Vương Trí Nhàn's Blog, page 9

November 25, 2023

Ông Nguyễn Mạnh Tường nào được tuyên dương nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh?

Bài của Nguyễn Trung Lương . Nguồn https://www.talawas.org/15675/  

--

Lờidẫn

Khicác trang mạng phát triển gần như không có giới hạn, thì những trang viết về cácnhân vật nổi tiếng thuộc loại thi nhau đua nở. Nhưng viết như thế nào, bài viếtcủa Nguyễn Trung Lương sau đây là một gợi ý.

 

***

 

Trongvài tuần gần đây tên ông Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) được nhắc tới nhiều lầntrên báo chí trong nước sau một thời gian dài ngót 50 năm bặt tin trên côngluận. Nhiều nhân vật tên tuổi lên tiếng, tưởng nhớ, hết lời ca tụng ông. Caođiểm có lẽ là cuộc Hội thảo kỷ niệm 100 năm sinh nhật ông (1909-2009) vào ngày 24.12 vừa qua tại HàNội.

ÔngNguyễn Mạnh Tường là ai, chính xác hơn, ông Nguyễn Mạnh Tường nào đây mà saobỗng nhiên được tuyên dương trân trọng vậy?

Tronglời khai mạc cuộc hội thảo trên, như CAND Online, 25.12.2009, đăng: “GS.TS Nguyễn Viết Thịnh đã khẳng định:Giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một tấm gương sáng về nghị lực học tập vàlà tài năng trác tuyệt trên con đường nghiên cứu khoa học.” Trước đó trong mộtloạt bài viết, phỏng vấn, hồi ký (sưu tầm trên trang mạng Viet-studies) các nhân vật Vũ Đình Hòe (04.12.2009), TrầnVăn Giàu (07.12.2009), Phí Văn Bái (09.12.09), Trần Thanh Đạm 13.12.2009 và 18.12.2009), Hữu Ngọc (24.12.2009), Phạm Khải (26.12.2009), Nguyễn Lân Dũng(19.01.2010), Nguyễn Đình Chú (18.01.2010) đã ôn lại những kỷ niệm với thầycũng như bạn đồng ngiệp Nguyễn Mạnh Tường.

 

Cũnglà một người lâu nay kính phục ông Nguyễn Mạnh Tường nhưng thiếu hẳn thông tinvề ông, nên tôi tò mò lục đọc các tài liệu trên hòng tìm hiểu thêm về con ngườivà sự nghiệp của ông. Thú thực: Tôi hoàn toàn thất vọng; không những thế, thấtvọng đến kinh ngạc mà tôi phải nói toạc ra đây: Trí nhớ của các vị đáng phiềnquá!

 

 

ÔngNguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909, 1927 sang Pháp du học, 1936 về nước hành nghề,1945 theo Việt Minh rồi đi kháng chiến, sau 1954 về sống và hoạt động ở Hà Nộiđến khi qua đời năm 1997.

Tronghồi tưởng, các vị nhắc ở trên, đã hoàn toàn nhất trí chỉ nhớ đến những sự kiệntrước năm 1956! Từ 1956 đến khi ông Nguyễn Mạnh Tường mất là năm 1997, tức là41 năm ròng, chẳng có gì đáng nhớ cả!

 

Vảlại, trọng tâm hồi tưởng của các vị này chỉ quanh quẩn vào cái giai thoại màhầu như ai cũng biết rồi: Ông Tường mới 22 (hay 23) tuổi đầu mà đã đỗ hai bằngtiến sĩ tại một đại học tại Pháp.

 

Tuynhiên, câu chuyện khoa bảng này hình như đã để lại ấn tượng rất mãnh liệt chonên các vị cao hứng vẽ long vẽ phượng thêm để phụ họa vào sự kiện kinh dị này:Nào là lưỡng khoa tiến sĩ vào tuổi 22, 23 là một hiện tượng độc nhất vô nhịtrong lịch sử khoa bảng Pháp quốc; nào là ông Tường giảng bài không cần giấytờ, nói thao thao bất tuyệt; nào là ông viết tiếng Pháp giỏi hơn cả người Pháp,vân vân… 

Sựnghiệp của ông Nguyễn Mạnh Tường chỉ là những chuyện linh tinh thế thôi haysao!

Thựctình, ông Nguyễn Mạnh Tường là người tôi rất kính phục, nhưng kính phục khôngvì hai luận án tiến sĩ ông trình tại đại học Pháp, mà là vì một bản luận văn(chỉ dài cỡ 18 trang thôi) ông trình tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nộingày 30.10.1956.

 

Vốnlà vào những tháng cuối năm 1956 tại miền Bắc sau khi cuộc Cải cách Ruộng đấtđã đưa đến những hậu quả trầm trọng cho chế độ, nhà nước chuyên chính tăngcường trấn áp để phòng ngừa phản ứng khả dĩ của quần chúng gây nên một khôngkhí chính trị, xã hội căng thẳng tột đỉnh mà một người như tôi đây, một thằnghọc trò 15 tuổi trường phổ thông cấp ba Hà Nội cũng phải cảm thấu tận xương tậntủy. Đâu đâu cũng có kẻ thù đang sẵn sàng phá hoại, ở mọi góc đường cũng nhưtrong bản thân, ngày đêm kiểm thảo, tự kiểm thảo. Cảnh giác đối với kẻ thùnhanh chóng được kích động biến thành trò chơi chỉ điểm lập công không trừ bạnbè, họ hàng, người đồng nghiệp. Cuộc sống trở nên nghẹt thở, không còn một tấcđất để cựa quậy.

 

Vậymà, trong một không khí đại khủng bố như thế đã có vài người, có thể đếm trênđầu ngón tay trong số hơn 20 triệu dân miền Bắc, đã dám thẳng người đứng lênphê phán sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đương đầu với bạo quyền. Ông NguyễnMạnh Tường thuộc vào số người quả cảm ít ỏi đó.

 

Vớibài tham luận “Qua sai lầm trong Cải cách Ruộng đất xây dựngquan điểm lãnh lãnh đạo”trình tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc nhắc đến ở trên  ông Nguyễn Mạnh Tườngđã cùng với các ông Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, mặc dù không cùng ýtưởng, và nhiều văn nghệ sĩ khác trong Phong trào Nhân văn-Giai phẩm bước ratrước công luận đòi thực hiện quyền tự do dân chủ, vạch ra cho chúng tôi một sựlựa chọn mới lạ: thực hiện quyền tự do dân chủ hay thực hiện quyền lợi củaĐảng, mở đường sáng sủa cho chúng tôi suy nghĩ về những điều mà trước đó, họamay, chỉ mới dám trộm nghĩ thôi. Họ đã trở thành những người tiền phong trongcuộc đấu tranh chống bạo lực mà đến nay vẫn còn tiếp tục.

 

 

Trongcuộc đấu tranh chống lại chế độ toàn trị (phát-xít cũng như cộng sản), tronggiờ phút thách thức trí tuệ toàn cầu của thế kỷ thứ 20, ông Nguyễn Mạnh Tườngđã tỏ ra là người kế tục truyền thống của những kẻ sĩ khí phách cũng như làhiện thân của một trí thức hiện đại đúng nghĩa. Ông từ chối đóng vai một kẻkhoa bảng tầm thường, toại nguyện với hai mảnh bằng tiến sĩ của mình.

 

Nguyễntiên sinh đã phải trả một giá rất đắt bởi tư cách cương trực của mình. Vào tuổigiữa 40, bình thường là trạc tuổi đầy sức hoạt động sáng tạo ông đã bị đày rakhỏi trường đại học nơi ông đang giảng dạy sau khi bị đấu tố trước đồng nghiệpvà học trò của mình! Cho đến ngày ông qua đời (1997) người trí thức xông phaNguyễn Mạnh Tường đã phải sống cô lập với công luận. 

Nguyễntiên sinh đã trải qua những ngày tháng đánh dấu bước ngoặt sâu đậm trong đờimình như thế nào? Trong hồi ký Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội1954-1991: Bản án cho một trí thức (trang mạng Viet-studies,16.12.2009) ông nhớ lại:

Dướichân cái bục giảng, nơi mà tôi đã qua những giờ phút đẹp nhất trong đời, naycũng nơi ấy tôi lại phải chịu những khoảnh khắc tệ hại nhất trong cuộc đời củatôi. Thật vậy, tôi hiểu ra là chuyện được xếp đặt không chỉ để trừng phạt tôi,à quên, xin lỗi là để “giáo dục” tôi, nhưng tất cả là để làm bẽ mặt và hạ nhụctôi bằng hai cách: buộc tôi đứng với tư cách của một kẻ tội phạm, phía dưới bụcgiảng nơi mà tôi thường đứng đó trong những ngày huy hoàng và buộc tôi phảinghe những lời thoá mạ thậm tệ và những công kích kịch liệt, không phải từnhững đồng nghiệp của tôi như trong trường hợp xử tôi ở Mặt Trận, mà từ nhữngkhuôn mặt trẻ mới không biết từ đâu đến và có vẻ là sinh viên hay đã từng làtrong đám sinh viên của tôi.

…Những tra tấn nhục nhã mà tôi phải gánh chịu không chút nào ít hơn những tratấn nhục nhã mà những địa chủ bị đoạ đầy trước khi bị giết chết.

…Tôi không nhớ, và cũng chẳng muốn nhớ, tên và nét mặt của những thằng nhãiranh, kẻ nhận lệnh và được điều khiển bởi kẻ cầm quyền, ném những lời tấn côngxúc phạm đến danh dự của tôi, như một người đi đường phải dừng chân cúi xuốngđể đuổi một con chó đang sủa dưới chân mình.

 

Tôikinh ngạc là nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông Nguyễn Mạnh Tường những vịxưng là học trò, là đồng nghiệp của Nguyễn tiên sinh, đã không dành ra nổi mộtlời một chữ để nhắc đến khí phách của một người thầy, một người đồng nghiệp màcác vị không mệt mỏi nhắc đi nhắc lại là “rất kính mến”. 

Tôikinh ngạc trước sự dễ dãi với thực tại lịch sử của các vị mà đại đa số là cácnhà khoa học hoạt động trong lãnh vực văn hóa, giáo dục; chẳng phải sự thànhkhẩn trí tuệ là thước đo người trí thức sao?

 

Tôikinh ngạc về động cơ thúc đẩy người ta tổ chức kỷ niệm lễ kỷ niệm ông NguyễnMạnh Tường. Tôi không giải thích nổi. Để tự xoa dịu lương tâm mình chăng, nhưngười ta đã từng truy phong huân chương hạng ba (!) cho triết gia Trần ĐứcThảo.

 

Tôikinh ngạc là chẳng lẽ lịch sử tiến hành trong 30 năm qua với bao nhiêu sự đổithay lớn lao, trên thế giới cũng như trong nước, đã không để lại một dấu vếttrí tuệ nào cả ở các vị khoa bảng này sao!

 

26.12.2009

©2010 talawas

©2010Nguyễn Trung Lương

 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 25, 2023 03:49

November 19, 2023

Thủ lĩnh trong bóng tối -- bài của Phạm Thị Hoài viết về Trần Dần năm 1997

Nguồn http://www.talawas.org/talaDB/showFil...

***

Ðúng mười năm trước tôi được đưa đến ra mắt Trần Dần, sau khi ông đọc bản thảo một số truyện ngắn đầu tay chưa công bố của tôi. 


Làng văn Hà Nội khi ấy, trong đêm trước của cuộc cởi trói ngắn ngủi, có một không khí nhộn nhịp nhất định. 


Dân văn chạy ngược xuôi trong văn, không tất tả việc khác như bây giờ. Cả người viết lẫn người đọc đều chờ một cái gì không rõ, nhưng sẽ đến, và có lẽ vì thế mà háo hức, không lãnh-đạm-biết-rồi như hiện tại. 


Khi đó chưa nhà nào có điện thoại riêng, muốn trò chuyện phải tìm nhau tận mặt, rượu tây chưa phổ biến, thức nhắm còn nghèo nàn, thuốc lá Liên Xô Ấn Ðộ đã là sang, đi xe máy là ngoại hạng, và mọi người đều viết tay trên giấy xấu... 


Cảnh hàn vi đó nuôi lớn một thứ chủ nghĩa lãng mạn giản dị, đầy tính lý tưởng và cũng đầy ảo tưởng mà giờ đây đã biến mất. 


Hà Nội, khi Trần Dần qua đời, khác xa mười năm trước, khi tôi hồi hộp đến gặp ông như gặp một thủ lĩnh văn chương trong bóng tối. 


Không người viết nào muốn thuộc về phía tối của đời sống văn học, song khi phía được chiếu sáng quá tầm thường thì được khuất mặt có thể là một hãnh diện chính đáng. 


Trước khi ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đại náo làng văn thì Nhân Văn Giai Phẩm với mọi huyền thoại của mình đã luôn là một trong những cái chợ đuổi có sức mê hoặc lớn hơn cửa hàng văn học mậu dịch nhiều. 


Văn học của Nhân Văn Giai Phẩm  tập trung ở những tác giả và tác phẩm cụ thể của nhóm ấy thời ấy, nhưng tôi quan niệm tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm rộng hơn, bao trùm một số quan niệm, phong cách, nguyên tắc, thái độ ứng xử, đề tài... nhất định, có thể tìm thấy ở những chỗ khác thời khác, ở độc giả, ở các nhà phê bình, thậm chí ở những người từng quyết liệt chống Nhân Văn Giai Phẩm  hoặc rất sợ dính vào đó. 


Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn luôn ký tên hàng đầu trong các bản án chống Nhân Văn Giai Phẩm, song chính cái tinh thần Nhân văn Giai phẩm trong ông được kết hợp ở thế chân kiềng với tài năng và lòng biết sợ đã tạo cho ông một đặc cách trong văn học chính thống.


 Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự như vậy. Song sau nhiều chục năm, số tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh như thế không còn đọng lại bao nhiêu. 


Như thể không ai chết được nhiều lần, mà trong tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm ấy, các chiến sĩ ưu tú nhất đã ngã xuống cho những lý tưởng khác trước khi kịp hi sinh cho nghệ thuật. 


Khi tiếp xúc với thế giới của họ, tôi đã hy vọng là sẽ trèo qua nhanh cái nấc thang thứ nhất đương nhiên là rất quan trọng, vì nếu không thì chẳng vào với nhau được: đó là bi kịch mà ai cũng biết ít nhiều về Nhân Văn Giai Phẩm. 


Trèo qua nhanh, vì đã bận tâm vào đó thì không thể chỉ rỏ nước mắt vào rửa những vết thương bên ngoài. Tôi hình dung rằng những vị tử vì đạo rất ghét kẻ nào chạy lăng xăng quanh nỗi đau của họ, ăn theo những thăng trầm của họ. Mà tôi lại chú tâm vào những bi kịch văn học hơn, cho nên nấc thang sau và sau nữa là cái đích của tôi.

 

Văn học không chỉ sinh ra từ cuộc đời bên ngoài, mà còn sinh ra từ chính văn học. Khi bước vào nghề văn, tôi muốn biết cái nồi văn mà tôi đang nấu, hoặc định nấu, được kê bằng cái gì, được đun bằng cái gì.


 Trừ ngoại lệ lớn nhất và bền bỉ nhất là Trần Dần cùng một vài người chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông, tôi luôn có cảm giác rằng giữa những người theo tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm  và tôi có trò chuyện, nhưng hầu như không có một đối thoại thật sự, và những cuộc trò chuyện giữa đôi bên bao giờ cũng chỉ dừng ở một chiều sâu lịch sự, dễ chịu, không thể đi quá một chút nào, và luôn luôn quanh quẩn ở cái nấc thang thứ nhất kia. 


Dường như thời gian ở chỗ họ từ lâu lắm rồi đã không nhích thêm gang tấc nào, tôi thì đầy sự nôn nóng của tuổi trẻ, mà lại phải rất cẩn thận để không làm tổn thương ai. Luật của chúng ta dường như là vậy. Ðầy đọa, thanh trừng, xoá sổ kẻ khác thì được, nhưng làm mất lòng thì không. Tôi không thể nói thẳng với họ, rằng tôi không nhất thiết phải đọc họ chỉ để biết rằng, nhà văn cần yêu ai cứ nói là yêu, ghét ai cứ nói là ghét, điều đó tôi được học ở nhiều chỗ khác rồi, mà không phải là học qua văn chương. 


Nói như thế là bạc, là phản bội, là rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của người khác. Nhưng có lẽ tôi đã kỳ vọng ở họ nhiều quá. Khi tuổi trẻ bị bịt đường lên phía trước thì nó ngoảnh lại phía sau mãi như vậy và thành những ông cụ bà cụ non. 


Tôi đã tìm một lối để thoát khỏi văn học Việt Nam đương đại. Cái văn học đó buồn tẻ, nhưng cuối cùng thì lối thoát của nó không phải là giật lùi về đỉnh cao của những năm 50. Cũng như vậy, văn học đổi mới hiện tại chẳng còn gì đáng nói nhiều nữa, song nó không nên ngoảnh lại tiếc nuối cao trào 1988-1989.

 

Trong những điểm cốt yếu, văn học của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cùng một bản chất với văn học chính thống sau này. Có thể coi đó là sơ kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Còn phần lớn các tác phẩm cuối những năm 80 mà trong nước tuy gọi đùa, nhưng có lý của nó, là Nhân Văn 2, ngoài nước gọi là văn học phản kháng, là mạt kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. 


Thực ra những người làm nhiệm vụ duy trì và bảo vệ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể yên tâm lâu dài: một mạt kỳ có thể kéo thêm cả thế kỷ, mà theo tôi thì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hoặc một cái gì na ná như vậy còn có tương lai vô tận ở Việt Nam.


 500 hội viên này của Hội nhà văn Việt Nam có thể được thay bằng 500 hội viên khác, song 50 triệu người đọc thì không bãi đi để bầu mới nhanh như vậy được. Nền văn học này cũng đẻ ra một số tài năng và những tác phẩm có thể xúc động lòng người. Nhưng các tác giả và tác phẩm của nó giống nhau, hoàn toàn không có cá tính, đúng như Trần Dần đã nhận xét, năm 1955, về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rằng thậm chí những câu hay của Tố Hữu cũng không có chữ ký riêng, có thể ký ở dưới là Nguyễn Du, Tản Ðà, hay Ca Dao đều được. 


Những người có tên tuổi ở thời Nhân Văn Giai Phẩm  cũng không tránh được điều đó. Một số bài thơ của Lê Ðạt và Phùng Quán thuở ấy có thể ký lộn cho nhau, sau này thì Lê Ðạt tách hẳn ra để có một chữ ký độc đáo cho riêng mình, và lịch sử quả thật thích đùa khi ông bị Trần Mạnh Hảo, một nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa mạt kỳ phủ đầu, chính vì đoạn sau này. 


Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, hay Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đi vào lòng người vì những lý do khác, chứ không phải vì đạt tới cái mà Trần Dần đòi hỏi, ngay từ thuở ấy, rằng nhà thơ trước hết phải có được cái chữ ký riêng của mình. Ông cũng chua ngay rằng đương nhiên còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy.


 Lịch sử văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua cho thấy, cái tối thiểu mà Trần Dần yêu cầu ấy đã hầu như không đạt được. Cho nên phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm. 


Ở ông là một bi kịch văn học lớn mà cái bi kịch chính trị của Nhân Văn Giai Phẩm chỉ là một trong những bè đệm, còn ở một số người khác thì là sân khấu, thậm chí có sự trình diễn của các vai nạn nhân, văn chương chỉ đóng một vai rất phụ. 


Cho nên, nói về ông bây giờ mà không qua cái nấc thang thứ nhất kia cùng là tí ti minh oan, tí ti phục hồi, tí ti thương cảm, thì khác nào nhổ sơ sơ vài ngọn cỏ cho sạch vài phân vách đá, nhưng đằng sau đó là Ăng-co, để dùng lại một biểu tượng mà ông ưa dùng. 


Bất hạnh lớn của Trần Dần là Nhân Văn Giai Phẩm , nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông là ông đã quẳng gánh từ lâu lại sau lưng, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh mãi. 


Sự nghiệp của ông không chấm dứt với năm 1958, mà mở đầu từ đó, và đạt tới cao trào trong khoảng 15 năm, từ giữa những năm 70, nghĩa là liên quan không nhỏ tới việc Sài Gòn thất thủ, đến cuối những năm 80, khi ông ngã bệnh.

 

Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua. Việc ông đi theo cuộc cách mạng của Ðảng cộng sản cho đến Nhân Văn Giai Phẩm là việc dễ hiểu, bởi đôi bên khi ấy cùng chung nhau một chữ cách: cách mạng, cách tân, cùng chung nhau một ý tưởng đổi mới. 


Việc diễn ra sau đó đối với ông, theo tôi, cũng là một tất yếu. 

Tôi không cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu nhầm. Hiểu nhầm còn chữa lại được, không hiểu thì khó thay đổi hơn nhiều. Một người như thế sống ở bất kỳ đâu cũng khó. 


Còn ở một nơi mà tính đại chúng là tiêu chuẩn tối thượng của văn chương nghệ thuật, một nơi mà sự phục tùng tổ chức, quyền uy, thế lực là kim chỉ nam cho mọi hành vi văn chương thì một người như thế phải bị đày đọa, bị tảy chay, hoặc nhẹ nhất là bị bỏ qua. 


Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. 


Ông có 4 kiểu chữ hoàn toàn khác cách nhau: cho giai đoạn đến Nhân Văn Giai Phẩm những năm 50 là một, giai đoạn ngắn sau đó, đầu những năm 60 là hai, giai đoạn đến đầu những năm 80 là ba, từ đó đến nay tuy chung một kiểu chữ là bốn, nhưng ngay trong một kiểu này cũng có nhiều phát triển khác nhau, kèm theo một khoa chính tả khác thường và một thư pháp, hay thư họa rất đặc trưng Trần Dần.


 Chỉ riêng điều có thể coi là nhỏ nhặt trong cái khối khổng lồ là ông- để dùng lại chữ của Dương Tường- đã làm việc đọc ông rất phức tạp, mà lại càng không thể công bố nhiều tác phẩm của ông ở dạng in ấn bằng những con chữ thông thường.

 

Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu.” 


Khi ông tuyên bố: “Cái đèm đẹp giết chết cái đẹp”, thì một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những ai chưa bao giờ nghĩ ngợi về cái “đèm đẹp”. 


Cái xinh xinh không thể đẹp, ý này có thể của ai khác, có thể từ tư duy trong tiếng nuớc ngoài, song vào tay Trần Dần thì thành cách nói đặc biệt Trần Dần, nhanh, mạnh, lột trần, độc đáo, không lặp lại ai và không tự lặp, rất Việt và rất hiện đại. 


Ðồng nghiệp của ông yêu cách nói này thì ít, mà sợ thì nhiều. Nguyễn Khải đã tả về hai con mắt “hiếp đáp thiên hạ” của Trần Dần. Không ít người suốt đời hậm hực về một lời phê thường cộc lốc nghiệt ngã của ông. 


Song một nhận định phát ra từ bóng tối và cõi im lặng của Trần Dần có cái uy dũng mà người ta tuy hãi nhưng thèm.


 Ai chịu trận được thì mang ơn ông mãi. Tôi được ông ưu ái khi vừa mon men vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi những bài học càng lâu càng ngấm.    

 

Người ta coi Trần Dần là lập dị. Nhưng trong một môi trường mà chỉ riêng chiếc ba toong của cụ Nguyễn chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi là biểu tượng của khác thường, thì sự lập dị của Trần Dần là vượt ra mọi cách. 


Chúng ta có thể tôn sùng kẻ đứng đầu một cách, nhưng kẻ vượt ra mọi cách thì không có chỗ đứng. Cho nên Trần Dần nằm. Thơ ông là thơ nằm. Mọi bản thảo của ông là bản thảo nằm. Hàng chục sổ thơ của ông là sổ nằm, ông đặt tên là sổ bụi, và khi hết sổ phải dùng đến vở tự khâu, thì đấy là vở bụi.


 Vả lại, khí chất của Trần Dần là cái khí chất không thuận với mọi cách, may ra ông gần hơn cả, gần chứ không thuận, với cách thi trung hữu qủy, và tự gọi mình là một thi tặc. 

Tôi chưa thấy ai trong lịch sử thi ca Việt Nam dám như vậy, đường hoàng như vậy: Thi tặc! 


Thơ ca của chúng ta có hay thì cốt hay-mãi-ngàn-năm theo hướng thánh thi, tiên thi, đạo thi, có đẹp thì đẹp theo cách tròn đầy nhã nhặn mà Trần Dần tuy ghi nhận nhưng không rung động. 


Nếu ai hoảng sợ trước cái khái niệm thi tặc ấy thì tốt nhất đừng đọc Trần Dần. Còn đã quyết định đến với ông thì xin đừng coi trọng quá những hành trang tinh thần mà mình đương nhiên khuân theo, vì Trần Dần thật lắm bất ngờ.


 Và nhất là, ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa. 


Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. 


Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới. Những người xung quanh ông, người nào cũng xin được, có khi trộm được, ít nhất là một vài con chữ từ cái lò luyện chữ của Trần Dần như vậy. Những chữ rất hiện đại và đầy truyền thống.


 Cách ông đối xử với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách “yêu ai thì người đó nhỏ lại” như ông đã từng phê rất đích đáng một nhà thơ nổi tiếng. Là những chữ rất hàn lâm uyên bác mà cực nôm. Cái sướng nôm của ông, nôm hiện đại của “1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú đít 1 lít nách”, lây mạnh sang những người xung quanh, thành những ca vô cùng đặc sắc, thành một thứ tiếng Việt hiện đại và đầy phiêu lưu kỳ thú. 


Ông thậm duy mỹ mà sâu xa và có một giác quan không thể đánh lừa cho mọi giá trị thực. Ðiều đó kéo theo sự trân trọng và ngưỡng mộ, rất bất chấp, rất hồn nhiên của ông trước những tài năng và nhân cách thật. Ông đã nâng niu thơ Ðặng Ðình Hưng như thơ ruột, dù quan hệ đôi bên không phải lúc nào cũng êm. Ðồng thời, sự thẳng thắn đến phũ phàng của ông trước những thứ của rởm cũng không chừa bạn bè thân thích.


 Trước những con chữ, lòng ông khăng khăng trong sạch. Chỉ có điều, tất cả những thứ ấy đóng kín trước một số đông, một số rất đông, không phải của riêng thời Nhân Văn Giai Phẩm , mà cả bây giờ và sẽ rất lâu sau này vẫn thế.


 Bây giờ, nếu một phần di cảo của ông có được đưa ra nghiên cứu và sử dụng, cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay số người có thể đọc xuyên qua được những trang bản thảo ấy. 


Sau ba mươi lăm năm, một trong hơn ba chục tác phẩm của Trần Dần mới ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu thuyết Cổng Tỉnh, và được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam.


 Sự công nhận muộn mằn này dừng lại ở mức một cử chỉ thiện chí, với một quá khứ oan khiên, với một nhà thơ lớn khi ấy đã gần đất xa trời. Song nó không mang lại cho Trần Dần nhiều người đọc hơn.


 Khi cái lưỡi của đám đông đã hoàn toàn thoái hoá thì cao lương mỹ vị bày ra cho ai? Một phần ba thế kỷ văn vần quốc doanh, văn xuôi mậu dịch trên môi và trong lòng người đọc Việt Nam đã khiến ít ai vượt qua chỉ cái tựa đề Cổng Tỉnh. Tôi mở trang đầu, đọc những dòng đầu mạnh mẽ mộc mạc:

Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ!

Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!

Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương...

qua những dòng bồng bột lạ lẫm:

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ

Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...

những dòng ngọt lịm:

Có lẽ xa kia là phố tôi sinh

Có sương sớm đọng trên đèn muộn...

những dòng Trần Dần huyền thoại:

Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp

ò..ò đêm đi như một cỗ quan tài...

những dòng tha thiết:

Ở đâu? ở đâu có ngụm đèn xanh

Rèm che nhoè cửa sổ?...

Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây

Ðừng sa sút lá

Ðể ta còn khuyên gió...gió đừng rung cây...

những dòng khinh bạc quay quắt:

Tôi ơi! Tôi ơi!... Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù...

Tôi càng đứng bơ vơ đầu cổng tỉnh..

Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống

Tôi không có đủ tình yêu

Yêu trái đất lục đục thế này...

rồi lại ngọt đắng:

Gió ơi đừng vội tủi

Khuya rồi! Hãy tới khóc ở hom sông...

Có lẽ thu rồi em nhỉ

Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa...


Chỗ nào ông cũng thổi một sự sống khác thường vào những con chữ, chỗ nào cũng dành cho ta một bất ngờ. Biết bao giờ số đông người đọc Việt Nam mới dọn lòng, dành cho tài năng ghồ ghề jờ joạcx này một chỗ?

 

Số phận của Trần Dần là số phận hoàn toàn cô đơn và trong bóng tối theo mọi nghĩa của một người dốc hết mình vào thửa ruộng thử nghiệm của văn học, đặc biệt là của thi ca, một người, để dùng lại chữ của Nhân Văn Giai Phẩm mà chắc sau này ông cho là mauvais gout lắm, moi tim moi óc làm thơ, một Tư Mã - như tên ông đặt cho mình và bạn bè - suốt nửa thế kỷ không chịu lùi một ly chữ, để làm cái việc mà ông gọi là thồ thơ tự xứ này lên. 


Một người đi suốt ván chiêm bao của những cái bị nợ và tự nợ, đánh suốt một ván đời với cái biết và cái chưa biết. Ông nói rằng, cái biết là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.


Tôi không dám nói ông đã thành công trong bao nhiêu mùa thử nghiệm của mình. Chỉ biết rằng, những ai may mắn đến lấy một hạt giống ở ông, rồi đem về đất của chính mình, đổ sức của chính mình vào đó thì ắt là thành công, trong những trường hợp hiếm hoi như Ðặng Ðình Hưng thì là một thành công lớn. Còn nếu không cũng được một mùa, theo chữ của ông, là mùa sạch.

 

Trần Dần từng nói, “tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn chúng tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.” 


Nhưng trong một sổ bụi ông lại tự hỏi: lớp trẻ liệu có còn được một cơ hội mấy chục năm quốc nạn như mình không để làm cái việc ấy? 


Ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cũng linh cảm nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của quốc nạn. Văn chương bây giờ có vẻ như chưa cần đày đọa đã ngắc ngoải tự hủy, chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai?

 

Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu tôi phải có được một văn cách. 

1997

(Đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học, 1997)


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 19, 2023 06:51

November 17, 2023

Có phải là thất đức?

 

Xãhội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và sự thực là nhiềukhi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều người đã phải lao vàohành động để đáp ứng sự đòi hỏi của hoàn cảnh cũng như để tạo nên những bước đinhịp nhàng với các đồng loại. Đến khi có dịp nhìn lại những lần “nhắm mắt đưachân” kiểu ấy, người ta không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mìnhđã làm việc này việc nọ. Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều? Và thếlà các kịch bản cũ, nói chung lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch. Và tôi ngờrằng dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không hình dung hết quy môcủa tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm. Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa,lấp liếm, thái độ lảng tránh sự thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêmmột chút sắc thái hài kịch.

Dướiđây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen của tôi đang trảiqua. Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi kịch không phải không nhìn thấytình thế của mình. Có điều, nói như A. Camus, khi đã xuống thuyền rồingười ta không thể quay trở lại được nữa.

Ấylà câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một số giáo sư thamgia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã đổi là tiến sĩ).

*

Từnhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó, bởi trong chuyênngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời gian đầu, mỗi khi gặpnhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn anh nhăn nhó và kể với tôilà các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới,vốn đã rất yếu nên sau mười mấy năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếnglà đã xong đại học mà nhiều khi “chẳng hiểu nếp tẻ gì cả” (trong ngôn ngữ hàngngày, Ng.  thường thích thậm xưng mộtchút như vậy).

Nhưngcó lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, một số trong họ lại rấtsính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi giá. Thế là hìnhthành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy. Song làm mà vẫn ngại,vừa làm vừa chán chường. “Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chảdây dưa gì đến văn chương thì mới dám tiếp tục” -- anh Ng. có lần tâm sự.

Nhiềunăm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu không muốn nói cứđuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ còn mảimiết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh yên thì phảihơn. Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu ĐôngKi-sốt trong người? Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lạicó lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:

--Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?

--Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉtiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.

--...

--Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung nó chạytheo hướng nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.

Đếnchỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chungquanh về khía cạnh chính của vấn đề. Là không vất vả như luyện thi, nhưng côngtác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặcloại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy. Không ai côngbố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng giăng với nhau cả chỗriêng tư lẫn chỗ đông người.

Chẳngcần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng. Từ chỗ chê ỉchê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc. Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có đượcanh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào. Anh manglại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải. Giờ đây có ai đótrong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới công tác hướng dẫn luận án,anh không bắt lời nữa. Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởngđây là chuyện mâm cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó mộtcách soi mói.

*

Khôngphải chỉ riêng anh Ng. kính mến của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở ngànhnào, người ta cũng nghe nói tới những ca tương tự và cách xử lý tương tự. Bắt đầulà kiếm ăn, sau coi đó là sự nghiệp: Không ít người thông minh đã gặp nhau ởcùng một cách nghĩ!

Tiếptheo nhiều lời eo sèo bị bỏ qua, về phần mình, tôi muốn được phép bàn rộng thêmra và bàn theo cái cách hơi cổ một chút.

Cáccụ xưa có hai tiếng “thất đức” để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đờisau. Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh làmcó thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối. Các anh là nhữnggiáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ kiến thức cho người khác.Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề làm thuốc bao giờ cũng được trọngvì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đứcđược?

 Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng “mang nhãn hiệucủa anh Ng”, bên cạnh những cán bộ khoa học tạm được, (và có thể có những ngườibiết đâu còn vượt cả anh Ng. nữa) cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm. Mà càng nhữngngười kém chuyên môn càng giỏi xoay xoả, leo trèo. Sau khi có bằng cấp, một sốtrong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong nghiên cứu khoa học và đào tạocác lớp người sau. Nói cách khác, lớp người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấpsố nhân. Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và nhữngđồng sự của anh. Tôi rất ngại dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra chữ khácđích đáng hơn.

Đã in Nhân nào quả ấy 2002

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 17, 2023 23:39

November 5, 2023

Phan Quang "Nguyễn Hiến Lê – hai mươi năm, một trăm cuốn sách"

 Nguồn https://dantri.com.vn/xa-hoi/nguyen-hien-le-hai-muoi-nam-mot-tram-cuon-sach-1225593421.htm

Từ miền Trung đi thẳng vào Sài Gòn, ngay sau khi thành phố vừa giải phóng, một trong những mong ước đầu tiên của tôi là gặp gỡ một số trí thức và văn nghệ sĩ từng nghe tiếng.

Hầu hết, những vị tôi muốn gặp đều tiếp người ngoài Bắc vào với thái độ nhiệt tình, ít nhất cũng lịch sự dù không giấu vẻ lạnh lùng. Duy có hai người khước từ: Thượng toạ Thích Trí Quang và học giả Nguyễn Hiến Lê.

“Văn kỳ thanh”

Tôi gặp nhà sư Thích Trí Quang chủ yếu vì tò mò. Còn Nguyễn Hiến Lê là người mình thực lòng hâm mộ. Vì vậy, chờ một thời gian lâu cho tình hình thành phố thật ổn định, tôi lại đến gõ cửa ngôi nhà có gốc hoàng lan ở đường Kỳ Đồng.

Dường như đối với học giả nổi tiếng này, tôi có chút duyên. Tôi nghe tên ông đã lâu, tuy chưa được tiếp cận trọn vẹn một tác phẩm nào. Ở Hà Nội thỉnh thoảng vẫn gặp ông trên tạp chí Bách khoa được tiếng đứng đắn xuất bản tại Sài Gòn. Bài nào ông viết cũng toát lên sự tự tin về kiến giải, lời văn mạch lạc, giản dị và trong sáng lạ thường.

Tại Đà Nẵng, tôi hay la cà các hiệu sách. Một lần, chị hàng sách thấy khách xem nhiều mua ít, nghĩ chắc anh bộ đội không đủ tiền, liền bê một chồng sách từ trên giá xuống, bảo tôi mang theo mà đọc. Tôi chọn lấy hai cuốn, biết mình còn tiếp tục đi xa về hướng Nam, và cũng không muốn lợi dụng lòng tốt của đồng bào. Hai cuốn sách ấy đều của Nguyễn Hiến Lê. Cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ của nhà sử học Mỹ Will Durant do ông dịch, và bộ Sử ký của Tư Mã Thiên ông cùng làm với Giản Chi.

Tờ tạp chí mới duy nhất in trước ngày 30/4 bày bán tại hiệu sách tôi mua được ở Sài Gòn cũng lại là tờ Bách khoa số cuối cùng (426) ra ngày 20/4/1975. Đây gần như là một đặc san mừng cuốn sách thứ 100 của Nguyễn Hiến Lê, xuất bản khớp với ngày phát hành tạp chí. Cuộc triển lãm toàn bộ tác phẩm của nhà văn nghe nói định làm ở nhà sách Khai Trí đã không diễn ra vì thời cuộc.

Đến khi say sưa tìm hiểu đồng bằng sông Cửu Long, sưu tầm tài liệu về vùng đất ấy, tôi lại gặp Nguyễn Hiến Lê. Cuốn du khảo Bảy ngày ở Đống Tháp Mười phần nào mảnh mai về độ dày mà ngồn ngộn thông tin, chứa đựng nhiều tư liệu vững chãi. Một cuốn biên khảo hấp dẫn gần như tiểu thuyết. Tôi nhiều lần trích dẫn nó trong các bài viết cuối những năm 1970 về đồng bằng Nam Bộ.

Cuộc gặp đầu tiên

Một con người dong dỏng, mái tóc hoa râm, vẻ mặt đăm chiêu, mặc chiếc sơ mi trắng dài tay rộng và chiếc quần Âu cũng rộng thùng thình, hơi khác thường so với thời trang bó sát người thời ấy. Đó là hình ảnh nhà văn Nguyễn Hiến Lê lưu lại trong tôi khi ông thong thả từ gác hai xuống tiếp khách. Trước khi vào phòng, tôi đã dừng lại một phút ở hành lang ngắm cái tủ sách đóng theo lối cổ xếp đầy sách, toàn tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê.

Tôi trao tặng ông cuốn sách mới in, Đất nước một dải tập hợp những bút ký viết dọc theo chiều đất nước, từ khi giải phóng Quảng Trị ngày 19/3/1975, qua Huế, Đà Nẵng, Đèo Cả, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn đến “những cánh đồng thẳng cánh cò bay”, do Nhà xuất bản Thanh Niên vừa ấn hành. Ông nói: “In cũng nhanh nhỉ” trong khi những ngón tay tiếp tục lật các trang và đôi mắt lướt qua các bài viết. Đến trang cuối sách, ông ngẩng đầu hơi lộ vẻ ngạc nhiên: “Mười nghìn bản?”.

Đặt sách xuống bàn, ông nói tiếp: “Ở trong Nam này, sách in lần đầu, chẳng bao giờ lên tới con số ấy”.

Dường như cuốn sách nhỏ giúp đánh tan bầu không khí phần nào lạnh nhạt ban đầu. Thay những lời đối đáp xã giao, ông mặn mà trả lời những câu tôi hỏi. Tôi kể ông nghe chuyện được biếu sách tại Đà Nẵng, và thật thà nhắc lại, ngay sau ngày mới giải phóng tôi có đến thăm ông, tiếc là gặp lúc ông không được khoẻ. Ông nói: “Tôi mắc bệnh đau bao tử từ lâu, thỉnh thoảng nó lại hành cho một trận”. Tôi đáp: “Bệnh của người lao động trí óc. Chắc bác biết, tại bác làm việc quá miệt mài, ngồi tại chỗ, ít đi lại…”. Ông cười: “Tôi biết tất cả. Biết mà không sao làm khác. Cái nghiệp của mình là đọc và viết mà…”.

Tấm gương sáng về tự học

Đời văn của Nguyễn Hiến Lê là một hiện tượng hiếm thấy ở nước ta. Nghiên cứu, biên khảo, cảo luận, tiểu phẩm, dịch thuật, bình chú…, trong khoảng thời gian hai mươi năm (1955 – 1975), cho ra đời một trăm tác phẩm – trong đó nhiều cuốn ba, bốn tập và rất có giá trị.

Giáo sư Đào Duy Anh đánh giá bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê là “tác phẩm trội nhất từ trước tới nay trong loại của nó”. Bộ Đại cương Triết học Trung Quốc viết chung với Giản Chi là một tác phẩm đồ sộ (1.700 trang). Ba tập Lịch sử văn minh Ấn Độ, A Rập, Trung Quốc, dịch của Will Durant, có chú giải và bình luận dày hơn hai ngàn trang.

Bảy, tám năm cuối đời (1975-1984), trở về sống tại đồng bằng sông Cửu Long nơi ba mươi năm trước ông giã từ để “lên Sài Gòn sống bằng cây bút”, nhà văn còn viết và dịch thêm hơn hai mươi cuốn nữa. Có những cuốn đòi hỏi sự nghiên cứu công phu, như khảo luận triết học Trung Hoa trước đời Tần. Chỉ tính riêng về số lượng, đã là một kỳ tích.

Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương sáng về tự học. Ra đời làm một kỹ sư công chính, vốn Tây học của ông khá dày dặn. Tuy nhiên, cho dù xuất thân gia đình Nho học, thuở nhỏ có theo đòi đôi ba chữ Hán, và về sau, những kỳ nghỉ hè cũng có về quê học với ông bác, vốn Nho học của ông “trước sau có bốn tháng, mỗi ngày học hai giờ!. Thuộc bốn ngàn từ, quên mất một nửa”.

Sau khi đỗ kỹ sư, thời gian chờ việc, ông học chữ Hán. Chiều chiều đến Thư viện Trung ương đường Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia) mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Rồi “bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và ngữ nào đoán thường dùng mà chưa biết thì chép lại trong một tập vở, mỗi ngày độ ba, bốn chục từ”. Tối hôm đó và sáng hôm sau học thuộc những gì sáng đã ghi chép, chiều lại đến thư viện.

Ông còn mượn cuốn Ngữ pháp tiếng Trung của một tác giả viết bằng tiếng Pháp để học và ghi những điều quan trọng. Với cái vốn ấy, bắt đầu đọc nguyên bản truyện Tàu (Tam quốc chí), lúc đầu chậm sau nhanh, càng quen càng thích…

Đừng cầu danh, danh sẽ tới

Thời học sinh, ông cũng có học tiếng Anh, vừa đủ để vượt qua cửa ải môn ngoại ngữ kỳ thi tú tài. Chính sách của nhà cầm quyền Pháp thời trước, dù không nói ra, không muốn học sinh Việt Nam biết thêm một thứ gì khác ngoài ngôn ngữ và văn chương Pháp. Để có thể làm việc nghiên cứu, biên dịch, trước tác, Nguyễn Hiến Lê tự học thêm Anh ngữ, khá tới mức được một trường tư thục mời dạy Anh văn. Ông quả quyết: “Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình (về ngoại ngữ), muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt”.

Trau dồi ngoại ngữ, ông không coi đó chỉ là phương tiện làm việc mà còn là một cửa ngõ đi tiếp vào biển học không bờ. Cuối đời, sau khi đã tạo lập nên một sự nghiệp đáng nể vì, Nguyễn Hiến Lê khẳng định: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ Học và Viết… Chép về đời văn của tôi, phải nhắc trước hết đến việc tự học”.

Ông có lời khuyên các bạn trẻ, thoạt nghe như nghịch lý mà rất nghiêm trang: “Khi muốn học về một vấn đề nào thì cứ viết sách về vấn đề ấy… Viết sách tức là tự ra bài cho mình làm. Học mà không làm bài thì chỉ mới đọc qua chứ không phải học”. Một thái độ như vậy có phần nào chưa thật trang nghiêm đối với công việc trước tác chăng? Dường như thấy trước phản xạ của độc giả, ông trấn an ngay: “Khi viết nên nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải để cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn…”.

Đọc – ghi và viết

Đọc và viết là nếp sống hằng ngày của Nguyễn Hiến Lê. Buổi sáng, sau điểm tâm, công việc mở đầu ngày làm việc là đọc chứ chưa phải viết. Đọc hết nửa buổi, mới ngồi vào bàn. Chiều cũng vậy. Còn cả buổi tối chỉ dành cho sự đọc. Sách nào mua về cũng đọc, dù chán cũng ráng mà đọc, để biết qua nội dung “trừ loại chưởng của Kim Dung”.

Những nơi đọc sách luôn để sẵn cây bút chì và cục gôm (tẩy). Đọc thấy chỗ nào đáng chú ý, cần xem lại hoặc ghi chép thì đánh dấu vào trang. Đọc xong chương nào, giở lại xem những đoạn có đánh dấu, ghi ngay những điều cần nhớ hoặc suy nghĩ, bình luận của mình.

Về mặt này, ông có điểm giống văn hào Ernest Hemingway: “Điều lớn lao nhất là sống, là làm công việc của mình – Hemingway nói – là nhìn, học và hiểu. Rồi lúc ấy mới viết, sau khi đã biết được một điều gì đấy, sau chứ không phải trước”.

Những người cầm bút đều biết, viết không phải lúc nào cũng là một thú vui. Đối với Nguyễn Hiến Lê, “dù không có hứng cũng đúng giờ ngồi vào bàn viết, viết bừa vài câu, nửa trang, rồi hứng tự nhiên tới”. Có thấy cách làm việc của ông, mới hiểu tại sao ông trước tác được nhiều như vậy. Nhà thơ Quách Tấn uyên thâm cổ văn từng ngạc nhiên: Riêng việc Nguyễn Hiến Lê đọc sách cũng đã khó có người bì kịp, chứ đừng nói đọc rồi còn viết.

Một đặc điểm nổi bật trong phương pháp làm việc của Nguyễn Hiến Lê là ghi chép. Ông ghi cẩn thận, không mệt mỏi, thường là tại chỗ qua mỗi chuyến công vụ khi còn làm công chức (mà ông gọi là “đi kinh lý”) hoặc những lần chuyển dịch vì việc riêng. Từ khi bắt đầu cầm bút, ông đã có thiên hướng viết du ký, đi đến đâu ông cũng chịu khó ghi chép cảnh đẹp, tục lạ, cổ tích… Trở về nhà, ghi ngay lại cảm tưởng cả chuyến đi. Văn phong của ông lưu loát.

Hãy đọc lại một đoạn ông viết bảy mươi năm trước về cái ga xép Lăng Cô, nay là điểm du lịch khởi sắc ở miền Trung, nhất là từ khi hoàn thành đường hầm Hải Vân: “… Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt một bức tranh thuỷ mặc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ, bằng phẳng, trồng toàn dương, có chùa có nhà, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm ra khơi, hay những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một đảo nào ở chân trời mù mịt, ngồi ở góc đường đầu cầu này mà ngắm trời nước…”.

Sách đã in ra, ông vẫn kiếm tiếp tài liệu để bổ sung khi tái bản. Như cuốn Đông kinh nghĩa thục (xuất bản lần đầu 1956), lần tái bản bổ sung ba mươi trang (1968), in lần thứ ba thêm hai mươi trang nữa (1974).



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 05, 2023 00:45

June 23, 2023

Hiểu thêm về người Việt và sử Việt qua một khía cạnh tâm lý chi phối cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn thế kỷ xvII

 

“Bối cảnh lịch sử VNgiai đoạn 1558 đến 1802-- phân tranh và thống nhất“ là tên bài viết công phu vàđồ sộ của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan trên tập san NGHIÊN CỨU HUẾ tậpbảy - in ra từ đầu 2000.

 Ở trang 97 của số tập san trên, tôi bất ngờtìm thấy một đoạn trong lá thư của Chúa Trịnh gửi Công ty Đông Ấn Hà Lan tạiBatavia vào năm 1637:

 

“Một số thú vật manghình người đã thiết lập một nước ly khai ở biên giới phía nam của chúng tôi vàđang dựa vào vị trí phòng thủ vững chắc để chống lại triều đình của nhà Lê ởThăng Long.

Chúng tôi chưa làm gìvới họ vì chúng tôi ngại điều bất ngờ có thể xảy ra ở phía biển.

Vì các ông có ý địnhthân thiện với chúng tôi, các ông có thể cho chúng tôi 2 hoặc 3 chiếc tàu, hoặc200 lính thiện xạ, xem như chứng cứ cho thiện ý của các ông.

Những người lính nàycó thể giúp chúng tôi sử dụng các khẩu đại bác. Thêm vào đó xin vui lòng gửicho chúng tôi 50 chiến thuyền cùng với số lính tuyển chọn, và những khẩu súngmạnh, và chúng tôi sẽ cử một số lính tin cậy của chúng tôi tới hướng dẫn cácchiến thuyền của các ông tới Quảng Nam, xem đó như là sự hỗ trợ từ phía chúngtôi.

Đồng thời đạo quâncủa chúng tôi sẽ tấn công Thuận Hóa.

(…) Sau khi chiếnthắng, chúng tôi sẽ ban tặng cho binh lính của các ông 20.000 tới 30.000 lạngbạc.

Còn về phần mà cácông được hưởng—chúng tôi sẽ trao xứ Quảng Nam cho các ông cai trị.

Các ông có thể chọnmột số lính để xây dựng và canh gác thành và chúng tôi sẽ truyền lệnh để ngườidân ở đó làm lao dịch cho các ông. Các ông có thể thu hoạch các sản phẩm trongvùng và gửi một phần cho triều đình chúng tôi, như thế cả hai bên đều đượchưởng lợi.

Trời sẽ phạt chúngtôi nếu những kiến nghị trên đây có gì gian dối.”

 

---

 

Tài liệu trên là mộtgợi ý để hiểu về đời sống xã hội VN và tâm lý người Việt trong mấy thế kỷ gầnđây

-- Khi nói về cáccuộc chiến tranh trong lịch sử, các bộ chính sử thời nay thường chỉ nhấn mạnhđó là lịch sử chống ngoại xâm. Nhưng xét kỹ thì hóa ra số tháng năm chống ngoạixâm ở  ta có lẽ là không bao nhiêu so vớinhững năm tháng xảy ra nội chiến giữa các tập đoàn thống trị. Lại có những cuộcchống ngoại xâm được châm ngòi từ nội chiến.

-- Những cuộc đấutranh này hết sức tàn khốc.

Chúng ta đều biết haví dụ “kinh điển”

Trong truyện cổ tíchThạch Sanh, sau khi Thạch Sanh chém đầu Mãng xà vương, Lý Thông lấp hang giếtThạch Sanh chứ không thể có chuyện dẫn Thạch Sanh về về báo công với nhà vua đểcùng hướng vinh hoa.

Hoặc trong Tấm Cám mẹcon Cám nhất định phải giết Tấm bằng cách cách chặt cây cau mà Tâm đang trèo,cũng như sau này Tấm phải giết Cảm bằng cách xui Cám lấy nước sôi mà tắm.

Tình hình cũng tươngtự giữa các tập đoàn quân sự khi tranh giành vai trò thống trị.

Sở dĩ người ta làmthế, vì ở ta, tính chính danh của các tập đoàn thống trị quốc gia thường đượcxác nhận sau khi đánh thắng giặc ngoại xâm mặc dù các tập đoàn ấy tiến tới ngôiVương bằng con đường vô đạo như nhà Trần diệt nhà Lý chẳng hạn.

Lâu dần rồi quen đi,khi giữa các tập đoàn phong kiến có sự tranh đấu sống còn, thì quy luật vẫn là“được làm vua thua làm giặc”

-- Cũng bởi các lý dotrên, trong cuộc nội chiến, mọi thủ đoạn đều được vận dụng.

 Để lôi ngoại bang vào cuộc, do đó mà tăng thêmsức mạnh diệt kẻ đối kháng, người ta sẵn sàng dành cho ngoại bang mọi ưu đãi,kể cả những việc suy cho cùng phải coi là bán nước.

Tức không việc gì màhọ không dám làm, không thủ đoạn nào bị chê là dơ bẩn.

Nền độc lập của quốcgia không có gì là thiêng liêng như họ vẫn tuyên bố.

Theo ngôn ngữ hiệnđại, cũng có thể bảo có vẻ như lúc ấy đã sớm có một cuộc chiến tranh chính trị,các bên tham chiến đều tự nhận là mình có chính nghĩa và phía bên kia là phinghĩa và áp đặt cho kẻ thù đủ mọi thứ danh hiệu xấu xa nhất.

Người ta coi kẻ thùkhông còn là người nữa.

Người ta “đặt kẻ thùra ngoài vòng pháp luật”

Bằng chứng là mở đầuthư nói trên Chúa Trịnh đã gọi Chúa Nguyễn là “những thú vật mang hình người”mặc dù trước kia Nguyễn Hoàng và Trịnh Kiểm là anh em trong nhà.

Nếu bảo rằng lối suynghĩ này còn chi phối chúng ta trong lịch sử hiện đại tức là nói trong ba thếkỷ từ XVII tới XX ý thức của người Việt về dân tộc vẫn đứng nguyên. Và đâu đãthoát khi bước sang thế kỷ XXI?

 

 

-------------------

Phụ Lục

LUÔN LUÔN TỒN TẠI

NHỮNG DÒNG NƯỚC NGƯỢC

CHỐNG LẠI XU THẾ THÙ GHÉTNHAU KHI CÓ NỘI CHIẾN

*

Tríchbài của Lê Bình Ngô

Nội chiếnViệt Nam - Trịnh - Nguyễn phân tranh và mưu đồ dòng họ.

trên trang mạng Yêu sử Việt

http://www.yeusuviet.com/2019/04/noi-...

 

 

Trởlại với cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh,trong tác phẩm "Nam triều công nghiệp diễn chí" của Bảng trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm, tác giả đã mô tảvà diễn lại theo lối tiểu thuyết lịch sử một cách công tâm. Điều đáng nói,Nguyễn Khoa Chiêm là bầy tôi nhà Nguyễn, nhưng đã viết đầy đủ những mặt trái,sai lầm của họ Nguyễn ở phương Nam.

 

Cảbao nhiêu năm trời đất trời Đại Việt loạn lạc, tang thương bằng những mưu đồcủa các tập đoàn phong kiến, đã đẩy dân tộc ta đến bến bờ tự diệt lẫn nhau. Mayrằng lúc đó dù là nội chiến, nhưng quân lực và tiềm lực nước ta vẫn còn mạnh,nên Nhà Minh chỉ dám mượn thế Nhà Mạc để bức ép mà không dám dấy binhsang đánh nước ta.

 

 Nhưng may mắn gấp trăm lần hơn khi hận thùdòng tộc đã không kết thúc bằng một cuộc tàn sát đẫm máu khi hoàng đế Gia Long - hậu duệ đầu tiên của chúaTiên Nguyễn Hoàng, trở về Thăng Long. Dù rằng sự trả thù tàn bạo nhà Tây Sơn là việc làm không thể chốicãi, nhưng trong việc đối đãi với kẻ thù không đội trời chung của cả một dònghọ, Gia Long đã làm một việc rất chính đángvà cần được ghi nhận



Kếtthúc những bài viết về các cuộc nội chiến Việt Nam thờiphong kiến, YÊU SỬ VIỆT xin mượn câu nói của ngườilính Bắc Trịnh nói với người lính Nam Nguyễn:

 Chúngtôi với anh em đều là người với nhau cả, sao nỡ tàn giết nhau thế này. Chỉ vìnhà Chúa đối nghịch, mà anh em ta mới phải giết nhau. Vậy chúng tôi nói anh em,nếu trái phá rơi vào trong thành, ai ở gần thì năm sát xuống đất, ai ở xa mautìm chỗ trốn cho nhanh, như thế thì không bị sao cả.

 

KhiTổ quốc phải bước đến bờ vực nội chiến, đó là sự kiện không một người dân nàomong muốn. Nhưng như những cuộc chiến chống ngoại xâm khác, kể cả những cuộc nộichiến có xảy ra, người dân Việt vẫn sẽ chọn đất nước lên trên hết lợi ích củabất kỳ một dòng họ nào.

 

Sựthắng thế của một dòng họ, một tập đoàn quyền lực chỉ mang yếu tố thời kỳ, chỉtrong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi tính chính danh không còn và nhữngthủ đoạn chính trị được phơi bày ra hết, cũng như sự vững mạnh của sức mạnhnhân dân đã đến một giai đoạn nhất định, thì những vị anh hùng như Bình Tây đạiNguyên soái Trương Định sẽ xuất hiện và nhận lãnh trọng trích của người nói lênvà thi hành ý chí của nhân dân:

 Triềuđình Huế không thừa nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc của chúngta.

 

Nội chiến sẽ dẫn đến cơ hội cho nhữngcuộc xâm lược ngoại bang. Nội chiến sẽ dẫn đến nỗi đau đất nước chia cắt, anhem cùng một nhà lại tàn sát lẫn nhau. Nội chiến sẽ đẩy lùi sự phát triển củadân tộc, sẽ thiêu rụi tiềm lực quốc gia và chỉ mang lại những mất mát, đauthương, thống khổ cho người dân. Những cuộc nội chiến trong quá khứ chính là nhữngbài học lớn nhất, đau đớn nhưng sâu sắc nhất cho thế hệ hôm nay và tương lai,rằng không có bất cứ điều gì có thể lớn hơn Tổ quốc - Dân tộc và Nhân dân,lợi ích của Quốc gia và Dân tộc phải đặt lên trên lợi ích của dòng tộc đang nắmquyền, phải lấy Dân làm gốc và bất kỳ triều đại nào đi ngược lại những điều ấy,đều sẽ sớm chuốc lấy sự thất bại, sụp đổ và thời điểm xảy ra việc đó, chỉ mangtính thời gian.

 

Sautất cả những cuộc nội chiến, chỉ có Dân tộc là đau thương nhất, tang thươngnhất và cũng khi nội chiến kết thúc, chỉ có Dân tộc là vui mừng nhất, hạnh phúcnhất. Nhưng đừng để nỗi đau chia cắt dân tộc còn kéo dài từ thời kỳ nội chiếnđến cả trong thời kỳ hòa bình, đó là điều mà Gia Long đã làm với họ Trịnh.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 23, 2023 14:04

June 12, 2023

Một dòng sử "chệch hướng" rất nên tìm đọc

 

Trêntrang mạng  Nghiên cứu lịch sử năm năm về trước, tôi  từng đọc được bài viết mang tên“Nguyễn Trãi: bề tôi của bốn dòng vua”  của Lê Tư


https://nghiencuulichsu.com/2018/01/1...

 

Bài viết khiến tôi sửng sốt, vì cáithiên hướng tôi muốn tạm gọi là đảo chiều lịch sử, mà thiên hướng này lại khôngcưỡng nổi do nơi khả năng bao quát tư liệu và sự định hướng mới mẻ của nhà nghiên cứu.

 

Có lẽ do sự đọc VIỆT SỬ ở tôi cònquá ít nên bài viết về Nguyễn Trãi sinh bất ngờ chăng.

Nhưng hóa ra không phải. Càng ngàytôi càng bắt gặp cái xu thể xem xét này bộc lộ ở những tài liệu dịch gồm cảnhững cuốn sử Việt tiếng Hán viết từ thời cổ lẫn những nghiên cứu Âu Mỹ mới rađời gần đây…

 

Ví dụ nổi bật nhất là cuốn Cuộc nổi dậy của Tây Sơn (George Dutton:Tây Sơn uprising )Lê Nguyễn dịch

 

Tôi tự đăt câu hỏi “chẳng nhẽ giữathực tế lịch sử và “những gì mà ở trong nước chúngta gọi là sử và lăm lăm tính chuyện truyền lại cho các thế hệ sau” lại cách biệt đếnthế này ư”.

 

Tôi chỉ thấy loạt bài của Lê Tư hồiấy đầy sức thuyết phục mà dư luận thì lại quá thờ ơ

Dù vậy, tôi đã giới thiệu thành tựunghiên cứu này trong bài viết ngắn trên blog cá nhân 03tháng 3, 2018

 

vuongtrinhan.blogspot.com/2018/03/lam...

 

Còn bài viết sau đây thì của nhànghiên cứu trẻ Quang Phan đưa trên Fb của tác giả ngày 6-6-2023. Cũng kể lạimột chuyện động trời là Quang Trung Nguyễn Huệ đã hàng phục Càn Long như thếnào.

Xin giới thiệu để các bạn cùng đọc.

 

*********

 

TẠI NHIỆT HÀ, QUANGTRUNG MÒN GỐI SẮT.

TRỌ BẮC KINH CHIÊUTHỐNG GỬI LÒNG SON

 

Giữa thế kỷ 20, mộtvài nhà sử học Việt Nam tiêu biểu như Trần Huy Liệu và Văn Tân đã xem xét cácsự kiện của thời đại Tây Sơn và tìm thấy ở đó yếu tố Cách Mạng.

 

Họ cố gắng mô tả cuộcnổi dậy của Tây Sơn như là: tiến bộ xã hội, lật đổ các thế lực chính trị thủcựu, tham nhũng, chấm dứt sự chia rẽ đất nước và bảo vệ quốc gia trước các mốiđe dọa bên ngoài và phát huy tinh thần bản địa.

 

Cách diễn giải này đãche đậy những phức tạp thật sự của thời kỳ Tây Sơn nhưng không sao hết, nó phùhợp với yêu cầu chính trị của nhà nước tại miền Bắc Việt Nam sau 1954 (1)

 

 

Khi Tây Sơn ra Bắc,cung đàn trong Đại Nội vang lên thì có cái khung cảnh như thế này đây:

Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mêđiên đảo

Mãi vui suốt đêm không biết chán

Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng

Tiền bạc coi rẻ như đất bùn

Ý khí hào hoa át cả các bậc vương hầu

Ðám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đángkể(2)

 

 

Bên cái cảnh tướng sĩTây Sơn đãi tiền con hát, coi tiền bạc rẻ như đất bùn, vui chơi thâu đêm thì ởcòn một Bắc Hà khác. Nạn đói đến độ có người phải bán vợ cho viên tướng Tây Sơnđổi lấy trăm lạng bạc đem về nhà cứu mẹ cứu con (3).

 

 

Kinh tế khó khăn,thành thị - thương cảng tiêu điều. Trong nam ngoài bắc không còn gì để mà cướpcho ra tiền, lại phải đối đầu với kẻ địch mạnh và rất nhiều cựu thù đang lăm lequật khởi, Quang Trung đã sớm tính tới việc nghị hòa với nhà Thanh.

 

 

Đường tới Nhiệt Hà

Thật lòng thì có vẻCàn Long không muốn sa lầy tại Annam. Ông ta nhân danh Hưng diệt kế tuyệt đem Chiêu Thống về lại thành Thăng Long, sắcphong Annam Quốc Vương. Cận tết Kỷ Dậu, ông hối thống đốc họ Tôn nhanh chóngrút quân về. Việc Càn Long giao cho Tôn Sĩ Nghị chỉ có vậy.

 

TônSĩ Nghị sau khi đã sắp xếp yên ổn cho Lê Duy Kỳ rồi hãy thừa thế cho quân tỉnh Điền [cánh quân Vân Quí] rút về theo lối Việt Tây [Quảng Tây] rồi sau khi tiến khẩu lại theo đường Việt Tây về tỉnh Điền nhưng đừng quá nhiều để những nơi như Tuyên Quang, Hưng Hoá thu phục rồi mà quân đóng chơ vơ ở đó để có thể làm cho toàn cục đổ vỡ không hoàn thành.

 

 

Trẫm nghĩ họ Lê lập quốc đã lâu, khí vận suy dần gần đây nhiều phen loạn lạc mà Lê Duy Kỳ lại là người nhút nhát bất tài, chung quanh không có ai phò tá. Xem tình hình đó chắc là lòng trời đã chán ghét họ Lê, nếu như có thể bắt được bọn Nguyễn Huệ đem ra chính pháp mà Lê Duy Kỳ không thể tự mình chấn tác làm cho được việc, ví thử có một Nguyễn Huệ khác lại nổi lên làm loạn thì lẽ nào lại làm phiền binh lực thiên triều thêm mấy lần?

 

 

Trẫm biện lý công việc đều thuận theo trời mà làm, nay trời đã ghét họ Lê mà trẫm lại muốn nâng đỡ thì không phải là tôn kính lòng trời, là đạo phủ ngự thuộc quốc vậy. Việc tiến tiễu Quảng Nam lúc này chưa thuận tiện để làm, vậy hãy tuân chỉ tức tốc quay về không nên ở lại nơi đó thêm nữa (4).

 

 

Chỉ dụ này còn chưatới nơi, Tôn Sĩ Nghị đã bại binh tháo chạy, Càn Long càng cho rằng Annam khôngdễ bình định. Giả sử có dốc ½ quốc khố (30 triệu trong số 60 triệu lạng) thìđánh được mà không chắc giữ được.

 

Vậy thì Lê Duy Kỳ hayNguyễn Quang Bình (Nguyễn Huệ) chẳng quan trọng. Quan trọng là Annam mãi làAnnam, bất chiến tự nhiên thành.

 

Thêm việc chả bằngbớt việc, soi gương lịch sử, Càn Long cho rằng: “Huống chi An Nam dân tình phản phúc, trước đây những nước thắng được họ [tức là các triều đại Hán, Minh…] lấy làm quận huyện, chẳng bao lâu cũng sinh biến cố, trong lịch sử đã có gương xe đổ rồi” [nên bây giờ chẳng nên đi theo vết cũ].

 

 

Trong chỉ dụ cho PhúcKhang An, Càn Long nhắn nhủ: Nguyễn Huệ bất quá là tên thổ mục nước Annam, ngày nay nước ta lại toàn thịnh, nếu tập trung binh lực cho hùng hậu bốn đường cùng tiễu trừ việc đánh thẳng vào sào huyệt của y có gì khó đâu. Thế nhưng nước này xưa nay nhiều chướng lệ, không khác gì Miến Điện. Có lấy được đất cũng không bõ công giữ, có lấy được dân cũng không bõ công cai trị, việc gì phải đem binh mã, tiền bạc lương thực của Trung Quốc tiêu phí vào chỗ nóng nực, hoang liêu vô dụng như thế? (5)

 

 

Phía Annam thì sao?Chiến loạn liên miên, tiền của hoang phí, sức nước suy kiệt, vị thế chính trịbấp bênh, Quang Trung lại phải đối diện với với kẻ thù lớn hơn gấp bội ấy làĐại Thanh đế quốc. Cho nên ngay nhà vua tính kế hòa với Thanh, chủ trương “lấybạch ngọc thay can qua, chuyển binh xa thành hội áo xiêm” (6).

 

 

Phúc Khang An huyđộng quân 4 lộ dọa nạt thảo phạt Tây Sơn. Bốn lộ quân ấy gồm lục đạo: Vân Nam,Quảng Tây. Thủy đạo chia hai đường một từ Khâm Châu hiệp lực với lục quân, đánhvào khu vực Bắc Bộ, lại một đạo thủy quân nữa từ Phúc Kiến đánh thẳng vào ThuậnHóa.

 

 Dậm dọa thế, nhưng Phúc lại biên thư cho vuaQuang Trung mách bảo cách nói năng khi tấu thư lên Càn Long.

 

 

Đại khái Phúc khuyếnQuang Trung thế này: Nhà Lê thất ngôi, dân chúng bơ vơ, không theo, tôi phảiđưa quân ra chẳng ngờ gặp phải quân nhà vua (Càn Long), tình thế dữ dội, nếu bótay thế nào cũng bị giết hết, nên phải chống lại. Phúc còn để ngỏ khả năng thếnày: Nếu mà lời lẽ cung thuận như thế thì chắc Đại Hoàng Đế thương tình cho chủtrì việc nước.

 

 

Phía Tây Sơn vẫn cứnggiọng. Đại Nam Thực Lục quyển 30 Ngụy Tây Liệt truyện chép lại cái lời tấu biểucủa vua Quang Trung hạch tội Tôn Sĩ Nghị, ví quân Thanh như chuột trong bình,đụng phải “dân binh ba ấp cùng theo” mà tan vỡ chạy bốn phía (xem chú thích 6).

 

 

 Tờ biểu ấy bị quan chức nhà Thanh trả lại kèmcâu hỏi: muốn binh đao hay muốn cầu phong? Quang Trung bèn ủy nhiệm cho Ngô ThìNhậm chuyên tâm soạn thảo thư từ bang giao. Quả nhiên lời thư hiền hòa nhũnnhặn không khác khuyến dụ của Phúc Khang An (7).

 

 

Có cứng có mềm, chungquy vẫn là “Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”. Cuộc hòa đàm mở ra. Muốn thếthì phải có người để mà hắt tội.

 

Người được chọn chínhlà Lê Chiêu Thống. Tội bại binh được Thanh đình (từ Tôn Sĩ Nghị, Phúc Khang An,đến cả các đại thần và Hoàng đế Càn Long) nhất tề đổ lên đầu Lê Chiêu Thống.Rằng ông ta thấy giặc (Tây Sơn) kéo ra thì chạy trước, khiến lòng quân hoangmang hậu quả là thất bại: “Lần này Nguyễn Huệ quay trở lại quấy nhiễu, Lê DuyKỳ nghe tin chạy trốn trước khiến cho dân trong nước Annam hoảng loạn, tình thếkhẩn trương làm cho quan binh bị cắt đứt. Các đề đốc tổng binh tướng lãnh hầuhết đều tổn thất” (8.)

 

 

Cái tội này nghe đãthấy vô lý rồi! Nghị theo lời Càn Long đưa quân rước Chiêu Thống về lại ThăngLong, quyền nghi quân đội đều ở tay Nghị, làm gì có chuyện Chiêu Thống hoảng sợchạy trước khiến binh Thanh bại như núi đổ. Nhưng chẳng sao cả!

 

 Lê Chiêu Thống - Tốt đi đến nước cuốicùng của một đời chìm nổi long đong.

Nhắc nhở quần thầnđang lo việc biên cương phía Nam, quyết ý rũ bỏ Chiêu Thống, Càn Long viện tới ThiênMệnh: “Trước nay trẫm đã biết Lê Duy Kỳ là người hèn yếu, không đủ năng lực, không thể nào dấy lên được. Xem chừng Trời đã ghét bỏ họ Lê rồi, không còn phù hộ nữa. [Lại thêm] Dân tình Annam phn phúc không tin được nên ta đã sớm dáng dụ chỉ ra lệnh Tôn Sĩ Nghị tức tốc triệt binh…” (9).

 

Để cuộc hòa đàm xuôichèo mát mái, thì cả hai bên Việt (Tây Sơn), Thanh đình đều có những bước đilàm đẹp lòng nhau. Phía Tây Sơn trao trả tù binh (800 người), trị tội nhữngngười đã giết hại quan chức nhà Thanh trong đại chiến ở Thăng long (một cáchgiả vờ hoặc ta nghĩ là giả vờ?), cho lập miếu thờ những Tướng sĩ nhà Thanh tửtrận, dâng thư xin quy phục… Nhưng cũng khéo léo từ chối các yêu cầu cống voi,nạp đất…

 

 

Để Quang Trung yêntâm quy hàng, Phúc Khang An lừa ép Chiêu Thống và đoàn tòng vong cắt tóc, thayđổi trang phục. Công phu hơn, họ Phúc còn cho người tìm tới tận nơi mà Lê Quýnhđang lẩn quất để triệu hồi sang Lưỡng Quảng, lừa ép cắt tóc đổi trang phục(10). Lê Chiêu Thống ngây thơ tin lời Phúc Khang An, nhưng Lê Quýnh thì không.Ông trợn mắt nói với Phúc Khang An thế này đây: Lũ chúng tao đây đầu có thểcắt, tóc không thể cạo. Da có có thể lột, y phục không thể đổi.

Phúc Khang An máchnước cho Tây Sơn đã đành, nhưng Càn Long mới là cao thủ trong nghề… nịnh.

 

Khi Nguyễn Quang Hiềnthay mặt vua chú (Quang Trung) sang nhà Thanh cầu phong vương, Càn Long đã gửicho Quang Hiền thịt nai do chính mình dùng súng điểu thương bắn được. Thịt nàochả là thịt, nhưng nai do Đại Hoàng Đế bắn được thì chắc ngon gấp trăm ngànlần. Quang Hiền xúc động không lời nào tả hết: “Chúng tôi lại được ân thưởngthịt nai tươi do chính tay hoàng đế dùng súng điểu thương săn được, là món chưatừng nếm, chưa từng thấy bao giờ. Nhân dịp đó, đại hoàng đế lại ban cho quốcvương đồ quí, chúng tôi cũng mỗi người được ân thưởng, tự hỏi có phúc chừng nàomới được vinh dự như vậy” (11).

 

Nhà Thanh đãi đằngNguyễn Quang Hiển. Khi Hiển đến Quảng Tây, Phúc Khang An thúc ép Hiển theo tìnhthực mà viết thư về báo với Quang Trung mọi lẽ về việc sang dự lễ Bát tuần.

 

Trong tấu biểu vềkinh, họ Phúc viết: “Trước đây bọn thần có tâu lên rằng Nguyễn Huệ tình nguyệnđến kinh đô, trong biểu văn và bẩm thiếp tuy không có những lời ấy nhưng hômtrước khi Nguyễn Quang Hiển tiến quan thì bọn thần cũng đã giảng giải tường tậncho y biết đại nghĩa thì y có nói rằng chủ y là Nguyễn Quang Bình đợi cho việcnước tạm yên thì sẽ nhập kinh để triều cận thiên nhan. Bọn thần xem sắc mặt yvà lời nói cực kỳ cung kính hẳn là do lòng chí thành của Nguyễn Huệ, không phảilà Nguyễn Quang Hiển đến lúc đó mới nói như thế. Cũng vì lời nói đó do khi khẩnyếu e rằng thông sự dịch lại có khi không đúng nên đã lấy giấy bút bảo y viếtra thì cũng giống như lời nói, bọn thần liền đem tờ giấy đó trình lên (12).

 

Khi Quang Hiển (cháucả của Quang Trung) đi sứ cầu phong được đãi như Phó Vương, dự hàng Vương côngthai các, yến ẩm linh đình suốt đường Quảng Tây -Nhiệt Hà (so với Tào Tháo đãiQuan Vũ thật chỉ có hơn không có kém).

 

Đối thủ chính trị củaQuang Trung là Lê Chiêu Thống bị lừa ép cạo đầu đổi y phục rồi đưa đi gặp pháiđoàn của Nguyễn Quang Hiển. Nhóm quật cường là Lê Quý bị tống giam… Quang Trungnhận phong Annam Quốc Vương (tại Thăng Long thành) (13), tiếp đó là ấn Lạc Đà…Tất cả đã đủ để cho Nguyễn Quang Bình yên tâm mà thân tới Nhiệt Hà mừng thọ CànLong chưa?

 

Mà Quang Trung khôngsang bệ kiến Càn Long không được. Đây là điều kiện tiên quyết, ông phải hứasang thì mới được phong Vương. Võ công đánh thắng 11 ngàn lục doanh quân (sửThanh nói có 8700 người) chưa kể Miêu binh, nghĩa dõng, tình nguyện không đủkhoả lấp vị thế chính trị quá yếu kém và bấp bênh của Quang Trung.

 

 

Khi Quang Trung

vận Mãn phục bệ kiến Càn Long

 

Khi mà Quang Hiểnđang trên đường về nước, thì Phúc Khang An đã liên tục phát hịch thư kêu Quốctrưởng Annam sang chầu dự lễ Bát Tuần đại thọ của Càn Long đế.

Trong một bức thư,Phúc Khang An chẳng những kể rõ hành trình của Quang Hiển, nói rõ tâm can củavua Quang Trung rằng “Quốc trưởng bắt đầu dựng nước, muốn tâu với thánh thượngban thưởng cho phong hiệu là để vỗ yên nhân dân” mà còn nói rõ việc an trí LêDuy Kỳ (Chiêu Thống) cùng đám bề tôi, vạch rõ thời gian xuất phát đến Bắc Kinhcho vua Quang Trung.

 

 Hịch văn liên tiếp mấy đạo được họ Phúc phátđi, hối thúc Quang Trung lên đường. Trong một hịch văn, họ Phúc lại nói rõ tướcphong của Càn Long cho Quốc Trưởng (Quang Trung) lên tới hàng Thân vương (14).

 

 

Những tin tức từ PhúcKhang An, từ động thái của Thanh triều, và đặc biệt nguồn tin từ Nguyễn QuangHiển đã khiến Quang Trung thật sự yên tâm:

“người Annam đã thểhiện sự nghiêm túc của mình. Nguyễn Quang Bình không chỉ hứa dẫn đầu một pháiđoàn lên tới hàng trăm người bao gồm con trai ông là Nguyễn Quang Thùy, tháptùng quan là Ngô Văn Sở. Ông yêu cầu cả viên quan văn là Phan Huy Ích đi tháptùng”.

 

Phía Annam còn chuẩnbị những món quà xa hoa, lại soạn ra 10 khúc nhạc ca ngợi sự trường thọ củahoàng đế Càn Long, những lá thư bằng vàng, cùng nhiều sản vật thể hiện lòngtrung thành với Đại Thanh.

Quang Bình (QuangTrung) mong muốn được bệ kiến Càn Long với tư cách là bệ kiến chủ nhân, ngườicha và bày tỏ quyết tâm thực hiện tâm nguyện ấy.

Càn Long (được tin)vui mừng nói: “Vương (trỏ Quang Trung) coi tanhư cha, sao ta không coi hắn như con?” (15)

 

Tháng 1 năm 1790,phái đoàn ngoại giao của Annam lên đường. Tháng 7 cùng năm tới Nhiệt Hà. Tạiđây có các sứ đoàn Triều Tiên, Lưu Cầu, Xiêm La, các thân vương Mãn Châu, đạidiện của giới quý tộc Mông Cổ. Thật là bốn phương tụ hội cùng dự lễ mừng thọCàn Long 80. Lễ này kéo dài trong suốt một tháng trời.

 

 

Tại Nhiệt Hà, pháiđoàn Annam gặp phái đoàn Triều Tiên. Thấy Annam Quốc Vương thân sang chúc thọCàn Long, phía Triều Tiên ngỡ ngàng, ngơ ngác. Sứ Triều Tiên, Từ Hạo Tu nóirằng: Đông quốc của chúng tôi chẳng bao giờ có lệ quốc vương thân sang cống!Annam Quốc vương đáp đại ý rằng: Annam cũng chẳng có lệ này nhưng ơn thánhthượng (Càn Long) như giời bể nên quả nhân mới phải vượt đường xa vạn dặm sangbệ kiến. Đó là dùng việc phi thường để báo đáp ân phi thường vậy.

Nhưng báo đáp ân phithường bằng việc phi thường ấy còn chả thỏa, Annam Quốc Vương đã vận Mãn phụcvào triều kiến Càn Long. Ngày 16 tháng 7, vua Annam cùng quần thần đến thăm NgũPhúc Đài.

 

Chính trong ngày này,họ đã yêu cầu hoàng đế Đại Thanh cho phép họ mặc Mãn phục để tỏ lòng thànhkính. Điều này khiến hoàng đế đặc biệt hài lòng, ban chỉ dụ rằng: “chấp thuậncho Annam quốc vương Nguyễn Quang Bình mặc triều phục vào chầu”.

 

Càn Long còn ban chovua tôi Annam một bài thơ. Vua tôi Annam bèn vận Mãn Phục không búi tóc vào bệkiến Càn Long kính cẩn trình bày ý kiến của mình. Phan Huy Ích, Võ Huy Tân lạitheo bài thơ của Càn Long mà họa lại để tỏ lòng ngưỡng mộ (16).

 

 

Nguyên trước đó, vuaAnnam đã được Càn Long ban cho một chiếc mũ có chóp mầu hồng ngọc, với lôngcông ba lỗ, mũ mùa hè, áo khoác hoàng gia, cùng những đồ Mãn phục khác. Cácquan đi cùng cũng được tặng áo mũ và các phụ kiện Mãn Châu.

 

 

Bắt gặp cảnh vua tôiAnnam vận Mãn Phục vào chầu, sứ Triều Tiên Từ Hạo Tu chất vấn như sau: “Từngnghe An Nam sứ thần búi tóc thả ra phía sau, đội mũ sa đen, mặc hồng bào áothụng, cài trâm đồi mồi vàng, chân đi giày da đen giống như quan phục chúngtôi. Nay thấy quý quốc lại mặc y phục Mãn Châu, lại không bịt đầu, vậy là thếnào? Quan phục quý quốc vốn giống Mãn Châu hay sao?’”

 

 Câu trả lời của Phan Huy Ích, theo họ Từ: “Lờinói có chừng lúng túng, vẻ mặt ngượng ngập”. Lại chối rằng khi về Quê hương,chúng tôi sẽ mặc lại đồ cũ. Sau này Từ Hạo Tu có làm thơ chế nhạo vua tôi Annamvề việc mặc Mãn Phục, việc giao tình với Phan Huy Ích cũng sơ sài vì lẽ TriềuTiên khinh rằng Annam chối quốc phục mà vận Mãn Phục tỏ lòng quỵ lụy Mãn Thanhquá cỡ vậy.

 

 

Việc vận triều phụcnhư Từ Hạo Tu mô tả, đó là giữ lại bản sắc, khẳng định quyền tự trị của mìnhtrước thiên triều. Sứ ta, sứ Triều Tiên, sứ Xiêm La sang hội từ xưa tới nay đềugiữ nguyên cái bản sắc ấy.

 

Việc phái đoàn AnnamQuốc Vương tình nguyện vận Mãn phục, không bịt đầu vào triệu kiến Càn Long.Không khỏi khiến cho sứ Triều Tiên cảm thấy ngán ngẩm. Lại ngẫm tới việc ChiêuThống bị Phúc Khang An lừa ép mà cạo đầu đổi y phục, Lê Quýnh tuyên thệ Thàchặt đầu lột da không chịu mặc đồ Mãn. Thật khiến người ta xót xa, ngậm ngùi.Sự anh hùng chung quy cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.

 

 

Cũng tại Nhiệt Hà,một lần nữa ta thấy quyền lực mềm của Càn Long phủ bóng lên vinh quang của đấngAttila phương Đông. Vinh quang của chiến thắng Đống Đa đã lui bước nhường chỗcho lòng xúc động, sự thành tâm của Annam Quốc vương trước Đại hoàng đế TrungHoa.

 

Tấu biểu của QuangTrung tạ ơn Càn Long (17) đã xác tín những món y phục mà vua Quang Trung đượcCàn Long tặng: "Được mong đức Hoàng thượng thi ân với mực thường thưởngcho tôi mũ bảo thạch đính tam nhãn hồng thước hoa linh lương và bảo đới hoàngmã quải" (18).

 

Vua Quang Trung nhậnáo mà "tưởng như được ân khắp cả thân thể, cử động thêm vinh". QuangTrung còn được Càn Long Đế "ân thưởng": "Bảo thạch đính tam nhãnkhổng thước linh vĩ, tứ đoàn long bổ phục kim hoàng mãng bào san hô triềuchâu" (19). Những y phục trên chỉ có tước Vương họ Vua (Ái Tân Giác La)mới được dùng. Gần sự kiện Quang Trung tới Nhiệt Hà) thì Hoàng tử mới đượcdùng.

 

 

Vậy thì còn một vấnđề đó là Annam Quốc Vương tại Nhiệt Hà ấy có thật là vua Quang Trung hay không.

 

Nhiều nguồn sử liệucủa ta nói là Giả Vương nhập cận. Thanh Sử Cảo chép như sau: “Tháng 7 vào bệkiến ở Nhiệt Hà, cho đứng dưới các thân vương mà trên các quận vương, ban chothơ ngự chế, cho đội mão mang đai trở về. Thật ra Quang Bình sai em mạo danh tới,chứ Quang Bình chưa dám đích thân tới, quỷ quyệt như thế đấy”.

 

Sử ta nhiều bộ cũngcho rằng đó là Giả Vương mà thôi. Đối chiếu các sử liệu, đặc biệt các sử liệudo nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính cung cấp, người viết cho rằng khó có khảnăng Người dẫn quan lại vận Mãn phục bệ kiến Càn Long tại Nhiệt Hà là QuangTrung giả.

Học giả Zhaoguang Gecũng cho rằng đó là những việc kỳ quái không đáng tin. Nguyên văn tiếng Anh:“Yet, this odd story is not credible”.

 

 

Như vậy chúng ta đãkhảo từ chỗ Đàng Trong – Đàng Ngoài vốn một quốc chia hai. Phong trào Tây Sơnnổi dậy và những khó khăn chất ngất mà vua Quang Trung gặp phải ngay sau chiếnthắng Kỷ Dậu.

 

Tại kỳ này chúng tacũng đã trình bày rõ ngọn ngành cuộc hòa đàm hai phía Việt – Thanh. Nhưng bước“giải phóng mặt bằng” cho Quang Trung sang Nhiệt Hà khá rõ. Kỳ sau sẽ nói tớiviệc Quang Trung thu được những thành quả nào sau chuyến đi muôn một tới NhiệtHà nhận Càn Long làm cha, mặc Mãn phục vào bệ kiến. Vua Lê Chiêu Thống ấy cóthực sự cõng rắn cắn gà nhà ra sao? Nhân phẩm năng lực chính trị của ông ấy thếnào. Bài cũng sẽ đề cập đến những căn nguyên khiến nhà vương triều Quang Trungsụp đổ chỉ sau 14 năm tồn tại.

 

 

Chú thích

1. George Dutton:Tây Sơn uprising (Cuộc nổi dậy của Tây Sơn). Nguyên văn tiếng Anh: “Somemid-twentieth-century Vietnamese historians, notably Trần Huy Liệu and VănTân, looked at the political events of this period and saw a revolution (cáchma ˙ ng).1 They characterized the Tây Sơn uprising as a focused effort tooverthrow corrupt political forces, to reunify the country, to defend thenation against external threats, and to promote indigenous cultural elements.This interpretation of the movement conveniently re- flected the political agendaof the post-1954 state in North Việt Nam, even as it glossed over the truecomplexities of the Tây Sơn era”.

Dịch Việt văn SôngHàn.

 

Lời người dịch: Ở đâyGeorge Dutton đã lấy yêu cầu chính trị tại miền Bắc Việt Nam làm hệ tham chiếu.Ông ít chú ý đến những trình bày của học giới tại Nam Việt Nam (VNCH về TâySơn) chẳng hạn Tạ Chí Đại Trường khi trình bày về phong trào Tây Sơn trong Tậpsan Sử Địa số 13 cũng đầy hào hứng, thi vị và cách mạng hóa cuộc nổi dậy này.

 

 

2. Nguyễn Du: Long Thành cầm giả ca. Nguyên văn chữHán

盡是中和大內音。

西山諸臣滿座盡傾倒,

徹夜追歡不知曉。

左拋右擲爭纏頭,

泥土金錢殊草草。

豪華意氣凌公侯,

五陵年少不足道。

3. Vô danh thị: Tây Sơn Lược Thuật – Bản dịch của TạQuang Phát Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản trang 11, 12.

 

4. Dẫn theo NguyễnDuy Chính: Tiến trình Thanh Việt nghị hòa, nhà Thanh công nhận triều đại QuangTrung.

 

5. Khâm định Annam kỷ lược quyển 13, ngườidịch Nguyễn Duy Chính.

 

6. Đại Nam Thực Lụctại link –

 Nguyên văn chữ Hán:

以帛玉代干戈,轉兵馬爲衣裳之會

〈表言:「臣本西山布衣,乘辰舉事。丙午,興師滅鄭,還國於黎。前黎王謝世,又擁立嗣孫維祁襲。維祁爲人淫暴,國內之臣若民奔愬於臣,請爲出兵除亂。丁未,臣遣一小將,以兵問其左右之助桀者。而維祁望風宵遁,自貽伊戚。戊申,臣進至都城,復委前黎王之子維監國,經遣行價叩關,備以國情題奏。而維祁之母先赴斗奧隘,委身乞援。孫士毅以封疆大臣,卻爲財色之故,將臣之表章裂擲於地,淩辱行價,意欲動眾興戎。不知此事果出大皇帝差遣,抑或士毅爲一婦人所倖邊功,以邀大利也。夫以海瀕一帶,人士甲兵不當中朝之萬一。而深澗在前,猛虎在後,眾情怕死,咸思奮勵。臣不避投鼠之謗,遂以三五邑丁相從。今年正月初五日,進至都城,冀與士毅一見,或得以玉帛代干戈,轉兵車爲衣裳之會。乃士毅之兵先來迎戰,纔一交鋒,奔潰四散。其走躲城外村莊,又爲環城民殲殺殆盡。臣入城之日,立即禁止,不得妄殺,一切送到都城。該八百餘口,臣已給之廩食。竊念本國自丁、黎、李、陳以來,世代遷革,不是一姓。有能爲南郊屏翰栽者培之,惟至公至仁而已。伏惟體天行化,順其自然,恕臣迎敵孫士毅之罪,諒臣數番款關陳奏之誠,錫臣爲安南國王,俾有統攝。臣謹當遣使詣闕,奉藩修貢,幷將見存人口回納,以表至誠。夫以堂堂天朝,較勝負於小夷,必欲窮兵黷武,以快貪殘,諒聖心之所不忍。萬一兵連不止,勢到那裏。誠非臣之所願,而亦不敢知也。」

Tờ biểu nói: Thần vốnlà người dân thường ở Tây Sơn, nhân thời làm việc. Năm Bính Ngọ đem quân diệthọ Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê, vua Lê trước chết đi, lại dựng Tự tôn là DuyKỳ nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo, các quan và nhân dân trong nước chạy đếnnói với thần, xin ra quân trừ loạn. Năm Đinh Mùi, thần sai một tiểu tướng đemquân đến hỏi tội những kẻ ở bê bên hữu giúp Duy Kỳ làm việc bạo ngược ấy nhưngDuy Kỳ trông thấy bóng gió đang đêm trốn đi, là tự mình rước lấy sự tai vạ ấy.Năm Mậu Thân, thần tiến đến đô thành, lại uỷ cho con cháu nhà Lê trước là DuyCận coi việc nước, thần đã từng sai người đến gõ cửa quan, đem hết tình nước đểtâu lên, nhưng vì mẹ Duy Kỳ đi trước đến ải Đẩu Áo, tự mình đi xin cứu viện,Tôn Sĩ Nghị là đại thần ở chốn bờ cõi, lại vì có của và sắc đẹp, đem tờ biểucủa thần xé ra ném xuống đất lăng mạ làm nhục người sứ giả của thần, ý muốnđộng chúng dấy quân. Thần không biết việc ấy quả là tự Đại hoàng đế sai khiếnchăng hay là hoặc ở Sĩ Nghị vì một người đàn bà sai khiến, cầu may nên công ởchốn biên cương để cầu lợi lớn chăng? Kể ra, lấy một dải đất ở nơi bãi biển,nhân sĩ giáp binh không địch được một phần trong muôn phần của Trung triều, màsuối sâu ở phía trước, hổ dữ ở phía sau, tình mọi người sợ chết, đều tự hăng háilên, thần không tránh khỏi lời chê ném chuột, mới lấy dân đinh năm ba ấp cùngđi theo. Ngày mồng 5 tháng giêng năm nay tiến đến đô thành mong được ra mắt SĩNghị, hoặc có thể lấy ngọc lụa thay cho giáo mác, chuyển binh xe làm hội áoxiêm chăng? Thế mà quân của Sĩ Nghị đã chạy tan vỡ ra bốn phía, những kẻ chạytrốn ở thôn tráng ngoại thành lại bị dân hoàng thành giết chết. Ngày thần vàothành, lập tức cấm chỉ không được giết càn, hết thảy phải đưa đến đô thành,cộng hơn 800 người, thần đã cấp cho lương ăn. Trộm nghĩ: nước thần tự đời Đinh,Lê, Lý, Trần đến nay thời đại có đổi đời, không phải là một họ, họ nào có thểlàm phên che ở nước Nam được thì trồng cây nào vun xới cho cây ấy chỉ là rấtcông rất nhân mà thôi. Thần cúi nghĩ rằng: Thể lòng Trời làm mệnh lệnh thuận vềlẽ tự nhiên mà thôi, xin tha cho thần về tội đối địch với Tôn Sĩ Nghị, thươngcho thần về lòng thành mấy phen gõ cửa tâu bày, cho thần làm vua nước An Nam,để có thống quản. Thần kính cẩn sai sứ đến cửa khuyết xin làm phiên thần, sửalễ cống và đem cả nhân khẩu hiện còn nộpả lại, để tỏ lòng rất thành. Kể ra, lấyđường đường Thiên triều so được thua với nước mọi rợ nhỏ mọn, hà tất phải đánhcho đến cùng, làm nhàm việc vũ, để thỏa lòng tham tàn, chắc lòng Thánh đế khôngnỡ thế. Lỡ ra quân đánh triền miên mãi không thôi, thế đến như vậy thật khôngphải là lòng thần mong muốn, mà cũng không dám biết đến.

 

Trích Đại Nam ChínhBiên Liệt Truyện

Quốc Sử Quán TriềuNguyễn

Nhà Xuất Bản ThuậnHóa, Huế, 2006

7. Về điều này nhàNNC Nguyễn Duy Chính trong Đi tìm mộtmảnh khuyết sử trong Khâm định Annam Kỷ lược cho rằng: Từ chiến sang hòa,phương lược đấu tranh của nhà Tây Sơn chuyển sang một mặt trận mới. Công tácngoại giao vốn dĩ không phải là sở trường của Nguyễn Huệ, nay với sự giúp sứccủa một số nho sĩ, quan lại cũ của Bắc Hà nên đã đạt được nhiều thành quả tốtđẹp.

 

8. Khâm định AnnnamKỷ lược, quyền XIII, người dịch Nguyễn Duy Chính.

 

9. Khâm định Annam kỷlược, đã dẫn.

 

10. Trong Bắc Hành tùng ký Lê Quýnh viết như sau:Trong khi tôi đang tập hợp các đồng chí để đợi lệnh nhà vua khôi phục thì:Tháng 5 năm Kỷ Dậu (1789) thấy biểu huynh Nguyễn Trình vâng mệnh Tổng đốc QuảngTây Phúc Khang An sai về đòi Lê Quýnh đến trước cửa quan để hỏi chuyện. Bấy giờbệnh Quýnh đã khỏi. Tháng 7, Quýnh đi Nam Quan đợi lệnh. Bản dịch của HoàngXuân Hãn.

Khi đến Quảng Tây,ông nghe nói Tây Sơn đã hàng lòng vẫn còn ảo vọng, ngợi khen nhà Thanh bấtchiến tự nhiên thành. Mãi sau này khi bị Phúc Khang An ép cạo đầu, thay áo mớinội giận mắng Khang An như vậy.

 

11. Dẫn theo NguyễnDuy Chính: Lê Chiêu Thống đáng thương hayđáng trách.

12. Dẫn theo NguyễnDuy Chính: Thanh Việt Nghị Hòa, phần IV – Đại lễ phong vương

 

13. Thanh sử cảo chéplại Chiếu phong vương của Càn Long cho Quang Trung nguyên văn thế này:

朕惟王者遐覃伐罪因而舍服候封恪守事大所以畏天鑒誠於荒陬貰其旣 往沛恩膏於屬國嘉以維新賁茲寵命之頒勗以訓行之率惟安南地居炎徼開十三道 之封疆而黎氏臣事天朝修百餘年之職貢每趨王會舊附方與遭難以流離遂式微 而控愬方謂興師復國字小堪與圖存何期棄印委城積弱仍歸失守殆天心厭其薄德 致世祚訖於終淪爾阮光平起自西山界斯南服向匪君臣之分寖成婚媾之仇釁啟交 訌情殊負固抗顏行於倉卒雖無心而難俺前愆悔罪咎已前除願革面而自深痛艾表 箋籲請使先猶子以抒忱琛獻憬來躬與明年之祝嘏自非仰邀封爵榮藉龍光曷由下 蒞民氓妥茲鳩集况王者無分民詎在版章其土宇而生民有司牧是宜辑寧爾邦家爰 布寵綏俾憑鎮撫今封爾為安南國王錫之新印於戲有興有廢天子惟順天而行無貳 無虞國王咸舉國以聽王其懋將丹款肅矢冰競固以長其子孫勿使逼滋他悉心 以勤於夙夜罔令逸欲有邦益敬奉夫明威庶永承夫渥典欽哉毋替朕命.

 

14. Xem thêm Đại Việt Quốc thư, dịch giả Hoàng VănHòe Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục (VNCH).

 

15. Nguyên văn tiếngAnh từ Zhaoguang Ge: Costume, Ceremonial, and the East Asian Order: What theAnnamese King Wore When Congratulating the Emperor Qianlong in Jehol in1790:

“As the saying goes,“courtesy calls for reciprocity.” The Annamese demonstrated enormousseriousness. NguyễnQuangBình not only had promised to lead a mission ofhundreds including his son NguyễnQuangThùy and an accompanying officialNgôVănSở to Chengde, but also prepared extravagant gifts. Moreover, he askedPhanHuyÍch, another accompanying official, to compose “Ten Melodies of lyricsand music to honor His Majesty’s Longevity.” “Letters written in gold were sentalong with memorials to the throne” to repeatedly demonstrate loyalty to theGreat Qing. The king aspired to treat Emperor Qianlong as “the master and thefather” and expected that the emperor would fulfill his wishes. EmperorQianlong, who was extremely delighted, said, “Since the king treats me as hisfather, how could I not treat him as my son?” - Người dịch Sông Hàn.

Đây là bài giảng đượcZhaoguang Ge trình bày tại Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc - John Fairbank, tạiĐại học Harvard ngày 19/04/2011).

 

16. Nguyên văn tiếngAnh: Annamese king and his officials paid a visit to the Hall of Five Fortunesand Five Generations. It was during this day that they requested of the GreatQing emperorth at they be allowed to wear Manchu clothing to pay tribute, whichparticularly pleased the emperor. The emperor thus wrote: “Approving therequest of NguyễnQuangBình , the Annamese king, to wear attire of the celestialdynasty and granting him a poem.” The Annamese ruler and officials “followedthe edict by wearing hats and clothing of the celestial dynasty andrespectfully conveying their thoughts.” PhanHuyÍch and VõHuyTấn wrote poemsbased on Emperor Qianlong’s rhymes to express their admiration. Zhaoguang Ge đãdẫn. Người dịch Sông Hàn.

 

17. Tờ biểu tạ ân củavua Quang Trung khi được Càn Long ban cho các đồ phục sắc Đại Việt Quốc Thưtrang 324 - 325. Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục VNCH, bản in 1973. Dịch ViệtVăn từ Hoàng Văn Hòe.

 

18. Mũ Bảo thạch đínhTam nhãn hồng... là mũ của Thân Vương nhà Thanh. Bảo đới hoàng mã quải Áo, đaivà đệm trên mình ngựa.

 

19. Mũ của thân vươngnhà Thanh. Mãng bào là loại áo thêu hình rồng 3, hoặc 4 móng (con rồng không đủ5 móng thì gọi là con mãng, tức to hơn con rắn). Loại mãng bào mà vua QuangTrung được tặng là mãng bào có đính thêm san hô.

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 12, 2023 13:07

May 22, 2023

Nỗi đau, nỗi sợ (hai phiếm luận ngắn)

 

1/ Những nỗi đau của thời nay

--

Nghề nghiệp buộc tôi luôn luônphải trở lại với văn chương quá khứ. Qua các trang sách đã đọc, tôi hiểu conngười thời nào cũng có những nỗi đau khổ lớn lao. Song, nếu được so sánh, tôivẫn cảm thấy so với họ, con người thời nay đau đớn gấp bội.

Đau đớn không phải do “trời xanh” hay “con tạo” gây ra, màđơn giản do cái xu thế chi phối cả xã hội lôi cuốn người ta, đau khổ do ngườinọ gây ra cho người kia, hoặc suy đến cùng là do chính mỗi người tự chuốc lấy.Cuộc sống trần trần trong ánh ngày đấy mà như trong cơn mê, và thỉnh thoảngngười ta tỉnh ra thì cũng lập tức biết rằng tất cả đã muộn, tình thế vô phươngcứu chữa.

Trong mục Trà dư tửuhậu trên Thời báo kinh tế Sài Gòn số 10-2008, tôi đã kể về một cô giáo trẻchạy trốn khỏi nghề dạy học. Cô không đương nổi nỗi đau mà nhiều thầy giáo cólương tâm bây giờ phải gánh chịu: không có được lớp học trò tử tế để có thể yêuthương tin tưởng, cống hiến hết mình cho nghề.

Những nỗi đau tương tự như thế diễn ra hàng ngày đến mứcngười ta đâm ra dạn dày không muốn nghĩ tới. Lớp người năm nay sáu mươi, bảymươi tuổi chúng tôi thỉnh thoảng lại có những buổi họp lớp.

Một kết luận khiến nhiều người sững sờ: kẻ thành công trongđường đời (giàu hơn và có địa vị xã hội cao hơn) nhiều khi không phải là ngườigiỏi giang mà đơn giản chỉ là những kẻ liều lĩnh hơn, dám làm... láo hơn.

Trở thành công chức nhà nước, chúng tôi thèm được làm việctrong những cơ quan mà người đứng đầu thạo việc hơn mình, để rồi khốn khổ thay,đó là ao ước không mấy người đạt được. Nhưng thôi, những nỗi đau đó xem ra còncó vẻ “sang trọng” quá. Có nhiều nỗi đau cụ thể hơn, đời thường hơn. Chẳng hạnbạn hãy tìm đến một gia đình nào đó có đứa con bị nghiện hút.

Bây giờ cuộc mưu sinh quá lôi cuốn, đến mức nhiều người nhắmmắt bỏ qua, con hư mặc kệ, hàng ngày nhẫn nại mở tủ cung cấp cho con tiền bạctiêu xài. Bản thân thì lấy sự chi tiêu tốn kém cho con làm cái cớ để bước sâuthêm vào vòng tham nhũng hoặc buôn gian bán lận, cốt bòn rút được của cải củathiên hạ và lấy đó làm điều hãnh diện.

Song, bên cạnh những người mê muội vẫn còn những người tỉnhtáo hơn và tấn bi kịch tinh thần của họ bắt đầu từ sự tỉnh táo đó.

Sau những cố gắng tuyệt vọng để cứu vớt đứa con hư và tìmcách đưa nó về con đường chính đáng, nhiều gia đình rơi vào bất lực và tuyệtvọng.

Đến nước ấy, người ta chỉ có cách từ con, rồi lo chạy chọtđể tống con vào trại cai nghiện và thầm mong mỏi một điều ngược đời: mong chođứa con rứt ruột của mình chết đi càng sớm càng tốt.

Vâng, đúng thế vậy!

Hãy hình dung cái cảnh những bậc cha mẹ mặt lạnh như tiềnđến đón đứa con mang đi mai táng, xem như thoát được một gánh nặng và một nỗinhục nhã. Chẳng phải đó là tình cảnh phi nhân văn nhân đạo, tức trái với tínhbản thiện của con người, những tình thế xưa nay chưa từng có mà chỉ ngày naymới có?

Hàng ngày báo chí loan tin bao nhiêu kiểu giết người mà tôikhông muốn kể ra ở đây vì thấy quá kinh dị. Chỉ nói một ca nhẹ hơn, một cháu bétrong cơn điên thèm chơi game, bóp cổ bà già hàng xóm lấy tiền.

Tôi ngờ là trong số những người thân của cháu nhỏ này, mộtlúc nào đó, trong đầu óc sẽ quẩn lên câu hỏi, con mình hay cháu mình có còn làngười nữa không. Nỗi đau của những người đó - khi mơ hồ dự đoán tương lai củađứa trẻ - chắc chắn là một nỗi đau vô bờ.

Một người mẹ có hai con có mặt trong chiến tranh. Đứa lớnkhông trở về, nhưng tấm bằng liệt sĩ mang lại cho bà sự kính trọng của họ hàngvà xóm giềng.

Đứa em thì ngược lại, trở về với một tâm hồn lạnh giá. Gã tựdành cho mình cái quyền hư hỏng phá phách làm càn để bù lại bao nhiêu gian khổđã hủy hoại gã trong những năm tuổi trẻ. Không nghiện hút, chỉ cần rượu chè, cờbạc đề đóm thôi, gã cũng đã thành một hiện thân của bệ rạc và tha hóa.

Trong cơn buồn bã bất lực, có lúc bà mẹ chép miệng: “Thà nócứ chết đi như thằng anh, tôi nghĩ lại thấy đỡ vô phúc hơn là quay trở về hànhhạ tôi như thế này”!

Trong cái câu than thở bồng bột cất lên ấy, tôi nghe ra mộttiếng khóc thống thiết.

Hạnh phúc cuối cùng của con người xưa nay là tình yêu cuộcsống, thấy rằng cuộc sống có ý nghĩa.

Chỉ nhờ có được điều hy vọng tự nhiên đó mà con người vượtlên được bao nhiêu thách thức gặp phải trên đường đời.

Nay cái ý nghĩa lớn lao đó nhiều người không tìm thấy. Tươnglai trở nên vô vọng. Cuộc sống chỉ còn chuồi đi theo thói quen. Tự mình chứngkiến sự hư hỏng của mình và những người thân của mình - hỏi có nỗi đau khổ nàohơn, và về mặt này, những lớp người tiền bối làm sao có thể so sánh với nhiềungười chúng tôi hôm nay được!

***

2/Những nỗi sợ thông thường

--

Với một người già như tôi,những ngày nghỉ kéo dài do lễ lạt thường lại gây ra sự lúng túng, chẳng biếtlàm gì, chẳng biết đi đâu, mà quan trọng hơn là nếp sống thường ngày bị xâmhại. Nhìn ra chung quanh, tôi thấy trừ một số có điều kiện và biết tổ chức, cònvới phần lớn những người còn nghèo – là đa số trong xã hội –, sau những ngàynghỉ được sử dụng bừa bãi con người lại sống khó khăn hơn. Nhìn rộng ra, tôimuốn nói tới những nỗi sợ nho nhỏ, kín đáo, ít ai để ý, nhưng nó là chuyệnhàng ngày chứ không chỉ trong những ngày nghỉ.


Ở mục Thời sự và suy nghĩ trong một số báo Tuổi Trẻ 1/2012 tôi đọc ra một lời nhắn nhủ “Đừng để lễ hội thànhnỗi sợ”. Mấy năm đã qua, vẫn cứ nhớ mãi.

Lâu nay báo chí thường chỉnói tới những nỗi sợ có liên quan đến bạo lực. Còn lễ hội ư, một sinh hoạt vănhóa cơ mà, sao lại có nỗi sợ len vào đây? Nhưng chỉ cần nhớ lại mấy lần đi hộithấy cảnh xô đẩy nhau cầu cúng, chen chúc mua bán nham nhở hưởng thụ, thấy nhàbáo nói cũng có lý.…

Báo Nông Thôn Ngày Nay một số cuối 2011 dẫn một ý kiến phát biểu trongQuốc hội: “Đừng để người dân ra đường là sợ”. Chắc không chỉ muốn nói tới cáctai nạn giao thông đang rình rập, mà còn là chuyện cướp giật, chuyện móc túi.

Trên đà liên tưởng, tôi chợtnhận ra trong đời sống còn vô số nỗi sợ thông thường khác, những nỗi sợ này cósắc thái trung tính nên có vẻ như rất phổ biến.

Buổi sáng sợ đi làm vì khôngdễ gì vượt qua đám đông chen chúc trên đường.

Đến sở sợ gặp không khí chơibời xả láng đến mức thấy mọi cố gắng bản thân thành vô nghĩa.

Có việc gặp cơ quan côngquyền, sợ mọi sự hạch sách vô lý. Hồi 19 tuổi, trong một lần đến làm giấy tờ đểchuyển hộ khẩu từ Hà Nội vào trường Đại học Sư phạm Vinh, tôi bị một người cậyquyền cậy thế quát thét, ức đến mức phải ra ngoài khóc một hồi, rồi mới quayvào nhẫn nhục chờ ông ta giải quyết tiếp.

Đang ngồi trong căn phòngkhách sạn chợt thấy tiếng loa phường mắc trên cột điện chõ ngay vào cửa sổ,nghĩ có lẽ đến chết không cách gì thoát nổi những tiếng loa này.

Đi họp phụ huynh cho con chợtphát hiện cô giáo là người kém cỏi lại ham thành tích, sợ không biết cô giáo –và nền giáo dục này nói chung – còn dẫn con mình tới chỗ nào.

Một người bạn già của tôi bảorằng tuy ốm đau luôn đấy nhưng rất sợ phải đi khám bệnh.

Không chỉ vì sợ lối làm việcquan liêu, mà đơn giản sợ lại chạm mặt mấy ông cùng cảnh về hưu, rỗi rãi thángnào cũng vào khám cốt lấy ít thuốc hạng bét, về bán đi thêm tiền tiêu vặt.

Sợ hãi len ngay cả vào trongnhững chuyện tình cảm riêng tư. Đây là hai câu thơ của Nguyễn Duy, tả nỗi khổthời bao cấp nghèo đói:

Vợ chồng ngủ với nhau như vụng trộm

Không nỗi sợ nào bằng nỗi sợ có con

Lại có những nỗi sợ mà thựcra không đáng sợ một chút nào cả, chỉ vì chúng ta “thần hồn nát thần tính” nênsinh ra một chút hoảng loạn.

Đoạn cuối Chuyện kể năm hai ngàn của Bùi Ngọc Tấn có một chi tiếtlạ. Nhân vật chính ở tù ra đến xin đi làm. Ông cán bộ nhà máy biết rằng anh nàyxưa nay vốn rất tốt, nên vui vẻ ký nhận ngay. Nhưng vừa ký xong thì một nỗi sợmơ hồ cứ bám riết lấy ông.

Ông cứ phải la lên thật torằng ta không làm điều gì xấu cả.

La không phải cho ai nghe màlà để chính ông nghe.

Người mãn hạn tù trở về tứclà có mọi quyền công dân bình thường, ấy thế mà sao lớp người chúng tôi vẫn gờngợn thế nào mỗi khi tiếp xúc với họ. Tại sao lại có nỗi sợ kỳ cục vậy? Cái nàyai đã sống ở miền Bắc trước 1975 mới hiểu được.

Đó là chuyện miền Bắc. Cònđây là chuyện miền Nam, đúng hơn là chuyện người Bắc khi vào Nam.

Một ông anh họ tôi trước 1975là chuyên viên dân sự. Sau 1975, bị gọi đi cải tạo, vài tháng được về. Ông chỉkể thấy thương những người quản giáo, do hai ấn tượng chính.

Một là, mấy người này sốngquá đạm bạc, nhưng không biết cách thay đổi cuộc sống của mình. Có trong tay cảmột đội ngũ chuyên viên khoa học tài năng mà chẳng biết tổ chức lại, dùng họlàm ra sản phẩm để cải thiện cuộc sống của mình.

Hai là, lúc nào cũng sợ mìnhsai.

Mỗi khi lên lớp chính trị chocác học viên, có người lắp ba lắp lắp, có người nói như đồng thuộc, nhưng họ đềugiống nhau ở chỗ cố nói cho đúng những gì cấp trên bảo phải nói, chỉ sợ buộtmiệng ra những lời không đúng chính sách mà chung quanh phát hiện ra thì sẽ vạto.

Người có quyền mà lại sợ vìkhông biết cái quyền đó có thực không và đâu là giới hạn của mình.

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 22, 2023 19:36

N���i ��au, n���i s��� (hai phi���m lu���n ng���n)

 

1/ Nh���ng n���i ��au c���a th���i nay

--

Ngh��� nghi���p bu���c t��i lu��n lu��nph���i tr��� l���i v���i v��n ch����ng qu�� kh���. Qua c��c trang s��ch ���� �����c, t��i hi���u conng�����i th���i n��o c��ng c�� nh���ng n���i ��au kh��� l���n lao. Song, n���u �������c so s��nh, t��iv���n c���m th���y so v���i h���, con ng�����i th���i nay ��au �����n g���p b���i.

��au �����n kh��ng ph���i do ���tr���i xanh��� hay ���con t���o��� g��y ra, m������n gi���n do c��i xu th��� chi ph���i c��� x�� h���i l��i cu���n ng�����i ta, ��au kh��� do ng�����in��� g��y ra cho ng�����i kia, ho���c suy �����n c��ng l�� do ch��nh m���i ng�����i t��� chu���c l���y.Cu���c s���ng tr���n tr���n trong ��nh ng��y �����y m�� nh�� trong c��n m��, v�� th���nh tho���ngng�����i ta t���nh ra th�� c��ng l���p t���c bi���t r���ng t���t c��� ���� mu���n, t��nh th��� v�� ph����ngc���u ch���a.

Trong m���c Tr�� d�� t���uh���u tr��n Th���i b��o kinh t��� S��i G��n s��� 10-2008, t��i ���� k��� v��� m���t c�� gi��o tr���ch���y tr���n kh���i ngh��� d���y h���c. C�� kh��ng ������ng n���i n���i ��au m�� nhi���u th���y gi��o c��l����ng t��m b��y gi��� ph���i g��nh ch���u: kh��ng c�� �������c l���p h���c tr�� t��� t��� ����� c�� th��� y��uth����ng tin t�����ng, c���ng hi���n h���t m��nh cho ngh���.

Nh���ng n���i ��au t����ng t��� nh�� th��� di���n ra h��ng ng��y �����n m���cng�����i ta ����m ra d���n d��y kh��ng mu���n ngh�� t���i. L���p ng�����i n��m nay s��u m����i, b���ym����i tu���i ch��ng t��i th���nh tho���ng l���i c�� nh���ng bu���i h���p l���p.

M���t k���t lu���n khi���n nhi���u ng�����i s���ng s���: k��� th��nh c��ng trong�������ng �����i (gi��u h��n v�� c�� �����a v��� x�� h���i cao h��n) nhi���u khi kh��ng ph���i l�� ng�����igi���i giang m�� ����n gi���n ch��� l�� nh���ng k��� li���u l��nh h��n, d��m l��m... l��o h��n.

Tr��� th��nh c��ng ch���c nh�� n�����c, ch��ng t��i th��m �������c l��m vi���ctrong nh���ng c�� quan m�� ng�����i �����ng �����u th���o vi���c h��n m��nh, ����� r���i kh���n kh��� thay,���� l�� ao �����c kh��ng m���y ng�����i �����t �������c. Nh��ng th��i, nh���ng n���i ��au ���� xem ra c��nc�� v��� ���sang tr���ng��� qu��. C�� nhi���u n���i ��au c��� th��� h��n, �����i th�����ng h��n. Ch���ng h���nb���n h��y t��m �����n m���t gia ����nh n��o ���� c�� �����a con b��� nghi���n h��t.

B��y gi��� cu���c m��u sinh qu�� l��i cu���n, �����n m���c nhi���u ng�����i nh���mm���t b��� qua, con h�� m���c k���, h��ng ng��y nh���n n���i m��� t��� cung c���p cho con ti���n b���cti��u x��i. B���n th��n th�� l���y s��� chi ti��u t���n k��m cho con l��m c��i c��� ����� b�����c s��uth��m v��o v��ng tham nh��ng ho���c bu��n gian b��n l���n, c���t b��n r��t �������c c���a c���i c���athi��n h��� v�� l���y ���� l��m ��i���u h��nh di���n.

Song, b��n c���nh nh���ng ng�����i m�� mu���i v���n c��n nh���ng ng�����i t���nht��o h��n v�� t���n bi k���ch tinh th���n c���a h��� b���t �����u t��� s��� t���nh t��o ����.

Sau nh���ng c��� g���ng tuy���t v���ng ����� c���u v���t �����a con h�� v�� t��mc��ch ����a n�� v��� con �������ng ch��nh ����ng, nhi���u gia ����nh r��i v��o b���t l���c v�� tuy���tv���ng.

�����n n�����c ���y, ng�����i ta ch��� c�� c��ch t��� con, r���i lo ch���y ch���t����� t���ng con v��o tr���i cai nghi���n v�� th���m mong m���i m���t ��i���u ng�����c �����i: mong cho�����a con r���t ru���t c���a m��nh ch���t ��i c��ng s���m c��ng t���t.

V��ng, ����ng th��� v���y!

H��y h��nh dung c��i c���nh nh���ng b���c cha m��� m���t l���nh nh�� ti���n�����n ����n �����a con mang ��i mai t��ng, xem nh�� tho��t �������c m���t g��nh n���ng v�� m���t n���inh���c nh��. Ch���ng ph���i ���� l�� t��nh c���nh phi nh��n v��n nh��n �����o, t���c tr��i v���i t��nhb���n thi���n c���a con ng�����i, nh���ng t��nh th��� x��a nay ch��a t���ng c�� m�� ch��� ng��y naym���i c��?

H��ng ng��y b��o ch�� loan tin bao nhi��u ki���u gi���t ng�����i m�� t��ikh��ng mu���n k��� ra ��� ����y v�� th���y qu�� kinh d���. Ch��� n��i m���t ca nh��� h��n, m���t ch��u b��trong c��n ��i��n th��m ch��i game, b��p c��� b�� gi�� h��ng x��m l���y ti���n.

T��i ng��� l�� trong s��� nh���ng ng�����i th��n c���a ch��u nh��� n��y, m���tl��c n��o ����, trong �����u ��c s��� qu���n l��n c��u h���i, con m��nh hay ch��u m��nh c�� c��n l��ng�����i n���a kh��ng. N���i ��au c���a nh���ng ng�����i ���� - khi m�� h��� d��� ��o��n t����ng lai c���a�����a tr��� - ch���c ch���n l�� m���t n���i ��au v�� b���.

M���t ng�����i m��� c�� hai con c�� m���t trong chi���n tranh. �����a l���nkh��ng tr��� v���, nh��ng t���m b���ng li���t s�� mang l���i cho b�� s��� k��nh tr���ng c���a h��� h��ngv�� x��m gi���ng.

�����a em th�� ng�����c l���i, tr��� v��� v���i m���t t��m h���n l���nh gi��. G�� t���d��nh cho m��nh c��i quy���n h�� h���ng ph�� ph��ch l��m c��n ����� b�� l���i bao nhi��u gian kh������� h���y ho���i g�� trong nh���ng n��m tu���i tr���. Kh��ng nghi���n h��t, ch��� c���n r�����u ch��, c���b���c ����� ����m th��i, g�� c��ng ���� th��nh m���t hi���n th��n c���a b��� r���c v�� tha h��a.

Trong c��n bu���n b�� b���t l���c, c�� l��c b�� m��� ch��p mi���ng: ���Th�� n��c��� ch���t ��i nh�� th���ng anh, t��i ngh�� l���i th���y ����� v�� ph��c h��n l�� quay tr��� v��� h��nhh��� t��i nh�� th��� n��y���!

Trong c��i c��u than th��� b���ng b���t c���t l��n ���y, t��i nghe ra m���tti���ng kh��c th���ng thi���t.

H���nh ph��c cu���i c��ng c���a con ng�����i x��a nay l�� t��nh y��u cu���cs���ng, th���y r���ng cu���c s���ng c�� �� ngh��a.

Ch��� nh��� c�� �������c ��i���u hy v���ng t��� nhi��n ���� m�� con ng�����i v�����tl��n �������c bao nhi��u th��ch th���c g���p ph���i tr��n �������ng �����i.

Nay c��i �� ngh��a l���n lao ���� nhi���u ng�����i kh��ng t��m th���y. T����nglai tr��� n��n v�� v���ng. Cu���c s���ng ch��� c��n chu���i ��i theo th��i quen. T��� m��nh ch���ngki���n s��� h�� h���ng c���a m��nh v�� nh���ng ng�����i th��n c���a m��nh - h���i c�� n���i ��au kh��� n��oh��n, v�� v��� m���t n��y, nh���ng l���p ng�����i ti���n b���i l��m sao c�� th��� so s��nh v���i nhi���ung�����i ch��ng t��i h��m nay �������c!

***

2/Nh���ng n���i s��� th��ng th�����ng

--

V���i m���t ng�����i gi�� nh�� t��i,nh���ng ng��y ngh��� k��o d��i do l��� l���t th�����ng l���i g��y ra s��� l��ng t��ng, ch���ng bi���tl��m g��, ch���ng bi���t ��i ����u, m�� quan tr���ng h��n l�� n���p s���ng th�����ng ng��y b��� x��mh���i. Nh��n ra chung quanh, t��i th���y tr��� m���t s��� c�� ��i���u ki���n v�� bi���t t��� ch���c, c��nv���i ph���n l���n nh���ng ng�����i c��n ngh��o ��� l�� ��a s��� trong x�� h���i ���, sau nh���ng ng��yngh��� �������c s��� d���ng b���a b��i con ng�����i l���i s���ng kh�� kh��n h��n. Nh��n r���ng ra, t��imu���n n��i t���i nh���ng n���i s��� nho nh���, k��n ����o, ��t ai ����� ��, nh��ng n�� l�� chuy���nh��ng ng��y ch��� kh��ng ch��� trong nh���ng ng��y ngh���.


��� m���c Th���i s��� v�� suy ngh�� trong m���t s��� b��o Tu���i Tr��� 1/2012 t��i �����c ra m���t l���i nh���n nh��� ��������ng ����� l��� h���i th��nhn���i s������. M���y n��m ���� qua, v���n c��� nh��� m��i.

L��u nay b��o ch�� th�����ng ch���n��i t���i nh���ng n���i s��� c�� li��n quan �����n b���o l���c. C��n l��� h���i ��, m���t sinh ho���t v��nh��a c�� m��, sao l���i c�� n���i s��� len v��o ����y? Nh��ng ch��� c���n nh��� l���i m���y l���n ��i h���ith���y c���nh x�� �����y nhau c���u c��ng, chen ch��c mua b��n nham nh��� h�����ng th���, th���y nh��b��o n��i c��ng c�� l��.���

B��o N��ng Th��n Ng��y Nay m���t s��� cu���i 2011 d���n m���t �� ki���n ph��t bi���u trongQu���c h���i: ��������ng ����� ng�����i d��n ra �������ng l�� s������. Ch���c kh��ng ch��� mu���n n��i t���i c��ctai n���n giao th��ng ��ang r��nh r���p, m�� c��n l�� chuy���n c�����p gi���t, chuy���n m��c t��i.

Tr��n ���� li��n t�����ng, t��i ch���tnh���n ra trong �����i s���ng c��n v�� s��� n���i s��� th��ng th�����ng kh��c, nh���ng n���i s��� n��y c��s���c th��i trung t��nh n��n c�� v��� nh�� r���t ph��� bi���n.

Bu���i s��ng s��� ��i l��m v�� kh��ngd��� g�� v�����t qua ����m ����ng chen ch��c tr��n �������ng.

�����n s��� s��� g���p kh��ng kh�� ch��ib���i x��� l��ng �����n m���c th���y m���i c��� g���ng b���n th��n th��nh v�� ngh��a.

C�� vi���c g���p c�� quan c��ngquy���n, s��� m���i s��� h���ch s��ch v�� l��. H���i 19 tu���i, trong m���t l���n �����n l��m gi���y t��� �����chuy���n h��� kh���u t��� H�� N���i v��o tr�����ng �����i h���c S�� ph���m Vinh, t��i b��� m���t ng�����i c���yquy���n c���y th��� qu��t th��t, ���c �����n m���c ph���i ra ngo��i kh��c m���t h���i, r���i m���i quayv��o nh���n nh���c ch��� ��ng ta gi���i quy���t ti���p.

��ang ng���i trong c��n ph��ngkh��ch s���n ch���t th���y ti���ng loa ph�����ng m���c tr��n c���t ��i���n ch�� ngay v��o c���a s���,ngh�� c�� l��� �����n ch���t kh��ng c��ch g�� tho��t n���i nh���ng ti���ng loa n��y.

��i h���p ph��� huynh cho con ch���tph��t hi���n c�� gi��o l�� ng�����i k��m c���i l���i ham th��nh t��ch, s��� kh��ng bi���t c�� gi��o ���v�� n���n gi��o d���c n��y n��i chung ��� c��n d���n con m��nh t���i ch��� n��o.

M���t ng�����i b���n gi�� c���a t��i b���or���ng tuy ���m ��au lu��n �����y nh��ng r���t s��� ph���i ��i kh��m b���nh.

Kh��ng ch��� v�� s��� l���i l��m vi���cquan li��u, m�� ����n gi���n s��� l���i ch���m m���t m���y ��ng c��ng c���nh v��� h��u, r���i r��i th��ngn��o c��ng v��o kh��m c���t l���y ��t thu���c h���ng b��t, v��� b��n ��i th��m ti���n ti��u v���t.

S��� h��i len ngay c��� v��o trongnh���ng chuy���n t��nh c���m ri��ng t��. ����y l�� hai c��u th�� c���a Nguy���n Duy, t��� n���i kh���th���i bao c���p ngh��o ����i:

V��� ch���ng ng��� v���i nhau nh�� v���ng tr���m

Kh��ng n���i s��� n��o b���ng n���i s��� c�� con

L���i c�� nh���ng n���i s��� m�� th���cra kh��ng ����ng s��� m���t ch��t n��o c���, ch��� v�� ch��ng ta ���th���n h���n n��t th���n t��nh��� n��nsinh ra m���t ch��t ho���ng lo���n.

��o���n cu���i Chuy���n k��� n��m hai ng��n c���a B��i Ng���c T���n c�� m���t chi ti���tl���. Nh��n v���t ch��nh ��� t�� ra �����n xin ��i l��m. ��ng c��n b��� nh�� m��y bi���t r���ng anh n��yx��a nay v���n r���t t���t, n��n vui v��� k�� nh���n ngay. Nh��ng v���a k�� xong th�� m���t n���i s���m�� h��� c��� b��m ri���t l���y ��ng.

��ng c��� ph���i la l��n th���t tor���ng ta kh��ng l��m ��i���u g�� x���u c���.

La kh��ng ph���i cho ai nghe m��l�� ����� ch��nh ��ng nghe.

Ng�����i m��n h���n t�� tr��� v��� t���cl�� c�� m���i quy���n c��ng d��n b��nh th�����ng, ���y th��� m�� sao l���p ng�����i ch��ng t��i v���n g���ng���n th��� n��o m���i khi ti���p x��c v���i h���. T���i sao l���i c�� n���i s��� k��� c���c v���y? C��i n��yai ���� s���ng ��� mi���n B���c tr�����c 1975 m���i hi���u �������c.

���� l�� chuy���n mi���n B���c. C��n����y l�� chuy���n mi���n Nam, ����ng h��n l�� chuy���n ng�����i B���c khi v��o Nam.

M���t ��ng anh h��� t��i tr�����c 1975l�� chuy��n vi��n d��n s���. Sau 1975, b��� g���i ��i c���i t���o, v��i th��ng �������c v���. ��ng ch���k��� th���y th����ng nh���ng ng�����i qu���n gi��o, do hai ���n t�����ng ch��nh.

M���t l��, m���y ng�����i n��y s���ngqu�� �����m b���c, nh��ng kh��ng bi���t c��ch thay �����i cu���c s���ng c���a m��nh. C�� trong tay c���m���t �����i ng�� chuy��n vi��n khoa h���c t��i n��ng m�� ch���ng bi���t t��� ch���c l���i, d��ng h���l��m ra s���n ph���m ����� c���i thi���n cu���c s���ng c���a m��nh.

Hai l��, l��c n��o c��ng s��� m��nhsai.

M���i khi l��n l���p ch��nh tr��� choc��c h���c vi��n, c�� ng�����i l���p ba l���p l���p, c�� ng�����i n��i nh�� �����ng thu���c, nh��ng h��� �����ugi���ng nhau ��� ch��� c��� n��i cho ����ng nh���ng g�� c���p tr��n b���o ph���i n��i, ch��� s��� bu���tmi���ng ra nh���ng l���i kh��ng ����ng ch��nh s��ch m�� chung quanh ph��t hi���n ra th�� s��� v���to.

Ng�����i c�� quy���n m�� l���i s��� v��kh��ng bi���t c��i quy���n ���� c�� th���c kh��ng v�� ����u l�� gi���i h���n c���a m��nh.

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 22, 2023 19:36

May 10, 2023

Ninh D����ng - Ng�����i n�����c ngo��i ngh�� g�� v��� ti���u thuy���t ���Ch���n v���ng���?

 Ngu���n

https://diendankhaiphong.org/duong-thu-huong-nguoi-nuoc-ngoai-nghi-gi-ve-tieu-thuyet-chon-vang/

ho���c

http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/duong-thu-huong-nguoi-nuoc-ngoi-nghi-g-ve-tieu-thuyet-chon-vang/

����� gi��p b���n �����c ti���ntheo d��i ch��ng t��i c�� m���n ph��p t��c gi��� thay �����i m���t ch��t trong c��ch tr��nh b��y v��n b���n, r���t mong �������cl�����ng th���

 

----------------

���M�����i b���n n��m sauchi���n tranh, m���t ng�����i ����n ��ng tr��� v��� ng��i l��ng c���a m��nh ��� Vi���t Nam, n��im�� t��� l��u anh ���� �������c b��o l�� ���� ch���t. V��� anh r���i b��� cu���c s���ng t��i h��n ��ang h���nhph��c ����� ��i v���i anh l���n n���a. Ba s��� ph���n gi���ng x��nhau, c��ng cam ch���u n���i b���t h���nh, m���c k���t trong m���t x�� h���i c��� x��a, m���i ng�����i�����u ch��m l���ng trong k�� ���c h���nh ph��c c���a qu�� kh���. T��c gi���, ng�����i Vi���t Nam,���� k���t h���p c��c y���u t��� c���a bi k���ch Hy L���p v���i ch��� ngh��a l��ng m���n n��ng b���ng,tri���n khai ng��n ng��� �����y g���i c���m trong m���t cu���n ti���u thuy���t c�� c���u tr��c �����cbi���t. M���t m�� ho���c v��n h���c, m���t t��c ph���m kinh ��i���n t����ng lai.���

K.P.  (1)

 

 

Gi���i thi���u

Ng��y 21 th��ng 4 n��m2023, trong khu��n kh��� L��� H���i S��ch Paris, ��ng Daniel Rondeau, Vi���n H��n L��m Ph��p(Acad��mie fran��aise) ���� c��ng b��� t��n ng�����i ��o���t gi���i ���Prix mondial Cino DelDuca���: Nh�� v��n D����ng Thu H����ng.  (2)

 

Prix mondial Cino DelDuca l�� m���t gi���i th�����ng v��n h���c l���n do b�� Simone Del Duca (1912���2004) s��ngl���p t���i Ph��p v��o n��m 1969. Gi���i th�����ng mang t��n ng�����i ch���ng qu�� c���c���a b��, gi��m �����c nh�� xu���t b���n Cino Del Duca (1899���1967). Sau khi b�� qua�����i n��m 2004, H���c vi���n Ph��p (Institut de France) ti���p t���c c��ng vi���c ��i���u h��nhgi���i n��y. V���i 200,000 ���, Prix mondial Cino del Duca l�� gi���i th�����ng v��n h���c c��s��� ti���n th�����ng l���n th��� nh�� tr��n th��� gi���i sau gi���i V��n Ch����ng Nobel.

 

���Prix Mondial Cino DelDuca��� ��� Gi���i th�����ng th��� gi���i Cino Del Duca, d��nh ����� vinh danh nh���ng nh�� v��n c��t��c ph���m v��n h���c ho���c khoa h���c g��p ph���n truy���n b�� th��ng ��i���p v��� ch��� ngh��a nh��nv��n hi���n �����i.

 

 Daniel Rondeau,Vi���n H��n L��m Ph��p, th��nh vi��n Ban gi��m kh���o:

 ���Tab���t g���p nh���ng con ng�����i y��u c��i tuy���t �����i, nh���ng tr��i tim thu���n khi���t v���p ng��,nh���ng �� ch�� cam ch���u, nh���ng anh h��ng ����i khi l��� c��, v�� d�� g�� ��i ch��ng n���a,v��� ng���t c���a cu���c �����i. B���i v�� t���t c��� c��c ti���u thuy���t c���a b�� l�� m���t thi���n �����nh v���s���c m���nh c���a cu���c s���ng. ��

.

S��ch c���a nh�� v��n D����ngThu H����ng �������c d���ch sang nhi���u th��� ti���ng: Ph��p, Anh, �����c,��, T��y Ban Nha, B��� ����oNha, H��a Lan v�� Th���y ��i���n. Trong s��� c��c t��c ph���m ���� ph��t h��nh, ���Ch���n v���ng��� (NoMan���s Land 2005 , Terre des oublis 2006, ���) l�� cu���n s��ch c�� s��� l�����ng �����c gi���cao nh���t. Ti���u thuy���t n��y c��ng ���� t���ng ��o���t Gi���i  th�����ng l���n �����cgi��� c���a t���p ch�� Elle (Grand prix des lectrices de Elle) v��o n��m 2007.

--

Bi��n t���p vi��n v�� nh�� ph�� b��nh Donna Seaman, American LibraryAssociation vi���t trong Booklist:  

���M���t cu���n ti���uthuy���t �����p m�� h���n ph��n t��ch m���t c��ch s���c s���o b���n ch���t c���a chi���n tranh v�� h��ab��nh, s��� ngh��o n��n v�� gi��u c�� v��� v���t ch���t v�� tinh th���n, b���n th��n v�� c���ng �����ng,s��� ��p bu���c v�� t��nh y��u.��� (3)

--

  Kirkus review: 

 ���M���t b�����c �����t ph�� h���p d���n v��o �����a h���t��t �������c bi���t �����n: ch���n th����ng do chi���n tranh Vi���t Nam g��y ra cho ���nh���ng ng�����ichi���n th���ng���  (4)

--

David Smyth, Gale, 2009:

 ���Cu���n ti���u thuy���t�������c ����nh gi�� cao nh���t v�� c��ng �����y k���ch t��nh nh���t c���a H����ng cho �����nnay. Truy���n l���y b���i c���nh ngay sau khi chi���n tranh k���t th��c n��m 1975. Mi��n,ngo��i 30 tu���i, c�� cu���c h��n nh��n h���nh ph��c v���i Hoan, m���t ch��� �����n ��i���n th��nhc��ng. ��� ��o���n m��� �����u truy���n, c�� tr��� v��� khu x��m c���a m��nh ��� mi���n TrungVi���t Nam v�� th���y d��n l��ng t��� t���p tr�����c c���ng nh��. C�� �������c cho bi���t l�� ng�����ich���ng �����u c���a m��nh, B��n, ng�����i �������c coi l�� ���� ch���t nh�� m���t anh h��ng th���i chi���n,v���n c��n s���ng v�� nay quay v��� ����� ����i l���i c��. Tr�����c s���c ��p d��� d���i c���a d��nl��ng v�� c���a �����ng, Mi��n �����ng �� b��� ng�����i ch���ng th��� hai v�� �����a con trai c���a m��nh����� s���ng c���nh ngh��o kh�� v���i B��n.��� (5)

 -- 

 

D���ch gi��� Nina McPherson trong Encyclopedia on Southeast AsianLiterature:

 

 ���: ���NoMan���s Land c�� th��� hi���u theo c��� ngh��a ��en v�� ngh��a b��ng nh�� b���n c��o tr���ng kh���cli���t nh���t c���a D����ng �����i v���i m���t ch��� ����� m�� b�� v�� th��� h��� c���a b�� ���� hy sinh tu���itr��� c���a m��nh ����� ����a n�� l��n �����nh cao quy���n l���c. (6)

 

**************

 

NG�����I N�����C NGO��I

NGH�� G�� V��� ���CH���NV���NG���?

--

�����o l�� v�� Ngh��a v��� x�� h���i? S��� Hy sinh v�� Ch���ngh��a anh h��ng? �����u h��ng s��� ph���n? Mi��n, N��ng Ki���u trong b���i c���nh hi���n�����i? B���t l���c v�� Tr���n ch���y, T��� b��� v�� L���i tho��t ? ����y l�� nh���ng nh���n �����nh,l���i ph�� b��nh, ����nh gi��, nh���ng c���m ngh�� c���a �����c gi���, c��c c�� quan ng��n lu���n, gi���ib��o ch��, c��c nh�� v��n d��nh cho t��c ph���m ���Ch���n V���ng���. 

( C��c ti���u t���a l�� dong�����i d���ch �����t)

 

Gi��ng b��o v�� 

C��n m��a ph��n cu���i m��axu��n

--

Brendan Wolfe, 

writer and editor: 

���Khi tr���i ����� m��a ���trang th��� nh���t trong ���No Man���s Land��� c���a D����ng Thu H����ng, b���n bi���t l�� s��� c��chuy���n s���p x���y ra. Trong ti���u thuy���t Vi���t Nam, ��ng tr���i lu��n (c��� g���ng) canthi���p v��o c��c s��� vi���c, d���i n�����c ng���p ho���c thi��u �����t nh��n v���t, ����� ch���ng t��� r���ngs��� nguy hi���m s��� x���y ra ���� �������c bi���t tr�����c ho���c ����u l�� nguy��n nh��n ph��tsinh.���  

 ������ trang m���t,tr���i m��a, ���m���t c��n m��a l��� l��ng qua �����i������n�����c l���nh v�� h��in��ng giao h��a���,  ���t���t th���y tan l���n v��o l��n n�����c t�����i xu���ng.��� 

 Ngay c��� sau khim���t tr���i l�� d���ng, k���ch t��nh v���n ti���p t���c tu��n tr��o: ���D�����ng nh�� sau kho���nh kh���c c��ch bi���t, t��nhy��u m�� d���i v���i �����t v���i r���ng c��ng s��i s���c, l���a ghen tu��ng thi��u �����t v���n v���t nh��c��n ��i ��n c��o c���u.���  (7)

--

Brian Walsh :

���Ng�����i ta c�� th��� n��ingay t��� �����u r���ng c��u chuy���n n��y s��� kh��ng c�� m���t k���t th��c c�� h���u cho t���t c��� m���ing�����i, v�� ��i���u n��y x���y ra kh��ng ch��� v�� n�� b���t �����u v���i ���m���t c��n m��a l��� l��ng qu�� �����i��� ���r���t g���n v���i ���m���t ����m t���i v�� gi��ng t���.���  (8)

--

Brendan Wolfe:  

���Kh��ng ti���t l��� nhi���u,nh��ng ��� cu���i truy���n, tr���i c��ng m��a, v�� ����y d�����ng nh�� l�� c��ch H����ng n��i r���ng,ngay c��� sau 27 ch����ng �����y ���n d��� v��� th���y tri���u v�� d��ng ch���y, v��� nh���ng c��n gi�� c���k���t th��c th���i ni��n thi���u v�� t��nh y��u n���y sinh t��� m���t l���n su��t ch���t ��u���i, v��� nh���nglinh h���n tr��i d���t ra bi���n v�� b��i tr��� v��� b���n, ��i���u t���t �����p nh���t ch��ng ta c�� th���hy v���ng l�� m���t c��n m��a ph��n cu���i m��a xu��n ���m �����t.���  (7)

 

***

�����o l�� v�� Ngh��a v��� x��h���i,

S��� hy sinh v�� Ch���ngh��a anh h��ng

-

SusanaLea Associates :

���V��ng xoay bi th���m c���anh���ng s��� ph���n n��y t���o ti���n ����� cho c��u chuy���n �����y m�� ho���c c���a D����ng Thu H����ng v���ba con ng�����i �����nh m���nh ���� g���n ch���t v���i nhau v�� b��� bi���n �����i kh��ng ho��n chuy���n�������c b���i s��� phi l�� c���a chi���n tranh. 

 

Khi c��u chuy���n ngo���nm���c m��� ra, m���i ng�����i trong m���i t��nh tay ba ti���n �����nh n��y ph���i �����u tranh ����� dungh��a h���nh ph��c c�� nh��n v���i c��c gi�� tr��� truy���n th���ng v��� ngh��a v��� v�� l��ng v���tha. B��n nhau, nh���ng nh��n v���t n��y t���o n��n m���t b���c ch��n dung t��n kh���c v���m���t d��n t���c ���� hy sinh tr��n b��n th��� chi���n tranh cho ch��� ngh��a s��ng b��i anhh��ng.���  (9)

--

 Dan Hess: 

���V�� kh��ng l��� ta y��u B��n �����n ����� ph���i l��m nh���ng ��i���u ngu xu���n ���y? Takh��ng y��u B��n, cu���c tr��� v��� n��y l�� m���t ph���n s���, c��i ph���n s��� ���� �������c quy �����c t���th���i x���a th���i x��a d�� ch���ng ghi r�� tr��n gi���y tr���ng m���c ��en nh��ng ���� th��nh lu���t l���.N���u ta ch���ng l���i lu���t l��� ���y d�� b��� l��ng ra ��i c��ng ch���ng �������c s���ng b��nhy��n������ 

 

���Trong v��ng v��i ch����ng�����u ti��n c���a cu���n ti���u thuy���t, ng�����i ta l��m quen m���t ch��t v���i ch��� ngh��a giaic���p v�� s��� t��n th��� anh h��ng ��� Vi���t Nam. H��� th���ng ph��n c���p ��� ����y t���a nh�� c��t���ng l���p tr��n v�� d�����i v�� �����t c��c c���u chi���n binh v��o trong m���t t���ng l���p c���ari��ng h������

 

                 

Khi B��n tr��� v��� nh�� l���n�����u ti��n, t���t c��� ng�����i d��n th��� tr���n t���p h���p l���i v�� n��i r�� �� ������������c���a h��� v���iMi��n: ���Th��� n��o, ch��� ���� hi���u ph���n s��� c���a m��nh r���i ch���? Hay cu���c s���ng gi��usang ���� khi���n ch��� t���i t��m m���t m��i, khi���n ch��� quay l��ng l���i v���i ng�����i ch���ng thu���h��n vi? �����ng qu��n r���ng t���t th���y m���i gia ����nh tr��n d���i �����t Vi���t Nam �����u c�� ng�����ira tr���n, s��� ph���n c���a B��n c��ng l�� s��� ph���n chung c���a nh���ng ng�����i trai ���� hy sinhtu���i tr��� n��i tr���n m���c, ���� l��nh ph���n thua thi���t cho k��� kh��c an h�����ng thanh b��nh.Trong n���i m���t m��t c���a anh ���y c�� m���t ph���n ��au kh��� c���a th��n nh��n ch��ng t��i. Ch��ngt��i �����ng v��� ph��a B��n���

S��� t��n th��� anh h��ngd��nh cho B��n n��y �����t anh ta l��n m���t b���c ����i.���   (10)

--

Will Kirkland : 

������ th��� gi���i n��y thu���cv��� c��� m���t ti���u ��o��n g���m nh���ng ng�����i l��nh li��n k���t nhau ti���n v��� ph��a c��, h���t l���pn��y �����n l���p kh��c, trong y ph���c ng���y trang. Sau ����, �����n t��� ti��n xa x��i c���ac��, h��� m���c qu���n ��o b���ng s���i gai th��, v���i b���t hay l���a, b���c trong v��� c��y s���i hayl���a tussah m��u n��u, ho���c che �����u b���ng nh���ng chi���c l���ng v����ng gi��� hay qu���n nh���ngchi���c kh��n x���p m��u ��en ����n gi���n. V�� cu���i c��ng, gi���a hai ����m ����ng n��y ���nh���ng c���u chi���n binh v�� t��� ti��n c���a h���, c�� �����i m���t v���i nh���ng ng�����i c��ng th���i:ng�����i ch��� t���ch trong chi���c ��o s�� mi tr���ng h��� c���ng, b�� th�� �����ng trong b��� qu��nph���c m��u xanh b���c m��u v���i chi���c ��o r��ch r�����i l��i ra ngo��i qu���n; nh���ngthanh thi���u ni��n ��n m���c l���ch s��� trong nh���ng chi���c ��o ph��ng c�� hoa ����nh kimlo���i; nh���ng ng�����i ph��� n��� trong l��ng trong b��� ����� ng��� bu���n t��� h��ng ng��y c���ah���. T���t c��� b���n h��� �����u nh��n c�� ch���m ch���m v���i ��nh m���t bu���c t���i���  (11)

--

Dan Hess :

���Tr��ch nhi���m c���a ����n��ng v�� ph��� n��� r���t r�� r��ng trong ���No Man���s Land���. Nhi���u tr��ch nhi���m trongs��� n��y k���t ch���t v���i Nho gi��o truy���n th���ng. M���t s��� tr��ch nhi���m kh��c c��li��n �����i v���i �����ng C���ng s���n Vi���t Nam. D����ng Thu H����ng ���� xoay chuy���n nh���ngtr��ch nhi���m n��y trong nh��n v���t Mi��n c���a m��nh. Tr��ch nhi���m c���a ng�����i ph��� n���Mi��n �������c th��� hi���n qua b���n ph���n c���a m���t ng�����i v��� Vi���t Nam v�� ni���m tin v��o Nhogi��o��� 

 

 ��� Theotruy���n th���ng ��� Vi���t Nam v���i t��n ng�����ng Kh���ng gi��o, ng�����i ph��� n��� ph���i trungth��nh v���i ch���ng v�� gia ����nh. Tuy nhi��n, ��� ����y t��c gi��� th��ch th���c ni���m tin�����o Kh���ng b���i v�� tr��ch nhi���m c���a Mi��n �����i v���i gia ����nh ���� tr��� n��n r���t ph���c t���pqua s��� tr��� v��� c���a ng�����i ch���ng �����u ti��n, B��n, m���t c���u chi���n binh t���ng ph���c v��������ng C���ng s���n Vi���t Nam. Mi��n b��� bu���c ph���i ��i �����n m���t quy���t �����nh ch���ng l���ini���m tin Nho gi��o ho���c quay l��ng l���i v���i �����ng���  (10)

--

Dan Hess  :

���Hy sinh l�� ch��� �����trong nhi���u ti���u thuy���t c���a D����ng Thu H����ng. D����ng ���� l��m m���t c��ng vi���ctuy���t v���i trong vi���c mi��u t��� nh���ng hy sinh m�� nhi���u ng�����i ph���i �����i m���t ��� Vi���t Nam. Nh���nghy sinh n��y bao g���m c��� hy sinh cho �����ng C���ng s���n Vi���t Nam v�� cho gia����nh. S��� hy sinh r�� r��ng nh���t trong No Man���s Land l�� hysinh c���a Mi��n. C�� t��� b��� �����i s���ng xa hoa v�� gia ����nh ����� �����n v���i cu���cs���ng ngh��o kh�� v���i B��n. Mi��n ti���p t���c hy sinh cho B��n, khi ��� ��o���n sautrong ti���u thuy���t, c�� m���i B��n �����n s���ng c��ng c�� v�� Hoan. L��m nh�� v���y, m���tl���n n���a, c�� hy sinh cu���c h��n nh��n truy���n th���ng c���a m��nh v���i Hoan ����� ch��m s��ccho B��n.���  (10)

--

Publishers weekly  :

���M���c d�� r���t y��u ng�����ich���ng hi���n t���i c���a m��nh, Hoan, v�� con trai c���a hai ng�����i, nh��ng c�� c���m th���y ��pl���c b���i s��� nghi��m ng���t c���a c���ng �����ng c���ng s���n, n��n ph���i quay v��� v���i ng�����i ch���ng�����u ti��n c���a m��nh, B��n, nh���m t��n vinh s��� hy sinh c���a anh ���y cho �����t n�����c.��� (12)

--

Brendan Wolfe : 

��������c gi��� M���, ngay c���nh���ng ng�����i c��ng than v��n v���i Robinson v��� s��� thi���u trung th��nh ����ng bu���n c���ach��ng ta v���i nhau, kh�� c�� th��� ����� l���i cho vi���c ch���n ch��� khi Mi��n �����u h��ngB��n. �����i v���i h���, �����i v���i ch��ng t��i, ����y l�� m���t s��� b���t c��ng man r��� v�� ���NoMan���s Land��� l�� m���t chi���n d���ch k��o d��i v�� kh��ng ho��n to��n ����ng m���c ����� gi���i quy���tv���n �����. Tuy nhi��n, No Man���s Land kh��ng �������c vi���t cho ch��ng t��i. N���������c vi���t cho ng�����i Vi���t Nam, nh���ng ng�����i ti���p c���n v���n ����� t��� m���t ph���i c���nh ho��nto��n ng�����c l���i: R���c r���i n��o s��� x���y ra khi ch��ng ta qu�� trung th��nh, thay v��kh��ng trung th��nh �����?���  (7).

 

***

�����u h��ng s��� ph���n

--

Will Kirkland:  

���Mi��n tr��� v��� l��n c���aB��n, n��i v��� l��n s��� ngh��o kh�� c��ng c���c, th���y b���t h���nh ngay t��� nh���ng gi��y ph��t�����u ti��n. H��� ��ang chia s��� kho���ng kh��ng gian v���i b�� ch��� g��i d��� h���m c���a anhta, ng�����i m�� ���tr���i ph�� cho ��� m���t ham mu���n t��nh d���c ��i��n cu���ng, g���n nh�� d�� th��.���Nh���ng �����a con c���a b�� ta l�� lo��i qu��� s��� ����i kh��t. Nh���ng ��i���u n��y, tr��ing�����c v���i cu���c s���ng an nh��n c���a c�� v���i Hoan, th��nh �����t, c�� gia nh��n, v�� h��� y��unhau s��u �����m. Ch��� ����� th�����ng c�� v��� ���s��� ph���n��� xu���t hi���n ��� ����y v�� h��a quy���n su���tcu���n ti���u thuy���t. Mi��n t��� h���i: ���V�� sao, v�� sao s��� ph���n du �����y ta �����nc���nh tr��� tr��u n��y? ��� C�� l��� ki���p tr�����c ta c�� n��� v���i B��n, v�� ki���p n��y ch��a tr���h���t������

Ho���c khi nh���n ra l��m��nh s��� ��� l���i v���i B��n, b���t ch���p t���t c��� nh���ng g�� tr��i tim v�� kh���i ��c m��ch b���o, Mi��nn��i: ���Em ���� ch���p nh���n s��� ph���n, gi���ng n��i c���a em kh��ng c��n l�� gi���ng n��i c���am���t ng�����i t���nh t��o m�� l�� nh���ng ��m thanh v�� ch���, l�� m���nh l���nh c���a th���y mo k��th��c n��i c���a mi���ng h���n ma���                                     

���C�� l��� ����y l�� s��� mi��ut��� ch��nh x��c v��� nh���ng ng�����i tin r���ng s��� ph���n l�� th��� m���nh m��� nh���t trong cu���c �����ih���. T���t c��� nh���ng g�� h��� c�� th��� l��m l�� ��i���u ch���nh ����� th��ch nghi v���i n��, thayv�� quy���t �����nh n�� s��� nh�� th��� n��o. Trong m���i tr�����ng h���p, n�� khi���n t��i s���ns��ng t��t tai m���t v��i nh��n v���t xung quanh v�� n��i, ���H��y l��m g�� ����!���  (11)

--

Bredan Wolfe :

���H����ng ���� kh��o l��o v��m���a mai soi g����ng so hai ng�����i ����n ��ng n��y ��� t��nh y��u c���a h��� d��nh cho Mi��n,nh���ng m��u c���u ngo��i h���c �������ng, s��� b���t t��i trong kh��� n��ng chinh ph���c x��c th���tc���a h��� ��� ����� quy ra r���ng t���t c��� ch��ng ta �����u l�� n���n nh��n c���a s��� ph���n. Trongti���ng Vi���t, t��� ng��� d��nh cho nh���ng n���n nh��n nh�� v���y l�� oan, hay ���b���t c��ng���, c��ngh��a l�� ��ng tr���i ��i��n r��� v�� th���t l�� t��y ti���n.���

 

Theo s��� mi��u t��� c���at��c g������, Mi��n s��� ph���i r���i b��� th��� gi���i ��m ��� c���a cu���c �����i m��nh ��� ����y, ng�����c d��ngth���i gian ����� s���ng v���i m���t b��ng h��nh xa l��� gi���a �����ng tro t��n c���a m���t m���i t��nh ����m���c b��n g���c c��y ��a c��� th��� m�����i b���n n��m tr�����c. C�� bi���t m��nh c�� th���ch���t ��u���i ��� ���� l���n th��� hai. Nh��ng c�� kh��ng c�� l���a ch���n n��o kh��c; c��bi���t r���ng m��nh ph���i nh���y, ph���i ch���p nh���n b��nh xe s��� ph���n ���� s���p �����t s���n cho c��.  (7)

 

***

���M���t bi���n th��� c���a Truy���nKi���u���

--

Bredan Wolfe :

���Th���t th�� v��� khi xem���Ch���n V���ng��� nh�� m���t bi���n th��� �����y khi��u kh��ch �����i v���i ki���t t��c th�� ca Vi���t Namc���a Nguy���n Du: Truy���n Ki���u. 

�������c vi���t v��o �����u th���k��� 19 b���i m���t v��� quan kh��ng y��n l��ng khi v��� ho��ng ����� y��u k��nh v���a b��� l���t �����,truy���n k��� c��u chuy���n v��� Ki���u, m���t thi���u n��� ph���i l��ng ch��ng trai nh��b��n. Khi ch��ng v���ng m���t trong m���t chuy���n ��i xa, cha v�� em trai c���aKi���u b��� x��� ng���i t��. N��ng Ki���u xinh �����p v�� t��i n��ng ph���i t��� b��� t��nh y��u c���am��nh (�������c vi��n m��n ����ng l��c) ����� lo gia ����nh, ��i���u m�� v��o th���i ���� �����ng ngh��av���i vi���c ph���i l��m g��i l���u xanh, ��� ����o v�� ng�����i h���u trong m���t th���i giand��i. 

 

Trong ���No Man���s Land���,c�� nh���ng tr���n chi���n b���o l���c, t��nh y��u ��an xen v�� r���t nhi���u t��nh d���c. Tuynhi��n, cu���i c��ng th�� s��� ki��n nh���n v�� l��ng trung th��nh c��ng �������c �����n ����p. Sau15 n��m v���ng b��ng (d��i h��n m���t n��m so v���i th���i gian B��n ra tr���n), Ki���u v�� ch��ngKim ��o��n t��� trong m���t l��� c�����i huy ho��ng, ng���t ng��o chen l���n �����ng cay. Trongph��ng ri��ng, h��� ng���i ng��ng n��ng ly ch��c nhau trong m���i quan h��� m���i, run r���y nh���l���i t��nh x��a. V�� t��� l��c ch��ng, m���t m���m hoa sen, l���n �����u ti��n g���p n��ng, m���t n�������o t����i, m�����i l��m n��m tr��n ���� tr��i qua. Y��u ������ng, chia tay, ��o��n t��� ��� c��� hai�����u c���m th���y vui bu���n l���n l���n d�����i ��nh tr��ng.���

���H��y so s��nh v���i cu���ch���i ng��� ��t ng���t ng��o, nhi���u cay �����ng c���a Mi��n v���i B��n, ng�����i m�� c�� g���p l���n �����ukhi anh c���u c�� kh���i ch���t ��u���i. ���Mi��n r��n r���. Bi���t r���ng ch���ng ai tr��� l���ich���. Ch��� s���p ph���i t��� b��� cu���c s���ng ���m n���ng n��y ����� b��i ng�����c d��ng s��ng, t��m l���im���t b��ng h��nh m��� ���o, t��m tro t��n c���a m���i t��nh c��, t��m g���c ��a gi�� tr��n b���n n�����cm�����i b���n n��m x��a. Ch��� bi���t ch��� s��� ch��m ngh���m d�����i d��ng s��ng ���y, nh��ng v���n ph���ili���u th��n nh���y xu���ng, ph���i cam ch���u ��i���u s��� ph���n ���� �����t b��y: C�� l���ki���p tr�����c ta c�� n��� v���i B��n, v�� ki���p n��y ch��a tr��� h���t..���.

��������t nhi��n kh��ng c��ntinh th���n t��� ch��� v�� d�����i ��p l���c ph���i ch���u th��� hi���n t��nh y��u v���i ch��� ����� m���i,Nguy���n Du ���� s��� d���ng Truy���n Ki���u ����� ����a ra quan ��i���m ch��nh tr��� r���ng l���n h��nr���ng ngay c��� trong th���i k��� bi���n �����ng, c��c nguy��n t���c chung th���y v�� trong s���chph���i �������c b���o v��� b���ng m���i gi��.���

���Ng�����c l���i, H����ng n��iv���i ch��ng ta r���ng m���i quan h��� gia ����nh ��� cu���ng n��o c���a t�� t�����ng Nho gi��o ��� ����tr��� n��n ���gi���ng nh�� m���t v���t h���n tr��n m���t n�� l��� ho���c t�� nh��n th���i s�� khai.���. Vi���tNam th���i nay, b��n kho��n gi���a hai ng�� r��� ����ng T��y, ch��� ngh��a c���ng s���n v�� ch���ngh��a t�� b���n, ����y v���a l�� m���t �� t�����ng ch��nh tr��� s��u s���c v�� c��ng l�� m���t s��� l��ngm��� b���t k��� m�� b�� c�� th��� n��m v��o c��c C�� quan Ki���m so��t ���  (7)

 

***

B���t l���c v�� Tr���n ch���y,

T��� b��� v�� L���i tho��t

--

Dan Hess :

���D����ng Thu H����ng m�� t���nh��n v���t B��n c���a b�� nh�� m���t s��� ��m ch��� tr���c ti���p �����n cu���c s���ng c���a nhi���u ng�����i ���Vi���t Nam. Theo b�� ���Anh ���y l�� m���t ���n d��� cho ng�����i Vi���t Nam. Anh ���y �����idi���n cho c��� m���t th��� h���, to��n th��� d��n t���c c���a ch��ng ta, ���� ra tr���n, ���� hy sinhv�� tr��� n��n b���t l���c, c��� v��� tinh th���n l���n th��� ch���t.���  (10)

--

Treasa Bane, Librarianat University of Wisconsin-Baraboo / Sauk County : 

���Ch��ng ta �����u tranhnh�� khi anh ���y �����u tranh ����� hi���u th��� gi���i ���� thay �����i, v�� anh ���y ����n thu���n ch���l�� m���t h���n ma  ��� gi���ng nh�� h���n ma c���a ng�����i ����n ��ng m�� anh ���y gi���t ���������n th��m anh trong r���ng nhi���u n��m tr�����c. Trong khi cu���n s��ch n��y, theo c��ch n��ic���a ch��nh H����ng, nh���c �����n l��ng d��ng c���m ����� ch���t ch��� kh��ng ph���i ����� s���ng, th�� n��c��ng ����� c���p m���t c��ch tinh t��� h��n v��� nh���ng hoang t�����ng, v��� nh���ng ng�����i ��ang y��uv�� nh���ng ng�����i �������c y��u. T���i m���t s��� n��i trong truy���n, m���i nh��n v���t �����u c���g���ng hi���u nh���ng ��i���u kh�� hi���u. T���i sao t��i kh��ng �������c y��u? T���i sao��i���u n��y x���y ra v���i t��i?���  (13)

--

Dan Hess: 

���Khi tr��� v��� s���ng v���iB��n, Mi��n s��� d���ng nhi���u h��nh th���c tr���n ch���y ����� gi���i t���a t��m tr�� v�� c�� th��� c���ac�� ���y trong cu���c s���ng m���i. Mi��n li��n t���c l���p �����y th���i gian c���a m��nhv���i t���t c��� c��c tr��ch nhi���m m�� c�� ���y c�� th��� t��m ra. B��� ��m ���nh b���i s��� s���ch s���,Mi��n t���n d���ng th���i gian d��nh cho vi���c d���n d���p nh�� c���a nh�� m���t l���i tho��t kh���iph���i d��nh th���i gian cho B��n. Kho���ng th�� gi��� c�� c�� cho B��n l�� v��o ban ����m khianh ���y th���c hi���n nh���ng n��� l���c y���u ���t ����� quan h��� t��nh d���c v���i c��. M���i t���i saukhi B��n xu���t qu��n, Mi��n lui v��� t���m r���a b���ng th��� ���C��� trinh n������ (ch��th��ch c���a ng�����i d���ch: trong truy���n ghi l�� ���th���ch trinh h����ng���) m��Hoan, ch���ng n��ng ���� cho. ���C��� trinh n������ �������c d��ng trong c��c nghi l��� thanh t���y, v��h����ng th��m c���a n�� �������c d��nh ri��ng cho nh���ng ng�����i ch���n cu���c s���ng �����c th��n,nh���ng ng�����i ���� t��� b��� ����m ����ng v�� nh���ng ti��u khi���n c���a h��� cho m���t cu���c s���ng xac��ch.��� (H����ng, 2005). B���ng c��ch t���m m��nh trong th��� c��� trinh n��� n��y, Mi��n ��angc��� g���t r���a B��n, kh��ng ch��� m��� h��i hay m��i c���a anh ���y, m�� ngay c��� nh���ng suy ngh��v��� anh ta. ����y l�� l���i tho��t c���a Mi��n ����� c�� quay l���i cu���c s���ng m�� c�� t���ng s���ngv���i Hoan.���  (10)

--

Treasa Bane : 

�����i���u d��� d��ng ����� �����l���i l�� s���c h���p d���n c���a c��c gi�� tr��� v�� truy���n th���ng g���n nh�� v�� ngh��a c���a Vi���tNam. C���ng �����ng x�� h���i c���m th���y v�� c��ng t��� h��o v�� �����m m��nh trong ���� c��ngc��c nghi th���c m�� n�� ��em �����n ��� ngay c��� khi n�� mang l���i b���t h���nh cho h���. ����l�� l�� do t���i sao Mi��n t��m  s��� gi���i tho��t khi cu���i c��ng ���� ch���n c��cht��� b��� n��. R���i kh���i B��n ����� v��� l���i v���i Hoan, c�� ���� chu���n b��� s���n m���t ���d��ngth��c ng��n t��� kh��ng ph���i th��� ng��n ng��� c���a nh���ng k��� uy��n b��c��� ��� s���n s��ng����� b���o v��� quy���n �������c s���ng theo �� mu���n c���a m��nh. Nh��ng th���t l�� l�� th��,trong m���t ph���n c���a cu���c n���i lo���n n��y v���n c�� s��� quan t��m �����n B��n, ngay c��� khi��i���u ���� c�� ngh��a l�� b��� Hoan t��� ch���i.���  (13)

 

 

David Smyth: 

���B��n, gi���ng nh�� t��cgi���, ���� c���ng hi���n tu���i thanh xu��n c���a m��nh ����� b���o v��� �����t n�����c, b��� b��� l���i saul��ng b���ng c��i ch���t kh��ng ng�����i th���a k���, l�� cha c���a m���t con qu��i v���t ch���t non,kh��ng �����u. Thai nhi, b��� bi���n d���ng b���i ch���t �����c m��u da cam, l�� bi���u t�����ng t���i h���uc���a nh���ng l���i h���a kh��ng �������c tu��n th��� c���a �����ng v�� s��� l���a �����o, s��ng b��i ch���ngh��a anh h��ng ���� gi��p n�� n���m gi��� quy���n l���c. Trong khi cu���n ti���u thuy���t ch���a�����y bi k���ch ��en t���i, Mi��n, nh��n v���t n��� anh h��ng c���a D����ng cu���i c��ng ���� chi���nth���ng trong s��� l���a ch���n h���nh ph��c c�� nh��n c���a m��nh b���ng quy���t �����nh tr��� v��� v���iHoan. V�� d��n l��ng, c��ng nh�� Mi��n, ch���n m���u ng�����i ���anh h��ng��� m���i c���a th���i �����itrong con ng�����i Hoan, m���t ng�����i c�� t���m nh��n v��� t����ng lai, kh�����c t��� hy sinh c��nh��n cho m���t gi���c m�� hoang t�����ng.���   (5).

 

---------------

Thay l���i k���t

Xin �������c ch���m d���t b��it��m l�����c ��i���m s��ch n��y b���ng tr��ch ��o���n l���i b��nh lu���n c���a Will Kirkland v�� DanHess:

���Trong m���t s��� �����i x���ngg���n nh�� ho��n h���o, t��c gi��� D����ng Thu H����ng ��ang n��i v��� cu���c �����i c���a b�� ��� kh��ngph���i v���i hai ng�����i ch���ng ri��ng l���, m�� l�� v���i bi���u t�����ng c���a h��� tr��n th��� gian ���m���i t��nh �����u c���a b��, �����ng th���i tr���, tham gia cu���c �����u tranh gi���i ph��ng, m���i t��nhth��� hai l�� khi b�� b���t �����u vi���t, nh���n r�� m��nh l�� m���t c�� nh��n h��nh �����ng t��� do,m���t nh�� v��n v���i t��nh y��u th��� hai, s��� c���i m��� v�� kh��ng ki���m duy���t trong m���t th���gi���i r���ng l���n h��n. �����ng ���� khai tr��� b��. B�� ng��y c��ng nh���p vai���ng�����i v������ c���a cu���c �����i m���i c���a m��nh, nh��ng c���m gi��c t���i l���i t���n c��ngb��; b�� ���� s���ng v���i v�� hi���u ti���ng g���i c���a �����ng cho ngh��a v��� c��ch m���ng nh��ngng��y nay kh��ng c��n y��u n�� n���a. B�� y��u s��� �����c l���p c���a m��nh, y��u ng��i nh�� m���i ��tnh�� b���n h��n, s��ng s���a h��n, sung t��c h��n ��� kh��ng ph���i v��� m���t v���t ch���t m�� l�� ng��inh�� tinh th���n c���a con ng�����i. [V�� th���c v���y, th��� gi���i; hi���n nay b�� ��angs���ng ��� Paris.] Cu���n s��ch l�� k���t qu���, l�� m���t c��u chuy���n v��� cu���c �����u tranh gi���angh��a v��� v�� t��nh y��u, n�� �������c vi���t b���ng ���ng��n t��� kh��ng ph���i th��� ng��n ng��� c���anh���ng k��� uy��n b��c��� m�� l�� dung nham n��ng b���ng c���a m���t ng�����i ph��� n��� ph���n n���.��� Will Kirkland  (11)

 

���Ng�����i Vi���t Nam ��angch���t v���t t��m ki���m m���t cu���c s���ng t��� t��� sau cu���c chi���n Vi���t Nam. B���n th��nD����ng Thu H����ng ���� tr���i qua nh���ng giai ��o���n kh�� kh��n n��y. B�� ���� n��� l���ctrong ���No Man���s Land��� ����� kh���c h���a chu���n x��c nh���ng cu���c �����u tranh m�� ng�����i Vi���tNam ���� ph���i �����i m���t. B�� l��m ��i���u n��y b���ng c��ch n��u l��n c��c ch��� ����� c���th���. C��c ch��� ����� v��� ph��n bi���t giai c���p, t��n gi��o, hy sinh, ch���y tr���n, th���cph���m v�� ngh��o ����i �����u di���n �����t nh���ng g�� m�� nh���ng ng�����i s���ng ��� Vi���t Nam ph���ich���u �����ng. Vi���c ki���m duy���t ti���u thuy���t n��y �������c th���c thi ch��� y���u l�� v��nh���ng tham kh���o x�� h���i m�� D����ng Thu H����ng ���� th���c hi���n���

Tuy nhi��n, gi�� tr��� v��nh���c trong ���No Man���s Land��� n��i ri��ng �������c ����nh gi�� cao v�� c�� nh��n t��i c���m th���yr���ng qua s��� ki���m duy���t cu���n s��ch, c��c nh�� ki���m duy���t ��� Vi���t Nam ��ang t�����c b���nh���ng t��c ph���m v��n h���c tuy���t v���i c���a ng�����i Vi���t Nam.��� DanHess (10)

***

Ninh D����ng t��m l�����c t���c��c ngu���n:

(1) https://www.20minutes.fr/culture/78477-20060403-culture-terre-des-oublis-de-duong-thu-huong-imparfait-triangle-amoureux

(2) https://www.institutdefrance.fr/actualites/le-prix-mondial-cino-del-duca-2023-remis-a-duong-thu-huong/

(3) https://www.amazon.com/Mans-Land-Duong-Thu-Huong/dp/1401366643

(4) https://www.kirkusreviews.com/book-reviews/duong-thu-huong/no-mans-land-4/

(5) https://www.gale.com/intl/databases-explored/literature/duong-thu-huong

(6) https://vietnamlit.org/wiki/index.php?title=Duong_Thu_Huong

(7) https://www.januarymagazine.com/fiction/nomansland.html

(8) http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/DuongThuHuong/NoManLand.htm

(9) https://www.susannalea.com/sla-title/no-mans-land/

(10) https://niucensorshipinliterature.wordpress.com/2013/05/11/critical-review-no-mans-land-2/

(11) https://www.allinoneboat.org/no-mans-land-a-novel-from-vietnam-by-duong-thu-huong

(12) https://publishersweekly.com

(13) https://glli-us.org/2018/02/22/international-banned-book-no-mans-land-by-duong-thu-huong/

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 10, 2023 19:54

Ninh Dương - Người nước ngoài nghĩ gì về tiểu thuyết “Chốn vắng”?

 Nguồn

https://diendankhaiphong.org/duong-thu-huong-nguoi-nuoc-ngoai-nghi-gi-ve-tieu-thuyet-chon-vang/

hoặc

http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/duong-thu-huong-nguoi-nuoc-ngoi-nghi-g-ve-tieu-thuyet-chon-vang/

Để giúp bạn đọc tiệntheo dõi chúng tôi có mạn phép tác giả thay đổi một chút trong cách trình bày văn bản, rất mong đượclượng thứ

 

----------------

„Mười bốn năm sauchiến tranh, một người đàn ông trở về ngôi làng của mình ở Việt Nam, nơimà từ lâu anh đã được báo là đã chết. Vợ anh rời bỏ cuộc sống tái hôn đang hạnhphúc để đi với anh lần nữa. Ba số phận giằng xénhau, cùng cam chịu nỗi bất hạnh, mắc kẹt trong một xã hội cổ xưa, mỗi ngườiđều chìm lắng trong ký ức hạnh phúc của quá khứ. Tác giả, người Việt Nam,đã kết hợp các yếu tố của bi kịch Hy Lạp với chủ nghĩa lãng mạn nóng bỏng,triển khai ngôn ngữ đầy gợi cảm trong một cuốn tiểu thuyết có cấu trúc đặcbiệt. Một mê hoặc văn học, một tác phẩm kinh điển tương lai.“

K.P.  (1)

 

 

Giới thiệu

Ngày 21 tháng 4 năm2023, trong khuôn khổ Lễ Hội Sách Paris, ông Daniel Rondeau, Viện Hàn Lâm Pháp(Académie française) đã công bố tên người đoạt giải „Prix mondial Cino DelDuca“: Nhà văn Dương Thu Hương.  (2)

 

Prix mondial Cino DelDuca là một giải thưởng văn học lớn do bà Simone Del Duca (1912–2004) sánglập tại Pháp vào năm 1969. Giải thưởng mang tên người chồng quá cốcủa bà, giám đốc nhà xuất bản Cino Del Duca (1899–1967). Sau khi bà quađời năm 2004, Học viện Pháp (Institut de France) tiếp tục công việc điều hànhgiải này. Với 200,000 €, Prix mondial Cino del Duca là giải thưởng văn học cósố tiền thưởng lớn thứ nhì trên thế giới sau giải Văn Chương Nobel.

 

„Prix Mondial Cino DelDuca“ – Giải thưởng thế giới Cino Del Duca, dành để vinh danh những nhà văn cótác phẩm văn học hoặc khoa học góp phần truyền bá thông điệp về chủ nghĩa nhânvăn hiện đại.

 

 Daniel Rondeau,Viện Hàn Lâm Pháp, thành viên Ban giám khảo:

 „Tabắt gặp những con người yêu cái tuyệt đối, những trái tim thuần khiết vấp ngã,những ý chí cam chịu, những anh hùng đôi khi lỡ cơ, và dù gì đi chăng nữa,vị ngọt của cuộc đời. Bởi vì tất cả các tiểu thuyết của bà là một thiền định vềsức mạnh của cuộc sống. »

.

Sách của nhà văn DươngThu Hương được dịch sang nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức,Ý, Tây Ban Nha, Bồ ĐàoNha, Hòa Lan và Thụy Điển. Trong số các tác phẩm đã phát hành, „Chốn vắng“ (NoMan’s Land 2005 , Terre des oublis 2006, …) là cuốn sách có số lượng độc giảcao nhất. Tiểu thuyết này cũng đã từng đoạt Giải  thưởng lớn Độcgiả của tạp chí Elle (Grand prix des lectrices de Elle) vào năm 2007.

--

Biên tập viên và nhà phê bình Donna Seaman, American LibraryAssociation viết trong Booklist:  

Một cuốn tiểuthuyết đẹp mê hồn phân tích một cách sắc sảo bản chất của chiến tranh và hòabình, sự nghèo nàn và giàu có về vật chất và tinh thần, bản thân và cộng đồng,sự ép buộc và tình yêu.“ (3)

--

  Kirkus review: 

 “Một bước đột phá hấp dẫn vào địa hạtít được biết đến: chấn thương do chiến tranh Việt Nam gây ra cho ‘những ngườichiến thắng’  (4)

--

David Smyth, Gale, 2009:

 „Cuốn tiểu thuyếtđược đánh giá cao nhất và cũng đầy kịch tính nhất của Hương cho đếnnay. Truyện lấy bối cảnh ngay sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Miên,ngoài 30 tuổi, có cuộc hôn nhân hạnh phúc với Hoan, một chủ đồn điền thànhcông. Ở đoạn mở đầu truyện, cô trở về khu xóm của mình ở miền TrungViệt Nam và thấy dân làng tụ tập trước cổng nhà. Cô được cho biết là ngườichồng đầu của mình, Bôn, người được coi là đã chết như một anh hùng thời chiến,vẫn còn sống và nay quay về để đòi lại cô. Trước sức ép dữ dội của dânlàng và của Đảng, Miên đồng ý bỏ người chồng thứ hai và đứa con trai của mìnhđể sống cảnh nghèo khó với Bôn.“ (5)

 -- 

 

Dịch giả Nina McPherson trong Encyclopedia on Southeast AsianLiterature:

 

 “: „NoMan’s Land có thể hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng như bản cáo trạng khốcliệt nhất của Dương đối với một chế độ mà bà và thế hệ của bà đã hy sinh tuổitrẻ của mình để đưa nó lên đỉnh cao quyền lực. (6)

 

**************

 

NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

NGHĨ GÌ VỀ „CHỐNVẮNG“?

--

Đạo lý và Nghĩa vụ xã hội? Sự Hy sinh và Chủnghĩa anh hùng? Đầu hàng số phận? Miên, Nàng Kiều trong bối cảnh hiệnđại? Bất lực và Trốn chạy, Từ bỏ và Lối thoát ? Đây là những nhận định,lời phê bình, đánh giá, những cảm nghĩ của độc giả, các cơ quan ngôn luận, giớibáo chí, các nhà văn dành cho tác phẩm „Chốn Vắng“. 

( Các tiểu tựa là dongười dịch đặt)

 

Giông bão và 

Cơn mưa phùn cuối mùaxuân

--

Brendan Wolfe, 

writer and editor: 

„Khi trời đổ mưa ởtrang thứ nhất trong „No Man’s Land“ của Dương Thu Hương, bạn biết là sẽ cóchuyện sắp xảy ra. Trong tiểu thuyết Việt Nam, ông trời luôn (cố gắng) canthiệp vào các sự việc, dội nước ngập hoặc thiêu đốt nhân vật, để chứng tỏ rằngsự nguy hiểm sẽ xảy ra đã được biết trước hoặc đâu là nguyên nhân phátsinh.“  

 „Ở trang một,trời mưa, „một cơn mưa lạ lùng qua đỗi”“nước lạnh và hơinóng giao hòa”,  „tất thảy tan lẫn vào làn nước tưới xuống.” 

 Ngay cả sau khimặt trời ló dạng, kịch tính vẫn tiếp tục tuôn trào: “Dường như sau khoảnh khắc cách biệt, tìnhyêu mù dại với đất với rừng càng sôi sục, lửa ghen tuông thiêu đốt vạn vật nhưcơn ái ân cào cấu.”  (7)

--

Brian Walsh :

„Người ta có thể nóingay từ đầu rằng câu chuyện này sẽ không có một kết thúc có hậu cho tất cả mọingười, và điều này xảy ra không chỉ vì nó bắt đầu với “một cơn mưa lạ lùng quá đỗi” –rất gần với “một đêm tối và giông tố.”  (8)

--

Brendan Wolfe:  

„Không tiết lộ nhiều,nhưng ở cuối truyện, trời cũng mưa, và đây dường như là cách Hương nói rằng,ngay cả sau 27 chương đầy ẩn dụ về thủy triều và dòng chảy, về những cơn gió cảkết thúc thời niên thiếu và tình yêu nảy sinh từ một lần suýt chết đuối, về nhữnglinh hồn trôi dạt ra biển và bơi trở về bến, điều tốt đẹp nhất chúng ta có thểhy vọng là một cơn mưa phùn cuối mùa xuân ẩm ướt.“  (7)

 

***

Đạo lý và Nghĩa vụ xãhội,

Sự hy sinh và Chủnghĩa anh hùng

-

SusanaLea Associates :

„Vòng xoay bi thảm củanhững số phận này tạo tiền đề cho câu chuyện đầy mê hoặc của Dương Thu Hương vềba con người định mệnh đã gắn chặt với nhau và bị biến đổi không hoán chuyểnđược bởi sự phi lý của chiến tranh. 

 

Khi câu chuyện ngoạnmục mở ra, mỗi người trong mối tình tay ba tiền định này phải đấu tranh để dunghòa hạnh phúc cá nhân với các giá trị truyền thống về nghĩa vụ và lòng vịtha. Bên nhau, những nhân vật này tạo nên một bức chân dung tàn khốc vềmột dân tộc đã hy sinh trên bàn thờ chiến tranh cho chủ nghĩa sùng bái anhhùng.“  (9)

--

 Dan Hess: 

„Và không lẽ ta yêu Bôn đến độ phải làm những điều ngu xuẩn ấy? Takhông yêu Bôn, cuộc trở về này là một phận sự, cái phận sự đã được quy ước từthời xửa thời xưa dù chẳng ghi rõ trên giấy trắng mực đen nhưng đã thành luật lệ.Nếu ta chống lại luật lệ ấy dù bỏ làng ra đi cũng chẳng được sống bìnhyên…“ 

 

„Trong vòng vài chươngđầu tiên của cuốn tiểu thuyết, người ta làm quen một chút với chủ nghĩa giaicấp và sự tôn thờ anh hùng ở Việt Nam. Hệ thống phân cấp ở đây tựa như cótầng lớp trên và dưới và đặt các cựu chiến binh vào trong một tầng lớp củariêng họ…

 

                 

Khi Bôn trở về nhà lầnđầu tiên, tất cả người dân thị trấn tập hợp lại và nói rõ ý ​​​​của họ vớiMiên: „Thế nào, chị đã hiểu phận sự của mình rồi chứ? Hay cuộc sống giàusang đã khiến chị tối tăm mắt mũi, khiến chị quay lưng lại với người chồng thuởhàn vi? Ðừng quên rằng tất thảy mọi gia đình trên dải đất Việt Nam đều có ngườira trận, số phận của Bôn cũng là số phận chung của những người trai đã hy sinhtuổi trẻ nơi trận mạc, đã lãnh phần thua thiệt cho kẻ khác an hưởng thanh bình.Trong nỗi mất mát của anh ấy có một phần đau khổ của thân nhân chúng tôi. Chúngtôi đứng về phía Bôn“

Sự tôn thờ anh hùngdành cho Bôn này đặt anh ta lên một bục đài.“   (10)

--

Will Kirkland : 

„… thế giới này thuộcvề cả một tiểu đoàn gồm những người lính liên kết nhau tiến về phía cô, hết lớpnày đến lớp khác, trong y phục ngụy trang. Sau đó, đến tổ tiên xa xôi củacô, họ mặc quần áo bằng sợi gai thô, vải bạt hay lụa, bọc trong vỏ cây sồi haylụa tussah màu nâu, hoặc che đầu bằng những chiếc lọng vương giả hay quấn nhữngchiếc khăn xếp màu đen đơn giản. Và cuối cùng, giữa hai đám đông này –những cựu chiến binh và tổ tiên của họ, cô đối mặt với những người cùng thời:người chủ tịch trong chiếc áo sơ mi trắng hồ cứng, bí thư Đảng trong bộ quânphục màu xanh bạc màu với chiếc áo rách rưới lòi ra ngoài quần; nhữngthanh thiếu niên ăn mặc lịch sự trong những chiếc áo phông có hoa đính kimloại; những người phụ nữ trong làng trong bộ đồ ngủ buồn tẻ hàng ngày củahọ. Tất cả bọn họ đều nhìn cô chằm chằm với ánh mắt buộc tội“  (11)

--

Dan Hess :

„Trách nhiệm của đànông và phụ nữ rất rõ ràng trong „No Man’s Land“. Nhiều trách nhiệm trongsố này kết chặt với Nho giáo truyền thống. Một số trách nhiệm khác cóliên đới với Đảng Cộng sản Việt Nam. Dương Thu Hương đã xoay chuyển nhữngtrách nhiệm này trong nhân vật Miên của mình. Trách nhiệm của người phụ nữMiên được thể hiện qua bổn phận của một người vợ Việt Nam và niềm tin vào Nhogiáo… 

 

 … Theotruyền thống ở Việt Nam với tín ngưỡng Khổng giáo, người phụ nữ phải trungthành với chồng và gia đình. Tuy nhiên, ở đây tác giả thách thức niềm tinđạo Khổng bởi vì trách nhiệm của Miên đối với gia đình đã trở nên rất phức tạpqua sự trở về của người chồng đầu tiên, Bôn, một cựu chiến binh từng phục vụĐảng Cộng sản Việt Nam. Miên bị buộc phải đi đến một quyết định chống lạiniềm tin Nho giáo hoặc quay lưng lại với Đảng“  (10)

--

Dan Hess  :

„Hy sinh là chủ đềtrong nhiều tiểu thuyết của Dương Thu Hương. Dương đã làm một công việctuyệt vời trong việc miêu tả những hy sinh mà nhiều người phải đối mặt ở Việt Nam. Nhữnghy sinh này bao gồm cả hy sinh cho Đảng Cộng sản Việt Nam và cho giađình. Sự hy sinh rõ ràng nhất trong No Man’s Land là hysinh của Miên. Cô từ bỏ đời sống xa hoa và gia đình để đến với cuộcsống nghèo khó với Bôn. Miên tiếp tục hy sinh cho Bôn, khi ở đoạn sautrong tiểu thuyết, cô mời Bôn đến sống cùng cô và Hoan. Làm như vậy, mộtlần nữa, cô hy sinh cuộc hôn nhân truyền thống của mình với Hoan để chăm sóccho Bôn.“  (10)

--

Publishers weekly  :

„Mặc dù rất yêu ngườichồng hiện tại của mình, Hoan, và con trai của hai người, nhưng cô cảm thấy áplực bởi sự nghiêm ngặt của cộng đồng cộng sản, nên phải quay về với người chồngđầu tiên của mình, Bôn, nhằm tôn vinh sự hy sinh của anh ấy cho đất nước.“ (12)

--

Brendan Wolfe : 

„Độc giả Mỹ, ngay cảnhững người cùng than vãn với Robinson về sự thiếu trung thành đáng buồn củachúng ta với nhau, khó có thể đổ lỗi cho việc chần chừ khi Miên đầu hàngBôn. Đối với họ, đối với chúng tôi, đây là một sự bất công man rợ và “NoMan’s Land“ là một chiến dịch kéo dài và không hoàn toàn đúng mực để giải quyếtvấn đề. Tuy nhiên, No Man’s Land không được viết cho chúng tôi. Nóđược viết cho người Việt Nam, những người tiếp cận vấn đề từ một phối cảnh hoàntoàn ngược lại: Rắc rối nào sẽ xảy ra khi chúng ta quá trung thành, thay vìkhông trung thành đủ?“  (7).

 

***

Đầu hàng số phận

--

Will Kirkland:  

„Miên trở về lán củaBôn, nơi vẽ lên sự nghèo khó cùng cực, thấy bất hạnh ngay từ những giây phútđầu tiên. Họ đang chia sẻ khoảng không gian với bà chị gái dị hợm của anhta, người mà ‘trời phú cho … một ham muốn tình dục điên cuồng, gần như dã thú.’Những đứa con của bà ta là loài quỷ sứ đói khát. Những điều này, tráingược với cuộc sống an nhàn của cô với Hoan, thành đạt, có gia nhân, và họ yêunhau sâu đậm. Chủ đề thường có về ‘số phận’ xuất hiện ở đây và hòa quyện suốtcuốn tiểu thuyết. Miên tự hỏi: „Vì sao, vì sao số phận du đẩy ta đếncảnh trớ trêu này? … Có lẽ kiếp trước ta có nợ với Bôn, và kiếp này chưa trảhết…“

Hoặc khi nhận ra làmình sẽ ở lại với Bôn, bất chấp tất cả những gì trái tim và khối óc mách bảo, Miênnói: “Em đã chấp nhận số phận, giọng nói của em không còn là giọng nói củamột người tỉnh táo mà là những âm thanh vô chủ, là mệnh lệnh của thầy mo kíthác nơi cửa miệng hồn ma“                                     

„Có lẽ đây là sự miêutả chính xác về những người tin rằng số phận là thứ mạnh mẽ nhất trong cuộc đờihọ. Tất cả những gì họ có thể làm là điều chỉnh để thích nghi với nó, thayvì quyết định nó sẽ như thế nào. Trong mọi trường hợp, nó khiến tôi sẵnsàng tát tai một vài nhân vật xung quanh và nói, ‘Hãy làm gì đó!’  (11)

--

Bredan Wolfe :

„Hương đã khéo léo vàmỉa mai soi gương so hai người đàn ông này – tình yêu của họ dành cho Miên,những mưu cầu ngoài học đường, sự bất tài trong khả năng chinh phục xác thịtcủa họ – để quy ra rằng tất cả chúng ta đều là nạn nhân của số phận. Trongtiếng Việt, từ ngữ dành cho những nạn nhân như vậy là oan, hay “bất công”, cónghĩa là ông trời điên rồ và thật là tùy tiện.“

 

Theo sự miêu tả củatác gỉả, Miên sẽ phải rời bỏ thế giới êm ả của cuộc đời mình ở đây, ngược dòngthời gian để sống với một bóng hình xa lạ giữa đống tro tàn của một mối tình đãmọc bên gốc cây đa cổ thụ mười bốn năm trước. Cô biết mình có thểchết đuối ở đó lần thứ hai. Nhưng cô không có lựa chọn nào khác; côbiết rằng mình phải nhảy, phải chấp nhận bánh xe số phận đã sắp đặt sẵn cho cô.  (7)

 

***

„Một biến thể của TruyệnKiều“

--

Bredan Wolfe :

„Thật thú vị khi xem„Chốn Vắng“ như một biến thể đầy khiêu khích đối với kiệt tác thơ ca Việt Namcủa Nguyễn Du: Truyện Kiều. 

Được viết vào đầu thếkỷ 19 bởi một vị quan không yên lòng khi vị hoàng đế yêu kính vừa bị lật đổ,truyện kể câu chuyện về Kiều, một thiếu nữ phải lòng chàng trai nhàbên. Khi chàng vắng mặt trong một chuyến đi xa, cha và em trai củaKiều bị xử ngồi tù. Nàng Kiều xinh đẹp và tài năng phải từ bỏ tình yêu củamình (được viên mãn đúng lúc) để lo gia đình, điều mà vào thời đó đồng nghĩavới việc phải làm gái lầu xanh, ả đào và người hầu trong một thời giandài. 

 

Trong „No Man’s Land“,có những trận chiến bạo lực, tình yêu đan xen và rất nhiều tình dục. Tuynhiên, cuối cùng thì sự kiên nhẫn và lòng trung thành cũng được đền đáp. Sau15 năm vắng bóng (dài hơn một năm so với thời gian Bôn ra trận), Kiều và chàngKim đoàn tụ trong một lễ cưới huy hoàng, ngọt ngào chen lẫn đắng cay. Trongphòng riêng, họ ngại ngùng nâng ly chúc nhau trong mối quan hệ mới, run rẫy nhớlại tình xưa. Vì từ lúc chàng, một mầm hoa sen, lần đầu tiên gặp nàng, một nụđào tươi, mười lăm năm tròn đã trôi qua. Yêu đương, chia tay, đoàn tụ – cả haiđều cảm thấy vui buồn lẫn lộn dưới ánh trăng.“

„Hãy so sánh với cuộchội ngộ ít ngọt ngào, nhiều cay đắng của Miên với Bôn, người mà cô gặp lần đầukhi anh cứu cô khỏi chết đuối. „Miên rên rỉ. Biết rằng chẳng ai trả lờichị. Chị sắp phải từ bỏ cuộc sống ấm nồng này để bơi ngược dòng sông, tìm lạimột bóng hình mờ ảo, tìm tro tàn của mối tình cũ, tìm gốc đa già trên bến nướcmười bốn năm xưa. Chị biết chị sẽ chìm nghỉm dưới dòng sông ấy, nhưng vẫn phảiliều thân nhảy xuống, phải cam chịu điều số phận đã đặt bày: Có lẽkiếp trước ta có nợ với Bôn, và kiếp này chưa trả hết..“.

„Đột nhiên không còntinh thần tự chủ và dưới áp lực phải chịu thể hiện tình yêu với chế độ mới,Nguyễn Du đã sử dụng Truyện Kiều để đưa ra quan điểm chính trị rộng lớn hơnrằng ngay cả trong thời kỳ biến động, các nguyên tắc chung thủy và trong sạchphải được bảo vệ bằng mọi giá.“

„Ngược lại, Hương nóivới chúng ta rằng mối quan hệ gia đình – cuống não của tư tưởng Nho giáo – đãtrở nên “giống như một vết hằn trên mặt nô lệ hoặc tù nhân thời sơ khai.”. ViệtNam thời nay, băn khoăn giữa hai ngã rẽ Đông Tây, chủ nghĩa cộng sản và chủnghĩa tư bản, đây vừa là một ý tưởng chính trị sâu sắc và cũng là một sự lăngmạ bất kỳ mà bà có thể ném vào các Cơ quan Kiểm soát “  (7)

 

***

Bất lực và Trốn chạy,

Từ bỏ và Lối thoát

--

Dan Hess :

„Dương Thu Hương mô tảnhân vật Bôn của bà như một sự ám chỉ trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người ởViệt Nam. Theo bà “Anh ấy là một ẩn dụ cho người Việt Nam. Anh ấy đạidiện cho cả một thế hệ, toàn thể dân tộc của chúng ta, đã ra trận, đã hy sinhvà trở nên bất lực, cả về tinh thần lẫn thể chất.”  (10)

--

Treasa Bane, Librarianat University of Wisconsin-Baraboo / Sauk County : 

„Chúng ta đấu tranhnhư khi anh ấy đấu tranh để hiểu thế giới đã thay đổi, và anh ấy đơn thuần chỉlà một hồn ma  – giống như hồn ma của người đàn ông mà anh ấy giết đãđến thăm anh trong rừng nhiều năm trước. Trong khi cuốn sách này, theo cách nóicủa chính Hương, nhắc đến lòng dũng cảm để chết chứ không phải để sống, thì nócũng đề cập một cách tinh tế hơn về những hoang tưởng, về những người đang yêuvà những người được yêu. Tại một số nơi trong truyện, mỗi nhân vật đều cốgắng hiểu những điều khó hiểu. Tại sao tôi không được yêu? Tại saođiều này xảy ra với tôi?“  (13)

--

Dan Hess: 

„Khi trở về sống vớiBôn, Miên sử dụng nhiều hình thức trốn chạy để giải tỏa tâm trí và cơ thể củacô ấy trong cuộc sống mới. Miên liên tục lấp đầy thời gian của mìnhvới tất cả các trách nhiệm mà cô ấy có thể tìm ra. Bị ám ảnh bởi sự sạch sẽ,Miên tận dụng thời gian dành cho việc dọn dẹp nhà cửa như một lối thoát khỏiphải dành thời gian cho Bôn. Khoảng thì giờ cô có cho Bôn là vào ban đêm khianh ấy thực hiện những nỗ lực yếu ớt để quan hệ tình dục với cô. Mỗi tối saukhi Bôn xuất quân, Miên lui về tắm rửa bằng thứ “Cỏ trinh nữ” (chúthích của người dịch: trong truyện ghi là „thạch trinh hương“) màHoan, chồng nàng đã cho. “Cỏ trinh nữ“ được dùng trong các nghi lễ thanh tẩy, vàhương thơm của nó được dành riêng cho những người chọn cuộc sống độc thân,những người đã từ bỏ đám đông và những tiêu khiển của họ cho một cuộc sống xacách.” (Hương, 2005). Bằng cách tắm mình trong thứ cỏ trinh nữ này, Miên đangcố gột rửa Bôn, không chỉ mồ hôi hay mùi của anh ấy, mà ngay cả những suy nghĩvề anh ta. Đây là lối thoát của Miên để cô quay lại cuộc sống mà cô từng sốngvới Hoan.“  (10)

--

Treasa Bane : 

„Điều dễ dàng để đổlỗi là sức hấp dẫn của các giá trị và truyền thống gần như vô nghĩa của ViệtNam. Cộng đồng xã hội cảm thấy vô cùng tự hào và đắm mình trong đó cùngcác nghi thức mà nó đem đến – ngay cả khi nó mang lại bất hạnh cho họ. Đólà lý do tại sao Miên tìm  sự giải thoát khi cuối cùng đã chọn cáchtừ bỏ nó. Rời khỏi Bôn để về lại với Hoan, cô đã chuẩn bị sẵn một “dòngthác ngôn từ không phải thứ ngôn ngữ của những kẻ uyên bác” – sẵn sàngđể bảo vệ quyền được sống theo ý muốn của mình. Nhưng thật là lý thú,trong một phần của cuộc nổi loạn này vẫn có sự quan tâm đến Bôn, ngay cả khiđiều đó có nghĩa là bị Hoan từ chối.“  (13)

 

 

David Smyth: 

„Bôn, giống như tácgiả, đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ đất nước, bị bỏ lại saulưng bằng cái chết không người thừa kế, là cha của một con quái vật chết non,không đầu. Thai nhi, bị biến dạng bởi chất độc màu da cam, là biểu tượng tối hậucủa những lời hứa không được tuân thủ của Đảng và sự lừa đảo, sùng bái chủnghĩa anh hùng đã giúp nó nắm giữ quyền lực. Trong khi cuốn tiểu thuyết chứađầy bi kịch đen tối, Miên, nhân vật nữ anh hùng của Dương cuối cùng đã chiếnthắng trong sự lựa chọn hạnh phúc cá nhân của mình bằng quyết định trở về vớiHoan. Và dân làng, cũng như Miên, chọn mẫu người “anh hùng” mới của thời đạitrong con người Hoan, một người có tầm nhìn về tương lai, khước từ hy sinh cánhân cho một giấc mơ hoang tưởng.“   (5).

 

---------------

Thay lời kết

Xin được chấm dứt bàitóm lược điểm sách này bằng trích đoạn lời bình luận của Will Kirkland và DanHess:

„Trong một sự đối xứnggần như hoàn hảo, tác giả Dương Thu Hương đang nói về cuộc đời của bà – khôngphải với hai người chồng riêng lẻ, mà là với biểu tượng của họ trên thế gian –mối tình đầu của bà, Đảng thời trẻ, tham gia cuộc đấu tranh giải phóng, mối tìnhthứ hai là khi bà bắt đầu viết, nhận rõ mình là một cá nhân hành động tự do,một nhà văn với tình yêu thứ hai, sự cởi mở và không kiểm duyệt trong một thếgiới rộng lớn hơn. Đảng đã khai trừ bà. Bà ngày càng nhập vai‘người vợ’ của cuộc đời mới của mình, nhưng cảm giác tội lỗi tấn côngbà; bà đã sống với và hiểu tiếng gọi của Đảng cho nghĩa vụ cách mạng nhưngngày nay không còn yêu nó nữa. Bà yêu sự độc lập của mình, yêu ngôi nhà mới ítnhơ bẩn hơn, sáng sủa hơn, sung túc hơn – không phải về mặt vật chất mà là ngôinhà tinh thần của con người. [Và thực vậy, thế giới; hiện nay bà đangsống ở Paris.] Cuốn sách là kết quả, là một câu chuyện về cuộc đấu tranh giữanghĩa vụ và tình yêu, nó được viết bằng ‘ngôn từ không phải thứ ngôn ngữ củanhững kẻ uyên bác’ mà là dung nham nóng bỏng của một người phụ nữ phẫn nộ.“ Will Kirkland  (11)

 

„Người Việt Nam đangchật vật tìm kiếm một cuộc sống tử tế sau cuộc chiến Việt Nam. Bản thânDương Thu Hương đã trải qua những giai đoạn khó khăn này. Bà đã nỗ lựctrong “No Man’s Land“ để khắc họa chuẩn xác những cuộc đấu tranh mà người ViệtNam đã phải đối mặt. Bà làm điều này bằng cách nêu lên các chủ đề cụthể. Các chủ đề về phân biệt giai cấp, tôn giáo, hy sinh, chạy trốn, thựcphẩm và nghèo đói đều diễn đạt những gì mà những người sống ở Việt Nam phảichịu đựng. Việc kiểm duyệt tiểu thuyết này được thực thi chủ yếu là vìnhững tham khảo xã hội mà Dương Thu Hương đã thực hiện…

Tuy nhiên, giá trị vănhọc trong “No Man’s Land“ nói riêng được đánh giá cao và cá nhân tôi cảm thấyrằng qua sự kiểm duyệt cuốn sách, các nhà kiểm duyệt ở Việt Nam đang tước bỏnhững tác phẩm văn học tuyệt vời của người Việt Nam.“ DanHess (10)

***

Ninh Dương tóm lược từcác nguồn:

(1) https://www.20minutes.fr/culture/78477-20060403-culture-terre-des-oublis-de-duong-thu-huong-imparfait-triangle-amoureux

(2) https://www.institutdefrance.fr/actualites/le-prix-mondial-cino-del-duca-2023-remis-a-duong-thu-huong/

(3) https://www.amazon.com/Mans-Land-Duong-Thu-Huong/dp/1401366643

(4) https://www.kirkusreviews.com/book-reviews/duong-thu-huong/no-mans-land-4/

(5) https://www.gale.com/intl/databases-explored/literature/duong-thu-huong

(6) https://vietnamlit.org/wiki/index.php?title=Duong_Thu_Huong

(7) https://www.januarymagazine.com/fiction/nomansland.html

(8) http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/DuongThuHuong/NoManLand.htm

(9) https://www.susannalea.com/sla-title/no-mans-land/

(10) https://niucensorshipinliterature.wordpress.com/2013/05/11/critical-review-no-mans-land-2/

(11) https://www.allinoneboat.org/no-mans-land-a-novel-from-vietnam-by-duong-thu-huong

(12) https://publishersweekly.com

(13) https://glli-us.org/2018/02/22/international-banned-book-no-mans-land-by-duong-thu-huong/

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 10, 2023 19:54

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.