Vương Trí Nhàn's Blog, page 7

July 3, 2024

Dư Thu Vũ -- Các đặc tính và tệ nạn của văn hóa Trung Quốc

 


 

 

Tác giả: Dư Thu Vũ | Biên dịch: NguyễnHải Hoành

https://nghiencuuquocte.org/2021/06/1...

 

1. Các đặc tính củavăn hóa Trung Quốc

Rất nhiều học giả đãphát biểu về đặc tính của văn hóa Trung Quốc. Tôi không tán thành phần lớn cácý kiến của họ. Nguyên nhân chỉ có một: những “đặc tính” họ tìm ra thì không cógì khác với các tính đặc thù thực sự của các nền văn hóa khác.

Ví dụ: “mạnh mẽ, đầytriển vọng”, “vươn lên không biết mệt mỏi”, “nội dung bao la mênh mông”, “tônsư trọng giáo”, “khoan dung nhường nhịn”, “hậu đức tải vật”,[1] nhữngthành ngữ này luôn được thay nhau dùng để khái quát các đặc tính của văn hóaTrung Quốc. Thoạt xem dường như không có gì sai cả, nhưng một khi dịch ra tiếngnước ngoài thì rắc rối, vì trong những sách kinh điển của hầu hết các dân tộctrên thế giới đều có cách nói tương tự, chẳng qua chúng ta trình bày bằng vănngôn của Hán ngữ mà thôi.

Điều đó cho thấy sựnhất trí đáng quý của văn hóa Trung Quốc với văn hóa thế giới. Nó cũng cho thấychúng ta không thể lấy tính nhất trí đó để thuyết minh đặc tính của văn hóaTrung Quốc. Điều quan trọng hơn là, những từ ngữ đẹp đẽ ấy phần lớn là lời dạyvà lời tuyên bố với mọi người của các nhà tư tưởng cổ đại, không thể nói rõnhững thứ đó đã được người ta áp dụng vào thực tế hay chưa. Đúng là có một sốthứ các nhà tư tưởng cổ đại đã nhìn thấy nhưng người ta lại chưa làm được, chonên họ mới đưa ra những lời răn dạy. Vì thế cái gọi là đặc tính văn hóa ắt cònphải có tính thực tiễn rộng rãi và lâu dài.

 

 

Xét theo tiêu chuẩntính độc đáo và tính thực tiễn, tôi khái quát các đặc tính của văn hóaTrung Quốc thành ba thứ “Đạo”:

– Thứ nhất, trên môthức xã hội, văn hóa Trung Quốc đã xây dựng nên “Đạo Lễ nghi”;

– Thứ hai, trên môthức nhân cách, đã xây dựng được “Đạo Quân tử”;

– Thứ ba, trên mô thứchành vi, đã xây dựng được “Đạo Trung dung”.

Dùng ba thứ “Đạo” nàyđể thuyết minh sự khác biệt căn bản giữa văn hóa Trung Quốc với các loại vănhóa khác, người nước ngoài có thể tiếp thụ được không?

Bắt đầu từ cách đâysáu năm, tôi được mời đến nói chuyện tại các trường đại học Harvard, Yale,Columbia, Maryland và Thư viện Washington ở Mỹ, tại các nơi đó tôi đều nói theomạch suy nghĩ này, người nghe có phản ứng rất tích cực. Sau mỗi lần nói chuyện,tôi đều thảo luận với các giáo sư và học giả sở tại. Nhìn chung có thể khẳngđịnh, mạch suy nghĩ ấy của tôi tương đối dễ được giới học giả quốc tế chấpnhận.

Sau đây tôi xin dùnglời lẽ đơn giản nhất để nói qua về ba thứ “Đạo” này.

Trước hết nói về “ĐạoLễ nghi”. Tổ tiên chúng ta từ sớm đã phát hiện văn hóa tuy mềm mạinhưng muốn lưu truyền văn hóa thì phải tạo cho nó một hình thái cụ thể. Phầnlớn văn hóa dân gian truyền lại từ xã hội nguyên thủy đều được thực hiện rộngrãi theo phương thức cứng rắn của những phong tục xấu [?]. Như vậy không thể đểnhững thứ mà các nhân vật tinh hoa tư tưởng muốn thực hiện rộng rãi như nhânái, cao thượng, hiền lành, kính trọng lẫn nhau, nhường nhịn, trật tự… trở thànhthứ sáo rỗng, mà phải thiết kế ra một bộ quy phạm hành vi, thông qua các nghithức nhất định để tiến hành truyền bá những thứ đó theo kiểu bán cưỡng chế hóa.Thí dụ văn hóa Hiếu xuất phát từ luân lý tình thân, trẻ nhỏchưa hiểu sâu thì cũng phải học được thói quen hàng ngày đến hỏi thăm sức khỏecha mẹ. Sự hỏi thăm ấy chính là quy phạm hành vi bán cưỡng chế hóa, cũng là sợidây làm cho văn hóa Hiếu có thể tiếp diễn. Vì thế cái gọi là“Lễ nghi” là một loại nghi thức văn hóa đã đời sống hóa, tiện cho việc cố định,thực hành, xem xét, kế thừa. Những người đặt ra quy phạm đó tin rằng chỉ cầnquy phạm và nghi thức còn tồn tại thì tinh thần văn hóa chứa đựng trong đó sẽcó khả năng tồn tại; nếu không thì tinh thần văn hóa sẽ chỉ có thể theo gió màbay mất. Bởi thế Tuân Tử nói: “Lễ giả, nhân đạo chi cực dã”. Nghĩa là lễ nghilà cái gốc của đạo đức nhân văn. Dĩ nhiên lễ nghi cũng sẽ đem lại cho mỗi ngườirất nhiều cái mất tự do; điều đó Khổng Tử từ sớm đã nhận thấy, bởi vậy ông nói“Khắc kỷ phục lễ”.[2] Chínhlà sự nỗ lực của Khổng Tử và các vị thầy tiền bối khác đã làm cho Trung Quốcđược nhiều lần gọi là “Nước của lễ nghi”.

Lấy “Lễ nghi” làm môthức xã hội, điều này cũng làm cho Trung Quốc trong mấy nghìn năm qua vẫn giữđược một kiểu đoan trang đáng quý. Khuyết điểm là “Lễ nghi” quá chú trọng hìnhthức bên ngoài và lễ nghi rắc rối, điều đó đã hạn chế sự vỡ lòng của tâm linhvà sự biểu đạt cá tính, lại càng cản trở phần lớn học giả Trung Quốc tiến hànhtư duy siêu nghiệm, trừu tượng và có kết cục cuối cùng.

Tiếp theo xin nói về “Đạoquân tử”. Giới Nho sĩ muốn cải tạo xã hội mà không làm được việc đó,cuối cùng họ bèn biến mục tiêu cải tạo xã hội thành cải tạo nhân cách. Thoạttiên họ xác định trình tự hành vi là “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiênhạ”. Tu thân là điểm xuất phát, ngờ đâu vất vả tu thân bao năm đến cuốicùng thì dự định trị quốc, bình thiên hạ về cơ bản lại tan vỡ; vì thế điểm xuấtphát lại biến thành nơi đến. Hình mẫu nhà Nho tu thân là quân tử.

Lấy quân tử làm nhâncách lý tưởng– đây là đặc trưng độc đáo của văn hóa Trung Quốc.

Tại đây chúng ta cóthể làm một đối chiếu vĩ mô:

Trên thế giới này códân tộc coi nhân cách lý tưởng là “Giác giả” [người tu hành đã giác ngộ,Buddha],

Có dân tộc coi nhâncách lý tưởng “Nhà Tiên tri”,

có dân tộc coi nhâncách lý tưởng là “Người khổng lồ” [Giant],

 có dân tộc coi nhân cách lý tưởng  là “Thân sĩ” [Gentlement],

có dân tộc coi nhâncách lý tưởng  là “Kỵ sĩ” [Hiệp sĩ,Knight],

có dân tộc coi nhâncách lý tưởng  là là “Võ sĩ”.

Nhưng nhân cách lýtưởng của dân tộc Trung Hoa là “Quân tử” thì không lặp nhân cách lý tưởng nóitrên.

Tổ tiên chúng ta khôngđịnh nghĩa quân tử là gì.

Nhưng điều còn đặc sắchơn là các vị ấy xác định rõ ràng mặt đối lập của quân tử —— tiểu nhân.

Hơn thế nữa, trên tấtcả các vấn đề còn tiến hành đối chiếu quân tử và tiểu nhân với nhau, đối chiếutrực tiếp ở cự ly gần. Phương thức lý luận đó có hình ảnh rõ ràng, tương phảnmạnh, dễ cảm nhận, lại có thể cao giọng nói ra, [vì thế] cực kỳ dễ lưu truyền.

Các bạn xem đấy, xưanay bất cứ người Trung Quốc nào có chút văn hóa đều có thể buột miệng nói nhữngcâu như “Quân tử thường đãng đãng, tiểu nhân thường thích thích”, “Quân tử cầuchư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”, “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”,“Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”, “Quân tử hòa nhi bấtđồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”[3]… Kết quả là hơn hai nghìn năm qua, giới hạn giữa quân tử với tiểu nhântrở thành ranh giới thứ nhất của văn hóa Trung Quốc. Bất cứ người TrungQuốc nào, cho dù thất bại thì cũng mong muốn thất bại như người quân tử màkhông mong muốn chuyển biến thành kẻ tiểu nhân thành công; cho dù bị người khácnói mình là kẻ xấu thì cũng không muốn bị nói là kẻ tiểu nhân. Điều đó ăn sâuvào lòng người, chứng minh các nhà Nho cổ đại đúng là đã đem tất cả mọi giấc mơchính trị, giấc mơ lễ nghi ngưng tụ thành giấc mơ quân tử, giấc mơ nhân cách.

Cuối cùng xin nói về “ĐạoTrung dung”. Nói dễ hiểu, tức là văn hóa Trung Quốc về bản tính khôngtín nhiệm mọi sự hấp dẫn cực đoan hóa. “Đạo trung dung” cho rằng các lời lẽ cựcđoan tuy rằng nghe thì sướng tai đấy, vui đấy nhưng nhất định là hại người hạimình. Vì vậy phải cảnh giác với cái sướng và vui ấy, phải đi tìm sự thích hợpvà thích đáng; phải từ bỏ sự cứng nhắc và hẹp hòi mà đi tìm kiếm sự co dãn vàkhoan dung.

“Đạo trung dung” làmột phương thức tư duy tổng thể. Nó phản đối sự chia cắt mà đề xướng sự chỉnhhợp; nó mong muốn sự rõ ràng nhưng lại dung thứ sự hỗn độn; nó yêu cầu kết quảnhưng cũng thừa nhận quá trình; nó biết phải trái nhưng lại khẳng định sựchuyển hóa; nó cho rằng tổng thể của sự bổ khuyết lẫn nhau, tác động lẫn nhau,dịch chuyển lẫn nhau là bộ mặt thật của thế giới, mà tư duy cực đoan hóa là tưduy giả tạo.

Trong lịch sử, tạiTrung Quốc cũng từng xuất hiện không ít sự kiện cực đoan hóa, gần đây có NghĩaHòa Đoàn, “Cách mạng Văn hóa” v.v… nhưng thời gian không dài [?]. Các sự kiệnchiếm địa vị chủ đạo trong lịch sử vẫn là triết lý “trung dung”, “trung hòa”,“trung đạo” dựa trên luân hồi bốn mùa của văn minh nông canh, sự hỗ sinh của âmdương. Loại triết lý này qua sự trình bày sâu sắc và áp dụng vào thực tiễn củaNho giáo và Đạo giáo đã trở thành mô thức hành vi cơ bản của người Trung Quốc,hình thành sự đối chiếu rõ rệt với những nơi khác trên thế giới bao lâu nay mêđắm với chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và chủ nghĩa bành trướng quân sự. Tôi chorằng trong số mấy nền văn minh lớn của loài người, nền văn minh Trung Hoa cóthể trở thành nền văn minh duy nhất may mắn còn lại, chưa bị gián đoạn và tiêuvong; việc này có rất nhiều nguyên nhân, trong đó bí mật quan trọng nhất là“Đạo Trung dung”. Trong nhiều tai nạn lớn, “Đạo trung dung” có tác dụng làmdịu, tác dụng ngăn ngừa bùng nổ và tác dụng chữa lành vết thương, vừa bảo toànbản thân vừa bảo vệ thế giới. Ví dụ nền văn hóa dòng chính của Trung Quốc khôngtán thành các cuộc viễn chinh đưa quân đội ra nước ngoài. Điều này rất khác vớicác nền văn minh lớn trên thế giới. Sự khác biệt này ngay cả rất nhiều giáo sĩphương Tây đến Trung Quốc truyền giáo cũng phải trải qua thời gian rất lâu mớihiểu được, họ phát hiện nguồn gốc là “Đạo trung dung”. Năm 2005 tôi có đọc tạiĐại hội Văn minh thế giới của Liên Hợp Quốc bài diễn văn “Giải đáp của MatteoRici”,[4] trongđó tôi dùng một loạt sự thực lịch sử từ góc độ triết học văn hóa để phản bác“Thuyết Trung Quốc đe dọa”.

Tóm lại, ba thứ “Đạo”,mô thức xã hội, mô thức nhân cách, mô thức hành vi thật là đầy đủ, hơn nữa lạitổ hợp nghiêm chỉnh, tạo ra một loại “thế chân vạc” của nền văn hóa lớn. Cáivạc văn hóa này vừa là lý do ngưng tụ tinh thần người Trung Quốc lại vừa là mộtcông trạng lớn của người Trung Quốc trên trái đất này. Nếu người khác không thừanhận thì đó là do họ không có kiến thức mà thôi.

Cho tới nay còn cónhững người vẫn hay dùng một số quan niệm xã hội do phương Tây tạo dựng trongthời kỳ cận đại để chê bai Trung Quốc và người Trung Quốc. Đúng là các quanniệm ấy của phương Tây đều rất ưu tú, rất đáng được chúng ta học tập, nhưng tôicũng có chút không phục. Bởi lẽ trước khi các quan niệm đó ra đời thì văn hóaTrung Quốc đã sống tương đối mạnh mẽ ít nhất 5000 năm. Chứng cứ của sự “tươngđối mạnh mẽ” là trong khi các láng giềng cùng tuổi đã liên tiếp chết sớm thìvăn hóa Trung Quốc vẫn tràn trề sinh lực sống cho tới ngày nay, sinh ra chư tửbách gia, sinh ra các triều Tần, Hán, Đường, Tống, sinh ra số dân đông đảo.Sống lâu như thế, lớn như thế, lẽ nào lại không có giá trị tinh thần của mìnhư?

Cách đây vài tháng,tại Đài Bắc, tôi có tranh cãi với một nhà chính luận người Mỹ gốc Hoa. Ông ấynói: “Hệ thống giá trị của phương Tây là điểm khởi đầu và điểm kết thúc củatoàn bộ các vấn đề chúng ta thảo luận.” Tôi nói: “Có phải là điểm kết thúc haykhông, ông và tôi đều không có tư cách phán đoán. Nhưng tôi có tư cách khẳngđịnh khởi điểm không ở đấy.”

2. Các tệ nạn của vănhóa Trung Quốc

Sau khi đã nói về côngtrạng của văn hóa Trung Quốc thì cũng cần bàn một chút về các tệ nạn của nó.

Văn hóa Trung Quốc cótầm vóc lớn, tuổi thọ dài, đương nhiên tệ nạn rất nhiều. Để tương ứng với bathứ “Đạo” đã nói ở trên, tôi cũng chọn ra ba thứ “Yếu”.

Điểm yếu thứ nhất củavăn hóa Trung Quốc là xa lạ với không gian côngcộng.

“Không gian công cộng”(public space) được coi là một mệnh đề xã hội học và được trường phái học thuậtFrankfurt ở Đức tái giải thích, thực ra là một điểm sáng lớn tự cổ chí kim củavăn hóa châu Âu. Văn hóa Trung Quốc xưa nay tương đối u ám về điểm này, xưa naybao giờ cũng nhấn mạnh trên phải không hổ thẹn với xã tắc triều đình, dưới phảikhông hổ thẹn với gia đình, người thân, tức cái gọi là “Trung hiếu vẹn toàn”.Nhưng có trung, hiếu thì đã “vẹn toàn” chưa? Chưa đâu. Giữa triều đình và giađình còn có một “không gian công cộng” rộng rãi. Đây là một vùng mù của văn hóaTrung Quốc.

Bạn xem đây, thời xưakhi một vị quan ngồi kiệu đến một không gian công cộng nào đó thì phía trướcnhất định phải có lũ người hầu giơ hai cái biển trên viết mấy chữ: “Yên lặng”,“Tránh ra”. Thế là thoắt một cái, không gian công cộng biến mất. Như vậy dườngnhư chỉ còn để người trí thức quan tâm tới không gian công cộng. Thế nhưng cácvăn nhân Trung Quốc lại tuân theo một câu khẩu hiệu tự răn mình: “Hai tai chớnghe chuyện bên ngoài cửa sổ, một lòng chỉ đọc sách thánh hiền”. Cái “bên ngoàicửa sổ” nói ở đây tức là không gian công cộng, nơi các văn nhân không được để ýtới. Cũng có khi họ nói “Thiên hạ hưng vong” nhưng chủ yếu nói sự hưng vong củatriều đình.

Đối chiếu bệnh này vớilời bàn quan trọng sau đây của triết gia Kant thì sẽ thấy rõ hơn. Kant nói,người trí thức có trách nhiệm cao cả là “Dám vận dụng lý trí tại mọi không giancông cộng.”

Khi đi du lịch nướcngoài, tôi thường nghe thấy các bạn ngoại quốc oán trách du khách Trung Quốc cónhững hành vi xấu như nhổ bậy, nói to, đánh bài trong đại sảnh khách sạn v.v…,cho như thế là không có đạo đức. Tôi thường hay nói vài câu bào chữa cho đồngbào mình, như nói mấy người nói to ấy là phụ nữ nhà quê, rất có thể họ từngnhận nuôi vài trẻ mồ côi đấy ạ. Thái độ thiếu tư cách của họ chỉ nói lên họkhông biết quy tắc hành vi tại nơi không gian công cộng. Lỗi không phải ở họ màlà ở văn hóa Trung Quốc. Đương nhiên rốt cuộc chuyện ấy đúng là cũng có liênquan tới đạo đức, đó là thiếu đạo đức công cộng.

Khiếm khuyết này của vănhóa Trung Quốc ngày nay chỉ có thể trông mong vào sự bổ khuyết của những ngườiđương đại chúng ta. Rất nhiều đô thị đề xuất phải xây dựng “Đô thị mạnh về vănhóa”. Tôi cho rằng điều quan trọng nhất không phải là đưa ra bao nhiêu tácphẩm, mà là ở chỗ xây dựng lại không gian công cộng.

Không gian công cộnglà tác phẩm văn hóa lớn nhất đồng thời lại là lớp học văn hóa lớn nhất. Nhâncách tập thể và thói quen thẩm mỹ của đông đảo người dân đô thị đều được đàotạo tại đây.

Điểm yếu thứ hai củavăn hóa Trung Quốc là xa lạ với ý thức thực chứng.

Cố giáo sư sử họcngười Mỹ gốc Hoa ông Hoàng Nhân Vũ nói, tệ nạn lớn nhất trong lịch sử TrungQuốc là “thiếu sự quản lý số hóa”. Ông cố ý hài hước dùng một từ ngữ mới đểtrình bày một vấn đề cũ. Ông đặc biệt nêu lên ví dụ sách “Minh Thực Lục”, tàiliệu về triều đình nhà Minh, phát hiện thấy phần lớn số liệu ghi ở đây đều rấtkhông chính xác, thậm chí cực kỳ xằng bậy, nhưng người biên soạn, sao chép,người soát cho tới người đọc, người trích dẫn dường như đều rơi vào vùng mù.

Ở Trung Quốc hiện nay,vùng mù ấy chỉ tăng chứ không giảm. Nhất là những số liệu xem ra ở tư thế cóchứng cớ thực tế nhất thì lại thường là khó tin hơn cả. Nào là “Dẹp loạn thànhcông trong ba tháng”, “sản lượng lúa mỗi mẫu 20 vạn cân”, “95% phái đương quyềnđã thối nát” v.v… những con số thịnh hành trong cả nước ấy, liệu cái nào đãđược chứng thực là có?

Thiếu ý thức thựcchứng cũng là thiếu ý thức khoa học. Khuynh hướng này làm cho văn hóa TrungQuốc trong một thời gian dài ngụp trong vũng bùn “Chỉ quan tâm chuyện trungthực và gian dối, không quan tâm thật giả”. Thực ra không làm rõ thật giả thìmọi thứ khác đều mất cơ sở nền tảng. Chuyện ấy cũng có liên quan tới việc mấtchữ tín khiến mọi người đau lòng hiện nay. Nước nào cũng có hàng giả, nhưnghàng giả gây tai hại nhất với Trung Quốc; tin đồn nhảm nước nào cũng có nhưngtác hại sâu sắc nhất với Trung Quốc. Đó là do văn hóa Trung Quốc không có cơchế và trình tự phát hiện thật giả, ngăn chặn làm giả, xóa bỏ tin đồn nhảm.

Nhiều năm nay tôi pháthiện thấy bất cứ ai khi phải hứng chịu tin đồn nhảm nhằm vào mình thì họ khôngthể tìm được biện pháp văn hóa nào để xóa bỏ tin đồn ấy. Thế nào là “biện phápbản thân văn hóa”? Đó là không cần phải dựa vào sự điều tra làm rõ của cơ quannhà nước, cũng chẳng cần phải tự tử, mà chỉ dựa vào năng lực phân biệt chứng cớcủa đa số dân chúng trong xã hội và sự nhạy cảm logic đối với sự giả dối, thìđã có thể phục hồi chân tướng của sự việc. Nền văn hóa Trung Quốc hoàn toàn bấtlực đối với chuyện đó. Đa số văn nhân Trung Quốc tiếp tay cho kẻ xấu, hầu nhưmọi tin đồn có hậu quả xấu nhất đều do các văn nhân đặt ra. Lẽ ra sự phát triểntruyền thông và Internet có thể giúp cho việc tìm kiếm chứng cớ, dẹp tin đồn,nhưng sự thực cho thấy là trên mức độ rất lớn, các phương tiện này lại chắpcánh cho tin đồn bay khắp nơi.

Tóm lại, trên vấn đềnày, văn hóa Trung Quốc hình thành cục diện kỳ quặc, tôi từng dùng 8 câu ngắnđể khái quát như sau: – phao tin đồn không chịu trách nhiệm; – truyền tin đồnkhông gặp cản trở; – trúng tin đồn không ai giúp; – muốn bác bỏ tin đồn khôngcó cách nào; – bác tin đồn: không hiệu quả; – phá tin đồn: không hứng thú; –tin đồn cũ vừa qua, tin đồn mới đã đến; – tin đồn nhiều không đếm xuể.

Từ đây liên tưởng đếntình hình chung toàn xã hội, khi nào có kẻ cố ý phao tin đồn gây sự thì nhấtđịnh sẽ xảy ra một tai nạn nhân văn khó kiểm soát. Mấy năm nay tôi ngạc nhiênphát hiện thấy ở Hong Kong có rất nhiều văn nhân cố chấp tin rằng cho đến nayhiện trường nạn động đất ở Văn Xuyên [Tứ Xuyên, 12/5/2008] vẫn còn “khắp nơikêu la rên xiết, dân chúng lầm than điêu đứng”. Tôi gắng sức dùng những điềuchính mình tai nghe mắt thấy để phản bác nhưng không có kết quả. So sánh vớicác nước khác trên thế giới từng xảy ra thiên tai, tuy hoạt động cứu trợ của họthua xa Trung Quốc, thế nhưng họ lại không có những tin đồn như vậy. Bởi thếtôi không thể không nhận định rằng ở đây đúng là ẩn chứa một căn bệnh lớn củavăn hóa Trung Quốc.

Điểm yếu thứ ba củavăn hóa Trung Quốc là xa lạ với quan niệm pháp chế.

Khi bàn vấn đề này,tôi không xuất phát từ góc độ chính trị mà xuất từ góc độ văn hóa. Cho tới nay,loại hình văn học nhiều người đọc nhất ở Trung Quốc vẫn là tiểu thuyết kiếmhiệp. Về thủ pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết kiếm hiệp có rất nhiều cây bútcự phách, nhưng về quan niệm văn hóa [họ] lại cứ nhất thiết ca ngợi các “anhhùng ngoài vòng pháp luật”. Ở nước ngoài cũng có loại anh hùng này, như RobinHood, Zorro, song địa vị văn hóa của họ kém xa địa vị trong văn hóa Trung Quốc.“Hảo hán” trong văn hóa Trung Quốc bao giờ cũng thách thức luật pháp, “gianghồ” bao giờ cũng cách xa luật pháp, “lương dân” bao giờ cũng chặn kiệu quan đểtố cáo, “quan thanh liêm” bao giờ cũng diễn trò nhân đức ở ngoài vòng phápluật. Còn có thể kể tiếp những cái “bao giờ cũng” ấy –– điều đó cho thấy xưanay phần đông linh hồn dân gian Trung Quốc đều nằm ngoài vòng pháp chế hoặcphiêu bạt ở vùng ngoại vi.

Dĩ nhiên điều đó cóliên quan tới các tật bệnh của pháp chế Trung Quốc xưa nay. Để so sánh, ta thấy“cướp biển Bắc Âu” hầu như cùng thời với “hảo hán Thủy Hử”, nhưng đều trải quaquá trình chuyển hóa đau khổ từ “trả thù nhà” đến “xét xử lý trí”. Quá trìnhchuyển hóa này của Trung Quốc rất muộn, tới nay mới bắt đầu, nhưng trên mặt vănhóa thì vẫn chưa thực sự bắt đầu. Vấn đề này tôi có bàn khá chi tiết ở phầnviết về cướp biển Bắc Âu trong cuốn “Hành giả vô cương” .

Sự xa lạ phai nhạtquan niệm pháp lý của văn hóa Trung Quốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việcđông đảo dân chúng tiến nhanh lên văn minh hiện đại. Điều làm người ta lo lắnglà hiện nay có rất nhiều quan chức còn đang bận trình diễn các cử chỉ tách rờitrình tự pháp chế gọi là “thân dân”, dùng tiền bạc để vỗ về sự phi pháp, kếtquả luật pháp bị hạ thấp, chính nghĩa bị bỏ xó, kẻ hung dữ đắc lợi, người lươngthiện bị thiệt hại. Điều nghiêm trọng hơn là không ít văn nhân hoạt động sôinổi trong giới truyền thông và internet còn đem sự huyên náo quây lại thành“tòa án nhân dân [nguyên văn: dân gian]”. Thực ra lịch sử TrungQuốc và nước ngoài đều đã chứng tỏ tất cả những cái “Tòa án nhân dân” trên thếgiới đều là sự phá hoại lớn nhất đối với luật pháp [ví dụ các toà án trong cuộcCải cách ruộng đất ở TQ].

Văn hóa Trung Quốc còncó rất nhiều chỗ yếu. Tôi từng nói một cách rất hệ thống vấn đề này trong cảmột năm trên đài truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng ở Hong Kong. Hôm nay vì thờigian hạn chế, chỉ xin nêu lên ba điểm kể trên. Nhưng chỉ ba điểm này thì đã đủtrầm trọng rồi. Muốn khắc phục, e rằng cần trải qua vài thế hệ nữa.

Dư Thu Vũ (1946-), 20tuổi tốt nghiệp khoa Văn học kịch nói Học viện Hý kịch Thượng Hải, năm 1985 trởthành giáo sư văn học trẻ nhất Trung Quốc; năm 1987 được tặng danh hiệu Chuyêngia có cống hiến đột xuất cấp Nhà nước, hiện là Giám đốc Học viện Nghệ thuậtnhân văn Macau. Bài này trích từ bài viết rất dài có đầu đề “Nỗi lo của văn hóaTrung Quốc” công bố tháng 9/2012.

Nguyễn Hải Hoành  lược dịch từ nguồn tiếng Trung  余秋雨:中国文化的 隐忧    12-09-13 

—————–

[1] (Quân tử) dĩ hậu đức tảivật : ý nói kẻ đạo đức cao thượng có thể gánh vác được nhiệm vụ lớn.

[2] Tự kiềm chế bản thân, quay về với đạolý.

[3] Quân tử thì thản nhiên thư thái, tiểunhân thì thường lo lắng u sầu; – Quân tử trông cậy bảnthân, tiểu nhân trông cậy người khác; – Quân tử biết rõ nghĩa, tiểunhân biết rõ cái lợi; –  Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhânkiêu căng mà không thư thái; – Quân tử sống hòa hợp với mọi người mà vẫn giữquan điểm riêng (không a dua), tiểu nhân sống chung với mọi người mà không hòahợp.

[4] Matteo Rici, 1552-1610, giáo sĩ người Ý,truyền giáo ở TQ 30 năm, giỏi Hán học, viết sách “Tạp ký Matteo Rici”, nhận xétTQ mạnh quân sự nhưng không có dã tâm xâm lược nước ngoài như các cường quốcchâu Âu.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 03, 2024 00:07

July 1, 2024

Xuân Diệu -- Tính cách An Nam trong văn chương


Nguồn : báo Ngày Nay ra ngày thứ bảy

28 Janvier 1939 – số 147

-----------

Có lẽ ý tôi sẽ ngược với rất nhiều người, song tôi cũng mong được có cái tự do tư tưởng, nói những điều tôi thành thực tin, dù bị công kích cũng đành.

Văng vẳng ở đâu đây, tôi được nghe người ta bảo: Văn chương An-nam phải có tính cách An-nam.

Thực là chí lý: thực là một điều dĩ nhiên quá: chẳng những viết văn An-nam lại hoá ra viết văn Tây. Nhưng cái thuyết “tính cách An-nam” là một thuyết dễ làm cho ta nhầm; chỉ một chút cố chấp, một chút hủ lậu cũng đủ biến cái thuyết đẹp đẽ kia thành ra một thuyết chật hẹp, nông nổi.

Người An-nam là người An-nam, chứ người tây sao được? Dù có Âu hoá đi nữa, cái đặc biệt của nòi giống vẫn còn ở trong máu, trong từng thớ thịt, từng miếng da. Văn chương Việt Nam cũng vậy. Cái ngô nghê phải chết, cái lố lăng phải mất, sự nô lệ trong văn chương không thể nào tạo nên được những tác phẩm lâu bền. Phải, văn mỗi nước có một tinh thần, khó có thể diễn tả ra cho rõ được; ta phải có một thứ cảm xúc riêng để cảm nghe cái tinh thần ấy. Đời nào văn Việt Nam lại dung túng những lối văn sống sượng, một lối văn nô lệ cho văn Tàu hay văn Tây! Trong văn chương cũng có một luật đào thải tự nhiên; những cái phản với tinh thần quốc văn tất phải tiêu diệt.

Tôi nghĩ chúng ta không càn phải quá áy náy, lo rằng văn chương Việt Nam mắc cái bệnh “làm tây”; những cỏ dại không hợp thuỷ thổ sẽ chết ngay từ khi gieo giống.

Chúng ta phải giữ gìn cho tính cách An-nam. Điều ấy rất phải. Nhưng giữ gìn bờ cõi có phải là đóng hết cửa biển, tuyệt hết giao thông, bế tắc cả nước lại đâu! Giữ gìn không là quẩn quanh trong một vũng ao tù, không phải là đành tâm mến yêu một cảnh nghèo đói. Văn chương Việt Nam được giữ kín một cách chắc chắn là tiếng Việt Nam (la langue Annamite) có hình thức, có mẹo luật riêng. Ta viết bằng quốc văn dùng những chữ (les mots) An-nam, theo một cú pháp An-nam và theo cái “tinh thần” riêng, mà ta cảm nghe rất rõ; tiếng An-nam cũng như một khí cụ, ta biết khéo dùng cái khí cụ ấy, dùng cẩn thận thì thôi; hà tất phải khư khư chạy đi tìm một cái cổ hủ nào rất vu vơ, mờ mịt?

Cái học Âu-tây đã làm cho chúng ta tinh vi, kỹ lưỡng; vì sao chúng ta không nói những điều ấy trong văn Việt Nam? Ta viết văn An-nam ta tả những tình cảm của ta, thì có gì hại cho văn An-nam chứ? Chúng ta là những người An-nam có chịu ảnh hưởng Âu-tây, nhưng vẫn là người An-nam. Mà người Âu tây là gì? Họ cũng vẫn là người. Trừ những điều riêng tây quá, chứ cái “kho”, cái “đáy”, cái “vốn” của con người ở đâu đâu cũng giống nhau. Trong lòng An-nam của chúng ta vẫn có phần nhiều những ý, những tình, những cảm giác mà người tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu tây đã cho biết rằng ta có, vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu ở trong lòng, thì sao ta không nói? Miễn là ta dùng tiếng An-nam và dùng đúng, tức là ta viết văn An-nam. Khi xưa, đất An-nam cũng vẫn có những dầu hoả đấy chứ; cái dầu hoả mà khoa học Âu tây tìm ra trên đất An-nam có phải là dầu hoả tây hay không?

Với lại có những cách phải dựa theo tây mà nói, nếu không thì không nói được bằng cách nào. Ta phải nhận rằng xưa kia các cụ có mấy khi chịu dùng tiếng An-nam! Một thứ tiếng để lâu quá, ít dùng quá thì cố nhiên ít được khéo léo. Chúng ta phải tạo thêm, phải bày đặt ra những cách dùng mới mà xưa kia các cụ không chịu tìm; vả lại chúng ta ở thế kỷ hai mươi, chúng ta có những cái phức tạp mà các cụ không có. Cái phức tạp là đấy ư? Thế nghĩa là muốn làm An-nam, phải giản dị, đơn sơ như thời trung cổ ư?

Bởi thế, thỉnh thoảng chúng ta phải dùng những chữ bởi, của, trong v.v… những tiếng đưa đẩy mà trước kia các cụ rất ít dùng; và ta lại dùng theo những cách có hơi lạ.

Tôi xin lỗi ông Hoài Thanh vì tôi đã nói: “Đại dương của thương nhớ, sa mạc của cô đơn”. Tôi nhận rằng chữ của ngô nghê thực. Song le nếu nói: “Nỗi thương nhớ mênh mông như đại dương” thì hai câu rất khác nhau. Câu dưới là một sự so sánh (une comparaison), câu trên có chữ của là một sự chung hợp, một sự lẫn lộn (une mé taphore). ý của tôi phải dùng một cái métaphore mới tả được; thì tôi phải dùng chữ của dầu cái chữ ấy nghe không quen tai.

Tôi còn nói nhiều về vấn đề này. Một vấn đề mềm mỏng và hệ trọng bao nhiêu! Cốt nhất không phải là thắng trong sự tranh luận; cốt nhất không phải lòng tự ái; chỉ một điều ta nên nghĩ, dầu ta phải hay trái, là tiếng Việt Nam mà ta yêu.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 01, 2024 01:55

Xuân Diệu -- Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà

 

Tôi sẽ là người bội bạc nếu tôi quên cả một thời tuổinhỏ, thời tôi đã yêu, đã mê thơ của thi sĩ Tản Đà. Người ta có thể đổi thay, tuổitráng niên không còn những cái thích của ngày thơ dại cũng như tấm lòng không ởmãi trong một tình yêu. Nhưng ta không quên, kỷ niệm còn đây để nhắc tôi cáihương xưa cửa những mơ mộng ban đầu.

 

Tôi bắt đầu yêu thơ, năm học lớp nhất. Đã mười năm…lòng trẻ con hé mở ngập ngừng, yêu đương một cách vô tâm như hứng một làn gió.Tôi đến chơi nhà một bạn nhỏ, người bạn nhỏ khoe với tôi có một chồng báo HữuThanh. Lúc ấy Hữu Thanh đã chết rồi, nhưng tôi có biết gì về năm tháng đâu! Đốivới tôi Hữu Thanh là những quyển sách mới. Tôi mượn và xem từng số một, và thấyyêu quốc văn, tôi riêng yêu thơ, và tôi đặc biệt yêu thơ Tản Đà.

 

Tôi dần dần đọc hết những bài thơ trong tập báo cũ,tôi chép vào quyển sổ con, có cảm giác mơ hồ như hứng lấy một bóng trăng thanh.Tuổi nhỏ không khó tính, lòng tôi thuở ấy đương cần một nhịp ru nhè nhẹ khêu gợicho tôi mơ mộng vẩn vơ vần thơ trong trẻo của Tản Đà đã phơ phất thổi qua lòngtôi, và cho tôi mờ mờ hiểu rằng người thi sĩ là lạ, khác khác, không phải nhữngngười quen biết tôi gặp.

 

Từ lúc yêu thơ - năm tôi mười ba tuổi - gặp bài thơnào, đăng ở đâu tôi cũng đọc, nhưng càng xem tôi càng thấy cái tài đặc biệt cuảTản Đà. Những bài thơ đạo mạo, hoặc sâu thẳm, nhưng bao giờ cũng khô khan, nhạtnhẽo đăng ở Nam Phong thì sao bì được những câu ca bay bổng của Nguyễn Khắc Hiếuđăng ở Hữu Thanh!

 

Dần dần sự yêu của tôi thành một cái mê. Tôi cho rằngcâu nào của Tản Đà cũng hay, bài nào cũng khả ái, tôi nhặt chép từng đoạn thơcon.

 

Tôi ước ao được có nhiều thơ của Tản Đà mà đọc, nhưngngoài những bài thơ tôi gặp ở Hữu Thanh, tôi không còn biết tìm đâu. Thuở 1929,thì những văn thơ của Tản Đà xuất bản đã lâu, bán đã hết cả, tôi chỉ biết làthi sĩ có những tập Khối Tình Con thứ nhất và thứ hai, Giấc mộng con, Khốitình…

 

Tôi không nhớ bài nào xem trước, bài nào xem sau, ký ứctôi không giữ lại một thứ tự rõ ràng. Tôi chỉ nhớ cái sướng của tôi khi đọc nhữngbài Hỏi gió, Thăm mả cũ, Bầu trời, - những câu ca dao phóng khoáng, những điệutừ khúc xinh xắn, và ở bài nào cũng có cái duyên của Tản Đà.

 

Trong năm sáu năm trời, từ lúc thi sơ học đến lúc thiThành chung, thơ Tản Đà nuôi lòng yêu thơ của tôi. Chung quanh Tản Đà, nhữngngười khác làm những bài thơ không một chút rung động. Thơ mới chưa ra đời, thơcũ lặp lại những câu sáo, tình yêu của tôi đi đến Tản Đà như đi đến người thisĩ độc nhất của Việt Nam.

 

An Nam tạp chí tái bản, tôi là một độc giả rất trungthành, lòng tôi mến phục nhà thi sĩ đã thành một sự mẩn mê. Tôi chờ đón tạp chíAn Nam, để xem những câu thơ Nguyễn Khắc Hiếu. Lúc này nhà thi sĩ đã ít làmthơ, nhưng cũng đủ thỏa lòng tôi khát khao.

 

Tôi phục Tản Đà cách dùng chữ tinh xảo, cái mẹo luậtly kỳ, và một âm nhạc chảy trôi, bay bướm. Tôi xiết bao khoái trá, khi xem câuhứng bút của Tản Đà:

         Năm xưa chơi ở Dương Qùy

Trắngphau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh

Nhất là mấy câu Ngày xuân tương tư:

Sươngmù mặt đất, người theo mộng

Nhạnlảng chân trời, kẻ đợi thơ.

và những câu thoát dịch thơ Tàu:

            Một đêm hoa nở cành mai

Trướcsong chợt đến, nhỡ người nhớ thương.

 

 

Trong lớp học tôi, có một người bạn nữa cùng thích thơTản Đà. Chúng tôi thành một đầu đề cho chúng bạn đùa cợt. Tôi và người bạn vôcùng võ vẽ làm thơ, chúng tôi ở trong thời kỳ bắt chước, và cố nhiên chúng tôichỉ học theo Tản Đà mà chúng tôi tôn làm thầy. Thơ chúng tôi cũng na ná giốngthơ Tản Đà, nhất là thơ của tôi, giỏi ăn cắp lối dùng chữ, lối chuyển câu củaNguyễn Khắc Hiếu.

 

 

Những giờ học quốc văn, tôi đã thuộc đoạn phú tự do ởsau bài Đánh bạc. Tôi thấy những vần giản dị, êm ngọt, đọc nghe lanh lảnh bêntai:

Thửtrèo bức tường đổ, trông quãng đường xa

Mồcon, mả lớn, chỗ năm chỗ ba

Chẳngquan thì dân, chẳng trẻ thì già.

Trướccũng người cả, bây giờ đều ma…

 

 

Tản Đà thư cục lại lập. Thề non nước lại ra đời. Với lòng tôi thuở ấy, còn gì dịu dàng hơnnhững câu:

Nướcnon nặng một lời thề

Nướcđi đi mãi không về cùng non

Non cao những ngóng cùng trông

Suốikhô giọt lệ, chờ mong tháng ngày

Nonxanh đã biết hay chưa?

Nướcđi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn.

 

 

Khối tình tái bản, yêu thơ, tôi yêu lây đến văn. Văn TảnĐà, tôi thấy là những câu thơ phú tự do có vần, có nhịp.

 

Tôi thán phục những câu nói về cái sầu lẩn quất: Sầukhông có mối, cắt sao cho dứt, sầu không có khối, đập sao cho tan.

 

Tôi yêu những câu: Chàng Lưu Lang trở lại động ThiênThai, hoa đào nước suối, “đất Nam Sở đỉnh chung người đội gạo, bến Tầm Dươngtrăng ước chiếu thuyền con”.

 

Đến Khối tình con thứ ba ra đời. Đó là tập thơ cuốicùng của thi sĩ. Tôi thưởng thức đoạn đầu bài Cảm thu vì bao nhiêu câu thơ đặcsắc rải rác trong tập thơ Giấc mộng con thứ ba, hưởng một điệu từ khúc ở cuốisách, xinh và trong:

Nonxanh xanh, nước xanh xanh

Nướcnon như vẽ bức tranh tình

Nonnước tan tành, giọt lệ tràn năm canh.

 

Nhưng không được bao lâu, An Nam tạp chí lại đình bản.

 

Tôi ngong ngóng đợi chờ. Mãi sau khi tạp chí lại ra, lầnnày là lần cuối, tôi vồn vã nắm lấy tờ báo. Lòng tuổi trẻ dễ dàng bao nhiêu, nỗivui sướng không cần đắn đo, và cái say mê rất là chung thủy.

 

Tôi chờ, tôi đợi An Nam tạp chí, tôi đến hiệu sách đónmua. Nhưng lần này, báo của thi sĩ ra không thể kể đến kỳ hạn. Một tháng phảira hai kỳ, mà thực ra một tháng có một kỳ, hay hai tháng có một kỳ.

 

 Làm cho tôi đếnngày đầu tháng và giữa tháng trốn trường ra phố, thăm hỏi không thôi. Tôi đếnluôn một hiệu sách, hỏi họ vồn vập, dường như bắt họ chịu trách nhiệm về sự trễtràng.

 

 Rồi sau khimong mỏi bao lâu, đột nhiên một số An Nam lại ra, và tôi lại được một bữa tiệc,vội rọc số báo, tìm thơ Tản Đà. Có khi chỉ được ít ỏi mấy dòng mà hứng thơ củathi sĩ ngó chừng đã cạn. Tuy vậy, tôi vẫn yêu, tôi vẫn mê.

 

 

Nhưng một lần kia An Nam tạp chí ra chậm quá chừng, chậmvô cùng, chậm không thể tưởng tượng được: Tạp chí không ra nữa.

Và từ đó bắt đầu ngấm ngầm một cuộc đổi thay vô tìnhtrong tâm hồn tôi. Tuổi nhỏ dần dần thành tuổi trẻ, tôi thay quan niệm, thay xuhướng, lòng tôi cũng chuyển đi từng ngày, từng tháng một.

 

Tình yêu người cũng còn thay đổi nữa là tình yêu thơ.Trái tim chúng ta không phản trắc bao giờ, nhưng cái tự nhiên nguôi quên theo mộtcon đường khó cưỡng.

 

Càng lớn, tôi càng cần sự tha thiết, sự mãnh liệt mà tôikhông thấy trong thơ Tản Đà. Cái thích hôm nay không giống cái thích ngày trướcvà một ngày mai lại không còn cái thích hôm nay. Nhưng tình yêu đi, kỷ niệm ở,mỗi lần nhớ lại tuổi nhỏ, tôi biết ơn Tản Đà thi sĩ, người đã gởi hồn thơ trongtâm hồn tôi.

 

Cả một trời thơ ngây của tôi đã nhuần thấm cái vẩn vơ,cái mộng của người trích tiên, tôi đã có một cớ để người yêu đến mê say. Tôi đãđược mến phục một cái tài hoa, một cái tình nhẹ nhàng trong trẻo.

 

Có lẽ bây giờ tôi không yêu mến nữa, nhưng xưa kia tôiđã mến yêu đằm thắm, sự đổi thay không phải là sự phũ phàng nên hôm kia, saukhi đưa nhà thi sĩ đến nơi ở cuối cùng tôi trở về bâng khuâng thấy trong kỉ niệmlại phất phơ một hơi gió hiền hòa như hơi gió trên đường buổi chiều vĩnh biệt.

 

Thời trẻ thơ lại về phảng phất với những câu thơ hồn hậucủa thi nhân, những câu thơ mát thoảng, hợp với lòng yêu trăng gió của tuổithanh niên. Nhưng không biết với ai, thì thế nào, nhưng đối với tôi thì thi sĩTản Đà còn ở trong ký ức tôi, ở một nơi dịu dàng mà thảnh thơi, và đọc lại thơTản Đà tức là tôi đọc lại thời thơ ấu. (*)

Xuân Diệu

 

(*)Tạp chí Tao đàn 1939. Số đặc biệt về Tản Đà

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 01, 2024 00:07

June 10, 2024

Tôi nhìn lại tôi - tự truyện kỳ 1 - Hai vùng ngoại ô


Wikipedia

Tự truyện cũng khác biệt với hồi ký tuy ít nhiều rất khó có thể tìm một ranh giới tuyệt đối cho thể loại: nếu tác giả tự truyện thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác với thế giới bên ngoài, thì hồi ký thường lưu ý trước hết đến thế giới bên ngoài ấy, với những con người, cảnh quan đã được tác giả tiếp xúc, nếm trải.


Pamuk

Bên trong tôi lúc đó có một nỗi tò mò khôn nguôi, một khao khát dẫn dắt bởi niềm hy vọng, khao khát đọc, khao khát học, song đồng thời tôi lại cảm thấy đời tôi thiêu thiếu cái gì đó, rằng tôi sẽ không có khả năng sống như những người khác

 ***

Trước 1954 Đại Yên là một làng nhỏ nằm ở phía Tây bắc thành phố. Từ Bách Thảo đi lên, qua làng hoa Ngọc Hà rồi qua Hữu Tiệp nữa mới tới. Làng chuyên về bán cây thuốc. Các bà các chị trong làng nhiều người có cửa hàng nhỏ ở chợ Bắc Qua. Hàng ngày các bà đi bộ gần một cây số từ làng lên Đường Thành rồi lại đi bộ vài trăm mét nữa qua ngõ nhỏ Thụy Khuê tới cổng sở xe điện là lên tàu xuôi Quan Thánh xuống Đồng Xuân. Ban ngày không khí trong làng vắng vẻ, nhất là quãng cánh đồng trồng các loại rau, trải rộng đến tận chân tường nhà máy bia Ô Mền - nay là nhà máy bia Hà Nội.

Đây chính là nơi gia đình tôi, sau chuyến tản cư lên Mỏ Thổ Bắc Giang cuối 1947 tới hè 1948 thì quay trở lại hồi cư về Hà Nội. Lên Mỏ Thổ do vất vả quá trong việc kiếm sống mẹ tôi đã qua đời tại xóm miền núi hiu hắt đó. Chịu không được cảnh tản cư lạ nước lạ cái, bố tôi dẫn chị tôi và tôi kéo về vùng tề, và theo gia đình ông bác tạm ở nhờ trên mấy túp lều nằm giữa cánh đồng trồng rau Đại Yên.

Thời gian mẹ tôi ốm nặng cũng là thời gian tôi bị bệnh đậu mùa hành hạ. Và ở tuổi lên bốn khi mẹ tôi chết thì tôi mới qua khỏi, nhưng trong tình trạng ngơ ngẩn quên cả cách cầm đũa cầm bát, cách mời mọi người trước lúc ăn cơm. Khuôn mặt rỗ khá nặng (mặt rỗ như tổ ong bầu cái răng khấp khểnh như cầu rửa chôn– ca dao) ám ảnh suốt đời tôi. Tôi cảm thấy mình vụng về xấu xí không bao giờ có thể so sánh với những con người bình thường. 

Họ Vương chỉ là một họ rất nhỏ ở làng Đông Hồ Bắc Ninh. Từ trước 1945, ông nội tôi đã dẫn một phần gia đình từ quê ra làng Yên Thái (tục gọi là làng Bưởi) làm ăn. Khi tính việc cung cấp nguyên liệu cụ thể là giấy làm tranh cho cả làng quả là ông nội tôi có đầu óc buôn bán một điều thường thiếu ở người Việt. Tới lúc qua đời ông được chôn cất ngay ở ven hồ Tây và sau vài chục năm thì bị sóng đánh mất trôi cả mồ mả. Khu đất mà gia đình tôi mua được trước 45 nằm sâu mãi trong làng Bưởi nên ông bố tôi trong cảnh gà trống nuôi con khi hồi cư quyết định không quay về vùng đất cũ ấy mà đến Đại Yên ở tạm. Ở đó ông làm nghề cắt tóc, ngày ngày xách hòm tông đơ dao kéo đi dong khắp các làng nhỏ trong vùng. Bà chị tôi mới hơn mười tuổi đã phải đi làm thuê làm mướn cho các nhà trồng rau rồi sau đó tới tuổi mười bốn thì nhận một gánh hàng tam phong bóng đèn do ông bác họ cung cấp đi bán rong, đi khắp vùng ngoại ô phía bắc đôi khi xuống cả vùng nội thành. Tuổi trẻ của tôi không đáng để gọi là cuộc sống vì lúc ấy tôi gần như hoàn toàn đơn độc. 

Về Hà Nội được vài năm thì ông bố tôi gặp gỡ người mẹ kế của tôi mà bố vẫn không cho gọi là dì và bắt tôi gọi là mợ. Quê bà ở làng Lã Từ Sơn tục gọi là Lã rượu. Bà là người từ nhỏ cũng rất khổ, hình như phải xa gia đình làm con nuôi cho một người trên phố, lúc gặp bố tôi thì đang làm nghề nấu rượu . Việc buôn bán cũng không làm cho bà khôn ngoan lên được bao nhiêu. Bà cư xử với tôi hết sức nhạt nhẽo khiến con người cô độc của tôi ngày càng phát triển.

Khi nhớ lại tuổi niên thiếu bất hạnh của mình, thường tôi chỉ oán trách là do hoàn cảnh lúc bấy giờ quá ư khắc nghiệt. Nào tôi có hiểu gì về sự cần thiết của kháng chiến. Tôi chỉ cảm thấy là đang trong cảnh yên ấm thì gia đình rơi tõm vào sự bơ vơ bất lực.  Cảm giác đó sẽ trở lại với tôi một lần nữa trong thời gian đầu cuộc chống Mỹ. Một lần đi qua Sông Hồng vì hoảng loạn trước bom đạn, ông bố tôi đã trở nên hoàn toàn khiếp nhược; ông không dám tính chuyện làm ăn kiếm sống mà phó mặc mọi chuyện gia đình cho bà mẹ kế của tôi để nằm bẹp một chỗ. Vậy là tôi có lý do để nghĩ rằng cả bố và mẹ của tôi đều là những nạn nhân chiến tranh và bản thân tôi có lý do để oán trách chiến tranh.

Trong khi làm nghề cắt tóc rong khu vực Đại Yên Ngọc Hà cho tới Bưởi, bố tôi thỉnh thoảng cũng vớ được dịp may mắn, đó là những khi các đơn vị người Pháp sau thời gian trận mạc quay về đóng quân dọc Đường Thành và họ cần phải cắt tóc sang sửa quần áo nghỉ ngơi. Nhưng may đấy cũng là tai vạ đấy. Một lần bố tôi bị bắt, do bị nghi ngờ là có làm việc gì đó có hại cho đơn vị nhà binh người Pháp, và mặc dù vô tội nhưng cũng phải đến nửa tháng thì  mới được tha.

Tình hình đó thúc đẩy bố tôi bỏ nghề cắt tóc rong mà lo kiếm một địa điểm cắt tóc cố định. Việc chuyển khỏi làng Đại Yên là một bước đi tự nhiên.

Từ lâu trong khi làm ăn ở trên làng Bưởi thì gia đình ông nội tôi vẫn có quan hệ tốt với vùng Thụy Khuê quãng giữa nhà máy da và sở xe điện cũ. Ông bố tôi đã từng có thời gian theo học tại một cụ nhiêu trong xóm Ổi (sau là ngõ 105) làng Thụy.  So với Đại Yên thì Thụy Khuê là một khu vực tấp nập hơn hẳn, tuy vậy tới đầu những năm 1950s, khu đất của ông thầy của bố tôi vẫn còn là một mảnh đất hoang vắng. Cụ nhiêu xưa đã mất, cụ bà sống trong cảnh cô đơn một mình nuôi hai đứa cháu sớm mồ côi bố và mẹ thì đi lấy chồng khác. Bố tôi nói khó với cụ bà cho gia đình tôi thuê tạm với giá rất “hữu hảo” một mảnh đất khoảng hai trăm mét vuông. Sau khi vay được tiền của một người quen cũ ở phố Nguyễn Gia Thiều, bố tôi thuê dựng lên một căn nhà lá hướng nam, nhà có giếng nước, cổng ngõ hẳn hoi. Trước đó hồi ở Đại Yên bọn tôi thực ra chỉ là ở thuê một túp lều giữa đồng. Bởi vậy tôi còn nhớ khi căn nhà đơn sơ ở xóm Ổi được dựng lên, bố tôi cảm thấy như được đổi đời. Khi nhà gần xong, một hôm chập tối có con đom đóm tự đâu không biết lượn đi lượn lại trong nhà, bố tôi bảo rằng đó là hương hồn của mẹ tôi về thăm lại và mừng cho bố con tôi.

 Việc dựng nhà dựng cửa ngày ấy tuy đã mất đi khá nhiều tinh thần  của nền văn hóa dân gian pha chút ảnh hưởng Nho giáo song còn rất nghiêm cẩn, chỉ làm nhà tranh vách đất nhưng bố tôi chuân bị kỹ càng thuê người mua tre về ngâm vài tháng trước và khi dựng chọn được những người thợ cất nhà rất chuyên nghiệp. Tôi còn nhớ là sau khi nhà dựng xong những người thợ đó còn cho gác lên phía gần mái nhà một tấm thước chắc chắn đã dùng làm chuẩn trong khi làm nhà, ý họ muốn là sau này tốp thợ nào tính chuyện sử nhà sẽ có căn cứ mà làm việc. Cuộc sống ở Thụy Khuê dã vào nhịp ngoại ô đàng hoàng chứ không còn là cảnh chạy loạn hồi cư như ở Đại Yên nữa  

Tuy chỉ là hai phía tả hữu của con đê mà chúng tôi hồi trước gọi là Đường Thành và nay gọi là Hoàng Hoa Thám – song Đại Yên và Thụy Khuê là hai vùng đất khác hẳn nhau.

Đại Yên từ năm 1948 đến 1952 mà tôi đã sống là một miền quê vắng vẻ. Do không có một con đường lớn nào đi qua, nên làng giống như một xóm núi bị bỏ quên. Đường làng vắng vẻ. Nơi trường học đứng trước đình làng vốn là một cái giếng nước cũ, loại giếng đất người ta có thể lội xuống để vục nước vào thùng lấy về ăn, và bọn trẻ con chúng tôi thường bị dọa là trong cái giếng nước ấy có con nam nam, trẻ con vô ý là bị con nam nam ấy lôi tuột xuống giếng. Cổng làng gồm hai trụ xây lớn tướng, cạnh đấy là nơi đặt chiếc xe hòm để đưa các người chết về bãi tha ma. Thẳng từ cổng làng trở vào chỉ có một cửa hàng nho nhỏ của nhà ông Lý Đầm chuyên bán các loại mắm muối và tạp hóa. Ngay đấy cũng là nơi họp chợ của làng, chiều chiều các nhà trao đổi các mặt hàng lá cây làm thuốc để hôm sau mang xuống chợ trung tâm để bán. Đại khái tôi chỉ nhớ như thế vì hồi ấy tôi còn nhỏ quá, chỉ nem nép ở túp lều lọt thỏm giữa cánh đồng trồng rau mà chưa bao giờ đi hết các khu vực trong làng.

Còn như Thụy Khuê thì khác. Thụy Khuê có con đường tàu điện đi qua, một đường lên chợ Bưởi, một trong năm sáu chợ lớn nhất của cả Hà Nội mà chị tôi đi bán hàng thường không bao giờ bỏ qua: Chợ Bưởi, chợ Vẽ, chợ Mơ, chợ Hà Đông…

Thụy Khuê thú vị nhất đối với tôi là có một phía giáp ra hồ Tây. Từ ngõ 105 của tôi phóc qua đường tàu điện sang bên kia đường là đình Cổ Lê, một cái bến phía nam Hồ Tây để dân làng Thụy ra rửa ráy vo gạo, gánh nước, giặt rũ, còn bọn tôi thì tha hồ bơi lội và câu các loại cá nhép. Tôi nhớ nhất là những buổi đi câu thầu dầu, ăn nổi ngay trên mặt nước, cũng như câu cá bống không có cần lưỡi mà giật được từng chùm cá nhỏ nhờ những con giun buộc vào sợi dây đầu cần. Khi đã 12 13, có lần tôi đi câu cá bống mang ra chợ bán đủ tiền xuôi tàu điện xuống chợ Đồng Xuân khu vực Hàng Buồm Hàng Đường Hàng Chiếu, xem phim Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài.

Đền Cố Lê nằm ngay cạnh hồ là một khu thờ cúng cũ nát, nhưng cũng đủ để chứa các đoàn cải lương nho nhỏ thực tế là những gánh hát rong, thỉnh thoảng về diễn cho chúng tôi xem. Tôi thích nhất là vừa được xem ban ngày, các diễn viên tập luyện thế nào, thì tối tối lại được thấy họ tái diễn trên sân khấu dưới ánh đèn và tạo nên một hiệu quả khác hẳn.

Dọc phố Thụy Khuê hồi ấy, quãng trước Sở xe điện, tôi thấy đủ mặt hàng: hàng phở (hai hàng cách nhau vài nhà một là phở Chuông và một, phở Minh Tiến), hàng giặt là, hàng thợ may, hiệu ảnh. Ngay ngoài cổng một tòa nhà lớn gọi là nhà Nhật Trương, ông bố tôi cũng dọn dẹp để mở ra một quán cắt tóc nho nhỏ đặt tên là quán Đông Mỹ. Hai chữ Đông Mỹ này được ông cẩn thận lấy sơn viết trên bảng gỗ bằng cả hai thứ chữ là chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

Có một địa điểm ở Thụy Khuê mà khi ở tuổi 12 – 13 hàng ngày tôi thường phải theo lệnh gia đình lai vãng một hai lần, đó là chợ Thụy gồm các cửa hàng nho nhỏ như mấy phản thịt lợn, các loại hàng rau, tôm cá và có cả một quán ăn bình dân mà sau này một thầy giáo dạy toán của tôi hồi lớp sáu trường Chu Văn An là thầy Trị người miền trong, hàng ngày đến đấy ăn.

Thú vị nhất đối với tôi là có dịp được theo gia đình xuôi tàu điện, qua sở trồng hoa và ươm cây (tiếng Tây bồi gọi là La Pho), qua đền Quán Thánh, xuống một trạm chính của con đường xe điện từ Bưởi đến Bạch Mai là Chợ Đồng Xuân.

Theo đoạn xe điện này, người dân làng Thụy của tôi thường tỏa xuống ba sáu phố phường, bán các loại xôi ngô xôi xéo cùng các loại khoai sắn luộc.

Khi nghĩ về Thụy Khuê, tôi nhớ tới một khu ngoại ô điển hình, ở đó không còn là làng quê nữa nhưng cũng không phải là phố xá với cửa hàng cửa họ to lớn, giàu có. Có lẽ vì thế mà làng Thụy hay cũng gọi là phố Thụy Khuê của tôi đứng ngoài mọi biến động của thời cuộc.

 Sau 10/10/54, trong khi ở Đại Yên, Ngọc Hà có thể nghiệm một chút gọi là không khí cải cách ruộng đất, trong khi phố xá quanh chợ Đồng Xuân phải học tập để cải tạo tư sản thì vùng Thụy Khuê của tôi yên lặng làm công việc buôn bán nho nhỏ của mình. Trong các bản lý lịch phải khai khi theo học ở trường trung học sau năm 54, ban đầu tôi thường khai là dân nghèo thành thị, mãi về sau do ông bố tôi bỏ nghề cắt tóc, quay về làm ở nhà máy da Thụy Khuê, thì tôi cũng khôn khéo mà khai rằng mình thuộc thành phần giai cấp công nhân.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 10, 2024 00:15

March 22, 2024

Đồng Đức Bốn và chất hoang dại trong thơ

 

Đồng Đức Bốn (1948-2006), chuyên về thơ lục bát, hiện thân của văn học dân gian trong xã hội hiện đại. Tác phẩm chính Chăn trâu đốt lửa (1993), Trở về với mẹ ta thôi (2000) v.v... Tuyển thơ Đồng Đức Bốn đã in đi in lại nhiều lần.       


--                                                            

I

Nhânbàn về một cuốn tiểu thuyết có ý nhưng đọc không hay, không in được, nhà vănBùi Ngọc Tấn bữa nọ chợt nói với tôi một nhận xét :

   --- Ấy viết vănxuôi là cái chuyện tốn chi tiết lắm.

    Ôi điều đó thì đúng quá rồi, người không viết văn xuôi cũng đã hình dung đượcphần nào! Song hôm nay tôi vẫn muốn dẫn câu nói kia ra đây, để nhân thể bànvề  chi tiết trong thơ.

    Tiếp theo Bùi Ngọc Tấn, chúng ta có thể dự đoán là làm thơ thì không vất vảthế, ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà văn xuôi thường phải chịu -- sứcép ấy không mạnh, và người ta đỡ lo hơn. Thế nhưng xin đừng ngộ nhận là khôngquan trọng. Ngược lại – không phải cốt nói một điều giật gân hoặc để trộ đời,khi bảo với nhau: chính vì ít, mà chi tiết trong thơ lại càng quan trọng.

Quacác chi tiết đã có thể thấy ngay diện mạo một con người.

Tôi càng thấy rõ hơn điều nàykhi đọc Ðồng Ðức Bốn (dưới đây viết tắt là Ð Ð B).

Thử làm một cuộc thống kênhững từ ngữ thường xuyên trở đi trở lại trong thơ Bốn.

Toàn những rạ rơm, cây cải, hoa dongriềng, bờ tre, bụi dứa, mùa sen, vườn cau, bụi tầm xuân, múi bưởi đào, dây tơhồng, mảnh sành, gai rào

Thiên nhiên ở đây là chớp bể mưa nguồn, là bèodạt mây trôi rồi con gióchen ngang, rồi gió giông bão tố

Còn con người thì quẩn quanhvới những việc chăn trâu đốtlửa, lên chùa, đón hội, đánh bạc; hết tìm cái vu vơ họ lại tính chuyệnkhông đâu, mà dù có bán buồnmua vui thì chẳng qua cũngchỉ chín xu đổi lấy một hào.
Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào khoe là vừa đưa được chitiết xe hồ lô trộn bê tông vào thơ và ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm. Ðưađược một vài chữ Hán lạ hoặc vài tiếng Anh đọc theo âm Việt, người ta thấy thơmình sang hẳn lên. Học mót được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học, hýhửng như tìm được miền đất mới. 

Theo những cách tính toánkiểu ấy thì Ð Ð B và những người yêu thơ Ð Ð B hẳn xin chịu. Hình như anh đãlàm một cuộc vận động ngược, tức là luôn luôn tìm cách trở lại với những từ ngữđã quá quen thuộc của đời sống.
Vả chăng trong cuộc trở lại ấy, điều quan trọng là người ta tìm thấy cái gì.
Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ nhiều bài thơ củaÐ Ð B: 

Cổ sơ. Cũ kỹ. 

Quê mùa. Hoang dại.

Ðể hiểu anh hơn, hãy thử đặtanh bên cạnh nhà thi sĩ được coi là quê hơn ai hết: Nguyễn Bính.

 

Trong cuộc phiêu lưu kiếmsống giữa thị thành, tác giả Tâmhồn tôi, Mười hai bến nước, Mây Tần luônluôn cho người ta thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình ông sống nền nếp và phonglưu lắm, bản thân ra dáng con nhà lắm, chẳng qua bây giờ thất cơ lỡ vận nên mớikhổ thế.

 

Trong một bài thơ như Thanh đạm, người ta còn đượcchứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng ”cây nguyệt nằm suông mãi,tôi xin đàn người nghe“.

 

Một bằng chứng nữa là dù đượctiếng chân quê hơn đời, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn nhiều chữ Hán, ởđó nhan nhản những mộngviễn hành, bức ngọc thư, hàn vi, lữ hành, tha hương, chung tình, đa đoan, trànggiang, giang hồ rồi lại cả vinh quy, ngự uyển, với mỹ nữ, lãnhcung nữa.

Ð Ð B thì khác. Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường xuyên trở lại,mà nó là một phần của hiện tại quanh anh.

Nhất là nó chẳng có gì rực rỡlà bóng lọng, là cao sang quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ. 

 

 

Trăng trong thơ ÐÐB là trăng gày trăng cong, sào là sào gẫy, diều là diều đứt dây. 

Con người xưng tôi trong thơcó lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê. 

Dường như anh sẵn sàng nóirằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả.


Trong nhiều trường hợp, hoang dại ở đây xem như đồng nghĩa với lang thang, mấtgốc, không vào khuôn khổ nào, một tình trạng trì trệ không nảy nòi lên được vềchất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng. 

 

 

Nó, cái SỰ HOANG DẠI trọn vẹnấy, có mặt trong thơ Ð Ð B khắp mọi chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng cóphần không giống ai, dù chẳng ở ai không có.


Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình Nóichuyện với cỏ dại. Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy, thìcảm giác hoang huỷ bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại.

 

Nó ở những câu thơ nghe hơirờn rợn 

-- Chân đạp đât đầu độitrời –

 ở đâu không có con người thì đi, 

nó lại ở cả những câu thơ tựnhiên nhi nhiên kiểu như 

-- củ khoai nướng để cảchiều thành tro

 hoặc

 mẹ ra bới gióchân cầu. 

Một lần tả cảnh lũ lụt, ÐÐBviết

-- Ối mẹ ơi đê vỡ rồi –

Mộ cha liệu có lên trờiđược không. 

Ðằng sau lối nói lu loa, làlời thú nhận về sự bất lực vô phương cứu chữa của tình thế.
Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa: 

-- Ngậm ngùi thịt chó bánhđa 

Chiều nay lại thấy bà giàxin ăn, 

hoặc

-- Chợ làng mở dướigốc đa 

Nhà quê đem mấy con gà bánchơi 

mà cứ thấy bùi ngùi.

 

Xa vắng hiu hắt

ngang trái bơ vơ,

cái không khí ấy bàng bạctrong Ð Ð B, bất kể nông thôn hay thành phố.

II

Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture(mà ngày nay ta dịch gọn là văn hoá), trước khi có nghĩa dạy dỗ mở mangkhai hoá giáo hoá (theo Ðào Duy Anh, Pháp Việt từ điển ), còn có một nghĩa gốclà cày cấy trồng trọt thâm canh, làm kỹ một việc gì đó.

 Hãy nhìn vào các thứcây ăn quả hiện nay. Thoạt đầu đó là những thứ cây dại phải qua bàn tay tácđộng của con người rồi những đặc tính xấu của chúng mới bị hạn chế những ưu thếcủa chúng mới được phát huy đầy đủ.

 


Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về khẩu vị, mà còn liên quanđến nhận thức của loài người về khả năng của mình.

Sau bao thành công trong việclai ghép hoặc biến đổi mã di truyền, tạo ra các thứ giống cây mới có nhiều ưuthế, thì con người ở đâu cũng không quên một sự thật –, ấy là trong khi thuakém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt, thì các giống hoa dại quả dại lại cóhương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoangdại kia vẫn đầy sức cám dỗ. 

Oái oăm là ở chỗ ấy !


Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng hiện đại thì chấthoang dại vẫn còn một phần nằm mãi trong tâm trí chúng ta, mỗi khi bắt gặp nó,ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản lai diện mục của mình.

Các nhà nghệ thuật cảm thấyđiều này rất rõ. 

Trong nghệ thuật hội hoạ thếkỷ XX, có hẳn những trường phái khai thác vào cái hoang dại nguyên sơ của thếgiới, lấy nó đối lập với những tìm tòi duy lý, người ta mệnh danh những trườngphái này là hoang dã, ngây thơ.

 


Tuy không phổ biến song ở ta một số người đã có ý đi vào cái hoang dại đó.

 Chỉ có điều nhà văn VNvốn không mạnh về bề dày văn hoá, nên đi vào hoang dại trước tiên không do tìmtòi lâu dài, mà như là ngẫu nhiên bắt gặp: Không thể đến với sách vở hàn lâm thìtrở về với nó. Chợt nhận ra từ lâu nó đã thuộc về mình mà không hay biết, nhưngnay nó là cả một xu thế hiện đại thì tội gì không theo. Nếu khôn ra, gán thêmcho nó một ít màu sắc lý luận thì càng oai.

Về phần mình, ÐÐB đến với hoang dại như là không có con đường nào khác. Một lầntìm thấy là anh khơi mãi vào cái mạch ấy để tạo ra một nguồn thơ riêng, đếnmức, gần đây, người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại.

Nhưng dù có thế thì cũngchẳng sao.
Nếu được đi tới cùng trên mạch suy nghĩ của mình, tôi còn muốn nói, qua anh, đãthấy manh nha một dạng nhà thơ mà chỉ thời nay mới có.


Chúng ta biết rằng thi sĩ cũng là những mẫu người chịu sự quy định chặt chẽ củathời đại. Theo tôi, có thể tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ hiệnthời: 

1) thi sĩ giáo huấn 

2) thi sĩ hùng ca

3) thi sĩ ngây thơ như trẻnhỏ, biết nhìn ra chất thơ ở chỗ người đời bỏ qua 

4) thi sĩ hóm hỉnh, giỏi phatrò 

5) thi sĩ dự phóng, nhìn thấulẽ đời

vv… và vv..
Không hẳn những sự định danh trên đây đã chính xác, song chắc là trong chândung các thi sĩ hiện thời không ít thì nhiều có mấy cái đó. 

 

 

Mà Ð Ð B thì không rõ vô tìnhhay cố ý, nhưng đúng là cứ trật ra khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đãtự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn chỉnh ấy, để gần như đứng một mình. 

 

 

Tung tẩy phá phách làm tìnhlàm tội người khác thế nào không biết, nhưng đó là chuyện ngoài đời, còn vàođến thơ, cái tôi của Bốn là một cái tôi hậm hụi bất lực.

Dường như không sao tìm đượcsự cân bằng trong tâm lý.

Cũng như chẳng biết cư xử rathế nào cho phải. Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn, mà mình thì cũng chẳnghơn gì, lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới đời, khiến cho nó trởnên tốt hơn vừa ý mình hơn.

 

Giữa vô vàn những lo toan –lo nghèo lo đói lo khổ lo không được "hiện đại", – lại thêm còn cáilo nữa, lo lạc lõng, không ai nghe mình. 

 

 

Mấy chữ mồ côi thường xuấthiện. 

Trăng mồ côi. 

Bão mồ côi.

Cây mồ côi.

 Mà con người đến chết vẫn có thể tiếp tục mồcôi 

Trở về với mẹ ta thôi - 

Lỡ mai chết lại mồ côidưới mồ

 

Tâm lý mồ côi đó là gì nếukhông phải là tình trạng người ta mất đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần,không có cái để tin yêu và kính trọng ?!

 


Trước một đời sống ngổn ngang và có thể nói là tàn bạo nữa, con người trong thơÐ Ð B như vậy là đang đi dần tới một thái độ tạm gọi là vừa phải: không huớ lênhớn hở một cách trẻ con, mà cũng không lảng đời kệ đời; không tự nhấc mình vượtlên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum, hoặc cười cợt vô trách nhiệm, mà cũngkhông làm bộ làm tịch, ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâusắc. 

 

Thơ chỉ có vậy, nên đành làmột lời tự an ủi.

III

Bây giờ ta hãy cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát mà Ð Ð B đã hình thànhriêng cho mình.

 

Chỉ xét riêng thời nay đãthấy không ít những bậc thày kỳ tài còn in dấu trên thể thơ này. Duyên dáng tựnhiên là lục bát của Tản Ðà.

Cổ kính chắc chắn đường bệđấy là lục bát của Huy Cận trong Lửa thiêng.Và người mà ở trên đã nói, NguyễnBính. Trong các tập thơ của mình, Nguyễn Bính mang lại cho lục bát khi thì mộtvẻ ỡm ờ, khi thì bâng quơ, duyên dáng mà vẫn đoan trang, và bao giờ cũng trànđầy nhạc điệu. Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra ( Em van anh đấyanh đừng yêu em ), lẫn những câu đùa đầy dụng công ( Cánh buồm nâu, cánh buồmnâu, cánh buồm ), người ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo, dùđã khéo đến mức tự nhiên.

Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc, từng đôi câu sáu tám không vang lênmột cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn – cái lối ấy chỉ mới có từ hồisau 1945. Nguyễn Ðình Thi và nhiều người khác đã tham gia vào quá trình này, ởđây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là Xuân Quỳnh. Vốn rất tự nhiêntrong việc bẻ vần ghép chữ, mà không hiểu sao, trong một đôi khi sử dụng lụcbát, Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang, ví dụ bài Về những thói quen của chịmở đầu bằng mấy câu như sau “Con sông quen chảy xuôi dòng Mùa mưa nước lũ quendâng từ nguồn Bên bồi thì cứ bồi luôn Còn bên lở vẫn lở thường quanh năm “. Ôi lụcbát gì mà đuồn đuỗn thế này! Sau tôi mới hiểu chính là Xuân Quỳnh đã cố ý làmthế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đã nhàm chán của một thể thơ quá phổbiến.

Trở lại với ÐÐB, phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những câu ngang phè,đại loại:
Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi ?

Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc lục bát theokiểu trôi tuồn tuột, mà phải dừng lại ngẫm nghĩ, cũng tức là nhà thơ đạt đượccái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn.
Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ Ð Ð B không có được cái sự liền mạch, mà hìnhnhư do từng mảng ghép lại, mỗi mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền. 

Viết cái gì thì cũng vậy màlàm thơ càng dễ vậy, kỵ nhất là cái lối câu nọ gọi câu kia, đưa đẩy chuyển tiếpkết quả thành một thứ thuận miệng giống như người quen chân đi mãi, nhiều khivẫn đi đấy mà không biết mình đi đâu. 

Trong một thể như lục bátđiều đó càng dễ xảy ra. Không có kết cấu, nó qúa tự do, nhưng cũng chứa đầy cạmbẫy trong cái tự do đó. 

Do một sự may mắn nào đó, Ð ÐB có duyên sớm ngộ thấy cái sự mòn mỏi của nó, nên cố tìm cách tránh. Lục bát ởđây không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ giật cục như cái gì ngắc lại nghèn nghẹnnơi cổ. Thứ lục bát đó tôn thêm cảm giác quê mùa hoang dại chung của thơ Ð Ð Bmà đoạn trên đã nói. 

Nói cho to tát cũng tức là ởnhà thơ này có một sự quyến quyện giữa nội dung và hình thức, hoặc nói theo chữnghĩa đang thịnh hành tức là sự nhất quán của thi pháp.

IV

Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ (tên đầy đủ là Thuỵ Khuê), một vùng ngoại ô phíabắc Hà Nội, nơi đàn ông thì đi làm Nhàda, Máy giặt, Bia Ô mền ( BiaHà Nội hiện nay ) hoặc công nhân Xeđiện, còn đàn bà chuyên hàngquà bán rong các phố, quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi, ngoài ra là sắnluộc  khoai luộc v.. v...
Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm.
Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, phố phường Hà Nội chưa đầy bụi vàngạt khói xe máy như bây giờ. Khoai luộc chảy mật đặt trên mẹt của dân làngThuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là bụi bẩn, nên ai trông cũngthèm, cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Ðào cũng gọi mua.
Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó, với cái gốc con nhà nghèo, tôi nhớ một mónkhoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ. Khoai luộc mới sôi thì đã vớt ra và đổvào nước lạnh, bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột, nên gọi là khoai sượng. Cố nhiên là chỉ những thứ khoai cònnhỏ, những củ nhách củ kẹ, bán nắm bán mớ, mới được dùng để làm loại quà rẻtiền này. Song có lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng, ngai ngáingầy ngậy gần với khoai sống.
Không hiểu sao, khi đọc thơ ÐÐB tôi lại hay nhớ tới thứ khoai sượng nay đãtuyệt chủng kia.
Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo Ð Ð B đi nhiều nếu xem việc anh khai thác yếutố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật, một cách ranh ma đổi mốtnhằm câu khách, mà không thấy rằng cái chính ở đây là một cách nhìn nhận, mộtcách bắt lấy cái thần của đời sống.
Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn, bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu

Trong con mắt người làm thơ,cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê, cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chennhau, xe cúp dàn hàng ngang mà đi đấy, nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách.

 Giữa đường Bà Triệu ồnào, nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát lên một chút gì đó tịch mịch xa vắng. Bởivậy, cái chuyện cô đơn ngay giữa đám đông là không tránh khỏi và cảm tưởng cuốicùng được cô kết lại bằng cái câu rất sái:

 Xong rồi chả biết điđâu, 

Xích lô Bà Triệu ra cầuChương Dương.
Thế nghĩa là gì ? Dù đã chuyển sang thời hiện đại, song cảnh tượng ở đây chỉ làmột biến thể của những chăn trâu đốt lửa với lại bắt gió chân cầu đã nói ởtrên. Chua xót. Bế tắc. Cầm bằng đến đâu thì đến. Mà hoang dại vẫn hoàn hoangdại.

V
Rút lại thì tôi muốn bảo Ð Ð B là một giọng thơ dân gian hiện đại.

 Dân gian là một kháiniệm rất rộng.

 Là một cảm giác dang dởvề đời sống.

 Là sự lạc quan tất yếuthành ra một thứ bản năng. 

Lại cũng là một nỗi buồn xavắng khôn nguôi. 

Là sự hoà quyện giữa hy vọngvà thất vọng.

 Là lòng ham sống là ýchí vươn lên đấu tranh cho đời sống ngày một tốt đẹp. 

Mà lại cũng là một sự hư vô buôngxuôi gần như đồng nghĩa với tự cho phép muốn làm gì thì làm –, con người thìbao giờ cũng thế thôi, quá bận tâm đến họ làm gì cho mệt. 

Bởi vậy dân gian là trongsáng vô tư, nhưng cũng là hư hỏng đàng điếm tuỳ tiện “chí phèo “.... 

Ðấy đại khái dân gian có lắmsắc thái như vậy, và chúng ta còn đang nỗ lực để hiểu thêm về nó.

Riêng về Ð Ð B, tôi cảm thấy trong cái vẻ đều đều gióng một của mình, anh vẫn là một tính cách phatrộn. 

Trong giọng thơ này, cái già cỗi mệt mỏi tồn tại ngay bên cạnh cái trẻ trung, cái ham muốn bồngbột nẩy nở đấy mà cũng tànlụi ngay đấy, để rút lại nhường chỗ cho cái ngungơ bất lực bao trùm.

Vừa chấp nhận đầu hàng, bỏqua tất cả, mà lại vừa thamlam càm quắp, cò kè tính toán, vơ véo nhặt nhạnh, níu kéo lấy một cái gì lúc nàocũng có thể mất.
Hình như sự chấp nhận nửa vời như thế đang là cái cách mà nhiều người đươngthời, trước một đời sống đầy bất trắc, tự phát tìm đến để tự vệ ?! 

Người ta thường chê tôi là cáigì cũng chỉ “cảm thấy“ với “hình như“, song chuyện đời là thế, lần này tôi vẫnkhông dám khẳng định, mà lại chỉ dừng lại ở “ cảm thấy” và “ hình như “ nhưcũ. 

Chỉ biết rằng đôi lúc rỗi rãitrong tâm trí thường vẫn quẩn lên vài câu thơ ÐÐB. Gạt đi cái phần ngang ngượcthô thiển nó là điều không thể khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thểnhư tác giả, thơ Bốn đôi khi là cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống, lẫnthấm thía cả cái vô nghĩa của đời sống.

Làm đất đất phải nở hoa 

Làm tôi, buồn cái người tavẫn buồn 

Với câu thơ bâng quơ nghe nhưmột tiếng thở dài đó, dường như Ð Ð B đã thú nhận: chẳng qua anh cũng chỉ nhưmọi người. Mà làm sao khác được cơ chứ! Luật đời đã định!
Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình, người thi sĩ đãgiúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót quên lãng và mặcdầu vẫn sống đủ với nó, song hầu như lại chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ vềnó. 

Cuộc đời thì ngắn mà mỗichúng ta thì bơ vơ lắm.

 

7/2003   7/2005

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 22, 2024 00:57

March 17, 2024

Trần Gia Ninh - Cụm từ “ dân tộc” ở đâu ra, nghĩa là gì ?

Nguồn Fb Gia Ninh Trần 17-3- 2023

(Khảo luận tóm tắt một vấn đề chuyên sâu về khoa học , mà lại là vấn đề rất đời thường. Tuy tóm tắt nhưng cũng đủ dài, không khó đọc và lý thú đấy, nên đoc cho biết)
*****************************Khi khai lý lịch, ai cũng phải trả lời mục DÂN TÔC. CMT ND cũng phải ghi DÂN TÔC, ( nay CCCD thay bằng QUỐC TỊCH). Suốt ngày báo đài réo rắt kêu gọi “ Văn hoá đậm đặc BẢN SẮC DÂN TỘC”… Vậy chúng ta phải luôn trả lời cho câu hỏi DÂN TỘC gì ? Mà muốn trả lời thì phải hiểu DÂN TỘC LÀ GÌ, bí quá thì ghi bừa lúc thì là KINH, lúc thì là VIỆT…Chẳng biết đúng hay sai.1) Xem qua thì ai cũng bảo DÂN TỘC là từ HÁN VIỆT 民族, ta dịch nguyên văn ra mà dùng. Nhưng thật ra hỏi người tàu trước thế kỷ 20, thời CÀN LONG, GIA KHÁNH , TỪ HY THÁI HẬU... thì họ cũng chịu. Viết DÂN 民thì họ hiểu , viết TÔC 族 thi họ cũng hiểu, ví như Hán TỘC, Mãn TỘC... Nhưng viết DÂN TỘC 民族 thì họ lắc đầu, không hiểu từ đâu mà ra. Họ mà cũng không hiểu thì các cụ nhà ta cũng không thể hiểu, thế mà con cháu như bọn ta vẫn xài như thường.2) 民族 DÂN TỘC là từ do người Nhật dùng chữ Hán ( Kanji) tạo ra, và các ông Tôn Trung Sơn , Lương Khải Siêu bê nguyên si về dùng cho Trung Hoa từ đầu thế kỷ 20, với nhiều sự ngộ nhận mà ban đầu ít người nhận ra.Lương Khải Siêu 梁启超 là người đề cập đầu tiên đến DÂN TỘC. 民族 . Vào tháng 4, năm 1902 trong thư gửi Khang Hữu Vi 康有为ông viết “ Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa dân tộc đang phát triển mạnh nhất. Không có tư tưởng này thì quyết không thể lập quốc đươc…” (1902 年 4 月,他在致康有为的信中说道:“今日民族主义最发达之时代,非有此精神,决不能立国…)Năm 1905, Tôn Trung Sơn trên tờ Dân báo, đã công bố chủ nghĩa Tam Dân 三民主義: Dân tộc độc lập (民族獨立), Dân quyền tự do (民權自由), Dân sinh hạnh phúc (民生幸福). Một thực tế không thể chối cãi là hầu như không có ngoại lệ, các bài báo về chủ nghĩa dân tộc do các nhà tư tưởng Trung Quốc viết vào đầu thế kỷ 20 đều ra đời ở Nhật Bản. Không phải ngẫu nhiên có hiện tượng Made in Japan by Chinese (do người Trung Quốc sản xuất tại Nhật Bản), điều này cho thấy sự ra đời của chủ nghĩa dân tộc hiện đại ở Trung Quốc, liên quan đến khái niệm "dân tộc" hiện đại, có liên quan chặt chẽ với tư tưởng Nhật Bản hiện đại.3) Từ "dân tộc 民族 “ trong tiếng Nhật dịch từ gốc NATION của tiếng Anh. Trong các sách báo chính trị thời kỳ đầu của Phong trào Dân quyền Tự do Nhật Bản (1874-1890), Assemblee Nationale (国民议会Quốc dân nghị hội ) được dịch là " 民族会议Dân tộc hội nghị “. Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, “trong nửa đầu thời kỳ Minh Trị, từ 'dân tộc 民族' hầu như không thấy xuất hiện. Đầu tiên họ sử dụng từ “ Nhật bản nhân 日本人” với nghĩa như “民 dân” là những người chịu sự thống trị của chính phủ dẫn đến từ “国民Quốc dân” được sử dụng để dịch chữ NATION ,coi như thế là ổn . Nói một cách ngắn gọn: khái niệm 'dân tộc 民族' mà người Nhật sử dụng ngày nay chưa hình thành vào đầu thời kỳ Minh Trị. Điều đó cũng nói lên rằng , lúc đầu người Nhật đứng từ góc độ “quốc dân 国民 để hiểu NATION trong tiếng Anh , về sau nhận thức lại thì nhìn nhận NATION từ góc độ “ TỘC 族 ”, nên dịch “NATION” thành “ DÂN TỘC 民族”Lý do tại sao Nation có thể lúc thì dịch là quốc dân, lúc lại dịch là Dân tộc là bởi vì gốc của từ nation có nội hàm kép về chính trị và văn hóa . Tuy nhiên, từ góc độ quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng chính trị, trước thời hiện đại cùng lắm chỉ là “国人 Quốc nhân- người trong một nước” thì chính xác hơn gọi là “quốc dân”. NATION theo nghĩa hiện đại được xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc Cách mạng Pháp. Năm 1789, giai tầng thứ ba của Pháp đã hạ bệ Louis XVI để tổ chức "国民议会 - Quốc dân nghị hội, gọi tắt là Quốc hội" và công bố Tuyên ngôn Nhân quyền. Do đó, Nation trong tiếng Pháp trước tiên đề cập đến cộng đồng chính trị được tổ chức bởi những người tin vào các khái niệm tự do, bình đẳng và bác ái. Còn nation với nội hàm CHỦNG tộc và văn hóa chỉ là vấn đề thuộc chiều kích thứ hai. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng quốc gia ở Đức và các nước Trung và Đông Âu thì lại khác. NATION được coi là một đơn vị có chung nhân quyền, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa và nguồn gốc lịch sử.Tương đương với NATION, tiếng Đức gọi là VOLK. Trước thời hiện đại, VOLK chỉ là một thuật ngữ miệt thị dành để gọi cho binh lính và những người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội, trong quá trình dựng nước sau cuối thế kỷ 18, nó hoàn toàn ngược lại với nội hàm nation là khái niệm được hiểu trong Cách mạng Pháp. VOLK trở thành một thuật ngữ giống với "民族 DÂN TỘC" hơn.Trước hết, nó đề cập đến khái niệm một cộng đồng văn hóa với những đặc điểm riêng được hình thành trong lịch sử dựa trên một ngôn ngữ chung. Ở Pháp, trước cách mạng không những không có NATION theo nghĩa này, mà thậm chí còn không có một ngôn ngữ chung quốc gia trở thành cơ sở của quốc gia, tiếng Pháp ngày nay chỉ là một phương ngữ địa phương vào thời điểm đó.Tây Âu và Trung và Đông Âu đã áp dụng các cách thức thành lập quốc gia khác nhau do các điều kiện quốc gia khác nhau. Nói chung, quan hệ huyết thống là lý do lập quốc ở Trung và Đông Âu, còn coi địa lý là đơn vị lập quốc gia ở Tây Âu. Trung và Đông Âu nhấn mạnh văn hóa, trong khi Tây Âu nhấn mạnh chính trị. Vì vậy, quốc gia ở Trung và Đông Âu gần với "dân tộc" hơn " và quốc gia ở Tây Âu gần với "quốc dân" (công dân). Tuy nhiên, sự thành lập quốc gia ở mỗi quốc gia có liên quan mật thiết đến việc hình thành các khái niệm như nhà nước hiện đại (state), quốc dân hay công dân (citizen), ngôn ngữ chung (the common language). bản sắc" hoặc "các quốc gia có bản sắc dân tộc chung". Tuy nhiên, cần lưu ý rằng lý do chính khiến họ có thể thành lập một quốc gia là họ đã chọn một con đường phù hợp với mình. Thử tưởng tượng nếu Pháp đi con đường từ cộng đồng văn hóa đến cộng đồng chính trị, Đức đi con đường từ cộng đồng chính trị đến cộng đồng văn hóa thì có lẽ Pháp và Đức đã không tồn tại đến ngày nay.4) Như vậy, NATION là loại từ có nghĩa kép, có thể hiểu là Quốc Dân theo góc nhìn của một cộng đồng chính trị. Cũng có thể hiểu là DÂN TỘC theo góc nhìn của một cộng đồng về Văn hoá ( nguồn cội, truyền thống, tập tục, lịch sử, ngôn ngữ…).Nước Nhật là nước hiếm , theo nghĩa người sống trong nước đó là thuần chủng (99,99% là người Nhât) cho nên họ chế ra chữ DÂN TỘC để dịch NATION theo cả hai nghĩa Cộng đồng chính trị ( quốc dân) và Cộng đồng văn hoá tộc người (dân tộc) là chính xác.Trung hoa không thuần chủng như Nhật, ít nhất là có năm tộc người chính :Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Cho nên khi dùng chữ Dân tộc trong ý nghĩa CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LẬP QUỐC VÀ KIẾN QUỐC, Tôn Trung Sơn đã tiếp tục giải thích tại cuộc họp ờ Trụ sở Quốc dân đảng vào tháng 11 năm 1920:"Số lượng người Hán luôn được tuyên bố là 400 triệu, hoặc nhiều hơn. Với số lượng lớn như vậy, chúng ta vẫn không thể thực sự độc lập và tổ chức một quốc gia Hán. Đây thực sự là một sự xấu hổ lớn đối với người Hán của chúng ta ! Đây là lý do tại sao chủ nghĩa dân tộc của đảng chúng ta không đạt thành công lớn! Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng đảng của chúng ta vẫn cần phải nỗ lực cho chủ nghĩa dân tộc! Người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hồi và người Tây Tạng đều phải đồng hóa với tộc Hán của chúng ta và trở thành một quốc gia lớn , quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc!"(“汉人向来号称是四万万,或者不止此数。用这样多的民众,还不能够真正独立,组织一个 汉族的国家,这实在是我们汉族莫大的羞耻! 这就是本党的民族主义还没有彻底的大成功!由此 可知本党还要在民族主义上做工夫!必要满、蒙、回、藏,都同化于我们汉族,成一个大民族主 义的国家!)Đến các học giả Trung quốc hiện nay cũng phải thốt lên rằng : Đọc đoạn này khiến mọi người chúng ta nhận ra quá nhiều nội dung: ông ( Tôn trung Sơn) hiểu như thế nào về DÂN TỘC, về chủ nghĩa dân tộc, về mối quan hệ giữa các dân tộc và về mối quan hệ giữa quốc gia và dân tộc. Phân tích cho cặn kẽ, Tôn Trung Sơn theo đuổi chủ nghĩa dân tộc trong nhiều năm thì lý tưởng cuối cùng là hiện thực hóa lý tưởng đó ở Trung Quốc. Chính vì lý tưởng cuối cùng đó mà ông có ý kiến ​​cho rằng nguyên thủ quốc gia của Trung Quốc là lãnh tụ của người Hán.Tuy nhiên, tại sao Trung Quốc phải là một “quốc gia dân tộc' của tộc người Hán? (这段话能够令让我们读出太多的内容:他对民族的认识、对民族主义的认识、对 民族间关系的认识、对民族与国家关系的认识,说到底,孙中山多年追求民族主义的最终理想就 是在中国实现一个汉族的“民族国家”。所以他才会有中华国家的元首,就是汉族领袖的想法。然而,中国为什么就应该是汉族的“民族国家”? ).May là. người Hán chiếm tuyệt đại đa số người dân trong nước Trung Hoa, nghe nói chiếm đến 91,6% cho nên dù biết. là ngộ nhận , ngày nay họ vẫn “Lập lờ” dùng từ “ DÂN TỘC TRUNG HOA - ”, thay cho từ “QUỐC DÂN TRUNG HOA “Hãy nghĩ xem, ở nước Mỹ mà dùng từ DÂN TỘC MỸ thì sẽ được hiểu là gì, nếu không bị gọi là “thằng thần kinh”.Việt nam ta cũng gần giống Trung hoa là vì người Việt ( hàm ý chỉ người Kinh) chiếm tỷ lệ đa số 82,5% ,còn ít hơn tỷ lệ người Hán chiếm ở Trung hoa cho nên việc dùng từ “ DÂN TỘC VIỆT NAM” có mức độ lập lờ cao hơn, và mọi người do thói quen, vẫn dễ dàng bỏ qua và chấp nhận nó là như hiện tại. Giá như chấm điểm ngôn ngữ cũng giống như toán học thì có thể nói vui thế này: Nhật dùng cụm từ "Dân tộc' là đúng 100% với nước họ.Trung quốc chính xác 90%, Việtnam đúng 80%Một cụm từ mà diễn tả chính xác đến mức đó thì cũng dùng được tàm tạm rồi.Cũng có thể hiểu như thế mà dù ảnh hưởng của tam dân chủ nghĩa , ghi ở tiêu đề quốc gia là ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC , nhưng Hồ chí Minh đã không dùng Chủ nghĩa dân tộc như Tôn Trung Sơn để lập quốc việt nam (vietnamese Nationalism )mà thay vào đó là chủ nghĩa yêu nước ( patriotism), dù hai từ có nội hàm cũng gần nhau. Hồ chí Minh đã tuyên bố rằng “It was patriotism, not communism, that inspired me. - Chính chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản, mới truyền cảm hứng , dẫn đường cho tôi”Mỗ nghĩ ta nên dịch Nationalism là Chủ nghĩa quốc gia ( tuy từ này là của miền nam trước 75, nhưng cũng là viêt nam, sao phải lăn tăn). Tất nhiên có gây ra hệ lụy, như đề cưong văn hoá của ông TC.." DÂN TỘC, KHOA HOC,ĐẠI CHÚNG" và nhiều triết luận chính trị khác cũng phải thay....( Mỗ không có ý lật sử hay phản động đâu, rất rất yêu nước, chỉ có không để tình cảm lấn át lý trí thôi, đừng ném đá nhé)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2024 20:29

March 13, 2024

Lê Văn Trương: một kiểu tồn tại trong văn học

 Vài nét tiểu sử

Lê Văn Trương (1906-1964), nổi tiếng với các tiểu thuyết in trên Tiểu thuyết thứ bảy. Phổ thông bán nguyệt san v.v... Tác phẩm chính: Một người (1937), Tôi là mẹ (1939), Trường đời (1940), Tôi thầu khoán (1940) v.v...

==========================

Một người mù rên rỉ đòi ánhsáng    

So với tổng số trang in mà Lê Văn Trương đã viết ra, thìnhững tài liệu mà bạn bè đồng nghiệp viết về ông lại có phần quá ít. Tuy nhiên, có lẽ do chỗ Lê Văn Trương làmột cá tính mạnh, một người có bản sắc rõ rệt, cho nên mỗi khi có dịp nhắc vềông, người ta dễ khắc hoạ được bản chất con người ông với những nét tính cáchkhông lẫn với người khác. Về phương diện này có hai tài liệu đáng quý: 

Một là cuốn sách nhỏ của LanKhai mang tên Lê Văn Trương, mớ tài liệu cho văn học sử Việt Nam,tập sách được Nhà xuất bản Minh Phương cho in ra ở Hà Nội,ngay từ 1940. 

Hai là phần viết về Lê VănTrương của Nguyễn Vỹ trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, cuốn này gồmnhiều chân dung ngắn từng in rải rác trên tạp chí Phổ thông, sau đóđược nhà Khai Trí ở Sài Gòn cho in lại thành sách năm 1970. 

Dưới đây là một ít đoạn lược thuật rút ra từ hai tài liệunói trên.

 1/ Về hình dáng bề ngoàilời ăn tiếng nói, cùng là con người Lê Văn Trương, bằng xương bằng thịt, NguyễnVỹ kể: Lê Văn Trương là người “tự nhiên”, “chửi thề toang toác chẳng sợ aicười”, ông giống như một thứ máy nói và máy viết, loại ăn to nói lớn, “chuyênmôn nói phét nói tục chỉ được cái thành thật không làm hại ai cả”. 

Dưới con mắt Lan Khai, Lê Văn Trương hiện ra còn sinhđộng hơn nữa. “Ngoài ba chục tuổi, tầm vóc cao nhớn, dáng đi lừ lừ như một concá chắm lội, với một màu da bánh mật, gương mặt rắn câng, một cái trán hẹp củangười thiết thực, đôi mắt sâu gườm gườm và những cái nhìn nhanh như chớp. Miệngkhông rộng, môi trên hơi vểnh lên, nổi một chiếc răng cửa khểnh”. “Nụ cười toétmiệng dễ thương … mất đi hẳn khi Lê Văn Trương nói. Nói, ở ông, như người bịtrói giãy”. 

Nên nhớ rằng, vẻ đẹp lý tưởng của các văn nhân xưa nay làvẻ tinh tế, tao nhã, bề ngoài nhiều khi hơi yếu đuối một chút, và chỉ để lạidấu ấn bằng một bản lĩnh bên trong, đầy sức thuyết phục. Điều quan trọng trongchân dung Lê Văn Trương vừa được phác hoạ là ở chỗ nó cho ta thấy một kiểu nhàvăn khác, nhà văn gần với cuộc vật lộn kiếm sống đầy biến động hàng ngày. Giácó bảo nét mặt Lê Văn Trương ở trên gợi ra hình ảnh một thầu khoán, một láibuôn, một kẻ giang hồ thì cũng không phải là quá.

 

Hãy nghe tiếp nhận xét của Lan Khai về con người Lê VănTrương: 

“Bất cứ lúc nào và ở đâu (ông) đã nói nhiều hơn ai hết”. 

“Không nói Lê Văn Trương rất có thể chỉ là một mớ trotàn”. 

“(ấy là) … những lời lặp đi lặp lại… của một kẻ ốm gầnnhư mất trí.” 

Thoạt nghe, dễ cho đấy là những lời lẽ mang tính cách mạtsát, bôi xấu bạn bè mà người ta nghĩ rằng rất sẵn trong thái độ đối xử giữanhững người cầm bút ở một xứ thuộc địa. Nhưng không hẳn thế. Trong cái nhìn củaLan Khai, người đọc ngày nay còn bắt gặp một sự cảm thông kỳ lạ mà có lẽ, chỉcó giữa những người vừa thân nhau vừa hiểu nhau. Đây là cách giải thích của LanKhai về sự lắm lời của Lê Văn Trương: 

“Không phải Lê Văn Trương cốt đa ngôn để thử sự kiên nhẫncủa ta. 

Không! Ông chỉ đương cố đánh thức cái lòng đạo đức củachính ông đấy mà thôi. 

Vì chỉ sống bằng lý trí, Lê Văn Trương thỉnh thoảng cũngnhận thấy cái khô khan, cái lặng lẽ, cái rỗng không sâu thẳm của lòng mình. Ôngđâm ra chóng mặt và cuống cuồng, ông vồ lấy một giọt rượu mạnh lý tưởng để tựđốt nóng tim bằng cách pha thêm rất nhiều lời nói, những lời liên miên, nhữnglời sảng loạn, những lời mà ông chỉ cần ở chúng có độc một hiệu lực: Tự thôimiên mình. Người đứng nghe ông thường thường bị sốt ruột bởi sự nói nhiều củaông, nhưng đôi khi cũng cảm động bởi cái giọng chân thành của ông. Phải, còn gìthực hơn những tiếng kêu mà một con người thốt ra để đòi hỏi, cầu xin những cáichính người ấy thiếu? Lê Văn Trương, nếu có thể thành thực được, ông cũng chỉthành thực với ông, với những cái ông không có, và bọn ta, những độc giả củaông, chúng ta chỉ là một lũ nghe lỏm ông mà thôi”. 

Cách giải thích về người viết văn Lê Văn Trương của LanKhai có vẻ mang hơi hướng phân tâm, nhưng được trình bày một cách thanh thoát,dễ chấp nhận. Hoá ra cây bút nổi tiếng là hay đưa ra lý thuyết ngườihùng đó lại là một con người yếu đuối, thích kêu to lên vì sợ phải đốidiện với cái trống rỗng của lòng mình. Không những Lan Khai mà Nguyễn Vỹ cũngnói rằng Lê Văn Trương  có vẻ hào hoa cương trực đấy, song thật ra “nhátnhư thỏ mềm như sứa”. Một nhân vật trong Bọn làm bạc giả củaA. Gide bảo một nhân vật khác: “Anh có đủ tính cách của một nhà văn: kiêu căng,giả dối, tham vọng, bất định, ích kỷ”. Hình như trong Lê Văn Trương cũng hội đủnhững tiêu chuẩn đó. Nên ông phải viết, viết để vượt qua những ẩn ức tưởng nhưkhông sao bù đắp nổi. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Vỹ nửa đùa nửa thật kểrằng trong khi trò chuyện, Lê Văn Trương “ưa dẫn ra những câu triết lý của vàidanh nhân xưa. Dẫn lung tung, chẳng đâu vào đâu. Người ít học nghe chẳng hiểusao. Người có học nghe cũng chẳng hiểu sao”. Trong cái tình thế vừa buồn cườivừa bi đát ấy, hình như Lê Văn Trương đã trở nên một thứ biểu trưng cho sự yếuđuối của con người. Thông thường chúng ta hay đòi hỏi nhà văn phải cao hơn bạnđọc, phải mạnh hơn bạn đọc trong khi thực ra, trước hết, những người cầm bútlại yếu đuối hơn rất nhiều so với các bạn đọc thân mến của họ. 

Còn về thói hay thuyết đạo đức của Lê Văn Trương thì thậtra có gì là khó hiểu với một người bơ vơ, và cũ càng như ông! Theo Lan Khai,cái mà Lê Văn Trương đề cao khá giản dị: “một cuộc cách mạng tinh thần dựa trênthiên hướng và ánh sáng của Khổng học”, “một nhận thức về sự kém hèn của giốngmình và thấy cần phải cướp đường mà tiến lên”. Tóm lại Lê Văn Trương “đã vơ lấytriết lý sức mạnh của Nietzsche, nhưng vẫn luôn miệng xưng tụng các đức tínhcủa trái tim”, “ cả hai làm ông lúng túng, không biết nhảy bằng chân nào chophải nữa”. Ở chỗ này, Lê Văn Trươngthật đã tập trung cô đọng trong mình những đặc tính tiêu biểu của các nhà vănmột xứ thuộc địa, như xứ ta trước 1945. Song le, trong khi trở nên một điểnhình của học đòi, chắp nhặt ham muốn hơn sức lực cóthật (“ trí to hơn người” như các cụ vẫn giễu) rồi huênh hoang, trống rỗng… đủ thứ, thật ra trong Lê Văn Trương vẫn cónét gì đáng yêu: ông không tìm cách che giấu bản chất thật; ông hồn nhiên làmình, dám là mình, dù có “nhàm chết người” cũng vẫn là mình một cách nhất quán.Trên nhiều phương diện, Lê Văn Trương đã là ví dụ chứng  minh cho hình ảnhnhà văn mà trong xã hội hiện đại, người ta coi là những kẻ đáng được thông cảm. 

Có một sự thực ai cũng biết, là mặc dù có rất nhiều nhượcđiểm, song cây bút Lê Văn Trương - đặt trong bối cảnh văn học đương thời - vẫnlà cây bút được nhiều độc giả tìm đọc. Tại sao có hiện tượng ấy? Lan Khai đãtrả lời rất hay về điều này. Theo Lan Khai, cái chính là chất dấn thân của ngòibút Lê Văn Trương. 

- “Lê Văn Trương thoạt đầu chỉ nói cho mình”, đến lúc“nhận ra rằng nó cần cho chung quanh”, ông mới “nảy ra ý định kêu gào tha thiếthộ người”. 

- “Ông đã đem tới cho tâm hồn quần chúng xứ này một sựbồng bột mới sau khi nó đã bị những vết thương đẫm máu làm tê tái và đã bị xâmchiếm bởi cái trống rỗng sau một sự cười cợt kéo dài quá cái hạn định hợp vớilẽ phải”. 

- “ Ông đã tỏ ra săn sóc đến cái phần hồn của quần chúnghơn tất cả các văn sĩ hiện tại, săn sóc một cách đôn đốc, hăng hái, mê say” (màkhông phải “sáng suốt, hợp lý, đúng với các luật nền tảng của tâm lý”).

 

Khó lòng nói rằng trong các nhận xét ấy, Lan Khai chỉthấy mặt mạnh của Lê Văn Trương. Ngược lại, xem bạn như mình, đặt mình vào địavị bạn, vừa khách quan, vừa thông cảm, Lan Khai cùng một lúc vừa chỉ ra cáivụng về, ngớ ngẩn, nói chung là mọi thứ bất cập trong việc làm của Lê VănTrương, vừa ân cần ghi nhận những gì mà Lê Văn Trương đã làm cho mọi người, nókhiến cho ông có được một chỗ đứng tinh thần ở xứ sở này, ít ra là trong cáithời mà các ông đang sống. Trong lời tựa cho Một người của LêVăn Trương, Trương Tửu với thói quen bốc đồng đã đưa ra những lời khen quáđáng, nào “một nghệ thuật mãnh liệt và nhuần nhị”, “một ngòi bút thần diệu”khiến Trương Tửu “hoàn toàn bị quyến rũ và mê đắm”. Lan Khai bình tĩnh hơn, chỉbảo rằng đọc quyển sách ấy, “thấy cảm động như khi nghe một người mù rên rỉ đòiánh sáng”… Rộng ra, với toàn bộ sáng tác của Lê Văn Trương, Lan Khai ghi nhậnrằng là cả một thành tựu nhưng không phải một thành tựu mơ hồ, mà là do chỗ nónổi lên so với hoàn cảnh chung quanh. “Lê Văn Trương dù sao cũng đã gây nênđược ở quanh tên tuổi ông, một mối dư luận, trên cái đất nước mà đời sống tinhthần của người dân hằng khiến ta có thể ngờ là đã tê liệt”. Cái sự ghi nhận củaLan Khai  về Lê Văn Trương nên được xem là khách quan, đúng mực. 

 Khác với Lan Khai, Nguyễn Vỹ khi ở Hà Nội khôngthật thân với Lê Văn Trương. Song nhà thơ này lại có dịp biết rõ Lê Văn Trươngvào những năm cuối đời, tức là khoảng cuối những năm 50 đầu những năm 60 ở SàiGòn. Trong đoạn hồi ký của mình, Nguyễn Vỹ cung cấp thêm mấy nét tâm tình rấtquý của Lê Văn Trương mà thiếu  đi, chắc hình ảnh Lê Văn Trương trong bạnbè đồng nghiệp không thể coi là đầy đủ. 

Ấy là những đoạn Lê VănTrương tự đánh giá mình, nhất là tính đếm lại cái phần đóng góp của mình trongvăn học: 

“Vài ngày sau cái chết của Nguyễn Tường Tam, Lê VănTrương đến thăm tôi tại tạp chí Phổ thông. Anh buồn bã gục đầuxuống. Tôi lặng thinh chờ xem anh muốn nói gì. Một lúc khá lâu, có vẻ trịnhtrọng , Lê Văn Trương cất tiếng: 

- Thằng Nhất Linh đi rồi, bạn cũ tụi mình ở đây chỉ cònmày, với một vài thằng nữa thôi. Nhưng tao buồn là không để lại một tác phẩmnào xứng đáng với cuộc đời của tao. 

Im lặng một lúc, Lê Văn Trương lại nói tiếp: 

- Tớ muốn cậu tự ý chọn một quyển truyện nào của tớ màcậu ưng ý nhất, cậu viết một bài phê bình thật đầy đủ, cho tớ xem trước khi tớlàm cuộc du lịch cuối cùng và vĩnh viễn. 

Tôi hỏi: 

- Trong tất cả các truyện cậu đã viết cậu thích quyển nàonhất. 

Lê Văn Trương trả lời liền không do dự: 

- Tớ đ. thích quyển nào. 

- It nhất cũng có một vài quyển hay hơn các quyển khácchứ. 

- Tớ viết quyển nào cũng hay cả, mà chẳng có quyển đ. nàohay cả! Thế mới chó! 

Câu nói mâu thuẫn đó tiết lộ tính chất sáng tác đặc biệtcủa Lê Văn Trương. Tác phẩm nào cũng hấp dẫn nhưng không có một kiệt tác. 

Tôi bảo: 

- Cậu chọn một vài quyển tương đối nổi bật hơn hết, đưađây tôi. Tôi sẽ viết một bài dài và thật khách quan.

 

Nhưng tôi đã chờ mãi Lê Văn Trương cho đến ngày anhchết”.

 

Với một cuộc đời nhiều phen ngang dọc như Lê Văn Trương,một kết cục như thế thật ngoài sự chờ đợi của mọi người. Hôm qua, trong vănhọc, ông như con cá kình trên sông lớn, muốn in gì thì in, muốn viết thế nàothì viết, tha hồ lui tới. Đã bao nhiêu lần người ta chê bai ông, giễu cợt ông,bảo ông là vội vàng cẩu thả là văn chương dây cà ra dây muống, nhưng đã lại cókhông biết bao nhiêu độc giả lắng nghe ông, suy tôn ông, thế là được rồi. Đếnnay rút lại, hoá ra thời gian vẫn làm công việc của nó, và cái đòn chí tử giángvào văn nghiệp Lê Văn Trương lại chính do Lê Văn Trương thực hiện. Công bằnglàm sao mà cũng oan nghiệt làm sao! 

Đọc đoạn văn trên của Nguyễn Vỹ, lần đầu tiên người tabắt gặp cảm giác đau đớn, bất lực, đúng ra là bắt gặp cả hình ảnh một con ngườithất bại thảm hại, toàn là những thứ xưa nay xa lạ với Lê Văn Trương, có thểnói là suốt đời ông đã tìm cách xa lánh chúng, rút cục, chúng vẫn tìm thấychính ông. Nhưng có hề gì? Nếu qua cách miêu tả của Lan Khai, chúng ta thấy gầnvới Lê Văn Trương, thông cảm với ông, thì qua hồi ức của Nguyễn Vỹ, thậm chítrong ta còn nẩy sinh chút thương xót chính đáng với ông nữa. Như vẫn thườngxảy ra, sự tỉnh táo ở đây đồng nghĩa với sự cay đắng, có điều trong cay đắng,Lê Văn Trương lại hiện ra đáng trọng hơn bao giờ hết. Cùng một lứa bêntrời lận đận - trên nhiều phương diện trước sau Lê Văn Trương vẫn làmột số phận văn học mà các thế hệ sau cần luôn luôn nghiền ngẫm để rút kinhnghiệm

 

 

Mộtkiểu nhà văn đặc trưng cho thời tiền chiến 

Có dịp đi vào hậu trường của đời sống văn học, luôn luônngười ta bắt gặp trong các văn nghệ sĩ tiền chiến những lời tố cáo về nạnthuổng văn, ăn cắp văn nghe khá vui vui.

 Ngay từ thời viết Nhàvăn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã cho biết nhiều đoạn của Vũ Bằng trong Emơi đừng tuyệt vọng là lấy từ văn của Dostoievski. 

Trong Kỷ niệm văn thi sĩ tiền chiến, nhà thơNguyễn Vỹ chép ra cả bài thơ Nhật từng là tiền kiếp của Tiếng thu (LưuTrọng Lư) cũng như câu thơ Pháp có sẵn mà Xuân Diệu chỉ sửa lại chút ít rồi làmnên Yêu là chết ở trong lòng một ít in trong Thơ thơ

Lùi về xa nữa, người ta trân trọng ghi nhận Ngọncỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh sao mà gần gũi với Những ngườikhốn khổ của V. Huygo, cũng như Sống chết mặc bay  củaPhạm Duy Tốn thì mang nặng dấu vết Ván bi-a  của A.Daudet v.v và v.v

 

Lối “thuổng văn” này, thoạt nhìn, chỉ là một lỗi nhỏthuần tuý đạo đức. Song, để xét cho kỹ, ta nên đặt nó bên cạnh hàng loạt cănbệnh khác: guồng máy sản xuất văn chương tiền chiến manh mún luộm thuộm, cácông chủ nhà in, chủ phát hành thường kiêm nhiệm thêm buôn bán kinh doanh hoặc đúng hơn mới từ mọinghề buôn bán chen ngang vào xuất bản. Trang báo in thơ, in tiểu thuyết đặt lẫngiữa những dòng quảng cáo thuốc lậu và các loại bệnh hoa tình. Trong cảnh túngđói, nhà văn bấy giờ dễ viết ẩu, viết vội, viết chưa ráo mực đã phải mang bảnthảo đi bán rồi lập tức bản thảo được đưa xuống nhà in cho kịp sắp chữ. Mốiquan hệ giữa các nhà văn với các ông chủ xuất bản cũng như giữa các nhà văn vớinhau mang màu sắc mối quan hệ của những người buôn bán nhỏ, thương nhau, giúpnhau dựa vào nhau mà sống, nhưng cũng lừa lọc phản bội nhau dễ dàng, kế đó cùnghùa nhau mà lừa bạn đọc, trong khi vẫn hiểu rằng nghề của mình tồn tại được ,là nhờ vào đám bạn đọc đó.

 Gọi đích danh, thì lối sảnxuất văn chương tiền chiến mang nặng tính chất thuộc địa. Nhà văn thường thiếucốt cách trí thức. Thứ hàng mà họ làm ra mô phỏng hàng  thứ thiệt, đồ xịnbên chính quốc đã đành, mà chính người làm hàng cũng không khỏi mang nhiều thóixấu của những người gia công, người làm đại lý không có giấy phép.

 Đặt trên cái nền của cả đờisống văn học như vậy, người ta sẽ độ lượng hơn trong việc nhìn nhận một ngòibút như Lê Văn Trương trước 1945. Điều đầu tiên làm cho một số nhà phê bìnhcũng như đông đảo bạn đọc thấy gợn khi nghĩ đến nhà văn ấy, mà cũng là cái cửaải cuối cùng, người ta không vượt nổi để có thể công nhận nhà văn ấy, là sựnghiệp của ông đa tạp táp nham, lẫn lộn đồ giả và đồ thực, tác phẩm do ông viếtra và những thứ của người khác ông cho mượn tên. Đó là những điều tối kỵ trongcách tồn tại của một ngòi bút. Nhưng nên nhớ đến những cuộc thuổng văn, thuổngthơ nói trên, và bao nhiêu cuộc xào xáo mà người trong cuộc không tố ra, thìkhông ai biết nổi. Nên nhớ lời thú nhận của Nguyễn Công Hoan có liên quantới Bước đường cùng: Lúc đầu, nhà văn không hiểu là mình sẽ viếtgì, và cứ tả vu vơ những chuyện đẻ đái mãi, rồi mới nghĩ ra cái mạch chính củatruyện. Nên nhớ lời tự thuật của Tô Hoài có liên quan tới cách làm việc của ôngvà Nam Cao. “Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới làm kịp. Nam Caothạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồnngủ hay chán viết, anh bảo tôi: “Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao cóbụi tre. Buổi chiều. Mấy trang cũng được”. Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộbạn vài trang như anh đã phác. Cũng là một thứ công ti” (Tự truyện).

 

Trong cái khung cảnh “người ở lẫn với ma, người nửangười nửa ma” – cũng chữ của Tô Hoài – củađời sống văn học tiền chiến, trường hợp của Lê Văn Trương hoá ra không phải làmột ngoại lệ. Nó chỉ trưng ra những gì có sẵn trong thực tế và vô hình chung,giúp cho cái gọi là đời sống hậu trường văn học có dịp hiển hiện.

 

Đương thời, người ta đã đọc được nhiều lời chê trách,thậm chí chửi bới Lê Văn Trương từ phía nhóm Tự lực. Đại khái họthường giễu Lê Văn Trương là huênh hoang tiên sinh. Họ rêu rao “không bao giờông Lê Văn Trương chịu bỏ mất dịp dạy luân lý, dù ông ấy viết tiểu thuyết hayphóng sự”. Họ nói công khai không úp mở “Chúng tôi rất ghét cái lối văn tâm lývô nghĩa lý của Lê Văn Trương, cái lối văn rỗng toác, loè đời của hạng triếthọc nửa mùa ấy”. 

Hàng thịt nguýt hàng cá, giữa nhóm Tự lực vàLê Văn Trương có sự cạnh tranh, nên có sự ghét bỏ nhau đã đành. Nhưng Vũ NgọcPhan, nhà phê bình không thuộc nhóm nào cũng viết về Lê Văn Trương với nhữnglời lẽ không mấy cảm tình, thậm chí nhiều khi có cả những chê trách thậm tệ. Vềcách viết, theo Vũ Ngọc Phan, ở Lê Văn Trương “còn thấy cả những cái rớt lạicủa lối văn tiểu thuyết cổ vào lớp Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn” “kém về cả hànhvăn lẫn về truyện” “có những chữ dùng rất sai”, “cốt truyện đặc phường tuồng”“rõ ra truyện một phim chớp bóng”. Còn về nội dung thì văn Lê Văn Trương cũnglà thứ văn nặng về thuyết luân lý, nhiều nhân vật “người thì là người hùng màcử chỉ và ngôn ngữ lại là cử chỉ và ngôn ngữ của con nít”. 

Trong khi chờ đợi một sự kiểm kê đầy đủ đồng thời có sựđánh giá xác đáng phần “tài sản tinh thần” mà Lê Văn Trương để lại, có một điềungay từ bây giờ chúng ta phải tự hỏi: “Tại sao đa tạp như vậy mà Lê Văn Trươngvẫn tạo được một ấn tượng khá đậm trong tâm lý bạn đọc?” và “Tại sao viết kém như vậy, mà Lê Văn Trươngvẫn tồn tại, ít nhất là suốt thời gian 1935-1945, tồn tại một cách vinh quang,sáng giá?”

 Trong một hồi ký mangtên Chủ nhà in nhà xuất bản Tân Dân ông Vũ Đình Long, in ở Tạpchí Văn học, số 1-1991 nhà văn Ngọc Giao kể: “Ở nhà xuất bản này có mấy tủ sách nổi tiếng:tủ sách Những tác phẩm hay, rồi tủ sách Phổ thông bánnguyệt san. Tất cả các loại trên không in quá con số 2.000 cuốn. Riêng tiểuthuyết Lê Văn Trương in 3.000 cuốn”. Tại sao, ông Tân Dân, một người “làm ănquy củ”, “nhiều cơ mưu”, “có đầu óc làm ăn lớn”, ông Tân Dân rất hiểu nghề,hiểu việc đến mức “tiền độc giả Trung NamBắc đổ vào nhà Vũ Đình Long như nước vỡ đê” (tất cả đều là lời Ngọc Giao), ôngTân Dân đó lại khờ khạo in thật nhiều Lê Văn Trương vậy? Hay là chính Lê VănTrương cũng là một mặt hàng đặc hiệu, được nhà Tân Dân khaithác triệt để, và thật ra, đã nuôi sống nhà Tân Dân, đến mức ôngchủ xuất bản nổi tiếng là chặt chẽ đó, đối với Cô Lý (tên một biệt hiệu của LêVăn Trương) cũng phải hết sức nới tay, nếu không nói rất trọng dụng.

 Muốn hay không muốn, ngườiviết văn học sử khách quan phải nhìn nhận: cái tên Lê Văn Trương có tần số lặpđi lặp lại thuộc loại cao nhất trong sinh hoạt văn học tiền chiến. Chung quanhcái tên đó, không chỉ có chê bai, rẻ rúng, mà còn có bao nhiêu say mê, chờ đợi.Gắn liền với cái tên đó, là cả cách tồn tại của văn học, cùng là những khaokhát, ham muốn đã đến trong tâm lý bạn đọc một thời. Nếu không nhìn Lê VănTrương bằng con mắt văn học thuần tuý, mà nhìn ông như một hiện tượng xã hội,không quá câu nệ đòi hỏi những đóng góp của ông đối với nghệ thuật ngôn từ(điều này chúng tôi sẽ trở lại ở phần dưới) mà xem ông đã thuyết phục đượcngười đọc ra sao, người ta đã mê man nghe ông thuyết giáo ra sao, từ đó khôngchỉ đánh giá ông, mà còn đo đếm hiệu quả do ông tạo nên –  vâng, nếu nhìn  nhận ôngbằng con mắt xã hội học thì hiện tượng Lê Văn Trương cho thấynhững đường nét rất thú vị.

 Chẳng hạn, chung quanh câuchuyện về nhân vật người hùng ở Lê Văn Trương. Một sự thực đậpngay vào mắt mọi người nghiên cứu là bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, códịp nhắc tới Lê Văn Trương, người ta đều nhắc tới ngay loại nhân vật này. Chẳngnhẽ, đối với một người viết văn, đó không phải là một điều đáng ao ước? Theocác tác giả Từ điển văn học (H. 1983), loại người hùng củaLê Văn Trương “không chỉ oanh liệt trong phiêu lưu mạo hiểm mà con gương mẫutrong nghĩa vụ gia đình, và cũng rất “trong sạch”, “cao quý” khi lương tâm bịném vào vũng bùn của xã hội trưởng giả giàu sang”. Người ta có thể có lý khinói rằng đấy là kiểu người ítnhiều giảtạo, huênh hoang, khí khái rởm, nhưng từ đó mà kết luận các nhân vật ấy “khôngcó chút giá trị, nếu không nói là phản động” thì hoàn toàn bất công. Nhỡ trìnhđộ bạn đọc đương thời chỉ có thế thì sao? Nhỡ người đọc đương thời đã tìm thấytrong những bóng dáng nhân vật kiểu người hùng đó một nơi nương tựa về mặt tinhthần thì sao? Chẳng nhẽ tất cả những ai đã từng say mê Lê Văn Trương đều là kémcỏi, tầm thường “nếu không nói là phản động” cả? Nên vơ đũa cả nắm rồi triệt đểphủ nhận như vậy hay là nên ghi nhận rằng đây là một hiện tượng thuộc về lịchsử: Văn học không phải chỉ có nhiệm vụ ghi lại những nhận thức dúng của mộtthời. Một cách tự động nhiều khi một cách vô ý thức, người ta còn thấy văn họcbắt được rồi cho hiện trên màn hình của mình những lầm lỡ,những ngớ ngẩn khống chế đầu óc con người thời đại, mà suy cho cùng, nhờ nhữngảo tưởng đó, có khi họ đã làm nên nhiều việc trọng đại!

 “Trong số các nhà văn thơ1932-1940, Lê Văn Trương là người có bản sắc hơn cả”. Ông “là người có tưtưởng”, ông “dám đứng ra chủ trương một lý thuyết luân lý con ngườihùng thể hiện được phần nào nguyện vọng của giới trung lưu”. Ngườiviết những dòng phải chăng trên đây về Lê Văn Trương, là ông Phạm Thế Ngũ, tácgiả bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (S. 1968). Chúngtôi đồng tình với cách đánh giá đó, vì thấy ở đây người làm văn học sử khôngtuyệt đối hoá các yêu cầu của mình, mà gắn văn học với tình hình tâm lý tưtưởng của xã hội đương thời.

 

Bên cạnh câu chuyện nhân vật người hùng, vấn đề Lê VănTrương còn một khúc mắc nặng nề khác: Đó là thứ văn mà ông sử dụng, cái quanniệm về văn học mà ông noi theo hoặc đúng hơn, cái quan niệm người ta thấy toátra qua sáng tác “cả nắm cả mớ” của ông; trên nhiều mặt, nó không phù hợp vớicách hiểu thông thường vẫn được thừa nhận. 

Bàn về nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Văn Trương, Vũ NgọcPhan nhận xét” Tác giả luôn luôn hướng về phía độc giả để kêu gọi, để giảnggiải để phân trần. Tác giả đã quên mình là một nhà tiểu thuyết, một người trướchết phải có cái nghệ thuật làm cho nhân vật tự biện bạch lấy, mọi việc tự giảnggiải lấy, không cần tác giả phải xen lời phê bình của mình vào”. Thật ra thì VũNgọc Phan không sai. Vào thời bấy giờ, người viết văn thường phải dằn mìnhnhiều lắm, mới tránh được lối can thiệp vào truyện là một thói quen mà các nhàđạo đức mắc phải. Nhưng tưởng cũng nên nói thêm: quan niệm trên đây về tiểuthuyết (cũng như luật tam duy nhất trong kịch) ngày nayvẫn đúng, nhưng không còn là duy nhất đúng nữa.Bên cạnh nó, thấy nẩy sinh một quan niệm ngược lại: nhà văn không phải làthượng đế, cái gì cũng biết; nhà văn không bắt buộc phải hoá thân vào nhân vật,vì sự thích sinh đó bao giờ cũng đang dở không thành; tốt hơn hết là nhà văn cứđứng ở góc độ của mình mà nói, cứ kêu gọi, giảng giải khi thấy cần, miễn lờikêu gọi giảng giải đó có sức thuyết phục là được. Cũng như vậy, quan niệm củaVũ Ngọc Phan về sự thuần tuý của các thể tài (từ đó ông chê Lê Văn Trương trongmột số trường hợp không ra phóng sự cũng không ra truyện ngắn) thật ra chỉ cólý một nửa. Văn học ngày nay cho phép nhà văn tha hồ làm việc lai tạo lắp ghépcác thể tài vì hiểu rằng đôi khi chỉ những thể tài lai tạp đó mới giúp cho nhàvăn trình bày hết điều họ muốn chia xẻ cùng người đọc. 

Ấy, cứ vân vi bàn kỹ về từngđiểm, mà không một chiều áp đặt cho nhà văn những chuẩn mực thông thường, thìngười ta sẽ độ lượng hơn với Lê Văn Trương. Có thể nhà văn học sử vẫn chưa dámnói Lê Văn Trương thành công, nhưng ít ra người ta cũng không quá gay gắt trongnhững lời chỉ trích ông nữa! 

Đến như câu chuyện về văn của Lê Văn Trương, vấn đề cònphức tạp hơn một bậc. ở đây, điều quan trọng cần đặt tiểu thuyết của ông vàođúng cái khu vực thể tài của nó, thì mới tránh đề ra cho ông những yêu cầu màông không thể thực hiện được. 

Theo lẽthường,sau khi kể ra những thành tựu của một nhà văn về các mặt nội dung chủ đề, nhânvật, người ta đi vào phân tích những đóng góp của nhà văn đó về mặt ngôn từ. Từđịnh lý thuận văn học là nghệ thuạt ngôn từ, không ai bảo ai, mọingười cùng đi đến một định lý đảo: người nào không có đóng góp về nghệthuật ngôn từ, người đó không đáng được coi là một nhà văn.

 Tuy nhiên, nếu trong khoahọc, luôn luôn đã có những ngoại lệ, thì trong văn chương, ngoại lệ càng nhiều.

Trong mối quan hệ giữa văn chương và nghệ thuật ngôn từ,ngoại lệ cũng khá phổ biến: có hẳn một loại văn xuôi gọi là tiểu thuyết đăngbáo ( feuilleton ), ở đó ngôn từ chỉ đóng vai trò như thứ công cụ thuần tuý,nhà văn viết ra cốt không để người đọc hiểu sai ý mình là được, còn họ khôngquá để công chăm chút câu chữ nhằm đạt tới hiệu quả nghệ thuật. Đã có nhiều ýkiến chê bai đó là thứ văn chương rẻ tiền, tiểu thuyết ba xu, nhưng cả ở phươngĐông lẫn phương Tây, nó vẫn cứ tồn tại, thậm chí còn ngày một phát triển vàthành tạo nên những hiện tượng kỳ lạ như tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyếtkiếm hiệp, chưởng. Ai chẳng biết văn chương chưởng hếtsức thông tục, có khi bỏ qua hàng trang, đọc vẫn cứ hiểu? Nhưng bảo đó là thứvăn không có nhân vật, không có tư tưởng thì bất công, mà phủ nhận sự hấp dẫncủa nó thì càng không đúng, người đọc chưởng trên thế giới nàycó tới vài trăm triệu, dễ gì mà gạt bỏ nó được. Trở lại với Lê Văn Trương: Dùchê bai Lê Văn Trương đều đều, nhưng Vũ Ngọc Phan vẫn phải ghi nhận là đọc nhàvăn này có lúc bị cuốn hút, không dứt được nữa, văn chương ông chân thành vàcảm động. Phạm Thế Ngũ thì cho là văn Lê Văn Trương pha trộn kỳ dị và tả chân,cao thượng và tục tĩu, trang nghiêm và cợt nhả. Nhưng như thế cũng đã là quá đủđối với tiểu thuyết đăng báo và người ta không thể đòi hỏi hơn ở ông, như khôngthể bắt buộc Nguyễn Tuân phải dàn truyện cho chặt chẽ hoặc Nam Cao phải viếtthật nhẹ nhàng, hấp dẫn. Nếu tuỳ bút Nguyễn Tuân trước Cách mạng là thứ sángtác dành hẳn cho đám công chúng chọn lọc, thì tiểu thuyết Lê Văn Trương cảtrong triết lý, trong loại nhân vật phường tuồng và hay thuyết đạo lý, lẫntrong thứ văn dễ dãi của mình, là một ví dụ cho thứ sáng tác thuộc về đám đông.Công chúng của Lê Văn Trương đa tạp, đầy rẫy ở một xứ thuộc địa như nước ta bấygiờ. Ngay từ 1942, trên một tạp chí không phổ thông chút nào, tờ ThanhNghị, một cây bút phê bình là LHV (có lẽ là Lê Huy Vân?) đã khẳng định điềunày và ngày nay, nhìn lại chúng ta cũng thấy là đúng. 

Có lẽ ở bất cứ đâu, sự sáng tạo cũng đề ra cho mình nhữngyêu cầu nghiệt ngã nhưng riêng trong văn học, thì sự nghiệt ngã đó đã trở thànhmột thứ lệ luật ám ảnh tâm lý mỗi người. Quý hồ tinh bất quý hồ đa!Người ta bảo nhau vậy, và thường tỏ ra hồ nghi, dè dặt khi nhìn nhận những aiviết nhiều, viết khoẻ. Ngay ở châu Âu, một hiện tượng như tiểu thuyết trinhthám của G. Simenon cũng đã bao lần được các nhà văn học sử đặt thành vấn đề“có nên xem là văn học hay không”, bởi lẽ Simenon là một đại lực sĩ, sáng táccủa ông như một dòng sông cuồn cuộn đêm ngày không nghỉ, miên man nối tiếpnhau. Rất nhiều lần, để thuyết phục người đọc rằng thật ra G. Simenon cũng làmột nhà văn lớn, người làm văn học sử phải viện dẫn đến một nhà văn lớn khác màlại nổi tiếng là kỹ tính, là thận trọng: A. Gide mà công nhận được Simenon, tứcSimenon không phải tầm thường! 

Sự viết nhiều, viết khoẻ rõ ràng thường xuyên bị thànhkiến, bị coi như là đồng nghĩa với viết ẩu, viết kiếm tiền, vô trách nhiệm vớibạn đọc. 

Mặc dù vậy, cũng là một điều lạ trong sự sáng tác, ởnhiều nước khác nhau, trong nhiều thời khác nhau luôn luôn thấy nảy sinh ranhững cây bút không viết nhiều không chịu được. Tính khí họ thế, bảo họ ngồitrau chuốt một tác phẩm thật kỹ thì họ rất ngại. Vả chăng, mặc dù viết nhanh,nhưng đâu phải họ viết ẩu, thứ văn ấy phải thô tháp như thế mới đúng kiểu, cótrau chuốt cũng vô ích! Kỳ một cái nữa, là mặc dù chỉ xoay quanh cái trục ổnđịnh của mình (hoặc cứ đường ray ấy mà chạy), nhưng họ vẫn là cái ma lực nào đólôi cuốn bạn đọc, khiến cho người ta đọc họ không bao giờ chán, cũng như vềphần mình, họ đã không biết chán trong việc trình làng, tức chường mặt ra vớimọi người. 

Lê Văn Trương chính là một kiểu nhà văn như vậy. 

Trong suốt lịch sử văn học Việt Nam, có lẽ ông là ngườiviết nhiều, viết khoẻ hơn ai hết. Khó lòng nói ông là một nhà văn lớn! Nhưngcái hiện tượng xã hội do ông khởi mào, thì thật đáng kể. 

Nó làm cho người ta phải nghĩ lại về ông, nếu muốn đánh giáông chính xác. 

Theo những tiêu chuẩn mà nền văn học Việt Nam từ sau 1945đặt ra cho mình, người ta dễ có cảm tưởng lối sống, lối làm việc nói chung làcách tồn tại trong văn học của Lê Văn Trương, là một cái gì xa lạ. Và như vậy,thì ông tuyệt tự, không dây dưa gì với chúng ta cả? Những sự đời đâu có giản dị! Ngay trong thứ văn thơ vừa viết rời tay một vài chục năm gần đây, dấu vết củaông vẫn còn. Người ta đọc được hơi hướng Lê Văn Trương không chỉ ở lớp nhà văngià như Xuân Diệu, Tô Hoài (với thói quen làm nghề miệt mài và sự say mê sốlượng, say mê đầu sách in ra, biểu hiện theo mỗi người một cách). Người ta cònbắt gặp hơi hướng đó ở các cây bút trẻ hoàn toàn cách biệt với Lê Văn Trương.Chẳng hạn từ mấy năm trước, có một nhà văn được cả xã hội biết tới là NguyễnMạnh Tuấn. Theo chúng tôi hiểu, sở dĩ hai tiểu thuyết Đứng trước biển,Cù lao Chàm bấy giờ được đọc nhiều như thế, vì trong đó, luôn luônngười đọc bắt gặp một mẫu người có khả năng giải quyết mọi khúc mắc của hoàncảnh, tức cũng là một thứ người hùng của thời đại. Về mặt số lượngtuyệt đối, đến nay Lê Văn Trương vẫn giữ kỷ lục trong đầu sách đã in, đầu tácphẩm được công bố, nhưng một số định muốn học theo ông, đua đả với ông, đã thấycó ở Lưu Quang Vũ trong kịch, ở Nhật Tuấn, Trần Văn Tuấn, Hoàng Lại Giang..trong tiểu thuyết. Thời Lê Văn Trương chưa có khái niệm văn học tiêu dùng.Nhưng thứ văn hoá đại chúng ấy đã được Lê Văn Trương dự báo; bằng tác phẩm củamình, ông đủ sức chứng minh rằng nó là một hiện tượng hợp quy luật. Trong nềnvăn học tiêu dùng này, bất cứ ai đạt tới thành tựu cả trong số lượng đầu sáchlẫn khả năng lôi cuốn độc giả, tạo người mẫu cho độc giả noi theo, những ngườiấy đều có thể nhận ông là kẻ cùng chí hướng.

  

1991

 Đã in Tạp chí vănhọc 1991 , số 5

 In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá  trong văn họcViệt Nam từ đầu thế kỹ XX cho tới 1945 ,2006    

 


 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 13, 2024 01:12

March 1, 2024

Giới thiệu truyện Nôm thế kỷ 19: Tội Vợ Vợ Chịu --Trần Ngọc Ninh

Lời dẫn

Bài viết sau đây của giáo sư Trần Ngọc Ninh tuy chủ yếu nói tới phương thức tự sự trong truyện Nôm thế kỉ XIX, nhưng cũng đả động tới nhiều phương diện khác như sự hình thành của tiểu thuyết ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, hoặc xa hơn nữa là mối quan hệ giữa văn hóa Việt và văn hóa Chăm. Lại có đôi chỗ như là một đoạn nhân tiện mà viết, nhưng tác giả cũng đã chạm tới một cách khái quát những vấn đề lớn của văn hóa hiện thời. Ví dụ như đoạn sau đây 

"Ở Việt Nam nước ta, vì chưa bao giờ thực sự có tự do và vì triết lý không phải là một thức ăn thường ngày của tối đại đa số dân gian, nên tiểu thuyết, bắt đầu có với Tố Tâm và Đoạn Tuyệt vẫn chưa bao giờ ra khỏi cái tính cách tỉnh lẻ (provincial). Ngày mai sẽ như thế nào, kẻ đang viết những dòng này không biết, nhưng nghĩ rằng sự tiến bộ phải chung và về mọi mặt, rằng nếu dân trí không cao, nếu dân sinh không đầy đủ, nếu sự học hỏi và suy tư vẫn còn bị kiềm chế chỉ đạo, nếu sự thảo luận và phê bình không lên trên được một mức độ đạo đức và trí thức đáng kể, thì sự sáng tác vẫn còn ngưng trệ không biết cho đến bao giờ".

Hoặc mấy câu sau:  "Thời loạn, khi tình hình xoay như chong chóng, người ta phải tàng hình, độn thổ. Người Pháp có câu tục ngữ rằng: “Muốn sống sung sướng, chúng ta hãy sống ẩn dật”. Trong những thuở “trời đất nổi cơn gió bụi”, châm ngôn Việt Nam là rằng: “Muốn sống, hãy sống ẩn dật”.

Bởi vậy bài viết này có ý nghĩa rộng lớn và chúng tôi xin phép đăng tải lại toàn bộ. Về hệ thống thuật ngữ, dùng trong bài viết, do chỗ lâu nay chỉ sống ở Hà Nội nên chúng tôi có sự phiên dịch khác với giáo sư về một số thuật ngữ (chẳng hạn style = cái ngón bút), nhưng vẫn giữ nguyên, như đã giữ nguyên cách hành văn của tác giả.

Các bạn có thể kiểm tra lại qua nguồn sau 

Nguồn

https://www.namkyluctinh.org/tac-gia-...

--------------------------

Chữ Nôm tức chữ Nam nói trại đi, là một loại chữ màcác nhà sư và các bậc hữu học Việt Nam đã sáng tạo ra theo mẫu chữ Nho (tức chữHán đọc theo ngữ âm Việt), để phiên âm tiếng Việt và viết văn thơ hay đơn từ Việtngữ. Tác phẩm lớn nhất viết bằng chữ Nôm là của Nguyễn Trãi, một bậc vĩ nhânhùng tài đại lược và một đại bút của nước Việt Nam (1380 – 1442), là để ghi lạinhững tâm tư của ông sau khi ông từ giã cha bị quân Tàu nhà Minh bắt giam ởTrung Quốc và nhất là khi ông đã hoàn thành việc lớn, giúp Lê Lợi đánh đuổi đếquốc và nên công đại định; tác phẩm ấy của Nguyễn Trãi được cho cái tên đầusách là Quốc Âm Thi là vì tập thơ ấy viết bằng chữ Nôm của thời tác giả để ghinhững âm của tiếng ta trong thế kỷ 15, nhưng khổ thơ quốc âm qua đời Hồng ĐứcLê Thánh Tông (1442 – 1497) đến thời Nguyễn Bình Khiêm (1491 – 1589) vẫn còn dựatheo Đường thi của Trung Hoa.

 

Tập thơ truyện “Tội Vợ, Vợ Chịu” viết bằng chữ Nôm vàtheo thể lục bát, khi ấy đã là thể thơ chính để viết truyện của Việt Nam, quantrọng nhất là từ bộ Thiên Nam Ngữ Lục (viết trong thời Lê Trung Hưng với chúalà Trịnh Tạc (1567 – 1682[1]) và Trịnh Căn (1682 – 1709[1]) để kể lẫn lộn dã sửvào thời lịch sử chính thống, vì truyền thuyết nói rằng hai truyện Trinh Thử vàPhan Trần đã có trước chỉ là truyền thuyết vô căn. Tuy nhiên cũng không thể nóirằng thơ Việt Nam theo thể lục bát 6/8 là bắt đầu ở Thiên Nam Ngữ Lục mà có thểnói chắc rằng thơ lục bát là một sáng tạo của nhân dân Việt Nam, chủ yếu là củadân quê ở những làng phía Tây Bắc Thăng Long trong thời nhà Lý. Sau khi tiếpxúc với dân Chăm.

 

Năm 1991, đã gần hai mươi năm trước đây, kẻ viết nhữngdòng này đã trình bày cái thuyết này, nhưng viết bằng tiếng Pháp, thay lời tựacho một cuốn sách cũng bằng tiếng Pháp nói về “Cái Ăn và Cái Uống của người ViệtNam qua tục ngữ, ca dao”, của Giáo sư Nguyễn Đình Cát. Ngoài giới y khoa ởCanada ra, có lẽ ít người biết được cái bài nhỏ nầy và tôi không làm chi hơn đượclà dịch lại một đoạn với vài chi tiết thêm vào:

 

“Những cuộc chinh phạt của Việt Nam vào địa hạt Chămkhông những đã du nhập vào nước ta, quan trọng nhất là vào thời nhà Lý – nghệthuật kiến trúc điêu khắc (và hội họa) của phương Nam – xin hãy nghĩ đến chùaHương Tích với các phù điêu đục nổi hình những nhạc công Chăm và những thânhình mạnh mẽ của những Hộ Pháp ở cửa các chùa mà người mẫu là người đô vật củanước Chăm; những cuộc chinh phạt ấy còn đem về cho ta một số chuyện cổ diệu kỳ[2],như chuyện Tấm Cám (…), chuyện “Hoàng Tử Sọ Dừa” (và hai huyền thoại đã suy tànthành cổ tích, là chuyện “Rắn Già Rắn Lột” và chuyện “Trầu Cau” (với chuyện “Vìsao loài bò lại mất tiếng nói”, vân vân, tôi không thể nói hơn được nữa. Kĩ thuậtvà hạt thóc giống của lúa “Chiêm”, đã cứu dân Việt thời Lý và sau nữa khỏi bị nạnđói và nước Đại Việt đưa được quân sang tận nước Tống mà chặn từ gốc một cuộcxâm lăng từ phương Bắc, chúng ta đã có nhờ dân Chăm. Tôi còn sẵn sàng để nghĩ rằngmột số tiếng từ gốc Phạn như Bụt, biết (bodh’), đau khổ (dukhha) đã vào tiếngta là qua Champa trong những thời đại lịch sử đã xưa ấy (…) Sau cùng, tôi muốnnói ở đây cái thuyết mà tôi chủ trương về nguồn gốc Chăm của thơ lục bát, là nhịpcăn bản của ca dao và hát đối (quan họ, hát phường, hát trống quân), ăn với nhịpbước của những cô gái quê gánh gạo lên chợ hay cấy mạ xuống ruộng), trước khithành thể thơ tiêu biểu cho văn chương Việt Nam. Nhà văn Võ Phiến, trong mộttùy bút tùy hứng thời in trong một số Bách Khoa của tháng 9 năm 1971, đã ghi lạimột bài hát ru em tiếng Chăm (tức Chàm), theo thể lục bát, trong đó ông viết rằng:“thể thơ nầy được nghe thấy ở tận những hang cùng ngõ hẽm”, “được ngâm, đượchát bởi mọi tầng lớp dân gian” và là “căn bản của các dân ca ở phố Chăm tạiBình Thuận”. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng viết trong cuốn “Dân ca ở Việt Nam” những nhậnxét tương tự và có dẫn chứng bốn câu lục bát Chăm với vần eo ở câu tám). Cuộcviễn chinh lần đầu của Việt Nam sang xứ Chăm dưới thời vua Lý Thái Tông (1040)(đã giết vua Chăm Sạ Đẩu), vào đến kinh đô Amaravati (Phật Thệ?) và bắt hơn5000 tù binh cùng với nhiều đàn bà con gái, và cuộc chinh chiến thứ 2 trong thờiLý Thánh Tông (1068) (với sự chỉ huy của Đại tướng Lý Thường Kiệt), vào đếnkinh đô Vijaye (Chà Bàn tức Đồ Bàn) bắt sống Rudravarman thứ Ba (Chế Cũ) cùng vớimột số tù binh Chăm không biết là bao nhiêu. Các tù binh của hai cuộc chiếntranh nầy đã được đưa về Thăng Long, một số nhỏ được giữ trong cung điện củavua và các nhà quyền quý để làm thị tì hay nhạc công, vũ công, còn thì được choan cư ở thủ đô”[4].

 

Sau những sự kiện lịch sử này ít lâu thì ở nhiều làngven đô, những làng có tên Chèm, Vẽ, Láng bỗng có những người nói hay hát lênhai hay bốn câu thơ tiếng ta theo điệu Chăm, hoặc là khi ru con ở nhà hay khiđang cùng làm việc với nhau ngoài đồng, cấy mạ, gặt lúa, hay khi đang vui vẻgánh lúa về nhà rồi đội gạo ra chợ. Những câu hát gợi tình và trữ tình, nhữngcâu hát rởn để đùa cợt với nhau trên đường xa, những câu để vỗ về giấc ngủ củacon và những câu than thân trách phận được truyền đi, nhắc lại. Rất chóng,trong những ngày hội, hội mùa xuân, hội ngày mùa, hội hè, hội chợ, người ta tổchức hát đúm, hát phường, rồi cả tỉnh Bắc Ninh thành trung tâm của hát quan họ,làng Láng, làng Vẽ, có những hội tưng bừng rộn rịp tình người trên dòng sông TôLịch, trong đó có tài tử và giai nhân kể cả những gương mặt lớn như nhà thơNguyễn Du, nhà cách mệnh Phan Bội Châu, quan Đề đốc Hoàng Hoa Thám, gọi nhau vềtham dự thâu đêm cho đến khi mặt trời ló dạng và còn quyến luyến chưa rời. ĐờiTây Sơn thì ở quanh những vùng vừa trở lại hòa bình, dân chúng vui mừng với nhữngđêm hát trống quân, người ta thách đố nhau để thử tài đua trí, không những làcâu đố hiểm hóc mà câu đố cũng lại phải sắc bén và tình tứ.

 

Đó là cái lò đúc của truyện Hoa Tiên, truyện Thúy Kiềuvà thơ lục bát gấm hoa của đời này.

 

Truyện thơ là một thể văn nở hoa trên văn đàn Việt Namvào khoảng cuối đời Lê Trung Hưng và rộ lên sau thời đại loạn Tây Sơn. Cho đếnnay, không có một truyện nào là ghi xuất thế năm nào, một phần vì sự hỗn loạntràn ngập cả nước, một phần vì, trừ năm ba ngoại lệ, tất cả các truyện thơtrong thời này đều không có cả tên tác giả. Thời loạn, khi tình hình xoay nhưchong chóng, người ta phải tàng hình, độn thổ. Người Pháp có câu tục ngữ rằng:“Muốn sống sung sướng, chúng ta hãy sống ẩn dật”. Trong những thuở “trời đất nổicơn gió bụi”, châm ngôn Việt Nam là rằng: “Muốn sống, hãy sống ẩn dật”.

 

Ở Âu Tây, vào khoảng thời này, tiểu thuyết cũng thănghoa, tuy rằng từ cuối thời Trung Cổ đã có những truyện thơ. (Bài Hát củaRoland, Truyện Tristan và Yseult). Nhưng xưa, là những truyện (ballad, chanson,fair, rescit, conte),không phải là roman, là novel, mà ta dịch là “tiểu thuyết”.Tiểu thuyết là những sáng tác hoàn toàn hư cấu (Như Buồn Nôn, La Nausée củaJean-Paul Sartre, như Werthert của Goethe) hay xây dựng trên một tin vặt có thực(Như Quỉ Sứ, Demons của Dostoievesky) để đặt một vấn đề, một vấn nạn, một sựxung đột, một điều bế tắc mà không có đường gỡ trong hiện tình hoặc trong vĩnhcửu. Những trắc trở và trăn trở không bao giờ hết trong tâm lý cũng như trongcác xã hội của con người. Vì vậy tiểu thuyết đúng tiểu thuyết không bao giờ “cóhậu”. Thời kỳ tiểu thuyết Âu Tây thăng hoa, nở rộ rồi thành thể văn lớn tronghai thế kỷ vừa qua trùng hợp với sự nổ ra của phong trào lãng mạn và những đợtsóng thần kế tiếp, phá bỏ và quét sạch những dây trói của chủ nghĩa cổ điển.Nhưng lí do và nhân tố thâm sâu của những chấn động song song và liên hệ ấy làcuộc cách mệnh ở Anh đi đôi với cuộc Cách Mệnh Pháp 1789 – 1792 về chính trị, rồisự nảy sinh của ý thức xã hội đối chọi với chủ nghĩa cá nhân và sau cùng là sựnổi loạn chống lại sự phi lý vô nghĩa của sự hiện sinh (existence), không kểhai cuộc thế chiến tuy có chấm dứt mà không hóa giải được mâu thuẫn và thù hận.Nghệ thuật tiểu thuyết đã đạt được đến tuyệt đỉnh nhưng về nội dung thì khôngcó lối thoát nên một mặt thì muốn đột biến thành “tân tiểu thuyết” (Le NouveauRoman), một mặt thì đi tìm cái mới trong sự vọng ngoại (exotisme), hướng về nhữngxã hội văn hóa ngoài Châu Europe.

 

Ở Việt Nam nước ta, vì chưa bao giờ thực sự có tự dovà vì triết lý không phải là một thức ăn thường ngày của tối đại đa số dângian, nên tiểu thuyết, bắt đầu có với Tố Tâm và Đoạn Tuyệt vẫn chưa bao giờ rakhỏi cái tính cách tỉnh lẻ (provincial)[5]. Ngày mai sẽ như thế nào, kẻ đang viếtnhững dòng này không biết, nhưng nghĩ rằng sự tiến bộ phải chung và về mọi mặt,rằng nếu dân trí không cao, nếu dân sinh không đầy đủ, nếu sự học hỏi và suy tưvẫn còn bị kiềm chế chỉ đạo, nếu sự thảo luận và phê bình không lên trên được mộtmức độ đạo đức và trí thức đáng kể, thì sự sáng tác vẫn còn ngưng trệ không biếtcho đến bao giờ.

 

Trở lại với các truyện thơ Việt Nam của cuối Thế kỷXVIII và đầu Thế kỷ XIX. Một hai truyện, tôi có thể nói là thơ, còn lại hầu hếthay tất cả đều là truyện và không có một truyện nào là tiểu thuyết. Điều nàykhông làm giảm giá trị của các truyện thơ. Truyện thơ đánh dấu một thời kỳ củavăn chương và gián tiếp là một nét đặc thù của xã hội Việt Nam trong thời ấy.

 

Câu hỏi đầu tiên của người viết hay học về lịch sử vănchương Việt Nam là Nguyên nhân của các truyện thơ. Rối đến Vấn đề phân loạitruyện thơ. Sau cùng là Ảnh hưởng của truyện thơ trong văn chương và trong xã hội.Cuối cùng là vấn đề nhỏ, rất nhỏ, của tập truyện thơ “Tội Vợ, Vợ Chịu” mà G.S.Nguyễn Văn Sâm đã cho hồi sinh để chúng ta thấy sự tha thiết với quốc văn vàlòng ưu tư với đạo đức của người xưa.

 

Bốn vấn đề liên quan với nhau chặt chẽ vì truyện thơđã bột phát trong một quãng thời gian ngắn không ngoài nửa thế kỷ, và có cùng mộtdạng như thể là bà con, mặc dù thị trường văn nghệ không có một dấu hiệu hay dưâm gì rằng có một “phong trào” hoặc một “chủ nghĩa” gì như ở Tây phương.

 

Trong số các truyện thơ, có hai tập phải để riêng hẳnra ngoài, một là Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái, hai là Đoạn Trường Tân Thanhtức “Truyện Thúy Kiều” của Nguyễn Du. Truyện Thúy Kiều là một ẩn dụ (allegory) để nhà thơ dãi bày tâm tư thầm kín của ôngkhi mệnh trời (?) bỗng nhiên làm “thay đổi sơn hà”. Còn “Sơ Kính Tân Trang” làmột bài thơ trường thiên để tác giả khóc mối tình ngang trái và bi phẫn củaông. Các người cổ, vì không hiểu, nên tưởng là truyện và lên án hai tuyệt phẩmđi trước thời đại cả hai ba trăm năm và là niềm kiêu hãnh của dân tộc ta ngàynay.

 

Các truyện thơ khác, từ Hoàng Trừu, Thạch Sanh đến HoaTiên , Lục Vân Tiên là những truyện, viết bằng thơ lục bát, để cho dễ nhớ rồi kểcho nhau nghe.

 

Trước cuộc chiến tranh tàn ác và ngu tối nhất trong lịchsử Việt Nam, người dân vẫn được nghe kể, không những là những truyện cổ tíchxưa, những chuyện chọc cười tiếu lâm, và chuyện tào lao khoác lác, mà nhữngtruyện thơ, quanh cái bếp còn ấm của gia đình, hay ở hè phố với cái đàn bầu mộtdây của ông xẩm, hay trang trọng hơn nữa, ở sân chùa với một người “kể hạnh”,những ngày lễ “vía Phật”. Nhiều người lắm thuộc truyện thơ trôi chảy như cháo.Người ta dẫn được các lời thơ khi trò chuyện. Cho đến những cô hàng xóm hay bàgánh bánh đúc, đi bán rong ở đường phố cũng dấu một quyển Hoàng Trừu hay BạchViên Tôn Các dưới gầm thúng bát đĩa để khi đỗ gánh ngồi nghỉ thì rút ra mà đọcvà nhớ lại. Không có một cuốn tiểu thuyết tân thời nào có được cái vinh dự ấy.

 

Người ta kể truyện thơ, Để làm gì? Giải buồn, hay “muavui” như Nguyễn Du viết trong câu cuối của Truyện Kiều? Không. Câu nói ấy chỉlà để che mắt thế gian. Tất cả các truyện thơ viết ra đều chỉ có một mục đích,là để răn đời, và người đời đánh giá các truyện thơ theo cái tiêu chuẩn ấy,tiêu chuẩn độc nhất cho truyện thơ. Các cụ dạy bảo con cháu rằng:

 

Đàn ông chớ kể Phan Trần,

Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.

 

chỉ là vì cái lý do ấy, luân lý, đạo đức hay đúng hơn,thuần phong, mỹ tục, là cái thước đo giá trị của một truyện thơ.

 

Trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, các truyện thơ khôngghi danh tác giả. Cả đến một lời đồn cũng không có, Truyện thơ ra đời đã hơnhai trăm năm nay mà không hề có một tăm hơi và một giả thuyết nào rằng có lẽtriết gia Bacon hay quận công Edimburgh đã viết truyện Phạm Công Cúc Hoa, rồi lạiviết truyện Trê Cóc. Mỗi tác giả truyện thơ là một trường hợp Shakespeare. Thisĩ, kịch sĩ, tác giả các bài thơ Sonnets và các kịch có tên là Hamlet, Othello,The Tempest… còn lưu lại một cái biệt hiệu bao phủ trong tối tăm, các tác giảtruyện thơ Việt Nam không để lại cả cái bóng của một làn khói mỏng.

 

Về tên tuổi và thân thế của họ, Không phải là vì họ đánhmất tên. Họ dấu tên.

 

Nhưng còn những tác phẩm của họ? Nếu như Buffon, mộtnhà văn Pháp trong thế kỷ XVIII, đã viết “văn, (hay đúng hơn, ngón bút, lestyle) là người”, với nghĩa là tâm tính, dòng dõi, nghề nghiệp, tín ngưỡng…thìqua các tác phẩm và nhất là qua lời văn, người ta phải thấy được không phải làtên tác giả, mà một vài nét của con người tác giả. Ta thấy được gì, qua cáctruyện thơ của thế kỷ XVIII và XIX Việt Nam? Ta thấy truyện thơ không có ngónbút, truyện thơ không có style. Tôi không nói rằng không có thể, truyện thơ làmột thể văn, (un genre littéaire), thể truyện thơ đã tự thành. Truyện thơ cũngcó hình (forme), nghĩa là có cấu tạo (composition), có cơ cấu (structure), vàđôi khi cũng có những chữ, những câu như châu như ngọc, tạo ra những ấn tượngsâu xa. Nhưng truyện thơ không có ngón bút, không có style, không có cái gì đókhác biệt từ người này sang người kia, làm cho người ta đọc một hai câu thì thấyngay nét bút của Hồ Xuân Hương hay Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều hoặc giảNguyễn Du. Một cái chấm của Van Gogh và một cái chấm của Seurot, một đường congcủa Matisse và một đường cong của Picasso đều là những thực hiện thiên tài,nhưng sao mà khác! Đó là style, cái ngón bút.

 

Các tác giả viết truyện thơ dấu tên và không có ngónbút. Như những người viết tân tiểu thuyết đời này. Nhân vật chính gọi là “anhhùng” (heros) là một ngụy hùng (anti-héros). Tiểu thuyết của Nathalie Sarrautelà những phản tiểu thuyết (anti-roman). Sự phản kháng đến độ cao phi tưởngphi-phi-tưởng trong phong trào tân tiểu thuyết. Truyện thơ Việt Nam không phảilà một phong trào, không có một chủ trương hay một chủ nghĩa nào cả. Truyện thơlà một hiện tượng xã hội. Vì thế nên truyện thơ chỉ có những tác giả không tên.Không tên nên vô ngã. Ngón bút của truyện thơ là không ngón bút.

 

Vì truyện thơ viết ra không phải là vì tác giả bị thôithúc bởi tâm tư và tâm tình của mình, có một nỗi oan khiên hay oán hận nung đúctim gan từ thuở vào đời. Truyện Kiều và Sơ Kính Tân Trang là thơ chữ không phảilà truyện và ở trên dòng của Cung Oán và Chinh Phụ , hay xa hơn nữa, Le Lac (HồXưa) của Lamartine và bốn bài Đêm (Nuit) của Affred de Musset. Truyện thơ, đặcthù của văn chương Việt Nam trong một thời đại, một thế hệ. Truyện thơ đáp ứngmột tâm trạng (mentalité) xã hội và nhằm vào những người đã mất cái tội cộng đồngnhư những con thuyền lạc lỏng trong bão tố của biển cả mà không có cách gì để địnhphương hướng.

 

Chúng ta hãy thử quên đi cái quá khứ rất gần của cuộcđại loạn hơn một vạn ngày đã làm mất tuổi trẻ của rất nhiều người và tạo ra nhữngbiến động chưa từng thấy trong bốn nghìn năm lịch sử của nước ta. Bằng sự tưởngtượng, hãy trở lại hai mươi năm về trước, khi đột nhiên, có những người, ta cóvà có những người rừng núi và ta vẫn gọi là “Mọi” một cách vừa khinh thường vừakinh khiết, từ cao nguyên xuống với ngựa voi; họ đạp đổ triều đình của ChúaNguyễn rồi kéo nhau ra Bắc hà, làm cho Chúa Trịnh chạy trốn biệt tăm biệt tíchvà triều đình của vua Lê rúng động, phải dâng công chúa Ngọc Hân và mở cửa khocho họ tự nhiên vào vơ vét. Đã đành rằng trong cái nhãn quan của ta ngày nay, cảNam triều và Bắc triều đều không như ta mong muốn, và nhân dân thuở ấy cũngđiêu đứng lắm với những thuế má tạp nhạp nặng nề để đắp điếm vào những lỗ hà lỗhống của những nền hành chính lạc hậu tham tài, nhưng dân gian chỉ cầu có một sựbình an tương đối để sống cho đến ngày mai. Đùng một cái, cái nhà ọp ẹp sụp đổvà trong một thời gian, không có một cái mái để che nắng, che mưa: từ Bắc vàoNam, chỉ có chém giết, đốt phá; vận nước mong manh, quân Mãn Thanh nuôi ý đồchiếm nước, quân Tiêm la thực sự xâm lăng, người “Bạch quỉ” tính đường lậpthương điếm và đạo trường; không phải ai ai cũng nghĩ rằng vua Quang Trung là đấnganh hùng cứu dân, cứu nước, nhiều người thời ấy gọi là “giặc” Tây Sơn và nhiều tàiliệu lịch sử kể những tội ác của quân lính gốc rừng núi. Nguyễn Huệ và NguyễnNhạc, Nguyễn Lữ có uy vũ và có mưu lược nhưng không người nào có đủ tài năng đểkiến tạo một chế độ mới hay cả đến một nền cai trị và quốc phòng vững để andân. Thời Tây Sơn chỉ là một trận cuồng phong của Lịch sử (Nguyễn Du gọi là ngọn“tây phong” lạnh lẽo) mà dấu vết là rất nhiều đổ vỡ và một đại họa cho mấy thếkỷ sau.

 

Xã hội từ thành thị đến nông thôn, bị đảo lộn. Từ loạnKiêu binh cho đến giặc Tây Sơn, người ta không biết trông vào đâu, bám vào đâu,những chuyện đảo điên là thời sự, người người lên voi xuống chó trong chớp mắt.Nguyễn Huệ đang đêm vào dinh của Nguyễn Hữu Chỉnh và chém hắn chết, anh em ruộtmà phải khóc mà cầu xin rằng đừng lấy da làm nồi để nấu thịt, là những điều “tiếnglành đồn xa, tiếng dữ đồn xa” theo những phương thức vô tuyến của đời xưa,không ai là không biết, mà không ai biết gốc nguồn từ đâu. Bài Văn Chiêu Hồn củaNguyễn Du, kể những giấc mộng không thành của một thời đại loạn, cũng là mộtbài khóc những người sống mà chỉ còn là những cô hồn vất vưởng, không hươngkhông khói vì các giá trị của đời sống văn hóa cổ truyền đã bị đạp đổ hằngngày, trước mắt.

 

Còn chi ai quý, ai hèn,

Còn chi mà nói kẻ hèn, người ngu.

 

Sự đổ vỡ lôi cuốn sự đồi trụy, người ta sống khôngnguyên tắc, không phương hướng, bừa bãi, vô kỷ vô cương, không những rằng vôchính phủ mà vô văn hóa, không những không ngày mai mà không cả quá khứ, chỉ cónhững phút giây hiện có, hiện còn, hiện tại. Cái giây phút ngồi lên một chiếcxe gắn máy, phóng bạt tử trong bóng đêm, với một em ngồi ôm lưng ở đằng sau[7].Nhưng trong thời đại truyện thơ, nước Việt Nam gọi là phong kiến, chưa cóHonda, Suzuki, nền đại tư bản quốc ngoại chưa xâm nhập để bóp nghẹt dần cái hạtầng cơ sở nông nghiệp cổ truyền của ta. Chỉ có, hãy còn chỉ có, ta với ta. Nhữngngười viết truyện thơ trong thời ấy là viết cho tuổi trẻ mất phương hướng củathời ấy.

Tất cả các truyện thơ, trừ những truyện mà kẻ cầm bútnày chưa được đọc, đều kể những chuyện trung, hiếu, tiết, nghĩa. Cha mẹ đínhhôn cho con trai con gái từ nhỏ nếu không phải là từ khi chưa người nào lọtlòng và như thế là định đoạt xong hạnh phúc suốt đời của đôi trẻ. Chúng cũngkhông cần phải biết nhau. Có một nghịch lý nghịch cảnh, một sự kiện ngang tráixảy ra, do định mệnh, nhưng chỉ là một sự thử thách lòng trung kiên của hai người;lại có khi có những cám dỗ, quyền quý, quan sang, nhưng cũng chỉ là để dò xét,hoặc, hơn nữa, một sự tôi luyện cho đôi vợ chồng chưa cưới. Kết cục tốt đẹp làphần thưởng cho sự kiên cường trong lễ giáo và là sự hứa hẹn cho những ai biếttheo lời dạy bảo.

 

Đôi khi, cốt truyện đổi đi, nhưng vẫn đề cao các đức hạnhcủa Đạo Nho. Thạch Sanh nhà nghèo nhưng chí lớn, cứu khổn phò nguy, và đến cuốicùng truyện gảy đàn mà đuổi được quân địch đang vây thành. Lòng trung và sự hàohiệp sáng ngời trong một cốt truyện hoàn toàn hư cấu, không bóng dáng một sựvay mượn hay mô phỏng chuyện Tàu hay chuyện Ấn Độ[8].

 

Tác giả của truyện này có thể định là những ông đồ nhoở làng, buồn về những chìm nổi của thời thế, chán ngán với tình đời đen bạc vàsự suy đồi của mỹ tục thuần phong. Các ông viết để khuyên, để răn. Không một aicó ảo vọng gì rằng các độc giả cơ hội của những truyện thơ các ông đã thâu đêmviết ra mà biết thưởng thức những châu ngọc trong những gấm thêu nếu có, củatruyện. Giới tiêu thụ là những cô hồn thất thểu dọc ngang, bị nhổ rễ ra khỏinhà và ra khỏi làng nhưng vẫn cần phải có miếng cơm, hớp nước để kéo dài kiếp sốngthừa và một manh chiếu đất với một mảnh mùng trời mà qua những đêm đã kiệt sứccạn hơi. Những cô hồn còn thể xác ấy, đã hết mộng mị, làm gì mà còn luân lý, lễnghĩa, tình đời. Truyện thơ xuất thế cả tháng cả dọt là để níu kéo những người ấytrở về và cố giữ những người sắp trôi đi khỏi bị cuốn vào lốc bụi của những luồnggió loạn đang thổi cuồng trên khắp nước An Nam.

 

Bên cạnh và cùng lúc với những truyện thơ vô danh củacác nhà nho, lại có truyện thơ của các nhà sư. Hai truyện được phổ biến rộngrãi một phần vì giá trị văn chương ở trên mức bình thường, một phần vì tổ chứckể hạnh trong các chùa ở Bắc Hà; Hai truyện ấy là Quan Âm Thị Kính và Nam HảiQuan Âm không trực tiếp dạy đời tuy cũng kể những cuộc đời đạo lý, những an ủivà làm dịu những oán hận, gạt bỏ những tin tưởng tối tăm về định mệnh mù quáng(như một thằng bán tơ đột nhiên làm nát cuộc đời của một người con gái nhỏ vô tội)và thay thế bằng cái nghiệp, tạo nên bởi một lời nói dại dột ở một kiếp trước,nhưng khi đã trả hết bằng sự nhẫn và lòng trì thì đưa con người lên hàng Bồ Tátcứu khổ cứu nạn cho cả thế gian.

 

Nhiều truyện thơ nữa của Phật giáo nó sẽ còn bị chôn dấutrong kho tàng kinh của nhiều chùa. Tôi dám nói thế là vì chỉ trong vòng mấynăm này mà tôi đã có cái duyên may được giới thiệu hai tập truyện thơ mới đượctìm thấy. Tập thứ nhất là Hứa Sử Truyện Vãn mà tác giả được ghi rõ là nhà sưToàn Nhật. Đây là một trường hợp hãn hữu mà ta biết, ít ra là pháp danh của tácgiả, và nhờ thế mà ông Lê Mạnh Thát đã minh xác được vài điều quan trọng về cuộcđời tác giả Hứa Sử Truyện Vãn[9] ở một tự truyện và một hư cấu để đặt một vấn đềlương tâm của Đạo Phật, là: Một người đã quy y và tu theo Phật có được phép cầmkhí giới ra chiến trường để giết kẻ địch là “giặc dữ xâm lăng” không. Làm theoThầy dạy tức là theo Giáo Pháp của Đức Thế Tôn, còn làm theo lời truyền của Vuatức là theo thế tục; Hứa Sử đã bác bỏ lệnh Vua và theo lời Thầy. Truyện Hứa Sửlà cái cầu đầu tiên trong lịch sử văn chương Việt Nam để vượt cái cổ và vào cáikim. Hứa Sử Truyện Vãn là cái mầm non của tiểu thuyết nhưng còn phải lột bỏ cáixác văn vần để người ta thuộc và kể hay ngâm thì mới vươn lên để có đủ tầm vócmà thành tiểu thuyết. Lúc này, văn xuôi của ta còn ấu trĩ quá, gần như là chưacó, nên không thể cầu mong hơn.

 

Truyện thơ Phật giáo thứ tư là truyện Tội Vợ, Vợ Chịu.

 

Các truyện thơ Việt Nam có để lại một dấu vết gì tronglịch sử xã hội và lịch sử văn chương Việt Nám không?

 

Sự khai sinh ra truyện thơ là một sự kiện mà lịch sửkhông thể bỏ qua, nhất là lịch sử theo những khuynh hướng hiện đại, coi những sựthăng trầm của vua chúa hay những thành bại của chiến tranh chỉ như những cơngió thoảng hay nhiều lắm, một trận bão lớn, đời sống của xã hội, miếng ăn, côngviệc hay tâm trí của con người diễn ra theo những nhịp độ khác.

 

Trận gió từ Tây Sơn thổi xuống thực là mạnh, rất là lạnh,và đã làm rụng lá, rơi hoa nhiều lắm, những lá và hoa không đủ sức mà bám vàoruộng mà gắn với rễ trong lòng đất.

 

Truyện thơ, nhất là truyện của các nhà nho ở làng, cólẽ cũng có thể làm cho một số người hồi tâm và trở về với gia quyến, làng mạc.Tuy nhiên, các truyện đều viết bằng chữ Nôm và một số người thật học trong mộtthời loạn lạc, chắc là không ít, sự ấn loát phải còn dùng đến những bản khắctrên gỗ nhiều khi phải nhờ đến một ấn quán ở Trung quốc, nên sự lưu hành có thểđoán là rất hẹp hòi và chỉ ở trong những khu vực hạn chế. Việc chép tay cũngcó, nhưng được giới hạn ở những tác phẩm được nhận là trác tuyệt về văn chươngnhư Đoạn Trường Tân Thanh; và nếu có đi nữa, thì những bản chép cũng được giữ ởchùa hay trong gia đình chứ không cho xuất ngoại bừa bãi. Sự kể, - kể hạnh, kểxẩm và kể trong gia đình-, tiếp nối bởi sự truyền khẩu bực hai với nhiều lỗ hổng,nảy nở ra với các truyện thơ và giúp rất nhiều vào sự phổ biến của loại văn nàytrong dân gian trong thời gọi là tiền chiến.

 

Kẻ viết những dòng này nhìn nhận truyện thơ như mộthình thức giáo dục bình dân, rất nặng về công dân giáo dục. Trung, nghĩa, lễ,trí, tín, lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng sự chung thủy với bằng hữu là những đềtài chính. Nền giáo dục này không phải xuất từ chính quyền. Từ lúc Nguyễn Nhạcxuống núi rồi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ nhất, Đằng Trong cũng như ĐằngNgoài của nước ta ở trong tình trạng vô chính phủ. Đời sống của dân rã rời, nhưmột bức tường đổ xuống từng mảng. Các ông đồ, với cái thiên chức ngàn năm là giữđạo thánh hiền tìm ra được một phương thức là truyện thơ. Một sáng kiến mới mẻ,xây dựng, đáng được vinh danh thiên cổ. Tiếc rằng bệnh của cả xã hội thì quá nặngmà chỉ có tàn hương nước thải làm thuốc thì dầu con bệnh thoát chết, nhưng lụcphủ ngũ tạng đã thối nát, khó phục hồi. Từ đó đến nay lại xảy ra bao nhiêu tainạn, làm cho sự suy vi tiếp tục, trừ phi…. Truyện thơ này cũng đã chết hẳn, vìcác thầy lương y cũ không còn và vì bệnh tình cũng đã chuyển hướng. Từ hơn nửathế kỷ nay, không bao giờ chỉ là ta với ta nữa.

 

Tôi trân trong giới thiệu về truyện thơ về anh TrươngThiện Hữu, một người dân Việt Nam hiền lương, rất thương yêu vợ, mà không ai biếtcho đến nay, nếu không đã có một người hiểu cái đạo lý ở đời chép lại (bằng chữNôm) và được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm chuyển sang chữ abc đời nay cho chúng ta từnay cũng đọc được và khỏi bị hoàn toàn nhổ rễ ra khỏi cái quá khứ của dân tộc.

 

Chú thích:

 

[1] Năm lên năm chức Chúa và năm chết. Có lẽ tác giảcòn khuyết danh, của Thiên Nam Ngữ Lục (8136 câu thơ lục bát) đã được Trịnh Tạcgiao cho việc viết sách Nôm để dạy dân theo về Chúa Trịnh hơn về Vua Lê (thiênhạ Trịnh Lê).

 

Kính vâng tay mới chép làm nôm na và đã hoàn thànhsách khi Trịnh Căn đã được phong làm nguyên soái vào mùa thu năm 1674 mà chưa nốinghiệp Chúa của cha (1682).

 

[2] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.

 

[3] Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Minh Tân,Paris,x.b.

 

[4] Trần Ngọc Ninh, En Cruise de Préface trong NguyễnĐình Cát. Le Manger et Le Boire Vietnamiens à Travers la LittératurePopulaire”, Associasion des Médecins Vietnamiens au Canada, Montréal, 1991.

 

[5] “Tỉnh lẻ” (provincial) là chữ của Jean-Paul Sartređể phê bình các novels (tiểu thuyết) Hoa Kỳ. Tiểu thuyết Việt Nam không biết đãngang hàng với các tiểu thuyết Mỹ chưa?

 

[6] Trần Ngọc Ninh, Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh KhởiHành và Viện Việt Học x.b. 2002.

 

Trần Ngọc Ninh, Thơ Trong Truyện Kiều, Khởi Hành XV, số170 – 184 (2010) và Truyền Thông, Montréal, 39 -40 (2010 – 2011).

 

[7] Tin vặt thời sự trích báo Việt Nam của thành phốHCM. “Bão đêm” là những cuộc đua xe máy tổ chức bởi thanh niên thanh nữ ViệtNam 2010.

 

[8] Ông Cao Huy Đỉnh (Văn Hóa Ấn Độ, nhà xuất bản VH,Hà Nội, 1993) nêu giả thuyết rằng truyện Thơ Thạch Sanh là phỏng theo anh cùngca Ramayana của Ấn Độ. Ảnh hưởng của Ramayana có thể lan đến Cambodia và có lẽđến cả dân Chăm khi theo Ấn Độ Giáo, nhưng không sang Trung Hoa (mặc dầu có conkhỉ Hanuman con của Thần Gió, nhưng các nhà phê bình Anh, Mỹ và Hoa đều bác giảthuyết rằng con khỉ Tôn Ngộ Không là hóa thân của Hanuman) và không đến ViệtNam. Trong truyện Ramayana, con khỉ Raksasa Ravana bắt vợ của Rama và đưa về đảoLanka, bị con đại bàng đánh để ngăn chặn. Nó giết con đại bàng và bay về cungđiện của nó. Trong truyện Thạch Sanh, công chúa bị con đại bàng bắt về hang củanó và Thạch Sanh đến cứu. Đại bàng trong thần thoại Ấn Độ là biến thân của chimthần Garuda.

 

[9] Toàn Nhật, Hứa Sử Truyện Vãn trong Lê Mạnh Thát,Toàn Nhật Quang Đài, Vạn Hạnh, 2004.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 01, 2024 04:07

February 12, 2024

Thạch Lam và phận nghèo của xứ sở

 

 NGUỒN Tuần báo Chủ nhật 16-11-1940

Chủ nhật là cơ quan  của Tự lực văn đoàn  ra đời, thay cho Ngày nay bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa, nhưng cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn.

-

Đọc Hà Nội bămsáu phố phường, chúng ta đã có dịp cùng với Thạch Lam sống và lắng nghenhịp sống của một vùng đô thị thuở thanh bình.

Trước đó, đọc nhữngtruyện ngắn như Dưới bóng hoàng lan, Gió lạnh đầu mùa, Nhà mẹ Lê…chúng ta đã thấy nhà văn này mang nặng những tâm tình riêng và có một sự trântrọng riêng với những hồn quê mộc mạc.

Nhưng Thạch Lam –nhà văn với một vốn liếng văn hoá vững chắc, cây bút có cốt cách tri thức điểnhình – còn đi xa hơn thế. Trong mấy năm cuối đời, ông thường để cho cảm hứngtrang trải tới những khu vực tưởng như trừu tượng hơn, mà lại là nơi cô kết mọitình cảm của chúng ta – ông hay nói tới đất nước.

Và con đường riêngđược ông lựa chọn, là nói về nghệ thuật dân tộc.

 Trong những dịp tết, ông kể chuyện về nhữngbức tranh Đông Hồ với “những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màuxanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng”.

Còn như đọc bàiviết dưới đây, chúng ta sẽ được cùng ông trở lại với những tiếng hát dân gian –những điệu xẩm.

Ông phác ra khungcảnh ở đó người ta nghe hát. Ông chăm chú đọc ra những điều người ta trông chờvà gửi gắm qua các điệu hát.

Và nhất là ông tìmcách ghi lại những cung bậc tình cảm của mọi người – cả người hát lẫn ngườinghe –  trong cái cảnh diễn dân dã đó.

Nhà văn muốn thửlàm một công việc khó khăn và hấp dẫn là mang lại cho tâm hồn dân tộc một hìnhhài, một khuôn khổ. Câu văn ông có chỗ lúng túng, ngập ngừng như chính ông cũngchưa biết làm sao ghi cho chính xác cái sự thực của tâm tình. Mặc! Ông vẫn cảmthấy phải nói ra bằng được những nỗi niềm bấy lâu đã nấu nung trong lòng mình.

 

Cái hồn của đấtnước được Thạch Lam gọi ra bằng những lời lẽ riêng. Ông đã nhuộm cho cảnh vật,cánh đồng, con đường, cây đa, bến nước…. một sắc thái riêng – sắc thái ThạchLam.

Giờ đây, người tacó thể nghĩ khác về đất nước, so với những điều Thạch Lam đã nghĩ gần sáu chụcnăm trước. Nhưng lòng yêu đất nước của ông thì tưởng như mãi mãi làm ta cảmđộng.

 

DỌC ĐƯỜNG

Một con đườngdài dưới sáng trăng. Hai bên dãy nhà lá thấp, mái tranh cũ như lẩn vào màutrời. Một cây đa lớn trong bóng tối thấp thoáng ánh trăng của vài chiếc bìnhvôi.

Đấy là một phốchợ nhỏ miền hạ du, một cảnh rất quen mắt ở chốn bùn lầy nước đọng. Trong cáccăn nhà lụp xụp và tối tăm ấy, sống những gia đình nho nhỏ Annam, những người nghèo hèn màđời kiếm ăn thật là eo hẹp và chật vật. Những đêm sáng trăng này, họ vui vẻ.Tâm hồn giản dị cảu họ chịu ảnh hưởng của thời tiết một cách mật thiết, khôngtự biết. Cái vui của họ dễ đến, nhưng mà cũng dễ đi và tiếng cười của họcó khi nổi lên vô tư lự.

Họ xúm quanhlại ngồi nghe một đám xẩm già, đánh cây đàn bầu gỗ mọt, và ca hát những bài háttự nghìn xưa vẫn lưu truyền trong dân gian, ai cũng thuộc nhớ, mà lần nào họcũng vẫn muốn nghe. Những bài hát thương tiếc cái tình tuyệt vọng của anh chàilưới Trương Chi, ngậm ngùi cái tình bằng hữu của Lưu Bình, Dương Lễ, hay tánthưởng lòng can đảm của Thạch Sanh. Muốn cảm động được đám người mộc mạc ấy,những tính tình kia cũng phải thu về giản dị và cổ sơ – những tính tình mới cócủa người bước vào vòng lễ nghĩa, của những tâm hồn chất phác như những tâm hồnvẫn giữ chất phác kia.

Qua cảm độngđến vui cười, chế nhạo và giễu cợt. Những bài vè quê mùa, những câu đố hómhỉnh, những bài ca hơi chút đĩ thoã và trai lơ. Đánh tam cúc, Đi hái chè,Lấy chồng già, chồng trẻ… bao nhiêu tiếng cười thẳng thắn và hồn nhiên nổilên khuyến khích và điểm vị cho câu hát. Và cái tiếng cười cợt trong câu hátấy, hơi đơn sơ và thành thật, láu lỉnh như nháy mắt với người bên cạnh, giễucợt có khi cay chua nhưng mà không ác ý, có đôi chút triết lý rộng lượng vớinhững hèn yếu của người đời – đó là tiếng cười cợt Annam, của luỹ tre, củaruộng lúa. Lên đến cao nguyên, vùng rừng vùng núi, tiếng cười câu hát ấy đãthêm một chút man mác, rộng rãi nhớ thương, thêm một chút buồn xa xôi và tưởngnhớ.

Ai là người cúixuống góp nhặt và thưởng thức những bông hoa trong nội cỏ đất nhà ấy, giữ lấymùi hương thơm mát mẻ và kín đáo, từ xưa vẫn thấm nhuần cảnh vật quanh ta?

*

 

Một chuyến đòngang, một xó chợ, một đầu đường… chỗ nào có dăm ba người nghe là có đám xẩmxoan lên tiếng. (Dễ thử đến có khi chẳng có ai nghe nữa, mà một ông cụ xẩm cũngvẫn gẩy đàn và ca hát, đôi mắt đưa lên như cố hình dung những bóng người tưởngtượng, và lắng tai nghe chờ đợi không biết đến bao giờ một tiếng đồng trên chậuthau..). Cái giọng hát xẩm thật là một giọng hát đặc Annam. Hay là tôi tưởngthế, bởi vì mỗi lần nghe cái giọng hát buồn buồn, tầm thường và quê mùa ấy, làmỗi lần tôi thấy như đè nén, quằn quại trên tâm hồn tôi, cái tâm hồn hèn mọn vànhẫn nại của giống nòi của cả đồng ruộng nghèo nàn và bạc bẽo phủ sương chiều. Tôi khôngmuốn một bài ca hùng hồn, hăng hái, đầy những công việc xuất thế, anh hùng, bởivì không phải thật là như thế. Tôi nhận ra cái hèn mọn, nghèo nàn kia, nhận mộtsự buồn mà người ta phải chịu vậy, nhưng mà tôi yêu mến, thiết tha cái linh hồnthật của đất nước ấy, là linh hồn của tôi, có những ràng buộc chặt chẽ, nhữngrung động thẳng ngay đến bên trong. Cái giọng hát quê mùa, không có gì là caoquý nhẫn nại, không có gì là siêu việt, là cái giọng hát đã làm cảm động nhữngngười cùng giống với tôi, những người sống chật vật, khó khăn, nhưng mà vẫn vuivẻ, vẫn tin trời, không ghen ghét mà cũng chẳng thù hằn ai. Trên manh chiếurách giải ngay mặt đất đó, đã diễn ra bao nhiêu lần cái cảnh sinh hoạt củangười bình dân Annam. Tiếng đàn, nhị  một điệu nhắc đi nhắc lại, quenthuộc và êm ả, như trên cánh đồng lúa, ngày lại ngày, năm rồi qua năm khác, đemlại cũng chừng ấy công việc, chừng ấy vui buồn.

Đường, chợchúng ta sẽ vắng lạnh, nếu không còn giọng ca hát nữa.

*

 

Làn khói rắcbuổi chiều ở đầu làng, vì không có gió đưa, nên là là sát mặt đất để lẩn vàodải sương mù bắt đầu rơi xuống cánh đồng. Tiếng ếch nhái xanh rờn trên ruộngmạ. Và bóng người dãi qua cái quán gạch giữa cánh đồng, cái quán gạch giờ nàytrơ vơ và lạnh lẽo.

Bạn có nhậnthấy cứ đến buổi chiều sương phủ, những làng mạc xa xa hình như thu bé lại,thấp xuống, thấp xuống để lẫn với đất ruộng, còn cánh đồng mênh mang bóng tốithì từ từ dâng lên ngang với chân trời? Giờ khắc ấy, ở đâu ra mà khắp cả, trêndưới và khắp bốn phương, hình như tiết ra ở cảnh vật, ở cây cỏ, ở ruộng nương,một nỗi buồn thấm thía, không đâu, một nỗi buồn vừa chán nản vừa chua xót,khiến người ta bỗng dưng thấy lạnh lẽo, thấy lẻ loi? Tranh giành, chiến đấu bấygiờ thấy vô ích và quá sức yếu ớt của mình. Phải dễ dãi, phải thân mật, để đượcgần gụi người khác cho thêm ấm cúng.

Đó là cái mạchbuồn riêng của đất nước nhà, âm thầm như dòng suối dưới nội cỏ, cái mạch buồnhiu hắt chảy trong sông, hay xa xôi theo dải đê đến tận chân trời. Cảnh của tatuy nhiều nơi thật là đơn sơ, bằng phẳng, nhưng có vẻ riêng biệt cám dỗ chúngta. Chúng ta tha thiết mến yêu có lẽ vì cảnh vật như một tấm gương, và chúng tathấy chiếu vào trong đó hình ảnh và tâm hồn của chính chúng ta.

Chúng ta nghèonàn, nhưng chúng ta biết sự nghèo nàn ấy.

*

Dọc đường cáiquan, ngày xưa, còn có chiếc cầu dịp đá, và bóng đưa của những cái cáng xanh.Những ngày rực rỡ, còn có võng lọng tưng bừng của một ông nghè về vinh quy, vớicô gái quê má lúm răng đen, gọn mình trong chiếc võng, âu yếm nhìn ông tân khoa,chồng ta, và do công ta thức khuya dậy sớm hái dâu dệt lụa để chàng ăn học.

Bây giờ nhữngcái đó đã mất rồi, mà trên đường, chúng ta chưa có cái gì khác thay vào. Chúngta đi, hai bàn tay trắng.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 12, 2024 23:57

February 10, 2024

Thạch Lam – Tìm về tranh tết như là một cách tìm về dân tộc

 

 

Khi nói đến thờitiền chiến, nhiều người chỉ nghĩ đó là thời kỳ xã hội ta “Âu hoá”, hội nhập vớithế giới hiện đại. Thế nhưng những năm tiền chiến – và nhìn rộng ra, cả mấychục năm đầu thế kỷ XX – cũng chính là thời gian mà ý thức dân tộc trỗi dậymạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các nhà trí thức chia nhau gánh vác những công việc màmột dân tộc muốn tự hiểu mình, tự biết mình, bắt buộc phải làm: Viết lại lịchsử. Sưu tầm thơ văn cũ. Nghiên cứu về tục ngữ ca dao, về tranh dân gian, về catrù. Bàn lại về Cung oán, về Truyện Kiều v.v… Việc gì cũngđược làm một cách thận trọng. Riêng các nhà văn nhà thơ cũng đóng góp vào việcnày theo cái cách của riêng mình. Có người viết truyện theo lối tiểu thuyết hoácác sự kiện, các nhân vật đã sống cách đây vài thế kỷ. Có người ghi lại nhữngnếp sống cổ truyền đang dần mai một. Có người đưa vào thơ mình cái hồn thơ dângian duyên dáng, trữ tình…

Có thể nói trongsuốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ sáng tác văn chương lại trở nên gần gũivới đời sống bình thường của xứ sở như lúc này.

So với một số đồngnghiệp trong Tự lực Văn đoàn, trên đường trở về với dân tộc, có vẻ nhưThạch Lam không có nhiều may mắn trời cho. Ông không có cái vốn dân gian bềnchặt như Tú Mỡ, cũng không biết chữ Hán và thuộc nhiều sử sách cũ như KháiHưng. Trong khi một người như Nhất Linh còn có lúc viết một thứ văn nghiêng hẳnvề quy phạm cũ (Nho phong, Người quay tơ) thì Thạch Lam, ngay từ lúcxuất hiện, đã bộc lộ một cốt cách Tây học không giấu vào đâu đuợc. Chỉ cần quansát kỹ câu văn của Thạch Lam, người ta có thể nhận ra sự gần gũi của ông vớinền văn chương tiếng Pháp rõ rệt đến độ nào.

Nhưng Thạch Lam làmột nghệ sĩ bẩm sinh, hơn thế nữa, một nghệ sĩ được đào luyện chắc chắn về vănhoá. Một người gọi là thấm nhuần văn hoá thực thụ, một trí thức chân chính, dùlớn lên trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ nặng lòng với cái dân tộc đã sinh ra mình,cũng muốn trở về với cội nguồn, và có những xúc động sâu xa trước đời sống quêhương, nhất là khi quê hương đó đã phải chịu đựng nhiều đau khổ.

Và chúng ta, nếuchăm chú đọc lại Thạch Lam, sẽ thấy một vương vấn thường xuyên về dân tộc, nhưmột ám ảnh. Ông để tâm suy nghĩ về quê hương, làng xóm, những người lao độngnghèo túng vất vả, những nét phong cảnh như ngưng đọng tự bao đời. Và ông viếtvề những nét đẹp của quê hương như trong bài Tranh Tết mà sau đây bạnđọc sẽ đọc.

Với cái nhìn ngảsang xã hội học, trước tiên Thạch Lam tìm thấy ở những bức tranh tết (ở đây làtranh Đông Hồ) một ý nghĩa nhân sinh rõ rệt. ông yêu nhất ở tranh cũng như ởcuộc đời thường cái vẻ mộc mạc. Ông ân cần nhận ra rằng giữa người làm tranh vànhững người dân thường chẳng có sự khác biệt là bao, nhờ thế các tranh có đượccái vẻ sống thật, nó là cái thi vị riêng mà chỉ các tác phẩm dân gian mới có.Còn như cái việc phần lớn các tác phẩm ấy mang tính cách khuyết danh, lại đượcông xem như một nét đẹp; “Trong sự giấu tên kín tiếng của các nghệ sĩ xuaấy, có một cao quý và trong sạch đáng yêu”.

Song nói vậy, khôngcó nghĩa là Thạch Lam chỉ biết có mơ mộng. Trong một bức tranh quen thuộc như Đámcưới chuột, ông ghi nhận một triết lý dân gian: nhẫn nhục chịu đựng, thíchứng để sống. Người ta cảm thấy khi viết những lời bình luận về bức tranh này, ởThạch Lam vừa thoáng qua một nụ cười, vừa có một nỗi âm thầm đau xót, thôngcảm.

Cái khó của một nhàvăn khi viết về hội hoạ là phải diễn tả phải diễn ra bằng lời những điều nhànghệ sĩ đã miêu tả bằng đường nét và màu sắc. Cũng là một điều dễ hiểu khiThạch Lam đôi lúc tỏ ra lúng túng, và chắc chắn ông không bằng lòng với mình.Có điều, chỉ qua mấy câu bàn kỹ vào giá trị nghệ thuật của tranh dân gian,Thạch Lam vẫn tự chứng tỏ là ông hiểu khá kỹ về nghề vẽ và nhất là có một mỹcảm tinh tế. Ông xa lạ với những gì vụng về, giả dối, lộn xộn. Ông thích nhữnggiá trị lâu bền. Khi Thạch Lam viết rằng “cái nghệ thuật phải tự nhiên vàthật” thì đó không phải là nhận xét riêng của ông về tranh dân gian: đấycũng là những tiêu chí nghệ thuật mà nhà văn này theo đuổi và đã có dịp bộc lộqua các sáng tác.

Trong cái mỹ cảmtinh tế ấy của Thạch Lam, người đọc hôm nay nhận ra một phần quan niệm về cáiđẹp của ông cha ta, của người Việt chúng ta nói chung. Và như vậy, đã có thểnói là trên con đường tìm về dân tộc, Thạch Lam (với cái vốn văn hoá Tây phươngnhư đã nói ở trên) cuối cùng vẫn là một trong những người tới đích sớm.

GHI CHÚ VỀ VĂN BẢN

Bài viết sau đâycủa Thạch Lam được viết ra đầu xuân 1941. Năm đó, cả Phong Hoá, Ngày Nayđều đã đình bản, tờ Chủ nhật ra được mấy số cũng bị rút giấy phép,nhóm Tự lực không còn báo trong tay, đành phải tổ chức một đầu sáchgọi là Sách tết Đời nay. Lạ một điều là trong cuốn sách 48 trang khổto như báo ấy, các tác giả Thế Lữ, Khái Hưng đều không ký tên thật của mình saucác bài viết. Và Thạch Lam cũng vậy. Chúng tôi chỉ căn cứ vào giọng văn và nộidung bài viết mà khôi phục lại tên tác giả.



                                               Tranh tết

Những tranhngày Tết người ta bán nơi nhà quê kẻ chợ. Đó là những tranh khắc gỗ, do mấylàng làm. Tranh vẽ nhiều cảnh, tất cả cuộc sinh hoạt của thôn xóm Annam, nhữngbà mẹ và trẻ em thường gọi là tranh gà lợn. Đó là những tranh rất cổcủa ta.

Những bản gỗcủa các tranh ấy không rõ có từ bao giờ, và do ai vẽ. Trong sự giấu tên kíntiếng của các nghệ sĩ xưa ấy có một cao quý và trong sạch đáng yêu. Đó hẳn lànhững người bình dân vẫn sống chung lộn với những người khác trên đồng ruộng, cùngsống một cuộc đời, cùng làm những công việc im lặng và khó nhọc. Họ không biếthọ là nghệ sĩ, và có lẽ, nếu không có một trường hợp nào đó, một kích thích gìđột nhiên, họ suốt đời không bao giờ vẽ cả.

Những người đóvẽ với tất cả tâm hồn của họ. Vẽ đối với họ tức là sống lại ngay chính cái đờihọ sống. Những cảnh đồng ruộng, các công việc cày cấy, những cảnh trong giađình hay ở sân sau, được hoạ trên giấy một cách rất linh động và đúng nét. Cáikhoa học dáng điệu của họ nếu có thể gọi được thế, một sự tự nhiên, không xếp đặt trước thật là lạ lùng. Dáng điệu của người cày ruộng, người quạt thóc v.v… như sốngthật. Tất cả cái thi vị, một mạc và đơn sơ của đồng ruộng, phô diễn trên giấy.Những gia súc, vì họ sống gần gụi và thân mật với chúng, trong nét hoạ cũng trởnên thân mật như thực. Cả đến các gia thần, ông Táo Quân, ông Thổ Công, cũngchỉ là những người cùng sống chung dưới một nóc, có liên lạc mật thiết đến cuộcđời của người.

*

*  *

Những nghệ sĩAnnam của thôn quê đó còn cả cái giễu cợt khôi hài ý tứ và chân thật nữa. Trongbức tranh Đámcưới chuột, hay Ông đồ ếch và học trò có thấmthía một cái duyên vui và rộng lượng. Những người giản dị ấy không mất lòngkính trọng của họ đối với mọi việc. Cái roi mây trong tay ông đồ hay cái hoả lòđể quạt nước cho thầy biểu hiện tất cả cái tinh thần cốt yếu của buổi học, cùngmột lúc với cái khôi hài thân mật của người vẽ.

Trong cảnh Đám cưới chuộttôi thấy sự mềm dẻo và, quen đi, dai dẳng của cuộc sống. Bao nhiêu triết lýtrong việc dâng biếu cá cho chú mèo! Tất nhiên là muốn được an hưởng thì phảiđút lót; trước khi đám cưới đi, người ta đã trù tính rồi. Mới đầu còn là sợ hãibắt buộc, rồi sau mãi, biết đâu lại không thành quen đi, và lấy làm sung sướngvà vui vẻ nữa. Ngài sẵn lòng nhận cá, thế là ơn huệ rồi.

*

*  *

Tôi muốn dừnglại lâu hơn ở những cảm tưởng mà các tranh tết ấy đã dậy trong trí tôi. Khôngphả là hoạ sĩ, tôi e sự phán đoán về màu, nét của tôi không đủ đúng đắn. Nhữngbức tranh mộc mạc ấy, ngày tết, trang hoàng cho vách đất, của phên ở thôn quê,chỉ là hình cảnh của cái đời ấy. Những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánhsen, màu xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồngruộng: cái gì tựa như một tục lệ hằng năm nhắc lại, mà không vì thế mất vẻ đángyêu.

Tôi ước aonhững tranh ấy cứ còn mãi. Những bản gỗ ấy bây giờ còn ở làng Hồ (Bắc Ninh).Hình như còn vài làng nữa, tôi không nhớ tên. Những màu sắc đều lấy trong thảomộc cả. Bởi vậy không có cái sắc lánh và lạnh rắn của kim loại, vẫn dịu và máttuy rất tươi. Màu đen rất ấm cúng, êm như nhung, và màu trắng thì ánh như xàcừ.

Mấy năm gầnđây, đã có thấy các chợ bày những tranh lối mới, vẽ những cảnh bây giờ. Nhưngvụng về và giả dối, thật rõ cái không trật tự, sự lẫn lộn của các giá trị ởbuổi này. Không phải ai cũng có thể vẽ được những tranh đẹp như cũ. Phải cầnmột hoạ sĩ mà tâm hồn cảm thẳng ngay với cảnh vật của đất nước, không cần đếnsự môi giới của trí thông mình. Cái nghệ thuật phải tự nhiên và thật.

Hoạ sĩ NguyễnGia Trí mấy năm trước đây có khắc vài bản gỗ mà hoạ sĩ gọi nhũn nhặn là một cuộc thí nghiệm. Với tôi, sự thí nghiệm ấy đã thành công đầy đủ rồi. Trong mấy bức chụp đây,người ta thấy rõ hoạ sĩ đã đi đúng đường. Dáng điệu và các nét thật linh hoạtvà phơi phới. Tôi không thể nói hết được cái giá trị cao về nghệ thuật.

Một hương vị cổkính và mãi mãi hiện ra trong các tranh ấy. Cử chỉ của cô bé đội lá sen trênđầu để che mưa có tính cách gì bình dân và Annam lắm. Và cây bàng lá thu chebóng cho chị hàng rươi tự bao nhiêu năm trở lại.

*

*  *

Những tranh Tếtkia là hình ảnh bằng màu sắc của cuộc sống Annam, cũng như những câu ca dao lànình ảnh thơ điệu. Hai nghệ thuật cùng một nguồn và nghệ sĩ nọ có khi là nghệsĩ kia. Sống cùng một màu đất và cùng một gió mùa, họ lưu truyền cái gì là sâusắc, bền chặt và tinh tuý nhất của tâm hồn chúng của dân gian, yên tĩnh haybiến đổi, nhưng biểu lộ trong tất cả trạng thái có khi rất nhỏ nhặt của cuộcđời.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 10, 2024 08:15

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.