Vương Trí Nhàn's Blog, page 6

October 14, 2024

Nhà thơ và vị khách không mời… bài viết về Tố Hữu

   
       Văn BiểnĐể hiểu tác giả này, mời đọc bài viết về ông trên báo QUẢNG NGÃIhttps://quangngaitv.vn/tin-tuc-n24293...

000


Nhà thơ còn có biệt danh hung thần gác cửa ngôi đền văn học nghệ thuật, từng là nỗi khiếp sợ một thời của giới văn nghệ sĩ. Còn khách là chàng thư sinh khoảng 17-18, nom hiền lành, thuộc giới dân nghèo thị thành, giọng Huế dễ thương.

Bây giờ ta hãy nói tới vị chủ nhân ngôi biệt thự nổi tiếng 76 Phan Đình Phùng – Hà Nội, góc sân vườn có cây táo một thời um sùm.

Ông ngồi đó một góc khuất trong phòng khách. Ông không nhớ mình ngồi như thế này từ bao lâu rồi, mấy tuần, mấy tháng hay cả năm rồi cũng nên. Ông có cảm giác căn phòng dường như theo ngày tháng cứ rộng thêm ra. Bên ngoài chiều chưa xuống hẳn mà bóng tối đã phủ quanh mình. Ông đang chờ tiếng xe máy rồ, tiếng ô tô đỗ xịch ngoài sân… Rồi sau đó là tiếng gõ cửa khi e dè, khi vội vã gấp gáp. Ông có thói quen cứ nghe cách gõ cửa cũng đoán người cần vô gặp mình thuộc loại người nào. Nhưng những tiếng gõ cửa quen thuộc đó lâu rồi không trở lại với ông. Ông chợt cười mỉa khi nhớ lại câu thơ cổ:

Bần cư náo thị vô nhơn vấn

Phú tại thâm sơn hữu khách tầm

Ông thừa biết người ta trước đây đến với ông không phải vì giàu hay nghèo mà vì chiếc ghế quyền uy ông đang ngồi. Bao trùm lên ông bây giờ là sự cô đơn khủng khiếp. Ôi, một khi quyền uy đã hết.

Bỗng một tiếng nói nhẹ nhàng giọng đặc Huế vang lên bên tai ông: Không phải do quyền uy đâu ông bạn ạ. Có người uy quyền còn cao hơn ông khi về vườn người ta đâu có cảm thấy cô đơn như ông.

Ông giật mình nhìn vô chỗ vừa phát ra tiếng nói nghe có vẻ quen thuộc như từ một thời xa xăm nào vẳng tới. Bóng một thư sinh mảnh mai đang đối diện với ông. Một học sinh cấp ba chăng? Một trong những học trò năm nào cũng phải làm đề thi bình luận những bài thơ của ông. Nhưng không phải. Không học sinh nào mà dám ăn nói ngang xương kiểu đó.

Cậu là con nhà ai mà vô nhà không gõ cửa. Và không hẹn trước.

Cửa ông để ngỏ. Mà tôi không phải khách xa lạ. Ông không nhận ra tôi là phải. Chính tôi từ lâu, cũng không nhận ra ông. Từ cái ngày ông từ Huế lên chiến khu nhận những chiếc ghế, tuy chưa lớn như sau này, nhưng ông bắt đầu thay đổi. Ngay từ hồi đó ông đã cảm thấy “đường ta rộng thênh thang tám thước”. Câu thơ như vận vào số mệnh của ông. Lúc nãy tôi cứ sợ mình nhầm nhà, nhầm người. Trông ông xuống cấp quá. Tôi không nói về thể chất mà tinh thần. Nom ông tiều tụy.

Phải chi trước kia câu nói xúc phạm vừa rồi sẽ bùng ra cơn sấm sét trên đầu người khách trẻ. Nhưng ông đổi giận làm lành. (Thật tình hắn ta nói trúng quá).

Tôi biết chứ… Cần có thời gian để quen với môi trường mới. Nhưng một lần nữa, tôi muốn biết mình đang đối thoại với ai đây.

Người khách trẻ cười nhẹ: Vậy đã có bao giờ ông tự hỏi mình là ai không? Mình từ đâu tới? Và bằng cách nào mình ngồi trên chiếc ghế một thời ai cũng sợ? Có phải ông đang cần người nói chuyện. Ông vui lòng tiếp tôi chứ? Tôi không có ác ý gì với ông đâu. Tôi chỉ tiếc…

Nhà thơ nhìn người đối thoại có ý muốn hỏi.

Vâng, tôi tiếc nhưng quá muộn rồi. Không ai làm lại cuộc đời với tuổi ông bây giờ. Song cũng có vài ngoại lệ. Có người trước lúc ra đi đã hồi tỉnh ăn năn. Tỷ như ông Sáu Thọ, suốt quãng đời làm chính trị của mình, ông ta giết người không gớm tay mà toàn là đồng chí. Lúc biết mình sắp chết, ông ta bỏ ra mấy ngày đi thăm các nạn nhân may còn sống sót. Thực ra cũng chẳng vớt vát được gì. Nhưng cảm thấy lòng thanh thản đôi chút trước lúc ra đi. Họ gọi là lúc lương tâm chợt thức tỉnh. Cuộc đời vốn rộng lượng và công bằng. Ông có biết quyền uy quá lớn đã giết chết tâm hồn và tư cách nhà thơ ở ông. Có người hình dung ông là một vị hung thần, tay trái cầm bút làm thơ, tay phải múa thanh long đao tả xung hữu đột trên mặt trận văn nghệ, tư tưởng, miệng thét ra lửa, tất cả anh em trong giới, già trẻ, cả những tài năng lớn đều bạt vía kinh hồn.

Nhà thơ cố giấu đi sự giật mình, gượng hỏi: Tại sao lại có chuyện tay trái, tay mặt ở đây?

Thì nhà thơ chẳng từng tuyên bố mình chỉ làm thơ để phục vụ cách mạng. Ông có câu thơ “bất hủ” chứng minh điều đó. Người khách trẻ đọc:

“… Trái tim đó

Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu

Rạch ròi chi li đến thế là cùng. Đảng may mắn có một đảng viên như ông, nhưng không ai biết ông đã góp phần tích cực đưa Đảng chóng tới hồi kết thúc. Ai cũng biết Đảng đang duy trì sự sống bằng bạo lực chứ không phải bằng niềm tin của người dân. Ngừng một lát khách chợt hỏi:

Có bao giờ ông thảng thốt không nhận ra mình không? Hay nhận ra mình là hai con người hoàn toàn khác nhau không?

Cậu có thể nói rõ hơn không.

Lúc mới bước vào con đường tập tễnh làm cách mạng, ông là một chàng thư sinh đáng yêu. Viết về con chim bị nhốt chết ông có những câu thơ:

Đã chết rồi con chim của tôi

Con chim nho nhỏ mới ra đời

Hôm qua nó hãy còn bay nhảy

Chỉ một ngày giam đã chết rồi!

Một tiếng kêu xuất phát từ một trái tim nhân hậu. Thế mà chưa đầy 20 năm sau, cũng chính con người hiền lành có cái tên là Lành đó đã thét ra lửa:

Giết, giết nữa. Bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Xíttalin bất diệt.

Rõ ràng không ai nghĩ hai bài thơ của cùng một tác giả. Như con bài có lá mặt lá trái. Bài sau là của một “thi sĩ” như con thú đang khát máu. Mà máu ai? Bài thơ viết khoảng những năm 55-56, thời gian đó không có đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ hay cả ngụy… Vậy là máu của đồng bào, đồng chí của mình. Đó là khởi điểm cho một vị hung thần xuất hiện. Và nhà thơ hô hào lấy máu đó để cúng ai, thờ ai? Thờ những tên bạo chúa cũng say máu đồng chí, đồng bào của mình và máu nhân loại. Thật là khủng khiếp. Vậy mà cả một thời người ta gọi Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc! Nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh nói: “May mà thời đại ta có Tố Hữu” nhưng chắc chắn câu nói đó không phải từ đáy lòng ông ta thốt lên. Người đời chắc không ai nỡ trách nhà phê bình. Mỗi người phải tìm cách tự cứu mình. Nhân đây xin nói thêm với ông điều này. Trước mặt ông không ai dám nói thật. Ông không có bạn bè để tâm sự. Người ta kể lúc ở chiến khu Việt Bắc, anh em văn nghệ sĩ đang ngồi quanh một bàn café chuyện trò rôm rả, chợt thấy ông tới ngồi cùng, kẻ trước người sau tìm cớ cáo lui hết, bỏ lại một mình nhà phê bình Hoài Thanh ngồi lại… chịu trận. Điều đó chứng tỏ mọi người vừa sợ vừa không thích ông. Thời đó và cả sau này không ai dám nói thật, viết thật. May ra lúc cận kề cái chết Nguyễn Khải có “Đi tìm cái tôi đã mất”, Chế Lan Viên với những tập Di cảo 1, 2… những lời tâm huyết, vừa như những lời sám hối…

Một lát, người khách trẻ chợt hỏi:

Có bao giờ ông tính sổ không?

Cậu bảo tính sổ gì?

Người ta lúc về già thường ngồi tính sổ mình được và mất những gì. Ông được nhiều chứ? Bao nhiêu người (tôi nói những người trong nghề làm thơ và làm cách mạng) tài giỏi hơn ông và công lao cũng hơn ông. Nhưng ông may mắn hơn họ. Ông có tất cả. Khi nhà thơ cộng với người làm chính trị thì sự khôn ngoan quỷ quyệt của nó hơn người làm chính trị suông.

Về gần cuối đời lẽ ra theo sự sắp đặt của cánh Lê Duẩn, Sáu Thọ ông sẽ làm Tổng Bí thư, nhưng cái vụ giá lương tiền ông phụ trách nó làm hại ông. Không may cho ông nhưng may cho Đất nước. Nhưng suy cho cùng cái vụ giá lương tiền lại cứu ông.

Cậu nói thế ý nghĩa là sao?

Ông mà ngồi trên cái ghế Tổng Bí thư, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Sẽ có vô vàn những chuyện quái gở khi nhà thơ làm kinh tế. Ông có nhớ sau vụ lũ lụt năm nào, chín tỉnh bị lụt chết hết lúa mới cấy ông bắt các tỉnh bằng mọi cách phải phủ xanh hết các cánh đồng. Người ta biết không thể làm được, nó trái với quy luật thiên nhiên nhưng rồi lãnh đạo các huyện, các tỉnh ai cũng sợ, phải làm theo ý ông. Kết quả mấy chục tấn thóc giống thành cỏ dại. Dân đã đói càng đói thêm. Do đó có người nói Tố Hữu chỉ trồng mây trồng gió thôi, chứ trồng lúa dân không có cám mà ăn. Đó chỉ là nói sơ qua chuyện trồng lúa. Ông có nhớ chuyến sang Pháp theo lời mời của báo Nhân đạo không?

Có chứ. Một chuyến đi buồn nhưng đầy ấn tượng. Cậu biết gì trong chuyện này?

Khi bạn đưa ông ra cánh đồng lúa mì xanh tốt, bạn khoe, lúa chúng tôi tốt nhờ hai yếu tố, hai chữ S: Sol và Soleil (đất và mặt trời). Nhà thơ tươi cười. Các bạn có hai chữ S, trong khi ở Việt Nam chúng tôi có tới ba chữ S kia. Bạn nghe, cố đoán xem chữ S thứ ba kia là gì.

Có người thoáng nghĩ chữ S kia là Sang (máu). Nhưng chẳng lẽ người ta bón lúa bằng máu hay sao, dẫu là máu động vật. Chuyện kỳ quái nên không dám nói ra. Tất cả đành chờ nhà thơ giải thích. Nhà thơ chờ một lát dường như cố ý gây kịch tính rồi thủng thẳng nói: Ngoài Sol và Soleil chúng tôi còn có một chữ S quan trọng hơn đó là… Socialisme! (Chủ nghĩa xã hội).

Có người nghi ngờ, có người ngạc nhiên vẻ thán phục. Họ không biết ở Việt Nam trong dân gian có giai thoại về bốn chữ này. Xã hội chủ nghĩa là “xuống hố cả nút”, “xấu hơn cả ngụy”, “xóa hết chữ nghĩa”, “xếp hàng cả ngày”, “xạo hết chỗ nói”… Ông đừng giận, chuyện dân gian mà. Đến bây giờ thì chắc ông đã thấm thía điều đó rồi. Tuy là chuyện dân gian nhưng nó lại là hiện thực. Đấy là chưa nói trong từ Socialisme ở Việt Nam còn có cả máu nữa. Rất nhiều máu. Máu của nhân dân, của các đồng chí, của những người yêu nước. Ông lập ra cả một binh đoàn cầm bút suốt mấy thập niên “động viên” con em người ta ra trận, còn tính mạng mình và con em mình thì được bảo vệ chăm sóc chẳng khác các hoàng tử công chúa. Năm 79, khi kinh tế Việt Nam đang ở mức khốn cùng nhưng nhà thơ Tố Hữu yêu cầu các nhà văn phải “nhận ra nhịp đi của lịch sử để thấy dân tộc đang ở chóp đỉnh, chóp nón của thời đại”. Đúng là cái nhìn chỉ có ở những người ngồi trong biệt thự, được phục dịch không thiếu một thứ gì. Người ta cho lúc đó cái bụng chứ không phải cái đầu hay trái tim của nhà thơ nói. Thật ra phải nói đó là những cái chóp lộn ngược mới đúng. Rồi cũng từ Pari về, ông nói với bạn bè, đồng chí đồng nghiệp: “Tôi vừa đi sang Pháp về với một sự buồn và khinh bỉ. Nếu không gặp những người cộng sản bình thường, (dường như chỉ có dân Cộng sản mới chơi được với nhau thôi. Vì đó mới là lương tâm của thời đại) thì mất bao nhiêu (người nghe chẳng hiểu ông nói mất bao nhiêu là mất cái gì?) … Giờ là trắng trợn, thô lỗ. Thời của anti, trên cả anti. Không còn gì là giá trị nữa (theo “Dĩ vãng phía trước” – Ngô Thảo). Những lời nói đó nếu bạn nghe chắc họ nghĩ Việt Nam đang như một Thiên đàng. Họ không biết rằng người Việt Nam (miền Bắc) đang ở chóp đỉnh của sự tàn bạo và dưới đáy của sự nghèo đói khốn cùng. Lẽ ra ông phải là nhà thơ siêu thực mới đúng. Có người nói nên đổi tên tập thơ “Máu và Hoa” là “Máu và Thơ” thì câu thơ của nhà thơ Xuân Sách viết về chân dung “Máu ở chiến trường, thơ ở đây” có lẽ đúng hơn. Thơ của Tố Hữu và máu của nhân dân. Thơ Tố Hữu được giảng dạy ở các trường từ tiểu học tới các lớp trên. Tiếp tục đầu độc những đầu óc còn non trẻ. Còn máu người dân nhuộm đỏ các chiến trường hoặc trộn lẫn với bùn đen.

Một lần khác ông nói với anh em văn nghệ sĩ: “Thực tế của ta bây giờ là rất đẹp, có thể nói là tuyệt diệu. Cứ thế mà ghi chép, thậm chí sao chép cũng được!”. Người ta nghĩ Tố Hữu đứng trên mây mà nói chuyện đời, chuyện văn. Cứ như người lên đồng, mê sảng.

Khi viết bài thơ “Em ơi Ba Lan”, ông chỉ thấy mùa xuân với sương trắng nắng tràn trên đất bạn. Hiện thực một đằng, ông viết một nẻo:

Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan

Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

Ta đi nghe tiếng mùa xuân dậy

Một giọng thơ ngâm một tiếng đàn”.

Mọi thứ sao mà đẹp thế. Câu thơ giàu âm điệu và hình ảnh càng làm tăng thêm hình ảnh một đất nước Xã hội chủ nghĩa huy hoàng, hạnh phúc. Bài thơ đúng là mẫu mực của trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa. Không chê vào đâu được. Ông có biết con đường bạch dương trong thơ ông nó khác với hiện thực của đất nước Ba Lan không? Ở dưới những con đường bạch dương sương trắng nắng tràn đó ngập tràn xương máu của người dân Ba Lan hàng mấy thập kỷ đứng lên đòi dân chủ, tự do, đòi độc lập, đòi thoát khỏi bàn tay sắt của Liên Xô. Và mỗi lần như thế, hàng ngàn xe tăng Xô Viết đã tràn vào. Xe tăng thì không có chuyện chở hoa và bánh mì… Dưới bánh sắt của nó là máu của Nhân dân Ba Lan “anh em”. Có 20.000 người lính Ba Lan bị chôn sống trong cánh rừng thời Xíttalin.

Nếu mọi người tin vào những câu thơ trên của nhà thơ chắc sẽ không bao giờ có chuyện cả khối Đông Âu Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ…

Ông lãnh đạo văn nghệ suốt mấy chục năm trời, ông có biết vì sao Việt Nam không có tác phẩm đỉnh cao trong khi cuộc sống ngồn ngộn chất liệu. Có thể kể ra bao nhiêu rào cản, cấm kỵ đối với nhà văn, chỉ nói một cách đơn giản như nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Ta không viết cái sự thực xảy ra mà viết cái ta muốn nó xảy ra”. Khi nhà thơ trẻ mới nổi lên Phạm Tiến Duật viết: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” thì được ca ngợi. Từ xưa tới nay đường ra trận có lúc nào, ngày nào, mùa nào là đẹp đâu, dầu đang là mùa xuân đi nữa. Nhưng nó là câu thơ viết đúng điều ta muốn nó xảy ra. Để “động viên” hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn người ra trận. Nhưng khi tác giả viết “Khói bom lên trời thành một cái vòng đen/ Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng… Có mất mát nào lớn bằng cái chết/ Khăn tang vòng tròn như một số không…Câu thơ cuối vào hạng tuyệt cú. Người đọc có thể nghĩ xa hơn một chút. Nó như một lời dự báo cho số phận của dân tộc.

Không ngờ bài thơ là một “tai họa” chứ không phải là “một tai nạn nghề nghiệp” bình thường giáng xuống đầu nhà thơ. Một khám phá tài tình, phải nói là giỏi thì bị đánh tơi bời, bao nhiêu hứa hẹn con đường thăng tiến của nhà thơ trẻ tài hoa bị xóa sổ, nhà thơ bị lên án… vì đã nói đúng điều đang xảy ra… Như vậy thì hỏi làm sao có tác phẩm đỉnh cao. Một đòi hỏi phi lý không thể nào có được khi một nền văn nghệ sinh ra để phục vụ Đảng, phục vụ chính trị, một đường lối chính trị đầy sai lầm, chưa nói là lạc đường, lạc lối.

Trong lúc đó ở Paris hào hoa thơ mộng, nhà thơ lớn Huy Cận viết: “Gì vui bằng những ngày đánh Mỹ”! Hãy đi hỏi từ em bé chăn trâu tới người nông dân cày cấy đánh Mỹ có vui không. Họ sẽ trả lời cho nhà thơ biết. Tôi dám chắc nhà thơ lớn chưa có một ngày ra trận! Chẳng biết chiến tranh ghê tởm đến mức nào! Mà nghĩ cho cùng cũng phải. Ngồi ở Paris bên cốc cà phê bánh ngọt thì có thể đánh Mỹ muôn năm. Ngồi ở Paris làm thơ ca ngợi đánh Mỹ trong khi máu xương thanh niên và nhân dân ngập sông núi Việt Nam.

Xíttalin từng khen nhà báo Ilja Erenburg, mỗi bài của nhà báo có sức mạnh như một binh đoàn. Nhà thơ Tố Hữu cũng có một dàn đồng ca, một binh đoàn với những tên tuổi lớn đã góp công đầu làm nên chiến thắng cùng với sự đau khổ, mất mát tột cùng của nhân dân. Nhưng với người nước ngoài họ chỉ thấy mặt “tích cực” qua dàn đồng ca với người nhạc trưởng sống trên mây. Có nhà thơ Cuba có câu nói nổi tiếng: “Nếu thế giới tạo ra được nhiều Việt Nam”. Và có người còn lãng mạn hơn: “Ước sao một sáng thức dậy trở thành người Việt Nam.

Họ đâu biết, mỉa mai thay, chỉ mấy thập niên sau, hàng trăm, hàng ngàn người Việt giàu có đã đưa cả gia đình chạy ngược sang nước Mỹ vốn đối nghịch về lý tưởng. Họ đã từ giã cái lý tưởng cao cả xã hội chủ nghĩa mà cha, anh và bản thân họ đã suốt đời xả thân thờ phụng. Bây giờ chắc chắn không còn một ai trên thế giới ước mơ “tạo ra được nhiều Việt Nam” và ước sao một sáng thức dậy “trở thành người Việt Nam”. Quả là chuyện bi hài… xưa nay hiếm.

Nhân đây cũng xin nhắc lại câu thơ trong bài “Tạm biệt” như một lời di chúc. Chắc ông vừa mới viết. Một câu tưởng để đời: “Sống là cho mà chết cũng là cho”.

Hãy nói những thứ ông cho lúc còn sống. Là nhà thơ, ông đã cho người đọc những gì. Trước hết ông có một loạt mấy chục bài thơ ca ngợi, tôn cụ Hồ là cha già dân tộc lúc đó chỉ mới ngoài 50, tôn ông cụ lên làm bậc thánh. Vì được phong thánh quá sớm, ông cụ lãnh đủ những năm tháng bị đày đọa sau này. Ở đây cần mở dấu ngoặc, sau Nghị quyết 9, ông đã bỏ ông cụ mà rẽ ngang sang tập đoàn Lê Duẩn, Sáu Thọ lúc đó đang ở thế áp đảo. Một bước rẽ ngoặt ngoạn mục thường thấy ở những kẻ cơ hội coi đạo lý bằng không.

Ông còn có những bài thơ ca ngợi Mao và Xíttalin những tên bạo chúa giết người không gớm tay. Ông khóc Xíttalin với những câu:

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương ông thương mười.

Một người có trái tim yêu ghét bình thường không ai có kiểu tình thương phi nhân như thế. Nếu là giả cũng không ai tin mà thật thì quá bậy. Nhưng tôi nghĩ lúc đó ông viết thật. Cũng có nhiều nhà thơ khóc: Trong số đó có những nhà thơ lớn, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh… nhưng chắc hầu hết họ khóc giả, như những người khóc mướn trong một đám tang. “Khóc” để lấy điểm. Xét cho cùng họ đáng thương hơn là đáng trách. Còn ở ông thì không. “Nhà thơ lớn” đã khóc thật, đau thật.

Còn nhiều thứ ông “cho” khác nữa. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm ông đã ra tay tàn độc với anh em. Nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn đi cải tạo. Hàng trăm, hàng ngàn văn nghệ sĩ, trí thức khốn khổ, khốn nạn dưới bàn tay sắt và trái tim lạnh lùng của ông. Và hàng ngàn, hàng vạn con cháu của họ hệ lụy theo. Cộng sản không có kiểu tru di tam tộc như thời phong kiến xưa, nhưng những hệ lụy của nó, con cháu, anh em họ gánh chịu thì thật khủng khiếp từ đời sống vật chất tới tính thần.

Thấy nhà thơ ngồi im, người đối thoại bèn dịu giọng. Xin lỗi, chuyện thật mất lòng, mong ông đừng giận. Đó là một phần những cái “cho” khi ông còn đang sống, đang trên ghế quyền uy. Còn chuyện ông bảo ông sẽ cho khi đã từ giã cõi trần ai này. Ngoài nắm tro tàn ra mọi người ai rồi cũng có từ người ăn mày cho tới vua quan. Thi nhân khi chết còn để lại sự nghiệp văn thơ. Ông nghĩ rằng thơ ông sẽ bất tử ư? Cái này còn chờ cỗ máy thời gian khắc nghiệt trả lời. Nhưng là nhà thơ chắc ông đã sớm nhận được dự báo. Văn thơ phục vụ chính trị sẽ chết trước hoặc chết ngay khi tác giả ra đi. Giải thưởng văn chương Hồ Chí Minh ông nhận được, nói như nhà văn Nguyễn Khải, e đó cũng chỉ là những tấm bia đặt lên mộ chí… Ông đừng buồn. Lỗi không phải ở tài năng ông. Lỗi ở cái lý tưởng ông đã đi theo, phụng sự suốt đời… phụng sự một cách quá ư đắc lực… Thậm chí vượt ra ngoài trái tim nhà thơ, vốn sinh ra để yêu cái đẹp, tôn thờ Chân Thiện Mỹ. Thi nhân không ai ác. Nếu Nero, Tần Thủy Hoàng là nhà thơ chắc chắn không có chuyện đốt cả kinh thành và chôn sống hàng ngàn học trò. Gần đây có cuộc gặp giữa ông với nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ mấy lần chạy trốn khỏi Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. Cuộc gặp gỡ thú vị giữa hai người với hai vị thế khác nhau. Giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”. Nhưng ông có dám nói như nhạc sĩ Phạm Duy không: “Tôi có chết đâu, âm nhạc tôi vẫn sống mãi trong lòng dân tộc tôi”. Một câu nói đầy tự hào của một nhạc sĩ tài hoa có rất nhiều bài ca để đời về lòng yêu thương da diết đất nước.

Người khách trẻ chợt hỏi:

Ông có ý kiến gì về bức thư của ông Nguyễn Khắc Viện gửi ông không? 

Mãi một lát nhà thơ già mới nói, một câu trả lời khá bất ngờ.

Cậu có biết ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư nói về tay Nguyễn Khắc Viện thế nào không? “Nước này mà có hai thằng Nguyễn Khắc Viện thì tan nát mất”.

Người khách trẻ nở nụ cười tỉnh queo: Tôi còn biết một câu thú vị hơn: May mà Đảng chỉ mới có một tay Linh chứ có hai thì phải có mấy hội nghị Thành Đô, và đất nước này sẽ ra sao chắc ông quá biết.

A, thằng này láo. Nhưng ông cố nén lại cơn giận như núi lửa sắp phun trào và chợt cảm thấy rùng mình… Ừ, dường như có một sự thật phũ phàng đâu đó…

Rồi không để nhà thơ hồi tỉnh. Người khách trẻ chợt hỏi:

Chắc ông biết ông Nguyễn Khắc Viện còn gửi một bức thư cho Trung ương Đảng 2).

Ông nghĩ sao về con người ấy. Chờ một lát không thấy nhà thơ trả lời người khách trẻ nói tiếp: Thôi, tôi không đẩy ông vào chỗ khó. Ông đã lún quá sâu vào ý thức hệ ông tôn thờ suốt đời. Tôi nghĩ ông Nguyễn Khắc Viện là một kẻ sĩ nhập cuộc. Một kẻ sĩ tử vì Đạo. Đạo tôi nói đây là Đạo yêu nước, đạo lý làm người. Ông biết rồi đó. Khi viết thư gửi cho Trung ương Đảng đề nghị giải tán Đảng… ông ta biết mình phải làm gì. Ông chuẩn bị khăn gói, không phải để lên đường tìm một cuộc cách mạng khác hay hơn mà chuẩn bị vô tù. Theo tôi, đó là một hành vi dấn thân quá đẹp, cao thượng hiếm thấy trong giới trí thức xưa nay. Điều đó cũng đủ chứng minh ông ta đã biết cái lý tưởng mình dâng hiến gần trọn đời đến nay là như thế nào rồi. Mọi sự lầm lỡ đều có thể hối cải nếu ta còn chút ít thời gian. Chỉ còn 1/3 lá phổi, nhưng bù lại Thượng đế đã cho ông lòng dũng cảm, một trái tim yêu nước vĩ đại và một cái đầu sáng suốt biết tìm cho mình con đường phải đi vào lúc xế chiều của cuộc đời. Ông ấy không còn thời gian, không còn sức để tìm một cuộc cách mạng khác mà chỉ còn thời gian, còn sức để làm cuộc cách mạng cho đời mình.

Trong một bài thơ của ông có một câu đầy “ấn tượng”: “Miền Bắc Thiên đường của các con tôi”. Một cái nhìn phiến diện, qua cảnh sống của mình, gia đình mình, đánh giá mức sống của cả một nước, trong lúc nhân dân đang ngụp lặn trong cảnh đói nghèo…

Nếu ông có một cái nhìn khác, một tầm nhìn khác sáng suốt, khoa học hơn, ông sẽ không tiếp tục con đường sai lầm của mình cho tới tận cuối đời.

Có lúc nào đó ông hối tiếc mình tự đánh mất mình không? Và từng có một sự trải nghiệm đau đớn tinh thần về sự mất mát đó không?

Chủ nhà nhìn người khách trẻ vẻ lạ lùng:

Tại sao cậu lại nghĩ tôi tự đánh mất mình?

Không trả lời ngay câu hỏi của chủ nhà, chàng thanh niên suy nghĩ một lát rồi như tự nói với mình.

Giá đừng có cuộc gặp gỡ lịch sử quái đản đó thì hôm nay tôi vẫn là tôi, giá hồi đó ông chỉ làm thơ, hay làm bất cứ một nghề gì khác… Nhưng trong lịch sử cũng như cuộc đời không có chữ nếu. Tất cả đã an bài. Số mệnh đã đặt ông trên đường ray… chắc chẳng phải chờ tới lúc này ông mới thấm thía: Tàn cuộc rồi tất cả chỉ là mộng ảo…

Nhưng cậu là ai? Tôi phải biết tôi đang đối thoại với ai đây.

Xin đừng nôn nóng. Trước sau gì ông cũng sẽ biết tôi là ai, từ đâu tới. Trước khi trả lời câu hỏi của ông, tôi xin kể ông câu chuyện…

Chuyện chú khỉ cộc đuôi. Truyện viết cho trẻ con nhưng người lớn đọc cũng có cái thú riêng. Có một chú khỉ cộc đuôi đầu đàn thường dẫn cả đàn vào như hình với bóng. Ngày nọ, trên nương ngô bỗng xuất hiện các bù nhìn đầu đội nón, tay vung vẩy cành tre, mặt mày bôi xanh bôi đỏ như các quan văn quan võ phường tuồng. Mỗi lúc có gió cái roi vung tít lên, bầy khỉ lớn nhỏ sợ hãi chạy dạt ra xa. Riêng Cộc đuôi không sợ, chú mon men tới gần rồi nhảy phóc lên vai bù nhìn. Lột chiếc áo bù nhìn mặc cho mình. Chú lột tiếp chiếc mũ đội lên đầu. Chú nhảy xuống đất, sẵn còn mấy đĩa bột màu chú nhúng cả hai tay vào rồi bôi lên đầy mặt. Xong đâu đấy, chú nhặt chiếc roi vung vẩy, phóng như bay tới các bạn. Kìa cả bầy đang từ xa chờ chú. Cô bé yếm trắng vẫn đứng đầu hàng. Cộc đuôi vừa chạy, vừa hớn hở vừa vung tít chiếc roi. Ồ mà sao lạ thế? Chú càng chạy thì khoảng cách giữa chú và bầy đàn càng xa. Các bạn cứ lùi dần cho tới lúc cả bầy bỗng quay lưng chạy biến đi, chúng chen nhau, xô nhau lao như thác vỡ bờ. Tiếng kêu chí chóe vang lên cả góc rừng chiều. Cô bé yếm trắng lúc này lại chạy trước cả đàn. Cộc đuôi càng cố sức đuổi theo thì cả bầy ngày càng bỏ xa chú hơn… Cộc đuôi không nhớ rõ đã băng qua bao nhiêu khoảng rừng thưa rừng dày, lội qua bao nhiêu lạch cạn suối sâu, vượt qua bao nhiêu thác ghềnh, mãi tới lúc mặt trời khuất núi, chú chợt nhìn chung quanh không còn bóng dáng một ai nữa. Chú hiểu là không còn mong gặp lại bầy đàn. Chú phục xuống nằm khóc một mình.

Đêm. Quanh chú giờ này chỉ có cây rừng và núi đá lặng im với những tiếng động khi gần khi xa. Đâu phải những tiếng động của rừng cây êm ả như mọi khi, tiếng cành cây gãy, tiếng bước chân nhẹ nhàng của các chú thỏ có tật ăn khuya, tiếng côn trùng rí rích dưới lớp lá khô… những tiếng đêm quen thuộc. Không, mỗi tiếng động lớn nhỏ bây giờ đều kèm theo hình thù cái mõm sói với những chiếc răng nanh nhọn hoắt, những cặp chân đầy vuốt nhọn sắc từ trong bóng tối âm u bí ẩn, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng nhảy ra quắp lấy chú. Đói, khát, mệt và buồn, chú ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong giấc ngủ nặng nề đầy mộng mị, thỉnh thoảng chú lại giật mình đánh thót, tưởng chừng như mỗi gốc cây hiện nguyên hình một con ác thú. Chưa bao giờ chú thấy cô độc như lúc này…

Chú thức dậy rất sớm, khi tiếng chim rừng đầu tiên lảnh lót. Bốn bề vẫn im ắng như tờ. Mệt và khát, chú lần ra suối, những con suối rất đỗi quen thuộc chảy giữa các khe núi. Chú đứng trên bờ vục mõm xuống, bỗng giật mình lùi phắt lại. Dưới lòng suối trong veo hiện ra một hình thù kỳ dị đang trừng trừng nhìn chú. Một con vật vừa là chú vừa không phải chú. Một con khỉ mang râu đội mũ, mặt mày xanh đỏ dữ dằn, cứ như muốn chồm lên vồ người trên bờ. Hoảng quá, chú kêu rú lên chạy bán sống bán chết…” 3)

Ông thấy không. Chuyện vui và đáo để. Nhiều người một khi có chức trọng quyền cao sẽ thay đổi đến nỗi bạn bè không nhận ra mình và chính mình cũng không nhận ra mình.

Nhà thơ cố giấu tiếng thở dài: Vậy… anh là ai?

Ông không còn nhớ những năm 30, 35 thế kỷ trước, có chàng trai xứ Huế hàng ngày hay lui tới các hiệu sách: Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn đọc cọp các sách của Mác – Engel – Lênin sao? Những năm tháng đó chủ nghĩa Mác rất đẹp, tưởng như là cứu tinh… Ông nhớ lại đi.

Người khách trẻ nói thêm, giọng buồn: Tôi nhớ gần đây trên mạng có một câu khá hay “Nếu Tố Hữu làm nghề cắt tóc thì thơ ông ta hay hơn”. Nhưng thôi, tất cả đã qua rồi. Cuốn biên niên sử cuộc đời của nhà-thơ-cách-mạng đã khép lại.

Nhà thơ đứng bật dậy, chẳng biết ông muốn chạy trốn khỏi mình hay tới bên chàng trai ông vừa chợt nhận ra. Nhưng người khách trẻ đã biến mất. Còn mình ông ngồi lại với bóng tối vây quanh mình. Phía trước là hư vô… và xa xa, xa nữa là con đường hầm. Cuối đường không phải tràn ngập ánh sáng mà là bóng đêm đen kịt, mờ ảo bóng những tên hung thần suốt đời ông tôn thờ, họ nhìn ông như kẻ xa lạ…

 Bức thư của Nguyễn Khắc Viện gửi Tố Hữu

Ngày 30-11-1986

Kính gửi anh Tố Hữu

Hôm nay nhân xem lại vài bài dịch thơ anh trong Anthologie de la littérature vietnamiene (Tuyển tập Văn học Việt Nam), thấy không thể không gửi cho anh bức thư này.

Anh Tố Hữu ạ! Trước kia đọc thơ, dịch thơ anh cảm hứng đằm thắm bao nhiêu thì nay thấy ngán ngẩm bấy nhiêu. Anh bảo làm bí thư vẫn không bí thơ, chúng tôi thấy anh càng quyền cao chức trọng, đọc thơ anh càng thấy nhạt nhẽo.

Anh mà trở lại Trung ương, trở lại chức quyền, là chôn vùi luôn sự nghiệp thơ trong lòng nhân dân. Rút lui đi, anh Tố Hữu, cứu lấy nhà thơ Tố Hữu. Anh sẽ trở lại với cuộc sống bình dị của một nhà thơ, chan hòa với anh em, anh em chúng tôi lại đón anh với tấm lòng trân trọng quý mến. Xuân này anh sẽ chen vào đám đông đi chợ hoa, đi hội làng Gióng hay Đồng Kỵ chứ không tiền hô hậu ủng nữa.

Anh mà trở lại Trung ương, Bộ Chính trị, thì bài báo đối ngoại đầu năm tôi phải viết sẽ là bài “La mort d’un poète” (Cái chết của một nhà thơ). Chắc không được đăng, nhưng ít nhất cũng được truyền trong một số bạn.

Vài lời chân thành của một người đã từng yêu thơ của anh, và mong được mãi mãi giữ lấy tình cảm thắm thiết ấy.

Kính thư

Nguyễn Khắc Viện, 8 Nguyễn Chế Nghĩa, Hanoi

2) “Trước Đại hội 7, Nguyễn Khắc Viện đã gửi thư lên Trung ương, phân tích, khi tư bản hoang dã đầu tư ồ ạt vào nước ta thì chúng sẽ phá hoại môi trường, “nỗi thống khổ và thời gian không cho phép chúng ta trù trừ thỏa thuận được. Đảng nên tự giải tán, giao chức năng quản lý cho nhà nước làm chủ tập thể cho nhân dân”. Đảng sẽ trở thành Đảng đối lập với chính quyền (đã làm ăn với tư bản), đấu tranh để bảo vệ môi trường cho đất nước. Như thế Đảng sẽ sống mãi trong lòng dân tộc.

Những gì Đảng đã làm được trước đó cho dân tộc sẽ còn mãi mãi…

(Theo Nhà báo Lê Phú Khải)

3) Trích trong tập truyện “Chú khỉ cộc đuôi” – Văn Biển.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 14, 2024 02:36

October 12, 2024

Một lần uống rượu với Kim Dung --- Đào Tuấn Ảnh

 

This image has an empty alt attribute; its file name is image-16.png

Sau 1975, khi sách chưởng Kim Dung ra tới ngoài Bắc, độc giả mới được làm quen với tên tuổi và những tác phẩm từng rất nổi tiếng của ông ở miền Nam nhiều năm trước đó. Viện Văn học có hẳn một kho sách “chưởng” để phục vụ công tác nghiên cứu. Tuy nghiên cứu văn học Nga, song tôi cũng xin được phép vào đọc kho sách này. Lúc đầu chỉ là tò mò. Sau khi đọc xong Thiên long bát bộ của Kim Dung, một thế giới nghệ thuật mới mẻ của văn học Trung Quốc mở ra trước mắt tôi. Thế giới này có một ma lực cuốn hút không ngờ, và không chỉ mình tôi. Nhiều bạn trẻ khi ấy cũng ra vào kho sách này luôn luôn, khi chạm mặt nhau ai cũng có cái nhìn bẽn lẽn, kiểu “thử đọc xem cái văn hóa đồi trụy nó ra sao”. Thì hồi đấy, chúng tôi, những người lính tiên phong của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (ta – Tây – Tàu), làm sao dám ra mặt thích “kẻ địch” – thứ văn chương kiếm hiệp “hạ đẳng” tên “chưởng” này. Phải xem thường, thậm chí là coi khinh nó. Bởi thế đọc, thích, mà không biết chia sẻ cùng ai. Ngoài xã hội hình như độc giả đói sách cũng đã chán thứ văn chương đoan trang với các loại sách giáo huấn dạy dỗ thẳng đuỗn, nhân vật hoặc như thánh, hoặc phản động, chậm tiến… nên họ cũng chuyền tay nhau “lén lút” đọc sách ngoài luồng, trong đó có chưởng Kim Dung. Đối với họ, hóa ra, ngoài thứ văn học khuôn mẫu nêu trên, còn có một loại văn học khác thú vị, hấp dẫn bởi nó rất đời, rất người và được viết bởi những ngòi bút tự do, hiểu biết và tài năng. Đọc một mạch hết những bộ sách cơ bản của Kim Dung: Thiên long bát bộAnh hùng xạ điêuThần điêu đại hiệpỶ Thiên Đồ Long kíTiếu ngạo giang hồLộc Đỉnh ký, tôi ao ước được gặp Kim Dung một lần trong đời, chuyện trò với ông. Và cái ước mơ tưởng chừng không thể nào thực hiện được ấy đã trở thành hiện thực.

Năm 1999, chị Tú Châu, nhà Trung Quốc học rất có uy tín, dịch giả Kim Dung, nhận được giấy mời sang Đài Loan dự hội thảo quốc tế về Kim Dung. Hai cán bộ “trẻ” là tôi và chị Trần Hồng Vân xin bám càng đi cùng chị, tự túc vé máy bay. Đây là một cuộc hội thảo quốc tế lớn có rất nhiều dịch giả, nhà văn, các nhà nghiên cứu từ nhiều nước tới dự. Đến đây mới biết Kim Dung đã trở thành một hiện tượng quốc tế lớn như thế nào. Trước khi gặp Kim Dung tôi luôn hình dung ông qua những nhân vật trong truyện của ông, khi thì Tiêu Phong, khi Trương Vô Kị, khi Đoàn Dự, Lệnh Hồ Xung… Tới lúc đó, ngồi trên Chủ tịch đoàn lại là một ông già nhỏ thó, xanh xao và mệt mỏi (nghe nói nhà văn khi ấy vừa trải qua một cuộc đại phẫu thuật tim). Vậy mà ông già ấy không bỏ một buổi nào trong chương trình hội thảo, kiên trì ngồi nghe. Nhiều báo cáo được trình chiếu rất công phu. Mọi khía cạnh, ngõ ngách của tiểu thuyết Kim Dung được mổ xẻ, khám phá, phân tích kĩ càng và đương nhiên là bằng tiếng Anh và Trung Quôc. Giờ giải lao tôi mon men tính chuyện làm quen với ông, nhưng do bất đồng ngôn ngữ nên đành chỉ dạo xem triển lãm sách Kim Dung, những xếp đặt nghệ thuật hoành tráng, như thật diễn tả lại những cảnh trong truyện của ông, và chơi các game theo tiểu thuyết của ông. Chiều ngày thứ ba, hội thảo kết thúc, Kim Dung lên phát biểu bế mạc. Sau khi cám ơn mọi người, ông nói đại ý: “Ba ngày vừa rồi các vị đã nói rất nhiều về các tác phẩm của tôi, song thú thật là tôi không hiểu các vị nói gì. Truyện của tôi không cao siêu tới thế”. Cả hội trường cười ồ.

Trong bữa tiệc chia tay, ba chị em đang loay hoay tìm chỗ thì Kim Dung bước tới chào chị Tú Châu, nói ông rất thích bản tham luận của chị và có nhã ý mời ba chị em ngồi cùng bàn ăn với mình. Tim tôi thắt lại vì xúc động. Cho tới giờ tôi vẫn còn cảm thấy ân hận vì trong bữa ăn đã bắt chị Tú Châu dịch từ đầu đến cuối cuộc đàm đạo với nhà văn (thì còn ai nữa đâu!). Tất cả những suy nghĩ trước nay về sáng tác của Kim Dung, nay tìm được chính tác giả để chia sẻ, còn gì hạnh phúc cho bằng. Tôi say sưa nói về những giai đoạn sáng tác của nhà văn và kết luận nó tuân theo tiến trình văn học thế giới – đi từ chủ nghĩa lãng mạn, tới chủ nghĩa hiện thực, hiện thực phê phán rồi văn học hiện đại chủ nghĩa, hậu hiện đại. Với Lộc Đỉnh Ký – một tác phẩm hậu hiện đại – cái chu trình ấy trong sáng tác của ông đã kết thúc. Trong mắt ông tôi đọc thấy sự ngạc nhiên, nhưng ông chỉ mỉm cười nhẹ nhàng: “Thú thật là tôi không biết đấy”. Ông hỏi tôi thích nhất nhân vật nào trong toàn bộ sáng tác của ông. Tôi thành thật: Thích rất nhiều, cả phản diện, lẫn chính diện vì cái sự “trong phản có chính, trong chính có phản”, nhưng có lẽ thích nhất là Vi Tiểu Bảo. Ông lại hỏi vì sao tôi thích nhân vật này. Ngần ngừ một chút, tôi mạnh dạn bộc bạch hết “tâm tư”: Là vì, nếu không nhầm, với nhân vật này ông cười nhạo cái “trung tâm Hán luận”, không hiểu sao ấu trĩ thế mà vẫn cứ sống khỏe; và với nhân vật này ông không chỉ giễu nhại mà còn cảnh báo những nước đi theo vết xe của cái thiết chế chính trị – xã hội không mấy văn minh trong truyện. Vẫn sự ngạc nhiên trong ánh mắt dịu dàng của ông, nhưng lần này ông chỉ cười. Tôi nhận thấy chị Tú Châu đã mệt vì phải dịch nãy giờ toàn những vấn đề lí luận (mà cùng với tuổi trẻ là trái tim bồng bột khiến cho cái miệng nói không ngừng), bèn… không dừng lại, mà chuyển sang đề tài khác “nhẹ nhàng” hơn.

Khi tôi hỏi, trong truyện ông tỏ ra vô cùng am hiểu nghệ thuật trà, rượu, hẳn ông là “đệ tử” của hai thứ đó. Ông cười rất hiền, nói cả hai thứ ông đều không nghiện, những điều ông viết trong các truyện phần do đọc sách, phần bịa ra. Võ thuật cũng vậy, ngần ấy môn phái, nào là “hóa công đại pháp”, “hấp tinh đại pháp”; “Lục mạch thần kiếm”, “Càn khôn đại na di”… trùng trùng điệp điệp, tưởng ông phải nắm chúng trong lòng bàn tay và ít nhất cũng phải là người của một môn phái nào đó. Hóa ra ông không biết một môn võ nào, không “phiên chế” ở môn phái nào. Ông bảo, ông cũng có học, có luyện, nhưng không phải võ công, mà là… các huyệt mạch trên cơ thể con người, phần để tự chữa bệnh, phần viết cho đúng, chứ cái “nhất dương chỉ” mà chỉ sai, điểm sai là hỏng bét cả cuốn sách. Tôi hỏi, các môn phái trong truyện của ông có thật không. Ông bảo, có cái thật, cái không, từ cái thật “sáng tác” ra cái không có thật. Ôi, thật là một trí tưởng tượng siêu phàm!

Tôi hỏi, ông chuyên viết truyện kiếm hiệp, có khi nào ông lại cho ra một tiểu thuyết “bình thường”, không đấm đá. Ông bảo, mỗi người một cách viết, tôi muốn truyện của tôi hấp dẫn vì những thứ được nâng tầm văn hóa như rượu, trà, các món ăn ngon độc lạ, các “món võ” cùng cốt truyện li kì mạo hiểm. Khi độc giả đã say mê những thứ đó họ sẽ đón nhận những cái khác nhẹ nhàng, tự nhiên và tự nguyện hơn… những điều chị có nói đôi chút ban nãy ấy. Giờ thì đến lượt tôi ngạc nhiên và trong đầu tôi bỗng nghĩ tới Dostoevski, người biết dùng sự li kì hồi hộp của những chuyện vụ án để “dẫn dụ” bạn đọc. Ôi, những ông già tinh quái!

Kim Dung có lẽ đã bị sự “bồng bột tuổi trẻ” của tôi lôi cuốn, ông ra câu hỏi nhiều hơn, và tôi nhớ nhất ông hỏi tôi thích môn phái nào nhất. Tôi trả lời tắp lự: cái bang và túy quyền! Vì những thứ khác phức tạp quá tôi không hiểu, còn những cái này đơn giản, dễ hiểu hơn, song quan trọng cái món túy quyền nó dạy người ta biết “vô chiêu thắng hữu chiêu” là như thế nào. Sách ông thuộc dạng “vô chiêu”. Lần đầu tiên, trong suốt bữa ăn, Kim Dung bật cười thành tiếng. Ông bảo ông quá ngạc nhiên và hạnh phúc khi ở Việt Nam có nhiều người thích truyện của ông, dịch sách và bàn về truyện của ông say sưa đến thế.

Bữa ăn kết thúc, các món rất ngon trên bàn hầu như còn nguyên. Nhưng tất cả chúng tôi đều mãn nguyện. Qua cách nói chuyện dí dỏm, qua cách ông nâng li mời rượu một cách tao nhã, qua sự thể hiện lòng biết ơn với một nữ dịch giả đến từ một đất nước không mấy được biết đến ở Đài Loan, thấy được rằng con người ông đã thấm nhuần một thứ văn hóa Trung Hoa đích thực.

Sau hội thảo ba chị em còn ở lại thăm thú Đài Loan thêm mấy ngày nữa và những gì nhìn thấy ở cái đất nước nhỏ bé, xinh đẹp và vô cùng cần cù lam làm này thực sự đã gây ấn tượng đối với chúng tôi. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là Kim Dung, một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế giới thế kỉ XX.

Năm nay, nếu còn sống, ông được tròn trăm tuổi, nhưng tháng 10 năm 2018 ông đã vĩnh biệt chúng ta về Cõi ấy. Hẳn nơi đó ông sẽ gặp chị Tú Châu, dịch giả tuyệt vời sáng tác của ông. Cầu cho hương hồn hai người tôi quý trọng được thanh thản.

Tháng 10/2024

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 12, 2024 00:44

September 24, 2024

Phụ nữ, chiến tranh và những bi kịch giới tính trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến

 Bàicủa nhà phê bình Thái Phan VàngAnh –

--

Nguồn

https://vanvn.vn/phu-nu-chien-tranh-va-nhung-bi-kich-gioi-tinh-trong-van-xuoi-viet-nam-thoi-ky-hau-chien/

 

***

Vanvn- “Chiến tranh không được trả giátrong thời chiến. Hóa đơn sẽ đến sau đó” (Benjamin Franklin). Xót xa thay, trong nhiều trườnghợp, phụ nữ là những người phải trả hóa đơn. “Lên án cái phi nhâncủa chiến tranh từ những bi kịch nữ giới, các nhà văn Việt Nam hậuchiến đã tô đậm nỗi đau kéo dài của con người, ngay cả khi chiếntranh đã đi qua.

 Có thểnói, đã có một lịch sử của nhữngliên đới giữa phụ nữ và chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến,một lịch sử không phải của sự kiện, chiến công, của những người anh hùngmà của những đau thương mất mát, thông qua những số phận phụ nữ.

 

---

Chiến tranh thường gắn liền với nam giới, liênquan đến “khí lực nam nhi” và “sự thống trị của nam giới” trên nhiều lĩnh vực,trong đó có “khả năng chiến đấu và thực thi bạo lực” (P. Bourdieu).

 

Phụ nữ hiếm khi là nhân vật trung tâm trongcác tác phẩm viết về chiến tranh, và bi kịch của phụ nữ ít khi được nhìn từ gócđộ giới tính. Vì vậy, tuy văn học đề tài chiến tranh chiếm một vị trí đặc biệttrong nền văn học Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, song phải từ sau năm 1975,bước vào thời kì hậu chiến, văn học đề tài chiến tranh bắt đầu phát triển theomột hướng mới.

 

Mất mát và những bi kịch chiến tranh được chúý hơn. Phụ nữ cùng những sang chấn cả thể xác lẫn tinh thần trở thành đối tượngtrung tâm của nhiều tác phẩm.

 

1. Bi kịch kép của phụ nữ trong và sau chiến tranh

Không phải ngẫu nhiên mà “Chiến tranhkhông có một gương mặt phụ nữ” của Svetlana Alexievich đã đạt giảiNobel năm 2015, dù tác phẩm của bà không phải là văn chương hư cấu. Bởi, khôngcần hư cấu, những chấn thương chiến tranh mà phụ nữ phải chịu đựng có khi cònvượt xa khả năng tưởng tượng của độc giả, của nhà văn.

 

Phải chăng, quá nhiều gương mặt nữ giới vớinhững chấn thương chiến tranh đã khiến mỗi người trong số họ không còn diện mạoriêng, khiến chiến tranh không còn mang “một” khuôn mặt phụ nữ nào cụ thể?

 

Hay phải chăng, bởi những tàn phá của chiếntranh lên thân thể và số phận nữ giới, chiến tranh đã không còn mang tính nữ,đã bào mòn, hủy diệt nữ tính ở những người phụ nữ bị buộc tham dự vào cuộcchiến?

 

Có nhiều cách diễn giải nhan đề tác phẩm củaSvetlana Alexievich. Tuy vậy, bất chấp các cách “đọc sai” của người đọc, một sựthật không thể chối cãi là có quá nhiều bi kịch của phụ nữ trong và sau chiếntranh cần phải được lí giải từ cái nhìn của nữ giới. Và liệu bi kịch mà phụ nữphải chịu đựng bởi chiến tranh có thật sự bình đẳng với nam giới?

 

 Bằngcách khơi sâu các bi kịch giới của phụ nữ trong và sau chiến tranh, văn xuôiViệt Nam thời hậu chiến đã chỉ ra một khuôn mặt của nữ giới của chiến tranh.

 

 

So với nam giới, bi kịch của phụ nữ trong vàsau chiến tranh là bi kịch kép.

 Một mặthọ vừa là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh, một mặt họ vừa chịu đựng nhữngnỗi đau gián tiếp khi những người đàn ông của họ bị chiến tranh hủy diệt và tànphá.

Họ vừa là những người lính phải đối diện vớichết chóc, thương vong và vô vàn những câu chuyện khốc liệt của chiến trường (Họđã trở thành đàn ông như thế – Phạm Ngọc Tiến, Người sót lạicủa rừng cười – Võ Thị Hảo).

Họ vừa là những người đàn bà “vọng phu”, đánhmất tuổi thanh xuân hay mất khả năng làm vợ, làm mẹ (Người đàn bà trên đảo –Hồ Anh Thái, Xưa kia chị đẹp nhất làng – Tạ Duy Anh).

 

Có chấn thương thể xác của những của nhữngngười phụ nữ tật nguyền, mất trinh tiết hay mất đi vẻ đẹp nữ giới bởi chiếntranh (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, Người ở bến sôngChâu – Sương Nguyệt Minh).

 

 Và khóliền sẹo hơn những vết thương trên thân thể là những chấn thương tinh thần gắnvới những cô đơn, mặc cảm, hoảng loạn trong và nhất là sau khiến tranh, khiếnnhững người phụ nữ không bao giờ còn được là mình với những vẹn nguyên của giớitính (Hai người đàn bà xóm Trại – Nguyễn Quang Thiều, Tiếnglục lạc – Nguyễn Quang Lập).

 

Trong văn xuôi hậu chiến Việt Nam, bi kịch nữgiới không chỉ hiện diện trong văn chương của những nhà văn đã từng kinh quachiến trận/có những trải nghiệm về chiến tranh, mà còn xuất hiện đậm đặc ở tácphẩm của những thế hệ nhà văn chỉ biết đến chiến tranh qua những câu chuyện kể.

 

Chấn thương nữ giới cũng không chỉ là “chuyện”được kể từ điểm nhìn nam giới, mà đặc biệt còn được “viết lại” bởi những đồngcảm giới tính đặc biệt của các nhà văn nữ.

 

Có thể nói, đã có một lịch sử chiến tranh vớinhững chấn thương nữ giới qua các tác phẩm của Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, DươngHướng, Tạ Duy Anh, Phạm Ngọc Tiến, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Quang Lập, NguyễnQuang Thiều hay Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà…

 

2. Những chấn thương thể xác và tinh thần của nữ giới

Chiến tranh không quan tâm đến giới tính củađối tượng bị nó hủy diệt. Đau khổ mà chiến tranh gieo rắc cho con người khôngphân biệt chủng tộc, quốc gia, vùng miền, tuổi tác, chức vụ, trình độ… Tuy vậy,từ góc nhìn giới tính, phụ nữ vẫn có những bi kịch, những ám ảnh sâu sắc, đauđớn, khó nguôi ngoai hơn so với nam giới, đối tượng ít nhiều xem chiến tranhnhư một “trò chơi” và dễ bị cuốn vào trò chơi của bạo lực, của thù hận, thắngthua, được mất.

 

Một trong những bi kịch cơ bản của nữ giớitrong những tổn thương thể xác là mất vẻ đẹp thân thể. Bởi lẽ, khả năng hạnhphúc và làm lại cuộc đời với cơ thể tàn tật của phụ nữ thường khó hơn nhiều lầnso với nam giới.

 

Thảo đã đánh mất mối tình thơ mộng của mìnhchỉ vì không thể chịu đựng ánh nhìn tội nghiệp, thương hại của người yêu trướcvẻ già nua, khắc khổ của chị khi ra khỏi chiến tranh (Người sót lại của rừngcười – Võ Thị Hảo).

 

Mây không chỉ mất Thành, mà mất cả một cuộcđời làm vợ, làm mẹ bình thường khi tiếp tục cuộc sống sau chiến tranh với chiếcnạng gỗ (Người ở bến sông Châu -Sương Nguyệt Minh).

 

Mất trinh tiết vì những xâm hại cưỡng bức cũnglà một chấn thương thể xác đớn đau của nữ giới. Đây là lí do khiến nhiều cô gáiđã tự chọn cái chết để bảo vệ thân thể nữ giới, không để chiến tranh làm hoenố, như các đồng đội của Thảo khi dành cho mình viên đạn cuối cùng trong cuộcđối đầu không cân sức với quân địch (Người sót lại của rừng cười – VõThị Hảo).

 

Ở một khía cạnh khác, “trinh trắng” tuyệt đối,hay không được thỏa mãn những khát khao giới tính, cũng là một chấn thương đặcbiệt của nữ giới mà chiến tranh đã tàn nhẫn chụp xuống cuộc đời họ.

 

Thư trong truyện ngắn Trinh nguyên (HànNguyệt) chỉ thực sự làm vợ đúng hai ngày rồi mất chồng mãi mãi. Trớ trêu là haingày được gần chồng ấy chị lại “đến tháng”, để rồi mãi mãi là người vợ trinhtrắng khi người chồng đã không trở về sau chiến tranh.

 

Tổn thương thân thể là bi kịch mà nhiều phụ nữphải gánh chịu bởi chiến tranh. Song chấn thương tinh thần chứ mới là cănnguyên của những đau khổ, tuyệt vọng khôn nguôi ở nữ giới.

 

Đằng sau dáng đi tập tễnh của Mây là mặc cảmtàn phế khiến cô khước từ Quang, người kĩ sư mà năm xưa, ở Trường Sơn, cô đãtừng che chắn và đổi mạng sống cho anh bằng đôi chân tàn tật của mình (Ngườiở bến sông Châu – Sương Nguyệt Minh).

 

May mắn sống sót và lành lặn trở về sau cuộcchiến, song Thảo trong Người sót lại của rừng cười đã không còn có thể sốngthanh thản và hồn nhiên.

 

Cái chết của đồng đội, những kí ức khủng khiếpở rừng cười, căn bệnh hysteria bất chợt bùng phát khiến cô không thể đón nhậntình yêu mang nặng tính trách nhiệm của người tình cũ.

 

Chấn thương không thể chịu đựng nổi với ngườiphụ nữ trong truyện Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiếnlà khi chị nhận ra nhiều người lính trẻ đã chết mà chưa được một lần thật sựtrở thành đàn ông, khi người chị yêu thương cũng đã chết như một chàng traitrinh bạch; và cả chị, khao khát dâng hiến cho người mình yêu thương đã chẳngthể thực hiện khiến những giữ gìn thân thể trở nên vô nghĩa và cay đắng.

 

Với chấn thương ấy, đạn bom, ốm sốt hay nhữngthiếu thốn, đơn độc khi mang thai trong sự dị nghị của đồng đội, sau tất cả, đãkhông còn có thể quật ngã chị. Nỗi đau lên đến cùng cực được biến thành sứcmạnh, đủ để chị bất chấp luận lý thông thường và định kiến của xã hội để giúpnhững chàng lính trẻ trở thành đàn ông trước khi họ đi vào cõi chết.

 

 

Không gây ra những chấn động dữ dội song chờđợi, cô đơn cũng là những chấn thương bào mòn tâm hồn, thể xác nữ giới.

 

Chị Túc trong Xưa kia chị đẹp nhấtlàng đã dành cả tuổi xuân chỉ để đợi chờ. Nhà văn Tạ Duy Anh tô đậmnỗi đợi chờ lê thê của chị Túc bằng cách tạo các dấu mốc thời gian theo chiềutăng tiến:

“Chiến tranh thò bàn tay vào lôi tuột đi cácchàng trai mới chớm tuổi mười tám… Chị Túc sang tuổi hai mươi rồi hai lăm lúcnào chị không nhớ”;

“Chị Túc bước sang tuổi ba lăm đúng vào nămhàng triệu người cười, khóc vì mừng tủi. Cùng với niềm vui chiến thắng nhữnggiọt nước mắt của chị Túc lẫn cả vào nỗi tủi hờn của tuổi ba lăm!”…

 

 Chị cứchờ, chờ mãi. Rồi chị cũng có con, con của một người thương binh khác, ngườicũng nhanh chóng ra đi vì những vết thương chiến tranh, khiến chị tiếp tục sốngmột cuộc đời câm lặng với biệt danh mới: “chị Túc chửa hoang”, và những vếtthương không nguôi ngoai. Chẳng ai nhớ đến việc “xưa kia chị đẹp nhất làng”.

 

Diễn ngôn nữ giới và gương mặt phụ nữ của chiến tranh

Xoáy sâu vào những bi kịch nữ giới, miêu tảchiến tranh từ điểm nhìn và xúc cảm của phụ nữ, văn xuôi thời kì hậu chiến đãđem lại một diện mạo mới cho văn học đề tài chiến tranh ở Việt Nam. Đáng chú ýlà từ sớm, các nhà văn nam, chứ không phải là các nhà văn nữ, đã đề cập vấn đềquyền làm mẹ của phụ nữ, thân phận những người vợ lính.

 

Với Người đàn bà trên đảo, Hồ AnhThái đã kể về về số phận của ba mươi tám phụ nữ tuổi từ hăm mốt đến bốn mươitư, vốn là những cựu chiến binh được gửi đến làm việc trên một hòn đảo vắng,không dân cư, với chỉ hai người đàn ông hầu như đã tiêu tan hết khí lực namgiới.

 

Thấu hiểu với những người phụ nữ đã chịu nhiềuthiệt thòi bởi chiến tranh, Hồ Anh Thái đã để họ được tự do tìm kiếm hạnh phúcvà thỏa mãn bản năng nữ giới, bản năng làm mẹ khi đề cập chuyện nhiều người phụnữ tự tìm đến bất cứ người đàn ông nào có thể gặp để “kiếm con” hay vượt rừngđể đến với người tình mà nhiều khi phải trả giá bằng cái chết.

 

Chiến tranh đã cướp mất từ những người phụ nữnày tình yêu, thanh xuân, khả năng làm vợ. Nhưng họ đã không để quá khứ vànhững nhọc nhằn hiện tại cướp nốt quyền làm mẹ của mình.

Từ điểm nhìn “nữ tính”, Nguyễn Quang Thiềucũng đã lột tả đến tận cùng nỗi đau đàn bà khi khát khao làm mẹ chỉ là một ảovọng, một giấc mơ.

 

Giấc mơ lặp lại hằng đêm của Mật và Ân cũng cóthể là giấc mơ của rất nhiều người đàn bà làm vợ lính: “Mấy hôm trước em cũngnằm mơ. Em thấy anh ấy về và (…) em có mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng cứ thấy khangkhác (…) Giá có đứa con thì họ đi đến bao giờ cũng được’’.

 

 Giấc mơlặp lại hằng đêm và tuổi xuân của họ cũng nhạt phai dần.

“Trong mơ có tiếng gà gáy và tiếng gõ cửa gấpgáp, có ngan ngát mùi lá dong xanh và hương ấm đậm của gạo nếp đã vo sạch”;

 

 “Trongmơ chị vẫn thấy người lính trở về. Và tỉnh giấc vẫn rụt rè đặt tay lên bụngmình và thấy khang khác” (Hai người đànbà xóm Trại).

 

 Dườngnhư, đã có một chiến tranh khác được đan dệt bằng những chấn thương của nữgiới, một chiến tranh mang khuôn mặt phụ nữ trong văn xuôi hậu chiến.

Bằng những thấu hiểu sâu sắc, nhiều nhà văn đãdựng lên một diện mạo khác của chiến tranh từ những chấn thương nữ giới.

 

Tuy vậy, nói bằng tiếng nói của nữ giới, cáccây bút nữ vẫn tỏ ra có nhiều ưu thế trong việc dựng lại một lịch sử chiếntranh gắn với kí ức và cảm xúc của phụ nữ, vẽ nên một diện mạo nữ tính củachiến tranh mà Võ Thị Hảo là một trong những nhà văn tiêu biểu.

 

 Trong Người sót lại của rừng cười,chị đã miêu tả nhiều khoảnh khắc nữ tính mà chiến tranh dẫu có vô cùng khốcliệt vẫn không thể triệt tiêu hết ở những người đàn bà cầm súng.

 

Bốn cô gái trẻ măng có mái tóc chỉ còn là mộtdúm xơ xác ở kho quân nhu đã vô cùng mừng rỡ khi đón Thảo, cô em út của đội cómái tóc óng mượt dài chấm gót.

 

Họ quyết tâm không để rừng cướp mất mái tócấy, để rồi bật khóc khi rừng mạnh hơn, bất chấp đủ loại lá thơm mà họ mang vềcho Thảo gội đầu.

 

Họ si mê chàng người yêu của Thảo, nhưng khôngphải cho họ, mà cho cô, nâng niu tất cả những gì giúp họ biết rằng vẫn có ngườitrong số họ là phụ nữ, là phái đẹp, phái yếu.

 

Giữa bom đạn và cái chết, những bận tâm về máitóc, về tình yêu không phải của mình mới lạ lùng và nữ tính biết bao.

 

Cũng chỉ phụ nữ mới có thể đau đớn đến trầmlặng và già thêm hai mươi tuổi chỉ sau một đêm, không phải vì căn bệnh hysterybộc phát và ngay sau đó đã được chữa trị, mà vì sự xấu hổ đến mức kinh hoàngkhi những khoảnh khắc điên dại, lõa lồ của bản thân đã bị phơi trần trong phútchốc.

 

Tâm lý chưa thấy người nằm dưới mồ thì chưatin rằng chồng đã chết, mặc kệ giấy báo tử với những thông tin rõ ràng, để rồilang thang khắp nơi tìm chồng đến hóa điên của một người vợ lính trong truyệnngắn Trận gió màu xanh rêu cũng thể hiện rất đúng tâm lý vàkiểu tư duy bằng cảm xúc của phụ nữ.

 

 Để chongười đàn bà sống lâu nhất ở lãng Đẽo (còn gọi là làng Góa) thổ lộ về ngày giỗchung của làng, Võ Thị Hảo đã từ những diễn ngôn của nữ giới để ưu tư về nhữngnỗi đau hậu chiến: “Ở đây buồn quá, chúng tao mới nghĩ ra trò giỗ chung. Nhữngmụ chồng chết trận như tao làm gì biết ngày chết mà giỗ… rồi những mụ góa…những con mẹ không chồng… đến ngày giỗ chung cũng cứ khăn trắng, cũng có mâm cỗđội ra giỗ…”.

 

 Giỗchung trở thành một “trò chơi” xoa dịu nỗi đau, một nghi lễ về cái chết để làmđiểm tựa cho cái sống ở một ngôi làng nơi đảo vắng, cùng những người phụ nữ hẩmhiu, bất hạnh.

***

“Chiến tranh không được trả giá trong thờichiến. Hóa đơn sẽ đến sau đó” (Benjamin Franklin). Xót xa thay, trong nhiềutrường hợp, phụ nữ là những người phải trả hóa đơn.

 

 “Lên áncái phi nhân của chiến tranh từ những bi kịch nữ giới, các nhà văn Việt Nam hậuchiến đã tô đậm nỗi đau kéo dài của con người, ngay cả khi chiến tranh đã điqua.

 

Có thể nói, đã có một lịch sử của những liênđới giữa phụ nữ và chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến, một lịchsử không phải của sự kiện, chiến công, của những người anh hùng mà của nhữngđau thương mất mát, thông qua những số phận phụ nữ.

 

Nhận diện từ những chấn thương nữ giới, vănxuôi Việt Nam thời hậu chiến đã góp phần tạo nên một cái nhìn đa chiều, một cáinhìn khác về chiến tranh – một chiến tranh vừa mang gương mặt phụ nữ, gắn vớinhững số phận phụ nữ; và vừa “không có một khuôn mặt phụ nữ” khi quá bạo tànvới phụ nữ.

Theo Tạp chí Nhật Lệ

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 24, 2024 03:15

September 19, 2024

Tự truyện đoạn 2 -- Tôi học tiểu học

 

Tiếp theo Tự truyện đoạn 1, đưa trên blog này ngày 10-6- 2024

Tôi gọi bố tôi là thày và mẹ tôi là u. Về Đại Yên đượcmột năm sau khi u tôi mất thì thày tôi tính chuyện cho tôi đi học và việc đầutiên phải tính là làm cho tôi một giấy khai sinh. Khi đó 1949, tính theo tuổita, tôi vừa 7 tuổi, vậy tức là tôi phải sinh năm 1942. Cả đến ngày sinh của tôi,bố tôi cũng chỉ ang áng là đâu ngày rằm tháng mười một theo cách gọi cũ, tức làngày 15 tháng 11 âm lịch. Hồi trước 4-1975, giới tạm gọi là trí thức thủ đô rấtquen thuộc với việc đoán số tử vi, và tôi cũng được loại thày như thày Hà Ân, XuânThiều chiếu cố một vài lần. Sau khi đưa các anh số liệu tôi chẳng chờ đợi gìnhiều, vậy mà kỳ lạ lá số vẫn khá đúng và tôi cũng dựa theo đó mà sống.

Đại Yên lúc ấy đâu đã có một trường tiểu học khangtrang mà chỉ có một góc đình, ở đó tập họp lẫn lộn học sinh của mấy lớp khácnhau do thầy Vũ Đăng Mão phụ trách. Tôi đã liên tục theo đuổi được 3 năm tiểu họcở nhóm học trò nhốn nháo. Sau này khi gia đình tôi chuyển sang Thụy Khuê thìtôi chính thức được nhận vào lớp nhì của thầy Đỗ Danh Tầm (sau 10-1954 di cưvào Nam), rồi sang lớp nhất tức là lớp cuối cấp của thầy Nguyễn Văn Quỳ (ôngcũng là nhạc sỹ Nguyễn Văn Quỳ, có mặt trong bộ phim Hà Nội đón chào bộ đội vàotiếp quản thủ đô; sau này ông sẽ dạy nhạc cho bọn tôi ở trường Chu Văn An niênhọc 1955-1956).

Quãng đường từ nhà tới trường Đại Yên lúc ấy chỉ độhai trăm mét nhưng đối với tôi là quãng đường thân thuộc nhất trong làng ĐạiYên mà tôi quen từ gốc cây ngọn cỏ, cũng là thuộc từng hàng gạch đã vỡ lủng củnglát trên đường. Đã đơn độc trong gia đình, tôi cũng không tìm thấy ở các bạn bècùng lớp lúc ấy một môi trường đầm ấm, cái còn lại trong tôi chỉ là các bài họcvà mấy trang vở. Có lẽ hoàn cảnh của một cậu bé mất mẹ và hết mực vụng về lúngtúng trong đời khiến cho tôi đã tìm thấy trong việc học một lối thoát một sự khẳngđịnh mình.

Việc đi học giống như một lối thoát, hơn nữa, cả mộtthế giới khác. Ngay trong lớp học chắp vá của trường Đại Yên lúc ấy, tôi đã đượcthầy Vũ Đăng Mão truyền dạy cho một số bài học tiếng Pháp. Manh -tơ- năng giơ-ve da lơ - côn -- Hôm nay tôi đến trường, đó làcâu tiếng nước ngoài đầu tiên mà tôi ghi nhớ và tôi cảm tưởng là hình như sauđó có một cuộc đời khác. Sẽ mãi mãi còn lại trong tôi nỗi ao ước được học thêmngoại ngữ. Tôi chia những người tôi quen ra làm hai loại, một loại thành thạo mộthai ngoại ngữ và một loại chỉ biết tiếng Việt. Và dù ở đâu, trong đời sống hàngngày cũng như trong hoạt động nghề nghiệp, những người biết ngoại ngữ - thườngxuyên đọc sách báo nước ngoài, có thể quan hệ bình thường với người nước ngoài -là một loại người siêu đẳng, hay ít nhất cũng là một loại người có nhiều phầnkhác hẳn với đa số mà tôi vẫn quan hệ.

Một kỉ niệm nhỏ trong thời gian học ở trường Đại Yênlà cái gọi trường tiểu học của tôi lại có giao hảo với một trường công giáo lúcấy đặt ở vị trí của một nhà tu Thiên chúa giáo mà nay là Viện chống lao trungương. Vào một dịp cuối năm, đám học sinh chúng tôi được lùa từ làng Đại Yên lênĐường Thành (tức đường Hoàng Hoa Thám ngày nay) rồi vào họp chung với trườngcông giáo nói trên, nói theo danh từ ngày nay tức là làm lễ bế giảng. Tại buổilễ đó tôi được trao một phần thưởng nho nhỏ là một cuốn từ điển Pháp Việt loạinhỏ. Dù rằng sau này sang học bên Thụy Khuê, tôi không được học tiếp tiếng Pháp,quyển từ điển kia tôi đã để đâu mất và rồi cả đời tôi cũng không bao giờ đượctiếp tục học thứ tiếng cao quý đó nữa. Nhưng quyển từ điển vẫn là một trong nhữngkỉ niệm tuổi thơ hằn lên trong tâm trí.

Ấn tượng về trường tiểu học với tôi rõ rệt nhất sau hainăm 1952 – 1954 tôi học ở trường Thụy Khuê. Cũng như bên Đại Yên, trường lúc ấyđặt tạm ở một ngôi đình cũ, nhưng phân ra đàng hoàng, có đủ thầy cô và học sinhcho các lớp từ lớp năm tới lớp nhất. Tôi có cảm tưởng như mình được tiếp xúc vớimột cái gì chính quy hơn hẳn so với những lớp học nhộm nhoạm bên trường ĐạiYên. Giá kể viết lại lịch sử giáo dục, chắc người ta phải ghi nhận là từ sau1950, ngành giáo dục của Hà Nội “tạm chiếm” nhanh chóng đi vào chuẩn mực.

Thuở ấy học sinh rất thích được đi cắm trại. Vùng đấtước mơ của bọn học sinh ở trường Thụy Khuê lúc ấy là vùng ven Hồ Tây có tên làVõng Thị, Xuân La, Xuân Đỉnh. Từ Thụy Khuê theo xe điện lên Bưởi rồi đi bộ mộtquãng đường dài nữa, bọn học sinh lớp nhất chúng tôi đã từng có dịp lên tậnXuân Đỉnh làm những cuộc gọi là dã ngoại, giống như các đội hướng đạo sinh đượctổ chức chặt chẽ trước 45.

Không rõ do liên hệ thế nào mà trường Thụy Khuê củatôi lại còn có những cuộc thi đấu bóng đá với học sinh Albert Sarraut. Các thầycủa tôi hồi đó kể cũng đã khôn ngoan, không chỉ lấy học sinh mà mượn ngay nhữngthanh niên trong làng khỏe mạnh xung vào đội bóng và đội của chúng tôi thườngxuyên chiến thắng trước đối thủ giàu có hơn mình, sang trọng hơn mình.

Càng về già tôi càng nhớ lại những năm học tiểu học vớiniềm ưu ái đặc biệt. Giáo dục ở nước Việt Nam thời Pháp thuộc là một nền giáo dụcrất nghiêm túc. Nó luôn luôn hướng tới những chuẩn mực đã hình thành trong quákhứ chứ không phải chỉ lo phục vụ xã hội đương thời.

So sánh thời tôi học tiểu học, với các lớp tiểu họcngày nay, tôi thường hay nghĩ đám trẻ bây giờ bị thiệt thòi khá nhiều. Trướckia, cha mẹ có đưa con đi học chỉ là đặc biệt, còn sau đó tự các em lo lấy mọiviệc.

     (Hồi ấy kháphổ biến một bài thơ ở dạng đối đáp:

     Xuân đihọc trong lòng hớn hở,

     Gặp chị Thu đi ở giữa đường,

     Bảo rằng sao quá vội vàng

    trống kia chưa đánh đến trường làm chi).

 Trên con đườngtừ nhà đến trường, các em khám phá ra bao điều kỳ lạ. Còn học sinh ngày nay đếnvới nhà trường với tâm lý của kẻ đua tranh, xét theo chương trình việc học quánặng nề nào thi đua nọ, nào phấn đấu theo tiêu chuẩn kia. Có những trường ngườita lập ra đội cờ đỏ chuyên môn theo dõi xem ai đến muộn đến sớm (cả thầy côcũng bị theo dõi) thì sự hồn hậu đâu còn.

 

Một điều khá phổ biến nữa. Thường các giáo viên tiểu họcdạy dỗ chúng tôi hồi ấy là những người rất yêu nghề và việc làm nghề của họ bêncạnh việc kiếm sống là tự nguyện. Đồng lương của họ hồi ấy khá ổn định (có thểnuôi được cả gia đình hai ba người) khiến họ yên tâm làm nghề suốt đời. Ngàynay thì khác, các giáo viên tiểu học thường chỉ ghé gẩm nghề này vài ba năm hoặcchục năm, rồi lại lo chuyển lên thành giáo viên ở các cấp trên, tôi rất ít khigặp được những thầy giáo cô giáo dạy cấp một mà lại yên tâm với nghề của mình.Theo tôi biết hiện nay nhìn vào các trường tiểu học, người ta thấy rất ít khi bắtgặp được những cô giáo thầy giáo yêu nghề đã rất có kinh nghiệm trong việc đàotạo lớp trẻ.

Một ví dụ khác ở trường tiểu học học sinh học khá nhiềutrường hợp còn nói ngọng. Nhà trường thời nay quy các lỗi này là trách nhiệm củagia đình. Còn trong trường tiểu học ngày xưa, việc chữa nói ngọng cho các em làviệc của thầy cô. Việc một thầy giáo cô giáo sau giờ lên lớp còn yêu cầu các embị thói tật đó ở lại để thầy cô chữa cho bằng được – hành động đó không phải làhiếm.

Hồi ấy con người trưởng thành rất sớm, mặc dù chỉ mớihọc xong tiểu học nhưng họ đã là những người rất chững chạc, sẵn tinh thần côngdân đáng kính trọng.

Xét về nội dung các sách giáo khoa mà học sinh tiểu họcphải sử dụng. Trong phạm vi một lớp học ở ngoại thành Hà Nội tôi nhớ sách đãnêu một đặc điểm của tình hình xã hội là đất nước đang có chiến tranh và chiếntranh có nghĩa là tàn phá những gì êm đẹp.

Một bài thơ tôi được học hồi ấy miêu tả tình trạng chiếntranh là có rất nhiều mất mát.

….

Lũy tre làng răng rắc vặn mình đau

Đàn súc vật lao đầu kêu tuyệt vọng

Ôiquê hương đắm mình trong khói súng

Đếnbao giờ còn sống phút thân yêu

Máitranh nghèo tha thiết biết bao nhiêu

Dòngsông mát yêu kiều bên bờ cỏ

Câu kết của bài

“Ôitha thiết ta thấy màu lửa đỏ -

Thiêutàn trời thương nhớ ôi quê hương

 

Sau năm học 1953 – 1954 khi tôi học ở lớp nhất trườngtiểu học Thụy Khuê với thầy Nguyễn Văn Quỳ, ấn tượng lớn nhất của tôi lại chínhlà cuốn sách giáo khoa mà hồi ấy gọi là Tânquốc văn lớp nhất. Ở đó các bàiviết mà người ngày nay gọi là chính luận các bài của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học,sách này còn gồm mấy loại bài vở rất cơ bản trích ra từ văn học tiền chiến. Tôiđã tìm thấy ở đây loạt bài đáng nhớ sau:

-       Bàivăn tả cảnh chùa Long Giáng trích từ HồnBướm Mơ Tiên, và bài tả một con đường phố huyện trích từ Dọc đường gió bụi, cả hai đều lấy ra từtiểu thuyết của Khái Hưng.

-       Bàiviết về nỗi mơ ước của người nông dân với con trâu trong việc làm ruộng củamình, trích từ tiểu thuyết Con trâu củaTrần Tiêu.

-       Bàithơ Nhớ mẹ của Lưu Trọng Lư (Mỗi lần nắng mới hắt bên song…)

-       Bàithơ Làng chài lưới Lời con đường quê của Tế Hanh.

-       Bàithơ Rằm tháng tám của Anh Thơ

-       Mộtbài thơ tả đêm hè của Bàng Bá Lân (Tiếngvõng trong nhà kẽo kẹt đưa)

Tôi đã nhẩm thuộc những bài thơ lãng mạn ấy, như đãthuộc mấy câu tả chủa Long Giáng của Khái Hưng, in trong Tân quốc văn lớp nhất:

Trong làn không khí yêntĩnh êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹpthiên nhiên. Lá cấy rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảmtheo tiếng gọi của Mâu Ni, muốn theo về nơi hư không tĩnh mịch 

Những bài thơ bài văn ấy thật khác xa với một số bàiviết non nớt và ngớ ngẩn trong các sách giáo khoa bậc tiểu học (trước kia gọilà cấp 1) thời nay.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 19, 2024 18:57

Tự truyện chương2 -- Tôi học tiểu học

 

Tôi gọi bố tôi là thày và mẹ tôi là u. Về Đại Yên đượcmột năm sau khi u tôi mất thì thày tôi tính chuyện cho tôi đi học và việc đầutiên phải tính là làm cho tôi một giấy khai sinh. Khi đó 1949, tính theo tuổita, tôi vừa 7 tuổi, vậy tức là tôi phải sinh năm 1942. Cả đến ngày sinh của tôi,bố tôi cũng chỉ ang áng là đâu ngày rằm tháng mười một theo cách gọi cũ, tức làngày 15 tháng 11 âm lịch. Hồi trước 4-1975, giới tạm gọi là trí thức thủ đô rấtquen thuộc với việc đoán số tử vi, và tôi cũng được loại thày như thày Hà Ân, XuânThiều chiếu cố một vài lần. Sau khi đưa các anh số liệu tôi chẳng chờ đợi gìnhiều, vậy mà kỳ lạ lá số vẫn khá đúng và tôi cũng dựa theo đó mà sống.

Đại Yên lúc ấy đâu đã có một trường tiểu học khangtrang mà chỉ có một góc đình, ở đó tập họp lẫn lộn học sinh của mấy lớp khácnhau do thầy Vũ Đăng Mão phụ trách. Tôi đã liên tục theo đuổi được 3 năm tiểu họcở nhóm học trò nhốn nháo. Sau này khi gia đình tôi chuyển sang Thụy Khuê thìtôi chính thức được nhận vào lớp nhì của thầy Đỗ Danh Tầm (sau 10-1954 di cưvào Nam), rồi sang lớp nhất tức là lớp cuối cấp của thầy Nguyễn Văn Quỳ (ôngcũng là nhạc sỹ Nguyễn Văn Quỳ, có mặt trong bộ phim Hà Nội đón chào bộ đội vàotiếp quản thủ đô; sau này ông sẽ dạy nhạc cho bọn tôi ở trường Chu Văn An niênhọc 1955-1956).

Quãng đường từ nhà tới trường Đại Yên lúc ấy chỉ độhai trăm mét nhưng đối với tôi là quãng đường thân thuộc nhất trong làng ĐạiYên mà tôi quen từ gốc cây ngọn cỏ, cũng là thuộc từng hàng gạch đã vỡ lủng củnglát trên đường. Đã đơn độc trong gia đình, tôi cũng không tìm thấy ở các bạn bècùng lớp lúc ấy một môi trường đầm ấm, cái còn lại trong tôi chỉ là các bài họcvà mấy trang vở. Có lẽ hoàn cảnh của một cậu bé mất mẹ và hết mực vụng về lúngtúng trong đời khiến cho tôi đã tìm thấy trong việc học một lối thoát một sự khẳngđịnh mình.

Việc đi học giống như một lối thoát, hơn nữa, cả mộtthế giới khác. Ngay trong lớp học chắp vá của trường Đại Yên lúc ấy, tôi đã đượcthầy Vũ Đăng Mão truyền dạy cho một số bài học tiếng Pháp. Manh -tơ- năng giơ-ve da lơ - côn -- Hôm nay tôi đến trường, đó làcâu tiếng nước ngoài đầu tiên mà tôi ghi nhớ và tôi cảm tưởng là hình như sauđó có một cuộc đời khác. Sẽ mãi mãi còn lại trong tôi nỗi ao ước được học thêmngoại ngữ. Tôi chia những người tôi quen ra làm hai loại, một loại thành thạo mộthai ngoại ngữ và một loại chỉ biết tiếng Việt. Và dù ở đâu, trong đời sống hàngngày cũng như trong hoạt động nghề nghiệp, những người biết ngoại ngữ - thườngxuyên đọc sách báo nước ngoài, có thể quan hệ bình thường với người nước ngoài -là một loại người siêu đẳng, hay ít nhất cũng là một loại người có nhiều phầnkhác hẳn với đa số mà tôi vẫn quan hệ.

Một kỉ niệm nhỏ trong thời gian học ở trường Đại Yênlà cái gọi trường tiểu học của tôi lại có giao hảo với một trường công giáo lúcấy đặt ở vị trí của một nhà tu Thiên chúa giáo mà nay là Viện chống lao trungương. Vào một dịp cuối năm, đám học sinh chúng tôi được lùa từ làng Đại Yên lênĐường Thành (tức đường Hoàng Hoa Thám ngày nay) rồi vào họp chung với trườngcông giáo nói trên, nói theo danh từ ngày nay tức là làm lễ bế giảng. Tại buổilễ đó tôi được trao một phần thưởng nho nhỏ là một cuốn từ điển Pháp Việt loạinhỏ. Dù rằng sau này sang học bên Thụy Khuê, tôi không được học tiếp tiếng Pháp,quyển từ điển kia tôi đã để đâu mất và rồi cả đời tôi cũng không bao giờ đượctiếp tục học thứ tiếng cao quý đó nữa. Nhưng quyển từ điển vẫn là một trong nhữngkỉ niệm tuổi thơ hằn lên trong tâm trí.

Ấn tượng về trường tiểu học với tôi rõ rệt nhất sau hainăm 1952 – 1954 tôi học ở trường Thụy Khuê. Cũng như bên Đại Yên, trường lúc ấyđặt tạm ở một ngôi đình cũ, nhưng phân ra đàng hoàng, có đủ thầy cô và học sinhcho các lớp từ lớp năm tới lớp nhất. Tôi có cảm tưởng như mình được tiếp xúc vớimột cái gì chính quy hơn hẳn so với những lớp học nhộm nhoạm bên trường ĐạiYên. Giá kể viết lại lịch sử giáo dục, chắc người ta phải ghi nhận là từ sau1950, ngành giáo dục của Hà Nội “tạm chiếm” nhanh chóng đi vào chuẩn mực.

Thuở ấy học sinh rất thích được đi cắm trại. Vùng đấtước mơ của bọn học sinh ở trường Thụy Khuê lúc ấy là vùng ven Hồ Tây có tên làVõng Thị, Xuân La, Xuân Đỉnh. Từ Thụy Khuê theo xe điện lên Bưởi rồi đi bộ mộtquãng đường dài nữa, bọn học sinh lớp nhất chúng tôi đã từng có dịp lên tậnXuân Đỉnh làm những cuộc gọi là dã ngoại, giống như các đội hướng đạo sinh đượctổ chức chặt chẽ trước 45.

Không rõ do liên hệ thế nào mà trường Thụy Khuê củatôi lại còn có những cuộc thi đấu bóng đá với học sinh Albert Sarraut. Các thầycủa tôi hồi đó kể cũng đã khôn ngoan, không chỉ lấy học sinh mà mượn ngay nhữngthanh niên trong làng khỏe mạnh xung vào đội bóng và đội của chúng tôi thườngxuyên chiến thắng trước đối thủ giàu có hơn mình, sang trọng hơn mình.

Càng về già tôi càng nhớ lại những năm học tiểu học vớiniềm ưu ái đặc biệt. Giáo dục ở nước Việt Nam thời Pháp thuộc là một nền giáo dụcrất nghiêm túc. Nó luôn luôn hướng tới những chuẩn mực đã hình thành trong quákhứ chứ không phải chỉ lo phục vụ xã hội đương thời.

So sánh thời tôi học tiểu học, với các lớp tiểu họcngày nay, tôi thường hay nghĩ đám trẻ bây giờ bị thiệt thòi khá nhiều. Trướckia, cha mẹ có đưa con đi học chỉ là đặc biệt, còn sau đó tự các em lo lấy mọiviệc.

     (Hồi ấy kháphổ biến một bài thơ ở dạng đối đáp:

     Xuân đihọc trong lòng hớn hở,

     Gặp chị Thu đi ở giữa đường,

     Bảo rằng sao quá vội vàng

    trống kia chưa đánh đến trường làm chi).

 Trên con đườngtừ nhà đến trường, các em khám phá ra bao điều kỳ lạ. Còn học sinh ngày nay đếnvới nhà trường với tâm lý của kẻ đua tranh, xét theo chương trình việc học quánặng nề nào thi đua nọ, nào phấn đấu theo tiêu chuẩn kia. Có những trường ngườita lập ra đội cờ đỏ chuyên môn theo dõi xem ai đến muộn đến sớm (cả thầy côcũng bị theo dõi) thì sự hồn hậu đâu còn.

 

Một điều khá phổ biến nữa. Thường các giáo viên tiểu họcdạy dỗ chúng tôi hồi ấy là những người rất yêu nghề và việc làm nghề của họ bêncạnh việc kiếm sống là tự nguyện. Đồng lương của họ hồi ấy khá ổn định (có thểnuôi được cả gia đình hai ba người) khiến họ yên tâm làm nghề suốt đời. Ngàynay thì khác, các giáo viên tiểu học thường chỉ ghé gẩm nghề này vài ba năm hoặcchục năm, rồi lại lo chuyển lên thành giáo viên ở các cấp trên, tôi rất ít khigặp được những thầy giáo cô giáo dạy cấp một mà lại yên tâm với nghề của mình.Theo tôi biết hiện nay nhìn vào các trường tiểu học, người ta thấy rất ít khi bắtgặp được những cô giáo thầy giáo yêu nghề đã rất có kinh nghiệm trong việc đàotạo lớp trẻ.

Một ví dụ khác ở trường tiểu học học sinh học khá nhiềutrường hợp còn nói ngọng. Nhà trường thời nay quy các lỗi này là trách nhiệm củagia đình. Còn trong trường tiểu học ngày xưa, việc chữa nói ngọng cho các em làviệc của thầy cô. Việc một thầy giáo cô giáo sau giờ lên lớp còn yêu cầu các embị thói tật đó ở lại để thầy cô chữa cho bằng được – hành động đó không phải làhiếm.

Hồi ấy con người trưởng thành rất sớm, mặc dù chỉ mớihọc xong tiểu học nhưng họ đã là những người rất chững chạc, sẵn tinh thần côngdân đáng kính trọng.

Xét về nội dung các sách giáo khoa mà học sinh tiểu họcphải sử dụng. Trong phạm vi một lớp học ở ngoại thành Hà Nội tôi nhớ sách đãnêu một đặc điểm của tình hình xã hội là đất nước đang có chiến tranh và chiếntranh có nghĩa là tàn phá những gì êm đẹp.

Một bài thơ tôi được học hồi ấy miêu tả tình trạng chiếntranh là có rất nhiều mất mát.

….

Lũy tre làng răng rắc vặn mình đau

Đàn súc vật lao đầu kêu tuyệt vọng

Ôiquê hương đắm mình trong khói súng

Đếnbao giờ còn sống phút thân yêu

Máitranh nghèo tha thiết biết bao nhiêu

Dòngsông mát yêu kiều bên bờ cỏ

Câu kết của bài

“Ôitha thiết ta thấy màu lửa đỏ -

Thiêutàn trời thương nhớ ôi quê hương

 

Sau năm học 1953 – 1954 khi tôi học ở lớp nhất trườngtiểu học Thụy Khuê với thầy Nguyễn Văn Quỳ, ấn tượng lớn nhất của tôi lại chínhlà cuốn sách giáo khoa mà hồi ấy gọi là Tânquốc văn lớp nhất. Ở đó các bàiviết mà người ngày nay gọi là chính luận các bài của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học,sách này còn gồm mấy loại bài vở rất cơ bản trích ra từ văn học tiền chiến. Tôiđã tìm thấy ở đây loạt bài đáng nhớ sau:

-       Bàivăn tả cảnh chùa Long Giáng trích từ HồnBướm Mơ Tiên, và bài tả một con đường phố huyện trích từ Dọc đường gió bụi, cả hai đều lấy ra từtiểu thuyết của Khái Hưng.

-       Bàiviết về nỗi mơ ước của người nông dân với con trâu trong việc làm ruộng củamình, trích từ tiểu thuyết Con trâu củaTrần Tiêu.

-       Bàithơ Nhớ mẹ của Lưu Trọng Lư (Mỗi lần nắng mới hắt bên song…)

-       Bàithơ Làng chài lưới Lời con đường quê của Tế Hanh.

-       Bàithơ Rằm tháng tám của Anh Thơ

-       Mộtbài thơ tả đêm hè của Bàng Bá Lân (Tiếngvõng trong nhà kẽo kẹt đưa)

Tôi đã nhẩm thuộc những bài thơ lãng mạn ấy, như đãthuộc mấy câu tả chủa Long Giáng của Khái Hưng, in trong Tân quốc văn lớp nhất:

Trong làn không khí yêntĩnh êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹpthiên nhiên. Lá cấy rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảmtheo tiếng gọi của Mâu Ni, muốn theo về nơi hư không tĩnh mịch 

Những bài thơ bài văn ấy thật khác xa với một số bàiviết non nớt và ngớ ngẩn trong các sách giáo khoa bậc tiểu học (trước kia gọilà cấp 1) thời nay.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 19, 2024 18:57

August 18, 2024

Nhà thơ Lưu Trọng Lư với tình yêu và mộng đẹp --bài của Hà Minh Đức -

 

Nguồn

https://vnexpress.net/nha-tho-luu-tro...

 

**********

Lưu Trọng Lư là kiện tướng trongphong trào thơ mới. Người ta gọi ông là nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, viết văn,viết kịch. Còn nữa, phải nói ông là người có phong cách nghệ thuật đa dạng, mộtngười đa tình, đa duyên nợ với đời và văn nghiệp.

Tôi nhớ lần gặp Lưu Trọng Lư năm ông78 tuổi, khi vừa cho xuất bản tập hồi ký Nửa đêm sực tỉnh. Trong câuchuyện khi nói về Thơ mới, Lưu Trọng Lư như khởi sắc và nói to: "Phongtrào Thơ mới mở đầu là tôi chứ không phải Phan Khôi. Thực ra phải xét cái mớicủa tình cảm và điệu thức thơ. Lúc này cũng nhiều người viết thơ theo dạng từkhúc. Tôi làm Thơ mới từ năm 1931. Tôi và Nguyễn Thị Manh Manh là hai người chủchốt. Bà ở Paris về và tham gia vào cuộc tranh luận bảo vệ cho thơ mới. Tôiđăng một số thơ ở Phụ nữ tân văn. Khi ra Hà Nội gặp Nguyễn Tường Tam,Tam mời tôi đến tòa báo ở đường D"ordéans (số 1 Lý Nam Đế ngày nay). Tambảo: "Mấy bài thơ của ông đăng trên Phụ nữ tân văn tôi thích, đấymới là thơ, là thơ mới".

 

Hoài Thanh trong Thi nhân ViệtNam nhận xét: "Tình già, Trên đường đờiVắng kháchthơ là ba bài mang tên Thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài thìbài thứ ba đã là một bài có giá trị".

 

Hoài Thanh chú thích đó là bài Xuânvề. Xuân về là bài thơ của Lưu Trọng Lư. Nhiệt tình đấu tranh choThơ mới bằng lý thuyết, tranh luận, diễn thuyết, sáng tác. Lực lượng phản cônglại của thơ cũ cũng mạnh mẽ, kể cả những người có thanh thế như Huỳnh ThúcKháng, Tản Đà...

Nhà phê bình Hoài Thanh tâm sự:"Hồi năm 1937, vì vô ý dự vào một cuộc bàn cãi về văn chương, tôi đã bịmột ông tiến sĩ nói thẳng vào mặt: "Khoa học xin nhường các người, nhưngthơ văn các người phải để cho chúng tôi", chính ông nghè ấy đã có lần lênán chém Lưu Trọng Lư. Cũng may, ông nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưuvẫn làm thơ mới như thường".

...Tự lực văn đoàn dần làm chủ vănđàn. Lưu Trọng Lư đánh giá đúng mức những đóng góp của văn đoàn. Lưu Trọng Lưcũng viết văn xuôi với những trang văn đẹp, nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, ông cũngrất khiêm tốn: "Tôi thích một số tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như Đôibạn, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân hơn là những cuốn tiểuthuyết của tôi. Tâm trạng của tôi có lúc rất chán nản trong tiểu thuyết, thơlại cứu tôi".

[image error]

Nhà thơ Lưu Trọng Lư.

Quả là Lưu Trọng Lư nổi bật lên ởthời kỳ đầu và chỉ một tập Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã ghi lại dấu ấnkhông phai mờ trong phong trào Thơ mới. Bài thơ Tiếng thu là những tiếngthơ của sự lắng nghe "Em không nghe mùa thu" và trong âm thanh làtiếng thầm, là những rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ?Vẫn là câu hỏi từ sự lắng nghe để mở ra những hình ảnh đẹp đến nao lòng của mùathu qua bước nhỏ của con nai vàng trên lá vàng khô.

 

Thơ tình của Lưu Trọng Lư có nhiềudư vị của đời thi nhân. Niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước và sự thất vọng đềunhư chất chứa từ bên trong và trôi chảy theo dòng thời gian, theo năm tháng,bốn mùa. Một mùa đông bên nhau đã đi qua "Qua rồi mùa ân ái - Đàn sếu đãsang sông".

 

Mùa xuân về lại cảm nhận "Rồingày lại ngày. Sắc màu phai. Lá cành rụng. Ba gian trống. Xuân đi. Chàng cũngđi". Cũng vì thế mà thơ Lưu Trọng Lư đượm buồn, buồn vì sự trôi chảy, vìsự tiếc nuối. Gặp nhà thơ ngoài đời cũng như trong thơ, luôn thể hiện sự nuốitiếc:

Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái.

Và cuối đời khi mái tóc đã điểm bạc,ông cầu viện đến "em thời gian" và mong được sự thông cảm. Tuổi càngcao Lưu Trọng Lư càng thấy cái đẹp của đời, lại càng tiếc nuối như đi ngược vớidòng thời gian. Trong văn chương và đặc biệt là thi ca, Lưu Trọng Lư có nhiềuduyên nợ với người con gái.

Ông từng tâm sự: "Trong nhữngtác phẩm của tôi, tôi chỉ có một sự cộng tác rất tầm thường, rất dung dị, rấtlương thiện... ấy là sự cộng tác của những người đàn bà. Đôi mắt họ vẫn trongtrẻo hiền lành như một bến thu. Tiếng nói của họ vẫn là nhạc điệu của nhữngnhạc điệu. Những con vật xinh xinh ấy biết tỉa lông mày, đánh móng tay nhưngcũng biết nuôi tằm quay tơ và dệt những tấm áo cho thể chất và cho linh hồn củanhân loại".

 

Trong tập Tiếng thu nổi lênvẫn là hình ảnh và tiếng lòng của người con gái đang yêu thương, chờ đợi, nhớmong.

 

Ngoài hình ảnh người mẹ kính yêu lànhững cô gái đang ở tuổi yêu đương dệt mộng tình trong đời và trong thơ. LưuTrọng Lư hay nhắc đến những người con gái trong mộng, trong khung cửi, bênguồng sợi xe, cô em nhí nhảnh bên giậu mồng tơi, rồi cô gái giang hồ... Và saucách mạng cũng vẫn là hình ảnh những người con gái trong cuộc đời mới, gánh vácviệc chung không kém sức trai như cô gái ở hậu phương bên Ngò cải đơm hoa,O tiếp tế, rồi Người con gái sông Gianh, Em thời gian. Họrất khác nhau nhưng có một điểm chung là giàu nữ tính và tình cảm yêu thích cáiđẹp.

 

 

... Tôi còn nhớ sau khi đất nướcthống nhất, Bắc Nam sum họp, Lưu Trọng Lư đón nhà thơ Hoàng Trọng Miên, bạn thơcũ đến thăm. Ông nói với chị Lê Minh mời tôi đến chơi và nghe ông đọc thơ vừasáng tác. Tôi nhớ buổi gặp chỉ có ba người và khoảng một tiếng sau có thêm nhàsử học Lê Văn Lan. Lưu Trọng Lư nói: "Tôi muốn viết về người phụ nữ ViệtNam trong chiến tranh như kiểu khúc ngâm chinh phụ. Người phụ nữ không chỉ buồnvà thụ động như cô chinh phụ xưa mà năng động, hiện đại nhưng vẫn nặng tâm tưđợi chờ trong xa cách".

Trăng xoan - cái tên đó được ông tâm đắc. Tôi nhớ ông say sưa đọc thơcòn mọi người vừa nghe vừa uống rượu và nhấm nháp món thịt gà xé trộn với dưachuột và hành tây, tác phẩm của chị Lê Minh. Anh Lư say mê nói, thỉnh thoảnglại ngâm và quên cả chuyện ăn. Cầm đũa lệch, nâng bát lên lại hạ xuống, vớianh, thơ là linh hồn của cuộc gặp gỡ. Thỉnh thoảng anh lại hỏi từng người: Ýanh Lan thế nào, ý anh Đức thế nào?

Thơ Lưu Trọng Lư như ru trong mộngvà mộng chính là một phẩm chất của thơ, nhất là thơ xưa. Lê Tràng Kiều nhậnxét: "Thi sĩ bao giờ cũng như sống trong một thế giới mông lung huyềnảo... Thi sĩ là một luồng khói lam ẻo lả giữa cảnh chiều thu". Nhà thơHoàng Trung Thông cũng viết: "Những bài thơ của anh không sầu thì mộng,không mộng thì say và đã say thì Giang hồ cõi ấy trọn đời phiêu linh".Trần Thanh Mại cũng gọi Lưu Trọng Lư là thi sĩ giang hồ. Sự phiêu bạt trongnhững cảnh đời xa lạ trong thiên nhiên đẹp đã tạo cho thơ của Lưu Trọng Lư chấtphiêu lãng và thơ mộng. Nói như tác giả "Mộng và đời là hai sợi chỉ ngangdọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời".

Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên nhữngđổi thay cơ bản. Lưu Trọng Lư đã từ mộng ảo trở về với cuộc đời thực rất đẹp,hào hùng. Cuộc đời mới, mùa thu lớn của cách mạng đã lôi cuốn ông, nhất là thờikỳ ở chiến khu Thừa Thiên vào năm 1948.

Lưu Trọng Lư tâm sự: "Tôi đãbắt đầu làm nhiều thơ. Thơ tôi phần lớn là những bài thiết thực và kịp thờinhưng rất thật, rất sống. O tiếp tế chẳng hạn". Khi viết Ngò cảiđơm hoa, Lưu Trọng Lư đã nói về tâm trạng đẹp của người con gái hậu phươngchăm lo sản xuất và chờ đợi người thân chiến đấu trở về "chờ chi anh vềđây giữa đoàn quân chiến thắng".

Trong những năm kháng chiến chốngPháp, Lưu Trọng Lư có những đổi thay cơ bản, lăn vào công việc say sưa, năngnổ. Thật khó nhận ra một Lưu Trọng Lư mơ mộng thuở nào. Lưu Trọng Lư cũng tựnhận điều đó: "Nhìn lại những năm kháng chiến Nguyễn Tuân thường gọi đùatôi là thằng hùng hục và tôi gọi trêu Nguyễn Tuân là thằng ngất ngưởng. Có lẽNguyễn Tuân gọi tôi như vậy cũng đúng. Khi đã giác ngộ mình đi vào cuộc chiếnđấu không chỉ bằng tấm lòng mà còn bằng những hành động cụ thể, bằng bất cứcông việc gì miễn được góp phần vào thắng lợi của dân tộc

 (báo Công an nhân dân)

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2024 03:24

July 20, 2024

Văn hóa của người Việt đã suy thoái đến mức nào? bài của họa sĩ Lê Thiết Cương

 Nguồn

http://redsvn.net/van-hoa-cua-nguoi-v...


 Sự chênh lệch của khoảng cáchgiàu nghèo thì ai cũng nhìn thấy nhưng sự chênh lệch giữa tiền bạc và văn hóathì ít người biết đến.

 ------------

Giả sử vào một buổitối của năm 1986, có một cô gái ở ngoại ô Hà Nội, sau khi đi chơi về, đi ngủ vàgiấc ngủ của cô ấy liền một mạch giờ mới tỉnh dậy…

Sáng nay, cô gái đivào thành phố thì chắc chắn cô sẽ bị lạc. Đương nhiên, vì cảnh xưa người cũ đâucòn như trước.

Quá nhiều đường sámới, phố phường mới, nhiều cầu to cầu bé, nhiều khu đô thị tên nước ngoài,nhiều chung cư lênh khênh. Đã vậy lại còn bị hoa mắt vì quá nhiều xe cộ, chảthiếu thương hiệu gì Âu, Mỹ, Nhật xe nào cũng đẹp, cũng bóng nhoáng.

Quá nhiều quần áo,váy xanh đỏ hàng hiệu nõn nà, thơm phức. Quá nhiều biển quảng cáo ngang dọc,quá nhiều đèn đóm lập lòe nhấp nháy, giăng mắc khắp phố phường. Quá nhiều đìnhchùa, mới toe, rối rắm cầu kỳ và những pho tượng tạc đẽo bôi chát bằng sơn côngnghiệp kệch cỡm, dị hợm, lòe loẹt.

Thế thì làm gì côgái ấy chả lạc. Tuy nhiên lạc đường thì chả sợ, cô ấy sẽ dừng lại hỏi đường, sẽvẫn đi đến nơi về đến chốn nhưng lạc lõng thì chịu chết, chả ai giúp cô ấy đượcđâu. Con tàu tốc hành của đời sống hôm nay không còn chỗ cho những người vẫngiữ nếp sống cũ. Hành khách của chuyến tàu hôm nay phần đông là những người“nhanh nhẹn”, “năng động”, quyết liệt, thực tế, toan tính… họ có cùng chí hướnglao đến cái ga vật chất, bất chất một đời sống tinh thần ngày càng nghèo nàn.

Lật lại xấp ảnh cũ,chân dung người Việt cách đây mấy chục năm khác xa bây giờ, họ lành hiền, chấtphác, họ cũng nhanh nhẹn cũng quyết liệt chứ, nếu không thì họ đi qua hai cuộcchiến để đến ngày thống nhất sao được. Những người Việt hôm nay cũng là ngườiViệt, họ chính là con cháu của người Việt mấy chục năm trước nhưng tôi thấy họhình như không còn là người Việt nữa.

Người Việt hôm naydữ tợn quá, bạn có đi đường trường mới cảm nhận rõ: mạnh ai nấy đi, ai cũngmạnh, cũng khỏe, cũng hừng hực, lạng lách đánh võng, vượt ẩu, đua chen bằng mọicách, bất chấp tính mạng của mình và người khác, coi thường luật lệ giao thông.Số lượng người chết vì tai nạn giao thông ngày càng tăng, hễ va chạm xe cộ thìsẵn sàng ẩu đả. Vô số vụ đánh nhau, chửi nhau, đâm chém chỉ vì những nguyênnhân rất bình thường, chỉ vì một câu nói, một ánh nhìn… Một bộ phận không nhỏngười Việt hôm nay coi đánh đấm là phương cách duy nhất để “nói chuyện phảitrái” thì phải?

Nguyên nhân sâu xacủa mọi câu chuyện trên là ở văn hóa. So với thời điểm cách đây vài thập kỷ thìvăn hóa nền của người Việt hôm nay đã tụt xuống một bước.

Đổi mới và pháttriển kinh tế là hoàn toàn đúng nhưng giá như nên chú trọng phát triển songsong cả văn hóa và kinh tế. Thậm chí phát triển văn hóa trước đã rồi hãy pháttriển kinh tế, văn hóa phải đi trước thì đó mới là phát triển đúng nghĩa, đómới là phát triển bền vững. Chính vì không coi trọng văn hóa nên cái lối sốngchạy đua theo vật chất, coi vật chất là giá trị sống, là giá trị duy nhất đangngày càng phổ biến, lấn át và thắng thế.

Tinh thần trọc phúđang áp đảo và ngự trị ở mọi ngóc ngách đời sống từ trên xuống dưới, từ thànhthị đến nông thôn. Sự nguy hiểm là nông thôn, làng xã nơi sinh ra, nơi lưu giữ,bảo tồn những giá trị căn cốt của tinh thần Việt, văn hóa truyền thống Việt(cái lũy tre văn hóa của làng) tưởng như không bao giờ bị vỡ bởi vì đã được thửthách qua bao thăng trầm của lịch sử nay bắt đầu vỡ nát. Tại sao hơn 2.500 nămkhông vỡ, không mất, nay phát triển có mấy chục năm đã vỡ?

Văn hóa vừa trừutượng vừa cụ thể, nó ẩn hiện, nó có có không không mà bao trùm lên toàn bộ đờisống, chi phối mọi mặt của đời sống, đời sống mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũngnhư toàn xã hội. Tất cả những nhếch nhác hôm nay đều có nguyên nhân từ sự xuốngcấp văn hóa. Lạ là ở chỗ thời chiến tranh gian khổ, thời hậu chiến đói nghèovăn hóa nền của xã hội lại cao hơn bây giờ, khi mà cuộc sống đã no đủ hơn, bátcơm đầy hơn, miếng thịt to hơn, quần áo lành lặn hơn, nhà cửa xe cộ bóng nhoánghơn. Tiếc là chỉ có mấy chục năm mà văn hóa lại xuống cấp nhanh như thế.

Nếu muốn đắp lại đểcái nền (văn hóa) bằng với cái nền cũ thì không thể mấy chục năm là xong bởi vìphá thì dễ thì nhanh, xây thì khó và tốn thời gian hơn nhiều. Chưa kể chả nhẽchỉ nỗ lực để bằng cái cũ. Thế mới thấy cái giá để có được thành tựu kinh tếhôm nay là quá đắt. Thậm chí không bõ, thêm được tí GDP, tí tiền mà mất văn hóanhư vậy thì đúng là được không bõ với mất.

Vẫn biết rằng pháttriển kinh tế thì nhanh và dễ hơn phát triển văn hóa nhưng chẳng nhẽ người tacứ mải làm giàu mà không cần xây dựng cho mình những kiến thức tối thiểu về vănhoá nghệ thuật, hình như họ không có nhu cầu tự nâng mình lên.

Sự chênh lệch củakhoảng cách giàu nghèo thì ai cũng nhìn thấy nhưng sự chênh lệch giữa tiền bạcvà văn hóa thì ít người biết đến.

Giảm bớt điều nàychắc chắn cũng là một yếu tố tạo ra sự ổn định xã hội. Chả lẽ người ta cứ làmgiàu, cứ giàu, cứ sôi sục chạy theo vật chất, cứ sống mà không cần quan tâm đếnchất lượng sống. Sống không chỉ là chuyện thọ yểu và có bao nhiều tiền mà làsống thế nào.

Con người luôn có 2phần hồn và xác, thân và tâm, thân thể và tâm hồn. Thân thể cần được nuôi dưỡngngày 3 bữa cơm, mệt mỏi ốm đau thì thuốc men, đói ăn khát uống. Tâm hồn cũngvậy, cũng cần nuôi dưỡng, tâm hồn cũng đói khát nhưng chỉ khác với thân thể ởchỗ tâm hồn cần thức ăn tinh thần chứ không thể mổ tim, cắt não ra rồi đổ bátphở tái nạm gầu gân 2 trứng hoặc cao lương mỹ vị vào để cho tâm hồn no nê được.

Để làm đẹp, làm giàucó tâm hồn thì phải đọc sách, xem tranh, nghe nhạc, kho tàng cổ nhạc của dântộc cũng như thế giới. Phải có niềm vui khi đi thư viện, khi tới bảo tàng. Phấnđấu để có một đời sống tinh thần vương giả mới khó chứ còn chỉ lao theo vậtchất, hùng hục kiếm tiền, coi tiền là lẽ sống, tôn thờ chủ nghĩa vật chất, luôndán đồng tiền lên đỉnh đầu thì thật tội nghiệp. Hình như những người có tiền ởViệt Nam không hề có nhu cầu tự học hỏi để nâng tầm văn hóa của mình lên thìphải. Mà xin lỗi khi họ tự học hỏi để nâng văn hóa của họ lên, họ có một đờisống tinh thần đẹp hơn lên thì ấm vào thân họ trước.

Nhìn những người cótiền ở Việt Nam thật đáng thương, cũng uống rượu nhiều tuổi, cũng phì phèoxì gà, xe hơi đời mới, nhà cao to lênh khênh kiểu cách kiến trúc lẩu thập cẩm,5 cha 3 mẹ tí Pháp tân cổ điển lai tí Ý, tí Ả Rập… thế mà chơi toàn gỗ lũa, sưtử đá theo mẫu Lion King, đồ gốm Tầu rởm, nghe nhạc sến, treo tranh chép tranhnhái hoặc tranh đá quý (thực ra là đá rải đường nhuộm phẩm màu).

Còn một số nhữngngười rất rất nhiều tiền, những chủ doanh nghiệp to thì sao? Thử hỏi những ôngbà chủ buôn đất, chủ resort hotel, chủ gỗ, chủ gạch, chủ sữa, chủ nhà băng ấymấy đời nữa mới biết chia sẻ cho xã hội thông qua sưu tầm các tác phẩm nghệthuật, tài trợ in sách kinh điển, tài trợ cho những tài năng âm nhạc, cácchương trình âm nhạc, sân khấu thể nghiệm, xây dựng bảo tàng…

Bảo tàng là nơi tốtnhất để mọi người có thể đến để học hỏi, tự trang bị cho mình những kiến thứcphổ thông nhưng giả sử bạn có mặt ở các bảo tàng, Bảo tàng Lịch Sử, Bảo tàng Mỹthuật, Bảo tàng Dân tộc học trong một ngày thì thử hỏi có mấy lần bạn gặp cácnghệ sỹ, các ngôi sao, các thương gia, các chính khách ở đó. Huống hồ là ngườilao động bình thường. Các bảo tàng ở Việt Nam vẫn chỉ là điểm cho khách du lịchnước ngoài.

Tại sao lại chỉ đặtra chỉ số tăng trưởng về kinh tế mà không có chỉ số tương tự về văn hóa. Một sốhội thảo quốc tế gần đây có đề cập đến chỉ số Hạnh phúc quốc gia– GrossNational Happiness (GNH) trong đó giá trị văn hóa là một yếu tố.

Văn hóa không chỉlà phương tiện để phát triển kinh tế bền vững mà suy cho đến cùng thì nó là mụcđích của phát triển kinh tế. Từ một cá nhân, một gia đình, một doanh nghiệp chođến một quốc gia cũng vậy. Người ta lao động vất vả, kiếm tiền, giàu hơn vàcuối cùng là để đạt được, phải đạt được một đời sống tinh thần giàu có hơn,vương giả hơn, một mặt bằng văn hoá cao hơn, một cuộc sống chất lượng hơn vàđẹp hơn.

Sau đổi mới, kinhtế đất nước đã phát triển lên một bậc nhưng để văn hoá phát triển lên dù nửabậc thì có lẽ gấp đôi, gấp ba khoảng thời gian đó cũng chưa chắc đã đủ nhưngdẫu sao thì cũng phải bắt đầu.

Ấy là chưa kể đượclà về kinh tế nhưng lại mất môi trường, mất di sản, mất văn hóa thì có bõ đượckhông? có nhất thiết phải được theo kiểu đó không? có nên đánh đổi như vậykhông? Mất vật chất thì còn hy vọng có lại nhưng mất tinh thần, mất văn hóa,mất truyền thống là mất hết.

Đã đến lúc phải coibiên giới là một khái niệm mở, văn hóa cũng là biên giới. Mất văn hóa là mấtnước.


Tác giả:  Lê Thiết Cương, họa sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa. 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 20, 2024 08:40

July 13, 2024

Nguyễn Mạnh Trinh --- Xuân Diệu: Làm thơ? Làm thợ?



Không hiểu sao tôi lại chọn nhan đề bài viết này như thế.Xuân Diệu, một kiện tướng của phong trào thơ mới, một thi sĩ có những bài thơtình làm ngây ngất độc giả, một tác giả có chân trong Tự Lực Văn Đoàn, một nhàthơ thuộc loại cổ thụ trong văn học VN. Những Vũ Ngọc Phan, Thế Lữ, Phan Cự Đệ,Huy Cận... đã chẳng từng xưng tụng là một nhà thơ tiêu biểu cho một thời kỳ vănhọc đó sao. Xuân Diệu đích thực phải là một người làm thơ, mà còn là thi sĩ nổitiếng nữa. Thế nhưng, tai sao lại có câu hỏi: hay làm thợ? làm thợ tức là đem sứclực lao động cơ bắp của mình ra làm việc và ít xử dụng đến năng lực của bộ não.Đối với một người đã "cái quan định phận" như Xuân Diệu mà đặt câu hỏinhư thế là xúc phạm đến vong linh người đã chết! Dù rằng thơ và thợ chỉ khác biệtnhau một dấu nặng, mà xét suy ra trọng lượng đến ngàn vạn cân!

Có một nhà phê bình văn học khá uy tín ở trong nước và đã cóthời gian dài làm việc với Xuân Diệu và hiểu biết văn nghiệp của ông khá tườngtận, đã viết một nhận định gây nhiều suy nghĩ cho tôi . Trong cuốn sách"Cây Bút Đời Người", một dạng sách chân dung văn học của Vương TríNhàn có nguyên một chương sách viết về Xuân Diệu . Tôi đã đọc một đoạn nguyênvăn như sau:
"Xuân Diệu đã trở thành một người lao động đơn giản theo nghĩa đen của từnày". Tô Hoài nhận xét. "Mình đã nghe nói vài lần mình biết. Chỉloanh quanh một ít bài bản có sẵn, sau đó là thơ tình Xuân Diệu (khi tác giảThơ Thơ mất, Tô Hoài viết bài kể chung quanh bài thơ Phia Khinh Tô Hoài đã đượcnghe Xuân Diệu nói từ khi kháng chiến sau sang Lào lại được nghe nói đến bàithơ ấỵ. Trong lời kể có sự kính trọng lại có sự đùa bỡn)..."


Dù rằng, đoạn văn trên viết chỉ về công việc đi nói chuyện vềthơ văn của Xuân Diệu, nhưng có thể điều ấy cũng là một nhận xét chung cho cảvăn nghiệp của ông sau ngày cách mạng tháng Tám của CS. Ở bầu thì tròn, ở ốngthì dài, cái con người thi sĩ của thời Thơ Thơ đã thay vào một con người khác.Chăm chỉ, tất bật, vơ bèo gạt tép, chú trọng về lượng, viết theo đơn đặt hàng,theo nhu cầu chính tri.. Thơ đã trở thành một món hàng và mất đi cái lãng mạnthơ mộng của thời tuổi trẻ mà người thơ ấp ủ.

Xuân Sách trong tác phẩm "Chân Dung Nhà Văn" đã cóvài dòng thơ phác họa vóc dáng Xuân Diệu như sau:

"Hai đợt sóng dâng. Một Khối Hồng.
Không làm trôi được chút Phấn Thông.
Chao ơi! Ngói Mới, Nhà không mớị
Riêng còn chẳng có, có gì Chung!..."


Phấn Thông Vàng là tập tiểu thuyết xuất bản thời Tiền chiếnvà Một Khối Hồng, Ngói Mới, Riêng Chung, là những tập thơ xuất bản về sau này củaXuân Diệu. Bốn câu thơ biểu lộ văn nghiệp của tác giả Thơ Thơ với ý nghĩa hơi mỉamai. Mặc dù về sau này thi sĩ dành hết tâm lực cho văn chương nhưng thi ca vẫnlà những chữ nghĩa nhạt nhẽo. Dù vẫn giữ vị trí cây đa cây đề trong văn họcnhưng thơ đã mất đi những khai phá sáng tạo ban đầu. Đề cương văn hóa của Đảngmuốn triệt tiêu cái "riêng" để có cái "chung" kiểu làm chủtập thể. Và rốt cuộc thì riêng cũng chẳng có và chung cũng chẳng ra gì.

Năm 1938, Xuân Diệu in tập "Thơ Thơ" với nhãn hiệulà một thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Khác với những người như Hoài Thanh, ChếLan Viên,... có lúc đã phủ nhận những tác phẩm của mình triệt để phê phán đến mứcmuốn xóa bỏ Thơ Mới, ông một mực bảo vệ đến cùng những tâm huyết một thời củamình. Khi làm Tuyển Tập Xuân Diệu ông đã giữ lại phần đông những bài trong ThơThơ và Gửi Hương Cho Gió. Chỉ có khác một điều, những lời đề tặng ông xóa sạchđi coi như chẳng liên quan gì đến nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Như bài Đi Thuyền tặngKhái Hưng, Vô Biên tặng Hoàng Đạo, Đây Mùa Thu Tới tặng Nhất Linh. Thậm chí ôngcòn tuyên bố vào Tự Lực Văn Đoàn chỉ vì cái lợi chứ chẳng có tình cảm lý tưởngvăn chương gì.

Bốn năm sau, năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, tác giả"Nhà Văn Hiện Đại" đã viết về tập thơ Thơ Thơ: "...Xuân Diệu thật là một người có tâm hồn thi sĩ. Ông làm thơ với sựnồng nàn tha thiết nên ông không phải là một tay thợ thơ, một tay có tài gọtdũa từng câu từng chữ. Cũng vì thế mà trong tập Thơ Thơ của ông đã có những đoạnthật du dương xen lẫn với những đoạn quá tầm thường về cả ý lẫn lời và âm điệuchỉ kéo lại được cái thành thật mà thôi. Nhưng chính vì có cái hay lẫn cái dở,cả những cái rất thấp với những cái rất cao, nên đọc Thơ thơ tôi thấy thú vịhơn đọc những tập thơ tuy không có dở nhưng cái hay cũng không có nốt..."

Với tập "Phấn Thông Vàng", một tiểu thuyết khác củaXuân Diệu, Vũ ngọc Phan viết:
"...Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ bát ngát và mơ màng.Trong quyển Phấn Thông Vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôichỉ thấy rặt thơ và thợ Không phải thơ bằng những câu có vần có điệu, không phảithơ ở những lời đẽo gọt, mà thơ ở lối diễn tính tình cùng tư tưởng ở những cảnhvật con con mà tác giả vẽ nên những nét tỉ mỉ khi ảm đạm lúc xinh tươi, tùytheo cái hứng của tác giả..."

Và tác giả "Nhà văn Hiện Đại" kết luận: "Ngườita thấy, dù ở văn xuôi hay văn vần, bao giờ Xuân Diệu cũng là một thi sĩ, mộtthi sĩ rất giàu lòng yêu dấu."

Một kiện tướng của Thơ Mới, nhà thơ Thế Lữ trong bài tựa ThơThơ đã viết:
"...Thơ Xuân Diệu do đấy mà buồn tịch mịch ngay trong những điều ấm nóng reovui. Lạnh lùng ấm áp khắp mọi nơi... xa vắng gồm tự muôn đời... ở đâu cũng là nỗinhớ nhung thương tiếc. Lòng thi sĩ thấy rõ điều trái ngược: nồng nàn bởi vì thêlương, khăng khít nhưng vẫn hững hờ, bao nhiêu cảnh éo le của cuộc đời mà XuânDiệu yêu tới đau khổ. Thơ Xuân Diệu là hơi thở thầm kín giấu diếm trong đó ẩn sựhuyền bí ghê rợn của một đêm trăng, sự não nùng bao la của một buổi chiều và tấtcả tâm hồn khó hiểu của người của cảnh..."


Xuân Diệu thời tiền chiến đã làm thơ trong quan điểm"nghệ thuật vị nghệ thuật". Bài thơ mà về sau này được nhắc nhở nhiềuvới hình ảnh con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi. Tự nhiên như hơi thở, thơlà hình tượng của những cõi không gian bềnh bồng, viết mà chẳng tự hỏi mục đíchcủa ngôn ngữ vần điệu thi ca mình.

"Tôi là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi
Khi gió sớm vờn reo um khóm lá
Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời
Chim ngậm suối đậu bên cành bịn rịn
Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca
Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín
Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa..."


Bài thơ "Cảm xúc" là trang vào tập cho tập thơ"Gửi Hương Cho Gió" cũng là một tuyên ngôn thơ đặc sắc. Bài thơ nàysau bị Sóng Hồng (tức Trường Chinh) viết nhái lại và đả phá toàn bộ ý tưởng đểgửi cho những người làm thơ một đề cương văn hóa của cái gọi là văn học xã hộichủ nghĩa.

"Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn hương
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc
Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc
Đôi bờ tai nào ngăn cảm thanh âm
Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm
Của xanh thắm thấy muôn màu nói sẽ..."


Thơ Xuân Diệu có ngôn ngữ rất lạ so với thời ấỵ Ngôn ngữ rất"tây" như nhiều nhà phê bình nhận đi.nh Ý tưởng cũng rất phóngkhoáng, hình ảnh sinh động của trái tim và bộ óc, nghĩ và cảm chân thực. Tất cảnhững yếu tố ấy làm thơ của ông được chép trong những trang thơ gối đầu giườngcủa giới trẻ VN những thập niên sau. Thơ trẻ trung như:

"Thơ ta hơ hớ chưa chồng
Ta yêu muốn cưới mà không thì giờ
Mùa thi sắp tới!... em Thơ
Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau..."


Và ở nhiều bài khác, thơ đã cất cánh bay đi trên những nẻo đườngnhân sinh vạn dặm. Thơ tình yêu ngọt ngào, thoang thoảng ý nghĩa thúc hối củatrái tim thèm khát ái ân. Thơ, của một thi sĩ thứ thiệt. Thơ là quý kim vàng mườirực rỡ với thời gian. Cho đến khi, Xuân Diệu thành một người... "lao độngđơn giản theo nghĩa đen của từ này". Thơ trở thành một công cụ cho chếđô.. Thơ "kinh khủng" như:

"... Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đầy chết thôi..."


Thơ xiển dương tội ác phục vụ cho những cuộc đấu tố của phongtrào cải cách ruộng đất. Hay, thơ hung bạo khát máu, kêu gọi bạo lực, gào lachiến tranh:
"Máu kêu máu trả thù
Súng đâu anh em đâu
Bắn nó thủng yết hầu
Bắn tỉa bắn dài lâu..."


Hoặc thơ nịnh bợ "Thơ dâng Bác Hồ" sáng tác ngày 19tháng 5 năm 1953:

"...Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con đã được bác Hồ đến thăm
Chúng con dưới vực sai lầm
Đang vươn mình được bác cầm tay lên
Lời Cha rất mực dịu hiền
Như là thấm nhẹ mà xuyên vào lòng
Con ngồi trước Bác mênh mông
Tội nhiều chưa dám ngẩng trông cha già..."


Xuân Diệu bỗng nhiên trở thành một công cụ, cung cấp những dịchvụ văn nghệ mỗi khi Đảng cần đến. Và ông đã khoe là làm tốt nhiệm vụ ấỵ Trongbài thơ "Buổi trưa ở Thịnh Lang", ông đã tự coi mình như một thứ gàmái đẻ, sẵn sàng mắn đẻ để phục vụ nhân sinh:

"Cục tác... cục tác.
Hết trứng này tôi còn trứng khác..."

Trong Nhà Văn VN tập 1, Phan Cự Đệ biên tập Hà Minh Đức đã nhậnxét:
"Thơ Xuân Diệu thường rơi vào kể lể dài dòng, trúc trắc mà nghèo nhạcđiệu, giảm sút sức truyền cảm. Có thể vì lý do trên mà những người thích thơXuân Diệu chưa nhiều. Lẽ ra anh chỉ cần đem đến cho đời một vài quả đến độ thậtngọt chín và thơm hương, thì anh lại dâng cả chùm quả còn nửa chín nửa xanhdang dở. Lẽ ra anh có thể tập trung sức để gây ấn tượng về chất lượng, Xuân Diệulại phân tán năng lực qua số lượng..."

Đặng Tiến (tức Nam Chi) trong một bài viết về Xuân Diệu cũngcó một nhận xét:
"Xuân Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng lai đem về làm một bữa cơm trần thếcho những người ăn vì cần ăn chứ không phải ăn cho vui miê.ng. Thơ Xuân Diệungày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay là manh áo nâu sứt chỉ đường tà..."


Vương Trí Nhàn trong bài viết của tác phẩm "Cây Bút ĐờiNgười" cũng viết:
“... Trong chừng mực nào đó, phải nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu là một cáigì đáng quý. Nó không chỉ là khiêm tốn biết điều. Sâu sắc hơn thế nó chứng tỏ mộtnhận thức chính xác về tình thế người làm văn nghệ ở một nước mà đời sống vậtchất còn nhiều khốn khó. Nó giúp cho người nghệ sĩ tránh khỏi những hoang tưởngbốc đồng qúa đáng làm phiền mọi người và làm phiền chính mình. Có điều nhiềukhi Xuân Diệu đã đẩy nó đi quá xa biến thành một cách sống cầu an, chiều đời tựhạ thấp nhu cầu nghệ thuật và chất lượng sáng tác của mình một cách đáng tiếc.Ai cũng biết thơ Xuân Diệu sau 1945 có nhiều bài phải gọi là dở. Nó gò gẫm giảtạọ Nó chỉ chứng tỏ rằng người viết cố làm cho bằng được chứ mất hết cả cái vẻtự nhiên hồn hậu mà thơ hay đáng lẽ phải có...“

Vương Trí Nhàn viết về Xuân Diệu rất chân tình thành thực.Ông cũng tiếc cho một tài năng của “người làm văn nghệ ở một nước mà đời sống vật chất còn khốnkhó". Nhưng không phải đời sống vật chất thôi mà còn cả đời sốngtinh thần nữa. Khi văn nghệ bị chỉ đạo và dẫn dắt bởi Đảng, khi tự do sáng tácchỉ là giấc mơ không bao giờ có, khi những đầu nậu văn nghệ như Tố Hữu còn giơtay thép xiết chặt suy tư, khi chính quyền toàn trị tha hồ thưởng phạt tùy hứng.Thì làm sao, thi ca văn chương có được những mùa gặt tốt. Cứ trói rồi cởi trói,văn nghệ sĩ đã có một quán tính theo thời để tồn tại.

Nhưng cũng có những người vẫn giữ sự độc lập khi cầm bút. Nhưnhững nhà văn nhà thơ nhóm Nhân văn Giai Phẩm. Họ đã chịu những dầy xéo truy bứcđến mức không còn bút mực nào tả cho xiết được. Thành ra, từ nhà thơ thứ thiệtXuân Diệu để thành một người thợ lao động để tạo ra món hàng, cũng là chuyệnbình thường của văn học Xã Hội chủ Nghĩa. Hình như, không phải riêng Xuân Diệumà còn thấp thoáng nhiều vóc dáng văn chương cổ thụ khác...

Nguồn: Nam Úc Tuần Báo

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 13, 2024 18:44

Xuân Diệu và Hà Nội - bài viết từ 1986

 


 

Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại hộiviết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957), Xuân Diệutừng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà Nội phảiđặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.

- Thưa chị, trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơnbao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế. Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một consông trẻ... Núi Tản Viên tinh khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soilánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng.Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông của chị. Ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn:em cố tưởng tượng cái rét thế nào, cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mớitạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các táncây, thành phố Sài Gòn của em nhớ thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồngbào miền Bắc càng vào nhiều trong em thì những mùa mưa của em cũng như thêm gióthêm sương, thêm một vài luồng lạnh quí báu, hiếm hoi...”.

Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà một ngườivốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà Nội. Bấygiờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phầnthứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể:Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm tríphong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.

“Tôi được đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trườngBưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít.Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nảy nở lần thứhai... Đi vào những trại trồng hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoà đào ở Nhật Tân,đối với tôi vào tuổi 18, 19 như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.

Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến tâm hồnmột người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với miền Bắc,trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.

Trên phưong diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ rõ rệthơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn bùng lên mạnh mẽ hơn. Ở QuyNhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản Đà, khi nghe tin An nam tạp chítục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm hỏi không thôi. Nay Xuân Diệu được gặpTản Đà giữa toà soạn một tuần báo.

Cũng ở Hà Nội, Xuân Diệu được gặp Thế Lữ. Tác giả Mấyvần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơtrên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đềtựa. Từ những trang thơ này, Xuân Diệu sẽ vào sâu thêm giới văn học Hà Nội.Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của ông in báo rồi in lại trong Thơ thơ,bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặngNguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu,Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v...

 Những chi tiếtnho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã gắn bó với đời sống văn họcthủ đô lúc ấy, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng nghiệp... màngòi bút Xuân Diệu thêm hứng khởi.

Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái chất“tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho nóthêm mềm mại hơn.

Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình thành. Thơthơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức, năm 1941 khilàm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại lần thứ nhất Thơthơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác phẩm theo thứ tự thời gian.

Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội, trước cách mạng Xuân Diệunhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc. Trong Những bước đường tư tưởng củatôi, ông kể:

Năm 1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buônchợ đen thì không được, viết văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôingồi giở quần áo cũ ra vá giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoakhô”.

Những trang văn xuôi của tác giả lúc này có một khôngkhí riêng buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm hồn tác giả đồng thời lạicho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách mạng mà ở người kháckhông thật rõ.

Trong Phấn thông vàng, nhà văn tả cái nơi ở củamột người bạn:

“Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn nhưnhau. Con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chútđặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồnmột cách lưng chừng, xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùingùi một cách vô lý”.

Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải của một mảngđời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:

“Đoạn đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố,cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm, đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gậpghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèonghèo một ít. Ánh sáng không chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặttrời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài. Ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu,thế mà vừa đi một trăm bước để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làmcho nhà cửa ngơ ngẩn”.

Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách mạngrất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân Diệu haynói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra sáng,không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ nhoi,nhưng không cái nào giống cái nào.

Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã quyết địnhnhững chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...

Theo chính Xuân Diệu kể, thì trước khi về61 Hàng Bông, cái gác vá áo nói trên, Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 HàngThan. Ở đây Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơLưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ miền trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đãsống bằng ngòi bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bánnguyệt san lương mỗi tháng là sáu chục đồng.

Nhưng bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộcsống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên tâm. Nhìn vào đời sống Lưu TrọngLư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm. Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đãcảm thấy hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người. Huy Cận than: “Phố khôngcây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng. Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áokhông đùa với khách thơ”, thật là cụ thể. Có lẽ là nghề viết không nuôi nổingười ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân Diệu vẫn phải bỏ cả haimà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy Cận đỗ kỹ sư canh nôngnuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.

Khi nghe tôi hỏi về những ấn tượng mà HàNội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồinói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn mộtđiều ông đã nói ngay. Hà Nội bây giờ là cái xưởng làm việc của ông, là nơi cungcấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lênthành cây. Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nộithấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đãnghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đàoNhật Tân... Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của XuânDiệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày,Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội,và viết, lao động, với một nhịp điệu mà những người trẻ tuổi cũng phải ghen tị.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 13, 2024 18:37

July 6, 2024

Xuân Diệu , Chưa ai thông cảm hết sự cô độc của tôi


Một cuộc phỏng vấn trong giả định


-- Với thói bo bo bỏm bỏm chi li nhặt nhạnh những gì đã viết, hẳn ông vui sướng khi thấy Toàn tập 6 cuốn của mình đã được in ?

-- Nhưng nó cũng chỉ mới in một lần, mà tôi thì muốn in đi in lại nhiều lần. Một phần tâm huyết là các bản dịch các bài giới thiệu văn học nước ngoài của tôi còn chưa được sưu tầm và in lại đầy đủ.
Vả chăng, nay là lúc đến các nhà văn nhà thơ hạng nhì hạng ba cũng làm tuyển tập … 
-- Ông không muốn lẫn đi giữa họ ?

--- Ai mà chẳng thế, có riêng gì tôi.

-- Còn nhớ hồi làm Tuyển tập tập 1 (1983), ông cố ý cho in cả những bài thơ dở?

-- Thơ hay tự bạn đọc biết tìm cho họ rồi. Nhiệm vụ của nhà thơ lúc làm tuyển tập cuối đời là đưa thêm cho họ thật nhiều, để họ đãi lại, may ra có được gì thêm.

-- Chỗ mạnh chính trong con người ông?

-- Làm việc cật lực, làm việc không ngẩng đầu lên được nữa.

-- Thế còn chỗ yếu?

-- Cũng là làm việc cật lực, bị việc nó lôi đi đến mức không có thì giờ xem xét lại, đánh giá lại bản thân mình. Người ta thích nhắc nhau câu của Goethe: Khởi nguyên là hành động. Nhưng nên nhớ Goethe còn nói: Sự hành động làm tê liệt tư tưởng.

-- Ông có nghĩ rằng trong giới văn nghệ sĩ nước ta thời hiện đại, không thấy có những trí thức cỡ lớn như R.Rolland, A.France…hoặc Sartre, Camus?

-- Thì dân tộc cũng chỉ rặn được ra lũ chúng tôi.

-- Kinh nghiệm tồn tại của ông trong văn học?

- Lúc làm thơ, phải thật trong sáng. Nhưng lúc in thơ lại phải thật cơ hội (cười). Cậu xem, trừ Tô Hoài, còn ai lắm đầu sách như mình nào! Mà phân nửa sách của Tô Hoài là sách viết cho thiếu nhi.

-- Phương châm sống của ông?

- Vắt kiệt cho đời. Viết hết những điều mà mình muốn viết và có thể viết. Một người như Nguyễn Tuân biết nhiều mà viết quá ít.

-- Vì cụ còn muốn sống cho đẹp?

-- Có lẽ thế. Còn mình mình nghĩ, phần tinh hoa của người nghệ sĩ, mà cũng là phần sống đời của họ, là ở tác phẩm. Theo mốt hiện đại, không ai đếm xỉa đến cuộc sống riêng của anh lắm đâu, mà anh phải quá chăm chút đến mất thì giờ vì nó. Tôi sống chỉ cốt để phục vụ cái tôi viết.

-- Nhiều người cũng muốn như ông, mà không xoay xỏa nổi.

-- Phải. Vì họ còn vợ đẹp con khôn, có người còn quyền cao chức trọng đủ thứ. Phần tôi, không có gia đình, tôi chỉ lấy viết làm vui. Sinh thời, tôi đã tập cho mình thói quen của mấy bà già nông thôn. Cậu có để ý thấy các bà ấy lúc nào cũng phải có việc gì đó để làm, rời tay cấy hái là lại lăn vào chuyện nhà cửa bếp núc nếu không thì cũng khâu vá hết ngày…

-- Lúc sống, có điều gì mà ông cảm thấy chưa được thông cảm?

-- Sự cô độc và những cách thức của con người để sống chung với sự cô độc, mà cũng là để chiến thắng sự cô độc ấy.

-- Tại sao những năm cuối đời, ông không tính chuyện viết hồi ký?

-- Mình không muốn công nhận là mình đã già. Mình mải việc…. Vả chăng, ở xã hội ta, viết hồi ký có cái phiền của nó. Ví dụ chuyện mình có mấy bài thơ tặng Nhất Linh, Hoàng Đạo, rồi chuyện mình chính thức có chân trong nhóm Tự Lực văn đoàn, mình đã phải dẹp mãi, các sách văn học sử nó mới lờ đi cho. Ai hơi đâu mà lạy ông tôi ở bụi này? Còn như, giá được sống đến bây giờ trong hoàn cảnh Tự Lực văn đoàn được đánh giá lại, mình sẽ trình bày chuyện ấy thật đàng hoàng.

-- Giờ đây, ở dưới suối vàng, ông nghĩ thế nào về đời mình?

-- Mãn nguyện. Có thể coi là mãn nguyện được.

-- Nếu mai đây, các nhà văn học sử đánh giá lại về ông thì sao?
-- Đấy là việc của họ. Nhưng vượt được bọn mình, đâu có phải chuyện dễ!
Tags:PHE BINH VAN HOCphiem luan
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 06, 2024 03:50

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.