Vương Trí Nhàn's Blog, page 5

January 13, 2025

Đào Duy Anh (1904 - 1988)

 Bài của Tạ Trọng Hiệp   trên  báo Đoàn Kết ở Pháp tháng 6 năm 1988

Đưa lại theo nguồn https://nongthonvaphattrien.vn/dao-du...
------------- Một người lặng lẽ vừa ra đi vào cõi vĩnh viễn, sau khi hơn nửa thế kỉ nay, đã bền bỉ xây đắp nền văn hóa mới cho thời đại chúng ta. Có thể lớp trẻ bây giờ, đại khái các bạn dưới bốn mươi, không còn chú ý đến tên tuổi và sự nghiệp của ông như lớp người trước nữa. Từ những năm 1950 và 1960 trở đi, lịch sử văn hóa và giáo dục ở nước ta đã chứng kiến một bước tiến lớn, khi mà tiếng Việt đã trưởng thành và đủ sức làm công cụ truyền đạt các môn học cũ và mới.

Trên đường phát triển ấy của văn hóa ta, một trong những người có công lớn nhất chính là Đào Duy Anh. Với thế hệ chúng tôi, ông là hình ảnh lớn lao và đau buồn của những người xứng danh là nhà văn hóa. Trong cơn lạm phát chữ nghĩa, người ta quen gán cái danh từ nghiêm trang này cho những kẻ buôn văn bán chữ viết lách lung tung miễn là hợp thời thượng. Còn một nhà văn hóa chân chính như Đào Duy Anh thì người ta lại không biết trân trọng. Tính ông lại điềm đạm, không quen xu nịnh. Con người lặng lẽ ấy rơi dần vào lãng quên ngay từ sinh thời. Tôi nói ngoa chăng? Tôi trát thêm màu xám hiu hắt lên một cái áo quan mới đậy nắp chăng? Thì bạn đọc cứ mở bộ Từ điển văn học của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (Hà Nội, 1983-1984, hai tập khổ lớn chữ nhỏ, hơn một nghìn trang) ra mà xem: Mục giới thiệu Đào Duy Anh không xuất hiện ở vần Đ trong tập 1, mà lại rớt vào phần đuôi, gọi là Bổ sung, tận cuối tập 2 (trang 626 đến 627: vỏn vẹn chưa đầy hai cột, ngắn hơn mục dành cho lãnh đạo chính trị, điều này là cố nhiên rồi, mà ngắn hơn cả mục Phan Kế Bính, mục Phan Phu Tiên, chẳng hạn). Nếu không phải là quên thì cũng là suýt quên rồi còn gì?

Để có cơ sở bàn luận về sự nghiệp Đào Duy Anh và bổ sung thư mục ấn phẩm của ông, ghi rất thiếu sót trong ba bài giới thiệu về ông hiện tôi đang có trước mắt (1/Mục nói trên, trong Từ điển văn học; 2/ Cuộc đời nghiên cứu của học giả Đào Duy Anh của Phan Ngọc, Văn nghệ số 8, ngày 20-02-1988, tr. 1011; 3/Vĩnh biệt nhà sử học Đào Duy Anh của Hà Văn Tấn, Nhân dân 06-4-1988. Lời tòa soạn: Còn có bài của Phan Huy Lê, Văn nghệ số 15, 09-4-1988, tr. 7; bài của Nguyễn Khắc Mai, Phạm Văn Hạng, Thanh niên số 18, 25-4-1988, tr. 8; bài của Quang Đạm, Độc lập số 9, 27-4-1988; bài của Mai Thanh Ph., Tổ quốc, 11-1987, tr. 41-45) ngõ hầu giúp ích cho bạn đọc hiếu học, tôi đã thử kê ra một bảng Thư mục mới. Những mục sách ghi dấu hoa thị (*) là những sách tôi chưa hề thấy, hoặc những bản in tôi có mà chưa tìm ra. Có thể có cả sách khác nữa của Đào Duy Anh mà tôi không biết tên. Dám mong bạn đọc xa gần bổ sung cho.

Đọc xong bản Thư mục Đào Duy Anh, bạn có thấy ngợp không? Có thể vừa kính phục vừa sợ hãi chưa? Trong cái rừng sách ấy, làm sao mà nhận ra các khuynh hướng lớn trong sự nghiệp của ông, hay các nét đặc thù trong bản lĩnh kiên định của ông? Câu hỏi này thật ra đã có giải đáp khá đủ rõ trong ba bài nhắc đến trên đây, đều do cao đệ giỏi của ông viết ra. Đó là những tài liệu rất quí, cộng thêm với bài cũ của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại và bài trích hồi kí của chính Đào Duy Anh trong tạp chí Sông Hương số 24 (1987), quí cho những ai sau này sẽ viết nữa về ông. Song tôi cũng có cách nhìn hơi khác mấy vị ấy, xin bàn góp một tí. Và ghi lại chút kỉ niệm gặp gỡ.

Qua sự duyệt lãm bảng Thư mục, cộng thêm ít điều được biết về hành trang của ông từ sáu mươi mấy năm qua, tôi thấy nhà văn hóa Đào Duy Anh có trải qua ba giai đoạn lớn, ba thời kì soạn thảo tác phẩm khác nhau, khác về tầm rộng và về độ sâu chuyên môn, nhưng vẫn giữ một khuynh hướng chung và một phong cách gần như là bất biến.

Khuynh hướng chung ấy khiến ta không những phải gọi ông bằng cái danh từ mơ hồ là nhà văn hóa, mà còn nên gọi ông là nhà nhân bản học đúng như các bậc vĩ nhân của phương Tây thời Phục Hưng, tức là cái kiến giải bao quát, có qui mô rộng lớn, của một học giả nhạy cảm trước bước chuyển mình của thời đại, góp phần xây đắp cho bước chuyển ấy có điều kiện vững chắc. Bằng cách nào? Bằng hai cách, tùy từng giai đoạn và tùy vào nhu cầu và trình độ của xã hội trong mỗi giai đoạn, hai cách có vẻ đối ngược nhau nhưng thật ra đều thiết yếu ngang nhau, đều nằm chung trong một hành trình văn hóa có cân đối hợp lí:

1) Giới thiệu cái mới, mới về tư tưởng, mới về phương pháp, mới về công cụ tư liệu, biến nó thành vốn liếng và lợi khí làm thức tỉnh một quần chúng còn đang chìm trong lạc hậu và dốt nát, trang bị đầu óc cho lớp người đang phải lần đường bằng tranh đấu và tự học.

2) Khi trình độ xã hội đã lên cao, khi luồng gió đổi mới đã áp đảo được các cổ hủ, thì lại giới thiệu cái , dùng phương pháp mới mà tổng kiểm tra lại di sản của quá khứ (lịch sử, kinh tế, hành chính, phong tục, văn học, ngữ văn) để có cơ sở tinh thần mà tiêu hóa cái mới, để đừng vong bản, để đừng mê bụt ngoài chê bụt nhà, để ta vẫn là ta tuy có đổi mới, ta: con người của một địa vực, có gốc có nòi, có truyền thống lâu bền.

Nhà nhân bản học kiêm cả hai cách ấy và thống nhất nó trong cái nhìn nhân bản tổng hợp. Đó là lí tưởng đẹp nhất cho nhà văn hoá, nhưng không mấy ai thực hiện được trọn vẹn. Phải có bản lĩnh. Phải có hoàn cảnh nữa. Riêng về Đào Duy Anh, hình như ông đã thi hành được chương trình sở nguyện, đúng với qui mô rộng rãi của quan niệm, đúng gần hết ý ông cho đến khoảng năm 1957. Sau đó đời ông thu hẹp lại, gò bó trong cương vị một chuyên gia hiệu đính bản dịch cổ văn.

Nằm trong giai đoạn đổi mới, đó là loạt sách của Quan Hải tùng thư những năm 1927 trở đi; đó cũng là các từ điển của những năm 1931-1936. Cái mới đi vào xã hội ta (vào nhà trường, vào sách báo) từ cuối thế kỉ XIX bằng hai con đường: Hán văn và Pháp văn. Những năm 1925-1935, hai nguồn văn ấy cần được tổng kết vào Việt văn một cách có hệ thống mà phục vụ kịp thời cho lớp thanh niên đang sống trong hai thái cực: bắt đầu mù chữ Hán văn (trong khi danh từ và thuật ngữ mới đã xuất hiện nhiều trong báo chí, nhất là trong các bài chính luận), bắt đầu nắm vững được Pháp văn (đến nỗi rành Pháp văn hơn cả Việt văn). Không thể vứt đi cái khối chữ gốc Hán kia, nhất là trong Hán văn cũng có di sản của truyền thống Việt Nam, lại cũng không thể biến thành ông Tây An Nam. Vậy thì anh thanh niên lúc ấy đi đâu? làm gì? Để giúp anh vẫn là anh trong thời buổi mới, các từ điển Đào Duy Anh được soạn ra rất nhanh, rất đúng thời cơ! Ông không tạo ra thời thế, nhưng ông đã nắm rất đúng nhu cầu của thời đại, giúp thanh niên vừa thất học vừa sắp mất gốc (thời 30 và cả đến những năm gần đây) có công cụ tham khảo mà làm chủ được ngữ văn của mình, giúp ngữ văn Việt có công cụ điển chế chuẩn xác, thế là ông cũng đã tác động vào cục diện mới của thời thế rồi đấy chứ! Bây giờ đây, điều đáng tiếc là ta chưa có từ điển hoàn toàn thay thế cho từ điển Đào Duy Anh, tuy nó đã lỗi thời về nhiều mặt.

Đến giai đoạn thứ hai, ông xoay sang truyền thống, tổng kết toàn diện về quá khứ Việt Nam, trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương. Nhìn lại quá khứ với phương pháp mới: sử quan duy vật được bắt đầu áp dụng trong một qui mô to lớn và với một phong cách có mực thước phải chăng, dựa trên cơ sở rất phân tán của tư liệu cổ kim Đông Tây về sử Việt Nam. Ở đây, ta thấy rõ một sở trường của ông, là khả năng hệ thống hóa tư liệu để biên soạn nên tác phẩm có đề tài rộng, mà thanh thoát đến độ ai đọc cũng được, không bực mình trước những biểu hiện của giáo điều, không khiếp hãi trước mớ tư liệu ngồn ngộn. Một thành công vĩnh cửu, mãi mãi còn đáng đọc, tuy rằng cần bổ sung nhiều, mãi mãi “đáng có chỗ trong mọi tủ sách gia đình”. Không nhìn vốn cũ với con mắt hoài cổ, nệ cổ, phục cổ, như một số nhà văn hóa của những năm 1933 đến 1943. Điềm đạm nhưng không gàn. Không bốc vội như nhóm Hàn Thuyên. Cũng không sơ lược như nhóm Văn Sử Địa sau này.

Trong khi tập hợp và cân nhắc tư liệu để viết ra cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, hình như ông đã nhận ra rằng sử quan mới chưa thể áp dụng sâu rộng hơn nữa, vì khi ấy ta thật sự chưa có một sử học chân chính. Sử liệu ngổn ngang, không giả thì sót, không mất mát thì phân tán, vụn vặt và mâu thuẫn. Cần sưu tầm cho rộng, cần kiểm tra chỉnh lí. Cần nắm vững chuyên khảo. Cho nên ông đã bỏ ra nhiều năm, sau cuốn ấy, để khảo lại tất cả, sau đó mới đi dần đến độ tổng hợp mới vào những năm chung quanh 1944-1945. Mấy giáo trình và mấy bộ thông sử được in ra những năm 1950 đến 1957 đều đã được thai nghén chuẩn bị và viết dần hơn năm mười năm trước đó. Cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) cũng có thể xem như là cái rớt và cái nối tiếp của giai đoạn khảo sử toàn diện bắt đầu sau 1938. Trong cuốn này, ta thấy ông vẫn trở lại khai thác và bình luận một tài liệu cơ bản về cổ sử và cổ địa lí miền Bắc và miền Trung, là Thủy kinh chú (quyển 35 và 37), phía người Việt thì mãi đến cuối thế kỉ XIX mới có một tác giả (Đặng Xuân Bảng) chú ý sử dụng, phía Hán học người Pháp cũng đã dùng nhiều Pelliot, Maspero, Aurousseau, Madrolle, Stein, không ai giải thích giống ai, chính Đào Duy Anh cũng đã tham dự vào cuộc biện luận từ rất sớm, rồi lại thảo luận tỉ mỉ trong sách in năm 1956, 1957, mà vẫn thấy còn cần giải thích thêm. Trong giới nghiên cứu về cổ sử Việt Nam, dễ chừng không có ai bị Thủy kinh chú ám ảnh như Đào Duy Anh! Mà chắc cũng không có ai đủ học vấn và kinh nghiệm khảo sử bằng ông để công bố một lần cho xong toàn bộ các đoạn của Thủy kinh chú có nói đến Việt Nam thời trước thế kỉ V, dịch và chú giải rõ ràng, làm tư liệu tham khảo tiện lợi cho mọi người, chấm dứt cái tình trạng hiện nay từng câu, từng mảng câu, mỗi người dịch khác, hiểu khác, in rải rác trong hàng chục bài và sách khác nhau. Tiếc rằng ông không kịp làm công việc ấy.

Đó là một thí dụ nhỏ thôi. Nhân nói về sử liệu, cũng trong thời gian 1940-1943 ấy, ta thấy Đào Duy Anh không phải chỉ biết ngồi im trong phòng sách. Cũng có lúc ông “đi thực tế” săn lùng tư liệu. Ông đã đi Hà Tĩnh tìm dấu tích của các tác giả những họ Nguyễn ở Lai Thạch và Tiên Điền, tìm ra bài hát phường nón của Nguyễn Huy Hổ và bài đáp của Nguyễn Du, tìm ra nguyên tác Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự. Và bảo tồn được trọn bộ tập Điều trần của Nguyễn Trường Tộ, với bút tích của nhà trí thức thức thời này, kèm lời bàn của Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, v.v… Bản Kiều in năm 1979, do ông chỉnh lí văn bản và chú giải trọn vẹn, cũng đã được ông hoàn thành trước 1945. Bản Hoa Tiên 1978 cũng thế.

Đấy là một phần “củi lửa” đã được ông biên soạn và đưa in trong giai đoạn thứ ba, từ sau 1957 khi ông bị thôi chức Chủ nhiệm khoa Sử trường Đại học Sư phạm, “bị kỉ luật” vì đã tham dự vào vụ Nhân Văn. Ông vào tổ Phiên dịch của Viện Sử học từ năm 1960, làm công việc hiệu đính các bản dịch sử sách đồ sộ, lại cho xuất bản những tác phẩm của ông về ngữ văn, cổ văn Việt và Hán.

Giai đoạn thứ ba này, có thể gọi là giai đoạn cổ văn trong đời Đào Duy Anh. Một người khác, nếu chỉ có ngần ấy cuốn in ra trong những năm 1969 đến 1979, không kể sách dịch của người khác mà ông hiệu đính, tưởng cũng đủ lấy làm vẻ vang và vinh hạnh rồi. Riêng tôi, tôi vừa muốn cảm ơn các nhà xuất bản khi được cầm trên tay các tác phẩm quí giá ấy (nhất là cuốn Từ điển Truyện Kiều, một kì quan, một công cụ đọc cổ văn vô cùng hữu dụng, mà nước ta chưa hề có bao giờ và vẫn chưa có cuốn nào khác cùng thể loại ấy: tôi lại muốn hỏi lần nữa, “các cao đệ của Đào Duy Anh đâu rồi?”), vừa muốn cảm ơn nhiều hơn tác giả cuốn ấy, lại vừa có một ý nghĩ buồn buồn, là do câu “So mộng mị với chân thân thì cũng mệt” của Cao Bá Quát gợi ra khi đem cảnh huống đoạn cuối đời của ông, từ sau 1957, mà đối chiếu với cái hoài bão lớn của ông trong những giai đoạn trước đó. Trước đó, tình trạng đất nước vẫn là đầy khó khăn và nghèo nàn đấy, nhưng ta có cảm tưởng là ông vẫn thoải mái, vẫn bước con đường thênh thang đưa vào sự nghiệp xây đắp văn hóa của một nhà nhân bản học có tầm cỡ lớn, trực tiếp đối thoại với mọi người mọi giới, viết bài, in sách, dạy học, làm nhà xuất bản phát hành Quan Hải tùng thư. Có cái hào hứng của nó, hào hứng gây dựng cơ đồ. Cái chung và cái riêng là một. Sau đó, con đại bàng bị cắt cánh, tầm hoạt động thu hẹp lại, các liên hệ trực tiếp với tập thể nhân quần (nhất là với lớp thanh niên trong đại học và ngay cả trong viện nghiên cứu: có ai cho ông làm directeur de recherche, hay ít nhất là tổ trưởng để đào tạo lớp nghiên cứu trẻ?) bị cắt, nhà văn hóa biến thành ông đồ sửa bản thảo, rơi dần vào lãng quên trong sự thờ ơ của người đời.

Được tin ông Đào Duy Anh mất, tôi không thấy xúc động gì đặc biệt, không đau đớn như học trò và thân quyến của ông. Chỉ thấy bùi ngùi thương cảm một bậc đại sĩ, hình ảnh lớn và buồn tiêu biểu cho số phận của cả một thế hệ trí thức đã đặt hết niềm tin vào cách mạng. Chỉ thấy nhớ lại buổi gặp Đào Duy Anh trong tháng 7 năm 1979, ở thành phố Hồ Chí Minh, ông dẫn tôi về nhà khách của Thành ủy, khẩn khoản xin người ta cho phép tôi được lên phòng ông nói chuyện cho yên tĩnh. Một gặp mà như quen nhau từ tiền kiếp. Ngồi với nhau gần ba tiếng đồng hồ, nói toàn chuyện cổ văn cổ sử Hán Nôm; Hùng vương hay Lạc vương, đọc Thủy kinh chú như thế nào, chữ “song viết” trong thơ Nguyễn Trãi, v.v… Cuối cùng, ông rút ra mấy tập bản thảo hoàn chỉnh, đánh máy rõ ràng, bảo tôi muốn chọn những gì thì ông tặng cả mà đem về Pháp, in được cuốn nào cho ông thì in. Lúc chia tay, ông đứng sững nhìn tôi hồi lâu, im lặng im lặng mãi cho đến phút bất thình lình mở rộng hai tay ôm choàng lấy tôi, vừa ôm vừa nức nở thê thảm, như thể trút hết bao nhiêu buồn đau dồn chất suốt hơn hai mươi năm. Tôi nhìn khuôn mặt giàn giụa nước mắt, lòng thắt lại, cả hai đều vẫn im lặng cho đến khi tôi ra về. Từ ấy, bản thảo tác phẩm của ông vẫn nằm trong ngăn sách nhà tôi, Thơ chữ Hán Nguyễn Du (249 bài, dịch hết thành thơ, có kèm cuốn vở chính tay Đào Duy Anh chép bản chữ Hán) và Kinh Thi (phiên âm, chú giải và dịch 203 bài). Bao giờ in được cho ông nhỉ? Chín năm rồi! “Chín năm đốt đuốc soi rừng”…


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 13, 2025 03:27

January 9, 2025

Dương Trung Quốc -- Đó là lịch sử như ta muốn hay lịch sử như nó vốn có?

 

Nguyên là bài
LỊCH SỬ CẦN "MINH OAN" (Bài 1) đưa trên mạng TT&VH Thứ Tư, 14/09/2011*****
------------- Trong làn sóng “thảm họa” nổi lên thời gian gần đây, điểm môn Sử trong kỳ thi tốt nghiệp THPT và đại học vừa qua được nhận diện là một “thảm họa”, thậm chí là một thảm họa có “hệ thống”. Theo thống kê của báo Tuổi trẻ TP.HCM: ở hầu hết các trường, điểm môn Sử trung bình trở lên chỉ chiếm 0,3 - 5%. ĐH Tiền Giang chỉ có 2% thí sinh thi đại học khối C đạt điểm Sử từ 5 trở lên. Con số này ở ĐH Quảng Nam là 1%, ở ĐH Đà Lạt là 2%, ở ĐH Tôn Đức Thắng (TP.HCM) chỉ có 0,4%. Tổng số bài thi đại học môn Sử đạt điểm 0 lên tới hàng ngàn. Những con số kinh hoàng như vậy đã xuất hiện nhiều năm sau mỗi kỳ thi đại học, đến nỗi Bộ trưởng Bộ GD-ĐT phải khẳng định một sự thật: Đó là bình thường chứ không phải bất thường. Chuyện “bất thường bình thường” này đã dấy lên rất nhiều tranh luận trong thời gian qua. Chỉ cần gõ hai chữ “học sử” vào mạng tìm kiếm Google, chỉ trong 0,14 giây đã có thể tìm thấy 142 triệu kết quả với rất nhiều phân tích, kiến giải tâm huyết. Số đông các ý kiến đều mong muốn phải thay đổi phương pháp dạy và học môn Sử trong nhà trường phổ thông cũng như phương pháp giáo dục lịch sử tới mọi người dân. Thậm chí mới đây, UBND TP.HCM còn cho biết sẽ thí điểm việc dạy Sử qua các video clip như một đột phá trong phương pháp dạy và học môn này.Nhưng một phương pháp mới sẽ chỉ là hình thức nếu nội dung chứa đựng bên trong phương pháp ấy “có vấn đề”. Lịch sử cần được “minh oan”, nói cách khác, đổi mới phương pháp dạy và học lịch sử phải được đổi mới từ chính tư duy về lịch sử.
Tổ chức chuyên đề: KIỀU TRINH *************(TT&VH Cuối tuần) - Kênh chính để truyền bá lịch sử là việc giảng dạy ở bậc phổ thông đang bế tắc. Liệu điều này có bắt nguồn từ việc lịch sử không được nhìn nhận đúng bản chất? Vị khách mời của chuyên mục - Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Dương Trung Quốc, đưa ra những góc nhìn, quan điểm của ông xung quanh vấn đề này.--HỎI* Ông là một trong những chuyên gia sử học nhưng phóng viên các lĩnh vực đều thích săn tìm để hỏi về đủ thứ chuyện, mà chuyện nào ông nói cũng có duyên, đồng thời lại luôn “có sách, có chứng” đúng tinh thần lịch sử. Vậy thì ông nghĩ gì khi cứ sau mỗi kỳ thi, điểm môn Sử lại khiến người ta giật mình? Liệu có phải người Việt kém sử Việt không?
TRẢ LỜI- Trước hết, phải xem xét cụ thể các kỳ thi xem có những “trục trặc” gì, rồi xem lại những vấn đề của môn Sử (từ chương trình đến sách giáo khoa, đội ngũ các thầy cô...), rồi hãy khái quát so sánh người mình với thiên hạ.Theo tôi, cũng có những vấn đề chung liên quan đến tri thức lịch sử trong giới trẻ (và cả người lớn mắc) mà thời đại này đặt ra với nhiều quốc gia. Tôi vừa đọc một tài liệu nói về việc học sử ở Hoa Kỳ, một quốc gia có nền giáo dục mạnh. Học trò bên ấy cũng sợ học môn Sử, điểm kiểm tra kiến thức sử cũng rất thấp; họ còn nêu cả hiện tượng một vị nữ ứng cử viên phó tổng thống lẫn lộn tri thức lịch sử của địa phương đến vận động khiến dư luận phê phán... Nhưng hình như họ khác mình ở chỗ họ tìm cách khắc phục và không ngừng hành động khi thấy vấn đề và chịu sức ép của xã hội (cử tri).Phát biểu của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo mới đây về hiện tượng điểm thi môn Sử thấp phản ánh một tình trạng có thực. Có điều dường như hành động của chúng ta chưa tương xứng với bức xúc của xã hội.Thực ra, không chỉ ngành giáo dục mà nhiều lực lượng xã hội khác cũng đã có những nỗ lực nhằm thay đổi. Nhưng theo tôi, vẫn còn nguyên những vấn đề cơ bản…Cái quan trọng nhất của tri thức sử học không chỉ là vận dụng trí nhớ - thứ lâu nay ta lầm lẫn mà nghĩ thế. Lầm lẫn ấy càng nghiêm trọng vì thời đại ngày nay, chuyện nhớ tư liệu đã được giải quyết rồi. Các cháu chỉ “click” một cái có hết thông tin ông nào, sinh ngày nào, nói ra sao. Cho nên bọn trẻ mới nhại câu của Cụ Hồ: “Dân ta phải biết sử ta/Cái nào không biết thì tra gu gờ (google)”. Cái khó nhất, quan trọng nhất là liên kết các sự kiện ấy lại. Sau đó phải làm sao vận dụng những bài học đó theo những yêu cầu của đời sống. Khi cần đánh giặc giữ nước ta học lại bài học của cụ Quang Trung, cụ Lê Lợi. Xây dựng nước ta học bài học của cụ Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn…---HỎI* Nhiều người cho rằng học trò giờ vẫn thuộc sử, có điều các em thuộc sử Tàu. Ông đánh giá điều này ra sao?TRẢ LỜI- Tôi nghe câu ấy nhiều lần và thấy cần khẳng định rằng không hẳn là như vậy. Cứ lấy việc các cháu xem nhiều phim lịch sử hay cổ trang của Trung Quốc mà cho rằng các cháu thuộc sử Trung Quốc là ngộ nhận, mặc dù phải thừa nhận rằng nghệ thuật điện ảnh khai thác các đề tài lịch sử của quốc gia phương Bắc này điêu luyện và lợi hại. Ngộ nhận này có lẽ chỉ vì mang quan niệm lịch sử là “nhớ” (nhớ mặt, nhớ người, nhớ sự kiện...). Điều đó không sai nhưng “hiểu” sử mới là quan trọng.Còn nếu giới trẻ Việt Nam mà hiểu lịch sử Trung Quốc hay sử nhiều quốc gia khác thì phải coi đó là điều đáng mừng! Ngày xưa, tôi thấy các cụ học sử Trung Hoa (Bắc sử) rất kỹ. Có thế mới sống cạnh họ, biết học cái hay, biết chống cái tệ của họ. Hiểu biết sâu về Trung Hoa lúc thuận có thể thù tạc, ngâm ngợi thi ca cùng họ, khi cần thiết lại đủ sức tranh biện với họ...Việc học sử dân tộc thì không chỉ trong sách vở, học đường mà học trong đời sống, từ gia đình đến xã hội... Vấn đề theo tôi, cái gốc của học sử chính là… lịch sử. Nói cách khác là phải xem lại, với lịch sử học sinh mình đang được dạy cái gì và dạy như thế nào…--HỎI* Ông có thể nói cụ thể hơn?TRẢ LỜI- Dù ai cũng nói đến cái nguyên lý khách quan của lịch sử nhưng đó chỉ là lý tưởng thôi. Lịch sử bản chất cũng là chính trị, thích ứng với lợi ích quốc gia hay của một nhóm lợi ích nào đó. Ông Tư Mã Thiên cũng vậy. Vấn đề là quan niệm về lịch sử - đó là lịch sử như ta muốn hay lịch sử như nó vốn có.Có một chuyện có thật thế này. Có cháu học sinh vào bảo tàng chuyên đề về lịch sử hiện đại, nói với cô hướng dẫn rằng cháu có một người bác hy sinh ở mặt trận biên giới phía Bắc. Cô hướng dẫn giới thiệu cháu xem phần trưng bày về Chiến dịch Biên giới (thời chống Pháp). Nó xem niên đại rồi nói rằng năm 1950 bác nó chưa đẻ. Như thế là bác cháu bé này hy sinh trong trận đánh biên giới năm 1979. Nhưng bảo tàng này không có phòng trưng bày nào, thậm chí không có dấu vết ghi lại nào, về sự kiện lịch sử đó. Vậy thì cô hướng dẫn sẽ giải thích với cháu đó thế nào?Đấy chỉ là một trường hợp rất cụ thể. Làm công việc nghiên cứu lịch sử, chúng tôi luôn đứng trước những quy định thành văn hay không thành văn quy định sự kiện này theo kết luận đã có của trên, nhân vật nọ đừng đề cập đến nữa, vấn đề ấy chưa đến lúc... Con đường nhận thức lịch sử tựa như đi trên đường có nhiều “lô cốt” thì làm sao mà gây hấp dẫn cho đám trẻ được...Tóm lại, còn rất nhiều vấn đề phải nhận thức để tháo gỡ, có những vấn đề riêng của ta, có vấn đề chung của thời đại nhưng là một người làm công tác sử học tôi thấy cái gốc vẫn ở chỗ không thể vô cảm với bản chất nhạy cảm của lịch sử.-- HỎI* Sự vô cảm này là điều đã khiến GS Đinh Xuân Lâm phải kêu trời khi nhận xét về sách giáo khoa sử. Ông có thể gợi ý một vài câu chuyện để sách trở nên “nhạy cảm” hơn được không?
TRẢ LỜI- Việc viết sách giáo khoa là một chuyên môn sâu tôi không lạm bàn. Nhưng để cho lịch sử trở nên hấp dẫn trước hết nó phải thật và biện chứng như cuộc sống chứ không phải như... ta tưởng.Tôi ví dụ, khi viết (hay giảng) về Cách mạng Tháng Tám ta thường trình bày như một “kịch bản” (đại khái): Bác Hồ trở về nước, đưa ra Cương lĩnh Việt Minh để đoàn kết và tập trung vào mục tiêu độc lập rồi triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng để thành lập mặt trận phát động đấu tranh. Nhật hất cảng Pháp, Đảng nhận ra thời cơ đến gần, Nhật đầu hàng, Đảng họp hội nghị, ra lệnh tổng khởi nghĩa, lần lượt Hà Nội, Huế, Sài Gòn giành chính quyền, Bác và Trung ương Đảng về Hà Nội tổ chức ngày Lễ Độc lập, thế là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời… Và chắc nêu đủ những nội dung ấy, một bài thi sẽ đạt điểm chuẩn!? Nhưng khi được nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự với những chiến sĩ Thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu, thì câu chuyện không đơn giản thế. Đại tướng kể trong khi ông đang đối phó với Nhật ở Thái Nguyên thì nghe tin Hà Nội đã “cướp” được chính quyền. Tổng bí thư Trường Chinh là người rất thận trọng (như bí danh “Thận” của ông), yêu cầu phải xác minh. Khi biết chắc rằng Hà Nội đã giành chính quyền thì tất cả về Tân Trào xin ý kiến của Bác. Đang ốm, nghe báo cáo, Bác chỉ ra cái lệnh đơn giản: Về thôi! Thế là mọi người tìm mọi phương tiện nhanh nhất kéo về Thủ đô. Trong hồi ức, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể rằng lúc bấy giờ xung quanh Hà Nội nước lụt ngập mênh mông, nhưng cứ chỗ nào nhô lên một mái nhà hay ngọn tre là có cờ đỏ sao vàng. Cảnh tượng thật hào hùng và cảm động... Cũng giống như ở Sài Gòn, người đứng đầu cuộc nổi dậy cướp chính quyền là Trần Văn Giàu cũng kể rằng vì đã từng thất bại trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (1941) nên nhiều người thận trọng có ý chờ đợi lệnh của trung ương mới khởi sự, nhưng tin Hà Nội đã giành được chính quyền như một hiệu lệnh để hành động... Lịch sử được trình bày như thế rất thật mà lại tôn lên được cái đặc sắc của cuộc tổng khởi nghĩa không chỉ là việc thực hiện một mệnh lệnh mà còn thể hiện tính năng động, năng lực lãnh đạo, tính tự giác của các tổ chức cách mạng biết nắm bắt thời cơ để chủ động hành động... Cũng như câu chuyện về ngày Lễ Độc lập ở Sài Gòn nhiều người viết cứ trần thuật “như thật” là cả triệu người dân Sài Gòn lắng nghe lời đọc Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Trong khi lịch sử không phải thế. Năm 1993, nhân giáo sư Trần Văn Giàu ra lại Hà Nội, chúng tôi tổ chức một cuộc gặp mặt kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám. Như ngẫu nhiên, tại đây đã diễn ra cuộc gặp mặt của 3 nhân vật. Cụ Trần Văn Giàu hồi cách mạng là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam bộ chỉ tay hỏi cụ Nguyễn Hữu Đang từng là Trưởng ban Tổ chức ngày Lễ Độc lập 2/9/1945 tại Hà Nội mà rằng: “Tại sao hồi đó cụ Đang báo tin cho ban tổ chức trong Sài Gòn là sẽ truyền thanh trực tiếp qua làn sóng điện cho đồng bào cả nước và Sài Gòn nghe Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập?”. Cụ Đang chỉ sang một cụ đứng cạnh là Nguyễn Dực, con của nhà cách tân nổi tiếng Nguyễn Văn Vĩnh, chủ cửa hiệu trang âm đã đóng góp hệ trống trang âm cho các sự kiện đương thời ở Hà Nội. Cụ Dực thanh minh: “Thì đã chuẩn bị kỹ lắm, máy tiếp âm đặt trên ô tô chắn ngang trước cổng Phủ Toàn quyền cũ (lúc này quân Nhật vẫn được giao quyền canh giữ). Nhưng không ngờ đến phút cuối cùng đường truyền trục trặc nên không phát lên sóng được... Lỗi không phải ở cụ Đang, cụ thông cảm!”. Nghe vậy, cụ Giàu bảo: “Vì không có sóng mà bà con đã tề tựu từ lâu nên tôi đành đứng lên ứng khẩu nói về cuộc cách mạng và nền độc lập. Vài hôm sau, khi nhận được bản Tuyên ngôn của Cụ Hồ gửi vô, đọc lại thấy mình nói không sai tinh thần của Cụ nên mừng và tự hào lắm...”. Bạn có thấy lịch sử sống động vì nó thực không?


************


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 09, 2025 07:17

December 28, 2024

KỶ NIỆM DẦU TIẾNG Bút ký của Tô Hoài

 Bút ký của Tô Hoài viết về một câu chuyện xảy ra từ 1942

------------Anh Thanh Tịnh có viết cho báo Du lịch chuyện khi còn trẻ anh làm nghề hướng dẫn khách cho một hội khảo cổ ở Huế. Sao anh nhớ lâu đến thế. Tôi nói vậy, anh nửa mỉm cười, nửa thở dài, rằng tục ngữ Pháp có câu: "Ai chẳng may hãy nhớ lâu thì chỉ khổ thân". Ngẫm ra, câu tục ngữ Pháp của anh xiết bao thâm thuý.Tôi biết Phượng ở Dầu Tiếng, ngót năm mươi năm đã qua. Người con gái ấy, mà trời để cho còn chừng sống, bây giờ đã lên thượng thọ rồi. Nhưng xin bạn đọc hôm nay cứ cho phép kỷ niệm tôi lúc nói về ngày ấy cũng ngưng đọng lại những ngày xa xôi ấy nhé.Vừa đây, tôi mới có dịp trở lại Dầu Tiếng. Làm sao mà tôi không thể nhớ lại cái chuyện bắt đầu, mà có lẽ thuở mười tám đôi mươi nào cũng na ná thế vậy.Tôi đáp xe đò từ Thủ lên Dầu Tiếng. Ngày ấy, tôi có người bạn trạc tuổi cùng làng, anh đi phu cạo mủ hãng Mi-sơ-lanh, làm công-ta ở Dầu Tiếng đã ba năm rồi trở về. Lần này, anh trở lại miền Nam chỉ là cách đi không mất tiền, "boóng" tàu sở mộ, rồi sẽ trốn về tìm việc ở Sài Gòn. Tôi lên Dầu Tiếng gặp anh.Xe đỗ bến trước cửa chợ. Tôi vào tình cờ một nhà hỏi thăm đường. Một người đương ngồi máy khâu bên cửa ngẩng lên trả lời câu chào của tôi.- Thầy hỏi...- Thưa cô, đường đi bến Củi...- Thầy xuống bến Vinh, đầu dốc đó....Giữa trưa, trời nắng chói loà. Cô gái vào nhà trong bưng ra khay nước đá. Tôi bỗng phảng phất nhận ra cái gì khang khác lúc này. Phải rồi, lúc nãy ở máy khâu, cô bán quần lụa đen, khác bây giờ quần trắng. Cái tuổi hai mươi của tôi lập tức bồi hồi rằng thế này có lẽ lôi thôi rồi.Câu chuyện bắt đầu như thế. Phượng ở Sài Gòn, về Dầu Tiếng nghỉ hè.Lạ lùng và thân thiết biết bao, tình cảm trong nhà Phượng, lần đầu tôi đến. Tôi bơ vơ ở đâu tới, mà được coi ngay như người nhà. Mùa hạ năm sau, tôi đánh điện cho Phượng đón tôi. Tôi không biết trong Nam có thứ hồng chín đỏ như ngoài Bắc hay không. Hôm rồi, tôi trông thấy mâm hồng trong chùa Hang trên núi Bà Đen bày những quả hồng đỏ, tôi vẫn ngờ là hồng bằng sáp nến.Phượng đón chuyến tàu xuyên Đông Dương vào tới ga xe lửa Mỹ quãng tám giờ tối.Phượng hỏi ngay:- Anh có quà biếu má không?Tôi ngượng chín cả người. Phượng cười:- Em hỏi vậy thôi. Mai em vô chợ Bến Thành mua một chục trái hồng chín. Anh nhớ nói anh mua hồng Hà Nội biếu má nhé.Rồi hôm sau chúng tôi đã đi một con đường xa nhất để về Dầu Tiếng. Có lần, đọc truyện Ba người lính ngự lâm của A-lếch-xăng Duy-ma, cũng không nhớ chỗ ấy kể chuyện Đác-ta-nhăng đương tơ tưởng bà Bô-na-xiên (hay Mi-la-đi) mà chỉ nhớ cái anh chàng mã thượng phong lưu nọ, vừa đi vừa nghĩ đến người yêu, anh ta đã chọn con đường đi lâu nhất mới về nhà. Thông thường, đi xe lửa điện lên Thủ rồi đáp xe hàng lên Dầu Tiếng độ nửa buổi thì tới. Chúng tôi đi vòng vo những hai ngày mới về được Dầu Tiếng. Tôi ôm khư khư cái gói giấy báo bọc một chục quả hồng đỏ, không dám để xuống đâu, chỉ lo bị giập mất.Chặng chót từ Gò Dầu Hạ về Bến Củi qua bến Vinh sang Dầu Tiếng. ở Gò Dầu không có xe thổ mộ sang Bến Củi. Cả hai ba chục cây số rừng cao-su, không một làng xóm nào hết. Nhưng chúng tôi chẳng cần xe thổ mộ đường dài hay từng quãng, chúng tôi thuê một cái xe lôi. ở Gò Dầu, ở Trảng Bàng, bây giờ vẫn còn xe lôi, xe lôi người đạp, xe lôi gắn máy. Nhưng chiếc xe lôi ngày ấy còn đơn sơ lắm. Cái thùng xe đằng sau không đóng cây hai hàng người ngồi, mà nó trũng dài dài như cái thuyền thúng. Năm 1961, đến Cam-pu-chia, tôi lại thấy cái xe lôi hệt như thế ở Ta Keo. Một chị Khơ-me xoè vảy ra. Để con ngồi chính giữa, vừa đẩy thùng xe, như một gié lúa toẽ ngược tủa giữa chiếc thuyền nan. Hai chúng tôi ngồi trong cái thùng ấy. Người đạp xe mải miết, cắm cúi qua những chỗ gồ ghề đất cát. Cái thùng xe chòng chành, lắc lư cứ tha hồ xô mặt mũi chúng tôi va vào nhau, thật tức cười. Đến chiều mới về tới. Vừa thấy, má đã sa hai hàng nước mắt.- Trời ơi! Giặc cướp đầy rừng mà con dám đi như thế!Tối hôm ấy, cả nhà ngồi bên gốc cây ca-pốc ở ngoài sân, sáng trăng xanh rừng cao-su. Má vẫn chưa ngớt cơn lo, cơn giận ban chiều. Cái sợ hãi lây lan ra cả những việc khác nữa. Má bảo Phượng:- Thế này rồi con phải ra ngoài Huế à?Tôi hiểu và tôi cũng lo theo điều phải nghĩ ấy của má Phượng. Thời bấy giờ, thà gả con cho thằng Minh hương ở phố chợ chẳng bao giờ đi đâu còn hơn con gái lấy chồng xa tận ngoài Bắc. Phượng cười như nói với mẹ, lại như bảo tôi:- Má à, ảnh ở đây với má mà. Anh thưa với má đi!Mấy hôm sau, tôi đã sang chợ, nhắn được người, nhưng Điều vẫn chưa ra. Mà tôi không thể được phép đến trước cái sân toà nhà đầu của sở cao-su.Hai bên phố Dầu Tiếng hồi ấy chỉ lưa thưa nhà quanh chợ. Cái cầu chợ lụp xụp đến nay vẫn còn. Chỉ có nhà bót dây thép thì không nhận ra ở chỗ nào nữa. Tôi nhớ cái nhà dây thép, bởi những lá thư tôi gửi cho Phượng đến cái phố rừng hiu hắt ấy, thường bị các thày ký dây thép bóc xem trộm, rồi (sợ luật cấm bóc thư của Tây) lại phải dán lại, nhưng tức quá, những tờ giấy thường bị vo viên gấp hành một cục xanh xanh, đến đỗi Phượng đã cấm tôi không được viết thư mùa hè về Dầu Tiếng. Nhưng tôi thôi làm cho các thầy dây thép ghen tức thế nào được. Tôi lại cứ hãnh diện và hung hăng viết cho Phượng những bức thư càng dài dài, nhiều nhiều.Kể những chuyện trẻ con ngày ấy để cười thôi, chứ cái nhớ, mà nhớ đến rợn tai, ấy là tiếng còi ủ ba giờ sáng đêm đêm. Tiếng còi điện âm u, rền rĩ, không biết từ khinh không hay từ âm ty, dội còi lôi phu cạo mủ làng một, làng hai, làng ba... bật dậy quờ quạng tìm nồi thổi cơm, nắm cơm rồi ngồi đợi hồi còi nữa lúc bốn giờ sáng thì kéo ra bãi điểm cho các thầy xu vụt roi gọi số rồi xách dao xách thùng chạy ra lò.Những buổi chợ đông, mà vẫn không thấy Điều ra. Cả cái chợ cũng của sở mủ nên nhiều cửa hàng chỉ mua bán bằng tích-kê. Mỗi kỳ lương, hãng phát vé cho phu đong gạo, mùa tĩn nước mắm, con cá khô. .. Hay là Điều đã về Sài Gòn rồi, hay là từ dưới xóm Chiếu, người ta đã chia nó đi Phú Riềng, Thuận Lợi, không được lên đây. Năm sau, 1944 - mùa hè sau cùng ấy, tôi lên Dầu Tiếng. Mới biết năm trước Điều còn ở đấy. Nhưng tại sao nó không ra, tôi không biết. Tôi chỉ mang máng đoán nó đương có một công tác bí mật gì đó. Bởi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Điều đã ra khu hoạt động công đoàn.Phượng đưa cho tôi một tập giấy khổ nhỏ về vệt mồ hôi tay và mủ cao-su. Ngoài có dòng chữ "tập thơ" với hai câu thơ, tôi nhận ra ngay chữ nó, nét còng queo chưa bao giờ được viết tập ở nhà trường. Tập thơ chép nhiều bài, Điều đã làm từ khi còn ở làng. Bài cũ, bài mới, bài tả cảnh đời, cảnh phu. Thơ của nó thì chẳng ra cái gì. Nhưng Điều thích làm thơ. Có lẽ cũng bởi cái sự tôi là bạn nó, chữ nghĩa tôi cũng lem nhem vậy vậy, thế mà tôi viết được văn, được báo, thì thằng Điều mà làm thơ, cũng lấy tên có chữ Tô, là cái tự nhiên thôi.Hai câu thơ chép ngoài bìa mà nó làm từ hồi còn hoạt động ái hữu thợ dệt nó hay ngâm nga, khiến tôi cũng đã phải thuộc.Thiếu cơm, thiếu áo, thiếu yêu đươngCái bọn nghèo ta thiếu đủ đườngPhượng nói:- Ảnh kể ảnh là người làng mình, là bạn với mình nữa. Ảnh bảo bao giờ em gặp anh thì đưa cho anh tập thơ này.Phượng ôm tôi và cười:- Ảnh kỳ thiệt! Mình có thiếu chi đâu phải hôn?*Tôi đương là khách của anh Tư Cao, giám đốc Công ty cao-su Dầu Tiếng. Anh Tư đón tôi dưới Thủ. Chúng tôi đi lên đường Bến Cát. Mỗi khi trở lại nơi có kỷ niệm, tôi có thói quen buồn bã hay tìm những cây già cỗi, những bức tường và mái nhà rêu mốc ngày trước mong như trông lại thấy mình. Con đường qua ngoài huyện. Cây dầu, cây ô môi, Những cây ca-pốc. Đôi ba mái ngói vẩy cá đen đủi, hai đầu tường hiên có cửa ra vào...Nhưng xem anh Tư đã bỏ đường Bến Cát, tạt vào giữa bát ngát những lô cao-su.Anh Tư Cao gốc Tây Ninh, người cũng vạn vỡ như Điều ngày trước, mà lạ, anh là con cháu nhà phu mủ từ đời ông. Thuở ấy, chỉ có người những vùng thiếu đói ngoài kia mới bỏ quê vào làm cao-su, chứ bà con miền Nam, dẫu cho người miền Đông khó khăn thế nào cũng chẳng ai thèm bán mình vào đồn điền cạo mủ. Thế mà bố anh, ông anh đã làm phu mủ. Và Tư Cao, công nhân cạo mủ chính cống, vừa tốt nghiệp đại học kinh tế về.Tư Cao nói:- Hãng Mi-sơ-lanh to nhất ở Nam Kỳ ngày trước, nửa thế kỷ có chín ngàn mẫu cao-su. Hai cuộc chiến tranh tàn phá còn lại chừng bốn ngàn. Chỉ trong một chiến dịch 1981-1985, mười nông truờng công ty chúng tôi đã trồng hai mươi ngàn mẫu.Tôi không phải đến Dầu Tiếng theo đường xe hàng. Không bao giờ còn có mã tà xét giấy rồi đuổi tôi ra khỏi địa phận sở mủ nữa.Ngày trước, cao-su giống Mã Lai trồng bảy năm cho mủ, bây giờ giống mới, cây chỉ năm năm đã cạo được. Nhưng con mắt tôi trông vào những lô cao-su vẫn thấy chỗ nào cũng đương mùa lá già đỏ gắt, rừng kín bưng không một tiếng chim, đâu cũng thoáng hình bóng hai người phu, nhắm mắt cũng không thể quên được khuôn mặt sốt rét bủng cứ chạy cạo mủ suốt chín trăm năm chục cây một buổi sáng, thoăn thoắt như ma biến trong hàng cây thăm thẳm. Rồi ô kìa, lại thấy bên gốc cao-su thảnh thơi những cô gái áo xanh công nhân dắt chiếc xe đạp với cái xô nhôm đã dựng sẵn đấy. Bây giờ không còn gì xưa kia nữa đâu, tốt ạ.Cái nhà khách của công ty chỉ là một nếp nhà sàn giản dị trên sông Sài Gòn - một bài thơ viết vào bóng trăng mặt nước.Làm sao mà tôi chợp mắt nổi đêm nay. Những chiếc thuyền êm ru lướt đi hớt tôm càng xanh lững lờ xanh mờ những chiếc bóng kỷ niệm suốt sáng.Cô bé ở nhà khách đặt thùng bia Sài Gòn với xô đa vào buồng tôi.- Cháu ơi, quê cháu ở đâu?- Dạ, cháu ở Dầu Tiếng.- Cháu ở phố?- Dạ.- Cháu có biết nhà bà Ba có dì Phượng, dì Xiêm...- Thưa bác, cháu không biết...Rồi sáng lúc nào cũng chẳng rõ. Cái phố rừng tấp nập rau cỏ và ăn uống suốt sáng sớm, như bất cứ một thị trấn khuất nẻo đến thế nào ở miền Nam.Cái nhà và cây ca-pốc ngày trước chẳng còn đâu nữa. Chỗ ấy mọc nếp nhà mới hai tầng của cửa hàng ăn uống. Bên kia đường, đồ sộ một bức tường xi-măng hai mặt ghi những trận đánh trong phố ngày đầu chống Pháp. Một phía, những trận càn, chống càn vùng Dầu Tiếng thời chống Mỹ. Mỗi chữ, mỗi con số ấy đỏ hỏn màu máu. Khi bắt đầu cuộc kháng chiến Nam Bộ 23 tháng 9-1945, chỉ một mùa hè sau cái năm 1944 cuối cùng xưa kia, tôi làm phóng viên báo Cứu quốc xin vào chiến trường phía nam. ở mặt trận Nha Trang, tôi đã chép và dịch tin hãng Arip tường thuật những trận đánh thần kỳ của các đơn vị Việt Minh công nhân cao-su Dầu Tiếng.Cái bến Vinh thoai thoải dốc xuống hệt ngày xưa. Hai bên bóng cây, mặt nước sông Sài Gòn mở ra một khoảng trắng ngần. Tôi không tin câu thành ngữ cũ: cái phúc không đến hai lần, cái hoạ khong đến một lần. Nhưng có điều buồn của đời người là niềm vui thường ít khi đến sóng đôi với lòng mong ước và thời gian. Thế mà sao cái bến và dòng sông kia thì tưởng vẫn như nguyên. Báo Văn Nghệ số 5 1987
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 28, 2024 18:23

Hoàng Hưng - Cuộc tranh chấp hai con người trong thơ Nguyễn Đình Thi

 Vài cảm nghĩ khi đọc tuyển Thơ Nguyễn Đình Thi, NXB. Văn học, 2001.

 ===

Tôi từng yêu và phục Nguyễn Đình Thi, lại có lúc ghét, thậm chí… xin hương hồn tiền bối đại xá, có ý coi thường ông. Giờ đây, có dịp đọc tuyển Thơ của đời ông, khi mình đã đi gần hết đời người, đã chứng kiến và chính mình trải qua bao thăng trầm lịch sử và văn chương, tôi bỗng thấy tràn ngập trong lòng một nỗi cảm thông lớn lao. Cảm thông với một thân phận do điều kiện lịch sử mà suốt đời chịu cuộc tranh chấp nội tâm không nguôi. Tranh chấp giữa con người nghệ sĩ và con người của đoàn thể. Để đi đến một kết thúc xét về mặt nào đấy thì rất buồn nhưng lại là sự chiến thắng tối hậu của nghệ thuật.

 

1. Ba phiên bản của một bài thơ:

 

Thơ kháng chiến của NĐT có một đặc điểm khác hẳn thơ các đồng nghiệp cùng thời, tạo nên bè trầm xao xuyến phối với giai điệu cao của những khúc ca chiến đấu: “Những đêm dài hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” (Đất nước). Và ông bắt đầu nổi tiếng về thơ chính là nhờ những bản tình ca chiến tranh ây. Nhưng cũng chính ở chỗ này, sự tranh chấp giữa người nghệ sĩ và người của đoàn thể dễ có cơ bộc lộ. Sự tranh chấp kéo dài suốt 60 năm có thể thấy rất rõ qua ba phiên bản khác nhau của bài “Không nói”:

Bản đầu tiên:

Không nói

 

Dừng chân trong mưa bay
Liếp nhà ai ánh lửa
Yên lặng đứng trước nhau
Em em nhìn đi đâu
Em sao em không nói
Mưa rơi ướt mái đầu
Mỗi đứa một khăn gói
Ngày nào lần gặp sau
Ngập ngừng không dám hỏi
Chuyến này chắc lại lâu
Ðoàn thể gọi
Chiều mờ gió hút
Nào đồng chí - bắt tay
Em
Bóng nhỏ
Ðường lầy

 

(Viết ở Nhã Nam trước năm 1948, Nguyễn Đình Phúc đã phổ nhạc – theo lời NĐT nói với Đỗ Trung Lai trên báo QĐND 9/9/1995, dẫn trong “50 năm văn học VN sau CMT8”. NXB Đại học Quốc gia HN 1996, tr.336) - Người chiến sĩ, NXB. Văn học, 1960)

 

Trong bài này, người mà tiếng gọi của “đoàn thể” luôn luôn làm ngập ngừng lời tâm sự riêng tư, người rất có ý thức phải nói to lên cái từ “đồng chí” để át đi nỗi buồn cô đơn cá nhân mà cảnh “chiều mờ gió hút” làm cả “tôi” và “em” nao lòng, nhưng trong sâu thẳm, cái “tiểu tư sản” ủy mị vẫn nằm phục và cuối cùng “lòi đuôi” (nói theo văn phong chỉnh huấn một thời) trong hình bóng đơn côi và nhịp điệu rời rã của khổ thơ cuối. Ta thấy con người nghệ sĩ NĐT cố gắng tự dẹp bỏ niềm riêng để vươn lên làm con người của đoàn thể; tuy chưa thành công, song ít ra có sự cân bằng tương đối giữa hai con người.

Bản thứ hai:

Không nói

 

Dừng chân trong mưa bay                                   
Ướt đầm mái tóc
Em em nhìn đi đâu
Môi em đôi mắt
Còn ôm đây
Nhìn em nữa
Phút giây
Chiều mờ gió hút
Bắt tay

Đồng chí

Em

Bóng nhỏ

Đường lầy
(Tạp chí Văn nghệ 1948)

Đến khi bài thơ được công bố sau đó (1948), thì cuộc tranh chấp lại nghiêng theo chiều “tiêu cực”. Hình như tác giả đã lấy lại từ bản viết đầu tiên nhất mà ông đã bỏ đi (hay là ông viết lại, viết thêm? nhưng tôi nghiêng về ý đầu hơn vì tính bộc phát, ít yếu tố lý trí của những câu thơ này) những câu còn ướt át hơn, riêng tư hơn: Ướt đầm mái tóc (thay vì “mưa bay ướt mái đầu”)… thậm chí nguyên một đoạn Môi em đôi mắt/ Còn ôm đây/ Nhìn em nữa/ Phút giây. Đồng thời, về thi pháp, tác giả quyết bỏ đi những yếu tố rõ tính truyền thống (nhịp câu đều đặn, nhiều vần, tính liên tục của các ý, trình bày đầy đủ hoàn cảnh bối cảnh để bài thơ dễ hiểu, dễ hình dung với người đọc) mà chỉ giữ lại những ấn tượng có tính bộc phát, được chộp lấy ghi nhanh, thậm chí nhảy cóc, “đầu Ngô mình Sở” như Xuân Diệu phê (Môi em đôi mắt/ Còn ôm đây), với nhịp điệu thật tự do trực tiếp từ sự thảng thốt của tâm trạng, nhịp loạn của trái tim, tức là không quan tâm nhiều đến người đọc bằng ghi nhận trung thực giây phút cảm xúc của bản thân cho chính bản thân – nói theo cách của thời “đổi mới” là thứ thơ “đi tìm mình”. Vậy phải chăng lúc này, con người nghệ sĩ NĐT, trong một hoàn cảnh nào đấy, có thể vì sự gần gụi số đông anh em văn nghệ sĩ mà xa các cán bộ chính trị (?), lại nổi lên hơn, đòi bộc lộ?

 

Khi tập hợp những bài thơ kháng chiến để in thành tập “Người chiến sĩ” năm 1956, NĐT đã bỏ bài này ra (có phải vì ý kiến Tố Hữu?). Và ở “Người chiến sĩ” tái bản năm 1961, ông đưa vào phiên bản một (công – tư tương đối cân bằng).
Bản thứ ba:

Không nói

 

Dừng chân trong mưa bay

Ướt đầm mái tóc

Em em nhìn đi đâu

 

Môi em đôi mắt

Còn ôm đây

Nhìn em nữa

Phút giây

 

Chiều mờ gió hút

Em

Bóng nhỏ

Đường lầy

(Thơ Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, 2001)

 

Đến lần thứ ba, vào cuối đời, sau gần 60 năm, tác giả lại đi tới cực đoan của chiều ngược lại: ông giữ lại bản in lần hai với những đọan “mùi mẫn”, đồng thời cắt hết những từ có chứa chút hình bóng con người của đoàn thể như “bắt tay”, “đồng chí”. 

 

Việc này phải chăng là minh chứng hùng hồn cho chân lý: với người sáng tạo nghệ thuật đích thực, thì cuối cùng con người riêng tư, cụ thể, nhân bản mới là cứu cánh, còn con người chức năng, công cụ, chỉ là mục tiêu nhất thời, hoàn cảnh.

 

Thái độ cực đoan ngược chiều này ở cuối đời còn khiến tác giả cắt bỏ một cách oan uổng những đoạn thơ có màu sắc “lãng mạn cách mạng” khá ổn thoả trong những bài thơ tình chiến đấu ngày trước, khiến bài thơ bị hẫng, cụt một cách vô lý:

 

Bài thơ viết cạnh đồn Tây

Bản 2001                                       Bản 1960

 

Ánh đèn không ngủ đêm nay       Ánh đèn không ngủ đêm nay

Bóng tối ngọt ngào tiếng suối     Bóng tối ngọt ngào tiếng suối

Nhớ em đôi mắt hay cười             Nhớ cái miệng hay cười

                                                    Nói chuyện những ngày mai sẽ tới

Ôi em

Lúc này em đang ở đâu                  Nhớ đôi mắt em nghĩ ngợi

                                                    Lúc này em đang ở đâu

                                                    Đêm khuya em nhớ người bộ đội

                                                       Bâng khuâng bên bếp lửa nào

 

                                                        Chúng ta như hai ngôi sao

                                                        Hai đầu chân trời lấp lánh

                                                        Trong không gian mênh mông xa nhau

                                                        Chiều chiều cùng sánh lên ánh sáng

                                                            Đem lòng hy vọng xoá thương đau

 

Nhớ

Bản 2001 bỏ hẳn khổ cuối:

 

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt

Chúng ta bên nhau chiến đấu suốt đời

Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực

Chúng ta bên nhau kiêu hãnh làm người

 

 

Đoá hoa nghệ

Bản 2001 bỏ hai câu kết:

 

Em ạ dù trong cơn bão lửa

Tình yêu không ngừng vẫn nở hoa

 

Hai câu này đúng là yếu, rút ra kết luận kiểu học trò, nhưng để lửng lơ “Anh ngắt đoá hoa đồng tươi đỏ/ Dành cho em ở cuối trời xa” thì bài thơ không đứng được.

 

2. Những yếu tố cách tân dang dở:

Người ta hay nói về hiện tượng “thơ tự do không vần” của NĐT trước hội nghị tranh luận 1949 và việc ông sửa lại cho có vần sau đó do áp lực của đoàn thể, đặc biệt là của Tố Hữu. Cũng có những người, như Hoàng Cầm, cho rằng thơ NĐT lúc không vần hay hơn là lúc sửa lại có vần. Riêng tôi, có mấy nhận xét thế này:

 

a/ Như tác giả nói trong bài phỏng vấn báo QĐND đã nêu, thật ra có vần hay không vần không phải là điều ông khăng khăng. Ông không đi hẳn một lối thơ không vần triệt để như Văn Cao sau 1954.

 

Thực ra, có vần hay không vần là do điệu tâm hồn lúc bài thơ bật ra quyết định. Thông thường, không vần khi nhà thơ muốn truyền trực tiếp những cảm xúc bất ngờ, mới lạ, bất ổn, không bị lôi đi theo thói quen ngâm nga của thơ cũ, và như vậy thường hiệu quả nhất khi đi đôi với nhịp thơ tự do. Ở NĐT, điển hình nhất là những bài Đêm sao (1947), Sáng mát trong, Đường núi (cũng có thể kể lời bài hát Người Hà Nội, nhưng đây chưa thể coi là bài thơ độc lập, nó sống được phần lớn nhờ âm nhạc). Còn lại, những bài không vần khác của NĐT có thể lạ trong thời điểm xuất hiện nhưng không gây ấn tượng, cảm xúc mạnh. Thậm chí về hiệu quả chưa bài không vần nào của NĐT có thể so với Nhớ máu của Trần mai Ninh. Tất nhiên, việc NĐT làm một số bài không vần là một sự phá cách đáng biểu dương có lợi cho tiến trình phát triển của thơ, song không nên nghĩ rằng ông là người duy nhất hoặc sáng giá nhất trong những người làm thơ không vần những năm đầu kháng chiến. Thơ tự do không vần của ông được nói đến nhiều là do thơ ông bị tập trung phê phán trong Hội nghị 1949, nhưng cũng cần nhớ là nội dung phê phán nặng nhất cũng không chủ yếu ở thơ không vần hay thơ tự do mà là ở cảm xúc cá nhân ủy mị (Tố Hữu kết luận trong tranh luận 1949: “những lúc thấy cần làm việc tôi thấy ghét thơ anh Thi ghê lắm, vì tôi thù ghét cái cá nhân nó lại trở về với tôi” - dẫn theo Vương Trí Nhàn, trong “50 năm văn học VN sau CMT8” NXB Đại học Quốc gia HN 1996, tr. 328). Nên lưu ý là bài Nhớ máu của Trần Mai Ninh không hề bị phê phán tuy cũng là thơ tự do không vần.

 

Cũng nên nói là thời kỳ cuối đời, NĐT lại phát triển lối thơ tự do không vần, thậm chí thơ văn xuôi, với số lượng bài không nhỏ (hai tập “Tia nắng”, “Trong cát bụi”) nhưng không còn gây được sự chú ý của giới thơ bởi lúc này không vần hay có vần không còn là vấn đề thời sự của thơ nữa, và cũng vì chất lượng những bài ấy không có gì nổi bật.

 

b/ Thi ảnh có tính ấn tượng, không liên tục, không chú ý liên kết, diễn giải, là nét mới nổi bật trong một số bài thơ NĐT đầu kháng chiến (có lẽ đó là lý do thơ ông bị XD phê phán là “Đầu Ngô mình Sở”), rõ nhất ở những bài Đường núi, Không nói, Sáng mát trong, Đôi mắt. Tuy nhiên, những bài viết theo lối này chỉ là những phác họa nhanh, chủ yếu gợi không khí, ghi nhận cảm gíac phút chốc, thiếu chiều sâu, không đủ vật liệu để dựng một kiến trúc thơ đường bệ, nhất là không thể đáp ứng yêu cầu tuyên truyền cách mạng. Có lẽ tác giả nhận thức rõ hơn ai hết điều này nên ông không phát triển nó thành hệ thống bút pháp; và khi cần thì ông sẵn sàng bỏ cả bài, chỉ lấy lại vài câu để tạo không khí (hứng) cho một bài thơ khác: những câu mở đầu bài Sáng mát trong đưa vào bài Đất nước - một bài thơ chính luận về lòng yêu nước. 

 

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
    thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy

(Sáng mát trong)

 

chuyển thành:

 

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

 

Sáng mát lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác heo may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

(Đất nước)
Sau này tính ấn tượng còn nổi lên trong một số câu thơ đơn lẻ nằm giữa những bài thơ miêu tả hoặc giãi bày (Chim đêm sau lán kêu thù thì… Đoàn dân công bước động rừng khuya – Bài thơ viết cạnh đồn Tây). Ở một số bài, tính ấn tượng vẫn là thế mạnh truyền cảm của thơ ông, mà có thể “Lá đỏ” là một trong những bài thành công hơn cả:

 

Gặp em trên cao lộng gió

Rừng lạ ào ào lá đỏ

 

Em đứng bên đường

                            như quê hương

Vai áo bạc quàng súng trường…

 

c/ Câu thơ như lời nói thường, đậm tính văn xuôi. Tuy NĐT nhấn rất mạnh điều này trong lý thuyết (Vài ý nghĩ về văn nghệ bộ đội, 1949), nhưng thực tế ta chỉ bắt gặp đây đó trong một số bài thơ ghi nhận những cảnh những người trên đường kháng chiến những câu: “Mấy anh du kích áo chàm vạm vỡ/ Gối đầu trên bao gạo nói mơ”, “Trên sàn tre quanh bản đồ trải rộng/ Đầu vẫn mang mũ sắt/ Cả đoàn cán bộ ngủ say ngon” (Bài thơ viết cạnh đồn Tây), “Nón ai bỏ bờ đường/ Nón đây người chạy đâu” (Chiều vui).

Dường như tác giả cũng chỉ tình cờ mà viết nên, chúng bị chìm giữa những câu “làm thơ”  theo thói quen tu từ không mới. Và quan trọng hơn, là không có những câu hay trong lối viết ấy. Ngược lại, không ít đoạn thơ thể hiện sự dễ dãi, thiếu lao động ngôn từ. Thậm chí sau này, đôi lần ông dường như có ý thức thể nghiệm loại câu này, nhưng lại rơi vào cực đoan, khiến bài thơ thành một bài báo bình thường ngắt dòng (Chị huyện ủy đến thăm sân bay, 1972).

 

Tóm lại, thơ NĐT thời kháng chiến có vài yếu tố của thơ hiện đại, nếu được chuyên chú vun trồng sẽ là đóng góp đẩy nhanh tiến trình phát triển thơ Việt. Nhưng những yếu tố ấy đều bị tác giả bỏ phí, không phát triển. Lý do thì có nhiều, do đường lối văn nghệ kháng chiến và cách mạng hướng về quần chúng công nông binh không khuyến khích sự mới lạ, do thân phận của tác giả chịu nhiều sức ép, cũng có thể do tính thoả hiệp, không đi đến cùng, nhưng tôi nghĩ cái chính là do ông không có não trạng của nhà thơ chuyên nghiệp có nhu cầu vun xới thi pháp như lẽ sống của mình. Về cơ bản, đó cũng xuất phát từ tình trạng dở dang nửa nghệ sĩ nửa cán bộ chính trị của NĐT. Kết quả ta thấy một cảnh tượng có thể gọi là ngổn ngang trong thơ ông (có lẽ đúng như ông tự tổng kết trong câu thơ: “Tất cả cửa nhà tôi đó
Ngổn ngang qua tạm cuộc đời” – Gió bay), nhiều bút pháp, nhiều đường lối chen nhau trong một tập, thậm chí trong một bài.

3. Những lời chân thật cuối cùng:

Thơ NĐT về cuối đời ít được công bố ngay khi viết, có lẽ vì chúng là những lời “nói với mình” hơn là nói với bạn đọc công nông binh và cán bộ mà ông đã quen coi là đối tượng của mình trước đây, nhưng khi làm tuyển thì ông đưa vào số lượng lớn (chiếm nửa tổng số). Nếu đem đối chiếu với những lý thuyết “nhận đường” mà ông đưa ra hùng hồn thời đầu kháng chiến, ta thấy ông đã thay đổi căn bản nhận thức về cứu cánh của nghệ thuật,

 

Những bài đạt nhất trong phần thơ cuối đời của ông là những tâm sự về tình yêu mà giờ đây ông mới tìm thấy, một tình yêu thuần túy không chút liên hệ với thời cuộc, với lý tưởng xã hội gì gì hết, mà giờ đây ông ngộ ra đó mới là ý nghĩa, lẽ sống hiện tại và vĩnh cửu của đời mình:

 

Tìm thấy em rồi không lạc nữa

Anh dắt tay em chạy giữa mưa

Quên những chông gai quên tất cả

Để lại sau lưng mọi bến bờ

(Buổi chiều ấy)

 

Là những cảm nhận về vẻ đẹp giản dị, an nhiên của đời sống. Là những trầm tư về sự sống, cái chết mang tính phổ quát.

 

Nhưng ở đây, một lần nữa, ta vẫn chứng kiến sự tranh chấp giữa con người nghệ sĩ và con người của đoàn thể trong NĐT.

 

Có một người cán bộ vẫn lên tiếng biện minh cho cách mạng sau những biến động lịch sử lớn lao:   “Ra khỏi bóng đêm/ Đi tới buổi sáng/ Không có bóc lột ăn hiếp/ Mỗi dân tộc cần đến mỗi dân tộc/ Mỗi con người cần đến mỗi con người/ Thưa bạn/ Tôi nghĩ cách mạng là như vậy… Nhưng đó không phải chuyện một lúc” (Cách mạng); vẫn như cảnh cáo kẻ nào đó muốn “cuốn bụi rác mây mù/ Hắt vào chúng ta”, rằng: “Có một khoảng trời xanh kia/ Không phải chuyện đùa” (Một khoảng trời xanh kia). Nhưng đó chỉ là những ý tưởng thuần lý, khô khan, những câu phát biểu chỉ để tranh luận với người khác, không mang dấu ấn tâm cảm của tác giả, nên thiếu thuyết phục, ít ra là thiếu thuyết phục về thơ.

 

Ngược hẳn lại, những bài đầy tâm cảm, nhạc điệu (ta biết nhiều khi nhạc điệu thơ mới bộc lộ chân thật những rung động sâu bên trong vô thức, tiềm thức của tác giả, mới là cái quyến rũ và thuyết phục chứ không phải ý tưởng) lại nói lên một NĐT nghệ sĩ chân thành bộc lộ những gì thầm kín nhất mà ta không thể ngờ ông có dũng cảm phơi bày với đời. Nhưng ta lại không bất ngờ khi gặp ở đây điệu buồn lai láng, mênh mang, thỉnh thoảng nhói lên.

 

Khi đã ở cuối đường, người nghệ sĩ bỗng hoang mang nhìn lại chặng đường rất dài mình đã đi mê mải suốt đời, tưởng như được dẫn dắt bởi một ngôi sao Bắc đẩu không thể lầm lạc. Nay thì ông thấy nó chỉ còn là “một ánh xa” rất mơ hồ, huyền ảo:

 

Đã có mùa xuân đời tôi không nhỉ
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa

(Mùa thu vàng)

 

Ở một bài thơ khác, ta bắt gặp ánh sáng dẫn đường mang tính tượng trưng khá mơ hồ ấy hiện thân vào một “con chim cánh biếc” luôn ở “phía trước” tác giả (Ánh biếc). Đó là tất cả những gì còn lại của một lý tưởng từng lộng lẫy đến thế hay sao?

 

Còn lại từ những ngày ấy sưởi ấm lòng ông lúc cuối đời chỉ là hình bóng “núi xưa” tha thiết của một thời trong trẻo, hình bóng cô gái nhỏ thôn làng có lẽ đã thầm yêu ông một tình yêu lẫn lộn giữa tình gái trai và tình dân tộc:

 

Bóng áo vải thô một cô gái nhỏ
Hàng trẩu cao đường đỏ lá vàng hoe
Em tiễn anh lính đi nơi đạn lửa
Môi run run em chúc có ngày về
(Mùa thu vàng)

 

Tổng kết đời mình, người nghệ sĩ không còn tin ở mình và nghệ thuật của mình:

 

Vâng tôi vẫn hai tay trần và túi rỗng

Không có được gì đắt giá tặng ông

Tôi còn vướng mấy câu thơ vô tích sự

Loay hoay mãi chưa xong

(Giữa đường)

 

Tôi không nói được mình đã trải đời

Không nói được mình đã hiểu người

Không dám nói mình đã biết yêu

Không dám nói mình đã biết sống

(Tóc bạc)

 

Thậm chí có những lúc bi quan đến mức ông tự nhìn mình bằng con mắt tối tăm khủng khiếp:

 

Em biết đấy - đời anh

Một mớ lòng thòng nhễ nhại

Chút ánh mờ

Khẽ thở

(Cơn dông)

 

Ông tự bôi bác mình hết mức, ta như thấy ông đấm ngực “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”:


Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn

(Gió bay)

 

Làm sao có thể hình dung lời tự thú thê thảm ấy thốt ra từ một cái miệng hào hoa của một người thành đạt bậc nhất trong văn nghệ Việt Nam hiện đại? Phải chăng trước tiếng đập cửa của Thần Chết, nhu cầu “xưng tội” để được nhẹ nhõm ra đi trở nên ám ảnh còn kinh khủng hơn áp lực “tự kiểm thảo” thời chỉnh huấn?

 

Thật đau lòng. Nhưng đúng là sau khi “xưng tội”, sau hết một NĐT bình tâm bước những bước cuối cùng trên cuộc đời này, ôm trong lòng “niềm thương đau im lặng” và tin ở “tình yêu đi mãi cùng ta”. Ra đi mà “mỗi bước vẫn bâng khuâng mỗi bước” (Trời chiều), mà lòng còn quyến luyến một “lời ai văng vẳng”.

Tiếng đập cửa thình thình gọi
Anh cười vẫy
Xin chia tay
Lời ai văng vẳng
Hôm nào gió bay.

(Gió bay)

Lời ai? Hôm nào? Đó là bí mật cuối cùng ông mang đi, không chịu chia sẻ, hay không thể chia sẻ. Đó cũng chính là bí ẩn nao lòng của nghệ thuật.

Và thế là, cuối cùng, NĐT đã ra đi trong tâm thế của một người nghệ sĩ, người của muôn đời. Ông đã được giải thoát!

 

Linh Đàm những ngày đầu năm 2008.

HH

Rút từ tập Hoàng Hưng viết về Thơ. NXB Văn học sắp ấn hành.

www.trieuxuan.info

 

 


 Theo con trai của NĐT là nhà văn Nguyễn Đình Chính, “em” trong bài thơ này là em gái của mẹ ông, tức em vợ NĐT, người mà bà ngoại của ông cũng có ý gả cho bố ông.

 Tôi không khỏi liên tưởng đến một câu chuyện thực mà mình chứng kiến, liên quan đến từ “đồng chí”. Năm 1993 (94?), khi nhạc sĩ Văn Cao đã được phục hồi và tặng Huân chương Độc lập, có một đêm nhạc Văn Cao hoành tráng được tổ chức tại NVH Thanh Niên TPHCM với sự hiện diện của nhạc sĩ. Mở đầu buổi ấy, ông Trần Trọng Tân, trưởng ban TTVH TW lên giới thiệu. Ông nói như sau (tôi nhớ gần như chính xác mấy lời mở đầu): “Thưa anh Văn Cao, thưa nhạc sĩ Văn Cao…” (giọng ông lên cao dần, nhấn mạnh dần) rồi đến cao trào “… thưa đồng chí Văn Cao” (từ “đồng chí”  là điểm nhấn cao giọng nhất)…”. Trong khi ông nói, Văn Cao cứ ngồi, không biểu lộ gì trên nét mặt, đầu hơi cúi. Sau khi ông Tân giới thiệu bằng những lời có cánh xong, Văn Cao từ từ đứng dậy, tiến đến micro, và cất tiếng: “Thưa các đồng chí,” ; bỗng ông thoáng một nụ cười rất hóm mà ai quen biết ông đều nhận ra, và nói tiếp ngay “À quên, thưa các bạn…”. Tất cả khán giả cười ồ. Chỉ thế thôi, qua cách chọn loại từ xưng hô, đủ hiểu người nghệ sĩ lớn này có quan niệm rõ ràng thế nào về kiểu người mà ông muốn mình và mọi người thể hiện trong quan hệ nghệ thuật.

 

 Khác với Tố Hữu là nhà chính trị làm thơ, Huy Cận là nhà thơ làm công chức cao cấp, Xuân Diệu là nghệ sĩ đi theo cách mạng, Chế Lan Viên là nghệ sĩ muốn làm chính trị. Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… có ý thức dứt khoát làm nghệ sĩ sáng tác, đã xây dựng được cho mình một thi pháp rõ rệt, khá hoàn chỉnh.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 28, 2024 03:20

December 1, 2024

Ngưỡng thấp của văn học - bài của Phạm Xuân Nguyên


https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0RUmBvsR6EWBbFhvC2kD1P9pMAyeE8sCArNeNN2gFx8pKqvFVTTMqKwHiBiEtXYVBl&id=100001402346694

 

Sau 50 năm từ khi chiến tranh kết thúc (1975), thống nhất đất nước, và gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đang bước vào nhóm các nước có ngưỡng trung bình cao trên thế giới.

 

Còn văn học Việt Nam đang ở ngưỡng nào của thế giới? Câu trả lời của tôi là: Ở ngưỡng thấp, dưới trung bình.

 

1.

Trong nửa thế kỷ qua, tác phẩm văn học Việt Nam được dịch nhiều nhất, được biết đến nhiều nhất trên thế giới là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh. Sau khi xuất bản năm 1990 và được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (HNVVN) năm 1991, “Nỗi buồn chiến tranh” được các dịch giả Phan Thanh Hảo, Võ Băng Thanh và Katerina A. Peirce dịch sang tiếng Anh và xuất bản đầu tiên năm 1992 tại NXB Martin Secker & Warburg (Anh). Từ bản dịch tiếng Anh đó, nhiều bản dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang các thứ tiếng khác đã được thực hiện, cho tới nay theo con số chưa đầy đủ “Nỗi buồn chiến tranh” đã được dịch ở hơn hai chục ngữ. Nó trở thành tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam trên thế giới.

 

Năm 2008, tôi có bài tổng quan về sự tiếp nhận tác phẩm này ở Mỹ cho thấy nó được đánh giá rất cao, có người xếp ngang với cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Phía Tây không có gì lạ” của nhà văn Đức E.R. Remaque. Bản dịch “Nỗi buồn chiến tranh” gần đây nhất là bản tiếng Trung của dịch giả Hạ Lộ, Phó giáo sư, tiến sĩ văn học Việt Nam tại Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Nhà văn hàng đầu của văn học Trung Quốc hiện nay Diêm Liên Khoa trong bài giới thiệu đã đánh giá “Nỗi buồn chiến tranh” cực kỳ cao. Ông đặt tên bài viết của mình là “Tầm cao của văn học chiến tranh Phương Đông”. Ông viết:

 

Tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang tiếng Trung thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay; văn học quân đội Trung Quốc cực kỳ cũ kỹ và trì trệ hôm nay cũng nhất định sẽ không bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy. Thậm chí có thể nói, nếu như có thể kịp thời dịch và giới thiệu “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, văn học quân đội Trung Quốc ngày ấy và bây giờ đều rất có thể đã mang một cảnh sắc và sinh khí khác.

 

Nghiền ngẫm “Nỗi buồn chiến tranh” với tư cách là một tiểu thuyết chiến tranh phương Đông trong bối cảnh văn học thế giới và so sánh nó với dòng văn học chiến tranh mà chúng ta có thể đọc được của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, rõ ràng “Nỗi buồn chiến tranh” đánh dấu tầm cao của một thứ văn học mới. Một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có trong những miêu tả, nhận thức, phê phán thẩm mĩ đối với chiến tranh, hiếm có trong những lý giải và tình yêu đối với con người, những suy tư về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ thuật – một phương diện cá tính nhất, quan trọng nhất đối với một nhà văn”. (Thiên Thai, dịch từ tiếng Trung).

 

Một nhà văn Việt Nam tiêu biểu khác có tiếng vang ra thế giới là Nguyễn Huy Thiệp (1950-2021). Tác phẩm của ông cũng đã được dịch ra một số thứ tiếng. Riêng ở Pháp, và chủ yếu ở Pháp, Nguyễn Huy Thiệp được dịch nhiều nhất. Đặc biệt Éditions de l’Aube, một nhà xuất bản tư nhân nhỏ tại Paris, đã cho dịch gần như toàn bộ các tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Pháp.

 

Éditions de l’Aube thành lập năm 1987, chủ trương dịch và in sách của các tác giả ở các “nền văn học nhỏ” và các tác giả “có triển vọng”. Trong danh mục sách của Nhà xuất bản này có sách của các tác giả Iran, Afghanistan, Trung Quốc, Algérie, Việt Nam (ngoài Nguyễn Huy Thiệp còn có Tô Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Thiều, Vũ Bão…). Ngoài ra, còn có rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trên thế giới (Václav Havel, Cao Hành Kiện, Tony Blair…).

Chính d’Aube trong một tham vọng của mình, được khích lệ bởi thành công trước đó với Cao Hành Kiện – nhà văn Pháp gốc Trung Quốc từng in những tác phẩm dịch ra tiếng Pháp đầu tiên ở đây về sau đã được giải Nobel văn chương (2000), chính d’Aube đã gợi ý Nguyễn Huy Thiệp viết tiểu thuyết (trước 2013 giải Nobel văn chương trao cho nhà văn là phải có tiểu thuyết). Được sự thúc đẩy ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã viết tiểu thuyết ‘Tuổi hai mươi yêu dấu’ và nhanh chóng khi bản tiếng Việt chưa in/ chưa được in trong nước thì bản thảo đã có bản dịch tiếng Pháp in tại Paris. Éditions de l’Aube đã chọn đó là cuốn sách thứ 1.000 kỷ niệm 18 năm hoạt động của mình.

 

Dịp ra mắt sách Tuổi hai mươi yêu dấu Nguyễn Huy Thiệp đã được mời sang Paris giao lưu và ký sách (tôi khi ấy đang ở Pháp có đến dự). Khi Nguyễn Huy Thiệp mất, nhà văn Linda Lê (1963/2022) trong bài viết tưởng nhớ có tên “Sự biến mất của kẻ gây hấn” đã đánh giá:

Dù nói về tình yêu đất nước, nỗi thương nhớ đồng quê hay những mưu mô trong cung đình hoặc thậm chí là về thơ, Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ mình là một người bài thánh rung lên hồi chuông, một nhà văn có con mắt linh miêu, một nhà mổ xẻ sắc bén đã thọc mũi dao vào lõi của sự thỏa hiệp, một nghệ sĩ đi rất sát với hiện thực để cười nhạo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, một người kể chuyện không là tiền quân cũng không là hậu quân, người không phải là nhà tiên tri ở đất nước mình. Sự biến mất của Nguyễn Huy Thiệp là sự biến mất của một kẻ nổi loạn đã biến văn chương của mình thành sự gây hấn”. (Ngân Xuyên, dịch từ tiếng Pháp)

 

Trên đây là hai nhà văn nổi tiếng nhất Việt Nam thời Đổi Mới đã được dịch nhiều nhất ra thế giới (một người là một cuốn tiểu thuyết, một người là các truyện ngắn). Từng nghe ồn là cả hai ông đã có được đề cử giải Nobel văn chương. Thực hư thế nào phải đợi đến năm mươi sau khi thông tin này được Uỷ ban Nobel giải mật thì mới rõ. Chỉ biết Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp qua các bản dịch đã được độc giả thế giới biết đến, nhưng là được biết đến trong một cộng đồng văn chương hẹp.

 

2.

Tôi nói một cộng đồng văn chương hẹp là nhìn rộng ra cả thế giới. Văn học châu Á chưa phải là khu vực nổi bật. Trong châu Á thì văn học Đông Nam Á càng rất thiểu số. Văn học Việt Nam đi ra thế giới nằm trong thiểu số đó.

 

Có hai trở ngại trên con đường văn học Việt Nam xuất ngoại và tạo dấu ấn.

 

2.1. Thứ nhất là chất lượng tác phẩm. Nửa thế kỷ qua văn học Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, đã có những bứt phá so với chính mình về nội dung và nghệ thuật, đã có những tác giả và tác phẩm tạo được bề nổi. Có thể nói văn học Việt Nam năm mươi năm (1975-2025) là một thời kỳ phát triển mới, đa dạng phong phú hơn nhiều so với thời kỳ trước đó. Nhưng nói thực đó vẫn là nền văn học chưa VƯỢT ĐƯỢC NGƯỠNG MÌNH. Số phận dân tộc Việt Nam thế kỷ XX chứa đựng trong mình những chấn thương lịch sử ghê gớm, khủng khiếp mà văn chương chỉ mới gãi ngoài da. Nhà văn Việt Nam cả trong nước và ngoài nước, cả bên này bên kia, đều chưa vượt thoát lên được tầm dân tộc, chưa nói đến tầm nhân loại, để suy nghĩ về người Việt nước Việt trong lịch sử tàn khốc xảy ra trên đất nước này thế kỷ vừa qua. Chiến tranh trong văn học Việt Nam vẫn là chiến tranh được/bị nhìn từ một phía. Lịch sử vì thế cũng là lịch sử nghiêng về một bên, một phe. Con người trong chiến tranh vẫn là con người phiến diện. Những tác phẩm thời hậu chiến đã có sự mở rộng đề tài và khơi sâu nội dung để cái viết về chiến tranh nhiều chiều lớp, nhiều vỉa tầng hơn, sát thực với hiện thực hơn, tuy nhiên vẫn không chạm được mấy tới những chấn thương lịch sử của dân tộc. Những cái viết khác ngoài chiến tranh thì thường hời hợt. Tóm lại, chấn thương của người Việt trong chiến tranh và trong đời sống hiện đại đều đang nhạt nhoà trong văn chương người Việt. Một hạn chế nữa của văn chương Việt Nam là cách viết vẫn nặng chủ nghĩa hiện thực, hầu như không có những thế giới tưởng tượng phi thực trong tác phẩm. Văn chương đó ra thế giới khó gây được sự chú ý của độc giả nước ngoài là điều dễ hiểu. Nhất là khi đặt cạnh những tác phẩm của những tác giả châu Á khác tạo được tên tuổi trong bản dịch. Phá bỏ trở ngại thứ nhất này là điều kiện cần để văn học Việt Nam đủ tầm vươn ra thế giới.

 

2.2. Trở ngại thứ hai là dịch thuật – điều kiện đủ để văn chương vượt biên giới quốc gia. Nghệ thuật ngôn từ, khác các loại nghệ thuật khác, dùng chất liệu là lời nói, từ ngữ, mà loài người từ khi bị Chúa phá tháp Babel thì đành phải thông qua dịch mới hiểu nhau. Nói rằng chúng ta không quan tâm việc dịch văn chương tiếng Việt ra các ngoại ngữ thì không đúng. Nhưng đó là một sự quan tâm nửa mùa, được chăng hay chớ, không liên tục, hệ thống, đặc biệt là không có một CHIẾN LƯỢC DỊCH VĂN CHƯƠNG VIỆT RA NƯỚC NGOÀI TẦM QUỐC GIA. Hội Nhà văn Việt Nam đã bốn lần được nhà nước rót nhiều tiền để mở hội nghị quảng bá văn học Việt Nam. Hội nghị rùm beng rình rang kéo từ Hà Nội xuống Quảng Ninh, tiệc lớn tiệc nhỏ, khách ba chủ nhà bảy, dịch giả nước ngoài thì ít, lại không tinh, cuối cùng tan cuộc là tan trò, “đầu voi đuôi chuột”. Sau mấy cuộc quảng bá như thế không ai tổng kết xem đã có bao nhiêu tác phẩm văn chương Việt được dịch ra những thứ tiếng nào, dịch ra sao, tiếp thị thế nào trên văn đàn thế giới. Điều này tôi đã từng nói ngay khi những hội nghị đó đang diễn ra.

 

Thôi không nói chuyện đã xa, nói chuyện gần đây, bằng vào một trường hợp cụ thể ở một đất nước Đông Á. Nobel văn chương 2024 đã trao cho nhà văn Hàn Quốc Han Kang (sinh 1970). Các nhà phê bình văn học nhấn mạnh rằng các chủ đề phổ quát kết hợp với những chấn thương lịch sử của Hàn Quốc như Cuộc khởi nghĩa dân chủ Gwangju ngày 18 tháng 5 (1980) và Cuộc khởi nghĩa Jeju ngày 3 tháng 4 và vụ thảm sát (1948-1949) trong tác phẩm của Han Kang đã thu hút sự chú ý của cộng đồng văn học nước ngoài. Lời tuyên dương của Uỷ ban Nobel đánh giá Han Kang “bằng một thứ văn xuôi mang chất thơ mãnh liệt đã đương đầu với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người”. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn nói giải Nobel cho Han Kang là kết quả của cả một chiến lược tiếp thị văn hoá nghệ thuật Hàn Quốc ra toàn cầu mà chính phủ nước này đã thi hành từ lâu. Không có chiến lược đó không có sự bùng nổ của văn hoá K-Pop (âm nhạc, điện ảnh, thời trang, lối sống) như đã và đang thấy hiện nay trên thế giới. Không có chiến lược đó không có giải Nobel văn chương của Han Kang.

 

Hàn Quốc đã làm thế nào trong lĩnh vực văn học?

 

Han Kang may mắn có được hai dịch giả tiếng Anh và tiếng Pháp đưa tác phẩm của mình thành nổi tiếng thế giới. Đó là Deborah Smith, người dịch tiểu thuyết “Người ăn chay” (2007) từ tiếng Hàn sang tiếng Anh “The Vegetarian” (2015), giành giải thưởng Booker Quốc tế danh giá của Anh (2016). Và đó là Choi Kyung-ran và Pierre Bisiou đã dịch tiểu thuyết “Không nói lời từ biệt” từ tiếng Hàn sang tiếng Pháp “Impossibles adieux” giành giải thưởng Prix Medicis danh giá của Pháp (2023). Nhưng đằng sau các dịch giả này có sự hỗ trợ to lớn của hai tổ chức lo việc đưa văn chương Hàn Quốc xuất ngoại.

 

Đầu tiên là Viện Dịch thuật Hàn Quốc Quốc (Literature Translation Institute – LTI) do Chính phủ Hàn Quốc lập ra năm 1996 với mục đích quảng bá văn học và văn hóa Hàn Quốc ra nước ngoài. LTI Korea thường xuyên tài trợ cho hoạt động dịch thuật và xuất bản các tác phẩm tiếng Hàn để thúc đẩy hoạt động dịch thuật văn học Hàn Quốc chất lượng cao và đang thúc đẩy nhiều chương trình trao đổi ở nước ngoài nhằm tăng cường cơ sở xuất khẩu văn học Hàn Quốc và thiết lập mạng lưới cho các nhà xuất bản Hàn Quốc và nước ngoài. Viện cũng hoạt động để bồi dưỡng các dịch giả chuyên nghiệp nhằm nâng cao năng lực dịch thuật văn học Hàn Quốc.

 

LTI có ba chương trình hoạt động chính là tài trợ dịch thuật, tài trợ xuất bản, và đào tạo dịch giả.

 

Chương trình tài trợ dịch thuật: Mỗi quý, LTI Korea lựa chọn và hỗ trợ cho các dự án dịch các tác phẩm văn học Hàn Quốc như tiểu thuyết, thơ, kịch, phi hư cấu, sách cho thanh thiếu niên, tiểu thuyết về giới và tiểu thuyết đồ họa. Mỗi đơn đăng ký được đánh giá dựa trên chất lượng bản dịch và tác phẩm gốc. Từ năm 2014, LTI Korea không hỗ trợ dịch toàn bộ tác phẩm gốc. Ban đầu, LTI Korea cung cấp khoản tài trợ cho bản dịch mẫu và khoản tài trợ cho phần còn lại của tác phẩm sẽ được cung cấp sau khi dịch giả và tác giả ký hợp đồng xuất bản với một nhà xuất bản quốc tế.

 

Chương trình tài trợ xuất bản: được cung cấp cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền đối với các tác phẩm được dịch với sự hỗ trợ của LTI Korea. Từ năm 2014, LTI Korea cung cấp cả khoản tài trợ dịch thuật và xuất bản cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền xuất bản các tác phẩm văn học Hàn Quốc đã được dịch.

 

Đào tạo dịch giả: đến nay LTI đã tổ chức được nhiều khoá học đào tạo các dịch giả văn học của 44 thứ tiếng, trong đó có các tiếng chính như Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Trung, Nhật. Bên cạnh việc đào tạo LTI còn lập ra Giải thưởng dịch thuật văn học Hàn Quốc nhằm khuyến khích các dịch giả trẻ và đang hành nghề.

 

Tổ chức thứ hai là Quỹ Văn hóa Daesan (The Daesan Cultural Foundation – DCF), một quỹ chuyên về văn học đầu tiên và duy nhất trực thuộc một tổ hợp lớn của Hàn Quốc, và là một quỹ vì lợi ích công cộng trực thuộc Tập đoàn Bảo hiểm Nhân thọ Kyobo. Quỹ được thành lập ngày 28/12/1992 (tên gọi ban đầu là Quỹ Daesan) với mục đích đóng góp vào sự phát triển nền văn hóa dân tộc và sự toàn cầu hóa nền văn học Hàn Quốc. Giải thưởng Văn học Daesan, Chuỗi Văn học Thế giới Daesan và Cuộc trường chinh châu Á là những hoạt động nổi tiếng của Quỹ. Một trong những mảng hoạt động chính của DCF là Toàn cầu hoá văn học Hàn Quốc, trong đó tập trung hỗ trợ cho việc dịch thuật, nghiên cứu và xuất bản văn học Hàn Quốc trong các thứ tiếng. Tiêu chí ở đây là: HỖ TRỢ DỊCH VÀ XUẤT BẢN CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐÁNG ĐƯA RA TOÀN CẦU VÀ CÓ TIỀM NĂNG ĐƯỢC CÁC GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG QUỐC TẾ. Có thể thấy rõ điều này ở Han Kang. Chỉ riêng các tác phẩm của Han Kang đã được hưởng lợi từ chín khoản tài trợ dịch thuật của DCF, bao gồm sáu đầu sách của bà bằng bốn ngôn ngữ. Bản dịch tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Người ăn chay” của Han Kang đã được DCF hỗ trợ từ năm 2014. Nhờ đó các tác phẩm của Han Kang đã có được những bản dịch tốt “củng cố vị thế của bà như một nhân vật văn học trên toàn cầu và làm tăng thêm sự quan tâm đến văn học Hàn Quốc trên toàn thế giới” như nhận xét của ông Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc. Khi biết tin Han Kang được giải Nobel văn chương 2024 ông nói: “Mặc dù tôi dự đoán đất nước cuối cùng sẽ có một người đoạt giải Nobel Văn chương, nhưng tôi thực sự ngạc nhiên khi điều đó xảy ra sớm hơn dự kiến. Bây giờ là lúc phải thực hiện những sự chuẩn bị cần thiết trong những năm tới để định hình tương lai của nền văn học Hàn Quốc trên trường quốc tế”.

 

Hai tổ chức này, LTI của Chính phủ và DCF của tư nhân, đã thành bệ đỡ cho các tác phẩm Hàn Quốc đi ra thế giới. Hơn 200 tác phẩm Hàn Quốc hiện được dịch hàng năm và kể từ năm 2010, các nhà văn Hàn Quốc đã giành được hai đến ba giải thưởng văn học quốc tế lớn mỗi năm, với một số năm đạt tới sáu hoặc bảy giải thưởng. Ngay sau thắng lợi của Han Kang, Bộ Văn hoá Hàn Quốc đã thông báo họ đã đảm bảo được một ngân sách cao hơn để hỗ trợ sách tiếng Hàn được dịch sau chiến thắng giải Nobel của Han Kang vào tuần trước. Bộ này dự kiến sẽ chi 48,5 tỷ won (35,4 triệu đô la) để quảng bá văn học vào năm 2025, tăng 7,4 phần trăm so với năm nay.

 

Đặc biệt, Bộ Văn hóa đã phân bổ 7,66 tỷ won cho Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc (LTI). Trong số tiền này, 3,12 tỷ won sẽ hỗ trợ việc xuất bản sách dịch và 4,54 tỷ won sẽ dành cho việc quảng bá chúng. Ngân sách xuất bản tăng 800 triệu won trong khi ngân sách quảng bá tăng 450 triệu won. “Chính phủ luôn ủng hộ tác giả Han Kang về các tác phẩm dịch của bà, và khi trường hợp của bà thành công, chính phủ sẽ mở rộng hỗ trợ cho các tác giả địa phương và xây dựng một hệ thống dẫn đến thành công toàn cầu của họ”, Shin Eun-hyang, một viên chức chính sách nghệ thuật tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết. “Chúng tôi cũng sẽ xây dựng một mạng lưới an toàn cho các nghệ sĩ và nhà văn để đảm bảo rằng họ có thể tiếp tục với các tác phẩm sáng tạo của mình bất chấp những điều kiện khó khăn”.

 

Trông người lại ngẫm đến ta. Tôi xin nhắc lại một lần nữa: chúng ta không có một chiến lược khả thi đưa văn chương Việt Nam ra thế giới. Trước nay và gần đây vẫn có những nỗ lực của các cá nhân nhà văn, nhà thơ và những hội nhóm văn chương dịch văn Việt ra nước ngoài, nhưng đó là những hoạt động nhỏ lẻ, manh mún, ít tạo được tiếng vang. Cần một chiến lược quy mô quốc gia. Hãy nhìn vào Hàn Quốc và học tập họ.

 

1) Nhà nước cần phải lập ra một Viện dịch thuật văn chương Việt Nam như kiểu LTI. Phải đầu tư vào đó có bài bản, chương trình. Phải theo đuổi cho những tác giả được chọn có những bản dịch xứng đáng, khả dĩ có thể vào được các thị trường văn chương lớn. Tôi thấy hiện nay một nhà văn như Nguyễn Bình Phương là rất đáng để đầu tư dịch thuật và giới thiệu có hệ thống, bài bản.

 

2) Phải lựa chọn và ưu đãi những dịch giả cả trong nước và ngoài nước có khả năng cho ra những bản dịch văn chương chất lượng, có thể vươn tới những giải thưởng danh giá trên thế giới. Dịch giả An Lý là một người như vậy. Chị thuộc thế hệ 8x, đã có kinh nghiệm 15 năm dịch văn chương Anh-Việt với nhiều bản dịch các tác phẩm của các tác giả đương đại nổi tiếng thế giới. Tác phẩm dịch Việt-Anh đầu tay của chị là tiểu thuyết “Chinatown” của Thuận đã được nhận PEN Translates Award, một quỹ hỗ trợ các bản dịch chưa xuất bản của English PEN; vào chung khảo của các giải Republic of Consciousness Prize for Small Presses và giải National Translation Award, vào sơ khảo giải Warwick Prize for Women in Translation. Ngày 12/11/2023 An Lý đã trở thành dịch giả Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng uy tín National Translation Award của Hiệp hội Dịch giả văn học Mỹ (ALTA).

 

3) Lại cũng cần có sự chung tay của tư nhân, doanh nghiệp, lập ra những Quỹ văn chương như Quỹ Daesan. Cần kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào xuất khẩu văn chương Việt.

 

Đừng chạy theo những hội hè đình đám nữa, mà hãy đi vào thực chất. Hàn Quốc đã làm được thế mà họ còn coi giải Nobel của Han Kang như một sự khởi đầu. Tôi lại xin dẫn lời Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc: “Việc dịch thuật mất thời gian nhưng tôi thường nhấn mạnh đến sức mạnh của văn học. Văn học giống như một bản đồ địa hình phản ánh một thời đại hoặc một xã hội cụ thể. Một khi đã được dịch, nó không chỉ mang theo văn bản mà còn mang theo cả tinh thần của thời đại đó. Theo nghĩa đó, tác động mà nó sẽ có khi đến được với những đối tượng mới sẽ rất lớn. Giải Nobel đã đưa văn học Hàn Quốc lên vị thế trên sân khấu văn học toàn cầu, làm nổi bật ý nghĩa lịch sử và tinh thần sâu sắc, rộng lớn và phong phú của nó. Chúng ta không nên chỉ hài lòng với thành tựu này; chúng ta phải nỗ lực mở rộng và làm giàu nền tảng này. Các chính sách văn hóa cũng nên tập trung nhiều hơn vào khía cạnh này để các nhà văn mới có thể phát triển.”

 

Văn học Việt Nam cứ là nằm ở ngưỡng thấp, còn lâu mới lên được ngưỡng trung bình thế giới, nếu không dốc sức phá bỏ hai trở ngại nói trên. Các nhà văn hãy vượt qua chính mình và vượt qua những rào cản xã hội để sáng tạo ra những tác phẩm văn chương tiếng Việt chất lượng cao. Nhà nước hãy tạo điều kiện tốt nhất cho những tác phẩm đó có được hoá thân chất lượng cao trong các thứ tiếng khác. Còn không, kinh tế Việt Nam có thể vượt qua ngưỡng trung bình thu nhập, nhưng văn học Việt Nam vẫn nằm dưới ngưỡng trung bình sự chú ý của thế giới.

 

Hà Nội, 26/11/2024

PXN

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 01, 2024 18:36

November 28, 2024

Tôi đi học -- Trích Fb Bảo Liên Lê ngày 8-10-2024


Không hề có “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi”… như Thanh Tịnh miêu tả, suốt thời tuổi nhỏ mình chưa bao giờ, chưa một lần nào được mẹ đưa đi học.

Đó hoàn toàn là những năm tháng mình lăn lộn kiếm sống, một buổi đi học, một buổi đi bán hàng. Ngay từ nhỏ học cấp 1, mẹ đã bắt mình đem kẹo vô lớp bán, chuyện đó dễ vì mình học giỏi được các bạn thương mến, giờ ra chơi là tụi nó bu lại mua kẹo giúp mình. Nhưng lớn lên thì không bán kẹo được nữa, cuộc mưu sinh khó khăn hơn khi đất nước chìm trong nghèo đói thời bao cấp.

 

Đáng nhớ nhất là năm lớp 9 ở Trà Vinh. Đi học buổi chiều, mỗi sáng mình bán thuốc lá ở bến xe. Ngồi sau cái tủ thuốc lèo tèo vài gói Samit, Hoa Mai, Sông Cầu, Capstan, 555, Đà Lạt… ngồi còng lưng cả buổi sáng không hết 5 gói thuốc vì người ta lúc đó chỉ mua lần một hai điếu chứ chả ai mua cả gói.

 

Không hiểu sao bán thuốc lá mình rất xấu hổ, hễ nhìn thấy bạn bè đi ngang là mình kéo nón sụp xuống che mặt, ngồi nấp kín sau cái tủ thuốc

Biết mình hay mặc cảm với bạn bè, mẹ ra đòn sửa dạy gọi là "cho hết tật xấu hổ, con nhà nghèo bày đặt cao ngạo".

Mẹ bắt mình đem nước mắm vô trường học bán. Mẹ giao cho mình 2 can nước mắm 20 lít, lệnh là phải bán cho hết. Nghĩ sao vậy? Bạn bè mình cũng chỉ là những đứa học trò con nít, tụi nó biết gì mà mua nước mắm? Mình vô trường năn nỉ cô Hải Lý tổng phụ trách Đội, nhờ cô hỏi giúp giáo viên trong trường ai cần mua nước mắm thì mua dùm.

 Sáng hôm sau, cô mang về mấy chục chai, lọ, can thùng của giáo viên trong trường gửi đong nước mắm và một bản danh sách dài những thầy cô đăng ký mua. Cô tổng phụ trách còn cho mình mượn nhà cô, ở khu tập thể trong trường, để mình đong bán nước mắm nữa chứ. 

 

Lúc đó mình chỉ nặng chừng 30kg, cao 1,4 m mà phải ì ạch chở 2 can nước mắm 40 lít vô trường. Đong mấy chục chai lọ, hết 40 lít nước mắm thì đã đến giờ vào học buổi chiều, mình lếch thếch xách 2 tay 2 can nhựa đi bộ về, cả người bốc mùi nước mắm thúi hoắc. Bạn bè đi học phía bên kia đường nhìn thấy mình kêu ơi ới: “Đi học BL ơi, sao không đi học? Mau trễ học kìa” …

 

Mình ngoảnh mặt đi giấu dòng nước mắt rơi lã chã dọc đường về.

Năm lớp 9 của mình quả là 1 năm đầy kịch tính. Gần cuối năm mình bị sốt xuất huyết nặng: cả người thâm tím vì xuất huyết dưới da, tiêu tiểu ra máu và máu mũi chảy ra liên tục không cầm được.

 

Nằm mê man mấy ngày trong bệnh viện, tỉnh dậy nhớ ra hôm nay là ngày thi học sinh giỏi văn cấp thị xã, mình khóc đòi đi thi. Mẹ cho mình ngồi ngật ngưỡng trên yên xe đạp, chở từ bệnh viện vô trường. Thầy cô nghe nói thí sinh vẫn đang nằm viện thì không cho vào, an ủi động viên bảo mình đi về.

 Mặc dù không thi vòng thị xã nhưng một tháng sau mình vẫn có tên trong danh sách thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Và mình đậu liền giải Nhất, được tuyển thẳng vào trường cấp 3.

 

Ngoài giải thưởng của Sở giáo dục, thầy Nguyễn Trung Tâm hiệu trưởng còn tặng cho mình thêm phần thưởng riêng. Thầy nói mới biết, thầy đã đích thân lên Sở giáo dục năn nỉ cho mình thi vòng tỉnh mà bỏ qua vòng thị xã, thầy cam đoan với hội đồng thi là mình thi sẽ có giải, thế nên khi mình đạt giải Nhất thầy mừng vui lắm, vừa có thành tích cho trường và thầy không bị mất uy tín với Sở giáo dục.

 

Mình không bao giờ quên được tình yêu thương của Thầy Cô giáo thời đó ở Trà Vinh, cái thời mà người ta chưa biết kinh doanh giáo dục.

 

Nhà nghèo rớt, mình đi học không tốn đồng nào, tập vở bút viết lãnh thưởng năm trước để đi học năm sau, mót từng tờ giấy chiếc còn lại của tập vở cũ để đóng thành vở học, sách giáo khoa mượn của trường, sáng đi học ăn cơm nguội khoai lang, chả bao giờ có đồng bạc nào ăn quà bánh.

 

Cô giáo dạy tiếng Pháp Madame Đẹp thường đem bánh kẹo vô lớp bán cho học trò. Giờ ra chơi cả lớp xúm vào mua bánh ủng hộ cô, riêng mình ngồi yên, cô bèn giả bộ ra nội quy thưởng bánh kẹo cho đứa nào được 10 điểm Pháp văn, là cố ý để tặng bánh kẹo cho mình.

 

Biết ý cô, mình không nhận, cô làm bộ lấy nội quy ra làm nghiêm, ép mình nhận. Cô mất lâu rồi mà mỗi khi nhớ cô mình không cầm được nước mắt.

 

 

Thầy cô thời đó yêu thương học sinh hết lòng, dạy học bằng tất cả lòng yêu nghề yêu người. Nhiều giáo viên cấp 1 chỉ học trung cấp sư phạm một năm là đi dạy nhưng có đầy đủ đạo đức nghề nghiệp và tư chất mô phạm, đâu phải như bây giờ toàn cử nhân, thạc sĩ mà không biết giữ tư cách làm thầy- như cô giáo ngữ văn vừa rồi để cho học trò trai ôm vai kề má.

 

 

Thời nay nhìn quanh trường học nào cũng tìm đủ mọi cách bào phụ huynh, xin xỏ laptop như giáo viên Q1- TPHCM, hoặc kê khống cả tiền vận chuyển máy lạnh, như cái trường nào đó ở Hà Nội nổi nhất mạng xh mấy hôm nay. 

Nếu đổi lại thời này, chắc  không bao giờ mình được đi học. Và aibiết hiện nay có bao nhiêu đứa trẻ không được đi học vì nghèo?

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 28, 2024 03:09

November 23, 2024

Đi tìm dịch giả Trần Dần -- bài của Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 

Có một lời đề từ trong một cuốn sách dịch cứ đóng xích trong tâm tư tôi suốt mấy chục năm ròng, không chỉ vì nội dung độc đáo mà còn vì thân phận đặc biệt của nó: “Tôi tặng cuốn sách này cho những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh, mà chết đói” – Juyn Valex (Cậu tú, Nxb Văn học, 1974).

Cả bộ ba tiểu thuyết dịch Jăc Vanhtrax (trilogie) gồm: Chú béCậu túNgười khởi nghĩa của nhà văn Pháp Juyn Valex tôi đã mua được trong lần đi coi thi tốt nghiệp phổ thông trung học tại huyện Sông Mã (Sơn La), ở một hiệu sách mà chỉ giáo viên cấp III phố huyện mới là khách thường xuyên. Ban ngày coi thi (mà số giám thị còn đông hơn thí sinh), buổi tối ngồi tán gẫu bên bếp lửa với anh em giáo viên tập thể nhà trường, tôi có đem khoe bộ sách mới mua được và thắc mắc với bạn đồng nghiệp: “Vì sao cả ba cuốn sách đều không đề tên người dịch, trong khi đó thì lại có tên của người làm bìa sách?”.

Các bạn tôi đều lắc đầu rồi mau chóng chuyển sang những giai thoại về nhà giáo Tây Bắc quanh chai rượu nhạt men lá. Nhưng đêm ấy và suốt những đêm sau đó, cứ rời khỏi các trang sách dịch dưới ánh đèn dầu, giữa một thị trấn miền núi cô tịch, thắc mắc kia lại trở về ám ảnh tôi.

Đã từng quen thuộc với sách của những dịch giả nổi tiếng như Hoàng Thiếu Sơn, Cao Xuân Hạo, Tuấn Đô, Dương Tường, Nhị Ca, nhóm Lê Quý Đôn, v.v., chỉ cần đọc vài trang sách dịch Jăc Vanhtrax tôi hiểu ngay rằng dịch giả của nó phải thuộc loại cự phách! Số lượng in mỗi tập hồi ấy là 15.200 cuốn (gấp 15 lần so với một cuốn tiểu thuyết văn học dịch thời bây giờ, và giá cả thì cũng không đến nỗi “cứa” vào đồng lương còm của giáo chức, vì thế, giáo viên miền núi chúng tôi mới mua được sách quý ở một thị trấn đồng rừng heo hút). Nhưng tại sao?… Sự cố tình hay là sự sơ xuất của một nhà xuất bản lớn, có uy tín? Cái bí ẩn đó đeo đẳng tôi mất nhiều năm ròng.

Về hè năm ấy, tôi có hỏi bố tôi – họa sĩ Nguyễn Quảng, nguyên là một giáo sư Pháp văn có quan hệ khá rộng trong giới văn chương, ông chỉ mỉm cười như thương hại thằng con trai cả đã dạy học được vài năm nhưng vẫn còn ngây ngô thơ dại lắm! Cũng trong dịp hè đó, nhà thơ Đoàn Phú Tứ có lần đến thăm gia đình tôi. Vừa xuất hiện trước cửa, nhìn thấy bố tôi, bác đã giơ ngón tay lên nói như một kịch sỹ: “Alcool! Alcool!”. Bố tôi chỉ tay vào tôi: “Hôm nay, thằng nhãi này, một “tín đồ” của toa sẽ mua rượu chiêu đãi toa với moa! Nó có lương đấy! lương giáo viên cấp ba hẳn hoi cơ!”. Rồi ông quay lại tôi: “Tao hết chữ Pháp dạy mày rồi! Mày cắp tráp đến bác Tuấn Đô mà học nhé!”.

Nghe thấy chữ “Tuấn Đô”, tôi sửng sốt, mắt tròn mắt dẹt, bố tôi và bác Đoàn Phú Tứ cười như phá… Trong lúc chạy đi lùng mua rượu và đồ nhắm cho hai ông “tiên tửu” (bố tôi vẫn gọi các bạn rượu của mình như thế), khi tình cờ được biết rõ lai lịch của dịch giả kiệt tác Đỏ và đen (Le Rouge et le Noir – Stendhal), tôi dự định sẽ hỏi bác bằng được về người dịch bộ Jăc Vanhtrax. Nhưng ngắm và nghe bác Đoàn Phú Tứ trò chuyện với bố tôi, không hiểu sao, một mỗi e dè chặn ngang họng tôi… Tôi dự cảm rằng, nếu hỏi bác và bố tôi điều đó, trong lúc ấy, biết đâu sẽ vô tình phủ lên bầu không khí sảng khoái hiếm hoi của các ông một luồng gió u ám, trong khi cuộc đời các ông, những nghệ sĩ – trí thức Hà thành vốn được coi là gàn dở và đói rách bậc nhất trong xã hội, cũng đã nếm đủ cay đắng rồi!

Một tác giả tiền chiến từng bất tử với Màu thời gian mà phải ẩn mình trong công việc dịch thuật và cái tên lạ hoắc “Tuấn Đô”, thì việc người dịch Jăc Vanhtrax không có nổi một cái bí danh hoặc tên giả in trên sách chắc phải là một điều hệ trọng lắm! Như thế, cũng có nghĩa là không ai có quyền được nói tới người dịch ra bộ sách, kể cả bạn và người thân! Cũng có nghĩa là, sách chỉ được quyền mang tên tác giả, còn người chuyển ngữ, người sáng tạo thứ hai mà theo luật bản quyền lẫn cả đòi hỏi của đạo lý không thể thiếu tên – thì Măckêno! – một “học thuyết” nổi tiếng cùng với những “học thuyết” phi văn hóa khác không hiểu sao đã ngang nhiên tồn tại trong một xã hội văn minh suốt hàng mấy thập kỷ!

Vâng! Có phải chịu tấm tức với cái điều bí mật không đáng có ấy như một cái dằm trong ký ức, thì mãi tới khi tình cờ được biết dịch giả vô danh nằm trong bóng tối hàng chục năm kia chính là nhà thơ Trần Dần, tôi đã chợt ứa nước mắt. Và tới một lần, khi được đạo diễn Tự Huy đưa tới thăm nhà thơ, tôi đã vô cùng háo hức, hồi hộp…

Tôi từng nhiều lần đi xe chầm chậm qua con phố nhỏ Vũ Lợi có ngôi nhà số 7 này, rất muốn tự động vào thăm nhà thơ, được nhìn thấy ông và chỉ để nói một câu: “Thưa bác, cháu chỉ là một anh giáo dạy văn quèn, một kẻ làm phim chưa ra đâu vào đâu cả, nhưng cháu ngưỡng mộ bác, yêu thơ bác, yêu cả những bất hạnh mà bác phải gánh chịu…”.

Và tôi hình dung ông chỉ mỉm cười nhẹ rồi đọc mấy câu thơ của ông: “Em ạ/ tình yêu không phẳng lặng bao giờ// Tình yêu/ không phải chuyện/ đưa cho nhau/ ngày một bó hoa// Nó là chuyện/ những đêm giòng/ không ngủ…”. Thế mà, tôi đã được toại nguyện mong ước một cách không ngờ…

Đạo diễn Tự Huy trò chuyện với ông thân mật, cởi mở, xưng hô “anh, em”. Lúc ấy trông ông đã rất yếu mệt. Duy chỉ có đôi mắt sáng rực, đau đáu, nhìn như thấu tận gan ruột người khác, có một cái gì đó hơi giễu cợt nhưng không giấu nổi lòng nhân hậu và đồng thời phảng phất một nỗi buồn…

Trước ông, tôi chỉ im lặng lắng nghe, như thấu từng lời, từng biểu hiện nhỏ trên nét mặt ông. Tôi đã được tận mắt chiêm ngưỡng một con người cả một đời coi “Thơ là mạng sống, là lý lịch thật đời tôi” – hơn thế, đã dám coi cái lý lịch thật đó cao trọng hơn mọi thứ lý lịch vàng son khác, con người “giữ chỉ một tia hy vọng/ Để mà thắng và yêu…”.

Thời sinh viên văn khoa, sống trong cảnh chạy bom đạn, không hiểu chúng tôi đã mò đâu ra và chuyền tay nhau chép vội nhiều bài thơ, câu thơ của thi sĩ Trần Dần (mà trong chương trình Đại học chỉ được giới thiệu như một trong những đầu sỏ của nhóm phản động Nhân văn Giai phẩm!) Nhiều câu thơ đầy hào khí của ông đã in hằn trong tuổi trẻ sôi động giàu hoài bão của chúng tôi: “Đi/ Dù biết/ khổ đau còn là luật// của trái đất này/ khi/ nó chuyển mình đi// Hãy thù ghét/ mọi ao tù/ nơi thân ta rữa mục// mọi thói quen/ nếp nghĩ – mù lòa// Hãy sống như/ những con tàu/ phải lòng/ muôn hải lý/ mỗi ngày/ bỏ/ sau lưng/ nghìn hải – cảng – mưa – buồn!”.

Là lớp học trò sinh sau đẻ muộn nên chúng tôi không được chứng kiến những cuộc đấu đá quanh những vụ án văn chương, nhưng rồi cũng được thầm hiểu sự bẽ bàng của không ít bậc “mũ cao áo dài” trong nghiệp lập ngôn lập thuyết khi trót phang tơi tả những người cầm bút mà chỉ mấy chục năm sau đó được “tái xuất giang hồ” và còn được tặng giải thưởng của Nhà nước (nhà thơ Trần Dần đã được tặng giải thưởng này). Tôi đến thăm ông với không ít xót xa, thương cảm, và mặc dù ông không thèm để ý đến một kẻ đi “theo đóm ăn tàn” của một thằng đàn em, tôi cũng chẳng lấy thế làm điều.

Duy nhất có một thoáng, khi đến lần thứ hai, đạo diễn Tự Huy giới thiệu tôi là đồng nghiệp với Trần Trọng Văn – con trai đầu của ông –, ông mới chiếu cố hỏi một câu lấy lệ, rồi sau đó lại quay về ngay với cái quỹ đạo suy tưởng cao vời của ông, ông giảng giải cho người đàn em Tự Huy đến thăm ông, trong gần một giờ đồng hồ, những điều mà dường như ông không nói lúc này thì sẽ không bao giờ có dịp nào nữa!

Quả vậy, ít lâu sau, ông đã qua đời. Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng tôi được diện kiến nhà thơ tài danh, một thủ lĩnh thi ca Việt Nam đương đại mà hiện còn chưa được biết đến đầy đủ và chưa được đánh giá đúng mức. Tôi đã không kịp thực hiện cái ý định đem ba cuốn sách dịch kia đến để xin chữ ký của ông, người từng tuyên ngôn với chính mình: “dịch là thêm một lần sáng tạo” (Ghi), và kể cho ông nghe trong nhiều năm tôi đã khao khát được biết người dịch bộ tiểu thuyết lạ lùng đó là ai.

Theo tư liệu riêng của gia đình nhà thơ, ông dịch bộ sách này (cùng một số sách khác) vào cái thời kỳ ông bắt đầu viết Sổ thơSổ bụiVở bụi trong tâm trạng “đau lòng sổ bụi”, “những bức thư không gửi”. Chắc chắn là, khi ông nhận dịch bộ Jăc Vanhtrax, trước hết là vì mưu sinh, nhưng ông đã phải thích thú nó, bởi nó vô tình chứa đựng những gì phù hợp với tâm huyết và chí hướng của ông, bởi thân phận những người cầm bút trong đó, bởi người đã từng quan niệm “xây một tập thơ/ là phá một nhà tù” bắt gặp cái tinh thần phản kháng quật khởi của Công xã Pari ngồn ngộn trong bộ sách – nhất là ở tập cuối Người khởi nghĩa (nguyên tác: L’Insurgé) mà Juyn Valex đã viết đề từ như sau: “Tôi tặng cuốn sách này cho Tất cả những ai là nạn nhân của bất công xã hội đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và đã họp dưới lá cờ của Công xã thành khối đại liên minh những đau khổ”. Cái tinh thần cách mạng của bộ tiểu thuyết sử thi đó chắc chắn đã sống với nhà thơ trong những năm đau khổ cùng cực, làm một trong những “tay vịn” giúp ông đứng vững.

Chỉ có điều, trong “nỗi buồn ga cuối còn nguyên” của nhà thơ, phải chăng có một nỗi buồn, chưa, và sẽ không có dịp nào nữa để giải tỏa: tên ông vẫn còn để trống trong bộ sách dịch kỳ công dày hơn nghìn trang in. Và nếu ta chịu khó đọc lại phần chú thích ở đầu tập III, ta sẽ cảm thông hơn với cái nỗi buồn thiên thu ấy của thi sĩ-dịch giả: “Trong tập III của bộ Jăc Vanhtrax này, được viết và xuất bản sau cuộc ân xá, người ta không ngạc nhiên thấy tên thật của những nhân vật đã xuất hiện dưới những tên giả trong hai tập đầu” (NXB Văn học 1975, trang 5). Vâng, nhân vật của bộ tiểu thuyết đến tập cuối đã được trả lại tên thật, còn nhà thơ thì ngay cả đến cái tên giả cũng không được quyền gắn vào công trình mồ hôi nước mắt của mình!

Giờ đây, thay cho nén nhang tưởng nhớ thi sĩ – dịch giả Trần Dần, và là một cách biểu lộ lòng tri ân, tôi xin được trích lại vài đoạn trong bộ sách lớn ấy – bộ sách của một nhà văn cách mạng Pháp kế tục truyền thống của Vonte, J. Rutxô, Monteskiơ… có thể nói đã được hóa thân vào bản lĩnh văn chương và máu thịt tâm hồn nhà thơ Trần Dần:

Tôi là kẻ được thoát nạn, tôi sẽ viết lịch sử những ai không thoát nạn, những kẻ cùng khổ không kiếm ra miếng ăn” (Người khởi nghĩa, Juyn Valex, NXB Văn học, 1975, tr. 25).

Nhưng rồi mày sẽ phải trả nợ chúng tao, cái xã hội chó má! Mày đã làm những người có học và những người can đảm bị đói khi họ không muốn làm tôi tớ cho mày!” (Cậu tú, Juyn Valex, Nxb Văn học, 1974, tr. 450).

Viết thêm:

Sau khi nhà thơ Trần Dần qua đời được 8 năm, tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội có một chương trình ca nhạc khá đặc biệt kỷ niệm Trần Dần mà giá vé bán chính thức lên tới 1 triệu đồng! Người xem trước khi bước vào phần biểu diễn chính còn được thưởng thức cocktail nhẹ và dàn nhạc sống trình tấu nhiều tác phẩm âm nhạc cổ điển. Bên cạnh đó là một công trình hoành tráng của nghệ thuật sắp đặt: toàn bộ sảnh của nhà hát, từ tầng một đến tầng hai được trưng bày hàng loạt tượng đầu người xếp lô nhô được dán kín bởi các trang thơ, trang nhạc phẩm ca khúc sẽ được biểu diễn. Phía dưới các tượng đầu người được rải những cánh hoa hồng thật lấp lánh bởi những ánh nến đặt xen kẽ… Tôi đang dán mắt vào vizơ máy quay thì một người đàn ông lớn tuổi ngà ngà say đập mạnh vào vai tôi: “Này! Quay thật nhiều cảnh đó đi! Đấy, chính là Người người lớp lớp của Trần Dần đấy!”

Tôi gật gù đồng tình và thầm nghĩ: dù chặng đường “Người người lớp lớp” cùng những câu thơ đơn độc của ông đâu có được rải hoa hồng, dù có còn sống đến lúc này ông cũng không đủ tiền mua một vé vào xem biểu diễn để chứng kiến tư tưởng của ông được diễn dịch và thăng hoa, nhưng thế là máu thịt tâm hồn ông cũng đã thẩm thấu vào cuộc sống và biến thành máu thịt của nó. Đó là hạnh phúc lớn nhất của một người nghệ sĩ, là sự an ủi có ý nghĩa nhất đối với hương hồn ông…

Và tôi chợt hình dung ra cảnh: trong khi ông đang toát mồ hôi, gò lưng ngồi dịch những bộ sách dày cộp để sao cho kịp hợp đồng với các nhà xuất bản, thỉnh thoảng ông vẫn dừng lại, nheo cặp mắt tinh nghịch và lẩy ra những câu thơ thâm trầm mang phong vị dân gian cổ xưa, kiểu: “Đố ai chọc mắt các vì sao…”

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 23, 2024 18:22

October 27, 2024

Một bài thơ viết về Phạm Duy hồi kháng chiến chống Pháp


Huy Phương
Gửi người bạn hôm qua

Đêm nay gió ngoài rừng heo hút
Chúng tôi sát lại gần nhau
Thì thầm chúng tôi hát
Bài hát năm xưa nào
Bài hát của anh:
Bài hát của anh còn đó
Như một dòng nước mắt long lanh

Chúng tôi biết bên kia có người anh thương
Có mái nhà anh bên đường phố nhỏ
Rủ cành hoa ti gơn
Nhưng nếu chỉ là có thế
Anh bỏ mà đi sao đành

Ở bên phía mình
Chia nhau miếng cơm độn bắp
Nhường nhau manh áo trời đông
Nhưng chúng ta giầu một niềm thương
Có bà mẹ hiền hiền
Có giọng hát trong lành em bé
Tình nhân dân bọc đùm như sóng bể
Dạt dào ấm một niềm tin

Anh bỏ mà đi sao đành
Chiều nào đây đoàn cán bộ áo mong manh
Dằng dặc Trường Sơn đường chiều mưa đổ
Kề vai nhau bên bếp lửa
Thì thầm bài hát cũ
Mỗi người một lượt nhắc tên anh
Nhớ những đêm vui
Trăng sáng mái đình
Ngày mai trên nội cỏ
Có chú chăn trâu nho nhỏ
Quên mưa trưa chiều gió
Huýt sáo mồm hát bài của anh

Anh bỏ mà đi sao đành!
Anh về chi bên nớ
Cốc rượu đầy vơi
Cung đàn năm cũ
Buổi truy hoan tiếng cười nghiêng ngả
Bọn lính lê dương với bầy gái chứa
Còn ai nghe tiếng hát của anh

Hà Nội những đêm dài
Sương trắng mông mênh
Ai biết những bàn chân âm thầm phố nhỏ
Lỡ bước sang sông
Đường về cách trở
Nhớ thương những tháng những ngày
“Xót xa sao như mất một bàn tay”

Đêm nay mưa ngoài trời
Tiếng hát lặng thầm, bếp nhỏ lều tranh
Nước mắt ngắn dài từng giọt long lanh
Bà mẹ già cầm tay tôi hỏi
- “Ai làm bài ni rứa các anh?”

Nói làm sao cho đành
Chúng tôi nhìn nhau, lời nghẹn
Thương anh thêm căm giận
Anh có biết không anh
Bên kia anh có biết không anh?
Ghi chú Theo một trang MXH nhà văn Huy Phương nói ở đây, tên thật là Nguyễn Huy Phương, sinh ngày 4.10.1927. Quê gốc : Nghi Lộc,Nghệ An... Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Ủy viên chính trị trong Ban chỉ huy chiến đấu TP Huế. Sau đó, ông chuyển sang hoạt động văn học ở Chi hội văn nghệ Liên Khu IV, rồi Hội văn nghệ TƯ. Có lẽ trong thời gian này mà Huy Phương có ít nhiều quan hệ với Phạm Duy và bài thơ ông viết cũng nói lên một phần tình cảm của đồng nghiệp cũng như đồng bào ta hồi ấy với người nhạc sĩ.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 27, 2024 07:51

October 24, 2024

Tự truyện đoạn 3 -- Hoàn cảnh gia đình và những năm tiểu học đã quyết định tính cách tôi như thế nào?

Tiếp theo Tự truyện đoạn 2 đưa trên blog này ngày 20 - 9 - 2024

Trong số các bài học thuộc lòng học trong ba năm đầutiểu học với thầy Vũ Đăng Mão ở trường Đại Yên, tôi nhớ hơn cả bài lục bát sau:

Hômnay trời lại mưa phùn

Đườngem đi học lầy bùn khổ chưa

Trênđầu không nón che mưa

Cóđôi guốc vẹt lại vừa đứt quai

Tayem nâng vạt áo dài

Taykia ôm sách với hai ống quần

Bùnsâu đến mắt cá chân

Sáchem xốc lại mấy lần chực rơi

Xa xa trống đã điểm hồi

Em còn đứng mãi ngoài trời đội mưa

Tình cảnh tôi đi học ở trường Đại Yên chưa đến nỗi thêthảm thế. Quãng đường tôi đi từ nhà đến đình nơi đặt lớp học còn được lát gạch.Chưa bao giờ sách vở của tôi bị rơi trên đường. Chưa bao giờ vì đường đất xaxôi mà tôi đến lớp chậm.  Nhưng tôi vẫnthích bài thơ vì nó nói lên nỗi buồn riêng có của đám học trò ở các vùng ngoạiô nghèo, dù bi đát mà nực cười đến mấy cũng không làm cho những tâm hồn trẻ đó nghĩ tớichuyện bỏ học.

Chính ra thì việc đến trường đối với tôi cũng còn mangnhiều niềm vui sống. Tình cảnh của tôi ở gia đình làm tôi đau đớn hơn nhiều. Vớimột cậu bé bốn tuổi thì mất mẹ và sống trong một gia đình nghèo giữa một vùng đấthoang xa lạ, cuộc đời chung quanh hiện ra như là không nơi nương tựa, không nơibấu víu để học thành người.

Còn nhớ, trong một đêm nằm kẹt giữa ông bố và người mẹkế, tôi kéo tay bà tỏ ý thân thiện thì đã bị bà phát cho đau điếng. Tôi mangmáng cảm thấy mình không có quyền làm một đứa trẻ bình thường, cũng tức là khôngcó quyền làm trẻ con để được sự săn sóc đầy tình cảm của những người lớn tuổi.

Luôn luôn tôi cảm thấy sự có mặt của mình trong giađình y như là thừa, và tôi không tìm thấy ở mọi người xung quanh một cặp mắt âncần hướng dẫn bảo ban. Cũng tức là tôi cảm thấy tôi hoàn toàn cô độc, chẳng nhữngkhông tìm thấy sự giúp đỡ ở những người xung quanh mà ngược lại còn là một sựlàm phiền cho mọi người.

 Mặt khác, tôi cảmthấy không có trách nhiệm với ai. Cái đó mới chết.

Sự giúp đỡ và thương cảm người khác đối với tôi là mộtcái gì xa lạ. Tôi đã không lo nổi cho thân mình thì còn lấy đâu để lo cho mọingười. Thói ích kỷ đã đến với tôi rất sớm. Nói theo ngôn ngữ đám người lớn có họcvề sau, việc lo lắng cho bản thân đối với tôi là một cái quyền duy nhất và tốithượng, mà tôi tin tưởng tuyệt đối. Sau này, cái hạt nhân của tính ích kỷ ấy đãmang lại cho tôi nhiều sự bất lợi, đúng hơn đó là cả một hạn chế lớn nó ngăn cảntôi hòa nhập với mọi người, không bao giờ tính chuyện phối hợp với những ngườichung quanh để hoàn thiện những việc cần thiết.  

Sự ích kỷ của tôi như trên vừa nói có một phần do sự bấtlợi về thể xác. 

Lúc nhỏ, tôi là một đứa trẻ gầy gò ốm yếu, chân tay vụng về, mộtđứa trẻ hậu đậu không được việc gì như người ta thường nói. Cái việc tôi khôngbao giờ nghĩ đến chuyện giúp đỡ người khác thật ra có nguyên nhân sâu xa như thế.Giá kể ở một gia đình đông con và có những người anh người chị khỏe mạnh tự tinkhéo léo hướng dẫn thì có lẽ tôi cũng đã khá hơn, chắc chắn là những người thânđó sẽ giúp cho tôi bỏ dần những thói xấu đó để tự tin hơn, khéo léo hơn. Họ sẽdạy tôi ăn nói, làm những việc bình thường mà một đứa trẻ cũng phải biết và có thểlàm. Nhất là tôi rất đáng tiếc là không có những chị em gái là nguồn bổ sungtình cảm rất cần thiết khi người ta còn trẻ. 

Bà mẹ kế của tôi thì muốn haykhông muốn vẫn mang lại cho tôi nhiều ác cảm. Sau này khi ra đời, tôi rất ítkhi gọi những người phụ nữ đáng tuổi đẻ được ra tôi là mẹ. Trong tâm trí củatôi người mẹ là một ý niệm thiêng liêng lắm, dù tôi không biết mặt mũi cụ thể củacái sự thiêng liêng đó như thế nào. Với đám bạn mà tôi trò chuyện khi đã lớn tuổi,tôi đều thấy phần lớn họ kể là có một bà mẹ gần gũi và đáng quý, người mẹ ấy đãbảo ban dạy dỗ họ những việc cụ thể, nhất là đã truyền cho họ lòng yêu đời sựtin tưởng và khả năng chan hòa với những người xung quanh - toàn là điều mà tôirất thiếu.

Không được tiếp sức từ những người cùng lứa nhưngkhông phải vì thế mà tôi trở nên một người cằn cỗi về mặt tình cảm. Hồi học lớpđệ thất ở trường Chu Văn An niên khóa 1955 – 1956, nhà trường còn giữ cái lệ cũlà cuối năm các giáo viên bộ môn phải ghi lại nhận xét của mình về từng họcsinh. Và ở môn giáo dục công dân thầy dạy tôi năm ấy là Nguyễn Phước Tương, đãghi về tôi như sau: “học sinh nhanh nhẹn, có nhiều tiến bộ, tình cảm dạt dào”.Hóa ra dù chỉ dạy một hai giờ mỗi tuần, nhưng thầy đã biết tính tôi ở lớp haykhóc, và các bạn cùng lớp luôn luôn gọi Vương Trí Nhàn là Vương Trí Nhè.

Mẹ tôi mất sớm nhưng hình như lúc bà còn sống bà đã rấtchiều chuộng tôi, và mặc dù không nhớ gì cả đến mày nét của bà, song thói quencủa một đứa trẻ được chiều, vẫn âm thầm tồn tại trong tôi, nó cũng có cái lợitrước tiên là làm cho tôi thành một người có phần nhạy cảm với những đau khổ. 

Sau này lớn lên đọc các truyện thơ dài kiểu như Phạm Công Cúc Hoa có đám trẻ màmẹ mất sớm, lang thang tìm mẹ, hoặc truyện Tắtđèn tới đoạn mà nhân vật cái Tý van xin mẹ là đừng bán mình cho nhà địa chủNghị Quế, bao giờ tôi cũng khóc. 

Tôi vẫn tự nhủ là tôi có thể làm nghề vănchương, có thể đọc sách dài dài và tưởng tượng ra mọi cảnh ngộ của các nhân vậttrong sách là nhờ có sự nhạy cảm đó. Nhưng một mặt khác cũng phải công nhận làsự nhạy cảm lúc nhỏ - nhất là sự nhạy cảm không kèm với một cơ thể khỏe mạnh sứclực - mang lại cho tôi, một sự bạc nhược trong tính cách, một mạch ngầm đen tối trongcách nhìn đời. Sự thương cảm không đúng lúc đúng chỗ - nhất là sự thương cảm mangmàu sắc bi lụy - đã làm hại cho cuộc sống của tôi rất nhiều. Tai hại nhất nó làmcho tôi thành một người bi quan thiếu tự tin. Khi tiếp xúc với mọi người nhiềukhi tôi không dám nhìn thẳng, đến mức một vài bạn chưa hiểu cứ cho tôi là cócái vẻ gian gian như thế nào đó.

 Tôi thường cúi mặt xuống những khi vào nhữngchỗ lạ và cả khi vắng người xung quanh nghĩa là khi chỉ có một mình, tôi cũngthường hay thở dài. Thói quen này tôi còn giữ mãi tới khi lớn tuổi. Vào khoảngđầu những năm 90 của thế kỷ trước, tôi nhận vai giúp việc cho nhà văn Tô Hoàitrong một chương trình văn hóa, khiến tôi đã có dịp theo ông đi nhiều nơi, thường xuyên trò chuyện với ông. 

Một lần, tôi vừa từ tầng một lên tầng hai cơ quan thìbắt gặp Tô Hoài và mấy bạn biên tập viên khác cùng đang ngồi trò chuyện. Có aiđó gật gù, rồi xướng lên một câu xanh rờn “đúng là anh Tô Hoài nhận xét chínhxác về ông Nhàn thật”. 

Chẳng là trước đó, khi tôi đang ở tầng một, tôi đã thởdài “ngoài sự kiểm soát của ý thức” đến mức nhà văn Tô Hoài phải quay lại bảo mọingười Vương Trí Nhàn chưa thấy người đã thấy tiếng rồi.

Về sự yếu đuối của tôi thì chính ra tôi còn chịu ảnhhưởng của ông thân sinh. Trong thày tôi có hai con người. Một rất thô lỗ hunghãn và một rất yếu đuối. Nghe một bà chị họ kể lại, trong đại gia đình xưa bố tôi thườngđược gọi là ông ba ương. Bình thường thì ông cũng rất tình cảm với vợ con giađình. Nhưng lúc cáu lên thì ông mo phú hết. Chung sống với bà dì tôi trong cáicảnh rổ rá cạp lại, ông cũng có lúc rất chiều chuộng bà nhưng lúc cáu lên rấthay mắng chửi bà nhất là khi về già gặp những điều ngang trái. Để rồi sau đó hốihận ông lại chìm sâu vào sự bạc nhược.

 Mặc dù cuộc đờichưa phải là khổ lắm, nếu không muốn nói rằng đã có lúc thành công vượt ra khỏikhuôn khổ của một con dân làng nghề để trở thành công dân Hà Nội, nhưng bố tôi cũng có cái tính làsợ đời, sợ những việc khó của đời và thường hay than thở, thậm chí khóc lóc trướcnhững đột biến đầy rẫy trong xã hội hiện đại.

Tôi còn nhớ cái tình cảnh của gia đình tôi những năm 50.Khi ấy ngôi nhà mà gia đình tôi làm từ hơn 10 năm trước đã bắt đầu ọp ẹp, mỗi khi cónhững cơn bão thổi về, thì cả nhà lung lay nghiêng bên nọ vẹo bên kia tưởng cóthể đổ đến nơi. 

Những lúc ấy, trước khi tìm ra biện pháp tích cực để chống đỡ,ông bố tôi ôm đầu than khóc một thôi một hồi.

 Mặc dù rất không cảm tình với bàmẹ kế, nhưng tôi phải nhận là bà có bản lĩnh hơn bố tôi rất nhiều. Vốn bản tínhlạnh lùng, bà không nhỏ lấy một giọt nước mắt mà sai bọn tôi tìm cách ghìm giữngôi nhà trong cơn gió mạnh, kể cả việc ra ngoài mưa gió tìm những cột kèo đểchống đỡ.

Sự bạc nhược của ông bố càng làm cho chất nam giớitrong người tôi không được bồi dưỡng, con người tôi trở thành ủy mị “như đàn bà”,và khi ra đời thì nói chung là tôi kém tự tin, không dám dũng cảm vượt lên nhữnghoàn cảnh mà mình không mong muốn, và có lẽ sau này chỉ nhờ tôi lao đầu vào việchọc hỏi bồi dưỡng tri thức kiến thức mà nhân cách tôi cũng có phần thay đổi.

Trong hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh, ông có kể rằng mặcdù sớm tự tin về nhiều mặt và có đôi khi như là ngổ ngáo ngang tàng, nhưng mãiđến ngoài 20 tuổi ông mới tập được xe đạp vì trước đó rất vô duyên với cáiphương tiện thô sơ mà ai cũng biết sử dụng đó. Sở dĩ tôi nhớ lại chi tiết lặt vặtnày, vì tôi cũng là người mà mãi mới biết đi xe đạp và trong lúc tập xe thì đãhai ba lần tôi ngã, rồi do chống tay xuống đất vội vàng mà tôi bị trật cả khớpxương ống tay hai lần phải đi bó bằng các thứ lá mà các ông thầy lang khuyêndùng.

Tôi bị chứng run tay từ nhỏ, và nói chung là tôi khôngchỉ huy được chân tay của mình một cách chính xác. Thủa học tiểu học ở Đại Yên,mỗi lần phải tiêm phòng dịch là tôi bị người y tá mắng cho thảm hại vì trongkhi phải làm cho cơ bắp tay mềm ra thì tôi lại lên gân lên cốt khiến việc tiêmchủng gặp rất nhiều khó khăn. Không sợ toán không sợ học thuộc lòng, cái môn màtôi sợ nhất hồi học tiểu học là môn thủ công, và mãi đến lúc tôi học trung học,thành tích nhảy cao nhảy xa của tôi thường thua các bạn nữ trong lớp. Chữ viếtcủa tôi thật ra ngày xưa rất xấu vì tay tôi rất run, và mãi đến khi tập luyệndài dài thì tôi mới có nét chữ tạm gọi là cứng cáp.

Những thói xấu nói trên của tôi còn theo mãi tôi trongcả cuộc đời. Chỉ có điều may là do chỗ cô độc vụng về không chơi được với ai,mà tôi chăm chỉ học tập và lấy lại được niềm tin trong cuộc sống. Cũng nhờ cónhững tri thức cần thiết trong việc học làm người mà tôi đọc được ở đây đó, tôihiểu rằng thật ra những kẻ yếu đuối vụng về như tôi cũng có thể có một vị trínào đó trong xã hội và nói cho to tát ra là trở nên cần thiết cho mọi người nếutìm được chỗ mạnh của mình và biết giấu đi những sự yếu kém của mình. 

Tôi thườngnghĩ mỗi con người ta như một thứ cây ăn quả, và trong khi những người khác làquả cam quả quýt thì tôi là quả me quả sấu, nhưng tôi cứ đúng vai của mình màlàm, thì vẫn có được một chỗ đứng trong lòng mọi người. Đây là câu chuyện tôi sẽkể về sau trong cuốn sách này ở đây tôi hãy nói một chi tiết nhỏ: Trong khi làmviệc, tôi biết rằng tôi chỉ là một nhân viên bình thường, một thứ ốc vít của bộmáy, chứ không bao giờ có thể đảm nhiệm được vai chỉ huy sai bảo mọi người. 

Khingoài 50 tuổi, tôi đã công tác ở nhà xuất bản 20 năm và đã là một biên tập viêncứng cáp so với trình độ chung, đến mức các anh phụ trách trong cơ quan địnhđưa tôi lên làm phó giám đốc, nhưng tôi sau khi về bàn bạc với vợ, đã xin từ chối,vì biết đó là những việc không phù hợp với tôi, nếu làm tôi sẽ chuốc lấy nhiềukhuyết điểm. Tạm hình dung ra là nếu trong cuộc đời như một vở kịch cần nhữngvai chính đàng hoàng sắc sảo, thì tôi chỉ có thể đảm nhiệm được những vai phụ,nhất là những vai làm việc trong im lặng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 24, 2024 08:32

October 19, 2024

Một phần của những thay đổi đã đến với Hà Nội từ sau 1954: Tính nghiệp dư trong quản lý. --

 Đã đưa trên blog cá nhân VTN

mười năm trước 12 -10 - 2014

 

*******

 

     Sau Cảicách ruộng đất, nhiều nông dân được chia quả thực, có khi là cả một phầnnhững cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng mật của địa chủ.

    Nhưng nhiều ngườitrong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những người chưa có của cảibao giờ, họ không biết làm chủ.

    Không những dốtnát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở, mà có khi một số ngườinày còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa và đẩy vợ con vàocảnh nghèo khó như cũ.

    Nếu sự phá sảnnói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều chắc là nhữngngười mới phất lên này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng -- mà họ được chia ---một cách hiệu quả, như những người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được nhữngtài sản ấy.

 

 

      Với những người chủ của Hà Nộisau 10-10-54, cũng vậy.

      Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ làcon em của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính cũcủa Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại được giao giữ chức vụ cũ.

 

     Thế nhưng,đó chỉ là xét về bề ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là dân cũ HàNội, mà có còn chăng nữa, họ đã bị nông dân hóa.

      Còn với bácsĩ Trần Duy Hưng. Sự tồn tại của ông có nhiều chỗ chỉ là trên danh nghĩa, bởi toànbộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh thần chỉ đạo hoạt động của bộmáy ấy so với thời gian 1945 -46đã hoàn toàn thay đổi.

     

TỪ CÁC GHI NHẬN CỦA PH. PAPIN VÀNGUYỄN HUY TƯỞNG

     Dịp kỷ niệm ngànnăm Thăng Long 2010, nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của người nước ngoàiđã được dịch ra tiếng Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người ta lại hiểu vềHà Nội có phần khác và có phần hơn tất cả các sách vở mà các nhà nghiên cứuViệt Nam đã viết.

          Lịch sử Hà Nội của nhà nghiên cứu PhilippePapin là một trường hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống Hà Nội sau10-10-54, nhà nghiên cứu này viết:

      “Thành phố giờ đây được điều hành theo tưtưởng của những cán bộ lãnh đạo từ chiến khu trở về. Họ không được người Hà Nộinể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái vai quản lý củacác quan chức này. Họ vốn chỉ là những nông dân thô lỗ được thăng quantiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ nóng tính dốt nát song lại ưa sử dụng nhữngngôn từ to tát, những khái niệm mác xít chưa thuần thục.”                

        (Philippe Papin Lịch sử Hà Nội, Mạc Thu Hương dịch từ tiếngPháp, nhà  xuất bản Mỹ thuật 2010, trang  293-294 )

 

      
      Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà văn sinh ra và  lớnlên ở Hà Nội, sau 10-1954 lại trở về  với tư cách chủ nhân của cáithành phố thân yêu.

      Ngaytừ 1956 - 57, trong nhật ký của mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô đã ghilại những hiện tượng báo trước một tình trạng giống như một sự băng hoại lâu dài. Đây cũng lànhững bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên  Ph.Papin.

 

--(21-6-1956) Mậu dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối,hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt,có đến triệu viên.

(Nhật ký Nguyễn  Huy Tưởng bản của nhà  ThanhNiên 2006, ba tập, tập 3, Tr 106 )

-- (11-9-1956) Đại biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đivận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.

   Tư sản làm tốt không dùng. Sợ đề cao tư sản (sđd Tr 138)

 ---(13-4-1957) Cái láo xược của cơ quan Bưu điện BờHồ. Chẳng coi trọng gì quần chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4đề biển Vì bận học nên nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ.  Và sáng hôm nay,khi khách đã đứng đầy ngoài cửa, bọn công nhân viên vẫn ngồi thảo luận, mặc kệkhách. Một người thấy chướng quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận (như trên tr241).

 

 TÍNH NGHIỆP DƯ

THÀNH XUTHẾ KÉO DÀI 

     

Tạp chí Nghiên cứu Huế --- do nhà sử học Nguyễn HữuChâu Phan chủ trương --- tập một 1999 có đưa lại một tập bài giảng của mộtchuyên gia người Anh ông Patrick J. Honey trên BBC từ 1961; tập bài giảng nàycó cái tên khá dài Việt Nam  vào thế kỷ 19, qua các hồiký của John White John Crawfurd George Gibson
do Trương Ngọc Phú dịch ra tiếng Việt


Ở tr 220 cuốn tạp chí này, tôi đọc được một nhận xét tổng quát của Crawfurd về Nguyễn Ánh Gia Long thế kỷ XIX: "tài cán của nhà vuathích hợp  cho việc  chiếm lại đất nước hơn là việc cai trị đấtnước."

 

      GiaLong là nhân vật lịch sử quan trọng bị nền sử học chính thống ở miền Bắc sau1945 bôi nhọ một cách thậm tệ, đến mức không thể xấu hơn. 

       Thế nhưngqua cách miêu tả như trên, hóa ra -- trong cái sứ mạng chủ yếu làm nên tínhchính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa Gia Long và các bậc tiền bối ởcác thế kỷ trước cũng như chúng ta hôm nay, có sự giống nhau rõ rệt, đến mức từđó có thể khái quát nên thành một đặc điểm chung của những người quản lý xã hộiViệt.

 

     Từ nhữngquan sát của Nguyễn Huy Tưởng nêu ở trên, tôi thử khái quát vềcách quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm ấy.

-- Có của trong tay cũng không biếtgiữ. Trao cho những người chỉ quen trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dămmiếng cau khô mấy lọ phẩm hồng" (thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thànhphố hiện đại.  

-- Mang cách sống cách làm việc củacuộc chiến tranh nhân dân dầm dề chậm chạp vào việc quản lý cuộc sốngnăng động trong hòa bình. Phá vỡ nhịp điệu bình thường của một thành phố hiệnđại.

-- Không quan niệm rằng quản lý làmột công việc cần phải học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi.Các loại công việc liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp bị đặt vàotay những người chỉ hiểu đơn giản về xã hội.

   
   Cần nói thêm rằng cái chuyện nghiệpdư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành hành và sống khá dai dẳng đến vậy bởilẽ:

   -- nó là cái tinh thần chi phối từ đào tạo con người, sử dụng nhân tài,tổ chức guồng máy nói chung.

   -- nó cũng là nguyên tắc có mặt trên tất cả mọi phương diện đời sống, cảtrong sản xuất, kinh doanh lẫn trong sáng tác văn hóa nghệ thuật và các hoạtđộng tinh thần.

  -- nó được áp dụng ở tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nộikhông được coi là ngoại lệ.

 

     Sở dĩ mộtngười như Nguyễn HuyTưởng không chịu được vì nó xa lạ những nguyên tắc chi phốixã hội hiện đại mà ông tiếp nhận được từ văn hóa Pháp  rộng ra là văn hóa phương Tây. 

      Nhưngrồi, cũng như mọi người dân Hà Nội khác, ông phải chấp nhận. 

 

 

Nguyễn Huy Tưởng đã qua đời  từ1960, nhưng nếu sống đến nay, ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của những nguyêntắc quản lý mà ông phê phán, cũng có nghĩa xa lạ với tinh thần hiện đại, khiếncho Hà Nội có những nét trở lại như các thành phố quê mùa thời trung đại. 

 

 MỘT CÁCH HIỂU VỀ DÂN CHỦ

CÒN Ở TÌNHTRẠNG DUNG TỤC 

 

Trong các nhận xét của  Nguyễn Huy Tưởng mà tôi đã nêuở phần trên Những thay đổi  đã đến với  Hà Nội từ sau1954:Tính nghiệp dư trong quản lý, thì cái nhận xét có liên quan đến nhânsự “con sen trở thành đại biểu khu phố” có lẽ là quan trọng nhất.

Nó đề cập tới nhân tố hàng đầu khiến cho Hà Nội từ một thành phố thanh lịch vănminh trở thành một thành phố nham nhở nhếch nhác, một thành phố tầm thường vàđi đầu trong việc học đòi ăn chơi như chúng tôi đã nói.

    Người ta có thể bảo sự tức giận củaNguyễn Huy Tưởng là hoàn toàn có lý nếu đứng trên bình diện cảm tính – nghĩa làmột người có lương tri bình thường cũng dễ cảm thấy.

     Nhưng điều này cũng đúng nếu dùngđầu óc để suy đoán và truy tìm lại sách vở kim cổ để có chỗ dựa.

 

    NHỮNGCẢNH BÁO

ĐÃ CÓ TỪ …  TRIẾT HỌC HY LẠPCỔ ĐẠI

  

Hai chữ con sen mà Nguyễn Huy Tưởng đã dùng có thể được hiểulà những người không có trình độ hiểu biết, những người mà ở Hà Nội sau 1954được gọi là dân nghèo thành thị, hoặc một chữ sang hơn, nhân dân lao động.

    Trong ý tưởng của tác giả Sống mãi vớiThủ đô, lớp người này mãi mãi chỉ là người cần được hướng dẫn giáo dục lãnhđạo; nếu được sử dụng vào việc quản lý họ sẽ trở thành một thứ nghiệp dư xoàngxĩnh.

    Nhưng việc đề cao nhân dân lao động, đưahọ vào hàng ngũ những người cầm quyền, thật ra lại là một nguyên tắc bao trùmcủa xã hội hôm nay.

   Ý chúng tôi muốn nói tới thể chế dân chủ màchúng ta tự hào.

    Trong cái vẻ cụ thể của nội dung kháiniệm chứ không phải chữ nghĩa bề ngoài, nguyên tắc dân chủ ở ta bao gồm cả haikhía cạnh:

   Một là tổ chức những cuộc bầu cứ phổthông đầu phiếu một cách hình thức.

   Và hai là đưa những người thuộc về nhândân lao động vào bộ máy quản lý.

 

   Tôi thuộc vào thế hệ học sinh trung học ở HàNội sau 1954, nên cố nhiên không biết triết lý Hy La là gì. Thỉnh thoảng cóthấy nói lướt qua thì nghe như ở đó toàn bàn về những điều trừu tượng duy tâmduy vật chả có gì thiết thực.

     Lớn lên đi làm báo làm xuất bản, cốnhiên không bao giờ có dịp quay về, và giờ đây, lại càng không đủ trình độ đểđọc vào nguyên bản.

     Chỉ còn có cách đọc qua trung gian.

     May mà loại sách này ở miền Namtrước kia không thiếu.

    Điều thú vị tôi phát hiện ra là mấy ông như Platon lại nói nhiều ý dính ngayđến điều chúng ta đang quan tâm.


     Trong cuốn Câu chuyện triết họccủa Will Durant, bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, in ra, tức tái bản, ở nxb Vănhóa thông tin 2008, ở các trang 29-30, người ta có thể đọc được những lờidẫn giải sau: 

 Về sự tham gia của đám đôngvào việc quản lý xã hội 

   Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắngđối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số, và cho tất cả mọi người tự dobình đẳng.

    Nhưng chính thể dân chủ tự phá hủy vì quá dân chủ.

    Họ -- đây muốn chỉ những người đề xuấtchính thể dân chủ -- muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủvà ấn định đường lối quốc gia.

     Sau khi bảo rằng mới xem qua thìviệc bầu cử phổ thông – tức là cho tất cả mọi người tham gia vào việc lựa chọncác thành viên của bộ máy quyền lực --, là một lý tưởng quá ư tốt đẹp, W.Durant cài ngay vào đấy cái ý của Platon cảnh báo rằng thực ra việc đó vô cùngnguy hiểm. Vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tàigiỏi ra cầm quyền và tìm ra đường lối thích hợp nhất.

     “Dân chúng không có kiến thức,họ chỉ lặp lại những điều nhà cầm quyền nói với họ”.

       Phát triển ý củaPlaton, Durant cũng đi guốc vào bụng các nhà chính trị khi chỉ rõ cái chiếnthuật xoàng xĩnh: muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vởkịch [hiểu theo nghĩa rộng những tác phẩm văn nghệ] trong đó những học thuyếtkia được đem ra chỉ trích hoặc cổ võ, rồi trình bày trước công chúng.

      Thế là tha hồ dẫn dắt họ.

….

     Tổng kết về chuyện bầu bán, W.Durant viết:

     Dân chúng rất ưa những lời nịnhhót; những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ, tự gán cho mình cái nhãn hiệu bảo vệdân chúng [nói lên tiếng nói dân chúng] thường được mở ra cả cơ hội lớn để nắmquyền lực tối cao.

 

    Chính Platon đã tỏ ra kinh ngạc vềsự điên rồ khi giao cho quần chúng [đang còn là đám đông những kẻ chưatrưởng thành] trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia.

 

 

VỀ SỰ CÓ MẶT CỦA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU ĐÁMĐÔNG

 TRONG BỘ MÁY QUYỀN LỰC     

    Đây mới là chỗ liên quan tới những consen của Nguyễn Huy Tưởng.

   Theo W. Durant, Platon phàn nàn rằng đối vớimột việc nhỏ như việc đóng giày, may quần áo, người ta còn phải lựa chọn nhữngngười thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực có tầmảnh hưởng rộng lớn, người ta có thể tin rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiềuphiếu [hậu quả của việc được bảo kê hoặc giỏi tiếp thị trước công chúng] đềubiết cách trị nước an dân.

    Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta không kiếmnhững thày thuốc đẹp trai hoặc những thày thuốc dẻo mồm khoe khoang mà mời bằngđược những y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và học.

     Thế thì tại sao khi quốc gia lâmnguy chúng ta không tìm tới những người khôn ngoan nhất đức hạnh nhất?  

    Rút lại, theo W.Durant, ý của Platon là:

    Để cho dân chúng cầm quyền không khác gìđể cho con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi bọn chính trị giacàng làm mặt nước nổi sóng và có thể lật ngược cả hướng đi của con thuyền.

    Không chóng thì chầy, một chính thể nhưvậy sẽ rơi vào con đường độc tài. Ngược lại nếu tìm ra mọi phương pháp đểloại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi bộ máy quyền lực cũng Chọn lựa cho được những kẻ tài caođức trọng.

   Đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.

 

TRỞ LẠI VỚI CHUYỆN HÀ NỘI

 

     Dưới dạng đối thoại, chúng ta sẽ bàn tiếp về câu chuyện “những con sen trởthành đại biểu khu phố“, ở khía cạnh sự có mặt của nhân dân lao động trongviệc quản lý các thành phố hiện đại.

 

Một đoạn đối thoại

 --Nguyễn Huy Tưởngchỉ nói về một hai trường hợp cá biệt. Anh đẩy lên quá đáng và đưa ra nhữngkhái quát non.

 -- Không đúng. Sau 30-4, vừa vào Sài Gòn mấy ngày,Nguyễn  Khải đã kể với tôi một chuyện đang bàn ở gia đình ông. Bà chị họcủa ông than phiền nhiều lần rằng giải phóng sao mà kỳ quá, sao mấy ông mới vàolại đưa con bé giúp việc nhà bà ra làm tổ trưởng dân phố, nó có biết gìđâu.…  

-- Sau đó, họ đã đi học, đã có bằng cấp.

-- Đi học Bổ túc công nông, năm lên ba lớp chứ gì?Rồi thời nay là lấy bằng tiến sĩ bằng cách cho người đi học thuê chứ gì? 

-- Thế tức là anh cho rằng nhân dân lao động không thểtham gia vào việc quản lý thành phố? Cũng như Hà Nội thứ thiệt phải là người đãsinh sống ở đây nhiều đời chứ không thể là dân các tỉnh đổ về?

-- Không đúng, tôi không nói thế. Bất cứ ai nghiên cứu lịchsử Hà Nội cũng biết rằng ngày trước 1945, Hà Nội luôn luôn được bổ sung bằngdân nhập cư. Nhưng đó là những người ưu tú của các địa phương, những người thợ giỏi,những người buôn bán giỏi, những học trò xuất sắc từng đỗ đạt có thứ hạng caotrong các cuộc thi nghiêm chỉnh.
Tôi không đặt vấn đề xuất thân của con người. Tôi chỉ muốn đánh giá con ngườibằng 
nhân cách và trình độ nghề nghiệp của họ. Quản lý xã hội cũng là nghề nghiệp. Ởđây không có chỗ cho đám người nghiệp dư.

   --

    Xin nóirõ hơn về cái ý cuối cùng này.

     Thời xưa ấy, cái loại người taynghề loàng xoàng, những kẻ lười biếng và dốt nát không bao giờ tìm được chỗđứng ở Hà Nội.

     Cũng tương tự như vậy, cách tổ chứcbộ máy quan lại của Trung Hoa với Việt Nam xưa là sử dụng những cuộc thi đểtuyển chọn nhân tài.

     Xưa còn có lối cấm đoán không chocon nhà hạ lưu đi thi.

    Sau cái lệ ấy đã bỏ.

   

 

     Người ta bình đẳng với nhau trước các kỳ thi,và khi đã qua khảo hạch, tức là người ta đã trở thành kẻ trí thức, sống theo lễnghĩa biết ăn biết ở. Người ta không còn là dân “chân đất mắt toét” “ba xoa haiđập”, giống như số đông những anh cốt cán trong cải cách, lấy việc hận thù ghenghét những người ưu tú, tố điêu và nịnh bợ làm đường tiến thân.

   Đấy là nói chung về chỗ khác nhau giữa việctuyển lựa quan chức thời nay và thời xưa, bao gồm cả thời phong kiến lẫn thờiPháp thuộc.

 

   Riêng với quan chức Hà Nội, thì ngay từ thờixưa, người ta phải có hiểu biết thế nào là đô thị, và người đô thị, vai trò củacác thành thị trong sự phát triển kinh tế và văn hóa của quốc gia xứ sở. Chỉđến thời đại ta mới có những người làm dân thường ở đô thị không xong, đãnhẩy lên làm quan chức, hành hạ người khác.

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 19, 2024 04:15

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.