Vương Trí Nhàn's Blog, page 3

July 17, 2025

Biết ơn người chửi bậy, văng tục..! bài của Nguyễn Lân Bình

Lời dẫn:

Năm mươi năm sau chiến tranh, việc tìm tòi những kỉ niệm chân thực mà những người trong cuộc đã trải qua là vô cùng cần thiết. Với ý nghĩa ấy tôi xin phép dẫn lại bài viết của tác giả Nguyễn Lân Bình đưa trên trang mạng của anh, sau khi đã có một vài sự điều chỉnh nho nhỏ về câu chữ ở đoạn dẫn của bài viết, mong được tác giả thông cảm. 

---

Nguồn:  https://tannamtu.id.vn/?p=9468

“Chửi thề là cách để con thể hiện cái ‘tôi’, không lạc đàn với số đông” là tên một bài báo trên  Vietnamnet 20/9/2020. Bài viết đã thúc đẩy tôi viết ra những suy nghĩ sau của mình -- trước tiên phải nói đây là một đề tài rất khó cắt nghĩa và khẳng định, thậm chí, thiết nghĩ không thể khẳng định, và cũng chẳng nên phủ định.

Nhập đề.

Tháng 12 năm 1971, tôi ‘được’ gọi nhập ngũ sau khi vừa đi học từ Đông Âu về.

Chỉ sau vài tháng luyện tập, tôi cùng các đồng đội lên đường vào chiến trường miền Nam. Đa số anh em cùng đơn vị nhìn tôi với con mắt… thằng ‘công tử’. Nhờ Giời, có lẽ vì tôi có chút chiều cao, trắng trẻo (nhờ mấy năm bơ sữa), người đời bảo tôi là đứa ‘có da có thịt’, lại mang danh lính Hà Nội, nhà ở phố ‘Tây’ gần Hồ Hoàn Kiếm, tác phong nghiêm túc đến mức hơi rụt rè… Tôi bị đôi ba người mặc cảm không oan!

Những năm lớn lên, tôi tuyệt nhiên không biết chửi bậy, văng tục hay gây gổ đánh nhau. Thậm chí ngày ấy, tôi còn thấy khó mở miệng nói một vài từ mà các bạn học thỉnh thoảng vẫn buông ra đến mức quen tai, cách nói bị quy là: Bọn trèo me trèo sấu, nặng hơn còn bị kết án là: Vô giáo dục, mặc dù đó chỉ là các câu chửi đổng theo bản năng, đôi khi vô nghĩa như: ‘Mẹ kiếp’‘tiên sư’ hay ‘kệ mẹ’… Thời ấy, các bậc phụ huynh ở thành phố đều nghiêm khắc, họ không để các con dùng những từ ngữ ‘vỉa hè’ ấy trong sinh hoạt. Thậm chí, việc gọi nhau là ‘mày-tao’ cũng bị các thầy cô giáo phê bình. Còn tôi, cho đến lúc mặc áo lính, vẫn rất mặc cảm với ai đó chửi bậy, văng tục, thậm chí đôi khi còn thấy… ghét họ.

Lân Bình chụp đúng ngày sinh nhật tròn 18 tuổi (1969).

Hướng vào chiến trường

Chặng đường hành quân bộ của chúng tôi bắt đầu từ một Trạm Giao liên ở Cát Đằng, huyện Ý Yên, Nam Hà, rồi đi bộ qua Nho quan Ninh Bình, và tiếp đến là Thiệu Hóa, Thanh Hóa… Và chúng tôi còn đi xa nữa, lâu nữa…

Trong cuốn sổ nhỏ của mình, tôi có ghi lại một sự việc ồn ào đã diễn ra không thể quên tại Trạm Giao liên (1) ở xã Thiệu Đô huyện Thiệu Hóa, chuyện là thế này:

Khi chuẩn bị đến giờ hành quân chặng đường tiếp theo (Thường vào lúc 5 giờ chiều), chúng tôi bỗng nhận được lệnh: “Hôm nay, chúng ta sẽ hành quân bằng ô tô!”.

Thay vì vui mừng vì sẽ không phải đi bộ cả đêm đến sáng, anh em chúng tôi lại xôn xao, lo lắng, và thấy sờ sợ do nhận thức: Đi bộ mà trúng bom, nếu có chết cũng chỉ chết vài ba đứa, còn nếu đi bằng ô tô, mỗi xe tối thiểu cũng ba bốn chục người, chẳng may chỉ cần một quả bom, sẽ chết ít ra cũng phải nửa xe.

Chúng tôi nhao nhao phản đối việc đi bằng ô tô, và hét to: Chúng mày ơi, cùng nhau phản đối, dứt khoát không đi bằng ô tô nhé! Thế rồi, tiếng chửi đổng, văng tục kéo dài trùm lên bầu không khí trước giờ hành quân.

Thực chất, chúng tôi chỉ là một lũ ‘trẻ con’ (nhìn từ góc độ chiến tranh), vì thực ra có đứa nào biết gì đâu về cục diện chiến sự, địa hình, cung đường hành quân cùng các quy luật đánh phá của máy bay địch, nhất là đối với những vị trí được gọi là trọng điểm, để mà hùa nhau chống đối, đòi phải thế này, phải thế kia!

Không khí trước giờ khởi hành trở nên căng thẳng, tất cả đều đang đợi nghe lệnh của người dẫn quân. Một vài người trong chúng tôi hi vọng, với sự phản ứng quyết liệt của anh em binh lính, chắc sẽ vẫn ‘được’ đi bộ như mọi ngày.

Người dẫn quân của đơn vị chúng tôi là một Trung úy, anh cùng khởi hành với bọn tôi từ Hà Nội, tính tình anh điềm đạm, ít khi có thái độ gay gắt. Chúng tôi nhận thấy ở anh có sự đồng cảm, vì những lúc nhìn thấy chúng tôi hồn nhiên đùa cợt, anh tỏ thái độ bùi ngùi như muốn nói: Các cậu cứ yên tâm, mình nghiêm khắc chứ không hà khắc đâu, mình thương các cậu vì tương lai phía trước của các cậu còn chưa biết thế nào…?! Vậy mà sao hôm nay, tôi thấy anh cứ khư khư để một tay bên hông, nơi có khẩu súng lục K 59…

Khi chúng tôi đã tề tựu thành hàng trong không khí căng thẳng, mọi người vẫn rì rầm phản đối việc hành quân bằng ô tô, bỗng thấy mắt người Trung úy đỏ lên và anh quát lớn:

“Đồng chí nào không đi? Ai không tuân lệnh đứng ra khỏi hàng! Chặng đường hôm nay cực kỳ nguy hiểm, lần này chúng ta phải vượt qua trọng điểm là dốc ‘Bò Lăn’ càng nhanh càng tốt. Đây là nơi bom đạn rất ác liệt … Việc phải vượt trọng điểm yêu cầu phải khẩn trương, do mật độ máy bay đánh phá vị trí này rất dày, vì vậy, chỉ có đi bằng ô tô mới rút ngắn được thời gian vượt trọng điểm. Từ chặng tiếp theo, chúng ta sẽ lại vẫn hành quân bộ. Tất cả chuẩn bị, bước đều… bước!”.

Bọn tôi cảm nhận được cái gay gắt ít thấy ở anh, cơ thể anh như căng ra cứ như anh định mở khóa bao để rút súng ra vậy… Chúng tôi thấy cũng hơi sờ sợ, tiếng lao xao phản đối lắng dần xuống… Và rồi, tất nhiên, chúng tôi phải ‘ngoan ngoãn’ tuân lệnh bước đều về hướng chỉ định.

Chỉ đi bộ khoảng 15 phút, đến địa điểm tập kết, hóa ra không phải chỉ có đơn vị của chúng tôi sẽ đi bằng ô tô. Quan sát đoàn quân, chúng tôi thấy cả lính thông tin (đeo máy phát 3W), cả lính cối (cõng các mâm súng cối khá nặng), rồi thấy cả nhóm lính trinh sát, trang bị rất nhiều loại thiết bị mà chúng tôi chỉ được nhìn và thèm muốn…

Cung đường tử thần

Bầu Trời đã sẫm màu, hàng loạt xe Zin 157 của Liên Xô và Hoàng Hà của Trung quốc lần lượt nổ máy đợi lệnh xuất phát. Cảnh tượng như đi ‘trảy hội’, tiếng gọi, tiếng quát không dễ để phân biệt được của ai, tiếng động cơ không át được tiếng hét của các bạn lính súng cối, do họ mang nặng, lúc đẩy nhau lên xe chẳng dễ dàng như bọn tôi, lính thợ.

Đứng trên thùng xe, tôi thấy là lạ khi trời tối hẳn, đoàn xe cứ vun vút lao vào bóng đêm mà không mảy may thấy có bất cứ thứ ánh sáng nào, tôi tự hỏi, vậy lái xe nhìn vào đâu để lái? Tôi đứng phía bên trái thùng xe, sát với cabin, một vị trí rất thuận lợi vì có chỗ để bám, khó bị xô ngã khi xe đi vào những đoạn đường gồ ghề, hay khi xe phanh gấp. Chạy được một lúc lâu, tôi cúi xuống phía người lái xe và hét:

“Ông anh ơi, trời tối thế này mà sao không dùng đèn gầm à?”.

Anh lái xe văng luôn:

“Đ.mẹ, các ông muốn chết à? Đoạn này tuyệt đối cấm, chuẩn bị xuống dốc đấy, lúc ngóc đầu xe lên mà có đèn gầm, bọn OV 10, nó gọi ‘Thần Sấm’ (F 105), ‘Con Ma’ (F 4H) nó cho toi ngay”. Tôi đắc chí, vì học được chút kinh nghiệm chiến trường.

Xe chạy khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ, tôi thấy xuất hiện ánh trăng lờ mờ. Sau này, chúng tôi mới thấm cái giá trị của cái thứ ánh sáng nhờ nhờ đó, nó quý đến thế nào khi hành quân đêm.

Xe bỗng lao nhanh hơn… Hóa ra xe đang xuống dốc. Người lái xe ngó cổ ra từ buồng lái và hét: “Bò Lăn đấy, dốc Bò Lăn đấy các bố ạ, giữ chặt vào nhé”. Thôi thì bọn tôi cũng biết vậy, chứ có đứa nào hiểu gì về cái trọng điểm này đâu, ngoài lời cảnh báo của người cán bộ dẫn quân. Mà thành thật để nói, chúng tôi chẳng ai quan tâm đâu là bò lăn với lại trâu lăn, ngày đó, không ai trong chúng tôi nghĩ, những diễn biến này sẽ trở thành dấu ấn, thành kỷ niệm, mà chắc gì còn sống để nhắc lại… Bỗng có tiếng hét to ngay trên xe… Nhìn kìa, nhìn kìa, bên đường ấy… Chúng tôi thấy, dưới ánh sáng lờ mờ của ánh trăng non, cảnh tan hoang đến kinh hoàng của xác các loại xe ô tô bị trúng bom, nằm chồng chất dưới hai bên vệ đường, thực chất là thung lũng. Tuy là ánh sáng yếu ớt của trăng đầu tháng, nhưng cũng đủ để ai nấy đều thấy rùng mình khi chứng kiến xác xe cháy nhiều đến mức khó tưởng tượng, nhiều lắm… Tôi trộm nghĩ, vậy là người cán bộ dẫn quân đã nói thật, chứ không phải hù dọa gì bọn tôi.

Ảnh chụp một đoạn đường Trường Sơn (Nguồn: Bảo tàng Trường Sơn)

Khi xe lên hết dốc, trở lại đường bằng, người lái bớt ga, xe chạy có vẻ êm hơn. Xe chạy chưa được nửa tiếng tính từ dốc ‘Bò Lăn’, bỗng xe từ từ dừng lại, chúng tôi chẳng biết có chuyện gì…? Một vài xe đi sau cố tìm cách vượt bên phải, có vẻ như có khoảng trống rộng hơn, nhưng rồi họ cũng không qua được, vậy là các xe dàn thành hàng ngang, và càng ngày, càng dồn ứ lại không biết đã có bao nhiêu xe đang ở phía trước, và sẽ còn có thêm bao nhiêu xe phía sau đang tới nữa…?!

Chúng tôi lại nhao nhao khi thấy anh lái xe tắt máy, vì như thế chắc hẳn sẽ phải chờ lâu. Nhưng cũng nhờ thế, tôi mới nghe được lời bàn tán từ chung quanh. Vâng, tắc đường chẳng phải là chuyện gì lạ lùng, nhưng vì sao tắc, là điều đã làm cho bọn tôi hoang mang. Mọi người bắt đầu tưởng tượng ra cảnh, nếu bất ngờ lúc này máy bay ập đến đánh phá, thì chúng tôi sẽ trốn vào đâu? Phía trước, tiếng động cơ xe cứ gầm gừ cố để vượt qua các vũng lầy, nhưng dần dần, họ cũng lần lượt tắt máy. Điều này báo hiệu việc tắc đường sẽ kéo dài, và ai cũng tự hiểu rằng, càng kéo dài thời gian đứng ở một chỗ, khả năng bị máy bay phát hiện càng cao, và nguy cơ bị tấn công càng lớn.

Cảnh anh em bộ đội hò nhau đẩy chiếc xe bị xa lầy trên đường (Nguồn: Bảo tàng Trường Sơn)

Khi các xe đều lần lượt tắt máy, chúng tôi mới thấy cái không khí im ắng ban đêm ở một vùng đồi thấp nó êm đềm đến thế nào, nhất là khi ngước lên trời thấy các vì sao li ti, lấp lánh huyền ảo.

Tôi đang mơ màng, bỗng một giọng nói vang lên trong đêm tối:

“Chúng mày có ngửi thấy mùi gì không? Thơm không? Toàn mùi cam chanh thôi…”.

Rồi tiếp theo là giọng nói của một người khác réo lên, ra điều hiểu biết:

“A, đúng rồi, qua Nông Cống rồi, sắp đến Nghệ An đấy. Ối Giời ơi, cam Vinh ngon nổi tiếng chúng mày nhớ không? Hình như hai bên đường là nông trường hay sao ấy, mùi thơm lắm, xuống lấy cam đi, đúng đúng, xuống đi, đường đang tắc mà, biết đến bao giờ mới thông…?!”

Lập tức đã có một vài anh bạn hưởng ứng, họ nhảy vội xuống khỏi xe, lao vào hướng có mùi thơm với ý đồ tranh thủ hái, cho dù trời chỉ sáng lờ mờ không nhìn được rõ cây gì, quả gì và ở chỗ nào… Mà hình như mọi người cũng không quan tâm, rằng là cam hay là chanh, đã đến kỳ ăn được hay vẫn còn non?! Thực chất, thế này là chúng tôi ăn trộm nếu không định nói là ăn cướp, mà đã là ‘cướp’, thì xanh chín gì cũng tốt. Tôi quyết định hùa theo một số người với tâm lý bày đàn. Tôi thò một chân ra ngoài thùng xe, ngay sát cánh cửa cabin nơi người lái xe ngồi.

Đúng lúc tôi chưa kịp kéo nốt chân còn lại đang ở trong thùng xe ra ngoài để nhảy xuống, người lái đẩy cửa xe, đứng hẳn ra ngoài cabin, trên mép bia (2), hướng về phía chúng tôi với tông giọng chát chúa còn hơn cả gào thét:

“Đ.mẹ chúng mày, cam chanh cái đ.gì, muốn chết hết à. Đ.mẹ các ông lên hết đi, nhanh… ngu lắm, đ.biết gì cả!”.

Anh ta đóng xầm cửa lại với thái độ giận dữ, và lập tức nổ máy. Những người đã chót nhảy xuống, thấy xe nổ máy (chỉ mỗi xe chúng tôi, các xe khác vẫn đứng im), họ vội vàng lao trở lại xe.

Tôi nghĩ, mọi người vội quay lại xe, có lẽ vì sự thô lỗ, sự gay gắt đến mức phát điên của người lái xe khi chửi cả lũ bọn tôi, nó động chạm đến tận xương tuỷ, đến tận từng dây thần kinh danh dự và cái lòng sĩ diện trong mỗi thằng người khi bị nhục mạ, đồng thời lại thấy xe nổ máy… Dù không ai trong chúng tôi hiểu lý do người lái xe nổ máy, nhưng ai cũng sợ bị bỏ rơi, nên vội vã leo lên xe, còn hơn cả hiệu lệnh của những người chỉ huy.

Tôi đã nghĩ, ‘thằng cha lái xe’ này quá đáng, sao lại chửi chúng tôi một cách thô bỉ, sỗ sàng và tục tằn đến thế chứ? Cái cách chửi của ‘hắn’ còn tệ hơn cả mấy ông bố ở quê, cậy là người lớn mắng con té tát khi cáu giận. Tại sao người lái xe không nói to lên, rằng: Không được, các ông đừng xuống, đứng yên đấy, tôi lại cho xe chạy đây…? Vào cái giây phút ngắn ngủi đó, tôi đã âm thầm kết án: ‘Thằng’ lái xe này thật là ‘vô học’, sao lại có thể ‘vô văn hoá’ đến thế cơ chứ?! Đồ:…!

Nhưng xin thưa, đó là nói đi, còn nói lại, giả thiết, nếu người lái xe lúc đó nói với chúng tôi theo khuôn mẫu đạo đức vẫn được xã hội quy ước… Thì liệu những kẻ ‘bày đàn’ trong số chúng tôi, những người đã nhảy xuống khỏi xe theo tiếng gọi ‘cam, chanh’, sẽ có răm rắp chấp hành cái mệnh lệnh ‘lịch sự’ như tôi nghĩ không???

Thế rồi, người lái xe lại thò đầu ra ngoài, ngoái cổ lại phía chúng tôi hét to trong tiếng động cơ đang gào lên, cứ như anh sắp cho xe nhảy lên không trung:

“Đ.mẹ, các ông giữ cho chặt nhá, tôi phóng đấy, xóc lắm đấy!”

Không ai trong chúng tôi hiểu vì sao người lái xe chửi, mắng gay gắt như thế, nhưng anh vẫn dành sự quan tâm đến chính những người mà anh vừa mắng mỏ, rằng mọi người phải bám thật chắc, kẻo ngã! Tất cả chúng tôi đều đã tìm cách bấu víu bằng mọi kiểu ở mức tốt nhất có thể, vì mọi người đều sợ có thể bị xô, ngã.

Chiếc xe lùi xuống, tiến lên đến hai ba đỏ (3), rồi bất ngờ ga lên dữ dội, quặt lái sang bên trái. Chiếc xe chòng chành, lắc trái lắc phải điên cuồng trong đêm tối như chực muốn đổ. Tiếng lốp xe chèn lên các cây thấp nghe răng rắc, roàn roạt, tiếng động cơ gào lên dữ dội vì phải leo ở một độ nghiêng đáng kể…

Nhưng sự việc cũng chỉ kéo dài một đoạn khoảng năm chục mét, chiếc xe ngoặt sang phải, lao nhanh cắm đầu xuống như chạy trốn. Chúng tôi đều cảm nhận được, xe đang ở mặt nghiêng của sườn đồi… Rồi sự nghiêng ngả cũng bớt dần, chiếc xe lại ngoặt sang trái, nhập vào con đường bằng, nơi phía sau là đoạn đường đang tắc.

Toàn bộ sự việc đã diễn ra quá nhanh, còn hơn cả sự vội vàng, đã làm tất cả chúng tôi đứng trên xe cũng chỉ biết vậy. Làm sao chúng tôi hiểu được, điều gì đã thúc đẩy người lái xe có thái độ quyết đoán đến kinh hoàng như vậy?! Chúng tôi chỉ đơn giản mừng thầm và đắc chí khi thấy, thế là xe mình thoát khỏi được chỗ tắc đường…

Chúng tôi cũng hình dung ra việc, người lái xe đã cho xe vòng lên phía đồi, rồi quay xuống như một vòng cung, vượt qua khu vực đường đang bị tắc. Điều này cho thấy, sự thông thạo địa hình ở đây, hẳn anh biết, vùng đồi cây này không phải là không leo xe lên được, cùng với sự thông thạo vùng đất, nơi cung đường kinh hãi này đi qua. Có lẽ, vì anh đã qua lại địa bàn này nhiều lần, rất nhiều lần, chúng tôi nghĩ thế.

Bỗng bầu Trời trở nên sáng trưng. Ối… ối… Pháo sáng chúng mày ơi! Tiếng người nào đó khẳng định. Hôm ấy, cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi ở ngay dưới ánh sáng của pháo sáng. Vâng, mọi người sẽ không tin đâu, cái ánh sáng ban ngày thế nào, thì dưới ánh sáng của đạn pháo sáng cũng vậy thôi, sáng lắm, sáng quá, sao mà sáng thế…?! Chúng tôi tự hiểu và bảo nhau rằng, máy bay nó thả pháo sáng thế này, là chúng nó chuẩn bị kéo đến đấy!

Và… Tất cả chúng tôi la lên khi nhìn lại phía sau do có ánh sáng của pháo sáng, thấy cơ man nào là các loại xe đang bị dồn lại do đường tắc, nhiều lắm, không hiểu là bao nhiêu xe nữa, mà một lượng lớn trong số các xe đó, là xe chở quân lính…. Từ xa, lác đác chúng tôi cũng nhìn thấy có xe bắt chước cách đi của xe chúng tôi, nhất là khi có pháo sáng soi rọi.

Chiếc xe của chúng tôi chạy như rồ dại, hình như anh lái xe quá giàu kinh nghiệm chiến trường, có lẽ vì anh đã thuộc lòng đoạn đường này, nên anh quyết tâm phải bỏ xa cái trọng điểm ‘Bò Lăn’ bò càng kia càng nhanh càng tốt.

Vâng… Thật kinh hoàng, vì chỉ một loáng thôi, chúng tôi đã thấy rợn người với tiếng gầm rú của máy bay phản lực, tiếng rít ghê rợn như xé tan bầu không khí đêm khuya. Anh em đứng trên xe chứng kiến từ xa, khi nhìn về nơi đoàn xe đang bị tắc, hàng loạt tiếng bom nổ tung cả trời đất, ánh sáng chói lòa do các chùm bom nổ liên tiếp, nó chát chúa, rung chuyển như động đất. Các cột lửa bốc phùn phụt lên cao ngay tại khu vực các xe bị tắc dồn lại, nó biến thành như một chảo lửa khổng lồ.

Đọc đến đây, xin các bạn hãy dừng lại 10 giây thôi… Vâng, 10 giây chắc đủ để mỗi người chúng ta nghĩ về điều gì còn lại sau những giây phút khủng khiếp tôi vừa kể lại đó…!

Dấu ấn tâm lý

Chúng ta đều không thể không biết, rằng sau những loạt bom điên cuồng đó (và không phải chỉ có ở đó, chỉ có hôm đó), mãi đến tận hôm nay, vẫn còn có bao nhiêu gia đình sau 50 năm, vẫn đang đi tìm những người con đáng thương của mình đã nằm ở nơi nao, sao mãi không thấy con về…?

Còn chúng tôi, lúc đó, thử hỏi liệu có đứa nào đã đứng trên cái xe tải bị ‘chửi’ đêm hôm ấy, nói được lời nào nữa không..? Tất cả chúng ta đều hiểu, và khỏi cần ai đó dạy, rằng phải nói cái gì nữa, trước cảnh tượng điên loạn mình vừa trải qua. Có đứa nào trong chúng tôi nghĩ gì khác về những sự thật hoảng hồn, tan nát và đau lòng vừa phải chứng kiến?

Hình ảnh ghê sợ trong có mấy phút đồng hồ ngày ấy, hôm nay tôi viết lại, vẫn thấy như nó vừa mới sảy ra gần đây, cái dư âm của sự hoảng hốt, đau xót vẫn đeo đẳng tôi cho đến lúc này. Vâng, không quên được các chị các anh ạ!

Lạy Giời, cho đến ngày nào sẽ đi gặp cha mẹ, ông bà Tổ tiên, tôi và các đồng đội của mình cũng vẫn không thể biết được, tên của người lái xe thánh thần đó là gì? Anh là ai? Khốn khổ, đến cả gương mặt của anh chúng tôi còn không được nhìn rõ…

Mỗi khi có dịp gặp lại nhau, anh em đồng ngũ với tôi, khi nhắc đến cái lần ‘chết hụt’ ấy, người nào trong chúng tôi cũng bùi ngùi, và cũng chỉ biết xin được mang ơn, mãi nhớ ơn ‘Thằng lái xe’ chửi tục ấy… suốt một đời!

Kết nhưng không hết

Từ khi chứng kiến cái sự kiện kinh hoàng đó, tôi bắt đầu thấy đỡ ác cảm với những người văng tục, chửi bậy, chửi thề… Âu có khác, chỉ khác nhau về bối cảnh.

Tôi dần nhận ra, ở một mức độ nào đó, tôi đồng thuận với tác giả bài viết ‘Chửi thề là cách để con thể hiện cái “tôi”, không lạc đàn với số đông’ (4). Và hôm nay, tôi cũng biết chửi thề, văng này nọ vào những thời khắc, trong những bối cảnh mà người phải chứng kiến cũng khó lên án được, nhất là nhiều năm gần đây, lối sống đạo đức bị coi là xa xỉ, bất công dối trá ngày càng diễn ra trắng trợn, thô thiển hơn.

Tôi tâm niệm, trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống, mọi điều đều có thể, nếu nó diễn ra trong phạm vi của sự hợp lý. Còn hợp lý như thế nào, đến đâu, lại phụ thuộc vào khả năng nhận biết và cái tâm văn hóa của thằng người, mà thằng người lại lệ thuộc vào nền tảng ý thức nhân văn mà nó có.

Theo thiển ý của tôi, chửi hay văng tục trong ngôn ngữ tiếng Việt, nó mang dáng dấp của một loại ‘vũ khí’ tinh thần đối với từng cá nhân, mà phàm đã là vũ khí, việc sử dụng luôn đòi hỏi lý trí và sự thận trọng.

Nhưng dù con người ta có thận trọng đến đâu trong việc dùng thứ ‘vũ khí’ này, cũng khó tránh được việc bị ‘cướp cò’, hay phát nổ ngoài ý muốn, bởi nó là loại ‘vũ khí’ của tâm lý tinh thần, một thứ giá trị rất khó điều khiển.

Còn sự lạm dụng đối với loại ‘vũ khí’ này, có thể sẽ trở thành ngu xuẩn, thậm chí là tệ hại, là đáng lên án… Ở đời, mọi sự lạm dụng đều không tốt, ngoại trừ sự lạm dụng của đứa trẻ với mẹ mình, khi nó khóc, đòi bú nhiều hơn bình thường một chút!

HN, 20/9/2020.


Chú thích:

1/ ‘Trạm Giao liên’, nơi nghỉ chân cho các đoàn quân hoặc đi vào Nam, hoặc đi ra Bắc, trên đường hành quân bộ, phục vụ cho chiến trường.

2/ ‘Mép bia’, bậc bước lên xuống ở buồng lái xe ô tô vận tải.

3/ ‘Đỏ’, đối với việc tiến lùi xe ô tô để chuyển sang hướng khác trong điều kiện không đủ khoảng rộng cần thiết, người lái xe phải cho xe lùi hoặc tiến nhiều lần, nhằm lựa chọn được góc quay xe phù hợp, đủ để hướng xe về phía cần thoát ra được vị trí đang đứng, mỗi lần tiến lên hoặc lùi lại, được gọi là một ‘đỏ’.

4/ Vietnamnet, chuyên mục Giáo dục ngày 20/9/2020.

Chú thích:

1/ ‘Trạm Giao liên’, nơi nghỉ chân cho các đoàn quân hoặc đi vào Nam, hoặc đi ra Bắc, trên đường hành quân bộ, phục vụ cho chiến trường.

2/ ‘Mép bia’, bậc bước lên xuống ở buồng lái xe ô tô vận tải.

3/ ‘Đỏ’, đối với việc tiến lùi xe ô tô để chuyển sang hướng khác trong điều kiện không đủ khoảng rộng cần thiết, người lái xe phải cho xe lùi hoặc tiến nhiều lần, nhằm lựa chọn được góc quay xe phù hợp, đủ để hướng xe về phía cần thoát ra được vị trí đang đứng, mỗi lần tiến lên hoặc lùi lại, được gọi là một ‘đỏ’.

4/ Vietnamnet, chuyên mục Giáo dục ngày 20/9/2020.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 17, 2025 01:10

July 14, 2025

Lê Thọ Bình: Lê Tương Dực và chiếc bẫy huyền thoại của sử học chính thống

 

Nguồnhttps://diendantheky.net/le-tho-binh-...

-------- 

(Tặng Cụ Trịnh Huyên)

Trong diễn ngôn lịch sử Việt Nam, rất hiếm có vị hoàng đế nào để lại hình ảnh tiêu cực như Lê Tương Dực, người bị sử sách đóng khung như “một trong những hôn quân hoang dâm bậc nhất”.

Những giai thoại về ông đầy rẫy trong Đại Việt sử ký toàn thư: nào là việc tuyển mỹ nữ khỏa thân chèo thuyền Hồ Tây, thông dâm với cung nữ triều trước, xây cất xa hoa giữa lúc dân tình đói khổ…

Nhưng nếu tiếp cận từ góc độ sử học phê bình và sử học so sánh, có lý do để tin rằng: hình tượng hôn quân Lê Tương Dực phần nhiều là sản phẩm của chính biến và quyền lực kiến tạo lịch sử, hơn là một bức chân dung khách quan về cá nhân một vị vua.

Hôn quân hay nạn nhân của lịch sử được viết bởi phe thắng cuộc?

Lê Tương Dực (1495–1516), tên húy là Lê Oanh, cháu nội Lê Thánh Tông, từng khởi nghĩa đánh bại bạo chúa Lê Uy Mục, lên ngôi năm 1509, mở đầu niên hiệu Hồng Thuận. Những năm đầu trị vì, ông có dấu hiệu của một vị minh quân: thi cử được mở lại, triều chính ổn định, trật tự xã hội được tái thiết sau giai đoạn rối loạn của Uy Mục.

Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, hình tượng Lê Tương Dực bị các sử thần chuyển ngoắt 180 độ: ông được mô tả là một “vua lợn” đắm chìm trong tửu sắc, thông dâm với vợ lẽ của cha, bắt dân xây cung điện nguy nga, mặc kệ nhân dân lầm than. Đỉnh điểm là câu chuyện “mỹ nữ khỏa thân chèo thuyền”, gợi liên tưởng mạnh đến hình tượng dâm loạn kiểu Trụ Vương- Đát Kỷ trong văn hóa Trung Hoa.

Câu hỏi đặt ra là: chuyển biến hình tượng ấy xuất phát từ thực tế lịch sử, hay từ nhu cầu chính trị của người viết sử?

Năm 1516, Trịnh Duy Sản, vốn là một tướng thân cận của Lê Tương Dực, bất ngờ làm binh biến, đem quân hộ vệ đến ám sát nhà vua tại nhà Thái Học. Cái chết của vua Lê mở đầu cho một thời kỳ rối loạn chính trị triền miên, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của nhà Lê sơ chỉ vài năm sau đó.

Tuy nhiên, để biện minh cho hành động “phản nghịch” giết vua, phe nổi loạn cần một lý do đủ mạnh. Và hình tượng “vua hoang dâm, mất lòng dân” chính là công cụ hữu hiệu nhất để tạo tính chính danh cho một hành động vốn bị coi là đại nghịch trong khuôn khổ đạo lý Nho giáo.

Chúng ta cần đặc biệt lưu ý rằng: mọi tư liệu mô tả về Lê Tương Dực sau này đều được biên soạn dưới triều Lê Trung hưng, tức hậu duệ của những người đã phế truất và giết chết ông. Chính vì vậy, mức độ khách quan của các ghi chép lịch sử rất đáng ngờ, đặc biệt là những đoạn có tính hình ảnh cực đoan và đạo đức hóa như “thuyền mỹ nữ khỏa thân”, hay “gọi cung nữ triều Thánh Tông vào hầu hạ”.

Mô-típ hôn quân: một cấu trúc phổ quát của chính trị truyền ngôi

Khi đặt hình tượng Lê Tương Dực vào bối cảnh so sánh với các nền văn minh khác, ta nhận ra: mô-típ “vị vua sa đọa, bị lật đổ” là một công cụ kể chuyện chính trị phổ quát, không chỉ riêng Việt Nam.

1. Trụ Vương (Trung Hoa) – Lịch sử do nhà Chu kiến tạo

Trụ Vương, vị vua cuối cùng của nhà Thương, được ghi trong Sử ký là đắm chìm trong sắc dục, tin lời Đát Kỷ, hành hình trung thần, dựng đài Lộc Đài xa hoa. Nhưng nghiên cứu hiện đại, dựa trên khảo cổ tại Ân Khư, cho thấy nhà Thương có hệ thống tổ chức phức tạp, trình độ văn hóa cao, và không có bằng chứng khảo cổ nào khẳng định sự sa đọa như mô tả trong chính sử.

Hình tượng Trụ Vương rõ ràng đã được nhà Chu kiến tạo để biện minh cho cuộc lật đổ và xác lập vương triều mới với “mệnh Trời”. Đây là mô hình lý thuyết chính danh chính trị rất giống với câu chuyện của Lê Tương Dực và Trịnh Duy Sản.

2. Sardanapalus (Assyria) – Hình ảnh trụy lạc từ góc nhìn phương Tây

Sardanapalus, vị vua cuối cùng của Assyria, bị sử gia Hy Lạp mô tả là ẻo lả, đồng tính, sống trong xa hoa, cuối cùng tự thiêu cùng các cung nữ khi quân thù tràn vào. Nhưng không có ghi chép tương ứng nào trong biên niên sử gốc Assyria. Giới học giả ngày nay coi đó là một sản phẩm tưởng tượng phương Tây, phản ánh định kiến của Hy Lạp đối với sự “trụy lạc phương Đông”.

Sự tương đồng trong cấu trúc hình tượng với Lê Tương Dực, vốn bị mô tả bằng những đặc trưng phương Đông cực đoan: đa thê, khoái lạc, xa hoa, cho thấy việc tạo dựng hình tượng hôn quân là một thủ pháp kể chuyện mang tính toàn cầu, không chỉ là phản ánh sự thật lịch sử.

Sử học cần được giải cấu trúc- để cởi trói cho tư duy lịch sử

Điểm chung giữa các “hôn quân huyền thoại” như Trụ Vương, Sardanapalus hay Lê Tương Dực là:

– Đều là vị vua cuối hoặc gần cuối một triều đại suy yếu.

– Đều bị đổ lỗi cho sự sụp đổ của cả hệ thống chính trị.

– Đều bị miêu tả bằng ngôn ngữ đạo đức hóa, giàu hình ảnh, phi lý trí.

– Và quan trọng nhất: đều là sản phẩm của người kể lại lịch sử, chứ không hoàn toàn là phản ánh trung thực từ thực tại.

Sử học hiện đại, nếu muốn tiến xa hơn lối tư duy chép sử, cần biết giải cấu trúc những huyền thoại chính trị như vậy.

Đọc lại Lê Tương Dực không phải để “minh oan”, mà để nhấn mạnh rằng: lịch sử không chỉ là tập hợp sự kiện, mà là lựa chọn về việc kể sự kiện nào, theo giọng điệu nào, và phục vụ lợi ích của ai.

Lê Tương Dực có thể đã sai lầm. Nhưng để hiểu vì sao triều đại của ông sụp đổ, không thể chỉ quy về đạo đức cá nhân. Cái chết của ông là hệ quả của mâu thuẫn chính trị sâu xa trong nội bộ dòng họ Lê, sự trỗi dậy của các thế lực quân phiệt, và cả khủng hoảng mô hình cai trị thời hậu Lê Thánh Tông.

Nếu không đặt lại nghi vấn với các “huyền thoại sử học”, chúng ta sẽ mãi mắc kẹt trong một vòng tròn đạo đức giả: triều đại sụp đổ vì vua hư đốn, và người kế vị luôn là kẻ mang thiên mệnh cải tạo lịch sử. Nhưng sử học đích thực không đi theo vòng tròn ấy, mà phải biết mở đường cho câu hỏi: Ai viết? Viết khi nào? Viết để làm gì?

Chỉ khi đó, lịch sử mới thực sự là ký ức tập thể trung thực của một dân tộc, chứ không phải là diễn ngôn đạo đức của những kẻ chiến thắng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2025 02:09

June 21, 2025

« Nỗi buồn chiến tranh » của Bảo Ninh dưới con mắt một bạn trẻ sinh ở miền Nam trước 1975:

Tríchbài Nỗi buồn chiến tranh và “một nửa của sự thật …” của Hà Thị Lệ Hà

NGUỒN 

https://donggianghoanghoathamdn.wordp...

========

12_1_4

Phần lớn người đọc Việt Nam biết đến “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh khá muộn màng so với thời điểm ra đời của nó , sau nhiều cơn cớ sóng gió phê bình và kiểm duyệt . Xuất bản lần đầu tiên năm 1987 với nhan đề “Thân phận của tình yêu” . Đạt giải của Hội Nhà văn Việt Nam sau khi chính thức được phép xuất bản năm 1991 . Được tôn vinh là “cuốn tiểu thuyết xúc động nhất về chiến tranh Việt Nam”, “cuốn sách chạm vào mẫu số chung của nhân loại”, “thành tựu lớn nhất của văn học đổi mới”…
Lần đầu cầm trên tay “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh năm 2002, tôi đã đọc liền một mạch . Hiếm khi được đọc một cuốn như thế . Xót thương và cảm động ! Nhiều câu văn , nhiều đoạn văn của “Nỗi buồn chiến tranh” khiến tôi thực tin người viết , cũng là một người lính , thực trải những đau đớn , dằn xóc nghiệt ngã tự trái tim mình .
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh lập tức làm tôi nhớ đến “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” ( All quiet on the Western Front) của nhà văn Đức Erich Maria Remarque. Đầu thập niên 1970 , ở miền Nam Việt Nam , còn là những học sinh cấp 2, chúng tôi đã say mê đọc Remarque : “Một thời để yêu , một thời để chết” , “Chiến hữu”… , và đặc biệt là “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”. Những ngày ấy , chiến tranh hiện diện khắp mọi ngóc ngách : trên từng bản tin chiến sự hằng ngày của báo chí và truyền hình , trong từng âm thanh tiếng đại bác đêm đêm ầm ĩ dội về thành phố …Bạn bè cùng trường , cùng lớp tôi , phần lớn là những đứa trẻ từ các làng quê Điện Bàn , Đại Lộc , Duy Xuyên … theo gia đình tản cư về Đà Nẵng . Có đứa , anh làm xã trưởng , nửa đêm bị du kích xông vào nhà chặt đầu. Có đứa , ba làm quận trưởng , cuối tuần về lại nhà chiếc xe jeep bị đặt mìn nổ tung . Ba tôi cũng là một người lính , ông điều hành một đại đội xe Hồng thập tự chuyên về tải thương , lúc còn tạm trú ở trại lính tôi đã nhìn thấy rất nhiều máu đặc quánh rồi khô lại trên vô số những tấm băng ca màu xanh xám . Tuổi mười hai , mười ba , nghe những câu chuyện ấy , nhìn những cảnh ấy… chỉ biết buồn ngơ ngẩn mà không thể hiểu vì sao con người lại tàn ác với nhau, lại nhẫn tâm làm đổ máu nhau như thế. Sự thể ấy cũng khiến nhiều đứa trong số chúng tôi mau chóng rời bỏ tuổi trẻ và trở nên già nua rất nhanh, trong có vài năm ngắn ngủi mà trải nghiệm gần hết cả một cuộc đời hệt như nhân vật Paul Bäumer trong “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque.
“ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque là một tiểu thuyết về đề tài chiến tranh . Tác phẩm lấy bối cảnh cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất , khi cuộc Đại chiến đã đi được nửa đường và điểm nóng mặt trận đã chuyển hướng từ phía Đông về phía Tây (1916_1918) . Nhân vật chính là Paul Bäumer, một người lính Đức 19 tuổi . Mấy năm trước , anh cùng những người bạn học cùng lớp của mình nghe lời cổ vũ , tuyên truyền của giáo sư Kantorek: “ chúng ta có hạnh phúc được sống trong một thời đại lớn ; vì vậy chúng ta phải hòa mình vào thời đại ấy” , bảy người trong lớp họ hăng hái vào quân đội để tham gia chiến tranh. Sau một khóa huấn luyện kéo dài mười tuần , họ được đưa ra mặt trận Miền Tây , nơi đang diễn ra những cuộc giao tranh ác liệt giữa nước Đức và liên quân Anh Pháp. Họ từng được giáo sư Kantorek thuyết phục rằng “tuổi trẻ là gang thép”, những chiến binh Đức là bất bại , nhưng ra đến mặt trận , trước đạn bom, họ mới thấy sinh mạng con người bé nhỏ , yếu ớt và thảm hại biết chừng nào .
Mở đầu “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” là hình ảnh mấy chục người lính đại đội 2 , đại đội của Paul Bäumer đang xếp hàng lĩnh thức ăn trưa . Ngày hôm qua , sau một trận đánh ác liệt với quân Anh , đạn pháo tới tấp giã trên đầu , đại đội 2 gồm 150 quân của họ chỉ còn lại 80 . Mọi sự xảy ra nhanh đến mức không ai hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra , không ai hiểu vì sao mình còn sống , cũng không ai kịp nhỏ một giọt nước mắt khóc thương cho những đồng đội của mình. Trái lại , dường như tất cả bọn họ đều còn thấy cảm thấy phấn chấn , hả hê vì bữa trưa ngày hôm ấy , khẩu phần dành cho 150 người gồm đậu hầm , xúc xích , bánh mì , thuốc lá …sẽ là của 80 người , một “khẩu phần kép”. Thật là no nê phủ phê . Ăn uống xong rồi , họ xách những chiếc thùng gỗ ra cánh đồng cỏ sau lán trú quân , ba cái đâu vào nhau , chễm chệ ngồi lên rồi chơi bài , hút thuốc , đọc thư… vừa đắm mình trong bầu không khí dễ chịu đẫm hương hoa đồng nội, vừa khoan khoái trút những thứ mới được tiêu hóa trong dạ dày , ít ra cũng hai tiếng đồng hồ sau mới chịu đứng dậy .
Cũng trong trận ấy , một người bạn học _đồng đội của Paul Bäumer là Kemmerich bị thương . Một chân của anh đã bị cưa và có lẽ anh cũng chẳng còn có thể sống được bao lâu . Nhưng Kemmerich mới mười chín tuổi , anh không thể hiểu cái sự thể bi đát ấy . Và anh cũng chẳng thể nào hiểu vì sao anh bạn Müller thân thiết đến thăm mà cứ thèm thuồng lấm lét nhìn đôi giày của mình . Đôi giày của Müller đã quá cũ nát khi phải hành quân liên tục, trong khi giày của Kemmerich còn mới mà anh ta chẳng bao giờ còn có thể cần đến nữa.
Vậy đó , chiến tranh , ngay từ những ngày đầu , nếu không cướp đi mạng sống của con người thì cũng tước đoạt của họ mọi thứ cảm xúc , biến những chàng trai đầy mơ mộng trở thành những kẻ thô lỗ , cục súc và tàn nhẫn . Chỉ có thực tại , thực tại , và thực tại : ăn được thì ăn , ngủ được thì ngủ , yêu được thì yêu … Bởi nếu không như vậy , họ chẳng thể nào có thể sống qua những khủng khiếp , kinh hoàng . Đó là những trận pháo kích dồn dập trong những chiến hào chật chội , những cái chết thương tâm và đau đớn của đồng đội …Mới hôm qua đại đội một trăm năm mươi người , hôm nay chỉ còn tám mươi . Mới cuối hè đại đội một trăm năm mươi người , sang đầu thu nay chỉ còn ba mươi hai trong hàng ngũ . Lớp lớp những chàng trai non trẻ măng tơ ra chiến trường và lần lượt gục ngã …Chỉ có thể nhờ vào may mắn mà một ít trong số họ còn sống sót để lại tiếp tục công việc nổ súng bắn vào con người . Có lần , trong một trận tấn công , Paul Bäumer lạc vào chiến hào của đối phương và đã phải tự tay mình đâm chết một người lính Pháp . Nỗi đau đớn , tiếng rên rỉ kéo dài suốt đêm của người lính Pháp ấy , bức ảnh người vợ cùng đứa con gái nhỏ của người lính Pháp_người thợ sửa ống khóa hiền lành ấy đã khiến Paul Bäumer thảng thốt nhận ra sự thể kẻ anh vừa giết cũng là con người . Anh nói với người ấy , bấy giờ đã là một cái xác chết :”Này anh bạn, mình có muốn giết cậu đâu. Nếu cậu lại nhảy vào cái hố này một lần nữa, mình sẽ không làm thế nữa đâu, miễn là chính cậu, cậu cũng phải biết điều. Nhưng đầu tiên, đối với mình, cậu chỉ là một ý nghĩ, một sự tính toán nảy ra trong đầu mình, rồi nó dẫn đến một quyết định. Chính mình đã đâm vào cái sự tính toán ấy. Bây giờ, lần đầu tiên, mình nhận ra cậu cũng là một con người như mình. Mình đã nghĩ đến những quả lựu đạn của cậu, đến cái lưỡi lê và các thứ vũ khí của cậu; nhưng bây giờ, mình nhìn thấy vợ cậu, cũng như nhìn thấy mặt cậu và những gì giống nhau giữa hai đứa chúng mình. Bạn ơi, hãy tha thứ cho mình. Bao giờ chúng ta cũng nhìn ra sự việc một cách quá muộn. Tại sao người ta không nói cho bọn mình biết rằng chính các cậu, các cậu cũng chỉ là những con chó khốn khổ như bọn mình, rằng các bà mẹ của các cậu cũng đau khổ như mẹ chúng mình, rằng chúng ta đều sợ chết như nhau, đều chết một cách giống nhau, chịu những nỗi đau đớn như nhau? Bạn ơi, hãy tha thứ cho mình; tại sao cậu lại có thể là kẻ thù của mình? Nếu chúng ta bỏ những vũ khí và bộ quân phục này đi, thì cậu rất có thể là người anh em của mình, như Kat và Albert vậy. Bạn ơi, cậu hãy lấy hai mươi năm của đời mình và cậu hãy đứng dậy đi… Đời mình còn gì nữa, cậu cứ việc lấy nốt đi, vì mình không biết là từ nay mình còn làm những gì nữa”.
Paul Bäumer và những đồng đội của anh , ngày càng thấy rõ , cuộc chiến tranh mà họ tưới tắm bằng chính máu của mình không thể đem lại niềm vinh quang cho bản thân họ . Người ta buộc các anh phải nổ súng bắn vào cuộc sống , phải giết người .Và lý do của sự giết chóc ấy ngay từ đầu đã thật phi lý. Người ta nói rằng tổ quốc của họ đang bị xúc phạm . Nhưng những người lính thấy rằng :“ Một quả núi của nước Đức làm sao lại có thể xúc phạm một quả núi của nước Pháp được. Một con sông, một khu rừng, một cánh đồng lúa mì, cũng thế thôi.”
“Một anh thợ khoá và một anh thợ giày người Pháp sao lại muốn đánh chúng ta. Trước khi đến đây, mình chưa hề gặp một người Pháp nào, và phần đông người Pháp đối với chúng ta cũng thế .” Họ thấy rõ , không ai trong số hàng triệu những người lính bình thường , không ai trong số hàng triệu những người dân bình thường muốn có chiến tranh . Thế nhưng trong cuộc chiến tranh này, một nửa nhân loại lại trở thành đám thiêu thân lăn xả vào hỏa ngục , rốt cuộc đơn giản chỉ bởi vì những hoàng đế và tướng lãnh của đất nước họ đang sống cần có những chiến công .
Những ngày ấy ở mặt trận , những giống ký sinh trùng và chuột bọ không biết ở đâu chui ra mà sinh sôi nảy nở nhiều vô kể . Hàng trăm con rận béo múp trú ngụ trong một bộ quần áo lính rách rưới tả tơi. Chuột thì to lớn và gớm ghiếc khủng khiếp, người ta gọi chúng là “chuột xác chết”. Không chỉ gặm bánh mì , chúng còn ăn thịt lũ chó và mèo . Và chắc là vậy rồi , chúng xơi luôn cả xác người, bất kể người Đức , Anh , Nga hay Pháp…
Mùa hè năm 1918 , tình hình mặt trận Miền Tây trở nên gay go và đẫm máu hơn bao giờ hết . Hoa Kỳ đã tham chiến . Quân Đức ngày càng kiệt quệ và tuyệt vọng . Bảy chàng trai cùng một lớp học ra đi ngày ấy nay chỉ còn lại Kan và Paul Bäumer .
Mùa hè năm 1918 , cuộc sống với cái hình dáng tả tơi thảm hại của nó càng khiến người ta thèm khát. Hoa mào gà đỏ chói trên đồng nội Những cây cối trong hoàng hôn. Những ngôi sao và những dòng nước . Những giấc mơ và giấc ngủ triền miên.
Cũng mùa hè năm 1918 , những tin đồn về đình chiến , về hòa bình bắt đầu xuất hiện .
Nhưng bất kể những người lính ngoài mặt trận khắc khoải chờ đợi thế nào , chiến tranh vẫn chưa kết thúc , người vẫn tiếp tục chết . Kan , người bạn thân thiết cuối cùng , bị một viên đạn lạc , chết ngay trên vai Paul Bäumer , khi họ trên đường tới trạm quân y.
Tháng 10 năm 1918 , Paul Bäumer chết. Anh là người cuối cùng trong nhóm bảy người cùng một lớp học ngày ấy nghe lời giáo sư Kantorek hăm hở ra chiến trường nằm xuống trong chiến tranh. Ngày hôm ấy là một ngày khắp cả mặt trận yên tĩnh đến nỗi bản thông báo tình hình chiến sự chỉ ghi một câu “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”.
“Anh ta ngã xuống, đầu về phía trước, nằm dài trên đất, như người đang ngủ.
Khi lật anh ta lên, người ta thấy hình như anh ta không đau đớn lâu thì phải.
Nét mặt anh ta bình thản và như biểu lộ một vẻ bằng lòng về cái kết cục như vậy.”

Cùng với “Giã từ vũ khí ” của nhà văn Mỹ Ernest Hemingway , “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque được xem là tiểu thuyết hay nhất về Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tác phẩm cũng được xem là cuốn sách bán chạy nhất Châu Âu suốt thế kỷ XX.

Cũng như “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque, “Nỗi buồn chiến tranh ” của Bảo Ninh là một tiểu thuyết về đề tài chiến tranh .Tác phẩm lấy bối cảnh Việt Nam , chủ yếu mười năm trước và mười năm sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam kết thúc (khoảng từ 1965 đến 1985). Nhân vật chính tên là Kiên , cũng là một người lính. Mười bảy tuổi , chàng trai Hà Nội ấy say sưa nghe lời hiệu triệu của thầy hiệu trưởng :“nước Mỹ sẽ bị hủy diệt ’’“chính các em sẽ là những thiên thần trẻ tuổi của cách mạng, các em sẽ cứu nhân loại”, cùng bao bạn bè hăm hở rời trường học để vào chiến trường . Từ đấy ,“ cả thế hệ anh đã lao vào trận chiến một cách hăng say, một cách hung dữ, đã làm đổ máu mình, đổ máu người.”. Mười năm Kiên chiến đấu ở chiến trường Bắc Tây nguyên là những năm chiến tranh khốc liệt nhất . Hàng bao núi xương sông máu ! Đói khổ , đạn bom và chết chóc vô kể ! Chỉ riêng một trận đánh cuối mùa khô 1969 , toàn bộ tiểu đoàn 27 một ngàn hai trăm người bị bao vây rồi bị tiêu diệt , chỉ còn sót lại mười người , trong đó có Kiên . Những cái tên “Truông Gọi Hồn ”, “Đồi Xáo Thịt ” … lần lượt ra đời , những oan hồn lính của hai bên , của cả dân thường … lưu lạc , vất vưởng khắp nơi khiến người còn sống yếu bóng vía phải phát điên. Dạo ấy , các vạt đất ven triền sông suối uống no nê máu người mà nở rộ những đám hồng ma . Ban đêm hương hồng ma càng “cô đậm, ngọt, ngào ngạt, thẩm thấu”. vào giấc ngủ làm thành bao nhiêu là giấc ngủ mơ kỳ lạ gây những ám ảnh khoái lạc mê mẩn”.
Chiến tranh , dù nhân danh vào bất cứ điều gì , thực chất vẫn là sự chết chóc , là hủy hoại mọi thứ kể cả sắt thép , gạch đá , nói gì đến sinh mạng con người… Đám trinh sát gai góc , dày dạn như Kiên nhờ chìm vào đám khói mê dụ đầy ảo ảnh của hồng ma mà quên mọi nông nỗi đói khát , đạn bom , chết chóc… của cuộc đời người lính. Nhưng khi họ tỉnh thức , sự hư hoại , mất mát từng ngày của chất người trong họ khiến họ âm thầm cảm thấy một nỗi tuyệt vọng thống thiết tràn ngập tâm hồn mình . Chiến tranh , dù là giết được người hay bị người giết cũng đều khốn khổ khốn nạn như nhau . Trong cuộc tấn công ở rìa Ban Mê Thuộc năm 1975, khi những khẩu đại liên của Kiên và đồng đội bắn xối xả vào đám tàn binh của trung đoàn 45 ngụy đang tháo chạy khỏi vùng đất trống Phước An , hàng ngàn cái bia thịt rú lên rồi rũ rượi gục ngã_những cuộc tàn sát man rợ ấy tuyệt nhiên không thể đem lại cho họ cảm giác về một niềm vui sướng, một chút vinh quang nào.
Chương đầu của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh ” có một chi tiết kinh dị , ghê rợn và đầy ám ảnh . Năm 1974 , giữa tro tàn của một ngôi làng ở Tây nguyên , Thịnh “con” , người lính cùng tiểu đoàn với Kiên , săn đuổi và bắn chết một con vượn . Tiểu đoàn đã chuẩn bị nồi niêu dao thớt cho một buổi liên hoan tưng bừng , nhưng khi cạo sạch được bộ lông con vật ấy ra họ mới phát hiện đó là thân hình trần truồng một mụ đàn bà nửa xám xịt nửa trắng hếu , cặp mắt dựng ngược trợn trừng . Cả bọn thất kinh rú lên rồi ù té chạy . Cái hình ảnh con người quái gỡ thê thảm đang bị con người đem ra làm thịt ấy rõ ràng là sản phẩm ghê tởm của chiến tranh . Chi tiết ấy rất có thể là thực , cũng có thể chỉ là một ẩn dụ , nhưng qua chi tiết vật
người này , người đọc đều có thể cảm nhận được thông điệp của nhà văn gửi tới mọi người : chiến tranh chẳng thể là điều gì hay ho, nó là sự sự hủy hoại , sự tước đoạt tàn ác khủng khiếp nhất với hình hài và phẩm giá của con người .
Nhân vật chính của “Nỗi buồn chiến tranh ” , Kiên_ chàng trai ngày nào đã tưởng mình là “những thiên thần trẻ tuổi ” hăm hở lao vào chiến tranh với lý tưởng từ chiến tranh , do chiến tranh sẽ tạo dựng cả một thế giới mới ,“cứu cả nhân loại”, rốt cuộc cũng phải cay đắng nhận ra sự thật nghiệt ngã :“Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”.
Nhưng điều khủng khiếp nhất đối với Kiên và đồng đội không phải chỉ là trải qua những thống khổ cùng cực của chiến tranh mà còn là phải đối mặt với những sự thể tầm thường và thô bạo của hòa bình . Nếu bi kịch của nhân vật người lính trẻ Paul Bäumer trong “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” là không thể sống sót qua chiến tranh thì bi kịch của Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh ” lại dường như là qua hòa bình rồi mà vẫn còn sống sót . Nghịch lý chăng??? Cho đến trận chiến cuối cùng ở cửa ngõ Sài Gòn , cả trung đội trinh sát mười bốn người chỉ còn mỗi một mình Kiên . Chiều 30 tháng tư năm 1975, khi vẫn còn ngất ngây vì men chiến thắng thần tốc , những người lính như Kiên đã có cái cảm giác thật khó hiểu , thật lạ lùng : “ hòa bình ập tới phũ phàng, choáng váng đất trời và xiêu đảo lòng người” . Hòa bình như một thứ cây “mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” nhưng lập tức sau đó không lâu lại khiến những người còn sống phải chứng kiến bao sự mỉa mai , chua chát vì những cuộc trở về “Không kèn, không trống, không khúc khải hoàn thì đã đành rồi nhưng đến một chút đối xử có trước có sau người ta cũng chẳng buồn giành cho bộ đội. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào không khác gì lại một thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên, kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác…’’. Tại các ga tàu miền Bắc , khi các đoàn tàu dừng bánh ,“ loa phóng thanh oang oang trút vào tai đám lính đui què mẻ sứt mắt trắng môi thâm này hàng lô xích xông những lời dạy bảo trớ trêu nhất đời nào chống cầu an, chống đạn bọc lường, chống thói đam mê các tàn tích của xã hội phồn vinh giả tạo và nào là cần đặc biệt chống tư tưởng công thần?” Hòa bình nhạt nhòa dần qua năm tháng và rồi sau đó với những người lính chỉ còn là một thứ ký ức tủi hờn:“Về sau, mỗi khi được nghe người ta kể hoặc được xem phim, được thấy cảnh ngày 30 tháng Tư ở Sài Gòn trên màn ảnh: cười reo, cờ hoa, bộ đội, nhân dân, nườm nượp, bừng bừng, hân hoan, hạnh phúc… tự nhiên trong Kiên cứ nhói lên nỗi buồn pha cả niềm ghen tỵ.”
Nỗi niềm bi thảm của những người lính Việt Nam thời hậu chiến trong những trang viết của Bảo Ninh là có thực. Bi thảm không phải chỉ vì những ám ảnh dai dẳng của sự mất mát trong quá khứ mà còn bởi những thô bạo , tầm thường của hiện tại và cả sự vô định mù mịt của tương lai. Những tấm khẩu hiệu đã bị vứt đi . Những cái mặt nạ đã rơi xuống. Những phận người không biết về đâu . Nhiều người trong họ mãi đắm chìm trong quá khứ, không phải đang sống mà là đang mắc kẹt giữa cuộc đời . Nhiều người trong họ chán ngán hiện tại, ước phải chi được chết một cách yên ổn như thân phận con sâu cái kiến trong những ngày chiến tranh. Nhiều người trong họ không tìm thấy tương lai , lại háo hức muốn trở lại những giây phút hào hùng của cuộc đời chinh chiến khi binh lửa chiến tranh mấp mé ở hai đầu biên giới (1978_1979).
Tháng 4 năm 1975, Ủy ban Quân quản Thành phố về đóng cạnh nhà tôi. Đó là dịp tôi được tiếp cận những con người mà mười mấy năm qua chỉ nghe chứ chưa từng gặp. Họ là những chàng trai xứ Bắc , những người lính khắc khổ , dày dạn chiến trường nhưng phần lớn còn giữ được nét thuần phác giản dị đậm chất nông dân . Họ đội mũ cối , đi dép cao su và hình như ai cũng hút thuốc lào. Chập tối , giờ sinh hoạt , từ ngôi nhà họ ở vang lên những lời ca hùng tráng : “Vì nhân dân quên mình , vì nhân dân hy sinh…”, “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước…”, “Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận …”. Ban ngày họ ra ngoài rụt rè ngỏ ý bán đôi ba thứ : cân đường cát , phong lương khô , bánh xà phòng …đều là hàng viện trợ của Liên Xô hoặc Trung Quốc , và cũng tìm mua đôi ba thứ : cái radio , cái casset cũ hay con búp bê , chiếc khung xe đạp xuất xứ Chợ Lớn … Đứa em nhỏ của tôi bấy giờ mới sáu tuổi , sau mỗi bữa cơm của mấy chú bộ đội lại xách cái rá chạy qua được mấy chú bộ đội tử tế gom cho những chỗ cơm thừa . Chỗ cơm ấy , chúng tôi đem rửa lại , xả sạch rồi phơi khô , đến bữa đổ thêm nước vào hấp lên là thành cơm ăn được .

Đôi ba tháng sau , Ủy ban Quân quản giải tán , từ đó tôi không bao giờ gặp lại họ nữa . Những ai đó đã đi về đâu? Những ánh hào quang ngắn ngủi ban đầu của ngày chiến thắng phút chốc nhạt nhòa rồi tắt lịm chỉ còn trơ ra tơi tả trần trụi những phận người “mờ mờ nhân ảnh ”. Họ trở về quê để lại làm anh nông dân tay cấy tay cày . Họ lại đến trường để học và làm anh cán bộ. Họ ở lại thành phố và nắm những chức vụ trọng yếu trong chính quyền . Mấy chục năm sau , không biết số phận có làm ai trong họ như Kiên , trở thành nhà văn , chọn cách viết để giãi bày “để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi, để mà chịu đựng, để giữ lòng tin, để mà còn muốn sống” giữa cuộc đời!

Nhân vật người lính trẻ Paul Bäumer trong “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” cho đến khi vào chiến trường, thậm chí cho đến lúc chết, vẫn chưa kịp có một tình yêu. Hai người phụ nữ gắn bó thân thiết với đời anh là mẹ và chị gái. Hương vị da thịt đàn bà đầu tiên anh nếm trải là một người con gái Pháp khi anh và những đồng đội của mình chiếm đóng một làng Pháp hoang tàn. Có đôi chút cảm xúc , nhưng nói cho cùng , đó vẫn chỉ là câu chuyện đổi chác khi sự thân mật , gần gũi được trả giá bằng những khoanh xúc xích và những ổ bánh mì từ khẩu phần của lính.
Kiên của “Nỗi buồn chiến tranh ”thì khác. Hình ảnh mẹ trong anh nhạt nhòa suốt thời thơ ấu . Nhưng mười bảy tuổi , còn là học sinh trung học , Kiên đã có một tình yêu sâu đậm với người bạn gái tên Phương . Gần nhà , cùng trường , họ đã lớn lên bên nhau và đã yêu nhau suốt cả cuộc đời mình , kể cả trong chiến tranh và hậu chiến tranh. Câu chuyện tình yêu của Kiên và Phương là một tuyến song hành với câu chuyện nỗi buồn chiến tranh trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết . Khi này khi khác ,thậm chí có khi chủ đề tình yêu còn có vẻ đậm nét hơn , bi thiết hơn. Có thể vì sự băn khoăn về tính chất chủ đạo của hai chủ đề , trong lần đầu xuất bản Bảo Ninh đã đặt tên cho tác phẩm mình là “Thân phận của tình yêu”.
Nói theo sách tử vi , Kiên là loại đàn ông được sao Đào Hoa chiếu mệnh . Còn nói như Phương , nhân vật nữ chính trong truyện , Kiên là người đàn ông sinh đúng thời . Còn là một thiếu niên, Kiên đã có những rung động đầu đời với Hạnh , chị hàng xóm xinh đẹp để sau này “mãi mãi trong lòng Kiên lưu giữ thầm lặng một tình cảm biết ơn đầy tha thiết và ngậm ngùi ” . Trên những dặm dài của những nẻo đường chinh chiến sau này , Kiên từng cảm thấy “một niềm đắm say và một cảm giác gần gũi da diết’’ với Hòa , cô giao liên người Hải Hậu xinh tươi , người đã làm anh nổi giận đến suýt giết chết vì đã khiến cả nhóm bị lạc đường . Rồi Hiền , cô thương binh người Nam Định trên chuyến tàu về Bắc , “suốt đêm, mặc kệ rằng xung quanh lính tráng đùa cợt trêu chọc, hai người thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, thỏa sức hôn hít nhau, sống gấp lên với nhau những cây số cuối cùng còn vương lại của tuổi thanh xuân chiến hào”. Và Lan , người con gái ở Đồi Mơ trong cái vắng lặng của chiều tà với lời hứa về một sự đợi chờ đã “ làm trái tim anh tan nát đi vì tuyệt vọng và hạnh phúc”. Cả người đàn bà câm thầm lặng như một bóng ma trên tầng ba ngôi nhà anh mà anh đã “chiếm đoạt một cách cuồng bạo, khốc liệt, giằng xé, thẳng thừng tàn phá,..”… Với những người đàn bà ấy , ở Kiên , có cả những cảm xúc khi nồng nàn say đắm , lúc cay đắng xót thương chứ không đơn thuần là nhục dục . Mặc dù vậy , mọi thứ tình yêu , mọi cuộc dan díu đều không thể làm Kiên khuây khỏa nỗi nhớ thương Phương . Như Kiên nói , đời anh có hai mối tình : mối tình thứ nhất trước chiến tranh , với Phương; mối tình thứ hai sau chiến tranh , cũng là với một mình Phương !
Cuộc tình của người lính tên Kiên với cô gái tên Phương , so trong đời thực , có những điều không thực . Nói cách khác , mối tình phi thực ấy là một thứ ngoa dụ của tình yêu _ thứ tình yêu dai dẳng thống thiết mà những gian truân của cuộc sống không thể ngăn trở và ngay đến cái chết cũng chẳng thể chia lìa. Từ thuở còn là những oắt con , Kiên và Phương đã cùng thích rủ nhau chơi trò chơi chồng vợ. Lớn lên một chút , hai đứa như hình với bóng cứ quấn quýt lấy nhau như thể ở cạnh nhau bao nhiêu cũng chẳng vừa .Tình yêu ấy khiến cho tất cả mọi người quanh phải xốn mắt nhưng với họ chẳng hề gì.
Rồi một buổi chiều cuối xuân đầu hạ trong sân trường Chu Văn An , những Kantorex Việt Nam bắt đầu mê sảng kêu gào :“nước Mỹ sẽ bị hủy diệt ’’ , “chính cái em sẽ là những thiên thần trẻ tuổi của cách mạng, các em sẽ cứu nhân loại”. Đám học trò còn chưa học hết lớp 10 tay gậy tay gộc , xẻng cuốc …hừng hực , hùng hổ hô vang: “Sát Thát , Sát Thát …”
Cũng buổi chiều tháng tư nồng nàn ấy , hai đứa trốn thầy trốn bạn đi bơi .“ Những lần ôm xiết ngắn ngủi chếnh choáng trong làn nước màu lục nhạt. Những sợi rong lập lờ. Tiếng cá quẫy đuôi. Và khuôn mặt trắng mịn của Phương nhòa trong nước, những chùm bong bóng hơi thở, mái tóc ướt nặng, bờ vai, đôi chân dài, thân thiết, tuyệt mỹ đến đau nhói trong lòng…” Hai đứa bơi sóng đôi một lúc một xa bờ . Đó là “khúc sông đời thanh lặng , êm ả cuối cùng ”của hai đứa , để từ đó “bắt đầu dằng dặc một chặng sông dài rực lửa ”bao nhiêu năm trời chia cắt Kiên và Phương . Một cuộc chiến tranh.
Rồi Kiên vào chiến trường . Có lẽ cũng chẳng có gì khác biệt với những đôi lứa trong chiến tranh nếu không có cuộc tiễn đưa định mệnh ấy.
Sau ba tháng luyện quân ở Nhã Nam , tiểu đoàn 36 tân binh được nhận lệnh lên đường đi B. Còn dôi mấy tiếng đồng hồ để chờ tàu , Kiên bám ô tô về Hà Nội tìm Phương. Khi trở lại thì tàu đã chuyển bánh. Cả hai tìm cách lên một chuyến tàu khác đuổi theo . “ Đêm ấy , trên đoàn tàu ấy, bên bờ tai họa và giữa cảnh rối ren, Kiên và Phương chắc chắn là hai kẻ quá giang liều chết nhất. Say sưa, mù quáng, phóng túng và cả tin, buông mình hoàn toàn theo ngẫu hứng, quấn chặt lấy nhau cả hai đều mê mẩn mịt mù trong mông mị êm đềm ngây dại.”
Chính trong cái đêm mộng mị hoang đàng ấy , đoàn tàu bị đánh bom. Kiên và Phương lạc nhau. Và khi Kiên tìm thấy Phương thì Phương đã là một người khác . Nàng bị đám lính cùng toa tàu cưỡng hiếp . “Rách rưới, hở hang, lấm lem và đọng máu nhưng đồng thời cũng hết sức mềm mại mịn màng, tròn trĩnh và trắng muốt. Phương nằm nghiêng chừa chỗ cho anh nhưng dần dần như thể thấy lạnh, nàng co hai đầu gối lên. Cái thế ngủ, thế nằm của trẻ con, đầu gối sát ngực. Chẳng những vì quá buồn ngủ mà hẳn rằng lúc này, Phương hoàn toàn chẳng còn thiết gì nữa, tuyệt đối buông thả, tuyệt đối không còn biết sợ là gì nữa, Kiên nghĩ. Trù trừ một lúc, rồi anh luồn tay dưới gáy Phương nâng nhẹ người nàng lên sẽ lột cái áo lụa cộc tay rách sã, lộn lần trái đang sạch lau mặt, lau cổ, lau khắp mình mẩy Phương. Anh lột nốt cả chiếc quần lụa, chùi vết máu trên đùi cho Phương. Thở dốc run rẩy, anh mặc quần áo của mình vào cho Phương. Rồi anh mắc võng nằm.”
Khi Kiên tỉnh dậy , anh không thấy Phương đâu . Anh lang thang đi tìm Phương .Theo lời những người lính thì Phương của anh đang ở cùng đám lính lái xe . Mãi đến chiều tối , Kiên nhìn thấy Phương ở một cái đầm , đang thản nhiên , điềm đạm tắm táp như không có gì xảy ra. Đau đớn thất vọng ngập tràn , Kiên bỏ đi. Anh biết “hai đứa sẽ không gặp được lại nhau nữa từ nay, bởi anh đã nhất quyết bỏ rơi nàng”.
Họ biền biệt tin nhau cho đến ngày chiến tranh kết thúc, và Kiên may mắn vẫn còn sống sót để trở về.
Cũng không có gì đặc biệt nếu họ lại gặp nhau và nối lại mối tình xưa. Bởi hai người họ vẫn ở trong hai căn phòng kề sát nhau và vẫn dõi tìm nhau.
Nhưng mặc dù yêu nhau thế nào , họ vĩnh viễn không bao giờ kết thành với nhau được nữa . Tình yêu của Kiên và Phương sẽ không bao giờ mãn khai , không thể nào sinh nở .Tình yêu ấy bị hủy hoại kể từ khi Kiên bước chân lên chuyến tàu chiến tranh và từ đó họ ngược chiều nhau.
Cũng như chiến tranh , tình yêu với cô gái tên Phương đã trở thành vô phương cứu vãn trong cuộc đời người lính tên Kiên. Cũng như chiến tranh , tình yêu với người con gái ấy đã cuốn Kiên vào vực thẳm của sự thống khổ . Chiến tranh và tình yêu hoàn toàn đối lập nhau nhưng lại cùng một thuộc tính là sự cuốn hút bạo tàn. Có vẻ như trong “Nỗi buồn chiến tranh ” của Bảo Ninh , nhân vật Phương đã trở thành một ẩn dụ , hay nói cách khác , một hiện thân cho Thân phận của tình yêu rực rỡ mà bi thảm trong chiến tranh. Kiên và Phương có sự đối lập khá rõ ràng . Nếu như Kiên là người đàn ông đúng thời , thì Phương lại là đứa con gái lạc thời. Nhan sắc dậy thì của Phương đã khiến người ta phải xốn xang , phải bứt rứt , kinh hãi . Tình yêu thời tuổi trẻ của Phương cuồng say , mãnh liệt , chẳng thể tự giấu mình . Cả hai thứ đó đều chẳng thể vừa mắt cái thời của nàng. Cho nên , cả sắc đẹp lẫn tình yêu của Phương trong con mắt tinh ý người họa sĩ già , bố của Kiên , đã ngầm ẩn chứa một thứ tai họa _ thứ tai họa chẳng thể đặng đừng .
Cần phải lưu ý một số tình tiết Bảo Ninh có thể đã cố ý xây dựng trong tác phẩm của mình . Trên chuyến tàu định mệnh đêm ấy , trước ngày Kiên vào chiến trường , những kẻ cưỡng hiếp , hủy hoại cuộc đời Phương lại là những người cùng chiến tuyến với Kiên . Về sau này , khi chiến tranh chấm dứt , Kiên trở về tìm Phương thì những kẻ vừa ăn nằm vừa nhục mạ , phỉ báng Phương khiến Kiên không thể nào tự kìm mình được , khiến trở thành vết thương sâu hoắm, kinh khủng trong lòng Kiên _ những kẻ đó cũng chính là đồng đội của Kiên. Người đọc có thể cảm nhận được dụng ý của nhà văn ở cách chọn lựa chi tiết này: nếu như những kẻ hãm hiếp Phương , phỉ báng , nhục mạ Phương là những kẻ thù bên kia chiến tuyến của anh , mối tình của Kiên và Phương sau chiến tranh còn có khả năng được hàn gắn , thậm chí còn mặn nồng , da diết hơn “Hoa tàn mà lại thêm tươi _trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa ”(Truyện Kiều_Nguyễn Du). Nhưng nỗi cay đắng ngấm ngầm của Kiên , bi kịch của Kiên là ở chỗ : tình yêu của Kiên và Phương đã bị hủy hoại bởi chính cuộc chiến tranh và cả những thứ thuộc về cuộc chiến tranh mà Kiên dự phần vào , đã say mê theo đuổi .Vậy mà bao nhiêu năm trời theo đuổi chiến tranh , anh đã mê muội không nhận ra được điều đó .Trong khi đó , sự hủy hoại này đã được Phương dự cảm ngay trong buổi chiều tháng tư nồng nàn họ trốn trường trốn bạn để được ở bên nhau : “Anh say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên. Anh không yêu mẹ, không yêu cha, không yêu tình yêu của em”và sự thể sẽ không thể là gì khác đi :“Em nhìn thấy tương lai, – Phương nói – Đấy là sự đổ nát. Sự thiêu hủy.” Chọn cuộc chiến tranh này , không phải là ai khác, chính là Kiên đã tự chọn sự ngược chiều , sự hủy hoại tình yêu _cũng là hủy hoại ý nghĩa sự sống của cuộc đời mình: “Chính là từ đấy, từ lúc bị giằng bật ra khỏi Phương, đời Kiên bắt đầu thực sự đẫm trong máu, trong thương đau, trong thất bại”.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật chính , người anh hùng trong chiến tranh, nhà văn đã không hề ngẫu nhiên khi chọn Kiên _ kẻ lớn lên không cha mẹ , không anh em , không họ hàng , “ trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên chỉ với nhiều nhất là một phần hai nhân cách”. Con người đó say mê giết chóc , tự mình hủy hoại tình yêu, rốt cuộc là nửa phần đời còn lại lặng thầm đi thu nhặt hài cốt đồng đội của mình , lặng thầm tưởng niệm những mảnh linh hồn đã bị hủy hoại của mình .Trong khi đó người phụ nữ mềm yếu tên Phương “ bất chấp chiến tranh kinh khủng, bất chấp bạo tàn và ô nhục, bất chấp sự rơm rác của những định kiến và những giáo điều gò khuôn cuộc sống của con người. Phương của anh vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viên bên ngoài mọi thời buổi. Vĩnh viễn nàng tuyệt đẹp .”
Từ hình tượng cặp đôi Kiên_Phương, tác phẩm đã cất lên tiếng nói phản kháng chiến tranh, tụng ca tình yêu sự sống .

Không chỉ một mình Phương , hầu như toàn bộ các nhân vật nữ trong “Nỗi buồn chiến tranh” đều là những con người bất hạnh. Từ những người phụ nữ một cách nào đó có liên quan đến Kiên như Hạnh (người hàng xóm), Hòa (cô giao liên người Hải Hậu) , Hiền (cô thương binh người Nam Định), Lan ( người em gái ở Đồi Mơ ), người con gái một đêm _ em gái của Vĩnh , cô gái câm trên tầng ba…; đến những người phụ nữ một đời khóc chồng khóc con như mẹ của Can , mẹ của Lan , mẹ của Vĩnh . Dù là mẹ của liệt sĩ (mẹ của Lan , mẹ của Vĩnh ) hay mẹ của lính đào ngũ (mẹ của Can ) , dù ở thành thị hay làng quê thì những người mẹ ấy cũng cùng chung sự đói nghèo thê thảm và sự mất mát đau đớn không cùng : “Cái xóm nhỏ ven thành phố nhưng mà đói nghèo thảm hại nổi lên giữa một vùng dở đầm lầy dở bãi rác. Lũ trẻ ốm o rách rưới. Đàn chó bẩn thỉu chạy rông. Ruồi muỗi chuột bọ, mùi hôi thối kinh hồn và những ngọn gió cực kỳ tanh tưởi. Dân xóm nửa phần đi ăn mày, nửa phần chuyên nghiệp bới rác nhặt giấy vụn và chạy đồ ăn cắp. Nhà của gia đình Vĩnh cũng như mọi nhà khác trong xóm, nhếch nhác, tối tăm, chằng đụp, vá víu, nhớt nhát. Cô bé này khi đó mới chừng mười lăm tuổi nước mắt lưng tròng, thút thít, sụt sịt dỡ các thứ trong chiếc ba lô cóc bẹp dúm của Vĩnh ra cho bà mẹ mù lòa rờ rẫm vuốt ve. Một bộ quần áo lính tàng nát. Chiếc mũ tai bèo. Con dao xếp. Cái bát sắt. Cây sáo trúc đã nứt toác. Cuốn sổ tay.”
Những người lính như Kiên , như Vĩnh , như Can …, nếu có thể “cứu được cả nhân loại” , sao trước hết họ không cứu lấy những người em , những người chị , những người mẹ của chính mình?
Những người em , những người chị , những người mẹ ấy chính là hình ảnh của nhân dân : đông đảo mà lặng thầm , cam chịu . Nỗi khổ đau mà cuộc chiến tranh này gây ra cho họ là vô lượng, chỉ hai mươi năm binh lửa mà “đau thấu tới ngàn năm”.

Một nhân vật có vẻ như mờ nhạt lướt qua ở một vài trang nhưng cũng dự phần thể hiện bức thông điệp nhà văn gửi tới bạn đọc của mình . Đó là nhân vật người bố của Kiên . Như Phương nói: Kiên không yêu mẹmột đảng viên thức thời ; nhưng cũng không yêu cha_một họa sĩ lỗi thời. Kiên không yêu cha , cũng không hiểu nỗi lòng của cha: “Kiên thấy ông thôi không đến làm việc ở viện bảo tàng nữa. ông không lọc cọc đạp xe đèo giá vẽ đi thực cảnh nơi này nơi kia như mọi năm. ông sử dụng tầng áp mái của chung cư để làm xưởng họa và ông hầu như hoàn toàn giam mình lên trên đó. Ở trên đó ông âm thầm độc thoại và âm thầm vẽ. Trong khí ẩm. Bụi bặm. Những con dơi loạng choạng bay như trong hang núi. Kiên nghe người ta xì xào rằng cha anh bị phê phán và bị đánh đổ, rằng bây giờ ông là nhân vật bất mãn đáng ngờ, một tay khuynh hữu. ông đang trở thành lẩm cẩm và kỳ quặc’’.
Những bức vẽ của cha Kiên , dù là người hay vật , toàn là những hình nhân dẹo dặt , héo mòn kéo nhau đi từng đàn với sắc màu vàng vọt. Trước ngày chết , ông đã đốt toàn bộ báu vật cuộc đời mình không để lại bức nào . Phải rất nhiều năm tháng sau này , khi đã trải bao nông nỗi cuộc đời, Kiên
người con trai của thời đại đó mới “phần nào cảm được nỗi đau lẫn vị đắng cay trong những lời cuối cùng của cha, mới hiểu được rằng dường như cha muốn trăn trối lại cho anh điều gì.”
Điều gì cha Kiên đã muốn nói ra , điều gì cha Kiên đã muốn trăn trối lại??? . Hình ảnh người họa sĩ trong những trang truyện này thực sự gợi nhắc bi kịch của Người viết Quốc ca_ nhà thơ_ họa sĩ Văn Cao cùng hàng trăm nghệ sĩ tài hoa nức tiếng một thời : Hữu Loan , Quang Dũng , Phùng Quán , Hoàng Cầm …. Bao nhiêu cuộc đời mòn mõi . Bao nhiêu đứa con tinh thần của người nghệ sĩ bị hủy hoại khi chưa còn kịp chào đời hoặc ngay cả lúc vừa mới được hoài thai. Những tổn thất không thể định giá . Những năm tháng nghiệt ngã ấy , trong nỗi thống khổ tuyệt vọng vô bờ , Văn Cao đã âm thầm viết : “Bây giờ ở đâu cũng có tiếng _Chưa nói lên” (Anh có nghe thấy không?_Văn Cao)
Những năm tháng ấy , những người lính như Kiên , như Vĩnh , như Can …, rốt cuộc đã đứng về phía nào của cái Đẹp?

Có một bài báo đã viết rằng “Nỗi buồn chiến tranh ”của Bảo Ninh thậm chí còn hay hơn so với “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque. Sự so sánh đó rõ ràng là chủ quan . Tuy nhiên , về một góc độ nào đó cũng có thể đồng ý rằng “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque là tác phẩm viết hay nhất về Chiến tranh thế giới thứ nhất , trong khi “Nỗi buồn chiến tranh ”của Bảo Ninh có thể được coi là tác phẩm hay nhất về chiến tranh Việt Nam . Có những giá trị không thể đồng nhất nhưng điều dễ nhận thấy là với những tác phẩm về đề tài hiện thực , khi người cầm bút đứng trước nguy cơ phảỉ đối mặt với nhà cầm quyền, với sự kiểm duyệt thì chân thực luôn là tiêu chí hàng đầu . Vì sự chân thực này , Erich Maria Remarque đã khiến Adolf Hitler nổi giận và chính quyền Đức Quốc xã tỏ thái độ thù địch ra mặt : sách của ông bị đốt trong một buổi lễ đốt sách khét tiếng vào ngày 10 tháng 10 năm 1933, bản thân ông bị tịch thu tài khoản , bị tước quyền công dân . Năm 1943, em gái ông là Elfried Scholz bị chính quyền Đức Quốc xã xử trảm vì tội tuyên truyền “lật đổ”. “Nỗi buồn chiến tranh ”của Bảo Ninh trong hai chục năm qua làm lay động trái tim người đọc bởi nhà văn đã vượt qua được những thỏa hiệp để đến với một hành trình khó khăn là nói lên sự thật . Đó là điểm khác biệt _cũng là điều làm nên giá trị của“ Nỗi buồn chiến tranh ” so với hàng loạt các tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam của các tác giả đương thời.
Tuy nhiên , như một câu thành ngữ Nga đã nói :“Một nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không còn là sự thật nữa”.
Khi cố gắng tìm tòi để thể hiện “Nỗi buồn chiến tranh”, ngòi bút Bảo Ninh đã kết hợp rất nhuần nhuyễn các yếu tố tự sự và nghị luận , trữ tình. Do tính chất “muốn được giãi bày ”của tác phẩm , các yếu tố nghị luận , trữ tình đôi khi còn đậm nét hơn và vì thế , thủ pháp dòng ý thức được thường xuyên được sử dụng như một lợi thế . Trong tác phẩm, dòng ý thức của nhân vật Kiên chiếm một dung lượng khá lớn, đó là những ngẫm ngợi của anh về nỗi buồn chiến tranh , về thân phận của tình yêu, về thân phận của con người …Dòng ý thức ấy , khi thì miên man vô tận , lúc thì đứt quãng đột ngột đã giúp kết nối các sự kiện tưởng chừng rời rạc như không theo một trình tự thời gian không gian nào . Trong đó, những dòng độc thoại thể hiện ý thức của nhân vật Kiên về cuộc chiến tranh đã qua : “vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng”, “chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng” , “cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát anh đã phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay”…Sự lặp lại các cụm từ : cuộc chiến tranh thần thánh , chính nghĩa đã thắng …có vẻ như là cách nhà văn đối phó với mạng lưới kiểm duyệt vì rõ ràng sự lặp lại có tính chất khẳng định này không logic , không nhất quán với những gì nhân vật Kiên đã trải qua , những gì đã diễn ra trong tác phẩm .Và nếu đúng như thế ,thứ sự thật nguy hiểm nhất ,“sự thật của các sự thật “rốt cuộc vẫn còn chưa được nói ra.

Bà Aung San Suu Kyi, người phụ nữ năm 2015 đã mở một trang mới trong lịch sử Miến Điện , người phụ nữ đã dành trọn vẹn tuổi thanh xuân tươi đẹp , hạnh phúc gia đình cho tiến trình dân chủ của đất nước Miến Điện từng viết : “Chỉ nhà tù thực sự là sợ hãi, và chỉ có tự do thực sự là tự do ra khỏi sợ hãi. Không có quyền lực nào bị thối nát vì sự sợ hãi. Sợ bị mất quyền lực làm hư hỏng những người sử dụng nó và sợ tai họa của quyền lực làm hư hỏng những người trong diện với nó .”
Câu nói đó có nghĩa là , chỉ khi nào hết sợ hãi , con người người mới thực có tự do. Các nhà văn, hơn ai hết, cần có đủ dũng cảm để tự do bước ra khỏi sự sợ hãi của mình .

Nhân vật Kiên_cũng là nhà văn Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến tranh “có một điều ước : “Giá mà vào giờ phút giải phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh”. Điều ước đó không bao giờ thành hiện thực . Điều có thể trở thành hiện thực mà những người lính ấy mong muốn đơn giản là một lời nói thật. Bởi với sự thật ấy sẽ giúp không lập lại những vệt xe đổ của lịch sử , không lặp lại những cuộc chiến tranh vô nghĩa gây cảnh giết chóc bạo tàn . Chỉ khi ấy , cái chết của những người lính ấy mới không đến nỗi trở thành uổng phí . Chỉ khi ấy ,với mỗi người dân Việt Nam , “Nỗi buồn chiến tranh ” cả trong văn chương lẫn đời thực mới khả dĩ làm nguôi ngoai và thanh sạch lòng người .

Sài Gòn 9/12/2015
Hà Thị Lệ Hà K8

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 21, 2025 03:30

June 11, 2025

Hành động trong tuyệt vọng (Vài nét phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng)

 

Bài viết này hoàn thành từ 1980 với tên gọi  Hành động trong tuyệt vọng  (Vài nét phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng) nhưng mãi tới  tháng 10  2015 mới được in một lần duy nhất trên blog cá nhân của tác giả và mang tên Đi tới cùng của hỗn độn sẽ gặp hư vô  https://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/10/i-toi-cung-cua-hon-on-se-gap-hu-vo.html  

***

 

Cách hiểu về hư vô

từ một câu chuyện cổ

 


Trong các các bài khóa đọctrong sách Quốc văn giáo khoa thư học hồi nhỏ, tôi nhớ có câuchuyện kể một người đi đôi giày mới vào thành phố. Ban đầu, người đó giữ gìnrất cẩn thận. Nhưng đến quãng nọ, chợt có một bãi lầy, người đó không tránhkịp, giày sinh bẩn. Từ đó, người có giày đâm liều lĩnh, không còn kiêng dè gìnữa, có lúc thục chân trong bùn.

Có thểbắt đầu từ câu chuyện trên để hình dung sơ bộ về chủ nghĩa hư vô. Hư vô nói ởđây không phải là một luận giải triết học mà chỉ là câu chuyện của niềm tin vàcung cách cư xử trong đời sống hàng ngày. Tinh thần hư vô cổ dạy người ta vôvi, siêu thoát, không làm gì hết, chủ nghĩa hư vô hiện đại thì biện minh chohành động, nhất là những hành động xấu. Đấy là khi con người không còn xác địnhnổi đâu là phải, đâu là trái nữa. Sự lương thiện ban đầu đành từ bỏ. Tạihoàn cảnh thôi, tôi đã không giữ được sự tốt đẹp của tôi nữa, chứ lúc đầu, tôicó muốn thế đâu? Rút cục, mặc dù biết sục chân trong bùn là không nên, người tavẫn tìm được cách để tự biện hộ.

Trong hoàn cảnh cụ thể củaxã hội miền Nam 1954-1975, chủ nghĩa hư vô đã nảy sinh ra sao, quá trình diễnbiến của nó, đặc điểm của nó ra sao -- chuyện khá dài dòng đòi hỏi nhiều ngànhkhoa học cùng tiếp cận lý giải. Dừng lại ở một số quan sát sơ bộ, trong bàiviết này, chúng tôi chỉ nói tới một vài khái cạnh của vấn đề, có liên quan tớiđời sống văn học. Mà dù đã hạn chế như vậy, cũng còn là quá rộng. Văn học ở cácthành thị miền Nam trước 30-4 bàng bạc một thứ chủ nghĩa hư vô nhẹnhàng, không được nâng lên thành lý thuyết, song chính vì thế lại khó nhậndiện. Bản thân người trong cuộc đôi lúc như lảng tránh, từ chối sự can thiệpcủa trí tuệ, không muốn vì cho là không thể dùng trí tuệ để hiểu điều gì hết.Trong hoàn cảnh đó, tinh thần hư vô càng ma mị biến hóa. Nó mang những đặc điểmchung của chủ nghĩa hư vô từ trước tới nay, đồng thời lại có những khía cạnhđặc thù mà chỉ ở miền Nam trước giải phóng, nó mới có một khuôn mặtnhư thế.

---
                         Sản phẩm phụcủa thất bại

Dưới đầu đề Phốmiền Nam, Nguỵ Ngữ (một cây bút trẻ thường có truyện đăng ở Văn,Vấn đề, trước 4/1975) có dựng lại một câu chuyện khá tiêu biểu: Một quán càphê buồn bã, những người đến uống là một tốp lính ngán ngẩm tìm chốn mua vui màkhông sao vui nổi. Tốp lính ngày một chết dần chết mòn. Ngay cái đơn vị mà họsống cũng vậy, nó như một cơ thể đang thoái hoá:

Danh hiệu tiểu đoàn vẫn còntiếng tăm thiện chiến vẫn còn, còn huy chương, còn áo quần lem luốc, còn trungtá thượng sĩ, còn tham dự hết trận này qua trận kia, còn được tuyên dương côngtrạng, nhưng thực ra, chẳng còn gì cả. Lính trẻ có đứa 17 tuổi, và bọn sĩ quanhầu hết đều trù bị, có thằng mới 20 tuổi… Bọn già mỏi mệt và bọn trẻ chán nản.

… Một mặt trận kinh hoàngđã qua, một đêm hiện tại tai ương không biết để làm gì và ngày mai chập chùngchết chóc như một chân trời tai ương đi hoài không hết… Chúng tôi có một xứ sởquê hương mịt mùng thuốc súng để chiến đấu, có một vốn liếng chung để chuyềnnhau tiêu xài với đám gái: anh sẽ ra đi không mong ngày về… Ngay từ đầu, trongcăn bản, sự chiến đấu của chúng tôi đã nuôi sẵn mầm mống thất bại.

Cảm hứng chính toát ra quathiên truyện là nỗi cay đắng trước mọi bế tắc, bất lực.  Cuộc sống cứ nhưlả ngày mỗi đi xuống, người ta nhìn thấy hết mà chịu, không sao gượng dậy.

Hẳn Nguỵ Ngữ đã có tínhtoán khi đặt cho thiên truyện của mình cái tên Phố miền Nam.Có thể xem đó là một thứ bản vẽ thu nhỏ của xã hội Sài Gòn trước giải phóng,trong cả chiều rộng không gian lẫn chiều sâu thời gian.

 

Từ 1954 đến khoảng1963-1963, bắt tay vào việc đắp điếm một xã hội vừa thoát thai từ vùng tạmchiếm của thực dân Pháp và mới hoàn hồn sau chiến tranh, nhiều người lòng cònđầy hy vọng. Một miền Nam độc lập, một miền Nam phồn vinh-- họ tự mê hoặc như vậy, cái mê hoặc của những người thoát chết. Dần dà vàinăm sau, nỗi hoang mang mới len tới, hãi hùng như một cơn gió đen che mờ cả mặtmày. Cay đắng thấm vào từng lời, thất vọng nghẹn mãi trong họng, người ta gọimiền Nam là một quán bệnh, -- chữ của Mai Thảo -- người tanguyền rủa cái thực tế diễn ra trước mắt, mà lại dường như ma quái, ở ngoài tầmtay của mình, không thể nắm bắt, không thể điều khiển, thậm chí mình cắt nghĩacho mình cũng không nổi nữa.

Khởi nguyên là hành động.Có thể diễn dịch câu nói của Goethe thành ra cái ý: con người là hành động.Nhưng hành động thì cũng có thể thành công, mà cũng có thể thất bại. Từ xưa đếnnay, gần như chưa bao giờ quan niệm hư vô lại dính liền với một người thànhcông. Mà dù lúc đầu họ có xa lánh, chối bỏ, thậm chí chẳng hiểu chủ nghĩa hư vôra sao, thì tinh thần hư vô vẫn cứ xâm nhập vào họ, lặng lẽ, dần dà. Thực rathì chính họ đã đẻ ra nó, rau nào nảy sâu ấy, nào phải ai gieo rắc gì nhiều.Trong sự cầm tù của chủ nghĩa hư vô -- chỉ cần thế thôi, có thể biết họ làngười thất bại.

Vậy thì đối với mọi người,kể cả những kẻ nhẹ dạ vô tư nhất, ở miền Nam trước đây, quan niệm hư vô là mộtthứ điểm thu hút, một trạm dừng của tư tưởng. Tựa lưng vào văn hoá phương Tây,vận động theo một quan niệm duy lý thuần tuý, đôi lúc người ta thấy mình cũnglàm được một cái gì đấy. Kiếm ra tiền bạc. Xây dựng thêm cửa nhà. Đi đây đi đó.Kịp đến khi nhìn ngay xuống chỗ đặt chân, thấy chiến tranh vẫn tiếp diễn, bithảm ngày một kéo dài, thì mới thấy hình như không phải thế. Càng thành công,lại càng cảm thấy cái vực thẳm ghê gớm của thất bại. Cái phần không nắm được làbao la, so với cái phần cầm nắm trong tay. Sự đau đớn hôm qua, lúc còn chuinhủi trong các vùng tạm chiếm của Pháp, có những khía cạnh như là hợp lý của nó,ở trong bóng tối thì phải như vậy. Sự thất bại hôm nay mới thật cay đắng, bẽbàng, hình như đã tiên liệu hết cả rồi, mà nó vẫn tới. Đã vận dụng đến mọi liệupháp có được trong tay, đã tính toán thật chi li, đã làm hết sức mình, vậy màvẫn thất bại. Trong sự tách rời ngày càng vô lý giữa thực trạng và ý nghĩa,giữa nguyên nhân và hậu quả, một khu đất tốt đã được chuẩn bị để chủ nghĩa hưvô tha hồ hoành hành. Không hư vô sao được, khi sống mà không thể dùng lươngtri để xét đoán cuộc sống? Không hư vô sao được khi cảm thấy hoàn toàn mù loàtăm tối trên đường. Trong Chuyện tình người lỡ vận (Văn số188), Tô Thuỳ Yên từng dựng lại cái tâm trạng rã rời đó.

Biết đã trễ nên không thèmhối hả.

Cuộc tình này như chút đỉnhkhoan dung

Của định mệnh cũng có lầnnới thả

Hạnh phúc này như sóng rãtrên sông

 

Như yêu lại một người yêuthất tiết

Xót xa này chan đổ muốitrong lòng

Đời lỡ vận một lần nên lỡmiết

Chí lớn đành đốn sập đốt rathan

 

Trong cái bối rối của thấtbại, người ta tìm tới một trăm lý do khác nhau, mà lý do dễ kiếm nhất và có sứcan ủi nhất là "lỡ vận." Nhưng bài thơ không dừng lại ở đấy. Sau khicảm thấy như bị lừa, con người tiếp tục tự lừa mình, nạn nhân biến thành tộinhân, giả dối, trắng trợn.

Ta cứ coi em như hoàng hậugoá

Dẫu biết thừa em vốn gái lêdân

Còn ta đây: một vĩ nhân tàntạ

Chẳng làm nên công nghiệpđáng lưu danh

 

Ta dắt em đi giữa ngàytháng rối

Như đôi dư hồn khất thực coro

Cả xã hội bu quanh cười cợthỏi

Em cứ sắm tuồng đi, ta nhắccho

 

Em làm khôn còn ta ta giảdại

Ngày bồn chồn ngày, đêmkhắc khoải đêm

Ta tủi thân thêm một lầnvượt ải

Nghề ngông cuồng tập mãicũng thành quen.

 

Chỉ cần một chút hư vôthôi, thì khả năng xói mòn của nó về các phương tiện lòng tin cũng như sức lựcđã đủ làm hỏng người rồi, nữa đây lại là thứ hàng bày bán công khai, phạm vigây độc của nó rộng rãi lắm.

 

Mất lòng tin, mất phươnghướng

Thế giới hỗn tạp không saophân biệt nổi đâu là chính đâu là tà. Những kẻ theo chính nghĩa bị lột mặt nạ.Cuộc đời này bị những kẻxấu thao túng, chúng mặc sức hoành hành. Thất bại, những người tốt cũngkhông còn giữ được những gì tốt đẹp của mình nữa. Từ bỏ cuộc chơi là con đường gầnnhư duy nhất còn lại với người từng trải.

Đó là những triết lý chínhrút ra từ các bộ sách chưởng bán đầy ở Sài Gòn.

Nhưng đó lại là thứ thứcăn tinh thần phổ biến ở các thành thị miền Nam, từ người trí thức đến ngườibình dân đều đua nhau tìm đọc. Người mất lòng tin tìm đọc sách mất lòng tin.Tạng người như thế, thì cần thức ăn như thế,  không thể nào khác.

Qua các tiểu thuyết lớncủa Dostoievski, chúng ta đều biết có một loại nhân vật rất thích thể nghiệmnhững cảm giác lạ, thích vạch trần mình trước mặt người khác,  chẳng nhữngthích tra tấn, đánh phá tư tưởng người khác theo thói đời, mà còn -- với mộttinh thần tỉnh táo đến lạnh buốt đi -- tìm thấy những sung sướng bệnh hoạn khibị người khác tra tấn. Theo cái cách riêng của mình, nhiều người ở miền Nam hômqua, cũng như là mắc chứng bệnh vậy. Không bao giờ như trong thời gian từ 1963trở đi, người ta đua nhau nói về thất bại, nói về sự nản lòng. Hơn một sự kiệnđặc biệt, việc đó dần trở thành một sự kiện bình thường, lây lan trong xã hộinhư một thứ mốt, lây sang cả những người có đầu óc thông thường và quả đã toátlên sâu sắc ở những người thành thực. 

Từ những sự kiện lẻ tẻ,người ta còn đi tới cả khái quát. Đấy là khi lòng tin mất đi ; hoang mang và bếtắc, con người cũng mất luôn cả phương hướng.

Lấy một Võ Phiến làm vídụ, ngòi bút có tiếng là cay độc này có lúc thốt ra ngán ngẩm: "Cái bikịch của chúng ta là đánh mất  thần tượng của mình".

Mai Thảo thì từng nói rấthay vì sự quanh quẩn tại chỗ: Sống và chết tại chỗ. Hoài nghi cũng tạichỗ mà hoài nghi. Thay đổi cũng tại chỗ mà thay đổi. Cuộc chạy trốn thất đảm vàvô ích nhất. Vì là cuộc chạy trốn không cùng về trước mặt.

Và về bất lực: Cuộc sống dù ngọt ngào tớiđâu cuối cùng rồi cũng giết chết ở mỗi người mọi khả năng mơ mộng và tưởngtượng. Nghìn cửa ngõ đã mở cho thiếu đi một cửa ngõ hoang đường.

Nói cho đúng ra, mỗi ngườichỉ mất đi những gì mình ngẫu nhiên mà có. Về mặt niềm tin, cũng chưa bao giờnhững người ở các thành thị miền Nam này có được một niềm tin chắc chắn, hơnnữa, một niềm tin lớn lao, cao đẹp. Chẳng qua là họ chỉ cảm thấy cuộc sống quábức xúc, muốn kiếm tiền thật thoả thuê, muốn xoay xoả cho thoải mái hơn nữa, màchưa được như ý muốn. Còn như một số niềm tin mà họ nói rằng đánh mất, thựcchất chỉ là những niềm tin giả tạo, tự nó không có ý nghĩa gì hết. Về mặt này,thiên truyện Vì sao côi cút của Trần Hoài Thư (in trên BáchKhoa 1974) khá tiêu biểu. Truyện kể lại trường hợp hai thanh niên trốn lính- một người ham thích các chuyện chính trị, thường chăm chú đọc báo; còn ngườikia - kẻ xưng tôi trong truyện - thì ham thích nghệ thuật, tình yêu. Đến quậnlị nọ, tôi theo người bạn kia đến thăm một nhân vật được miêu tả là "nổi tiếngvà người bạn vẫn hằng kính trọng". Hoá ra, đó là một tên chuyên đi lừabịp. Đến khi tôi quay về với nghệ thuật, với tình yêu, thì cũng không gì kháclà sự phản bội: người yêu đã đi lấy chồng. Tôi cay đắng, ẩn trốn.

Trong kho tàng truyện cổdân gian Việt Nam, có câu chuyện anh chàng nọ mua phải một đàn ngỗngtrời. Đặt cọcvào những điều hão huyền, bi kịch của hai thanh niên trên đây cũng có phầntuơng tự. Vả không phải chỉ một hai người, mà gần như cả xã hội hôm qua cũngnhiều phần như họ, cũng đặt cọc vào những điều hão huyền, cũng tự lừa mình, vàcay đắng bị lừa. Biết bao nhiêu kẻ thiện ý xây dựng cái xã hội đó, như một VõPhiến, chống cộng bằng tất cả niềm tin sẵn có, chống cộng như các tôn đồ trướckia tử vì đạo, rồi ra lại vật mình vật mẩy kêu ầm lên rằng những lời kêu gọi màmình đưa ra, bị ném vào quên lãng. Trong nhiều truyện ngắn truyện dài, các nhânvật lính tráng của Dương Nghiễm Mậu từ các vùng tiền đồn xa xôi trở về thườngnhìn Sài Gòn với con mắt căm thù và cảm thấy mình bị phản bội. Năm 1960, trongkhi những Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn lòng còn náo nức hy vọng, thì trong tậptruyện ngắn Cũng đành, Dương Nghiễm Mậu đã cảm thấy một cái gì đổnát rạn vỡ. Khoảng mấy năm 1970-71, trong tập Nhan sắc, mượn truyệnlịch sử, nhà văn này ngả sang một quan niệm bất khả tri cho rằng lịch sử nhiềukhi là bịa đặt tuỳ tiện, sai đúng lẫn lộn. Sau hiệp nghị Pari, khoảng1973-1974, ông lại cảm thấy muốn từ giã tất cả. Ẩn sau những chống phá quyếtliệt, cái mầm hư vô thất bại ở cứ lớn dậy như một đứa con hoang và ngày càngthắng thế. Trẻ tuổi hơn những Võ Phiến, Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, không thể nóilà Dương Nghiễm Mậu bị ám ảnh bởi những mặc cảm sâu xa như các bậc đàn anh.Viết nhiều, viết khoẻ, sống bằng ngòi bút một cách cần mẫn, không thể nói làông quá bốc đồng và nói chuyện hư vô cho sang, cho hách, như một vài cây bútnon yếu hơn. Lại nữa, trong khi những Thanh Nam, Tuý Hồng, Thuỵ Vũ, Duyên Anhloanh quanh hết Huế, Sài Gòn, bôi ra mà viết, thì ông lăn lộn với lính tráng,bay xuống Cà Mau, Đồng Tháp, lên các vùng tiền đồn xa xôi, năm 1972, có mặt ởQuảng Trị. Trên nhiều phương diện, ngòi bút Dương Nghiễm Mậu là nhập cuộc làxông xáo, bởi vậy sự thất vọng, bất lực, mất phương hướng, mất lòng tin ở ông mới thêm khả năng lây lan hơn hẳn những người khác.

 

Sự khủng hoảng giá trị

Từ cảm giác thất bại, đếnmất phương hướng, mất lòng tin, đã có một sự về  biến đổi về chất. Thănghoa lên một lần nữa - thăng hoa như siêu hình học vẫn gọi - đó là chủ nghĩa hưvô. Từ sau đại chiến thế giới thứ hai, kinh động trước những hoành hành ghê gớmcủa thứ dịch hạch phát xít, cũng như hoang mang trước những thành tựu mà cuộccách mạng khoa học kỹ thuật mang tới, con người châu Âu trải qua một cơn khủnghoảng triền miên và hết sức nghiêm trọng. Những người duy lý bậc nhất đi đến cùngtrên con đường đã chọn, chợt nhận ra đã rơi vào phi lý lúc nào không biết. Conngười lại kết tội con người. Ý thức bị chính ý thức lên án. Trong sự làm rathật nhiều của cải, người ta chợt ghê sợ trước tất cả những gì mà mình đã làmđược. Nỗi thất vọng về chính mình chính là và bao giờ cũng là một nỗi thất vọngghê gớm. Giá như không có phương tiện xoay sở, rơi vào bế tắc nên khoanh tayđứng nhìn, thì còn nhẹ nhõm; đằng này do quá thừa mứa, mà cũng do các chủ thểquá năng động, nỗi thất vọng sau hoạt động ấy mới càng nặng nề. Dễ chưa bao giờngôn ngữ nhân loại biết được những lời lẽ diễn tả sự thất vọng sâu cay như châuÂu hiện nay.  Những tư tuởng hoài nghi, bi quan đó giống như một thứ thuốckháng sinh rất độc, xâm nhập tàn phá mọi cơ thể mọi miền đất, càng những cơ thểốm yếu, như cái đất  thực dân cũ ở Đông Nam Á, thì sức tàn phá của nó càngghê gớm.

Trong Thư mở đầu của Vấnđề số 4, Thanh Tâm Tuyền, khi ấy là thư ký toà soạn tạp chí, từng thanphiền:

Tình trạng suy nhược tinthần ở Sài Gòn đang thành một cơn bệnh nặng.

… Sự suy nhược tinh thầndồn người ta vào một cơn say thiếu máu, nói như những người lên đồng và múa maytrong một xã hội tuyệt vọng. Người ta sợ phải suy nghĩ, nhất là suy nghĩ mộtmình.

…Náo động trong bưng bítvà thụ động trong mơ ước đều là những chứng mệnh kiệt quệ của một căn bệnh hiểmnghèo.

Tại sao? Thanh Tâm Tuyềnkhông nói rõ, mà chỉ mô tả một trang thái có thực. Người nhận lấy việc cắtnghĩa này, không ai khác, lại là Võ Phiến.

 Đây đó, có lúc VõPhiến có thấy vấn đề một cách sâu sắc hơn.

Cái gì làm nản lòng hơn, ởthời chúng ta, ấy là sự sụp đổ năm lần bảy lượt, liên tiếp các giá trịtinh thần (V.T.N. gạch dưới). Dân tộc đang sống theo nềnnếp, bỗng một cuộc biến thiên đến, làm xáo trộn cả chiều hướng văn hoá: nhữngnguyên tắc đạo lý hôm qua coi là thiêng liêng, hôm nay bị chế giễu tơi bời,những tên tuổi hôm qua coi là hiền triết thần thánh, hôm nay bị xỉ vả là gieorắc tư tưởng lạc hậu.

Đúng là trong mỗi giaiđoạn lịch sử ở mỗi xã hội đều thấy hình thành cái đó, các giá trị tinh thần.Muốn biết một xã hội trưởng thành đến đâu, nó có ổn định vững chắc hay không,phải xem xét hệ thống giá trị mà nó coi là nền tảng. Khi một xã hội đã tao loạntới mức những chuẩn mực cho người ta dựa vào đó mà sống đã sụp đổ, trước sau xãhội đó sẽ tan rã.

Khi nói về chủ nghĩa hưvô, các tài liệu lý luận Đông-Tây không thể không nhắc tới một nhân vật quantrọng là Nietzsche (1844-1900). Khi viết về chủ nghĩa hư vô,  các  bộ sách lịch sử triết  học – kể cả loại sơ giản - sau khi xác địnhđó là một hiện tượng xã hội, muốn phủ nhận các giá trị như lý tưởng, khuôn mẫuđạo đức, văn hoá.v.v… còn dẫn ra nhận xét tóm tắt của Nietzsche : "Hư vôlà những gì cao hơn giá trị, bị mất giá trị. Không mục đích. Không trả lời chocâu hỏi: để làm gì?". Với Nietzsche, việc sáng tạo các giá trị là sự kiệncơ bản của lịch sử nhân loại. Theo Nietzsche, giá trị quan trọng hơn mọi sựkiện và việc đáng làm nhất là biến đổi các sự kiện ra giá trị.

Trước khủng hoảng, nhữnggiá trị cổ truyền gắn liền với niềm tin vào một đấng tối thượng là Chúa, tứcvới niềm tin vào môt cái gì bất tử. Nay niềm tin đó không còn nữa, mọi chuyệnnhư hụt hẫng, mất chỗ bấu víu, và lòng người cũng không sao tìm được sự yên ổn,cố hữu. Chúa đã chết rồi, lần đầu tiên Nietzsche nói, và về sau, bao nhiêu ngườicòn nhắc lại. Một quá trình tư tưởng như thế đã xảy ra. Đi kèm với niềm thảngthốt là một nỗi kinh hoàng lây truyền từ người nọ sang người kia, từ đó ra đờirất nhiều tác phẩm nói về sự hỗn loạn trong đời sống hiện đại.

So với sự thịnh vượng củachâu Âu sau cách mạng tư sản, cái thời của Chúa, thì cái thời của sự ổn định màxã hội Sài Gòn sau 1954 gọi là có ít ngày thì cũng rất ngắn ngủi, rất mongmanh.

Nhưng không phải vì thế màngười ta không chia sẻ nỗi cay đắng về chỗ  mất đi những mực thuớc đểsống.

Làng xóm bị bom đạn Mỹ càyxới. Thành thị tập trung dân, những mối quan hệ cũ tan rã, những mối quan hệmới chưa hình thành, chỉ riêng những xáo trộn đó đã làm nảy sinh bao khủnghoảng. Trên kia, chúng ta đã nhắc qua những nhân vật người lính của DươngNghiễm Mậu, Phan Nhật Nam từ các tiền đồn trở về căm ghét cuộc sống Sài Gòn rasao. Chiến tranh trở thành bình thường, người ta vừa phải sống rất căng thẳng,sống gấp cốt sống lấy được mà không cần nguyên tắc gì hết, lại vẫn phải lo làmăn  sinh con đẻ cái, lo học hành vui chơi giải trí, như mọi kiếp sống bìnhthường. Nếu không tranh thủ hưởng thụ đi thì đến bao giờ hưởng thụ. Khi đã phảidùng đến quá nhiều tiêu chuẩn, những tiêu chuẩn khác nhau để xem xét, thì cònbiết sao là phải là trái nữa? Đại khái, như trong cuộc phỏng vấn về tuổi trẻViệt Nam đăng trên báo Khởi hành, một bạn trẻ đã sơ bộ gợi ra sựlúng túng của rất nhiều người.

Nhiều khi đi ngang quađường phố gặp những cậu trai 15, 17 mà đã bắt chước cà phê, thuốc lá, ăn mặc lốlăng, tôi thấy ghê tởm và khinh ghét họ. Nhưng sau những đêm kinh hoàng vì pháokích, tôi lại thấy thương mến họ rất nhiều.

Bắt đầu một cách rất giảndị, nhưng những lẫn lộn trong tình cảm trên đây là gì, nếu không phải là báohiệu của một khủng hoảng thực sự, trên mọi phương diện của cuộc sống. Trong bàiđiểm lại Những nét lớn về sinh hoạt nghệ thuật 1970, Mai Thảo cũngnói đến hiện tượng trống đánh xuôi kèn thổi ngược: "Trong tiếng súng nổ,cả nước đang sáng chiều nghe nhạc". Nhân một kẻ nổi loạn trong thành phốrồi tự tử chết, Dương Nghiễm Mậu cảm khái và tìm cách cắt nghĩa: "Hắn đãchết trong một xã hội mà kẻ phản bội nói trung thành, kẻ dơ bẩn nói trong sạch,kẻ vô hạnh nói phẩm giá." Dường như chính Dương Nghiễm Mậu muốn thay mặt nhữngngười đã chết nói một sự thật, nhưng điều đó có nghĩa lý gì, xã hội Sài Gòn hômqua đủ bàng quan, lạnh nhạt để nhắm mắt trước mọi sự thực tương tự.

Tóm lại, sự khủng hoảngcác giá trị, nói cách khác là những khủng hoảng những thước đo chung, được mọingười công nhận - thực chất của nó là khủng hoảng các quan hệ lớn trong xã hội.Giữa cá nhân và xã hội, mọi mối ràng buộc xộc xệch. Trên phương diện thời gian,hoặc hiện tại quá mong manh mà quá khứ quá nặng nề, hoặc lấy tương lai làm vậthy sinh cho hiện tại, đủ thứ so le mà cũng đủ chuyện giả trá, hư nguỵ, khôngsao kiểm soát nổi. Mà khi những giá trị này đã được "thả nổi" để"tuỳ nghi", thì sự hỗn loạn không còn là trong phạm vi nhỏ hẹp nàonữa. Không phải là từng hành động riêng rẽ, mà là toàn bộ hệ thống hành độngcủa người ta hỗn loạn. Tưởng là quy vào phạm vi tinh thần rồi mọi sự lúng túngsẽ được gỡ ra, ngờ đâu, đến tinh thần cũng hỗn loạn, thì sự hỗn loạn mới thậtlà hoàn chỉnh, và mở đường cho mọi sự hỗn loạn tiếp tục.


Hành động trong tuyệt vọng

 Hamlét vĩ đại vì tầm vóccủa những suy nghĩ mà nhân vật này trải nghiệm trước khi hành động. Tồn tại haykhông tồn tại, con người bận tâm tới câu hỏi đó có lúc bị người đời coi là bạcnhược. Nhưng biết sao được? Trong lúc chưa tìm được phương hướng đúng, hànhđộng chỉ thất bại, thậm chí là lầm lỡ thêm.

Trong thời đại bế tắc củamình, các nhân vật tích cực của Tchekhov đều đứng đó bơ vơ, lạc lõng. Còn nhữngkẻ hoạt động ở đây, chính là những kẻ bị lịch sử lên án.

Soi vào hoàn cảnh miền Namtrước giải phóng, tình hình khác hẳn.  Chẳng có ai là chịu đứng tách rakhông hành động. Nhưng hành động thế nào bây giờ?
 Trởlại với cái câu của Goethe, mà trên kia tôi đã dẫn khởi nguyên là hànhđộng. Có một điều mà người ta hay quên  chính tác giả Faust  làngười từng nhấn mạnhthêm : Sự hoạt động làm tê liệt tư tưởng.

Khi người ta chỉ hành độngtheo thói quen, hành động một cách mù quáng, thì bản thân hành động không thểđúc kết lại thành tư tưởng đúng đắn, và dần dà đó đã là một thứ hành động vìhành động, hành động như là dấu hiệu của bất lực.
Hãy thửnhìn sự diễn biến của hư vô trong lịch sử.
Trong xãhộị trung cổ, khi hư vô, thường người ta im lặng chịu đựng. Cũng có một sốngười nổi loạn, nhưng không mang lại kết quả gì đáng kể, cuối cùng thấy rằnglảng tránh vẫn còn hơn đầu hàng. Mà lại dễ chịu, lương tâm vẫn yên ổn, vì tựcảm thấy mình trong sạch "" Sau khi để cho nhân vật Thuý Kiều củamình đi đến cùng của mọi sự phiêu lưu mà vẫn không được việc gì, Nguyễn Du chỉcòn có cách tìm niềm vui trong quên lãng, hoặc ở ẩn giữa triều đình, làm mộtông quan bất lực. Câu thơ nghêu ngao vui thú sơn hà - mai là bạn cũ, hạc là người quen vận vào đây là vừa hợp.

Ít nhiều hư vô thuở ấy cònlà khả thủ, còn chấp nhận được vì nó bó hẹp trong phạm vi một hai cá nhân nàođó và không dẫn tới bừa bãi phá phách.

Nay thì ngược lại.

Bên cạnh một thoáng tíchcực, một trong những phương hướng phát triển  của chủ nghĩa hư vô ở cácnước phương tây hiện đại là nó hướng người tới sự tự do tùy tiện. Khi tự nhủrằng Chúa đã chết tức là người ta tự bảo muốn làm gì thì làm. Đến với  cácthành thị miền Nam trong chiến tranh, cách nghĩ này thúc đẩy người ta sa chânvào con đường lỗi lầm. Làm giàu một các bất lương, ăn cắp, giả trá, chém giếtnhau cho hả giận, -- gì người ta cũng dám làm. Khi các giá trị đã không còn đểlàm mực thước thì một ít lệch chuẩn như vậy phỏng có tội tình gì. Mọi hành độngxấu luôn tìm được một hành động xấu hơn để đối chiếu. Mọi hành động xấu ai cũngbiết  --  mà lại không thể và không được xem xét, lý giải nhất là lênán một cách đúng đắn -- sẽ có sức nẩy nở sinh sôi ghê gớm.

Mối quan hệ giữa hư vô vàhành động liều lĩnh là mối quan hệ hai chiều, cái nọ dựa vào cái kia để tồntại. Vả lại, nghề này thì lấy ông này tiên sư, suy đi nghĩ lại, đãsa chân vào sai lầm thì chỉ có hư vô là thích hợp hơn cả. Sự quyến rũ của chủnghĩa hư vô là ở chỗ nó xu nịnh con người; trong quy chế của nó, người ta đượctiếp tục làm mọi điều người ta ưa thích. Một thứ giao kèo đã được ngấm ngầmthoả thuận, không ai nói ra, nhưng ai cũng nghĩ, thử giao kèo ký với quỷ sứ.Trong bước lầm than của mình, nàng Kiều của Nguyễn Du, lòng còn trong sáng, tâmtrí còn lúc lúc dậy lên những khao khát chiêu tuyết, làm lại cuộc đời. Naynhững người chân sục trong bùn đã đánh mất luôn cả cái tâm thành  thuầnkhiết đó, họ trượt dài trên con đường đã chọn, không hối hận, không ngại ngần.Cho hay, đến ngày giải phóng, khi một cây bút chống cộng than tiếc - "giờđã đến cái quãng sông Tiền Đường của đời mình rồi" -  thì một nhà vănkhác cãi lại ngay:

- Làm sao mà họ có thể tựví với kiếp đời cô Kiều được?

Ma đưa lối quỷ đưa đường, như Nguyễn Du đã miêu tảrất tài tình, cuộc đời con người tài hoa có tên Thuý Kiều là cuộc đời của mộtcon người bất lực, không sao có được cảm giác hiện thực về đời sống, không saotìm ra đường đi của mình. Hoàn cảnh xã hội bấy giờ đen tối mịt mùng chưa chophép con người nhận thức được những vấn đề cơ bản của đời sống. Nay với nhữngngười hoàn toàn có điều kiện hiểu rõ sự thực, đã thật giả phân minh, hư vô đồngnghĩa với từ chối trách nhiệm, theo thói quen  mà tự lừa dối, vì cầu an màbuông trôi, vì "đã chót nhúng chàm" mà càng nhắm mắt chống lại sựthực. Làm sao những người ấy lại có thể tự ví với nàng Kiều được?

Trong tác phẩm, các nhânvật tuyên bố một lối sống trắng trợn công khai, đại khái như Tuý Hồng từng"đơn ca":

Sống đâu phải là tạo dựngnhững kỳ công và gục xuống trên một cái chết không thường ? Sống đâu phải làđặt ra những vấn đề và day dứt và thao thức. Vấn đề duy nhất của cuộc sống,chính là sống vậy.

Và sống? Là cảm thấy thiênthu trong mỗi phút giây. Là cảm thấy thiêng liêng trong từng hành động nhỏ. Nhưăn uống năm ngồi. Như chải đầu soi gương… Sống cuồng nộ bất kham. Sống kíchđộng giãy giụa. Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn theo gió lốc, trườn mìnhtrong sấm sét, hào hển, thở dốc, ngất ngư cảm giác.

Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam làgì, nếu không phải là lời tự thú của một thanh niên trai trẻ dần dần đánh mấtcái phần trong sáng của mình, dấn thân vào tội lỗi? Khoảng cách giữa Dấubinh lửa với các tác phẩm về sau của Phan Nhật Nam (Dọc đường sốmột, Mùa hè đỏ lửa) rất rõ, trước tiên là ở thái độ của nhân vật chính vớicuộc đời. Ở quyển sách đầu, đây đó chúng ta có thể bắt gặp một tâm hồn còn runrảy, còn khao khát. Ở những  quyển sau, chỉ có một thái độ bốc nhập cuộcliều lĩnh và nói lấy được.

Nét đặc biệt của vănchương Sài Gòn trước giải phóng là sách vở rất gần cuộc đời, sống sao viết nấy,viết để thể nghiệm cuộc sống, và thông báo cho mọi người biết về cuộc sống củamình. Phan Nhật Nam là như thế mà những bậc đàn anh, Mai Thảo và Doãn Quốc Sỹ,Nguyễn Mạnh Côn và Chu Tử v.v.. cũng làm như thế.

 Loại nhà văn sốngcông chức hoặc làm nghề giáo trong thời gian đầu dần dần thưa thớt đi, ngàycàng thấy những văn sĩ kiêm áp phe chạy hàng sách và bản thân việc viết lách cũng là áp phe. Đề tài gì cũng viết được, mặt hàng nào cũng biết làm tuầnchay nào cũng có nước mắt. Giày đã bẩn rồi, từ nay chân tha hồ thục trong bùn,nhìn ra mọi người lại cũng lấm lem cả rồi, sức chống đỡ của cá nhân thì mongmanh, mà sức cám dỗ của tội lỗi thì thật ghê gớm. Tấn kịch của những người viếtở Sài Gòn hôm qua cũng là thảm kịch của nhiều người ở những nghề khác, của cảxã hội miền Nam.

 



 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 11, 2025 08:03

June 5, 2025

Nguyễn Ngọc Lanh -- Sử Việt bốn lần nội chiến: Chính nghĩa, phi nghĩa…(2015)

 Nguồn 

https://nghiencuulichsu.com/2015/03/3...

 --

Ngàn năm thân phận  

– Thân phận dân ta thời“ngàn năm Bắc Thuộc” được mô tả là “thê thảm”. Không sai, nhưng điều “hú vía”lớn nhất – nay nghĩ lại – là… suýt bị đồng hóa. Nếu giao thông thuận lợi nhưthời nay, liệu dân này có còn biết Hùng Vương là ai?. Thời xưa, việc đi lại muôntrùng cách trở khiến bộ máy cai trị do “thiên triều” cử sang chỉ đủ phủ tới cấpchâu, huyện, mà rồi vẫn phải dùng cả người bản xứ mới đủ.

Thế là, nước tuy đã mấtnhưng làng vẫn còn; tiếng nói và văn hóa vẫn không mất. Lại nữa, vì không dễthay mới nhân sự, lệ “cha chết, con thay chức” sẽ dẫn tới hệ quả là, chỉ sau ítthế hệ, chính người Hán lại bị đồng hóa và tự gắn số phận mình với xứ sở này.Nhiều người còn trở thành lãnh tụ khởi nghĩa chống ách đô hộ. Nhiều trường hợpchỉ sau một đời đã tự ý Việt-hóa.

– Đến thế kỷ X, bên Tàuđại loạn, nhà Đường mất ngôi, Tĩnh Hải Quân (tên nước ta thuở ấy) trở thành vôchủ. Đây là cơ hội để họ Khúc liên tiếp 3 đời (905-930) nắm được chức Tiết Độ Sứ – chức caonhất trong bộ máy cai trị, xưa nay chỉ dành cho người Hán.

Từ đây, mở ra thời kỳ tự chủ: báo hiệu việc lấy lại giang sơn không còn xa nữa.

Kỷ nguyên độc lập: Vẫnphải đổ máu để giữ gìn lãnh thổ

– Sau chiến thắng Bạch Đằng (938) là kỷ nguyên độc lập. Dẫu vậy, dân ta vẫnnhiều lần tốn máu xương trước họa xâm lăng. Nền độc lập vẫn có lần “ngàn cântreo sợi tóc”. Ví dụ, cuộc chống Nguyên ở thế kỷ XIII. Khi ấy, cương vực nướcta chỉ từ Hoan, Ái (Thanh-Nghệ) trở ra, số dân chỉ 5 triệu, mà 3 lần phải đươngđầu với quân Nguyên, có lần tới 30 vạn hùng binh thiện chiến (từng chinh phụcchâu Âu). Thật khó hình dung tình cảnh khốn nguy của tổ tiên (1285) khi 2 đạoquân phía bắc tiến xuống như “chẻ tre” (sau 20 ngày đã chiếm Thăng Long); cònđạo quân từ Chiêm Thành như ngọn lao thọc vào sau lưng (chỉ 1 tháng đã phá vỡmặt trận Thanh-Nghệ, chiếm Ninh Bình).

Nhưng nội chiến mới thậtlà “núi xương, sông máu”

– Ba lần chống giặcNguyên tuy ác liệt, nhưng chưa lần nào lâu tới 4-5 tháng. Chiến tranh vệ quốckhông có mục tiêu tận diệt quân thù, mà chỉ cần đuổi chúng ra khỏi cõi. Do vậy,ngoại xâm chưa gây thảm cảnh bằng nội chiến, khi hai phe đẩy muôn triệu dân vàonạn “nồi da nấu thịt”, “huynh đệ tương tàn”, kéo dài hàng chục năm. Thế là,những con người vốn không thù oán nhau, lại cùng “máu đỏ, da vàng”, cùng ngônngữ, phong tục… đã tàn sát nhau “một mất, một còn”. Tàn cuộc, phe thắng lênngôi, dù đã giành được quyền viết Sử (gọi phe thua là “giặc”, ‘ngụy”) nhưng vẫntiếp tục truy lùng phe thua, để tận diệt – đưa tới những lần đổi họ lớn mà lịch sử còn ghi lại.

– Sinh lực và của cảiphung phí do nội chiến khó ai tính xuể. Cuộc nội chiến Mạc và Lê-Trịnh liên miên 60 năm, tàn phá, chết chóc vượt cảhọa ngoại xâm. Có lần, chỉ một trận, phe này đã giết phe kia cả vạn người. Dovậy, gây nội chiến quả là tội to. Tội càng to nếu phe nào cầu cứu ngoại bang,để chúng nhân tiện cướp nước ta.

Một ví dụ về phung phísinh mạng.

Sách Chính Biên, quyển XXIX viết về trận tấn công của phe Lê-Trịnh ra ThăngLong (1591):

Giặc Mạc đóng quân ở yên một chỗ không nhúc nhích.Tùng bèn chính mình đốc chiến, tướng sĩ phấn khởi đều thề quyết tâm diệtgiặc để báo thù; ai nấy hăng hái đánh giặc, cả phá đượcđịch. Quan quân thừa thắng ruổi dài, đuổi giặc đến Giang Cao chém đượchơn vạn quắc….

 

Nhận xét: 1) Trong nội chiến, các bên gọi nhau là “giặc”,cần “diệt” để “báo thù”. Hết nội chiến, phe thua còn bị trả thù nhiều thế hệ.Ví dụ, họ Mạc phải đổi thành các họ khác để khỏi bị tận diệt.

2) “Quắc”: là cái taibên trái của “giặc Mạc” bị giết, được quân của “vua Lê” cắt ra, nộp, để“báo công”. Thời ấy, dân số khoảng 10 triệu; chỉ một trận đã thu được vạn“quắc”, tính ra tương đương với giết 90.000 thanh niên thời nay. Chưa kể sốquân phe Lê-Trịnh chết trận (hẳn cũng không ít). Chưa tính số dân tử nạn. Sốthương tích, tàn phế còn nhiều gấp bội. Không ai thèm biết số phận biết bao phụnữ góa bụa và biết bao con gái không còn cơ hội lấy chồng. 

Không chỉ 4 lần nộichiến. Mà hơn thế

– Nhỏ như nước ta, màtrải tới 4 cuộc nội chiến, quả là bất hạnh. Nhưng đó mới là những lần nội chiếnlớn, hàng triệu người dân bị lôi cuốn vào cuộc tàn sát nhau, kéo dài hàng chụcnăm. Còn phải kể vài chục cuộc nội chiến nhỏ, hoặc “không nhỏ” nữa. Có cuộc chỉvài tháng, có cuộc tới 5 năm. Ví dụ, cuộc “làm loạn” của Trần Cảo. Trong 5 năm, nhiều đại tướng của triều đình bị thua, bị giết.Nhiều lần kinh thành bị uy hiếp, có lần đành chịu mất Thăng Long. Trần Cảo lập triềuđình, xưng vua… cuối đời còn “truyền ngôi”… Như vậy, đây là cuộc nội chiến“không nhỏ”. Sự kiện xảy ra đã 500 năm, trong đó suốt 450 năm (tức 9/10 thờigian), sách thời xưa viết Trần Cảo là “giặc”; còn 1/10 thời gian (gầnđây), sách thời nay lại viết: Ông là tướng “khởi nghĩa”. Chính nghĩa-phinghĩa đã hoán đổi theo thời gian?

 Chính nghĩa vàphi nghĩa trong nội chiến

– Trong chiến tranh giữnước, dễ thấy đâu là cướp nước, bán nước, yêu nước; đâu là chính nghĩa, phinghĩa. Còn trong nội chiến, sự phân định không dễ – không những do quan điểmthay đổi (ví dụ, trường hợp Trần Cảo khời nghĩa), mà ngay cả khi nhìn sự kiện dưới cùng một quan điểm.Ví dụ, cuộc nổi dậy của các vị Đinh Điền, Nguyễn BặcPhạm Hạp chống sự tư thông và lộng quyền của quan Thập đạo Lê Hoàn lăm le cướp ngôi ấu chúa. Hậu thế còn thảo luậnLê Hoàn có “cướp ngôi” hay không, chứ 3 vị trên có lẽ đã nhìn quá rõ, với conmắt của người trực tiếp quan sát.

– Tuy nhiên, trong hầuhết trường hợp, mỗi phe trong nội chiến chỉ vì quyền lợi riêng. Nhưng để lôikéo giới tinh hoa và đông đảo quần chúng – nhất là để thanh minh với Lịch Sử –phe nào cũng tự nhận mình chính nghĩa và gọi phe kia là “giặc” và “ngụy”, nhấtlà sau khi giành chiến thắng (và giành cả quyền viết Sử). Không lạ, sử sáchtriều Lê gọi triều Mạc là “ngụy”, triều Nguyễn cũng gọi Tây Sơn như vậy. NếuTây Sơn thắng (và giành quyền viết Sử). Triều Nguyễn chẳng muốn ai cướp ngôi,nên cũng tán thành với quan điểm sử thời Lê (coi Mạc là giặc).

Khái niệm “yêu nước”trong nội chiến

Gây nội chiến, khiến“huynh đệ tương tàn” là tội lớn với dân tộc. Bởi vậy, cả 2 phe đều tìm mọi cáchchứng minh phe kia gây chiến, phe mình tự vệ. Nếu không chối được (ví dụ họTrịnh từ Đàng Ngoài chủ động đem đại quân vượt ngàn dặm đánh Đàng Trong), thìphải chống chế là làm theo “lệnh vua”. Có lần, chúa Trịnh đích thân cầm quân,nhưng đem cả vua Lê (bù nhìn) theo, để có chiêu bài chính nghĩa. Khi Đàng Trongđủ mạnh, có lần tấn công lớn ra Nghệ An, thì danh nghĩa là “cứu vua” khỏi sự ápchế của họ Trịnh. Điều lạ, là mỗi bên đều nói đúng sự thật; nhưng phe nào “yêunước” thì thật khó nói. Nho giáo coi “trung với vua” đồng nghĩa với “yêu nước”(trung quân = yêu nước”. Nhưng “trung” với vua bù nhìn, thậm chí “vua bán nước”(Lê Chiêu Thống) có là yêu nước?

 Phải dựng vuađể được tiếng “chính thống”

Nho giáo vào nước ta từthời Lý, cực thịnh ở thời Lê. Đạo Nho coi vua và Trời cùng huyết thống (vua làcon Trời, thay Trời trị dân). Do vậy, chỉ con vua, họ vua mới đủ tư cách nốingôi (cha truyền, con nối). Vua cũng là biểu tượng của Nước. Do vậy, trung vớivua chính là yêu nước (!). Khi giặc vào cõi, việc đầu tiên là không để giặc bắtmất vua. Cướp ngôi là chống Trời, cũng chính là phản quốc.

– Khi nhà Trần đã “thốinát” cùng cực, nhà Hồ thay thế (1400), tưởng là phù hợp quy luật – như sử sáchthời nay nhận định. Nhưng quan niệm nay chỉ xuất hiện rất muộn, đem áp đặt chothời xưa. Cách nay 600 năm mọi người không nghĩ thế. Hồ Quý Ly vẫn bị coi làcướp ngôi. Do vậy, nhà Minh chỉ cần nêu chiêu bài “phục Trần, diệt Hồ”, là đủđể Hồ Quý Ly bị cô lập. Giặc Minh chiếm nước ta dễ dàng.

– Lê Lợi khởi nghĩachống Minh, dù rất chính nghĩa; nhưng khi cần vẫn phải kiếm một vị tôn thất nhàTrần, dựng thành “vua”, để có nhãn hiệu chính thống. Quả nhiên, khi“vua” hết vai trò thì lập tức bị “phế” – kể cả giết bỏ.

– Mạc Đăng Dung muốnchiếm ngôi nhà Lê, trước hết cũng dựng vua (bù nhìn); rồi ép vị vua này viết “chiếu nhường ngôi” – để bố cáokhắp thiên hạ (1527), sau đó giết vua. Phe đối lập (chống Mạc) cũng làm y hệt;kể cả đoạn kết (giết bỏ vua).

Tóm lại, trong nội chiến“chính thống” là chiêu bài; mục đích riêng mới là số một. 

 Ý thức hệ trongnội chiến

– Phong kiến châu Á lấyNho Giáo (đạo Nho) làm ý thức hệ. Dù cùng ý thức hệ, hai phe trong nội chiếnvẫn tận diệt nhau. Bên ngoài, hai phe đều vận dụng lý thuyết đạo này để tự bênhvực hoặc lên án phe kia. Bên trong, mỗi phe đều coi lợi ích riêng là tối thượng.Đó là trong phạm vi một nước. Nhưng giữa vua ta với vua Tàu cũng không khác..

 – Hoàng đế TrungHoa dựa vào sức mạnh coi thiên hạ (gồm An Nam) là riêng của “trẫm”. Như vậy, AnNam quốc vương – cùng ý thức hệ – phải tự coi là bề tôi của Hoàng Đế, đượcHoàng Đế cho làm An Nam Quốc Vương bằng một đạo sắc phong. Tất nhiên, vua taphải thể hiện lòng trung thành (ví dụ, nạp cống đúng kỳ). Nếu vua An Nam giữđúng thân phận, sẽ có hai cái lợi: 1) Yên ổn làm vua nước nhỏ; không bị thiêntriều can thiệp; 2) Được coi là chính danh, chính thống, vì có sắc phong. Nếucó ai cướp ngôi, hoàng đế sẽ cứu… Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy: Vua Lê ChiêuThống dù quá đủ phận sự bề tôi, nhưng khi hoàng đế nhà Thanh đã công nhận vuamới (Quang Trung) thì vua cũ sẽ thành cỏ rác, lại còn mang tiếng xấu muôn đời.Bài học ngàn xưa: Chớ đặt ý thức hệ trên quyền lợi dân tộc.

– Tấm gương Mạc NgọcLiễn. Sau 45 năm phục vụ triều Mạc, ông làm đến đại tướng, quận công – nghĩa làtuyệt đỉnh. Năm 1594, khi ông sắp mất, cũng là lúc nhà Mạc phải bỏ Thăng Long,lên Cao Bằng cố thủ (nhưng vẫn được nhà Minh ngầm ủng hộ); ông trối trăng lại,trong đó có một ý: “chớ nên mời người Minh vào nước ta… đó là tội không gìnặng bằng. Con cháu ông đã làm đúng như vậy. Té ra, phe“ngụy” cũng có những con người trung nghĩa. Điều này sẽ được bàn khi nói về nộichiến Lê-Mạc.

 

Cướp ngôi khéo léo,tránh được nội chiến, còn được đời sau khen

– Có những cơ sở để nhậnđịnh rằng Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đã cướp ngôi nhà Đinh với sự thông đồngcủa vợ vua (980). Lực lượng trung thành đã chống lại ông, nhưng nhanh chóng bịđàn áp tàn khốc. Ngay năm sau, giặc Tống xâm lược (981) bị ông đánh tan. Nhờchiến công này, hậu thế vẫn ca ngợi ông.

Dẫu sao, vẫn có ý kiến:a) Sử sách đã nói rõ: giặc Tống xâm lược nhân cơ hội vua Đinh bị giết hại.; b)Nếu vua Đinh vẫn ở ngôi, gặp giặc Tống sang, vua vẫn thắng giặc bằng tài thaolược và sự lão luyện của các tướng (từng dẹp loạn 12 sứ quân), trong đó gồm cảLê Hoàn, Đinh Liễn…

– Có cơ sở nghi ngờ LýCông Uẩn đã cướp ngôi nhà Hậu Lê. Chiếu Dời Đô ra đời vì họ Lý tự thấy không thể yên ổn ở Hoa Lư – nơi hậu duệLê còn nhiều, còn mạnh.

Tuy nhiên, lịch sử vẫncông nhận sự nghiệp triều Lý lớn hơn cái tội cướp ngôi (nếu có).

 

Nội chiến do khác nhau ýthức hệ

Chỉ xảy ra ở thời hiệnđại, khi có nhiều chủ thuyết (kể cả chống nhau) cùng xuất hiện, mà hai phetrong một nước lại theo đuổi những chủ thuyết đối kháng nhau. Điều này thấy rõtrong nội chiến Nga (1917-1922) hoặc nội chiến Trung Quốc (1946-1949). Nội chiến do khác biệt ý thức hệbao giờ cũng có sự dính dáng của ngoại bang (tìm kiếm sự giúp đỡ của các cườngquốc); bởi vì, thực chất ý thức hệ đối kháng ở nước nông nghiệp (Nga, Trung,Triều) đều được du nhập từ bên ngoài. Nội chiến Triều Tiên lại càng rõ vai trò ngoại bang. Quân ngoại bang(Mỹ, Trung) “xía vào” cuộc chiến này còn đông đúc hơn cả quân bản xứ. Có ngườibảo chiến tranh ý thức hệ mới thật là tàn bạo. Nhưng đó không phải nội dung củabài này.

 

Chung và riêng

Ở trên, trình bày một sốtính chất chung của các cuộc nội chiến ở nước ta. Tuy nhiên, mỗi cuộc lại cónhững tính chất riêng. Bài học lịch sử sẽ càng cụ thể, thiết thực, nếu làm rõnhững khác biệt của chúng:

– Nội chiến thời 12 sứquân – 20 năm;

– Nội chiến Nam-Bắctriều – 59 năm

– Nội chiến Trịnh-Nguyễn– 160 năm

– Nội chiến NguyễnÁnh-Tây Sơn – 15 năm

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 05, 2025 00:02

May 16, 2025

Thi Vũ Võ Văn Ái - Vì sao Việt Nam không có tác phẩm ngang tầm thế giới ?

 

ThiVũ Võ Văn Ái

 

Vì sao Việt Nam không có tác phẩm
ngang tầm thế giới ?


(Trích bàinói tại Đại học Berkeley ngày 19.12.2021)

 

 

Nguồn: http://www.gio-o.com/GioO10Nam/20ThiV...  

 ...

Cùng thì chiến tranh haynội chiến như Việt Nam, nhưng văn hào Tolstoy đã viết thành tácphẩm Chiến tranh và Hòa bình ngang tầm thế giới. Sáchlà bức tranh vô cùng lớn về nước Nga phong kiến, về cuộc đấu tranhgiành tự do của nhân dân khoảng 25 năm đầu thế kỷ 18, và miêu tả haicuộc chiến, từ cuộc viễn chinh nước ngoài năm 1805-1807 đến cuộcchiến tranh vệ quốc năm 1812.

Còn tình hình văn học,văn nghệ nước ta tiến triển ra sao sau cuộc nổi dậy của toàn dân năm1945 ?

Sau một thời gian ngắnngủi mấy năm của toàn dân tham gia kháng chiến giành độc lập, chúng tacó được những dòng văn thơ lóng lánh hồn người, hồn dân tộc. Xuấthiện như sự chồm tới, làm mới và vượt cao khỏi thời đại Thơ Mới, như Bênkia Sông Đuống của Hoàng Cầm :


( lược bỏ một đoạn trích thơ VTN)

Hoặc Hữu Loan với bàithơ khóc người vợ trẻ trong chiến chinh. Bài thơ bị chính quyền khángchiến cấm phổ biến, nhưng rồi cả nước ai cũng biết, cũng học thuộclòng, được nhiều nhạc sĩ ở Miền Nam phổ thành ca khúc Màutím hoa Sim :

( lược bỏ một đoạn trích thơ VTN)

Cũng Hữu Loan nhưng hơithơ đầy hạo khí, ngát hồn thiên cổ qua bài Đèo Cả :

Đèo Cả ! Đèo Cả !

núi cao ngất

             mây trời AiLao sầu đại dương

             dặm về heohút

Đá bia mù sương

Đặc biệt với Nguyễn ĐìnhThi qua bài Sáng mát trong như sáng năm xưa :

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thuhương cốm mới

Cỏ mòn thơm mãi dấuchân em

Gió thổi mùa thu vàoHànội

Những câu thơ, những bài thơ Nguyễn ĐìnhThi bị đem ra tranh luận tại Hội nghị Tranh luận Văn nghệ ở Việt Bắc(25 – 28.9.1949). Tố Hữu công kích đã đành, mà Xuân Diệu, Thế Lữ,Thanh Tịnh cũng chê thơ Thi. Thế Lữ cảnh báo thơ Nguyễn Đình Thi “nguyhiểm và còn là một cái nguy cơ”. Lưu Trọng Lư đòi “tống cổ rakhỏi nền văn học mới, nền văn học kháng chiến và cách mạng”. Ấy chỉvì trào lưu văn học lúc này, năm 49, đã đi vào đường lối văn học DiênAn của Mao Trạch Đông bên Tàu, nền Văn học trại lính nhằmtuyên truyền vận động giới Công, Nông, Binh.

Từ đó trở về sau văn học Miền Bắc chỉbước hai bước thông qua nền Văn học Tố Khổ rồinền Văn học Chấn thương.

Chưa thấy bước thứ ba.

Cuối tháng 11 vừa qua, Hà Nội tổ chứcHội nghị Văn hóa Toàn quốc lần 3. Báo chí trong nước đồng loạt tụngca “sức lan toả của Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần 1” ngày25.11.1946 dưới quyền chủ toạ của ông Hồ Chí Minh 75 năm trước. Trướcnhững ngợi ca hậu kỳ này, tôi đọc thấy lời bình phẩm của nhà văn,nhà biên khảo Lại Nguyên Ân cho rằng “Mấy chuyên gia viết bàivề vụ này gần đây, dù gì cũng chỉ kế thừa tình trạng “mù thôngtin” suốt 70 năm ! Chả thế mà có những diễn ngôn “chắp cánh” vô lývà vô lối !”.

“- Nói sức lan toả của Hội nghị Văn hoáToàn quốc lần thứ nhất” – Thật sự hội nghị chỉ họp một ngày rồicác đại biểu về lo tản cư rời Hà Nội, cái “lan toả” chỉ là tảncư”.

Riêng tôi, dư vị của Hội nghị Văn hoá lầnthứ nhất ấy cho tôi được biết tên tuổi những nhà trí thức, học giảlừng danh vào buổi bình minh giải phóng dân tộc. Đó là 15 Uỷ viên Vănhoá được bầu ra tại Hội nghị lần thứ nhất nhằm phục vụ văn hoá chodân và nước. Mười lăm vị ấy nay ở đâu, họ đã làm được gì suốt 75 nămqua ?

Ngoại trừ một số vị tiếp tục theo conđường mòn Hồ Chí Minh, còn tám vị đã bị đào thải, truy bức, thảmsát, tù tội một cách phi văn hoá, hay tị nạn văn hoá ra nước ngoàinhư Giáo sư Hoàng Xuân Hãn :

-         NguyễnMạnh Tường

-         KháiHưng

-         NguyễnHữu Đang

-         HồHữu Tường

-         HoàngXuân Hãn

-         ĐàoDuy Anh

-         NguyễnThiệu Lâu

-         TrươngTửu.

Nói theo sự đánh giá của Nhà Biên khảoLại Nguyên Ân, thì “từ Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần thứ 2ở Đào Giã năm 1948, văn hoá thành tên hề đồng lóc cóc chạy theo Tuyêngiáo của Đảng làm thứ Văn hoá minh hoạ. Đổi mới “cởi trói” đượcvài năm rồi “trói lại”.

Văn học, văn  nghệ làm con ngựa thồcho Đảng. Văn  nghệ sĩ mồ côi ý tưởng. Sáng tác trở lại cáigọi là “thuật nhi bất tác”. Chỉ kể lại, chỉ tả lại cái Đảng muốnmọi người theo gương. Chẳng còn gì là sáng tạo, sáng tác.

Cái Tôi thời đại quá lớn đã chèn ép, nghiến đènhững cái tôi cá thể hồn nhiên vạm vỡ của tất thảy chúng ta, khiến xã hội hồnxiêu phách lạc.


Tuy nhiên qua các phê phán của Kubin ta nhậnra phần nào sự tương đồng của văn học, văn  nghệ đương đại ViệtNam. Không biết ngoại ngữ và không tiếp cận văn học thế giới vẫn cònlà điểm yếu của một số lớn nhà văn Việt Nam. Qua Facebook, nhà vănVương Trí Nhàn cho biết : “Trong những năm trước 1975, văn họcMỹ hiện đại ít được biết tới ở Hà Nội (…) Trên các trang lý luận,phê bình của báo chí từ nước ngoài bị cấm cửa”. Mãi đếnnăm 1973, nhà văn Vương Trí Nhàn mới đọc được Hemingway ! Trong loạtbài Nhật ký chiến tranh, ông nói lên nỗi ngạc nhiên khi đếnchiến trường Quảng Trị thấy qua các nhà dân “nguỵ”, lính “nguỵ đầysách, từ tiểu thuyết đến lịch sử, triết học, sách đánh giá cân bằngvai trò Gia Long và Quang Trung… Ông bắt gặp các tạp chí Tư Tưởng,Đối Diện nói về Sartre, Machado, Brecht…

Nhiều văn nghệ sĩ hay xuất thân bộ độiđều thán lên về lượng sách phong phú các thể loại mà họ tìm thấyqua các lần tịch thu văn hoá phẩm nguỵ sau 75.

Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhắc lại qua mộtcuộc phỏng vấn : “Tôi được đặc cách chọn sách quý khuân về, cho vàomấy cái tủ sắt cất kỹ. Đi chiếu bóng, hễ cứ rỗi tí nào là đọc sách. Đọc nhiều,đọc liên tục. Đọc mờ cả mắt! Đọc sướng lắm! Đó chính là thời gian tôi đọc đượcnhiều sách nhất, đủ loại, từ văn học cho đến Kinh Thánh… Hồi ấy ở miền Bắc làmgì có!”.

Văn học đã không thể sinh sôi nơi Xã hộiChủ nghĩa, nơi người ta chỉ chú tâm tới chính trị sắc máu, chẳng aiquan tâm con người. Nói tới người, họ chỉ quan tâm con số, sốđông  tập thể. Bỏ quên mọi thân phận cá thể.

Cho nên không thể đẻ ra tác phẩm ngang tầmthế giới !

Vì sao như vậy ?

Vì lãnh đạo văn hoá, văn học Việt Nam chìmđắm trong sự nô lệ tinh thần và vọng ngoại. Hơn 70 năm qua đa số giớilãnh đạo Cộng sản ở Hà Nội chỉ muốn làm người học trò ngoan ngoãn củaMao Trạch Đông. Suy nghĩ, viết lách, hành động, nhất nhất đều theolối Mao viết kiểu Khổng viết nhiều thế kỷ xưa.

Cuộc rèn cán chỉnh quân ởViệt Bắc từ 1949 trở đi là học tập phong trào Chỉnh phong củaMao bên Trung quốc khởi đầu năm 1941, tức đảng phong, học phong, vănphong. Thực tế, chỉnh phong trá hình âm mưu cho Mao dựng vị trí bá chủtrong lĩnh vực tư tưởng. Hậu quả gây chết chóc, thanh toán hàng chụcnghìn trí thức, văn nghệ sĩ người Hoa. Một năm sau Chỉnh phong, xuấthiện văn kiện chủ yếu trong việc lãnh đạo văn hoá, văn học, gây ảnhhưởng sâu đậm biến thành nhược thức Việt Nam. Đó là Bài nóichuyện của Mao tại cuộc Toạ đàm Văn nghệ ở khu chiến Diên An gồmDiễn văn khai mạc Mao đọc hôm 2 tháng 5 năm 1942 và Diễn văn kết luậnđọc hôm 23 tháng 5 năm 1942. Xuống lệnh trỏ ra ba vấn đề chính yếu :

-         Lậptrường, lấy lập trường giai cấp vô sản,

-         Tháiđộ, phân biệt bạn – thù,

-         Đốitượng, lấy Công Nông Binh làm đích cao phục vụ.

Tuy Mao noi gương, ca tụng tiếp thu cuộc vậnđộng văn học và dân chủ Ngũ tứ đầu thế kỷ. Kỳ thực phương hướng vănnghệ đấu tranh Mao đề cao ở Diên An nhằm phục vụ chính trị. Chẳngdính chi tới cuộc vận động Ngũ tứ mang hai mục tiêu rõ rệt :

Ngoại tranh quốcquyền

Nội tranh quốc tặc

 

Dựng lên nền độc tài trong văn học khácchi kẻ chạy đua một mình, dù chân què thọt, cũng sẽ luôn luônvề  nhất.

Dưới cái nhìn của nền văn học, văn nghệDiên An, quần chúng văn nghệ sĩ người Hoa bấy giờ phủ nhận tất cả disản quốc gia và thế giới. Shakespeare bị xem là tên phản động, Balzaclà tên đầy tớ của chủ nghĩa nhân đạo tư sản, Tolstoy là tên địa chủcuồng tín đạo Cơ đốc, Đỗ Phủ là tên vô lại, tranh Tề Bạch Thạch bịxé vứt…

Một năm sau Bài nói chuyện của Mao, năm1943, người học trò An Nam Trường Chinh mô phỏng Mao viết ra Đềcương Văn hoá Việt Nam làm cuộc vận động Tân văn hoáMác xít cho Việt Nam.

Trong Đề cương văn hoá này, Trường Chinhchia văn hoá Việt Nam ra làm hai thời kỳ :

-         “ThờiQuang Trung trở về trước, văn hoá Việt Nam nửa phong kiến, nửa nô lệ;

-         “ThờiQuang Trung trở về sau cho đến Pháp thuộc, là văn hoá phong kiến có xuhướng tiểu tư sản.

Ông Trường Chinh muốn làm chuyện to tát làvăn hoá, tiếc thay sự hiểu biết về văn hoá và lịch sử Việt Nam củaông còn sơ lược, thô thiển. Ông không hiểu rằng chế độ phong kiến chỉtồn tại ở các nước phương Tây. Tại Á châu, Trung quốc, Nhật Bản cóchế độ phong kiến. Việt Nam thì không. Chế độ phong kiến vua chia đất,phong hầu. Người được phong hầu sống bằng thuế dân cư ngụ trên tháiđịa mình. Còn ở Việt Nam không như thế. Việt Nam theo chế độ quậnhuyện do quan cai trị. Đến như thời Vua Hùng cũng chia làm 15 bộ đặtquan cai trị, không có những tiểu quốc chư hầu như dưới chế độ phongkiến các nơi.

Lạ thay, Trường Chinh và một lô chính trị giaViệt Nam không ngớt và không ngừng gào kêu “Chống Phong kiến” suốt bảy chục nămqua. Làm sao chống cái không có ?!

Một trí tuệ kỳ vĩ như cụ Phan Khôi, mộtnhà báo, nhà văn, nhà thơ, dịch giả, học giả, đã từng viết bài phântích Lịch sử nước ta không có chế độ Phong kiến đăngtrên báo Phụ Nữ Tân văn từ năm 1934 ở Saigon – 87 nămtrước !

Đề cương Văn hoá của ông Trường Chinh khôngúp mở gì nữa khi đề cao vai trò độc tôn lãnh đạo văn hoá, tư tưởngcủa người Cộng sản. Ông viết :

“Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phảido Đảng Cộng sản lãnh đạo”

Ông đề ra 3 nguyên tắc vận động văn hoámới : Dân tộc – Đại chúng – Khoa học.

Ông đề cao “Duy vật Biện chứng đánh đổ những sai lầm của triết học Âu Á : Khổng Mạnh, Descartes,Bergson, Kant, Nietzsche. Chống hết  mọi chủ nghĩa cổ điển, chủnghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v…”. Nghĩalà chống hết không nương tay.

Thật là một chủ trương Hư vô !

Với hướng đi và chủ trương như thế, làmsao có sáng tạo, làm sao có tác phẩm. Nói chi tới tác phẩm ngangtầm thế giới.

Từ thế kỷ 18, Nguyễn Du lấy một tiểuphẩm tiểu thuyết hạng xoàng của Trung quốc viết lại thành thơ raTruyện Kiều trở nên đại phẩm ngang tầm thế giới. Nhân dân các giới từnông dân ra thành thị, từ công nhân đến học sinh, sinh viên, trí thức aicũng ngâm nga, làu thuộc, ngưỡng mộ.

Nguyễn Du đâu cần sự chỉ bảo của Bài nóichuyện Diên An của Mao, cũng chẳng cần Đề cương Văn hóa của TrườngChinh. Nguyễn Du một mình một cõi dựng nên tuyệt phẩm lưu danh. Trongkhi hai ông “Thầy đời” Mao và Trương Chinh chẳng làm ra văn hoá, cũng chẳng cótác phẩm gì xứng danh thiên cổ.

 

MỘT LỜI ƯỚC

Ngày Chủ biên Gió O nhờ tôi vẽ tranh bìacho Tuyển tập 20 Năm Gió O Nắn Nét mà qúy vị và các bạn đang cầmtrong tay. Tôi nghĩ ngay đến chữ Gió của O Gió.

Gió là thinh không bay lượn. Gió lang thang,gió di chuyển, lực động thổi tung mọi trạng thái ù lì, mệt mỏi,chán chường. Gió dựng chống chiều cao của trời, chiều rộng của mây.Gió làm lao xao rừng, gợn sóng nghìn mặt sông biển.

Chợt nhớ một truyện ngắn của Bình NguyênLộc tôi đọc thập niên 50 ở Saigon. Nay đã quên cốt truyện. Nhưng nhớtên truyện thu hút lạ : “Nhốt gió”.

Tôi lấy bút lông chấm mực tàu vẽ mộtvòng tròn muôn thưở, đặt chữ Gió vào trong, như gìn giữ một bảo vậtkhó nắm. Vòng tròn viên mãn hình dung mặt trăng. Biểu tượng tínhkhông (Sūnyāta) của nền triết học Bất nhị Ấn.Cũng là con số không (zéro), căn bản của mọi con số.

Khi Gió đứng trên đầu những con số, nóđiều hành gạt bỏ mọi luân hiểm đến từ cái giả hữu thamlam, vô vọng của trần gian.

Dưới mặt trăng chân lý, tôi vẽ khuôn hìnhchữ nhật. Đặt vào đấy một trào lưu báo chí khởi từ đầu thế kỷ XXđòi hỏi tự do xã hội, tự do sáng tác, tự do kiến thức, tự do tưtưởng, tự do dân tộc, đòi hỏi nữ quyền… Qua những tạp chí tiêu biểunhư Sông Hương (1936) của Phan Khôi, Đông Dương tạpchí (1913) của Nguyễn Văn Vĩnh, Phụ nữ Tân văn (1934)của Nguyễn Đức Nhuận, Tiếng Dân (1927) của Huỳnh ThúcKháng, Phong Hoá, Ngày Nay (1932) của Tự lực Văn đoàn,rồi Nhân Văn Giai Phẩm (1956), v.v…

Một trào lưu đã thành phong triều chuyểnđộng, khai phóng, mà ngày nay Gió O thừa kế.

Một vòng tròn với một hình vuông tượnghình cho ngọn nến sinh nhật, thắp bằng ngọn lửa Gió O. Nhưng cũnghình tượng một bình mực tím thưở học trò.

Nay tôi trông chờ các bạn văn nghệ sĩ hộihọp quanh Gió O trong ngày kỷ niệm tuổi xanh 20 tại một khuôn viên đạihọc Berkeley rộng thinh thơ mộng, sẽ chấm bút vào bình mực này, đưasức sáng tạo và sáng tác của các bạn làm nên tác phẩm mới ngangtầm thế giới, đuổi xua thời mê ám điêu linh thổi qua trời xanh ta đámmây đen bão tố suốt bảy mươi sáu năm ròng.

Đuổi xua vào nghĩa địa một nền Văn họcTố Khổ nhưng không Cứu Khổ.

Thi Vũ Võ Văn Ái

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 16, 2025 01:18

May 14, 2025

Trần Văn Thọ -- Một mùa xuân Tự lực Văn đoàn

 

Monday, 5 May 2025MỘT MÙA XUÂN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (Trần Văn Thọ | diendan.org)

 

Nguồn https://www.diendan.org/sang-tac/mot-mua-xuan-tu-luc-van-doan

 

Tại Nhật Bản, theo lịch và theo khí tượng học, mùa xuân kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5, nhưng theo cảm nhận thời tiết thì mùa xuân bắt đầu khi hoa anh đào nở (cuối tháng ba đầu tháng tư ở vùng Tokyo). Khoảng giữa tháng 4 hoa anh đào tàn, nhường chỗ cho hoa đỗ quyên, mẫu đơn, thược dược, hoa đằng, v.v.. Các loại hoa này lần lượt tàn trong tháng 5 và mùa xuân chuyển sang mùa hạ. Như vậy về cảm nhận thì mùa xuân chỉ có độ 2 tháng. Nhưng là người có hai quê hương, mùa xuân của tôi bắt đầu ở Việt Nam (từ Tết Nguyên đán, khoảng đầu tháng 2 dương lịch) và chấm dứt ở Nhật Bản, kéo dài khoảng 4 tháng. Ở Tokyo nhưng vẫn cảm nhận xuân về ở Việt Nam qua các bài báo Tết, qua không khí đón xuân ở quê nhà.

 

Mùa xuân năm nay đối với tôi rất đặc biệt. Hầu hết thì giờ tập trung vào việc nghiên cứu kinh nghiệm các nước Đông Á, khả năng và chính sách tăng trưởng hai con số của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Nhưng còn một chuyện đáng nhớ nữa là ngẫu nhiên trong mấy tháng qua nhiều sự kiện liên quan Tự lực Văn đoàn liên tiếp xuất hiện.

 

Thứ nhất, bài viết “Tìm lại dấu xưa Tự lực Văn đoàn” đăng trên số Tết của báo Hải Dương (và trên Diễn Đàn, ERCT) không ngờ được độc giả đón nhận tích cực. Bài đã được trang mạng vanvn.vn, cơ quan ngôn luận của hội Nhà văn Việt Nam, đăng lại từ báo Hải Dương và suốt nhiều tuần đây là bài được xem nhiều. Được biết bài nầy cũng được chuyển qua mails giữa những người từng đọc Tự lực văn đoàn ở miền Nam trước 1975.

 

Thứ hai, tôi gửi bài viết trên cho nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con trai út của người sáng lập Tự lực Văn đoàn và là tác giả cuốn hồi ký Nhất Linh cha tôi, đề nhờ cho ý kiến về sự chính xác của nội dung bài viết. Rất vui là anh Thiết trả lời ngay và cho biết “tôi đã đọc và rất thích”, “Bài viết công phu và chính xác”. Đặc biệt anh Thiết giúp bổ sung một nội dung quan trọng và giúp sửa một chi tiết cho chính xác hơn. Chi tiết cần sửa là năm 1950 (không phải năm 1949) Nhất Linh từ Hong Kong về nước và tuyên bố trở lại nghề viết văn, không làm chính trị nữa. Nội dung quan trọng anh Thiết giúp bổ sung liên quan số thành viên của Tự lực Văn đoàn. Tổ chức này có 7 hay 8 thành viên? Cho đến nay có hai ý kiến. Trong bài tôi giới thiệu cả hai ý kiến và chưa có câu trả lời dứt khoát. Anh Thiết đã scan và gửi cho tôi tham khảo thủ bút của Nhất Linh trong đó ghi rõ là 7 thành viên. Như vậy Trần Tiêu không phải là thành viên của Tự lực Văn đoàn.

 

Thứ ba, anh Nguyễn Minh Khanh ở Paris, người dịch sang tiếng Pháp nhiều tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, vừa hoàn thành bản dịch Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, dự định cuối tháng 5 này sẽ phát hành. Giữa tháng 4/2025, anh Khanh nhắn tin nói là anh và nhà xuất bản bàn luận nhiều về việc nên chọn đề sách bằng tiếng Pháp như thế nào cho hay và thích hợp. Anh hỏi ý kiến tôi về ý nghĩa của Hồn bướm mơ tiên và chúng tôi đã có cuộc trao đổi thú vị. Cuối cùng anh Khanh đã chọn tên tiếng Pháp là Deux papillons rêvant d’immortalité.

 

Thứ tư, mới hai tuần trước, tôi được tặng cuốn sách nghiên cứu về Khái Hưng mới xuất bản bằng tiếng Nhật và có buổi trò chuyện thú vị với cô Tanaka Aki, tác giả cuốn sách. Cuốn sách nầy nguyên là luận án tiến sĩ của tác giả, bảo vệ tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo hai năm trước. Tanaka Aki còn rất trẻ nhưng có lẽ là một trong những người nước ngoài nghiên cứu sâu về Tự lực Văn đoàn. Sau khi học xong cao đẳng (đại học đoản kỳ) tại Nhật, Aki muốn sang thăm một nước Đông Nam Á trong vài năm để mở rộng tầm nhìn trước khi tìm việc làm và đã chọn Việt Nam. Trong lúc học tiếng Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu thập niên 2000, tình cờ quen với một nhà thơ ở gần chỗ trọ. Nhà thơ khuyên là để học tiếng Việt với sự thích thú và có hiệu quả nên đọc Tự lực Văn đoàn và đã tặng cô cuốn Hồn bướm mơ tiên. Aki cho biết là đã cảm động nhiều lần khi đọc Hồn bướm mơ tiên và từ đó tìm đọc các tác phẩm khác của Tự lực Văn đoàn. Sau đó Aki trở về Nhật quyết định đi học trở lại và nghiên cứu về văn học Việt Nam. Sống ở Việt Nam 13 năm, thu tập tư liệu và gặp rất nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, sang Mỹ tìm gặp và phỏng vấn hầu hết con cháu của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam và người con nuôi của Khái Hưng. Cuốn sách vừa xuất bản dày 480 trang trong đó hơn 30 trang là danh mục tác phẩm của Khái Hưng và tư liệu tham khảo. Đặc biệt nghiên cứu này xoay quanh giai đoạn sau trong quá trình sáng tác của Khái Hưng để tìm hiểu tư tưởng của Khái Hưng về quan điểm đối với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa dân tộc qua các tác phẩm và các bài viết trên báo trong giai đoạn từ 1938 đến 1946.

 

Đúng là tôi vừa có một mùa xuân Tự lực Văn đoàn./.

 

T.V.T.

Tokyo, cuối Xuân 2025.

 

Nguồn: Tác giả gửi cho Diễn Đàn.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 14, 2025 08:12

April 13, 2025

“Ngôn Từ Của Jean-Paul Sartre- Lời Giã Từ Văn Học Thấm Đẫm Chất Văn Chương"

 



( Dương Thắng điểm cuốn Ngôn Từ của Jean-Paul Sartre)

***

Liên tiếp trong hai số tháng 10 và tháng 11 năm 1963, tờ ThờiĐại Mới (Les Temps Modernes) đã đăng tải hai phần cuốn tự truyện có nhan đềNgôn Từ (Les Mots) của Jean-Paul Sartre. Tác phẩm mới này ngay lập tức đượcđông đảo người đọc đón nhận nồng nhiệt và góp phần quan trọng thúc đẩy Viện Hànlâm Thuỵ Điển trao giải Nobel cho Sartre (mà ông đã từ chối). Ngôn từ trình bàymột khối lượng đồ sộ những suy ngẫm cũng như những lời giải thích rõ ràng củaSartre liên quan đến tác phẩm của chính ông. Giống như việc phát hiện ra cácbản thảo của Proust có nghĩa là một số nhận định về Proust sẽ phải thay đổi, việcxuất hiện của Ngôn Từ có nghĩa là một số nhận định về Sartre không còn có thểđứng vững được nữa, hay đúng hơn là không nhà phê bình nào có thể nói gì thêmvề Sartre mà không nghĩ đến chuyện đọc Ngôn Từ và giải quyết những vấn đề rấtnghiêm trọng trong việc diễn giải văn bản của Sartre mà cuốn sách này đã đưara.

 

Từ quan điểm văn học, Ngôn Từ có lẽ là một trong những tác phẩmhay nhất mà Sartre đã viết.

 

Ngay cả độc giả bình thường cũng không khỏi bị ấn tượng bởi sựchặt chẽ và chính xác của văn bản trong Ngôn Từ, bởi sự thoải mái và thuần thụckhi Sartre đối chiếu sắp xếp tư liệu và tạo dựng dòng chảy ký ức của mình. Córất ít biệt ngữ và lối hành văn nặng nề làm biến dạng tác phẩm giống như trong"Tồn Tại Và Hư Vô" (L'Être et Le Néant) thay vào đó, cách sử dụngnghịch lý và phản đề rất ấn tượng trong Ngôn Từ gợi nhớ lại phong cách luậnchiến xuất sắc ban đầu của "Văn Học Là Gì?", cái phong cách một lầnnữa nhắc nhở chúng ta rằng Sartre, thay vì phải dùng dùi cui truy sát các đốithủ của mình, thường chọn cách loại bỏ họ một cách sạch sẽ, nhẹ nhàng và hiệuquả hơn nhiều với một thanh liễu kiếm.

Từ góc nhìn tâm lý học, Ngôn Từ mang đến một cuộc hoan lạc thựcsự cho những “thám tử văn chương” thích tìm hiểu về nguồn gốc của những nghi ánvăn chương, một mỏ vàng cho những người sành sỏi về những phức cảm giấu ngầmtrong tâm trí và tồn tại dai dẳng, đặc biệt khi chúng có thể liên quan đến biểutượng người cha hoặc một số hình ảnh tình dục rắm rối. Ngôn Từ cũng là mảnh đấtđầy hứa hẹn dành cho những người không yêu thích gì hơn là việc mổ xẻ tâm lýnhà văn mà họ đang quan tâm và đây cũng sẽ là một cơ hội tuyệt vời cho phép họxem tác phẩm này một tập hợp những khung cảnh tự bộc lộ bản thân cùng với nhữngmối bận tâm chủ quanvà trở thành nơi để hiện ra rõ nét một nhân cách mà từtrước đến nay trong con mắt độc giả, luôn biến ảo vô cùng phức tạp. Với họ,Ngôn Từ đã mang đến một lý do tuyệt vời để vui mừng.

Từ quan điểm trí tuệ, Les Mots trình bày một tập hợp các quanniệm, một loạt các diễn giải, phán xét “hồi tố” của Sartre về sự nghiệp và côngviệc của chính ông. Trên phương diện này, Ngôn từ sẽ tạo ra những hoang mangđặc biệt nghiêm trọng đối với những dạng nhà phê bình muốn nhìn nhận các vănbản như một đối tượng trí tuệ độc lập cần phải được lĩnh hội và đánh giá theocác tiêu chí và phương pháp phù hợp: tính mạch lạc, sự tương ứng với thực tế,sự phù hợp của thuật ngữ với khái niệm được xác định bởi quy trình phân tích,đối chiếu văn bản, phân tích cấu trúc ngôn ngữ… Một nhà phê bình như vậy khinghiên cứu Ngôn Từ sẽ vấp phải những rào cản đối với cách tiếp cận ưa thích củaanh ta. Dù nỗ lực đến mấy, nhà phê bình vẫn phải thoát ra đi ra ngoài văn bảnvà xem xét nó từ những góc độ khác nhau để tìm ra những ý định chủ quan ẩn nấpđằng sau đối tượng trí tuệ mà anh ta đang nghiên cứu.

Trong Ngôn Từ, Sartre đã tiến hành phân tích mổ xẻ thời thơ ấucủa mình để khám phá cách thức và lý do tại sao ông trở thành nhà văn. Bắt đầubằng một tường thuật mang tính phả hệ về nguồn gốc bên nội và bên ngoại, nộidung chủ yếu trong Ngôn Từ vẫn dành để nói về thời thơ ấu của Sartre, quãngthời gian Sartre từ 7 đến 11 tuổi (1912-1915). Cha của Sartre đã chết trước khiSartre được sinh ra và theo nhìn nhận của Sartre cái chết này giống một cuộcchạy trốn hay một sự lừa dối đối với ông. Cậu bé Sartre được nuôi dưỡng chủ yếubởi mẹ, bà ngoại và ông ngoại của ông. Ông ngoại ông-Charles Schweitzer, ngườicó ảnh hưởng tâm lý quyết định trong cuộc đời Sartre, là một người gốc Alsacevà là giáo sư ngôn ngữ điều hành một trường tư ở Paris. Sartre khi ấy là đứatrẻ duy nhất trong nhà, cô đơn, ngoan ngoãn và có phần được nuông chiều. Cậusớm chìm đắm vào thế giới sách ở trong thư viện của ông ngoại, nơi cậu làm quenvới những tác phẩm hàng đầu của văn học Pháp như Flaubert, Hugo và Corneille. Mẹcậu, lo lắng về cách trưởng thành trí tuệ như vậy, đã tìm cách thu hút sự chú ýcủa cậu đến mảng văn học thiếu nhi mà bà tin rằng phù hợp hơn với lứa tuổi củacậu. Sartre đọc ngấu nghiến tạp chí phiêu lưu thiếu nhi Cri-Cri, bộ sách sáchphiêu lưu của J. Michel Strogoff và Jules Verne là một trong những tác giả màSartre cho là đã gây ấn tượng mạnh với ông-những câu chuyện ngông cuồng của nhàvăn Michel Zévaco (1860-1918) cũng thường xuyên được Sartre nhắc tới- Sartre vàmẹ mình cũng là những người say mê điện ảnh. Những cảm hứng cậu thu nhận từ rạpchiếu phim mạnh mẽ tới mức khi về nhà cậu thường chìm đắm vào những câu chuyệncâu tưởng tượng khi ngồi nghe mẹ cậu chơi đàn piano, một hoạt động đượcSartređặt tên là "faire du cinéma" (“làm phim”) và ông coi đó là hình thứcsáng tác sớm nhất ông đã thực hiện trong cuộc đời mình.

Bị từ chối cho phép tiếp xúc với những đứa trẻ khác và với thếgiới bên ngoài, dưới sự dẫn dắt của ông ngoại và những người thân trong giađình, Sartre đã thay thế mọi tiếp xúc “đời thường” bằng sách và chìm đắm ngàycàng sâu vào trong thế giới của sách. Do đó, hồi ức về một thời thơ ấu gắn vớisách vở này về thực chất chính là một cuộc điều tra để dẫn tới phiên tòa xét xử“nhà văn Sartre” của Jean-Paul Sartre, cái niềm tin đặt nhầm chỗ của đứa trẻnày là nguyên nhân dẫn đến chứng hoang tưởng của cả một cuộc đời chỉ dành đểcống hiến cho trí tưởng tượng; trong phiên tòa này, bản cáo trạng đưa ra đãmang đậm chất Sartre nhất mà người ta có thể hình dung: Sartre, người tự truytố, tự kết án mình vì sự không trung thực, và hành động viết ra sự không trungthực này lại thu hút toàn bộ trái tim và tâm hồn của ông. Do đó, việc quay trởlại nguồn gốc xuất phát của "nghề nghiệp" của mình đã khiến Sartrecoi sự không trung thực là tội lỗi khởi thuỷ khi nỗ lực lao động trên những vănbản. Nhưng sự lên án dưới hình thức thú tội này cũng mang giá trị giải thoát,thanh tẩy và thậm chí có thể dùng để xá tội: Sartre đã tự tách ra khỏi chínhmình xa đến đến mức ông có thể tuyên bố việc thanh toán chứng hoang tưởng củamình đã hoàn thành, nghĩa là không gì khác hơn là việc giải huyền thoại về sựhấp dẫn của văn bản, thủ phạm đã bị đã bị “vạch mặt chỉ tên” trong sự thật cuốicùng được công bố: cuộc tìm kiếm tuyệt vọng về một sự bất tử, một khát vọngđáng trách mong mỏi trở thành một tượng đài dành cho hậu thế...

Những định kiến sai lầm đi kèm với những hoang tưởng trên hànhtrình trở thành một nhà văn mà Sartre lên án mạnh mẽ trong Ngôn Từ là gì? Đó là: 1/ Đó là một loại chủ nghĩa duy tâm về ngôn ngữ, coi rằng từ ngữ có trước sựvật, là tinh hoa của sự vật, và cái sai lầm khi nghĩ rằng mình đã sở hữu sự vậtmột khi đã đặt tên được cho nó 2/ đánh đồng tôn giáo với văn học, xem nhà vănnhư một linh mục hay người hành lễ, đi vào văn học như đi vào thánh chức, xemrằng những cống hiến cho văn học như là một sự hy sinh, hiến tế 3/ Nhầm lẫn vềtính bất tử của văn học, chấp nhận và đánh đổi số phận nghèo hèn tủi nhục củamột nhà văn vô danh lúc còn sống để đổi lấy sự thừa nhận và tôn vinh của hậuthế sau khi chết, một thứ quan niệm theo kiểu “ tương lai sẽ nhất định soi sángvà mang lại ý nghĩa cho quá khi thay vì để quá khứ xác định hình thức của tươnglai”.

Tuy nhiên, một nghịch lý, như chúng ta nhìn thấy rõ ràng, lạitái hiện trong cái kết quả bất ngờ này: để loại bỏ chứng hoang tưởng, việc viếtsẽ phải được tiếp tục thay vì kết thúc: "Tôi đã đầu tư nhưng tôi khôngngừng hoạt động: Tôi vẫn viết. Liệu còn có cách nào khác ? Đó là thói quen củatôi và sau đó là công việc của tôi. Trong một thời gian dài, tôi cầm bút thaygươm: bây giờ tôi biết sự bất lực của mình. Không thành vấn đề: tôi làm, tôi sẽlàm sách; nó là cần thiết; nó đều hữu ích như nhau ”. Sartre đã vẽ ra cho chúngta thấy hình ảnh một nhà văn bị kết án để xem chính mình đang cố gắng viếtnhững tác phẩm “để đời” mà luôn không tin vào nó. Hình phạt mà Sartre tự kết ánkhông khỏi gây ngạc nhiên cho chúng ta : một bản án đầy nghịch lý đối với mộtngười bị tuyên có tội vì đã trốn tránh tình cờ thông qua văn học.

Cái nghịch lý hiển nhiên này (tạm biệt văn học bằng cách viếtNgôn Từ- một cuốn sách đậm chất "văn học" nhất; phủ nhận việc viết vàđồng thời thừa nhận rằng còn lâu mới chấm dứt nó, thậm chí còn tuyên bố sẽ theođuổi việc viết lách bất chấp mọi khó khăn) có lẽ là con đường tốt nhất để hướngtới một nghịch lý sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn : Cả đời mình Sartre đã dành đểnói lời vĩnh biệt với văn học và rằng lời vĩnh biệt không thể thực hiện đượcnày lại chính là động lực thực sự thúc đẩy mọi sáng tác của ông. Sartre khôngchờ đợi cho tới khi sáng tác Ngôn Từ để đặt câu hỏi phê phán, thậm chí là phủnhận các văn bản, trong thực tế, ngay từ đầu sự cám dỗ để nói lời tạm biệt vớivăn học sẽ đã tạo thành điều kiện khả thi thực sự cho việc viết lách của ông.Nhưng Ngôn Từ là chính là nỗ lực cuối cùng để ông trả lời cho câu hỏi đầy ámảnh: tại sao chúng ta lại trở thành nhà văn? Và khát vọng lớn nhất, giấc mơmãnh liệt nhất của Sartre đã được thể hiện rõ nét trong Ngôn Từ ở dạng kỳ ảogiống như một giấc mơ: viết mà không cần viết, biến những điều không thể viếtthành “đối tượng viết” để làm cho nó có thể viết được.

Hai dịch giả của Ngôn Từ : TS văn học Lê Ngọc Mai và nhà vănThuận đã nỗ lực vượt qua những thách thức rất lớn trong công việc chuyển ngữ vàhọ đã rất thành công khi trao cho những người đọc một bản dịch tiếng Việt tuyệtvời, chuyển tải được đầy đủ những vẻ đẹp tinh tế trong bản gốc tiếng Pháp củaSartre, một vẻ đẹp bác học ( beauté savant) trên những trang viết thấm đẫm chấttrí tuệ, đa tầng ý nghĩa và động chạm tới rất nhiều lĩnh vực kiến thức phongphú đa dạng của nhân loại.

( Bài đã đăng trên báo KH&PT)

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 13, 2025 00:34

April 6, 2025

Nguyễn Huy Thiệp trong mắt các đồng nghiệp ở nước ngoài

 

I/Nguyễn Huy Thiệp ở Pháp

Dưới đây là bài của nhà phê bìnhThụy Khuê. Bài viết vốn có tên là “Có cảm tưởng trong nước không hiểu đúng tầmvóc của Nguyễn Huy Thiệp”

Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/co-cam-tuong-trong-nuoc-khong-hieu-dung-tam-voc-cua-nguyen-huy-thiep-42746.html

Kể chuyện người Pháp đánh giá caoNguyễn Huy Thiệp thế nào cũng như phân tích giá trị văn chương, cái biệt tàicủa Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Thụy Khuê bày tỏ “có cảm tưởng trong nướckhông hiểu Nguyễn Huy Thiệp với đúng tầm vóc của ông”.

Nhànghiên cứu, phê bình Thụy Khuê, một người bạn rất thân thiết với Nguyễn HuyThiệp và có công lớn giới thiệu Nguyễn Huy Thiệp ra quốc tế, đặc biệt là ởPháp, vừa có buổi trò chuyện về Nguyễn Huy Thiệp sáng 25.2 tại chính Không gianNguyễn Huy Thiệp được nâng cấp từ ngôi nhà xưa của cố nhà văn ở Hà Nội. Khônggian đang dần được hai con trai của cố nhà văn hoàn thiện.

Lầnvề nước này, ở tuổi 80, bà Thụy Khuê trao tặng gia đình nhiều tư liệu quý vềNguyễn Huy Thiệp mà bà lưu trữ rất cẩn thận trong 30 năm tình bạn giữa nhà văntài năng và nhà phê bình tinh tường.

NgườiPháp đánh giá cao Nguyễn Huy Thiệp

NguyễnHuy Thiệp được dịch ở Pháp nhiều nhất. Tuyển tập 45 truyện ngắn đặc sắc nhấtcủa Nguyễn Huy Thiệp đã được dịch trong tuyển tập tại Pháp. Ông cũng là nhà vănViệt Nam duy nhất được phát hành sách bỏ túi ở Pháp. Có nghĩa sách của ông cónhiều bạn đọc, tên tuổi của ông phổ biến ở Pháp.

NguyễnHuy Thiệp đã thả hai “quả bom” ở Pháp. Lần thứ nhất là năm 1990, khi Tướngvề hưu được dịch và phát hành ở Pháp.

Lầnthứ hai là năm 2005, khi tiểu thuyết Tuổi 20 yêu dấu được dịch và xuấtbản tại Pháp. Trái với dư luận trong nước nhiều người không thích tiểu thuyếtcủa Nguyễn Huy Thiệp và cho ông không thành công ở thể loại tiểu thuyết. Nhưngkhi ông chuyển hướng sang viết tiểu thuyết thì người Pháp vẫn tiếp đón nhận ôngnồng nhiệt không kém khi Tướng về hưu ra mắt ở đất nước này. Nhà xuấtbản Aube đã không ngừng hoàn chỉnh, tái bản cuốn tiểu thuyết.

ỞPháp không chỉ dịch và xuất bản văn của Nguyễn Huy Thiệp mà họ còn chiếu phimchuyển thể từ truyện ngắn của ông (Những người thợ xẻ của đạo diễnVương Đức), dựng kịch…

Mỗilần Nguyễn Huy Thiệp sang Pháp thì nhiều tờ báo phỏng vấn viết về ông, từ nhữngbáo lớn nhất như Le monde, Libération, le Nouvel Observateur đến những báo ítnổi tiếng hơn. Nhà báo kỳ cựu Jean Lacouture, một tên tuổi lớn ở Pháp, đã từngnhiều lần phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng, cũng tìm phỏng vấnNguyễn Huy Thiệp. Giống như trong viết văn, khi trả lời báo chí Nguyễn HuyThiệp rất thông minh và thâm thúy, nói đa nghĩa khiến nhiều khi người dịchkhông biết phải dịch thế nào mới truyền tải được hết nghĩa.

KhiNguyễn Huy Thiệp sang Pháp thường ở nhà bà Thụy Khuê nên bà có dịp chứng kiếnnhiều nhà văn Pháp tìm đến gặp, trò chuyện với Nguyễn Huy Thiệp, trong đó có cảnhà văn được giải Goncourt. Những cuộc trò chuyện cho thấy họ kính trọng NguyễnHuy Thiệp như một nhà văn lớn của nhân loại.

Nhữngtác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp được in dạng sách bỏ túi ở Pháp.

***

“Chúng tacòn đang nợ Nguyễn Huy Thiệp”

Nhàphê bình Thụy Khuê cũng thử lý giải tại sao người Pháp quý trọng Nguyễn HuyThiệp như vậy. Theo bà, lý do là vì họ trọng giá trị văn học của Nguyễn HuyThiệp. Giá trị ấy nằm ở chữ của ông. Chữ ấy được thể hiện qua đối thoại trongtruyện của Nguyễn Huy Thiệp. Có thể coi ông là kịch tác gia vì thế.

Ngườita yêu Nguyễn Huy Thiệp còn bởi xã hội mà ông đưa ra trong các tác phẩm vănchương rất tàn nhẫn nhưng nó lại cũng rất nhân đạo. Kịch Quỷ ở với ngườiphóng tác từ truyện ngắn Không có vua khi được dịch sang tiếng Phápthì đài phát thanh văn hóa của Pháp đã dựng kịch, rất hay. Bà Thụy Khuê nghecũng giật mình.

Độcgiả quốc tế nói chung và độc giả Pháp nói riêng thích Nguyễn Huy Thiệp bởi vănchương của ông có tính nhân loại. “Nguyễn Huy Thiệp viết về xã hội Việt Namthời ông sống một cách rất sâu sắc, nhưng nó cũng là bi kịch của con người nóichung. Dân tộc nào đọc mà hiểu được thì cũng thấy truyện của Nguyễn Huy Thiệpghê gớm quá… Mỗi chỗ ông châm ngòi bút vào đều đau, đều ghê gớm, đều đáng chomình đọc. Với một số chữ cực tiểu ông làm được một điều cực đại”, bà Thụy Khuênói.

Bàcho biết đã đọc khá nhiều nhưng chưa từng thấy tác giả nào có thể mô tả sự tannát của một gia đình, sự tan nát của một xã hội lại sâu sắc mà chỉ bằng một sốchữ ngắn ngủi như Nguyễn Huy Thiệp. Mỗi nhân vật trong Không có vua làmột vũ trụ riêng nhưng ông có thể tóm gọn nhiều vũ trụ ấy chỉ trong ít tranggiấy.

Khẳngđịnh giá trị văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, bà Thụy Khuê bày tỏ suy nghĩ bà“có cảm tưởng trong nước không hiểu Nguyễn Huy Thiệp với đúng tầm vóc của ông”.

Nhàphê bình Văn Giá cũng đồng tình điều này. Ông bảo, bằng chuyên môn của mình,ông hoàn toàn tin tưởng Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn lớn của đất nước. Vănchương của ông có khả năng đục thủng các biên giới địa lý và văn hóa để đi raquốc tế. Không phải vô cớ mà Pháp dịch Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều. Còn trongnước dường như chưa đánh giá đúng tầm vóc của ông. “Chúng ta còn đang nợ NguyễnHuy Thiệp”, ông Giá nói.

***

NguyễnHuy Thiệp không phải là nhà văn phản kháng

BàThụy Khuê cho biết việc dịch Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh hạn chế hơn nhữngbản dịch tiếng Pháp. Bà kể có lần Nguyễn Huy Thiệp đã trò chuyện với bà bày tỏông không hài lòng với các bản dịch tiếng Anh các tác phẩm của ông. Vì dịch giảđã trình bày Nguyễn Huy Thiệp như một nhà văn phản kháng nhưng Nguyễn Huy Thiệpmuốn được coi mình chỉ là nhà văn đúng nghĩa chung của từ này.

“CoiNguyễn Huy Thiệp là nhà văn phản kháng là quây tròn ông lại trong một vòng rấtnhỏ bé trong khi địa bàn tư tưởng của ông ấy rộng lớn hơn nhiều… Dương ThuHương nổi tiếng là một nhà văn phản kháng còn Nguyễn Huy Thiệp khác, đọc ôngkhó và dịch ông còn khó hơn. Bởi văn Nguyễn Huy Thiệp, tả một cách nôm na làthứ văn ghềnh thác, khúc khuỷu, luôn có những ẩn dụ giấu bên trong”, nhà phêbình Thụy Khuê nói.

 

II/ Một cuộc gặp mặt ở Hà Nội


Bài của Nguyễn Tường Thiết. 

Nguồn: Steodonspr2481583l9gc1á hg 66umn7t0u91047t0t2a,00 tu67a9g711 


Tôi quen biết nhà văn Nguyễn Huy Thiệp do duyên văn nghệ. Vàonhững năm cuối của thế kỷ trước, tôi đọc nhiều truyện của anh và tôi rất thích.Theo tôi, anh là nhà văn xuất sắc nhất của Việt Nam trong thời kỳ “đổi mới”.

---

"VĂN CHƯƠNG NÓ BẠC LẮM!"

Vì vậy, năm 2006 khi tôi xuất bản ở Hoa Kỳ cuốn sách Nhất Linh -Cha Tôi vào dịp 100 năm ngày sinh của ông Cụ tôi (25.7.2006), tôi mang một sốsách về Hà Nội với chủ đích tìm gặp anh để tặng sách.

Trong lần về nước này, không những tôi được gặp anh Thiệp mà tôicòn có dịp tiếp xúc với những nhà văn khác cùng một số người trong giới tríthức Hà Nội và tôi có ghi lại những cuộc gặp gỡ đó trong hồi ký mang tên MộtTrăm Ngọn Nến.

Mới tháng trước đây, vào dịp Tết Tân Sửu, cuốn sách thứ hai củatôi Căn Nhà An Đông Của Mẹ Tôi được ấn hành ở Việt Nam. Trong sách đó có bàiMột Trăm Ngọn Nến ghi lại cuộc gặp gỡ của tôi với anh và các nhà văn khác ở HàNội. Tuần lễ trước tôi còn hy vọng anh đã đọc bài đó, nhưng bây giờ thì tôibiết chắc là anh chưa đọc. Bởi vì qua báo mạng tôi mới được biết anh bị đột quỵtừ tháng 3.2020, từ đó anh chỉ nằm trên giường hoặc ngồi dựa, tất cả tùy thuộcvào vợ con; nhưng từ khi vợ anh qua đời cuối năm ngoái thì tinh thần anh suysụp hẳn.

Để tưởng nhớ anh tôi xin trích một đoạn trong bài Một Trăm NgọnNến.

Tôi nhìn ra hồ Tây phía xa. Trong rặng cây xanh bên kia bờ nổibật mái đỏ của hai gian nhà lớn hai từng. Thấy tôi nhìn phía bên kia hồ, cụ Từchỉ tay về phía ấy nói:

– Bên ấy là làng Thụy Khuê. Rặng cây xanh là vườn Bách Thảo. Haicái nhà lớn mái đỏ kia là trường Bưởi.

– Thế hả cụ? Cháu cứ nghe mãi tên trường Bưởi bây giờ mới biếtnó ở đấy đấy.

Trường Bưởi, cái tên rất thân quen. Chu Văn An ngàn đời treogương sáng... anh tôi vẫn cất tiếng hát, bài hát của ngôi trường một thuở nàoxa xôi anh đã từng in dấu.

Trường Bưởi, cùng với sóng nước hồ Tây, đã đi vào văn chương.Tôi mê đoạn văn sau đây, nhớ mãi. Có thật chăng một cuộc tình não nùng đã từngnẩy nở bên kia bờ nước, sau lùm cây, trên bãi cỏ, phía góc trường kia?

“Hai mươi năm đã qua... Quanh hồ đủ thứ đã đổi thay, song thầnthái của hồ vẫn là muôn thuở. Vẫn mênh mang thế, vẫn bình yên, thong dong, lãngđãng thế và say đắm thế. Với sương mờ ban mai. Với vừng ráng chiều tà. Với rặngnúi xa. Kiên chưa lần nào vào lại sân trường xưa để vòng sau nhà bát giác tớilùm cây ấy, bãi cỏ ấy. Anh chỉ từ rất xa, mé đường Thanh Niên mà nhìn về góctrường đó, mặt hồ dường như ngước nhìn anh bằng đôi mắt lấp lánh màu nâu củaPhương, với vẻ kỳ diệu và nỗi ngậm ngùi của tuổi thơ ấu, của tình yêu đã điqua, đã xa vời vợi. Và những chiều ngồi bên hồ bao giờ anh cũng ngồi nán lạicho đến khi vừng ráng chỉ còn đọng lại một ngấn đỏ chạy ngang trời. Ấy là ánhhồi quang của cái đêm hai mươi năm trước, bên bờ hồ, sau lùm cây, trên bãi cỏ,phía góc trường...

Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội caoxạ chốt nổi trên đám bèo neo sâu trong hồ một hồi kẻng khuya chậm rãi dóng lên.Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳngphải ai khác ngoài chính họ.

Gió thở dài. Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nướcnổi bồng lên để rồi bị cuốn dạt ra mỗi ngả...”.

(Bảo Ninh - Thân Phận Tình Yêu).

Gió... không thở dài ở đây, bây giờ, mà lồng lộng thổi từ mặt hồTây mênh mang phía trước.

Ngày hôm qua tôi nói với Bảo Ninh ngồi đối diện tôi nơi một bàntiệc:

- Tôi có đọc truyện Nỗi Buồn Chiến Tranh của anh. Không khítruyện này rất lôi cuốn khiến tôi đọc mà muốn ngộp hơi. Đọc xong tôi hiểu vìsao anh bị giằng co trong sự lựa chọn giữa hai nhan truyện Nỗi Buồn Chiến Tranhvà Thân Phận Tình Yêu. Tôi thích nhan đề sau hơn, có lẽ bởi vì tôi bị mê hoặcbởi những đoạn anh viết về những cuộc tình hơn là những đoạn anh viết về cuộcchiến, tôi thích style văn rất mới của anh, cái lãng mạn trong văn phong anh,không phải cái lãng mạn trữ tình êm đềm kiểu Tự Lực Văn Đoàn mà là thứ lãng mạnchua xót và đớn đau. Tôi cho rằng mình đã đọc một truyện rất hay về cuộc chiếntranh mà anh với tôi đã cùng trải qua và trực tiếp dự phần, từ hai phía đốinghịch.

Bên kia bàn, Bảo Ninh, trẻ hơn tôi đúng một giáp, mái tóc đãđiểm sương bồng lên bù xù, hàng râu quặp trên mép, nhận lời khen của tôi mộtcách trịnh trọng, hơi kiểu cách: anh nắm chặt hai bàn tay vào nhau để phíatrước ngực khẽ cúi đầu nói nhỏ “đa tạ!”.

Trong lúc ăn Bảo Ninh luôn tay với chai rượu whiskey rót thêmvào cốc đưa lên miệng uống. Chả mấy chốc chai thứ hai đã được khui. Bàn tiệc cósáu bảy người. Một mình anh ta có lẽ đã tiêu thụ nguyên gần một chai rượu mạnh.

Ngồi bên trái tôi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp yên lặng gắp đồ ăn,anh ăn nhỏ nhẹ không đụng tới một giọt rượu.

Bảo Ninh uống. Hết ly này đến ly khác. Mắt anh có một lúc rờitôi nhìn người ngồi cạnh tôi bên phải. Cặp mắt đã mờ say của anh ánh lên mộttia nhìn dịu và đằm thắm, hẳn cũng là cái nhìn của nhân vật Kiên với nhữngngười nữ trong Nỗi Buồn Chiến Tranh của anh.

Bên cạnh tôi là Đỗ Hoàng Diệu - một nhà văn nữ rất trẻ, tác giảmột quyển truyện nổi tiếng Bóng Đè.

Tiệc tàn. Tôi hơi say. Cả bàn có lẽ chỉ có hai người không đụngtới rượu là Nguyễn Huy Thiệp và Đỗ Hoàng Diệu.

Nguyễn Huy Thiệp quay qua tôi hỏi:

- Để tôi chở anh về. Anh có bận gì không?

- Không.

Anh ghé nói nhỏ vào tai tôi:

- Nhà anh Tô Hoài rất gần đây. Mình ghé thăm anh một lát rồi tôichở anh về nhà tôi chơi...

Nơi mé hồ gần bờ hướng chùa Trấn Quốc có một người đang bơi, cáiđầu chồi ngụp trên mặt sóng. Hình ảnh bố tôi bơi với chú Đinh Hùng lại thoángtrong trí.

Bố tôi đã ra đi bốn mươi ba năm trước... như con bướm trắng bayđi không trở lại. Nếu còn sống thì hôm nay là sinh nhật thứ 100 chúng tôi đãthắp một trăm ngọn nến trên chiếc bánh sinh nhật của ông.

Tôi đứng dậy nhìn đồng hồ tay. Nhớ tới cái hẹn tại nhà anhNguyễn Huệ Chi, tôi nói với cụ Từ xin kiếu về.

Bước ra khỏi đình Yên Phụ tôi ngoái nhìn phía trước căn nhà câyliễu một lần cuối rồi đi rẽ về phía cổng làng.

Mặc dù không dặn nhưng khi bước qua khỏi cổng làng tôi đã thấybác lái xe ôm ban sáng ngồi chờ tôi dưới một gốc cây. Thấy tôi bác lật đật đứnglên vứt điếu thuốc xuống lề đường. Lúc nẫy tôi đã định bụng không về ngay kháchsạn mà tản bộ một lát trên đường Cổ Ngư, nhưng thấy bác ta chờ từ sáng tộinghiệp, tôi đổi ý và để bác ta chở về.

Ngồi sau lưng bác tài trên chiếc xe hai bánh chạy ngược trênđường Thanh Niên, tôi nhớ ngày hôm qua tôi ôm eo Nguyễn Huy Thiệp trên chiếc xegắn máy của anh ta và hình như cũng chạy qua con đường này. Không có ý niệm vềđường phố ở Hà Nội, tôi không biết anh Thiệp đã chở tôi đi những đâu, qua nhữngcon phố nào, chỉ biết là anh chở tôi đi xa lắm tôi ngồi lâu trên xe ê cả môngđít.

Từ nhà hàng ăn chúng tôi đến thăm nhà văn lão thành Tô Hoài, tácgiả của tập truyện Dế Mèn Ohiêu Lưu Ký tôi đã mê say đọc từ hồi còn nhỏ. AnhThiệp sau đó chở tôi đến phố Hàng Trống thăm một xưởng tranh hình như là củangười con anh. Chiều đến anh chở tôi về nhà anh ở vùng ngoại thành Hà Nội rấtxa khu trung tâm thành phố.

Khi chiếc xe rời con đường chính vào một con ngõ tôi đinh ninhsắp đến nhà anh. Nhưng không. Xe còn đi lâu lắm rẽ qua không biết bao nhiêu conngõ rắc rối rồi cuối cùng mới dừng lại trước căn nhà có bờ tường rêu bao quanhvà có cổng gỗ kiến trúc giống như cổng một mái chùa hay một ngôi đình làng.

Nguyễn Huy Thiệp tắt máy xuống xe tra chìa vào ổ khóa đẩy haicái cánh cửa gỗ nặng nề dắt xe qua cổng. Bên trong mở ra một thế giới khác hẳnbên ngoài. Một khu tuy nằm trong lòng Hà Nội nhưng biệt lập yên tịnh và đặcbiệt là rất đồng quê. Qua bóng rợp của một khu vườn cây rộng, toàn cây ăn trái,nào nhãn, nào ổi, nào khế... cây nào cây nấy nặng trĩu những quả, một con đườnglát gạch dẫn tôi tới căn nhà hai tầng nằm ẩn sau vườn, nơi mà Không Có Vua,Tướng Về Hưu... cùng những tác phẩm khác của anh được thai nghén và sáng tác.

Tối đó anh Thiệp mời tôi dùng cơm tại nhà anh. Tôi nhớ mãi bữacơm rau ấy vì đã từ lâu lắm rồi tôi không được ăn một bữa cơm rất thanh đạmnhưng đầy mùi vị quê hương. Về khuya anh đưa tôi ra đầu ngõ đón xe về kháchsạn. Anh nói trước khi chia tay:

- Văn chương nó bạc lắm anh ạ! Phần thưởng quý nhất có lẽ là quanó chúng ta có được những người bạn mới ở khắp bốn phương.

Văn chương nó bạc lắm anh ạ.

Ôi, câu nói sau cùng của anh với tôi nghe chua xót quá, anhThiệp ơi!

Nguyễn Tường Thiết

Seattle, Hoa Kỳ, 20.3.2021



 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 06, 2025 21:07

March 31, 2025

"Tác phẩm của tôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng là một trò chơi, trò chơi vô tăm tích" - mấy lời bộc bạch của Nguyễn Huy Thiệp - 2012.

 

Nguyên là bài  Danh càng cao, họa càng nhiều   lấy từ nguồn

https://tiasang.com.vn/-van-hoa/danh-cang-cao-hoa-cang-nhieu-5046/?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTAAAR2k02fD3HKh4zTTcvq0ZTctnVYVCQY-cAuxmQQB1auSI9I7seQD_Kv6STM_aem_GHHxDYbme7swhVDIX1ryyQ

 

Tôi tự hào là nhà văn gây cảm hứng cho nhiều người viết trong hai mươinăm qua, nhưng tôi cũng biết thân biết phận, danh càng cao thì họa càng nhiều,điều đó chẳng hay ho gì đâu.


Xuấthiện lần đầu tiên năm 1986 với Tướng về hưu, ông lập tức gây sửngsốt cho người đọc, và suốt 20 năm qua, mỗi tác phẩm của ông đều khuấy đảo cáikhông khí vốn tịch mịch của văn chương Việt. Những tác phẩm ấy gây tranhcãi về cách hiểu, cách đọc, cách phê bình văn học, tạo sự hứng thú cho cả ngườiđọc, nhà phê bình, người quản lý. Sống, đau đớn, chiêm nghiệm, tỉnh thức, đểrồi lại mê man, tìm kiếm… ông trình bày cuộc sống như nó đang là, để đời sốngtự nó hiện lên ý nghĩa.

 

1/

Ôngthường đón nhận người yêu kẻ ghét tác phẩm của mình bằng nụ cười kiêu bạc. Giờtóc đã điểm sương, ông có còn giữ được sự kiêu bạc ấy khi có người nói “NguyễnHuy Thiệp suy rồi”, “Nguyễn Huy Thiệp đang bị bắn chết trong văn học”, “NguyễnHuy Thiệp chấp chới trong sự sống và cái chết”…?

 

Chừngnào còn bên nam bên nữ, bên ghét bên yêu là mình còn. Xuất hiện lần đầu tiênnăm 1986, bắt đầu thời kỳ đổi mới, năm tôi 36 tuổi, đến giờ đã 63 tuổi, qua bacon giáp, cũng là lúc kết thúc sự nghiệp văn học của mình, kết thúc cuộc đời.Có một cái duyên: tác phẩm Tướng về hưu của tôi in đầu tiênở Sài Gòn, và bây giờ, tác phẩm cuối cùng cũng được in và bày bán trước tiên ởđây. Dù nhiều luồng dư luận khác nhau nhưng không ai chối bỏ rằng nó vẫn mangchất Nguyễn Huy Thiệp. Càng tàn bạo, càng nhọc nhằn, đau đớn, hoang mang thìcàng gần đến đạo. Tác phẩm của tôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng làmột trò chơi, trò chơi vô tăm tích.

 

2/

Ông đã viết hơn mười tác phẩm kịch, chèo, khi viết ông có nghĩ đến việcchuyển nó lên sân khấu biểu diễn?

Cuộcđời sáng tạo mỗi người có một con đường riêng, một số phận riêng. Rất nhiềungười tài khi mới bước vào sự nghiệp đều bị người đi trước coi là không biếtviết. Hồi tôi bắt đầu xuất hiện trên báo chí đã từng bị những người biên tậpcho là lối viết cọc cạch, không phải văn học, nên chuyển nghề khác! Với Vongbướm, chính Trần Đăng Khoa còn nói: “Mọi người bị ông Thiệp lừa hết, ôngấy chẳng biết gì về chèo cả”. Chúng ta sống trong cuộc đời, tất cả mọi ngườiđều đi trong cõi hỗn độn vô minh, như thể một đầm lầy đen tối. Trong đầm lầymay mắn nhô lên một vài mỏm đá, những mỏm đá ấy có thể là Nguyễn Du, Bùi XuânPhái… Nếu không có những mỏm đá nhô lên trên đầm lầy thì người ta biết đi đâu…Có những hòn đá bước lên bị thụt xuống mất tiêu luôn, nhưng cũng có những hònđá giúp ta đứng lên đi tiếp. Với mỗi kịch bản sân khấu, tôi làm hết mình.

Tôimuốn bước đầu mở ra một cách xem, nghe, nhìn mới. Tôi tưởng tượng Vong bướm sẽthoát khỏi sân khấu truyền thống, được trình diễn trên một sân khấu hoành trángnhư cuộc thi hoa hậu, với ánh sáng tưng bừng, và dàn đồng ca là hàng trăm côgái… Trong lễ trao giải tại Ý, tôi đã từng chứng kiến hàng trăm sinh viên hátnhững bài dân ca nổi tiếng của Ý gây không khí náo nhiệt. Những giá trị văn hoácổ truyền như chèo, cải lương, tục ngữ ca dao… không thể chỉ trình diễn ở máiđình cây đa. Nếu không bước vào không gian sân khấu hiện đại, không biết biếnhoá, nó sẽ chết. Có những tác phẩm mà thời điểm ra đời và thời điểm xuất hiệncó khi không trùng nhau, như vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan củaNguyễn Đình Thi, hay vở Ba chị em của Tchekhov đến nay vẫn chưa được dựng.

 

3/

Trongcác tác phẩm của ông, nhân vật đều hiện lên với tất cả sự trái ngược: trắngđen, tinh khiết, tục tằn… Dường như ông yêu cuộc sống với những gì đẹp đẽ và cảsự thô nhám?

Ngườiviết văn chúng tôi rất khó lý giải về tác phẩm của mình. Văn học là một côngviệc lao động đặc biệt, phụ thuộc chuyện người viết sống thế nào mới có cái đểkể cho người khác nghe. Tôi nhớ giai thoại về Dostoevsky, khi người ta hỏi ôngthích nhất tác phẩm nào, ông nói Anh em nhà Karamazov, ông thúthực đã viết khi đang bị bệnh trĩ hoành hành. Viết giúp ông trượt qua nỗi đaurất thực đó. Ông viết về nỗi đau của chính chúng ta, không phải nỗi đau xa xôinào. Con người sống trong tăm tối vô minh. Đi tìm con đường sống cho con người,nhiều khi phải rất đau đớn về cả thể xác và nội tâm, phải trải qua những đắngcay, trần trụi nhất mới có thể viết những tác phẩm có lòng từ bi hỉ xả, đó cũnglà hạnh phúc… Hãy làm bằng sức của mình, đừng cố gắng, cố rất mệt… Một bạn viếtvăn trẻ đã nói với tôi rằng: “Văn học của ta rất ít muối, tác phẩm của ông làmuối xát vào lòng người đọc”. Điều đó an ủi tôi nhiều. Viết là làm cho bản thânvà một vài người quanh ta khá khẩm hơn lên một chút, đó là cái nhìn rất thực tếcủa tôi về cuộc sống nói chung và nghệ thuật nói riêng.

 

4/

Đitừ truyện ngắn đến truyện dài, tiểu thuyết, phê bình văn học, và bây giờ làkịch thơ, chèo… sắp tới không biết ông sẽ còn đi đâu?

Hãysống với cái đang là, đang diễn ra. Tôi cũng có những dự cảm lạc quan, nhưng đểthành hình cái gì thì phải chờ… gió đông thôi (cười ý nhị). Có những cái là sứcngười, có cái phải nhờ sức giời nữa. Tôi sống tuỳ duyên, nhưng luôn cố gắng đểviết hay nhất có thể. Nền văn học cũng phải đa dạng, nhìn ra những cái mớitrong tương quan chung. Chúng ta rất cần những kịch bản sân khấu phá cách. Mỗingười hãy dựng trong lòng mình một sân khấu chèo riêng cho Vong bướm.Như thế mới có cơ may giữ gìn và làm mới văn hoá cổ truyền. Giá trị dân tộcngày càng phải bảo tồn theo cách mới, đó chính là cuộc sống phía trước, là hyvọng.

 

5/

Vong bướm  làtuyên ngôn về nghệ thuật, về thân phận của người nghệ sĩ?

Tôi cũng sắc sắc không không, cũng có lúcnói dối, có lúc nói thật, có lúc vụng dại… không có tuyên ngôn chung cho tất cả.Nhà văn là một người làm nghề, viết trước tiên là cho mình. “Khi mê bùn chỉ làbùn, ngộ ra mới biết trong bùn có sen”… Ở đời nó thế, nhiều nghịch lý lắm, cókhi người vô đạo đức lại cứ ra rả nói về đạo đức, người lương thiện lại toànnói ra điều ác. Thiện ác, đúng sai, hay dở chính là cuộc sống. Chúng ta rấtnhiều người viết được văn, nhưng không phải ai cũng được chọn. Đấy cũng là điềuđộc đáo của tạo hoá.

TrangChâu gửi mộng tan thành bướm… Bướm về tan mộng hoá Trang Châu… Vongbướm phảng phất hương vị của đạo Phật, Lão, Trang. Đến tuổi này vuibuồn được mất cũng như nhau, thấy đời văn cuối cùng được tiếp đón chân tình,nồng nhiệt là quý lắm rồi. Mối quan hệ quan trọng nhất trong xã hội là chuyệntình, chuyện đạo, chuyện đạo nói cho cùng cũng là âm dương. Đàn ông hay đàn bàcũng phải bước qua xác rất nhiều “đàn” mới nên người. Càngtàn bạo, càng nhọc nhằn, đau đớn, hoang mang thì càng gần đến đạo. Tác phẩm củatôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng là một trò chơi, trò chơi vô tămtích.

 

6/

Ưu tư lớn nhất của ông về sự tha hoá của con người trong cơn lốc củacuộc sống hiện đại?

Xã hội càng phát triển, càng khó mà xácđịnh đúng sai hay dở, vì thế nhiều thứ giả lên ngôi. Hiện sinh trong tác phẩmcủa tôi là trực ngộ. Thật sự con người rất oái oăm. Muốn trở thành nhà văn,phải rất tinh vi, đi vào cái vi tế của con người. Lòng người càng ngày càng oáioăm, trẻ con lấy nhau, bỏ nhau như bỡn.

Vừarồi tôi đi thăm mấy nhà trọ của khu công nghiệp Bình Dương, thấy nhiều đôi traigái đẻ con không đủ tiền nuôi, đem cho một cách thản nhiên. Một người đàn ônglàm từ thiện phải than trời vì nhiều trẻ bị bỏ rơi đến nỗi ông nhận không xuể.Cái ác phổ biến đến nỗi người ta không biết đó là ác nữa. Nếu chỉ nhìn nhữngkhu công nghiệp hào nhoáng, làm sao thấy được những nhà trọ chật chội đầy trẻcon có cha mẹ mà vẫn mồ côi, những người công nhân cuộc sống ức chế, thiếu hụtnghiêm trọng cả về đời sống tinh thần, vật chất. Chứng kiến những điều đangdiễn ra, tôi đau lòng, giật mình. Chúng ta đâu cần phải hoành tráng, hàonhoáng, hãy phát triển từ từ để nâng cao trình độ dân chúng. Hoà nhập thế giớilà chơi với người giỏi hơn mình, nếu không vững sẽ rất dễ bị áp đặt luật chơicủa họ. Trong xã hội chỉ có một bộ phận theo kịp, nhưng dân chúng thì bị thiệtthòi rất nhiều. Bất ổn từ đó mà sinh ra. Vong bướm cảnh tỉnhcon người đừng rời bỏ thiên nhiên, hãy quay trở về với cái gốc gác làng quê củamình. Văn học như cái phanh, làm cho con người sống chậm, sống tử tế hơn.

 

7/

Nhiềungười gọi ông là “người nhà quê còn sót lại trong văn học Việt Nam”. Làm thếnào để ông giữ được cái nhà quê ấy trong đời thường?

Hình ảnh Điệp Lang rời bỏ quê hương, tổtiên, đi tìm ánh sáng đô thị, cũng là hình ảnh của nhiều văn nghệ sĩ đươngthời, nhiều khi chỉ là ảo tưởng, rất nhiều người chết dọc đường, vẫn là một anhnhà quê. Ở phương Tây có những thương hiệu được gìn giữ hàng trăm năm, quanhiều thế hệ, cha truyền con nối. Nhưng ở Việt Nam, những thương hiệu lớn lậpra từ thế hệ đầu có ai nối nghiệp đâu. Chúng ta thiếu sự bàn giao, không có thếhệ tiếp nối trong tất cả mọi lĩnh vực. Những giá trị cha ông bao nhiêu công sứcdựng nên đã bị phá tan tành bởi tư duy nhiệm kỳ. Rất nhiều thế hệ nghệ sĩ đãchết dọc đường vì những cám dỗ.

Tôicũng vậy thôi, mảnh đất nhà quê của tôi cũng mất một nửa rồi, chỉ còn cái vườnrau. Ngày xưa còn có cái cây to, giờ không còn nữa. “Nhà ông bán đi rồi/ Vợ lămle ở vú/ Con tấp tểnh đi bồi…” Y như Tú Xương vậy thôi. Còn cơm áo gạo tiền,còn thế hệ con cháu, không bán không xong với nó!
 Ngày xưa ít tiền, danh tiếng ít, sống hạnh phúchơn. Thời đó cũng có đau khổ nhưng là đau khổ giải thích được, là đau khổ thôngthường của từng người đối mặt với cái ác. Những cái ác có lý. Không phải đốidiện với cái ác vô lý, không giải thích được như bây giờ.

 

8/

Ôngcó bị lạc lõng trong nhịp thở hôm nay? Điều gì giúp ông sống vui mỗi ngày?

Xãhội bây giờ đâu có như xưa, phải hoà nhập chứ, nhảy ra khỏi đoàn tàu định mệnhlà chết liền. Dù chen chúc vẫn phải trèo lên. Phải vào hội sách, bán sách mớinuôi được gia đình, mới ký được hợp đồng với NXB Trẻ chứ! Mỗi cuốn sách có mộtsự bắt đầu khác nhau, hai vở kịch của tôi Nhà ôsin và Vongbướm in lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Tiếp Thị. Trong đó, Vongbướm in thành sách một tháng sau. Rồi tôi được NXB Trẻ mua bản quyềntoàn bộ tác phẩm (44 truyện ngắn và tuyển tập truyện, trừ cuốn Vongbướm), sử dụng trong năm năm với trị giá 500 triệu đồng. Như thế cũng oáchrồi. Nếu rời xa những công việc quen thuộc ấy tôi biết làm gì. Vừa tu, vừakhông tu. Tu giữa chợ đời.

Giúp tôi sống vui có nhiều thứ, trong đó cóvăn chương. Văn chương vừa là cứu cánh, vừa là công việc. Văn chương là đạogiúp mình sáng nước hơn, nhìn ra những cái mới, giúp mình chia sẻ được với vợcon, bạn bè, mọi người. Văn là người, giống như tần sóng radio, có người bắtđược sóng, có người không, cũng là chuyện thường.

9/

Trong buổi giao lưu với sinhviên Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, nhiều ý kiến tâm đắc với  Vong bướm, dường như lớp trẻ đón nhận tác phẩm củaông đã cởi mở hơn?

Xãhội mình đang phân hoá khốc liệt vì đời sống, phương thức sống, kể cả giới tríthức. Những nhà nghiên cứu, những người trẻ có điều kiện kinh tế, tri thức nhấtđịnh, trình độ ngoại ngữ tốt… dễ nhận ra những giá trị thực.


10/
Ông nghiệm ra điều gì từ những được mất trong nghiệp dĩ của mình?

Tôi sống chủ yếu bằng sự nghiệp viết lách,nhưng cũng không ăn thua, cũng phải theo thời, bán đất đi để sống. Ngẫm lạingày xưa ít tiền, danh tiếng ít, sống hạnh phúc hơn. Thời đó cũng có đau khổnhưng là đau khổ giải thích được, là đau khổ thông thường của từng người đốimặt với cái ác. Những cái ác có lý. Không phải đối diện với cái ác vô lý, khônggiải thích được như bây giờ. Nhà văn mình rất ít người nhận ra điều ấy, cóngười nhận ra, đau lòng, nhưng không dám viết. Văn học cũng nhận ra, nhưng chậmhơn văn học dân gian. Văn học nếu không nhận ra điều ấy thì chúng ta cũng giốngnhư súc vật thôi, không có linh hồn, không có tình. Tôi mong văn học Việt Namngày càng cởi mở, có nhiều tác phẩm mới, đẹp đẽ hơn nữa… Tôi tự hào là nhà văngây cảm hứng cho nhiều người viết trong hai mươi năm qua, nhưng tôi cũng biếtthân biết phận, danh càng cao thì hoạ càng nhiều, điều đó chẳng hay ho gì đâu.

===========

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2025 22:42

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.