràng Tiền mà sau nàyngười Pháp sẽ thúc đẩy vị thế thương mại của khu phố này.

Sức sống của HàNội đến từ kinh tế tư nhân thương mại và thủ công nghiệp tại khu vực được biếttới như là 36 phố phường. Dù suy giảm, khu vực này vẫn là đầu mối kinh tế củamột vùng châu thổ đông đúc. Thứ hai là sự gia tăng thương mại của mạng lướithương nhân người Hoa gắn kết với thị trường Trung Quốc. Hệ quả của nó là cáckhu phố này trở nên đông đúc, sông Tô Lịch đóng vai trò quan trọng trong mạnglưới giao thương giữa các  khu vực, và sự mở rộng của cộng đồng người Hoatại Hà Nội. Thay vì hướng liên kết cũ tới khu vực hồ Gươm đã bị thu hẹp và nôngnghiệp hóa, khu 36 phố phường giờ đây mở ra bờ sông Hồng, thúc đẩy các mạnglưới giao lưu kinh tế với vùng châu thổ và với bên ngoài…. Những khuynh hướng đôthị hóa và chiều hướng phát triển này rất quan trọng vì chúng là đêm trước khingười Pháp áp dụng các quy hoạch phương Tây vào một cấu trúc thị Á châu. Nhiềuvấn đề của tổ chức và quy hoạch đô thị Hà Nội có thể tìm thấy câu trả lời từtrong lịch sử, nhờ cách thức cha ông trong quá khứ vận hành thành thị.


Cuối cùng, sự ‘hạ cấp’ của Hà Nội là một ví dụ nhỏ sống động chothấy chuyển dịch cấu trúc địa chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, đã tácđộng thế nào tới trung tâm chính trị vùng châu thổ sông Hồng. Từ “Thăng Long”đến “Hà Nội” chính là sự khai mở của một kỷ nguyên mới từ không gian “Đại Việt”tới không gian “Việt Nam”. Tuy nhiên 1802 không phải là điểm kết thúc. Nó chỉlà sự khởi đầu của một cuộc hành trình gian nan thời hiện đại giữa Huế-Hà Nội-Sài Gòn để tìm kiếm bản sắc của một Việt Nam hiện đại. Giữa những biến loạn đó,dù kinh đô có đi đâu chăng nữa thì rồng vẫn ở lại với người Việt, ở trên cõiViệt. □

———-

Chú thích:

1 ThanhSử Cảo, quyển 527 (Thuộc quốc II) chép rằng Nguyễn Phúc Ánh lấy được nước chủyếu nhờ quân Gia Định, Vĩnh Long nên mới lấy niên hiệu Gia Long. Điều này cóchút nhầm lẫn vì tới thời Minh Mệnh, trấn Vĩnh Thanh mới đổi thành Vĩnh Long.Mới thấy số phận của ‘rồng’ lao đao tới mức nào.

2 Changedin 1805, DNTL, I, 27: 7b.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 11, 2024 02:19

December 31, 2023

Viêt Nam có thể hoàn toàn 'thoát Trung' được không? (Nguyễn Hải Hoành dịch)

 

Nguồn tiếng Trung:  越南能否彻底“去中国化”? 2017-05-10

Dịch giả cũng cho biết bài viết này khôngghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấu tên.

Nguồn tiếng Việt 

http://nghiencuuquocte.org/2019/02/15/viet-nam-co-the-hoan-toan-thoat-trung-duoc-khong/

 

Khi đưa vào đây, tôi đã lược bỏ một số đoạn không cần thiết.

---------

Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằmmục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thờicận đại và hiện đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.

 

Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡingựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnhhưởng sâu sắc như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán ngoài cổng cáckiến trúc cổ trên đường phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đềnchùa, môn cờ tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ởcác công viên, chữ Song Hỷ màu hồng trong các lễ cưới….

 

 

Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện thấy chỗnào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát Trung”: một số bảng biển chữ Hán ởcác đền chùa bị thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thậm chícả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hóa” như vậy, những chữ La tinh của đôi câuđối viết dọc từ trên xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra nướcmắt.

 

 

 Trong các viện bảo tàng,những phần trưng bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như không thấy nóigì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa hiệu trên đường phố đều treo biển “HàngViệt Nam”, “Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ “Hàng Canada” mà hầunhư chẳng thấy biển hiệu “Hàng Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩuhàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.

 

 

Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề ViệtNam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhấttrí về nguồn gốc và tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”,việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyênnhân thúc đẩy tôi đến Việt Nam tìm hiểu.

 

 

“LA TINH HÓA” CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM

 

Từ thế kỷ 19 thực dân Pháp ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt NamLa tinh hóa (chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ ĐôngDương thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinhhoa người Việt thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liênhệ văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc Latinh hóa văn tự Việt Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởiđầu quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam.

 

 

 

Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữNôm (một loại chữ Việt Nam hóa dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toànbiến mất trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùngsong song với chữ Quốc ngữ.

 

 

 

Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam thì chữ Hán hoàn toànbị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ” donhà nước triển khai.

 

Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạychữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn giảndễ học.

 

 

 

TỰ THUẬT CỦA

BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA VIỆT NAM

 

Ở đây, phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vậttrưng bày đều dùng tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thìchỉ giới thiệu bằng tiếng Việt.

 

 Mặc dầu Trung văn khôngđược dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thểhiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.

 

Theo cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam cóthể sơ lược chia làm 5 thời kỳ:

1) Thời tiền sử và các truyền thuyết; 

2) Thời kỳ Bắc thuộc, tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận củaTrung Quốc, bắt đầu từ khi tướng nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt chotới năm 938 khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhàNgô độc lập; 

 3) Thời kỳ quốc gia độclập, từ năm 938 đến năm 1884 khi nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốtthời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc của nhiều vương triều Trung Quốc,trong đó có 20 năm Việt Nam bị nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc; 

4) Thời kỳ là thuộc địa của Pháp; 

5) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến II.

 

Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi lẽ chủ thểviết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu.

 

 

 Trong Viện Bảo tàng Lịchsử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu nhiềunhất, coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn hóa đólại bị lược bỏ.

 

 

Trên thực tế, phần giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là mộtbảng biểu “Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết bằng chữQuốc ngữ.

 

 

Thế nhưng khi đọc kỹ bảng biểu đó người ta có thể thấy một số“nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chốngquân nhà Đường v.v…

 

 

Theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này đềuđược định nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy [dân biến]”hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng này thì tất thẩy đều được coi lànghĩa cử “chống ngoại xâm”.

 

 

Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần giớithiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ xuyên suốt phần này thì không thay đổi, vẫn làchủ đề “Chống xâm lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quânNguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le lại không một chữ nào nóiđến mối quan hệ giữa chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc[tức Việt Nam].

 

 

Trong phần này có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ 20 năm Minhthuộc:

 

Theo ghi chép trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, thì nhữngnăm đầu nhà Minh, trong triều đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện

 

 

một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua địnhcướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt Nam để lập lại sự côngbằng về đạo lý;

 

 

sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa chobiết hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người nối dõi, yêu cầu nhàMinh thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt Nam), khôi phục chếđộ đãi ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước kia.

 

 

TỰ KHOE LÀ

“CHÍNH THỐNG TRUNG HOA”

 

Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tràn đầytinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt Nam được thể hiệntrong mọi trưng bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt Nam cómột quá trình chủ động “Thoát Trung”.

 

 

Trên thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ vùngTrung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch của vương triều Việt Nam từng [cóý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “MãnDi”, mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”.

 

 

Trong bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế triềunhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chícó mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng Trường thành”.

 

 

Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng lãnh thổ,dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu thổ sông Mekong vốn thuộcCampuchia. Trong quá trình cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên, Việt Nam càngcưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ Hán.

 

 

 Sách sử chính thức củatriều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai nghe nhiều thiquen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hòanhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùngvăn hóa Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì cóthể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán dân].”

 

 

 Ở đây triều Nguyễn tựxưng là “Hán”, “Hạ” [tên cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng chínhthống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa.

 

 

Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết trên mục “Tưgia lịch sử” mạng Bloomberg về sự cai trị đất nước của vươngtriều phong kiến nhà Nguyễn như sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thốngtrị của vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước và cấy ghép cácchế độ văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chiachế độ quan lại làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa phương có Triphủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn có các trọng chức như Thái sư, Tháiphó, Thái úy, Thái bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ KhổngTử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà Tống Đường…

 

 

Phương thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo dài suốt chotới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng thuộc địa của Pháp.

 

 

Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc trong hơn 1.000 nămcộng thêm hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Namchịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng hơn nhiều so vớiTriều Tiên, Nhật).

 

 

Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế này: “Tuyrằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế (kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ quađều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫncứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt chước người Trung Quốc để cai trị đấtnước.

 

Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủđề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người tài; các văn bản củatriều đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn hóa, mức độ Trung Quốc hóa củagiai cấp thống trị cũng rất sâu.

 

Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác của KhangHữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Namkhiến cho “mối quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc không được [chínhphủ thực dân Pháp] hoan nghênh”.

 

 

 Bởi thế nên vào khoảngnăm 1915, chế độ khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc địa vớitiếng Pháp là môn học chính.

 

 

Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa được hết sức đềxướng, qua đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc địa do không thểtiếp xúc với thư tịch của thời đại các vương triều cũng như văn học cổ xưa màbị cắt đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ của bản địaViệt Nam.

 

 

Theo Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự“Thoát Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý củangười Việt, mà là một quá trình bị động.

 

 

 Như vậy sau khi đã đánhđuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân đội Trung Quốc), Việt Namhoàn toàn có thể trở lại con đường truyền thống “Trung Quốc hóa”, điều đó chẳngnhững có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu hảo” giữa Việt Nam vớiTrung Quốc mà cũng có thể giúp cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổtiên mình.

Song le sự thực lại không như vậy.

 

 

Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đến năm1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của lịch sử Việt Namtừ một bảo tàng khác – “Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố. ViệnBảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thức tỉnh chotới ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ,người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có thể coi là lịch sử giaiđoạn đầu quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sựtuyên truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì khó hiểu.

 

 

TIỀN ĐỀ CẤU TẠO QUỐC GIA DÂN TỘC

 

 Khác với các vật trưngbày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia các vật trưng bày trong Bảo tàng Cách mạnghầu như không có chữ Hán, thậm chí hầu như không có hai chữ “Trung Quốc”.

 

Tại đây, phong trào Việt Nam độc lập chống Pháp hoàn toàn dongười Việt Nam tự thực hiện, không một chữ nào nhắc tới sự viện trợ của TrungQuốc.

 

 

 Có điều đáng chú ý làngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh tuyên bố sự ra đời củanước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà lãnh đạo xuất thân từ một gia tộc Nho họcnhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng này đã đọc trước công chúng bản“Tuyên ngôn Độc lập” viết bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa. Sau đó khônglâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của ViệtNam.

 

Cuốn sách “Khối Cộng đồng tưởng tượng” của Anderson không quantâm nhiều tới lịch sử “Thoát Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng mộtchương bàn về sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia thuộc địa sauThế chiến II và con đường xây dựng nhà nước dân tộc.

 

Trong đó, tìm kiếm sự thừa nhận thân phận dân tộc mình là bướcđi tất yếu để xây dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để thực hiện “Khối cộngđồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt phải là quá trình chủ động, tỉnhtáo.

 

 

Đối với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày độc lập, trở lại“Trung Quốc hóa” tuyệt đối không phải là con đường đúng đắn để xây đắp sự đồngthuận của dân tộc.

 

 

 Ngược lại, “Thoát Trung”mới là điều kiện tất yếu để xây dựng một quốc gia dân tộc. Nói cách khác, nếuViệt Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại độc lập thì “Thoát Trung” là nềntảng, là cốt lõi, là một sứ mệnh lâu dài.

 

 

 Điều đó về cơ bản nhấttrí với nhận thức “Thoát Trung” của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước trongvành đai văn hóa Trung Hoa, cho dù quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam cầnthời gian dài hơn, và quá trình đó càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốcvà Việt Nam.

 

 

NGUYỆN VỌNG CỦA

TẦNG LỚP LÃNH ĐẠO VIỆT NAM

 

Sau Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiếnvào Việt Nam với danh nghĩa tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật chiếm đóngViệt Nam. Không lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt Nam, yêu cầu phụchồi chủ quyền của quốc gia cai trị thuộc địa trước chiến tranh. Tưởng GiớiThạch lấy việc Pháp trả lại cho Trung Quốc một số lợi ích kinh tế như các tôgiới trong lãnh thổ Trung Quốc làm điều kiện trao đổi để rút quân Quốc Dân rakhỏi Việt Nam.

 

 

 

Phần lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời ấy đềuphản đối việc trao trả Việt Nam cho thực dân Pháp, nhưng Hồ Chí Minh lại ký vàoHiệp định.[1] Vì thế mới cóchuyện trong ghi chép của nhà báo Mỹ Stanley Karnow có viết một danh ngôn củaHồ Chí Minh:

Lũ ngốc này! Chẳng lẽ các anh không biết rằng để người TrungQuốc ở lại có nghĩa là gì ư? Các anh không nhớ lịch sử à? Lần trước người TrungQuốc đến đây, họ ở lại một nghìn năm. Người Pháp là kẻ từ bên ngoài tới, họ đãrất suy yếu rồi, chủ nghĩa thực dân đang chết, người da trắng tại châu Á đanghết đời. Nhưng nếu người Trung Quốc ở lại thì họ sẽ mãi mãi không bỏ đi đâu!Tôi thà lại ngửi cứt bọn Pháp thêm 5 năm mà không muốn ăn cứt bọn Tàu suốt phầnđời còn lại.[2]

 

Trong thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ Chí Minh có nhữngbản dịch khác nhau, có thể từ ngữ có chút dị biệt, nhưng ý nghĩa đại để nhưvậy. Mặc dầu về sau giáo sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có nghi ngờ về xuất xứcâu nói ấy của Hồ Chí Minh mà Karnow trích dẫn, thế nhưng qua liên hệ với hồiký của một số nhà lãnh đạo Trung Quốc thì những phát biểu của Hồ Chí Minh đạiloại như “Biểu hiện ngạo mạn của quân đội Trung Quốc thì giống như biểu hiệncủa quân đội Trung Quốc thời xưa từng thường xuyên xâm phạm Việt Nam”, vàliên hệ tới chuyện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xóa sạch sự viện trợ củaTrung Quốc giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp, thì chẳng nói cũng biết tầnglớp lãnh đạo Việt Nam đúng là có xu hướng mạnh mẽ “Thoát Trung”.

 

 

Điều thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh, từ nhỏ gia đình ôngcó thuê một bà bảo mẫu người Việt Nam; tuy sách của ông không bàn luận sâu vềmối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc song ông lại nói chính cuộc chiến tranh TrungQuốc-Việt Nam năm 1979 đã “trực tiếp gợi ý tôi viết cuốn Khối cộng đồngtưởng tượng”.

 

Hồi đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến ấy có nguyên nhânlà sự đấu tranh phe phái trong thế giới cộng sản (Liên Xô và Việt Nam một phe,Trung Quốc và Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa chính trị của banước lớn Trung Quốc, Mỹ, Nga.

 

 

Nhưng Anderson thì nhìn thấy rõ nguyên nhân lịch sử ở tầng sâuhơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân tộc vượt qua ý thức hệ, vượtqua địa chính trị.

 

VIỆT NAM CÓ THỂ

TRIỆT ĐỂ “THOÁT TRUNG” ĐƯỢC CHĂNG?

 

Những năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông [nguyênvăn Nam Trung Quốc hải] và do nỗi đau vết thương còn lại sau cuộcchiến 1979 ấy, một số nhà phân tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ“Thoát Trung”.

 

 

Năm 2010 một bộ phim truyền hình cổ trang của Việt Nam quay tạitrường quay ở Trung Quốc vì “quá ư Trung Quốc hóa” mà bị chính quyền Việt Namcấm chiếu.[3]

 

 

 Năm 2014, Bộ Văn hóa Việt Nam gửi công văn kiến nghị cácđịa phương không bày biện, không sử dụng, không thờ cúng các loại tượng điêukhắc, sản phẩm, linh vật và vật phẩm quái dị không hợp thuần phong mỹ tục ViệtNam”. Nghe nói những vật phẩm ấy chủ yếu là các loại sư tử đá “Trung Quốc hóa”nhập từ Trung Quốc.

 

 

Thế nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hóa của Việt Nam xemra không có hiệu quả lớn. Suy cho đến cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hóaTrung Quốc đã đặt nền móng văn hóa cho bản thân Việt Nam, triệt để “ThoátTrung” sẽ tương đương với sự cắt đứt lịch sử của chính mình.

 

 

 Ở Việt Nam ngày nay, tamgiáo Nho, Thích, Đạo đều có mảnh đất của mình, mà cả ba đều từ Trung Quốctruyền sang, các tín đồ của họ vẫn chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theotôn giáo ở nước này.

 

 

Về kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời gian ngắnViệt Nam có thể thoát khỏi sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủViệt Nam thỉnh thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về kinh tế”nhưng ngành chế tạo của Việt Nam chỉ là một khâu trong chuỗi sản xuất côngnghiệp do Trung Quốc làm chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm nướcnhập khẩu lý tưởng.

 

 

Thoát khỏi Trung Quốc về kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ khôngthể thực hiện”.

 

 

Lĩnh vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện “Thoát Trung” làchế độ chính trị. Mặc dù rất khó có thể nói thể chế chính trị hiện nay của ViệtNam là bản sao của Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xungđột thì hầu như lần nào mâu thuẫn cũng đều được hóa giải với lý do “giữ chotoàn vẹn mối tình giữa hai đảng, hai chính phủ”.

 

 

Tuy nhiều báo đài từng đưa tin với tiêu đề đại để như “Công cuộccải cách thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn Trung Quốc” song tìnhhình thực tế lại không như vậy, hoặc có thể nói việc cải cách thể chế ở ViệtNam chưa có những đột phá thực chất.

 

 

Tháng 8/2014, hãng tin Bloomberg đưa tin: 61thành viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một cựu đại sứ tại Trung Quốc,cùng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các nhàlãnh đạo nên “xây dựng một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho phéptự do ngôn luận chính trị ở mức độ rộng hơn, “thoát khỏi” sự dựa dẫm vàoTrung Quốc.

 

 

Bản tin cho biết, một số người, kể cả các cựu quan chức chínhphủ đã dự thảo một bản Hiến pháp yêu cầu triển khai sự “cạnh tranh về chínhtrị”.

 

 

Mặc dù kết quả bầu cử lãnh đạo mới đây không thể hiện Chính phủViệt Nam có dấu hiệu “thoát khỏi Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có thể đượcbàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ rõ nguyện vọng của một bộ phận khá đông đảotrên chính trường Việt Nam.

 

 

Bất kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ hay vấn đề kinh tế,Việt Nam đều tính toán khả năng dựa vào phương Tây, thậm chí từng có thời đãxem xét vấn đề lập liên minh quân sự với quốc gia cựu thù là Mỹ, song le lạikhó có thể vượt qua trở ngại về ý thức hệ. 

 

 

Nếu Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ vớiphương Tây để chống Trung Quốc thì tiền đề ắt phải là

về chính trị nên mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyênchế một đảng,

 

về thể chế chính trị cần triệt để cắt đứt quanhệ với Trung Quốc.

 

 

Bước đi này tuy không gian nan như sự “ThoátTrung” về văn hóa nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.

 

Bài không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấutên. Nguyễn Hải Hoành biên dịch và ghi chú trong ngoặc [ ].

 

Nguồn tiếng Trung:  越南能否彻底去中国化 2017-05-10

 

———————

[1] Có thể tácgiả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt, ký tại Hà Nội ngày 6/3/1946. Thamkhảo: https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-ta-486107.vov

[2] Câu cuối nàytrong tiếng Anh là  “I prefer to sniff French shit for five years than eatChinese shit for the rest of my life.” – Theo: Stanley Karnow’s Vietnam: AHistory (New York: Viking Press, 1983).

[3] Có lẽ là phim“Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành Thăng Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/khong-chieu-ly-cong-uan-duong-toi-thanh-thang-long-la-hop-le-20110609102020887.htm

 

 

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 31, 2023 06:16

December 22, 2023

Cội nguồn người Việt: vị trí Việt Nam là điểm đón nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa

 Bàicủa Sông Hàn được giới thiệu là thành viên nhóm Cổ sử - Từ nguyên, đưa trênmạng BBC 14 tháng 2 2022

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/forum-... 

 

NGUỒNH


                            Lý Thái Tổ dời đô vềthành Đại La năm 1010, đổi tên thành Thăng Long

 

----

Các cuộc thảo luậnlâu nay ở Việt Nam thường cố tìm khác biệt với Hán khiến người Việt Nam quênđi rằng nét đặc sắc văn hóa của họ là sự hỗn dung, đón nhận mọi ảnh hưởng trêntuyến đường thương mại Đông Nam Á để cấu trúc nên người Việt Nam hôm nay.

--

 

Mấy chục năm về trước,một nhà nghiên cứu Phương Tây có nói với GS. Trần Quốc Vượng: "Tri thứcTrung Hoa là một khối khổng lồ (giant block) người Việt Nam các ông chỉ véođược vài mảng". (1)

 

Tìm kiếm bản sắc ViệtNam là một hành trình đầy ưu tư và sóng gió. GS. Trần Quốc Vượng cho rằng:"Việt Nam vừa là context Đông Nam Á, vừa là context Đông Bắc Á". Vàngay lập tức có người đáp lại: Tôi không chơi với ông vừa là thế này, vừa làthế kia.

 

--

BÓC HẾT CÁIVĂN HÓA HÁN

TA CÒN LẠIGÌ?

 

Bóc hết cái vỏ văn hóaHán thì ta còn lại gì? Phải chăng đó là cốt lõi Việt Nam?

Hay cái gì để khẳngđịnh rằng người Việt Nam ta khác với người Quảng Đông? Cái gì làm nên contextĐông Nam Á của người Việt Nam như lời GS. Trần Quốc Vượng?

Tôi có người bạn làGiáo sư Đại học Paris 6. Tết về bên bữa cơm đón chào năm mới, bạn có hỏi:"Làm sao mà chúng ta luôn bị nhầm là China? Cứ thấy đầu đen thì họ gọi talà người China".

Đối diện câu hỏi củabạn, tôi chịu không tìm ra câu trả lời.

 

 

Tôi thấy cái gì mìnhcũng na ná như là một 'anh Tàu con'. Từ đồ lễ tết với hoa đào, phong bao lì xì,từ cái chữ Phúc dán ngược đến vải thiều, kẹo xìu, hoa gạo, bánh bao xíu báo. Từvăn hiến ngàn năm gắn liền với Hán tự đến những tiêu chuẩn làm người … tử tế(nào là nhân, lễ, nghĩa, hiếu, trí, tín).

Tôi chịu không tìm chora cái chất phi Hán trong chính mình. Cái nhãn tiền như vậy, thật sự làm chotôi một người Dân tộc chủ nghĩa khó mà chấp nhận cho nổi. Dứt khoát phải tìmcho ra mình là người Việt Nam, mình khác với anh Trung Quốc.

NGUỒNHÌNH ẢNH,MARKA


Chụp lại hình ảnh,

'Khung cảnh hồ nước tạocho chùa Trấn Quốc sự hấp dẫn", theo trang web wanderlust

--

 

Nhưng tìm trong cổ sử,vẫn lại thấy vóc dáng Đường tông - Tống tổ trong văn chương Hoàng gia Lý Trần.Một phong cách đặc sệt Trung Hoa trong văn học chữ Hán Lý - Trần.

Ngàn năm trước từ"Thiên Đô Chiếu", vị Hoàng đế vĩ đại khai sinh ra vương triều Lý - LýThái Tổ đã dẫn tích Thương, Chu ra để… chỉ trích "Đinh, Lê nhị thị".

"Phạt Tống lộ bốvăn" của Lý Thường Kiệt, cũng là đem ngày Nghiêu tháng Thuấn ra để chiêudụ dân Tống.

Đến như "Dụ ChưTì Tướng Hịch Văn" của Hưng Đạo Vương thì rặt toàn thấy anh hùng Hán -Đường, Tống, Nguyên.

Và còn rất rất nhiềunữa.

Vậy anh hùng xứ Nam tađâu? Mà các bậc như Lý Tổ, Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương không đưa vào? Nguyênnhân đó bởi đâu?

Và tôi tự hỏi: bỏ hếtđi các giá trị văn hóa Hán ta còn lại gì? Bỏ hết đi Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tíncùng mọi cung cách Nho gia, ta còn lại gì? Nền tảng nào sẽ là cái bệ đỡ văn hóa- tinh thần của người Việt khi bỏ đi cái cốt cách Hán nhân như vậy? Câu hỏi rõràng là quá khó cho cả những người cấp tiến nhất!

--

TÌM VỀ BỐICẢNH ĐÔNG NAM Á

Nào phải chỉ riêng tôihay ông bạn đang là Giáo sư Đại học Paris 6 băn khoăn không tìm ra nỗi ta khácTrung Quốc.

GS. Trần Quốc Vượngđã… rất rất thông minh khi cho rằng: Việt Nam vừa là thế này, vừa là thế kia.Và rằng tùy từng thời điểm mà context Đông Nam Á mạnh hơn, hay context Đông BắcÁ mạnh hơn.

 

 

Mười mấy năm trước,trong chuyến điền dã tại Phú Yên tức Champa một thuở nhìn những làng xóm vùngven Tuy Hòa với mái tranh được bao phủ bởi rặng tre xanh và cánh đồng vàng óng,tôi bất giác nhớ làng quê Bắc Bộ.

Nhưng thế lại phátsinh ra câu hỏi: Làng ấy là phiên bản copy từ Bắc Bộ đã theo chân những ngườiViệt vào đây lập làng lập ấp? Hay nhiều làng Bắc Bộ là phiên bản từ dấu chânChăm ra Bắc?

 

Suốt ngàn năm qua theonhững ghi chép của "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" có tới 10 vạn người Chămra Bắc. Họ được quân vương Đại Việt cho nhận bộ khúc (tức người trong làngxóm), lập làng lấy tên Cham (2). Họ đặc biệt giỏi trong nghề trồng lúa nước,dẫn thủy nhập điền, đào giếng, dệt lụa.

Phải nói có hàng trămlàng Chăm trên vùng đất Bắc Bộ.

Và giếng Chăm cũng cómặt ở rất nhiều nhiều nơi. Ngay cái giếng cổ làng Diềm nơi tổ nghề Quan Họ cũngcó cấu trúc Cham rõ ràng sắc nét. Ngay kinh thành Thăng Long cũng có dấu ấnChăm.

 

NGUỒNHÌNH ẢNH,ẢNH DO TÁC GIẢ CUNG CẤP


Chụp lại hình ảnh,

Giếng Ngọc làng Diềm -Viêm Xá, Bắc Ninh - với bốn khúc gỗ lim đóng đáy

 

--

TS. Nguyễn Tiến Đôngcho rằng "Đại Việt lấy nguồn cảm hứng từ phương Nam, từ Chămpa để tạo nênmột đối trọng với phương Bắc, một diện mạo mới cố gắng tách khỏi sự ràng buộctrong văn hóa từ phương Bắc". (3).

Nhưng nói những chuyệnấy e rằng quá là vĩ mô. Vậy thì ta lấy cái mô thức gia đình thân thuộc gần gũi đểmà làm minh chứng.

 

G.Giran trong"Groyances religieuses des Annammites" cho rằng: "Chỗ khác nhaucơ bản nhất giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa là ứng xử với Mẹ vàVợ".

Mô thức chung của giađình Việt Nam là chồng trị vì vợ quản lý. Cái thực quyền trong gia đình (tế bàocủa xã hội) chính là nằm trong tay người Phụ nữ chứ không phải là Đức ôngchồng.

Cái miếng ăn thườngnhật của ta như lúa Chiêm, nước mắm thì đó là thành phần của bối cảnh (context)Đông Nam Á.

Phải chăng đó là nétkhác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa (Hoàng Hà)? Nhưng - vẫnlại nhưng - những nét này có thể lại đền từ những cộng đồng như Cham (Nam Đảo)hay Tày Thái (Tai - Kadai). Mà người Kinh Việt vì những biến động của lịch sửmà tiếp nhận?

 

--

ĐẤT VIỆTBAO DUNG

VÀ HỖN DUNGVĂN HÓA TRONG LÒNG KINH-VIỆT

Người Việt ta nay cólúa Chiêm, nước mắm, nhưng cũng giỏi làm tương, làm đậu phụ những đặc sản từTrung Hoa. Thế là thấy rõ ngay trong cái bữa ăn người Việt cũng hòa trộn hỗndung cả hai bối cảnh Trung Hoa và Đông Nam Á.

Vậy thì ta sẽ tiếp tụctìm sâu hơn nữa. Từ cái thuở những tiền đề của văn hóa Đông Sơn cách đây 2.800- 3.500 năm. Từ cái ngày mà văn hóa Hán chưa ập vào vùng đất nay là Châu thổsông Hồng và suốt ngàn năm Trung Đại ta tự hào là Trung Châu.

 

Ai đã trồng lúa đấtnày, ai tạo làng và ai tạo nên văn hóa Đông Sơn - nền văn hóa mà người Việt tathiết tha tự hào? Là nền văn hóa mà mấy chục năm qua chúng ta đinh chắc đấy làtổ tiên người Việt ta.

Nhưng như GS. LươngNinh từng nói ngay trong văn hóa Đồng Đậu cũng có thể có cả các yếu tố Môn cổ,Tày Thái (Tai - Kadai) và Nam Đảo (4).

Bởi vì thật rõ ràngnhững người Nam Đảo, sau là Tai Kadai mới là bậc thầy của nghề trồng lúa nước.

Ta lại dõi tiếp. Thậtkỳ lạ trong văn hóa Đông Sơn vô vàn hiện vật khảo cổ học mang phong cách XuânThu - Chiến quốc. Từ Chuông, kiếm, dao, nạo v.v... và v.v... (5).

NGUỒNHÌNH ẢNH,KIEU MAILY


Chụp lại hình ảnh,

Đồ dùng trong sinh hoạtcủa người Chăm ở Việt Nam ngày nay

--

À ra thế từ 3.500 nămtrước, từ thủa những ruộng lúa nước xuất hiện trên vùng châu thổ sông Hồng, đấtnày đã đón nhận rất nhiều luồng di cư. Tất cả những cái đó hòa trộn lại, châuthổ sông Hồng là men xúc tác để người Vietic (hay Môn cổ), người Tai - Kadaihay người Nam Đảo cùng sinh sống, cùng an cư và cùng hạnh phúc.

 

Tiếp nối sự bao dungcủa vùng đất nay là Việt Nam. Cả ngàn năm trung đại ta sẽ thấy những dòng ngườidi cư vào Việt Nam. Cái văn hóa Đại La tiền thân văn hóa Thăng Long chẳng phảilà do Cao Biền tạo dựng đó sao (6)? Kênh Cao Biền (Đàm Bồng Cổ Vận Hà - 潭蓬古运河) vẫn còn đó như làchứng tích một thời các dòng di cư từ Mân, Quảng vào châu thổ sông Hồng.

Vậy thì cái đặc sắcvăn hóa Việt Nam phải chăng là sự hỗn dung Văn hóa. Trên ngã ba đường của Thếgiới, trên tuyến đường thương mại kết nối Trung Hoa và Ấn Độ, tổ tiên chúng tađã đón nhận mọi luồng văn hóa để cấu trúc nên Đại Việt, cấu trúc nên người ViệtNam hôm nay.

Trong sự bao dung củavùng đất phía Đông bán đảo Trung Ấn này những giá trị dù Hán, dù Ấn, Tai -Kadai, Nam Đảo đều đã và đang có không gian cho riêng mình và đóng góp vô vànvào văn hóa Việt Nam.

Và tôi nhận ra mình đãcố chứng minh sự tự hào sai lầm rằng ta khác Trung Hoa.

 

Trong khi niềm tự hàochân thật là đất này bao dung. Văn hóa Kinh Việt là sự bao dung sẵn sàng tiếpnhận và biến đổi chứ không phải là sự chia tách vật lý rạch ròi hay cố công tìmkiếm một ảo giác… ta khác Trung Quốc.

 

 

Chú thích:

1. GS. Trần Quốc Vượng - Trường Đại học KHXH và Nhân Văn: Ghichú về những tương đồng và dị biệt về những giá trị văn hóa Đông Á giữa ViệtNam và các nước Đông Á khác.

2. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên: "Đại Việt Sử KýToàn Thư", kỷ nhà Lý - Lý Thái Tông chép: Nhà vua "xuống chiếu chocác tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến ĐăngChâu (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành".

3. TS. Nguyễn Tiến Đông: "Yếu tố văn hóa Cham Pa ở kinh đôĐại Việt và vùng phụ cận" (Báo "Tia Sáng" ngày 2/8/2020).

4. GS. Lương Ninh - Trung tâm KHXH và NV Quốc gia: "Sựthiên di và hình thành những nhóm cư dân ở Đông Nam Á lục địa".

5. Wei Weiyan, Shiung Chung‐Ching - Viet Khe Burial 2:"Identifying the Exotic Bronze Wares and Assessing Cultural Contactbetween the Dong Son and Yue Cultures".

6. "Đại Việt sử ký Toàn thư" chép: "Cao Biền giữphủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữtường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ốngsáu sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn40 vạn gian".

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 22, 2023 02:38

December 16, 2023

Hai bài viết có ý kiến trái ngược về nguồn gốc tiếng Việt trong sự liên quan với tiếng Hán

 1/

Nguyễn Hải Hoành  

VÌ SAO TIẾNG VIỆT KHÔNG CÙNG NGUỒNGỐC VỚI TIẾNG HÁN?

Nguồn Tia sáng 23-8-2023

Mối quan hệ giữa tiếng Việt với tiếng Hán là mối quan tâm lớnxưa nay của người Việt và là đối tượng nghiên cứu của giới ngôn ngữ học ViệtNam cũng như quốc tế trong gần 150 năm nay. Nhiều kết quả nghiên cứu liên quanđã được công bố, trong đó có cuốn “Lịch sử ngôn ngữ người Việt”1 của giáo sư,tiến sĩ Trần Trí Dõi. Trong cuốn sách đó tác giả đã lý giải vì sao tiếng Việtkhông cùng nguồn gốc với tiếng Hán.

---- 

Thông thường khi nghiên cứu nguồn gốc của một ngôn ngữ, bao giờngười ta cũng trước hết định vị ngôn ngữ đó thuộc vào nhóm ngôn ngữ nào, nhánhngôn ngữ nào, cuối cùng thuộc ngữ hệ nào. Hiểu đơn giản, ngữ hệ (họ ngôn ngữ,language family) là tên gọi chung một tập hợp các ngôn ngữ có cùng nguồn gốc;như vậy các ngôn ngữ khác ngữ hệ thì không có chung nguồn gốc. 

Sách “Lịch sử ngôn ngữ người Việt” có nêu vấn đề mà cha cố J. S.Theurel từng đưa ra nhận xét “tiếng Việt phần lớn bắt nguồn từ tiếng Hán” –được ghi trong cuốn Dictionarium Anamitico – Latinum (Từ điển Annam-Latin) củaTheurel, ấn hành tại Kẻ Sở năm 18772. Nhận xét này dựa trên chứng cớhiển nhiên là trong tiếng Việt có rất nhiều từ gốc Hán và có một số hiện tượngngữ pháp rất giống tiếng Hán, vì thế được một số người tán đồng, hình thànhquan điểm cho rằng ngôn ngữ của người Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, tiếngViệt là một ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Hán của ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan),nghĩa là tiếng Việt, tiếng Hán có chung ngữ hệ, tức chung nguồn gốc. Từ đó suyra người Việt có nguồn gốc ở phương Bắc, về sau di cư xuống miền Nam. Rốt cuộcvấn đề này có liên quan tới nguồn gốc dân tộc ta. 

Năm 1912, nhà khoa học người Pháp ở Viện Viễn Đông Bác cổ HenriMaspéro (1883-1945) nhận định tiếng Việt có nguồn gốc nhóm tiếng Thái (Taic).Căn cứ vào những chứng cớ mới rất chi tiết và có tính hệ thống chủ yếu về ngữâm, dựa trên lập luận chặt chẽ, Maspero đưa ra những kết luận thuyết phục đượcgiới ngôn ngữ học suốt nửa thế kỷ sau đó, thậm chí sang thế kỷ XXI vẫn có ngườiủng hộ. Hiện nay ta biết, tiếng Thái thuộc ngữ hệ Tai-Kadai, khác với ngữ hệcủa Hán ngữ, như vậy nghĩa là Maspesro cho rằng tiếng Việt không cùng nguồn gốcvới tiếng Hán.

Sáng kiến phiên âm chữ Hánthành từ Hán-Việt đã giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toànkhông nói tiếng Hán, đồng thời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng pháttriển hầu như vô hạn. Đây là một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổtiên ta.

Nhưng đến các năm 1953, 1954 và 1966, một nhà ngôn ngữ học ngườiPháp rất nổi tiếng là Andre-Georges Haudricourt (1911-1996) công bố mấy bài báophản bác quan điểm nói trên, cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc Môn-Khmer, thuộcngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), nghĩa là không cùng nguồn gốc với tiếng Thái hoặctiếng Hán. Lập luận của Haudricourt rất vững chắc và có nhiều chứng minh đầy sứcthuyết phục, được nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam và nước ngoài tán thành.

Trong nghiên cứu, các học giả đều xem xét mối quan hệ đối ứng từvựng giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ đối chiếu và chia từ vựng làm hai lớp: từcơ bản và từ văn hóa. “Từ cơ bản” là những từ vựng thông dụng nhất, như từ môtả các bộ phận cơ thể con người (chân, tay, mắt, mũi), từ nhân xưng (bố, mẹ,con, tôi, tao, mày), tên các vật xung quanh (nhà, cửa, trời, đất, trăng, sao),số đếm (một, hai, ba), tên gia súc (chó, mèo, trâu, bò, lợn), nhu cầu sống (ăn,uống, bú, ỉa, đái), cảm nhận (đau, giận, vui, buồn), v.v…, là những từ liênquan tới nguồn gốc con người, nguồn gốc ngôn ngữ, là những từ con trẻ nói đượckhi bắt đầu biết nói, chưa bị ảnh hưởng của ngôn ngữ khác. Từ thuần Việt trongtiếng Việt hoặc từ thuần Hán trong tiếng Hán đều thuộc loại từ cơ bản. 

Những từ ngữ có được sau khi tiếp xúc với một nền văn hóa khácthì thuộc loại “Từ văn hóa”, thường là những từ có tính chất trừu tượng, kháiniệm thuộc lĩnh vực văn hóa, ví dụ: đông, tây, đạo, lý. Từ văn hóa thường xuấthiện sau từ cơ bản hàng nghìn năm, vì thế nó không có liên quan đến nguồn gốcngôn ngữ. Khi xác định nguồn gốc ngôn ngữ, nhất thiết phải dựa vào các từ cơbản mà không dựa vào các từ văn hóa.

 

Sau khi phân loại từ vựng, Haudricourt nhận thấy số lượng từthuần Việt tương ứng với từ trong ngôn ngữ Môn-Khmer thì nhiều hơn số lượng từthuần Việt tương ứng với từ trong tiếng Thái, từ đó ông kết luận tiếng Việt cónguồn gốc Môn-Khmer chứ không phải có nguồn gốc Thái. Khi nghiên cứu vấn đềthanh điệu của tiếng Việt, ông cũng đi tới kết luận như vậy. 

Từ vựng tiếng Việt hiện đại gồm từ thuần Việt, từ Việt gốc Hán(tức từ Hán-Việt), và từ ngoại lai. Từ thuần Việt ra đời cùng với tiếng Việt,có số lượng lớn và vững chắc gắn chặt với nguồn gốc dân tộc, thể hiện tính cộinguồn của ngôn ngữ, thuộc vào lớp từ cơ bản. Từ Việt gốc Hán ra đời sau khinước ta tiếp xúc văn hóa Trung Hoa, cho nên thuộc lớp từ văn hóa. Từ lai ra đờisau khi Việt Nam tiếp xúc văn hóa Âu Mỹ, ví dụ các từ pho mát, ô tô, ga.

Từ Hán-Việt là loại từ vựng do tổ tiên ta sáng tạo ra trong quátrình tiếp nhận chữ Hán. Thông thường người học chữ Hán đều phải đọc chữ theoâm tiếng Hán. Nhưng chữ Hán lại không có phát âm thống nhất trong toàn TrungQuốc, mà mỗi vùng phát âm theo cách riêng gọi là phương ngữ (tiếng địa phương).Người Trung Quốc sang ta nói nhiều phương ngữ khác nhau, người Việt không biếtnên đọc chữ Hán theo cách phát âm nào, đây là khó khăn lớn nhất khi họ học chữHán.

Để vượt qua khó khăn trên, tổ tiên ta đã sáng tạo ra cách đọcchữ Hán theo âm tiếng Việt mà không đọc theo âm Hán, tức cách phiên âm chữ Hánthành từ Hán-Việt. Mỗi chữ Hán đơn âm được phiên âm thành một từ Hán-Việt, từnày có âm đọc thống nhất trong toàn dân Việt, gọi là âm Hán-Việt. Âm đọc ấyđược chọn gần giống âm đọc chữ trong tiếng Hán, vì thế hầu hết từ Hán-Việt đọclên nghe gần giống từ tiếng Hán. Ví dụ chữ  匡tiếng Hán đọc “uấn”, tađọc tiếng Việt là “văn”. Qua đó đã thực hiện phiên âm toàn bộ chữ Hán sangtiếng Việt, mượn được toàn bộ kho chữ Hán về dùng, nhưng  chỉ mượn chữ màkhông mượn tiếng Hán. Do tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn ngữ đơn âm tiết(monosyllabic) nên việc phiên âm một đối một tương đối thuận tiện. Từ Hán-Việtlà kết quả phiên âm chữ Hán, và chữ Hán trở thành ký tự ghi từ Hán-Việt, nhưngkhông ghi được từ thuần Việt. Ví dụ chữ Hán 匡뺏ghi từ Hán-Việt “văn hóa”. 

Việc tiếng Việt, tiếng Hánthuộc hai ngữ hệ khác nhau chứng tỏ ngôn ngữ Việt không cùng nguồn gốc với ngônngữ Hán. Như vậy thì cội nguồn văn hóa Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốcvới văn hóa Hán.

Từ Hán-Việt là từ vay mượn của chữ Hán. Nhờ mượn thêm từ ngoạinên kho từ vựng tiếng Việt tăng lên nhiều và ngày càng tăng. Năm 1912 Maspéronói từ Hán-Việt chiếm 60% tổng số từ tiếng Việt. Năm 2001 Cao Xuân Hạo nói tỷlệ này là 70%. Nghĩa là chữ Hán vào Việt Nam đã làm số lượng từ tiếng Việt tăng2,5-3 lần. Trong thực tế, người Việt dùng từ rất linh hoạt, như ghép với từthuần Việt (tái đàn, cận nghèo) hoặc ghép từ Hán-Việt với nhau không theo quytắc giữ gốc Hán (bán dẫn, giải ngân), cho nên kho từ vựng tiếng Việt có khảnăng tăng vô hạn. 

Từ Hán-Việt còn giúp người Việt thuận lợi chuyển ngữ các từ vựngngoại văn: khi ấy chỉ cần đọc âm Hán-Việt của từ Hán hoặc từ Kanji mà ngườiTrung Quốc hoặc người Nhật chuyển ngữ từ ngoại văn đó, là được kết quả. Ví dụtừ tiếng Anh “pragmatism”, người Nhật chuyển sang chữ Kanji là 實痰寮義, ta đọc Hán-Việt là “thựcdụng chủ nghĩa”, được ngay kết quả cần tìm. 

Tóm lại sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt đã giúpngười Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nói tiếng Hán, đồngthời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng phát triển hầu như vô hạn. Đâylà một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ tiên ta. 

Thế nhưng không thể vì tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán mà chorằng tiếng Việt có nguồn gốc ở tiếng Hán, bởi lẽ từ Hán-Việt không phải là từcơ bản, mà thuộc lớp từ văn hóa, chỉ xuất hiện sau khi người Việt tiếp xúc vănhóa Trung Hoa, tức khi nước ta bị Triệu Đà thôn tính và người Việt bắt đầu họcHán ngữ, nghĩa là sau từ thuần Việt nhiều nghìn năm, do đó từ Hán-Việt dù nhiềuđến đâu cũng không ảnh hưởng gì đến nguồn gốc tiếng Việt. 

Khi so sánh các từ thuần Việt với các từ thuần Hán, cũng khôngthấy từ thuần Việt nào có âm đọc giống với từ thuần Hán tương ứng. Sự khác nhauvề từ cơ bản chứng tỏ tiếng Việt không cùng nguồn gốc với tiếng Hán. Điều đócòn được chứng tỏ ở chỗ tiếng Việt có ngữ âm phong phú (gấp 14 lần tiếng Hán)và ngữ pháp khác tiếng Hán. Từ Hán-Việt được dùng theo ngữ pháp tiếng Việt, dođó người Trung Quốc không thể nghe hiểu câu tiếng Việt có nhiều từ Hán-Việt,tuy rằng nhìn chữ thì hiểu. Nói cách khác, tiếng Việt tuyệt đối không phải làmột phương ngữ của tiếng Hán.   

Từ Hán – Việt chỉ là từ vay mượn (loan words) Hán ngữ. Các ngônngữ trên thế giới thường vay mượn từ vựng của ngôn ngữ khác. Ví dụ Hán ngữ hiệnđại có khoảng 70% từ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn là từ vay mượntiếng Nhật. Đó là những từ vựng người Nhật chuyển ngữ từ tiếng Anh, Pháp, HàLan… sang chữ Kanji (chữ Hán-Nhật), ví dụ các từ government, people, economychuyển ngữ thành chính phủ, nhân dân, kinh tế. Ngôn ngữ học cho biết: từ vănhóa thường dễ vay mượn, còn từ cơ bản thì không có vay mượn. Ví dụ tên tiếngViệt gọi các bộ phận cơ thể con người khác xa tên gọi tương ứng trong các thứtiếng khác. Thiển nghĩ có thể suy ra ban đầu dân ta chỉ nói các từ thuần Việt,sau khi tiếp nhận chữ Hán thì bắt đầu nói các từ Hán-Việt, và ngày càng nóinhiều, nhất là khi nói đề tài xã hội, thời sự, nghị luận, đặc biệt trong vănbản, sách báo. Như trong Hiến pháp Việt Nam, tỷ lệ từ Hán-Việt lên tới 90%.

Hiện nay giới ngôn ngữ học chính thống Việt Nam và thế giới xếptiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á, nhánh Môn-Khmer, nhóm tiếng Việt (Vietic,Việt-Mường); Hán ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Việc tiếng Việt, tiếng Hán thuộchai ngữ hệ khác nhau chứng tỏ ngôn ngữ Việt không cùng nguồn gốc với ngôn ngữHán. Đây là một kết luận quan trọng thu được sau 150 năm nghiên cứu vấn đềnguồn gốc tiếng Việt. Trên cơ sở ấy GS. TS Trần Trí Dõi nhận định: Như vậy thìcội nguồn văn hóa Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với văn hóa Hán.

Thiển nghĩ vì tiếng Việt khác ngữ hệ với các ngôn ngữ Bách Việt,suy ra tiếng Việt cũng không cùng nguồn gốc với các ngôn ngữ Bách Việt, ví dụTráng ngữ là hậu duệ của ngôn ngữ Lạc Việt3 thuộc ngữ hệTai-Kadai, các ngôn ngữ khác của Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.

So với Hán ngữ, tiếng Việtcó số âm tiết cơ bản nhiều gấp 10 lần, số âm tiết chi tiết gấp 14 lần. Ưu thếđó làm cho tiếng Việt trở nên vững bền không dễ bị đồng hóa bởi các ngôn ngữnghèo ngữ âm như Hán ngữ.

Tác giả sách Lịch sử ngôn ngữ người Việt còn đưa ra một nhậnđịnh quan trọng: Về mặt ngôn ngữ, đã có đủ cơ sở để cho rằng cộng đồng ngườinói tiếng Việt thực sự là một trong những cộng đồng cư dân bản địa chính từthời tiền sử của vùng Đông Nam Á văn hóa, chứ hoàn toàn không phải là những cưdân di cư từ phương Bắc tới. Đây là một quan điểm đúng đắn về lịch sử dân tộcViệt, là kết quả nghiên cứu dựa trên sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ của ngườiViệt trong sự so sánh với ngôn ngữ các dân tộc ở gần, tức dựa trên các nguyêntắc có căn cứ khoa học tin cậy của ngôn ngữ học lịch sử và so sánh(Historical-Comparative Linguistics). 

Kết luận trên cho thấy dân tộc Việt được hình thành trên mảnhđất này từ khoảng hơn 20 nghìn năm trước. Có thể là, theo thuyết “Đi khỏi châuPhi” (Out of Africa), trước đó tổ tiên ta từ châu Phi di cư tới đây. Năm 1923,nhà khảo cổ Madeleine Coloni phát hiện di cốt người Việt cùng nền văn hóa củahọ trong hang đá ở tỉnh Hòa Bình, các di vật này có niên đại 18.000 năm trướcCN. Hiện nay Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á của tiến sĩ Nguyễn Việtvẫn tiếp tục khai quật các di vật nền Văn hóa Hòa Bình lưu lại.4 

Lịch sử lâu đời giúp cho người Việt có đủ thời gian tạo được mộtngôn ngữ chín muồi, cực giàu âm tiết (syllable). So với Hán ngữ, tiếng Việt cósố âm tiết cơ bản nhiều gấp 10 lần, số âm tiết chi tiết gấp 14 lần.5, 6, 7.Ưu thế đó làm cho tiếng Việt trở nên vững bền không dễ bị đồng hóa bởi các ngônngữ nghèo ngữ âm như Hán ngữ. 

Thiển nghĩ, kết luận người Việt “hoàn toàn không phải là cư dândi cư từ phương Bắc tới” cho thấy dân tộc ta thời cổ không có quan hệ gần gũivới các dân tộc ở phía Bắc biên giới Trung-Việt, với nhóm bộ tộc gọi là “BáchViệt”, chẳng những về địa lý ở xa cách họ mà về ngôn ngữ hoàn toàn không chungnguồn gốc: ngôn ngữ các tộc đó đều thuộc ngữ hệ khác ngữ hệ của tiếng Việt. Cóthể suy ra người Việt nguyên thủy sống ở vùng núi Sơn La-Hòa Bình-Thanh Hóa, vềsau các bộ tộc người Kinh di chuyển dần xuống vùng trung du Yên Bái, Phú Thọ,trong khoảng 2.000 năm gần đây di chuyển xuống vùng châu thổ sông Hồng – vùngđất hình thành bởi sự bồi đắp của con sông này, như quan điểm của các nhà khoahọc Lê Bá Thảo, Trần Trí Dõi…8. Riêng các bộ tộc người Mường anh emgần nhất của người Kinh thì vẫn ở lại vùng núi.

Cần nhấn mạnh, việc người Việt dùng chữ Hán nhưng không nóitiếng Hán đã mang lại kết quả tất nhiên là tuy văn hóa Việt trong hơn 1000 nămBắc thuộc từng bị Hán hóa dai dẳng, nhưng tiếng Hán vẫn không thể đồng hóa đượcngôn ngữ của người Việt. Nhờ giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ mà dân tộc cùngquốc gia này tồn tại đến ngày nay – đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sửdân tộc Việt Nam. Ai cũng biết văn hóa Hán có sức đồng hóa rất mạnh. Ví dụ dântộc Mãn từng chiếm đóng cai trị Trung Quốc 276 năm, mới đầu họ ra sức Mãn hóangôn ngữ và văn hóa của người Hán, nhưng chỉ sau một thế kỷ, chính họ lại bịHán hóa, toàn bộ dân tộc Mãn chỉ nói tiếng Hán, dùng chữ Hán. 

Thời Bắc thuộc có nhiều người Bách Việt (chủ yếu là binh lính)sang Việt Nam định cư, ngôn ngữ của họ có tác động đến kết quả phiên âm chữHán, tức từ Hán-Việt. Ví dụ chữ Hán 欺構 tiếng Quảng Đông đọc“hoọc chập”, từ Hán-Việt là “học tập”, tuy rằng tiếng Bắc Kinh đọc “xuế xí”.Nhưng vì họ nhanh chóng bị Việt Nam hóa (lấy vợ Việt, con cháu nói tiếng Việt)cho nên ảnh hưởng của ngôn ngữ Bách Việt đối với tiếng Việt hầu như không có gìđáng kể.

Tóm lại, tiếng Việt là ngôn ngữ gần gũi nhất với Hán ngữ và chịuảnh hưởng lớn của Hán ngữ nhưng lại không cùng nguồn gốc với Hán ngữ và khôngbị Hán hóa cho dù Việt Nam từng là quận huyện của Trung Quốc trong hơn 1000năm. Chẳng rõ còn có dân tộc nào khác từng làm được điều kỳ diệu tương tự? □

——

Ghi chú:

1 Trần Trí Dõi: “Lịch sử ngôn ngữ người Việt – Góp phần tìmhiểu văn hóa Việt Nam”, Nxb ĐHQGHN, 2022.

2 Joseph Simon Theurel, 1829-1868, người Pháp, Giám mục Giáophận Hà Nội 1859-1868. Nhà thờ Kẻ Sở ở thị trấn Kiện Khê, Hà Nam thuộc Giáophận Hà Nội là một trong bốn nhà thờ được gọi là Vương cung Thánh đường.

3 졺磎寡: 《쭸督렘벌桔씩》췽痢놔경, 2017쾨. Đây là quan điểm riêngcủa nhóm Lương Đình Vọng.

4 “Văn hóa Hòa Bình: Nền văn hóa tiền sử độc đáo”. Báo Điện tử Chính phủ, 30/8/2023.

5 Nguyễn Quang Hồng: “Âm tiết và loại hình ngôn ngữ”, NxbĐHQG Hà Nội, 1995.

6 坑텬냥: “랗枷各셩돨君덜볶俚桔씩”, 蝎베놔경, 2001쾨.

7 Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”, tạpchí Tia Sáng số11/2020.

8 Li Tana: “A Historical Sketch of the Landscape of the RedRiver Delta” Cambridge University Press, 2016

 

 

2/

Quang Phan

NGUỒN GỐC TỪ VỰNG HÁN VIỆT : 

TRAO ĐỔI VỀ VĂN HÓA, DÂN TỘC VIỆTNAM VỚI NNC NGUYỄN HẢI HOÀNH

 

Nguyên văn bài của tác giả Quang Phan dài tới 6500 từ’. Các bạncó thể tìm ở nguồn

https://www.facebook.com/song.han.9461/posts/pfbid02dWcdSWqUMiWyuNWJw1aL8zTEE2WTYt3fgHmEcjsWSs7fXTYwo8mNUKbuZDuDhDZil3-11-2023

dưới đây chúng tôi lược bớt chỉ còn trên 3000 từ.

***

Trên Tia sáng 28-10-23, NNC Nguyễn Hải Hoành vừa công bố bàiviết “Vì sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với tiếng Hán?”. Bên cạnh nhữngtán đồng với tác giả về quan hệ cội nguồn của tiếng Việt, mối liên kết củangười Việt (Kinh) với văn hóa Bách Việt, chúng tôi nhận thấy cần trao đổi lạivới tác giả về vấn đề từ vựng Hán Việt, cũng như các mệnh đề liên quan mà ôngđề cập.

Sau phần lược sử nghiên cứu về Quan hệ cội nguồn của ngôn ngữngười Việt (Kinh), tác giả đưa ra mệnh đề: “Sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từHán-Việt đã giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nóitiếng Hán, đồng thời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng phát triển hầunhư vô hạn. Đây là một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ tiên ta”.

Dẫn lời Giáo sư Trần Trí Dõi, tác giả đi đến kết luận: “Như vậythì cội nguồn văn hóa Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với văn hóa Hán”.Thậm chí ông còn đi xa hơn khi mở vấn đề đến lịch sử hình thành dân tộc lên tới20 ngàn năm.

Nhằm giúp vấn đề rõ ràng, gợi mở và cận khoa học hơn, chúng tôitrao đổi, phản biện với tác giả về những mệnh đề nói trên.

--

CỘI NGUỒN TỪ VỰNG HÁN VIỆT:

Trong bài viết, tác giả Nguyễn Hải Hoành đưa ra nhận định: “Từvựng Hán Việt là loại từ vựng do tổ tiên ta sáng tạo ra trong quá trình tiếpnhận chữ Hán” hay: “tổ tiên ta đã sáng tạo ra cách đọc chữ Hán theo âm tiếngViệt mà không đọc theo âm Hán, tức cách phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt”.

Từ vựng Hán Việt không phải là sáng tạo của tổ tiên ta. Từ vựngấy được hình thành bởi những người Hán tại Giao Châu – Annam (tức Việt Nam thờiHán Đường).

Tác giả Nguyễn Hải Hoành không đưa ra bất cứ một bằng chứng lịchsử nào chứng minh cho nhận định của mình.

Nhưng nhiều nhà khoa học lịch sử và ngôn ngữ đã công nhận rằngtại Miền Bắc Việt Nam đã từng có cộng đồng Hán ngữ đó đã từng rất phồn vinh .

Động lực nào để người Hán di cư tới Giao Châu - Annam?

Ngoài những lần Trung Quốc có biến loạn thì lợi ích kinh tế mớilà cốt lõi.

Cố GS Nguyễn Tài Cẩn trong “Chương thứ II - Nguồn gốc và quátrình hình thành cách đọc Hán Việt” có trình bày cặn kẽ hoàn cảnh lịch sử đặtnền móng cho cách đọc Hán Việt.

Ông cho biết có 3 yếu tố tác động trực tiếp tới việc hình thànhtừ vựng – cách đọc Hán Việt bao gồm:

a) Di dân người Hán, (dân di cư tự do và được triều đình khuyếnkhích, tội đồ, quan lại và gia đình họ, binh lính số lượng hàng vạn…).

b). Các yếu tố chính trị - số lượng quan lại ngày càng phình lớnbởi sự quan liêu hóa, …).

c). Công cuộc phổ quát văn hóa Hán tại Giao Châu - An Nam (ViệtNam thuộc thời Hán Đường): Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, đặc biệt là triềuĐường đã mở trường dạy chữ Hán ở Giao Châu .

GS Trần Quốc Bảo (Viện nghiên cứu Việt Nam, Đại học Sư phạmQuảng Tây) trong chuyên luận “Tầm quan trọng của di dân Trung Nguyên trong thờiđại nhà Đường đối với sự phát triển của Annam” cũng có những nhận định tươngđồng với Giáo sư Nguyễn Tài Cần về dòng di cư của người ngôn ngữ và văn hóa Hánvào khu vực nay là miền bắc Việt Nam .

Những hoạt động bền bỉ kéo dài hàng ngàn năm như vậy đã dẫn tớisự hình thành và phát triển của những khu định cư của người Hán tại Giao Châu –Annam.

Ngôn ngữ Hán ở Annam cùng với Tương ngữ, Việt ngữ (Quảng Đông…)phát triển từ Hán ngữ thượng cổ (Old Chinese) lên Hán ngữ trung cổ (MiddleChinese). Cộng đồng nói phương ngữ Hán Annam trung cổ (Annamese Middle Chinese)ấy tồn tại và khẳng định được vị thế của mình trong buổi đầu thiên niên kỷ IItại Đại Việt.

Chúng tôi tán đồng với quan điểm của John Phan rằng từ vựng HánViệt ngày nay có gốc từ phương ngữ Hán Trung Cổ tại Annam.

Từ thiên niên kỷ thứ II, cộng đồng nói ngôn ngữ ấy dần chuyểnngữ sang ngôn ngữ proto Việt Mường (Language shift), đóng góp toàn bộ quỹ từvựng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

Trải qua hàng thế kỷ, tại Châu thổ sông Hồng một phương ngữ mớira đời. Chúng tôi cho rằng, nhận định của tác giả Nguyễn Hải Hoành về nguồn gốccách đọc Hán Việt chỉ chính xác với một số phương ngữ Mường, không chính xácvới ngôn ngữ người Kinh.

Người Việt không có sáng kiến nào về việc đọc chữ Hán theo tiếngViệt cả.

Sở dĩ phát âm Hán Việt khác với tiếng Hán hiện đại là do môitrường phát triển ngôn ngữ ở người Kinh mang đặc thù là sự tương tác, hòanhuyễn giữa hai khối ngôn ngữ proto Việt Mường và Hán Annam Trung Cổ.

-

NGƯỜI KINH NÓI NGÔN NGỮ GÌ?

Theo Nguyễn Hải Hoành “… tổ tiên ta đã sáng tạo ra cách đọc chữHán theo âm tiếng Việt mà không đọc theo âm Hán, tức cách phiên âm chữ Hánthành từ Hán-Việt” và “sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt đã giúpngười Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nói tiếng Hán”.

Có thể tác giả không có ý phủ định việc người Việt đã từng nói –nói thành thạo Hán ngữ, nhưng để tránh những ngộ nhận không đáng có, chúng tôiđề cập lại vấn đề ngôn ngữ người Kinh (Việt).

Từ TK X đến ít nhất là đầu thế kỷ XV, tại những vùng đất màtriều đình Thăng Long trực tiếp quản lý có ít nhất hai ngôn ngữ cùng song songtồn tại là Hán và proto Việt Mường. Ngôn ngữ Hán tồn tại trong các cộng đồnggốc Đường và được tiếp động lực từ những người nhập cư nói Ngô ngữ, Mân ngữ vàViệt ngữ. Tất cả hội tụ trong văn ngôn thời Lý Trần (ngôn ngữ của tầng lớp tinhhoa Đại Việt).

Trong khi đó cộng đồng Việt Mường sử dụng ngôn ngữ của chính họ.Bằng chứng cho sự hiện diện của cộng đồng này là triều đình Đại Việt đã phảidịch Phật Thuyết, hay vua Trần Nhân Tông làm thơ nôm Cư Trần Lạc Đạo Phú…

Sự giao giữa hai khối ngôn ngữ ấy đã trở thành ngôn ngữ ViệtMường Siêu Hán Hóa (khái niệm John Phan dùng chỉ việc ngôn ngữ Việt Mường biếnđổi sâu sắc và toàn diện bởi ngôn ngữ Hán Annam).

Ngôn ngữ mới này, nhờ sự hỗ trợ của triều đình mà ngày càng trởnên uy tín tại Đại Việt.

Nhưng có dữ liệu nào ủng hộ cho việc có ngôn ngữ Hán tại ĐạiViệt thời Lý – Trần.

Toàn thư chép có chép về việc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đếnSứ Quán gặp sứ Nguyên là Sài Xuân.

Ở đây, ta thấy Hưng Đạo Vương đã trực tiếp nói chuyện với sứNguyên mà không cần phiên dịch.

Hán văn Lý Trần – một di sản văn hóa đồ sộ cho thấy, tầng lớptinh hoa Đại Việt trao đổi với nhau, làm thơ tặng nhau bằng, thực hành niềm tintôn giáo bằng Hán ngữ.

Kể cả tiếng Việt Mường siêu Hán Hóa mà John Phan đề cập tới cũngchứa đựng từ 70 – 75% từ vựng Hán.

Bài thơ Việt Giới, của Trần Minh Tông ngõ hầu đưa chúng ta vềlại bối cảnh và sự tương đồng ngôn ngữ giữa Đại Việt và Hán ngữ phương quan(chữ dùng của Trần Quang Đức trong Ngàn năm áo mũ).

Trích:

“Ngôn ngữ vô đa biệt/

Y quan bất khả đồng”,

tạm dịch:

Ngôn ngữ chẳng khác nhau nhiều/

Áo mũ không được giống nhau .

Như vậy có thể nói rằng ít nhất đến TK thứ 13, 14 Đại Việt vẫncó cộng đồng mạnh nói tiếng Hán, tự hào với tiếng Hán. Ít nhất đến khoảng thờigian này, nhiều cư dân Đại Việt vẫn thông ngôn trực tiếp với người Trung Quốc.

--

CỘI NGUỒN VĂN HÓA

Theo Nguyễn Hải Hoành “Việc tiếng Việt, tiếng Hán thuộc hai ngữhệ khác nhau chứng tỏ ngôn ngữ Việt không cùng nguồn gốc với ngôn ngữ Hán. Nhưvậy thì cội nguồn văn hóa Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với văn hóaHán”.

Nhưng điều này có hoàn toàn chính xác không? Chúng tôi cho rằngđưa ra mệnh đề như vậy tác giả (của mệnh đề này) chưa đi đến cội nguồn của vănhóa người Kinh.

Nguồn gốc tiếng Việt và nguồn gốc Văn hóa Việt Nam là khôngtrùng khít.

Nguồn gốc ngôn ngữ Việt và nguồn gốc văn hóa người Kinh cũngkhông trùng khít.

Từ những người nói ngôn ngữ proto Vietic đến Việt Mường đếntiếng Kinh đến Việt Nam là hành trình ngôn ngữ 4000 năm, với nhiều giai đoạn.

Trong mỗi giai đoạn đó, người nói ngôn ngữ Vietic đã tiếp nhậncác luồng văn hóa và cả di truyền tới từ những người thuộc các ngữ hệ khác.

Những người Kinh đầu tiên cảm thấy mình gần Hoa Hạ, có gốc cộiHán Đường. Họ nhìn cư dân bản xứ ở vùng rìa chỉ là Liêu Di, là Mán Mọi, “nô lệmiền núi”.

Từ Khúc Thừa Dụ, đến những sứ quân gốc Hán tại khu vực sông Hồngvà chưa hết! Chúng ta có những tư liệu cho thấy nhà Lý là một gia tộc tới từđất Mân, nhà Trần đến từ đất Mân (lưu ý rằng đến thế kỷ thứ 9, 10, người Mân đãnói một phương ngữ của tiếng Hán gọi là Mân ngữ).

Những điều này đã tạo cho thành Thăng Long một nền văn hóa khácbiệt với những cư dân vùng rìa. Người Thăng Long coi những cư dân ấy là Man, làLiêu Di. Từ kinh thành họ đã phóng ra hàng chục cuộc tấn công vào các thế lựcbản địa khi họ “ương ngạnh không tuân giáo hóa”.

Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói: “Để bọn man di quấy Hạ là tội củathần [...] Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven,mất mật mà theo hoàng hóa”.

Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục cho rằng thật tệ khi sinh ra ởcõi Man Di, tắm chung một dòng sông, chỉ có sinh ra ở Trung Quốc, lục căn đầyđủ là quý giá nhất: “…ba là đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn khôngđủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm [...] tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt nhưở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ sáucăn, há chẳng quý lắm sao?” .

Phạm Sư Mạnh trong bài Kinh Lý Thao Giang Lộ đã phóng chiếu cáchnhìn rất đỗi Trung Hoa với vùng đất bên rìa Kinh Lộ.

Trong Án Thao Giang Lộ, ông viết: “Tục tạp Nhiễm Bàng kiêm BặcBắc/Địa liên Thiện Thiện dữ Vân Nam” .

Nguyễn Phi Khanh nhìn về Trường Châu thấy: “Tục tạp liêu di dânthái cổ”. Và khi đi tuyên chiếu ở Trường châu thì ông đem “chiếu chỉ triềuĐường”, “sắc lệnh nhà Hán” đến với dân Liêu Di ấy.

Trong tờ chiếu đánh Ai Lao năm 1479, Vua Lê Thành Tông xưng mìnhcai quản Trung châu; còn phía đối phương chỉ là man rợ, chó má.

Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam Trung Đại chúng ta còn bắtgặp rất nhiều những diễn ngôn như vậy.

Trong ngàn năm qua, chúng ta dành tới 90% thời gian để theo đuổinỗ lực Vô tốn Trung Hoa (無遜中華 - không khác và không thuakém Trung Hoa).

Từ những cứ liệu trên, chúng tôi cho rằng với người Kinh thì từtừ vựng, văn hóa, đến ý thức tự nhận chúng ta đã từng có điểm giao rất lớn vớinền Văn minh Trung Hoa (Việt Nam nằm trong Hán quyển).

Cũng lưu ý cội nguồn văn hóa Việt Nam được hình thành bởi 54 sắctộc trên toàn quốc gia, không phải chỉ dành riêng cho người Kinh.

--

DÂN TỘC 20 NGÀN NĂM TUỔI?

Nghiên cứu của Gs Trần Trí Dõi “Lịch sử ngôn ngữ người Việt: Gópphần tìm hiểu văn hóa Việt Nam” đã gợi xúc cảm để tác giả Nguyễn Hải Hoành điđến mệnh đề:

“Kết luận trên cho thấy dân tộc Việt được hình thành trên mảnhđất này từ khoảng hơn 20 nghìn năm trước. Có thể là, theo thuyết “Đi khỏi châuPhi” (Out of Africa), trước đó tổ tiên ta từ châu Phi di cư tới đây. Năm 1923,nhà khảo cổ Madeleine Coloni phát hiện di cốt người Việt cùng nền văn hóa củahọ trong hang đá ở tỉnh Hòa Bình, các di vật này có niên đại 18.000 năm trướcCN”.

Chúng tôi không hiểu dựa trên cơ sở khoa học nào mà tác giả lạikết nối từ văn hóa cuội ghè Hòa Bình đến tận người Việt hôm nay? Chúng tôithẳng thắn lưu ý rằng theo chuẩn thuật ngữ khoa học thì chỉ có một dân tộc ViệtNam được hình thành từ 54 sắc tộc, trong đó người Kinh là sắc tộc chủ thể.

Về định nghĩa dân tộc, ngày 11 tháng 3 năm 1882, tại Đại họcSorbonne, Ernest Renan đưa ra định nghĩa về “dân tộc” như sau: “Dân tộc là mộttâm hồn, một nguyên lý tinh thần. Có hai yếu tố, thực ra chỉ như một, tạo nêntâm hồn hoặc nguyên lý tinh thần này. Một nằm trong quá khứ, một trong hiệntại. Cái này là sự đồng sở đắc di sản ký ức phong phú; cái kia là sự thỏa thuậntrong hiện tại, là lòng mong muốn được chung sống, là ý chí biến giá trị kếthừa, giá trị mà mỗi người đã tiếp nhận dưới hình thức trọn vẹn, trở nên bấtdiệt” .

Với người Kinh, chúng ta bắt gặp diễn ngôn người Kinh là Hoa Hạ,hãnh diện làm người Trung Quốc (xem phần trên).

Theo định nghĩa Ernest Renan thì ta sẽ gặp ký ức và mong muốnlàm bất diệt hóa ký ức di sản Trung Hoa ngay tại Đại Việt. Như vậy giả thiết“dân tộc Việt được hình thành trên mảnh đất này từ khoảng 20 ngàn năm trước”liệu có phù hợp không?

Tiếp theo, chúng ta sẽ lưu ý tới những luồng di cư.

Dữ liệu di truyền học cho thấy 4000 năm trước người ngữ hệ Nam Ádi cư vào khu vực châu thổ sông Hồng, sáng tạo văn Phùng Nguyên. Người mang ditruyền học ngữ hệ Tai Kadai sáng tạo ra nền văn hóa Lạc .

Dữ kiện lịch sử và Khảo cổ học cho thấy, người Hán di cư tớichâu thổ sông Hồng. Tất cả những dòng di cư ấy đều không phải là người của vănhóa cuội ghè Hòa Bình.

Xin hỏi tác giả Nguyễn Hải Hoành: nếu văn hóa, lịch sử của ngườiKinh (tác giả dùng khái niệm dân tộc Việt) (có thể…) được bắt nguồn từ ngườiHòa Bình, vậy tiếng nói người Kinh được hình thành từ tiếng nói của người thuộcvăn hóa Hòa Bình ư?

Người Hòa Bình nói ngôn ngữ gì vậy?

Proto Vietic, hay là Austroasiatic, hay sâu nữa là protoAustroasiatic đây? Chúng ta kế thừa và mong muốn bất diệt hóa di sản ký ức nàotừ người Hòa Bình đây?

Chúng tôi nhấn mạnh rằng chưa có bằng chứng khảo cổ học, nhânchủng học, ngôn ngữ, văn hóa nào ủng hộ kết luận “dân tộc Việt được hình thànhtrên mảnh đất này từ khoảng hơn 20 nghìn năm trước”.

Chúng ta chỉ có những bằng chứng khẳng định người Hòa Bình lànhững người bản địa đầu tiên ở khu vực nay là Đông Nam Á và cả nam Trung Hoa.Hậu nhân của họ vẫn còn săn bắn hái lượm trong các khu rừng rậm của Phillipine,Malaisia, Thái Lan ngày nay.

--

KẾT LUẬN

Chúng tôi thiết nghĩ bài viết “Vì sao tiếng Việt không cùngnguồn gốc với tiếng Hán?” của tác giả Nguyễn Hải Hoành cần bổ sung rất nhiều cứliệu về ngôn ngữ (trong đó có phục nguyên âm, âm vị), lịch sử, văn hóa, khảocổ. Tác giả cũng cần cẩn trọng hơn trong việc đề cập tới các vấn đề dân tộc,văn hóa, sử dụng dữ kiện.

Sự cẩn trọng và thanh thản khi đối diện các vấn đề lịch sử, dữkiện lịch sử là cần thiết cho hành trình tiệp cận khoa học lịch sử mà cụ thể làlịch sử hình thành người Kinh.

Không ai có thể tự biện rằng: “Mọi nghiên cứu về thời cổ đều chỉlà “thầy bói sờ voi”, tất cả đều chỉ dựa trên suy đoán, ai suy luận có logicthì dễ được người đọc tin là đúng. Không ai có quyền chê người khác là sai”.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 16, 2023 20:10

December 9, 2023

"Phê bình kiểm dịch" bài của Trần Đình Sử Th7 18, 2013

 Nguồnhttps://www.procontra.asia/?p=2756


LỜI DẪN của Phạm Thị Hoài

Đọc bài tiểu luận sau đây, nhiều lần tôi bật cười vì cái hài hước ẩn trong giọng văn kiềm chế của một nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm: GS Trần Đình Sử đã giảng dạy Lí luận Văn học hơn hai mươi năm tại Trường ĐHSP Hà Nội, nơi ông cũng từng làm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Từ mười năm nay ông là ủy viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. Với một sự nghiệp như vậy, những nhận định của ông về nền “phê bình kiểm dịch” trong bài viết này không phải là đúc kết của một người đứng bên lề. Tôi tin rằng một “bộ phận không nhỏ” thuộc giới nghiên cứu và phê bình văn học trong môi trường chính thống ở Việt Nam hiện nay, dù không hay chưa hiển ngôn, chia sẻ quan điểm của ông. Tôi xin nồng nhiệt quảng cáo bài viết này đến tận màn hình của các công chức văn học đang cố gắng lo tròn bổn phận kiểm dịch “luận văn Mở Miệng“.


________________

Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.

Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả. Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa, không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học) đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.

Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.

Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công trình nghiên cứu học thuật.

Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báo Nhân dânQuân đội Nhân dânTiền phongCứu quốcThống nhấtĐộc lậpThủ đô Hà Nội.., hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.

Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:

Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.

Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.

Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.

Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?

Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.

Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.

17–7–2013

Xem thêm: Trần Đình Sử, “Các xu hướng phê bình văn học Việt Nam hôm nay“, “Lí luận văn học – Khủng hoảng và lối thoát“, “Văn học và ý thức hệ xã hội“, “Lí luận văn học Trung Quốc chuyển đổi hình thái diễn ngôn“, “Hệ hình phê bình văn học Trung Quốc – Từ chính trị sang thẩm mĩ và học thuật

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 09, 2023 19:49

December 3, 2023

Hai bài viết sau đám tang hòa thượng Tuệ Sĩ, một của Từ Thức và một của Lê Học Lãnh Vân

 

HOÀ THƯỢNG TUỆ SĨ

 

Trích từ “Từ Thức: Tạp ghi tháng 11”


Nguồn: Fb Song Chi
 2-12-2023 

--

Hoà thượng Tuệ Sĩ viên tịch.

Ít khi một nhà tu ẩn dật, qua đời được nhiều người người nhắctới như vậy.

Bởi vì trong một xã hội băng hoại, nhân phẩm đổ nát, ít có cơhội được ca ngợi một người tốt, một tia sáng, một đôi chút hy vọng.

 

 

Nói về một người đáng kính cũng là một nhu cầu. Đó là một cáchtrấn an cho chính mình: đất nước chưa hoàn toàn bệ rạc, bởi vì còn những ngườinhư Tuệ Sỹ. Một cách khuyến khích cho những người còn nước còn tát.

 

 

Ở đây, tôi mạo muội dùng chữ Tuệ Sỹ trống không, như người taviết về một nhà văn: Nguyễn Du, Nhất Linh. Bởi vì sinh thời, một người nhiềutình cảm, suy tư như ông, chắc muốn viết văn, làm thơ hơn cả.

 

 

Tuệ Sỹ tượng trưng cho tất cả những gì đã mất ở xã hội Việt Nam,nhất là nhân phẩm con người.

 

 

Tuệ Sĩ là một nhà chân tu trong một thời mạt pháp, bên cạnhnhững hoà thượng, đại đức công an, thuộc kinh Hồ Chủ Tịch hơn kinh Phật. Tuệ Sỹsống thanh đạm, bên cạnh các thầy chùa quốc doanh lên xe xuống ngựa, vạt núi,xẻ rừng, phá huỷ thiên nhiên để xây những ngôi chùa vĩ đại, kêch cỡm, thô bạođể kinh tài.

 

 

Trong một thời đại hỗn mang, dân lầm lẫn tôn giáo với mê tín, dịđoan, buôn thần bán thánh là chuyện làm ăn thịnh vượng nhất, Tuệ Sỹ là trí thứcthứ thiệt giữa một băng đảng nguỵ trí thức. Hoặc bằng cấp giả, hoặc bằng cấp cóđược nhờ học thuộc lòng, nhưng quay mặt trước thảm trạng xã hội để được yênthân, để khỏi mất đôi chút bổng lộc. ’Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo. Văn chươngliều lĩnh đấm ăn xôi’, như ngày xưa Trần Tế Xương đã mỉa mai.

 

 

Tuệ Sỹ không đi tu để trốn đời, ông ghé vai lãnh việc chung, nhưCamus nói: trí thức hay không, người dân nào cũng ở trên thuyền, cũng phảichèo.

 

 

Tuệ Sỹ lãnh án tử hình, không thèm xin khoan hồng, vì cho mìnhkhông có tội gì cả, ngoài tội yêu nước, và không có ai đáng để xét xử ông. Mộtcâu ngắn đủ để nói lên thực trạng của công lý.

 

 

Dưới thân thể mảnh mai, gió nhẹ đủ để cuốn bay, khiến người tanghĩ tới thánh Gandhi, nhà chân tu ấy đương đầu với cả một tập đoàn ma tăng,cứu vãn cho danh dự Phật Giáo Việt Nam trong cơn điên đảo.

 

 

Tuệ Sỹ là một trí thức uyên bác.

Trí thức không nhất thiết phải đi đôi với uyên bác, nhất là ởViệt Nam.

Những sách về Phật Học của thày mở một chân trời mới cho Phậttử, trong khi theo truyền thống “thuật nhi bất trác”, đa số sách vở Việt Namchỉ lặp đi lặp lại những cái cũ, chỉ đi những lối mòn. Chưa nói đến tác phẩmtràn ngập thị trường của các nhà tu công an.

 

 

Thơ Tuệ Sỹ là những bát nước trong, nhưng bát nước chứa cả vũtrụ. Một nhà chân tu, một trí thức uyên bác, một công dân bất khuất. Một ngườinhư vậy tưởng như không thể có ở Việt Nam ngày nay. Nếu có cũng khó sống.

 

 

Thư thày Tuệ Sỹ gởi tăng sinh Huế dưới đây, cách đây trên 20năm, đáng lẽ phải dán ở mỗi chính điện, mỗi cổng chùa như một lá bùa, để ếm matăng khỏi mò vào cửa Phật:

“Một Phật Tử xuất gia, khi cất bước ra đi, là đến phương trờicao rộng, tâm tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theomọi giá trị hư đốn của thế gian. Người Phật tử không cúi đầu khuất phục trướcmọi cường quyền, bạo lực.

Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại,đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé và giả nguỵ, mà ngay cả người đời nhiều kẻ cònvất bỏ không tiếc để giữ tròn danh tiết.

Chớ khoa trương bảo vệ chánh pháp mà thực tế chỉ là ôm giữ chùatháp làm chỗ ẩn núp cho ma vương, là nơi tụ hội cho cặn bã xã hội. Chớ hô hàotruyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xinmột chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua quan bán chức”.

 

***

NGÃ NGUYỆN VÔ CÙNG

Lê Học Lãnh Vân

 Nguồn – mạng Văn Việt 1- 12 - 2023

--

Việc Thầy Tuệ Sỹ viên tịch làm dậy sóng cõimạng. Lớp lớp sóng Tiếc Thương, sóng Yêu Kính, sóng Từ Bi, sóng Tỉnh Thức…

Vậy thì, sự ra đi của Thầy là một sự kiện vănhóa, một sự kiện văn hóa lớn. Lớn tới độ nó dằn được các ồn ào của những của dưluận xốc nổi thường xảy ra trên công luận tại Việt Nam. Và nó dẫn dắt sự caokhiết, tĩnh lặng, thâm sâu…

Tang lễ thầy Tuệ Sỹ gợi lên nhiều điều tốt đẹpvề văn hóa lâu nay bị xã hội rẽ rúng, dập vùi!

Thí dụ về tính khiêm tốn, không gây phiền hàcho xã hội, cho những người chung quanh. Tính khiêm tốn xin lễ tang được tổchức lặng lẽ, không chiêng trống xập xòe, không xướng tên người và chức tướccác đoàn tới viếng, không yêu cầu đền tháp…

Thí dụ về tính trí tuệ và trí huệ. Con ngườibiết khoảng mười ngôn ngữ và đọc thiên kinh vạn quyển kia chỉ dùng năng lực ấytận hiến cho đời, chẳng hề “khoe khoang nói chuyện trực tiếp bằng tiếng Anh!”.Con người tinh thông đạo pháp và triết học kia lúc nào cũng có nhu cầu đượckhiêm tốn làm việc, đọc, học…

Thí dụ về tính cao khiết, tôn trọng đạo đức,xem nhẹ vật chất trần gian…

Thí dụ về đởm lược. Bị cầm tù, bị phán xét tửhình, con người vừa qua 40 tuổi năm ấy vẫn khuôn mặt điềm nhiên cùng đôi mắtsáng, sâu… “Chỉ người có tín tâm bất hoại, đức tính dũng mãnh vô úy, luôn tuhọc nhìn rõ sự tướng chân ngụy mới biết mình đang ở đâu, sẽ về đâu, không nhắmmắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang laoxuống dốc đời không định hướng…” (tóm tắt ý của thầy Tuệ Sỹ).

Một xã hội đứng trên những giá trị như trênmới phát triển lâu dài!

Tang lễ ấy khiến người ta nhìn và khẳng địnhlại những điều mình còn mơ hồ. Đúng rồi, những lễ tang cấp này cấp nọ, những ngôimả xây rất hoành tráng, cầu kỳ trên diện tích đất mênh mông sao mà kệch cỡmquá!

Đúng rồi, những kiểng chùa to thật to tới phảibạt núi phá rừng mà xây, bên trong nghi ngút khói nhang mê tín, chỉ là nơi “ẩnnúp cho Ma vương”, là nơi “mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chútân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức”, lừa gạt chúng sinh gom tiềnthiên hạ…

Đúng rồi, những biệt phủ xa hoa, những đại ántham những hàng ngàn tỉ, hàng chục ngàn tỉ và giờ là hàng trăm ngàn tỉ chỉ làhạt cát vô nghĩa trước bậc cao tăng vòi vọi như dáng núi dưới trăng vàng!

Đúng rồi những chức danh tót vời, những phátngôn rổn rảng càng cho thấy mức độ trí thức và tu tập quá thấp của nhiều khuônmặt hãnh tiến trong miếu đường!

Đúng rồi, cái dũng xốc nổi của kẻ thất phu đưaxã hội chìm sâu bể khổ, chỉ cái dũng của tri thức và đạo đức mới hướng người talên vời vợi trời cao…

Đúng rồi, hình như văn hóa và giáo dục Việtđang lạc đường!

Là người trí thức cầm trách nhiệm cao, lẽ ranên thấy trong sự ra đi của thầy Tuệ Sỹ cơ hội chấn hưng văn hóa! Việc lòngngười hướng về các giá trị cao quý của đời và đạo cho thấy các giá trị truyềnthống và văn minh, dù trải bao vùi dập, còn ẩn mình trong xã hội Việt. Đó là“dấu hiệu của nguồn mạch ngầm vẫn luân lưu bất tuyệt trong dòng lịch sử truyềnthừa của Phật giáo Việt Nam”, của anh linh tổ tiên. Đó là nguồn lực vô cùng đểphát triển người Việt, quốc gia Việt Nam!

Phải chăng nguồn lực vô cùng đó cũng là bệđứng của ước mong thầy Tuệ Sỹ để lại là NGÃ NGUYỆN VÔ CÙNG…

Ngày 29 tháng 11 năm 2023

 

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 03, 2023 02:19

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.