Vương Trí Nhàn's Blog, page 79

November 26, 2013

Vũ khúc không buồn mà tê tái

Luôn luôn, người ta có thể đọc ra
những buồn vui của cả kiếp người,


qua những buồn vui của một đời văn




Ai bảo nghề văn là khổ? Cứ xem như
đời anh L., một người bạn vong niên của tôi, thì sướng lắm chứ. Hãy nói một
chuyện: sự hưởng thụ. Thời ấy đồng bạc có giá, lương anh đã rủng rỉnh. Vậy mà
luôn luôn còn có nhuận bút. Những quyển sách trên trăm trang của anh in ra,
thường được tính hàng cây. Cái xe đạp quý như cái cúp bấy giờ, mỗi lần sách in
đều thừa sức để mua.
Thuở ấy, nhà văn được trọng vọng. Anh nổi tiếng. Anh luôn
được mọi người nhắc nhở. Nhiều cơ sở - các nhà máy, các đơn vị quân đội - chèo
kéo mời mọc anh. Mà anh bạn tôi lại có lối chơi rất sang. Người ta mời anh đến,
cốt để lấy tiếng, về có viết gì cũng phải khen. Nhưng L. không bao giờ chịu xu
phụ, trả nghĩa cái nơi đã cung đốn cơm rượu. Anh viết “khái quát”, anh “đặt vấn
đề “ hẳn hoi. Người được viết thì chán, nhưng người đứng ngoài thì thích. Cả
giới viết văn cũng thích. Mọi người thấy thơm lây vì anh. Người ta bảo trong sự
vận động tiến lên của xã hội, có vai trò của anh, sự đóng góp của anh nữa.

Giá kể cuộc sống cứ như thế mãi thì chưa chắc đã vui, hoặc mới vui một kiểu. Mà
gì thì gì, chứ vui mãi một kiểu, dễ sinh nhàm chán! Đùng một cái thời bao cấp
qua đi, cả xã hội chuyển sang kinh tế thị trường, mà ngành sản xuất văn chương
của chúng tôi cũng rập rềnh lên xuống theo cơ chế thị trường. Cái hình ảnh có
thể dùng để so sánh: từ gà công nghiệp, gà chỉ nuôi trong chuồng, chúng tôi trở
thành đám gà nhà, gà ta, tự đi kiếm lấy mồi mà ăn. Để bù lại, không khí sáng
tác trở nên cởi mở hơn hẳn. Những điều trước kia chỉ anh L. mới biết, thì bây
giờ cả làng biết. Vui vầy, hỗn loạn, bảo thế nào cũng được.

Trong cuộc thập tự chinh của giới viết văn để lo kiếm sống hôm nay, dĩ nhiên là
vẫn có anh bạn tôi, anh L. một thời nổi tiếng sắc sảo đó. Anh cũng phải lăn lộn
với các báo cũng chạy đôn chạy đáo nơi này nơi nọ lấy mấy trăm ngàn mỗi tháng
nuôi vợ con. Ban đầu, kể cũng ngại. Anh thử kêu rên. Anh đã thử làm phách như
cậu Phước trong Số đỏ, đập chân đập
tay em chã, ra đều tôi mà phải lo từng bữa thế này à, thôi tôi không viết nữa,
hỏng hết rồi còn gì. Mặc! Chả thấy ai động lòng. Thảng hoặc cũng có vài người
động lòng, song họ cũng nghèo như anh, chả cứu được anh. Kêu mãi chán, anh lại
cum cúp lo viết, lôi mọi chuyện cũ ra viết.


Nhìn nụ cười đôi khi như đã heo héo
ngay trên miệng anh, tôi biết rằng tận trong thâm tâm, anh đau khổ lắm. Và hình
như có cả chút hối tiếc nữa. Hối rằng có lúc đã cổ động cho sự nhộn nhạo hôm
nay. Giá kể cứ để tất cả đi bằng tay có phải mình khéo nhất hội không; nay đến
lúc đi bằng chân như thế này mọi người già trẻ lớn bé đều biết đi, mà mình thì
cũng nguệnh ngoạng chẳng hơn gì ai cả.

Nỗi đau của một cây bút từng biết rằng chỗ mạnh của mình là luôn
luôn đi trước mọi người
là ở cái thế khó chịu bất ngờ. Anh bị mọi người  nhìn bằng con mắt cá mè một lứa.

Mỗi lần nhìn lại cuộc đời viết văn
của người bạn vong niên -- mà bản thân tôi từng chịu ơn rất nhiều này --, tôi
như có dịp nghĩ thêm và thấm thía thêm về duyên nợ nghề nghiệp. Đứng ngoài
nhìn, nghề này đâu có buồn! Hôm qua rước sách tưng bừng hoan hỉ đã đành, mà
cảnh cả giới bì bõm chìm nổi như hiện nay chắc cũng làm bật cười cho ai đó
ngoài giới. Và, những vụ làm ăn những sự xoay sở, những thành bại của mỗi người
thì trở thành đề tài cho chuyện đàm tiếu của các đồng nghiệp, buồn làm sao
được?

Nhưng có lẽ, dưới một góc độ khác mà
xét, ở đây luôn luôn có chút thê thảm. Người hăng hái đi trước có lúc phải hối
hận; kẻ báo trước sự nhộn nhạo, mà lúc nhộn nhạo đến, mọi người hái ra tiền ra
bạc, còn bản thân lại nhếch nhác như vậy, nhếch nhác hơn cả hôm qua nữa - nhìn
cả vũ khúc đời văn, chẳng là tê tái hay sao? Lại còn buồn tê tái hơn, nếu trí
nhớ kha khá một chút, người ta nhớ được những cuộc tranh cãi bấy lâu về sứ mạng
nhà văn. Người bạn đời của J. P Sartre là S. de Beauvoir từng có lần than thở
đại ý: “Thật không thể ngờ là nghề văn có lắm ý nghĩa đến thế, trong khi nó chỉ
có thế!”.



In lần đầu trong  Những kiếp hoa dại,1993








  Viết thêm 25-11-2013

Nguyên do dẫn đến bài phiếm luận
về Nguyễn Khải này là ở một ít  điều tôi quan
sát được về ông những năm khoảng 1979-1986.

 Nguyễn Khải là người sớm truyền cho tôi niềm
tha thiết với sự đổi mới văn chương. Ông đọc nhiều và hay kể lại với tôi về văn
học nước ngoài Tất cả những cái  đó gộp
cả lại khắc họa trong tôi một định nghĩa văn học là thế nào, cái mà các nhà văn
đích thực muốn viết cần phải như thế nào.

Nhất là những chuyện ông biết về
giới cầm bút đương thời – nhiều khi là những chuyện rất khỉ gió như chữ của ông vẫn dùng – loại này càng thức dậy
trong  tôi một ám ảnh. Chúng ta đã sống
và viết chẳng ra làm sao cả. Cái mà chúng ta viết ra không phải là văn học.
Chúng ta sẽ phải viết khác.

Hoàn cảnh đổi mới đã tới. Đó là
những ngày sau chiến tranh khi xã hội cảm thấy cần phải sống khác đi về tất cả
mọi phương diện.

 Trong văn học từ sau 1975, có hai cao trào,
hai cái mốc đáng kể, 1979 và 1986.

Sẽ chẳng có gì lạ lùng khi thấy
trong cả hai lần ấy Nguyễn Khải sát cánh với Nguyên Ngọc trong việc làm thủ
lĩnh cho đổi mới.

Rồi cả hai lần ông thoái lui.

Chẳng những thế, trong những năm
tiếp theo, ông tham gia vào việc phủ định ngay con đường mà ông vừa tham gia
vào việc khai phá, phủ định một cách ác liệt. Tại sao ?

Tôi thấy ở đây rõ nhất là cái nguyên nhân này: tình hình xã hội nói chung.
Tình hình chưa cho phép thay đổi.

 Xưa nay vẫn thế, Nguyễn Khải sống và viết bằng
một sự tinh nhạy đặc biệt.  Luôn luôn ở
ông giữa sự cảm và sự viết có khoảng chênh lệch. Khi cảm thấy điều gì làm được
ông làm ngay. Nhưng khi cảm thấy không thể làm được, ông buông ngay.

Có phải từ giã chính mình, ông
cũng không cần.

 Bởi Nguyễn Khải sớm
có một vị thế đáng kể, và sự tha thiết với đổi mới của ông trước đó cũng rõ
quá, nên khi thấy Nguyễn Khải trở cờ, người ta oán trách ông. Song nên biết là sự không nhất trí, sự tự mâu thuẫn vốn là bản chất con người nơi ông. Miễn sao ông được
hành động, được viết, được đứng ở hàng
đầu, ngoài ra thì mọi điều kiện đặt ra cho 
ông thế nào ông cũng chịu được.




Còn nhớ hồi trước 1975, có một hồi Nguyễn Khải rất mê tử vi.
Ông đã từng theo nhà văn Hà Ân lần mãi tới chỗ nhà tử vi Hùng Văn, và được phán
một câu nhớ đời — mệnh vô chính diệu đắc
tam không
. Nguyễn Khải thú với câu ấy lắm. Thú ở chỗ nó nói đúng rằng ông không bị ràng buộc
bởi bất cứ điều gì cả.




--Tôi hoan nghênh cả sự kiên cường của anh Ngọc lẫn cả sự
chạy làng của anh Khải.

 Khi nhớ tới tình hình
sau Hội nghị Đảng viên 1979, tôi hay nhớ 
câu nói ấy của Nguyễn Minh Châu. Hình như tác giả Dấu chân người lính muốn
nói rằng “ông nào tôi cũng thấy có lý”.




Còn một nguyên nhân nữa dẫn đến sự đổi mầu ở Nguyễn Khải, mà
như bài trên, tôi thử phác họa. Là sang thời buổi hỗn loạn này, nhất là mấy năm
đầu, Nguyễn Khải thấy kiếm sống khó quá.

 Hồi ấy, nhà nước còn
chưa biết cách tung ra thật nhiều tiền để nuôi béo những kẻ ngoan ngoãn, nói
theo chữ các cụ xưa là chưa có biết phóng
tài hóa thu nhân tâm
như bây giờ.

 Các công thần có lúc
rất khổ. Tôi ở Moskva xa xôi mà cũng nghe được một câu của Nguyễn Khải do anh
em đồn sang:

-     
Tôi không viết được dâm như Kim Bình Mai. Tôi không viết được ác như
Bố già. Giờ tôi phải sống sao đây.

  Lần ấy tôi còn phát hiện ra một điều. Xưa nay
làm nũng là cái tính của những cậu con quan mà Nguyễn Khải rất ghét. Thì nay
lại thấy thò ra ở ông. Từ đó tôi hiểu rằng những khó khăn trước mắt là điều quá
sức với tác giả Tầm nhìn xa, Chiến sĩ.
Bao lâu nay được chiều chuộng và tôn sùng, ông không còn đường để trở về với
mọi người cầm bút bình thường.

Người ta kể rằng ở Nhật, các họa sĩ khi về già rất thích thể
nghiệm, rồi đổi tên ký dưới bức vẽ, cho người mang ra chợ tranh bán, xem sự đón
nhận của công chúng đến đâu. Ở Việt Nam không có loại nghệ sĩ như thế.




Hàng ngày Nguyễn Khải là người không biết buồn là gì. Cái
cảnh bùi ngùi và bế tắc mấy năm ấy ông chịu sao nổi.

 Những điều tôi nói ở trong
bài này đến với ông rất nhanh và rồi cũng qua đi rất nhanh.

 Giá trị bài viết
trên đây của tôi chỉ là ở chỗ nó ghi lại một chút tê tái mà trong những phút
yếu đuối, ông đã có dịp bộc lộ, nhưng rồi sẽ coi như một đứa con hoang, không
muốn nhìn nhận, thậm chí ai đó nhắc lại ông sẽ khó chịu.



 Nhưng riêng đối với
tôi, cái tâm cảnh ấy ở ông một lần quan sát được vẫn làm tôi nhớ mãi và mỗi khi
cần nói về Nguyễn Khải, vẫn muốn trình lại với độc giả.

 Điều khiến tôi tự tin
là ở đây, tôi không chỉ nói về một người, mà đã nói về cái lý do chi phối hành
động của nhiều người cầm bút thời chúng ta sống.

 Nhiều khi những vui buồn yêu
ghét, cả những niềm tin chính trị mà mỗi người đặt cả đời mình vào, tưởng là do
những nguyên nhân ghê gớm đâu đâu, hóa ra lại chỉ phụ thuộc vào cái nhu cầu ngấm ngầm mà
chúng ta vốn giấu kín tận đáy lòng, - đó là nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu muốn
 khôn ngoan sắc sảo nổi trội hơn so với
đồng loại.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 26, 2013 01:05

November 22, 2013

Một lần Lỗ Tấn nổi cáu







 Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn Sử Trung Quốc, có kể lại một mẩu
chuyện nhỏ. 

Khoảng năm 1920, nhà triết học Anh Bertrand Russell tới tham
quan cảnh Tây Hồ ở Hàng Châu.

Trời nắng gắt, bọn phu khiêng
kiệu cho ông leo những đường dốc hiểm trở để lên một ngọn núi. Thấy họ vất
vả, ông tỏ ý thương hại. Nhưng ông lấy làm lạ là đến lúc ngồi nghỉ, họ liền
lấy thuốc ra hút rồi cười đùa ầm ĩ, tưởng như đời hạnh phúc lắm. Và ông
khen ngợi, cho là họ biết sống.


Nghe được chuyện này, Lỗ Tấn bực
lắm, trước tiên là vì những lời khen của ông bạn ngoại quốc.

Lỗ Tấn mai mỉa: “Tôi không rõ
khi khen vậy, ông ấy muốn nói gì”. Và tác giả AQ bày tỏ ý muốn nhìn thấy ở
những người phu kiệu cách phản ứng khác: “Tôi chỉ biết một điều là nếu
những tên phu đó biết đau đớn về thân phận của mình thì Trung Hoa đã thoát
khỏi cảnh điêu đứng từ lâu rồi”.

Ai đã từng ra nước ngoài đều
biết, ghé lại đất nước nào đó ít ngày, phải cố ý tránh cho mình mọi phiền
phức. Cái lối ban phát lời khen vô tội vạ, do đó, là rất phổ biến, vì “có
mất gì của bọ đâu mà bọ tiếc”. Một sự nghi ngại như của Lỗ Tấn không phải
là vô lý.




Tuy nhiên phải nhận ai cũng thấy
cái cách phớt lờ những chuyện không được như ý, vui cười trước mọi vất vả,
càng khổ càng cười mạnh - đấy là một cách nghĩ thông thường đã có từ ngàn
đời nay. Không những nó có ở phương Đông mà có cả ở phương Tây. Nó chỉ là
một phương thức giúp người ta tự vệ. Ai chưa có cũng muốn học!

Thành thử tôi cũng không dại gì
mà bài bác những tiếng cười thỏa hiệp hiện đang khá phổ biến.

Chỉ có điều trong thực tế hiện
nay, không phải mọi người dừng lại ở chỗ ấy. Hình như chúng ta đang mải
cười quá. Cười để khỏi phải nghĩ. Cười để lảng tránh thực tế nó đang không
được như ta mong muốn. Cười để cào bằng hay dở tốt xấu, xí xóa mọi chuyện.
Cười để “ra cái điều” mình bất cần đời. Tiếng cười trong nhiều trường hợp
đã trở thành một thứ hành động vô cảm. Và vô trách nhiệm nữa.

Tới lúc này thì tôi lại thấy Lỗ
Tấn là rất có lý.




Sinh thời Lỗ Tấn vốn nổi tiếng
với tinh thần phê phán xã hội. Không những ông phê phán giai cấp thống trị
mà phê phán luôn cả đại chúng nữa. Các tài liệu nghiên cứu về xã hội và con
người Trung Quốc hiện đại đều ghi nhận Lỗ Tấn là người đi đầu trong việc
chỉ ra cho quốc dân những tính cách đáng chê trách của người Trung Quốc.
Liên quan tới đám đông, bộ phận dưới đáy của xã hội, thái độ của ông thu
gọn lại trong công thức “ái kỳ bất hạnh nộ kỳ bất tranh”, hàm ý ông thông
cảm với những đau đớn của họ, nhưng giận vì họ nhát, hèn, không dám tranh
đấu.




Sự bực bội mà Nguyễn Hiến Lê kể
lại nói trên là nằm trong cái mạch xử thế nhất quán của Lỗ Tấn.

Cần nhắc lại câu chuyện trên vì
có vẻ như đến nay nó vẫn còn ý nghĩa. Sự bất mãn trước thực tế vốn không
phải là độc quyền của con người bất cứ thời đại nào, xứ sở nào. Thậm chí
còn có thể nói là xã hội càng đi lên thì người ta càng cảm thấy sự không
hoàn thiện của nó. Tình trạng mệt mỏi nhanh chóng xảy ra.




Một thời để mất
(1995) là tên một cuốn sách viết về Nguyên Hồng của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Hiện
lên trong sách là một Nguyên Hồng về già đau khổ trước bao điều chướng tai
gai mắt và sự bất lực của bản thân cũng như chung quanh.

 Không phải ông không biết như thế là chưa
hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn, nhưng làm cách nào để thay đổi thì ông
chịu. Bùi Ngọc Tấn đặt vào đoạn kết một kỷ niệm.

Lần ấy tác giả Bỉ vỏ đến thăm BNT. Trong lúc chờ cơm, đang nằm trên
giường đọc sách,  ông bỗng nhỏm dậy vì bắt gặp một câu nói trúng ý mình:

- Tấn ơi! Làm gì đấy. Nghe đã
nhé. Đây là câu kết một vở kịch Ba Lan. Nhân vật chính quay ra nói với khán
giả: “Các bạn có biết vì sao người ta nói dối không? Có hai lý do. Thứ nhất: Người ta sợ nói khác mọi người. Thứ hai: Người ta mệt quá rồi”.




Sự mệt mỏi đã là một thứ bạn
đồng hành bất đắc dĩ mà còn sống ta còn phải chịu đựng.

Khi bị đẩy đến mức cao nhất, sự
mệt mỏi thường xuyên này trở nên một tác nhân làm tha hóa con người. Người
ta hoặc là nói dối như trong vở kịch Ba Lan nói trên, hoặc là chỉ còn biết
cười, cười để lảng tránh.

Một mặt phải chấp nhận rằng nó –
tiếng cười này - cũng là một cái gì tự nhiên, một phản ứng nhân bản, với
nghĩa là ở đâu con người cũng tìm cách để… yên tâm và sống sót.




Nhưng mặt khác, sẽ là nhân bản
hơn, nếu chúng ta đặt vấn đề yêu cầu cao ở con người: không để thực tế kéo
mình thấp xuống, duy trì sự bất mãn chính đáng và tìm tới những suy nghĩ và
hành động thích hợp nhằm thay đổi hiện trạng.

 Đấy mới chính là cách vượt
lên trên sự mệt mỏi và tiêu hóa nó một cách hiệu nghiệm nhất. Cười là cần
nhưng cái suy nghĩ sau đó lại còn cần kíp hơn hẳn một bậc.




TBKTSG 2-2008

In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại, 2009


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 22, 2013 20:16

November 17, 2013

Những tha hóa trong nghề thầy giáo thời nay

CÓ PHẢI LÀ THẤT ĐỨC?

  
  Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và
sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều
người đã phải lao vào hành động để đáp lại sự đòi hỏi của hoàn cảnh
cũng như để tạo nên những bước đi thích ứng với các đồng loại.



     Đến khi có dịp nhìn lại những lần "nhắm mắt đưa chân" kiểu ấy, người ta
không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này
việc nọ.

     Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều?

     Thế là các kịch bản cũ lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch.

    
Và tôi ngờ rằng dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không
hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm.

     
Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự
thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài
kịch.

      Dưới đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen
của tôi đã và đang trải qua.Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi
kịch không phải không nhìn thấy tình thế của mình.

    Có điều, nói như A.Camus, khi đã xuống thuyền rồi người ta không thể quay trở lại được nữa.

      Ấy là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một
số giáo sư tham gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã
đổi là tiến sĩ).



     Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó,
bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời
gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn
anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn
cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu nên sau mười mấy
năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà
nhiều khi các học giả  tương lai đó "chẳng hiểu nếp tẻ gì cả" (trong
ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích lối nói thậm xưng một chút như
vậy).

    
Nhưng có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, phần lớn họ
lại rất sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi
giá.

     Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy.

     Song làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường.

   
  "Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến
văn chương thì mới dám tiếp tục" - anh Ng. có lần tâm sự.

     Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu
không muốn nói cứ đuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này
Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.

    
Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ
còn mải miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh
yên thì phải hơn.

     Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông Ki-sốt trong người?

     Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:

- Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?

- Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.

- ...

- Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung
nó chạy theo hướng  của nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.

    Đến chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề.

    Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ bẫm lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy.

   
Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng
giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người như vậy.

    Chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng.

    Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc.

     Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào.

    Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải.

  
 Giờ đây có ai đó trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới
những bất cập trong công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa.
Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm
cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách
soi mói.



    Không phải chỉ riêng anh Ng. của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở
ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương
tự. Bởi vậy, tôi muốn được phép bàn rộng ra một chút.

     Các cụ xưa có hai tiếng "thất đức" để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời sau.

    
Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh
làm có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối.

    
Các anh là những giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ
kiến thức cho người khác. Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề
làm thuốc bao giờ cũng được trọng vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức được?

    
Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng. - "mang nhãn hiệu của anh Ng." - bên
cạnh những cán bộ khoa học tạm được, cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm.
Mà càng những người kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Sau khi
có bằng cấp, một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong
nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau. Nói cách khác, lớp
người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân.

    
Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự
của anh. Tôi chưa hẳn yên tâm khi dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra
chữ khác đích đáng hơn.




Đã in trong  Nhân nào quả ấy, 2004

     




  ĐƯƠNG NHÂN BẤT NHƯỢNG Ư SƯ !                                                            

      Luận  ngữ  là cuốn sách số một, sách cái của đạo Nho. Trong đoạn 35 của chương Vệ Linh Công, học trò từng ghi lại một lời dạy của Khổng Tử: Đương nhân bất nhượng ư sư ( làm điều nhân thì dẫu thầy mình, mình cũng không nhường.)

     
Đạo Nho thường được miêu tả là hay đưa ra những lễ nghi nghiêm khắc,
những ràng buộc tuyệt đối. Sư ( thầy học)  là một trong ba ngôi bề trên
(quân sư phụ) mà người ta phải phục tùng vô điều kiện.

     
Vậy mà ở đây, Khổng Tử lại giả định cho người ta một khả năng “nổi
loạn” với nghĩa có những việc không nhường thầy. Tại sao vậy ?




    
 Để trả lời câu hỏi này, trước tiên cần nói qua về khái niệm nhân. Đây
không phải chữ nhân là người. Mà chữ nhân này trong ký tự gồm chữ nhân
đứng và chữ nhị, để chỉ quan hệ hai người, và mở rộng là quan hệ người
với người nói chung.

     
Thông thường ở ta, các bậc trí giả chỉ xem nhân như nhân từ nhân ái,
tức yêu người thương người. Còn theo cách giải thích của các nhà nghiên
cứu Nho giáo Trung quốc hiện nay, thì nhân trong câu trên nghĩa là “cái
đạo lý khiến cho con người trở thành người”.


      ( Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê khi dịch Luận ngữ
đã chú thích “nhân là điều ai cũng nên làm, hết sức mà làm“, tức những
việc lớn ở đời, cũng đã khá gần với cách hiểu hiện đại nói trên).




     Nhưng hãy trở lại với cái ý tổng quát trong câu Đương nhân bất nhượng ư sư.
Ở đây có ẩn một quan niệm về giáo dục cũng như về lễ nghĩa. Tự nó giáo
dục không phải là mục đích. Sở dĩ việc học quan trọng vì nhờ nó người ta
có thể hoàn thiện mình để mang mình ra giúp đời.

    
Và quan hệ thầy trò không phải là những quy định xã hội ép chặt từng cá
nhân vào một chỗ cố định, càng không phải là những giới hạn ràng buộc
người ta trong hành động.

     Quay trở lại với tình hình giáo dục Việt Nam.

     Khi bàn về giáo dục và ông thầy, câu đầu tiên mà người ta nhắc nhau là Nhất tự vi sư bán tự vi sư.     

      Đằng
sau lối nói số học “nửa chữ cũng là thầy “, người nói ngầm đe người
nghe rằng ở đây có những giới hạn, và giới hạn này là tuyệt đối.

      Tôi đã là thầy anh một lần thì mãi mãi là thầy anh, không bao giờ anh vượt được tôi cả.

     
Rộng ra mà nói, lớp hậu sinh phải biết yên phận trong những gì quá khứ
đã vất vả chiếm lĩnh. Và sẽ vĩnh viễn là cái trật tự đã hình thành,
người đi sau cứ phải theo đó mà đi, đừng tính chuyện làm khác.

      
Từ góc độ của một người từng đi học và khi ra đời sống với những người
làm nghề chữ nghĩa, tôi đọc được ở đây cái lời cảnh cáo ngầm như vậy.

      Có thể Nhất tự vi sư bán tự vi sư
 cần thiết cho những học trò lười biếng ngỗ ngược. Thế nhưng đối với
lớp hậu sinh có chí khí có tài năng và nghị lực thì là cả một bước ngăn
trở.

     

  Khổ một nỗi là cái tinh thần nệ cổ này, từ ngành giáo dục đang trở
thành một kiểu tư duy của người mình, một nguyên lý chi phối cả xã hội.

     Nhân danh lễ nghĩa, người ta hạn chế khao khát sáng tạo của lớp trẻ.

   
 Đáng lẽ phải lo đào tạo cho được một lớp trẻ ngày một khá hơn—con hơn
cha là nhà có phúc -- thì người ta lấy lớp già ra làm cái trần, làm giới
hạn, làm chân trời của họ.

     Đáng lẽ phải lo trung thành với tương lai thì người ta chỉ biết kêu gọi trung thành thụ động với quá khứ.

   
 Tại sao lại thịnh hành một lối nghĩ như vậy? Chỉ có thể hiểu được điều
này nếu nhìn thẳng vào thực trạng non kém của nghề thầy giáo suốt thời
trung đại và còn kéo đến tận ngày nay.

     Phan Kế Bính trong Việt nam phong tục
(1915) đã nói tới cái tình trạng “mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ
mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng quê
tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ để hồ khẩu“( hồở đây  vốn có nghĩ là keo dính; từ cổ hồ khẩu có nghĩa kiếm sống).

     
Đám thầy này rất hay vòi vĩnh “nào khi nhà thầy có giỗ nào khi thầy lấy
vợ” việc gì cũng lôi đồng môn ( tức đám học trò và kéo theo là phụ
huynh gia đình họ) ra bắt gánh vác.

      Đã có tình trạng ăn bám (được Phan Kế Bính gọi là cái mọt của thiên hạ), 
thì tự nhiên có sự huyênh hoang lên mặt. Người ta thích nhắc đi nhắc
lại rằng mình là khuôn vàng thước ngọc. Chữ lễ theo nghĩa tốt đẹp của
đạo Nho bị tầm thường hóa, biến thành sợi dây ràng buộc và che giấu cho
sự trì trệ.    

      Tình trạng này đến nay vẫn đang được tiếp tục và có lúc trở nên kỳ quặc quá quắt nữa.

      

      Một nền giáo dục tốt đẹp thường có những ông thầy lớn, niềm tự hào chủ
yếu của họ là đào tạo được những học trò tài giỏi hơn mình. Chính là ở
chỗ vượt thầy mà người đi sau thể hiện sự tôn trọng cao nhất đối với
thầy, và tiến bộ xã hội nhờ đó mà được đẩy tới.

     
Nhưng ở ta, khi vào dịp thân tình, tôi hỏi một vài giáo sư đầu ngành
khoa học xã hội rằng ông có đào tạo được người học trò nào hơn mình
không thì các ông đều lúng túng. Thông thường các ông cho rằng đòi hỏi
như thế là quá cao, trước mắt phải chấp nhận hoàn cảnh Việt Nam đã.

     
Câu chuyện khi tới chỗ ấy tôi đành lảng và lạy trời tha lỗi, mạo muội
đoán thêm rằng trong thâm tâm, hình như vấn đề này không có trong đầu óc
các vị nữa.

     Cũng như trong đầu óc các vị không hề có chuyện đương nhân bất nhượng ư sư!

                                                                                      

Đã in TBKTSG 11-2009  
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 17, 2013 18:43

November 14, 2013

Hà Nội cuối 1973 - kỳ II



13/10

Gần mười tháng sau chiến tranh. Thời gian đang qua là những hoàng hôn của một ngày nóng nực đến điên cuồng. Tôi biết rằng có thể phải qua đêm đen nữa, rồi ngày hôm sau yên lành mới tới.



Những người sống sót sau chiến tranh là những người phải sống đến hai ba cuộc đời. Phải sống cho mình, và phải sống cho những người đã chết. Phải sống bù vào những gì người chết vì không có mặt nên không làm được. Và vì ta còn đây nên phải oằn lưng gánh vác, trong khi chính mình cũng yếu đuối, mà lòng đầy dục vọng. Chiến tranh đẩy lùi xã hội lại, trong khi những yêu cầu ghê gớm của con người thì vồng mãi lên.




15/10

Một thanh niên như bạn tôi, Trần Đức Kiểm, vừa đi bộ đội về. Tôi cảm thấy xa lạ với Kiểm, xa lạ ở hai điều này:

1/ Nó sống nhiều mặt hơn, lan man, dài rạc; tôi chỉ sống một hai mặt cho kỹ lưỡng.

2/ Nhưng nhìn chung, hoá ra nó lại là phía ảo tưởng của tôi. Tôi ráo riết, cuồng nhiệt trong khi đó nhiều thanh niên ít tuổi hơn tôi mà sống dềnh dàng quá. Họ lì ra, chậm trễ. Phải vì xã hội không hứa hẹn với họ một điều tốt đẹp nào?

Kiểm là hình ảnh của tôi ngày hôm qua, Kiểm là tất cả những gì văn học có thể mang lại cho những người thường (nền văn học này và những người thường này, cố nhiên!). Nhưng Kiểm cũng không thể giữ được cái đó, trong cuộc đời quá nhiều phiền tạp.

Nhàn: Về đây, ông thấy ai thông cảm với ông hơn cả.

Kiểm: Không có ai cả. Ông Niệm cũng nhạt. Tôi chỉ nhớ một lần tôi đi dự đám cưới, tự nhiên lại gặp một thằng bộ đội, hai đứa nói chuyện với nhau rất lâu.



20/10

Mùa đông đến sớm. Những buổi chiều Hà Nội âm u, mặt đất nhớp nháp vì mưa phùn, những nền đá hoa cũng nhớp nháp, một ít hơi dầu, những con ruồi mùa đông sinh ra kỳ quái mò mẫm đây đó. Cứ chìm đắm vào cái đám này xem, rồi người ta cũng không thể nào giẫy ra nổi, người ta cũng mù xám mà chết theo mất. Tôi nhớ những mùa đông ở nông thôn. Dẫu sao nó cũng còn những cánh đồng khoảng khoát. Dẫu sao nó còn sinh lực.



24/10

Hà Nội không thể đứng riêng rẽ. Những ngày vừa qua mưa ghê mưa gớm, chúng tôi không chỉ khổ vì đi lại, mà còn vì những nơi đang đói kém tràn tới. Trưa ra chỗ Hàng Lược, gặp bao nhiêu người gồng gánh lũ lượt. Tận Thanh Hoá ra. Theo tàu hoả tới ga Hàng Cỏ, rồi sang tàu điện lên đây, để ra bến xe Long Biên, ngược lên mạn Bắc Ninh Bắc Giang tìm cách kiếm ăn. Cái tiếng Thanh Hoá trộn không lẫn.

Duật kể ở Thanh Hoá, trẻ con cầm con gà giơ lên ngang đầu như dân Lào, miệng lắp bắp đổi gạo, đổi gạo. Một cậu khác kể, ngoài ga, thỉnh thoảng người ta tức cửa hàng cơm phở mậu dịch, bán cơm nắm, hai hào một nắm.

Có một cái gì như một thứ chia sẻ chung. Lại có một cái gì như Hà Nội bị xâm lấn, và điều đó là không thể khác.



2/11

Một kẻ mà mỗi buổi sáng lại xét lại bước đi của mình trong đời sống -- kẻ đó không phải là người biết sống, biết làm việc. Mà tôi đang là vậy.

Dẫu sao thì cuộc đời cũng vẫn phải đi thành vệt, vẫn phải có những nền nếp. Những nền nếp cần phải luôn luôn được kiểm tra lại, nhưng trước hết, anh phải cho nó thành những nền nếp, để biết mà tính.

Có một quy luật của tiền bạc, đối với người Việt Nam ở nước ngoài: càng xa nước, anh lại càng cảm thấy nước mình nghèo nước người ta giàu. Và anh lại càng tự cho phép nhặt nhạnh vơ vét, để làm lưng vốn khi quay về.

Nỗi sợ khi trở về nước, như một nỗi sợ phải xuống địa ngục. Do đó, mỗi đồng tiền anh cầm đều có thêm quyền lực đối với anh. Anh không đám động hệ tới nó.

Còn như là về công việc viết lách của bọn tôi. Không biết chừng càng đọc nước ngoài, anh càng cảm thấy xa lạ. Hoặc họ là văn học, hoặc mình là văn học. Họ thì đúng hơn.

Và càng làm việc, càng viết, anh càng cảm thấy là mình viết quá ít, càng hậm hụi viết thêm. Cái chuyện bất lực trong cuộc đời là một lẽ đương nhiên. Vấn đề không phải là anh vượt qua mọi sự bất lực đó. Vấn đề chỉ là cố vượt qua ở từng nơi, từng chỗ. Và có người vượt được nhiều, có người vượt được ít.



4/11

Một khía cạnh khốn khổ của Hà Nội. Nơi đây, sự năng động -- đặc tính tưởng chỉ có ở cái mới – thường khi nó lại rơi vào những người lạc hậu nhất.

Đi trên đường phố, hỏi ai nhếch nhác nhất, chắc phải kể những người đi xe bò. Nhưng về nhà, ai ăn sang nhất, lại có lẽ là những người xe bò. Ở nhà của mình, họ nghe nhạc, đón những đĩa hát mới nhất -- họ văn minh, lịch sự, theo như họ nghĩ.



Những ngày cuối năm 1973 này, Hà Nội vẫn là một sự chờ đợi. Mãi không thấy bắt đầu một cái gì mới. Mọi chuyện cứ dề dà, đến mức không chịu được.

Hà Nội là thành phố của rất nhiều con người cô đơn. Hà Nội là thành phố của những ý đồ hèn hạ, những cuộc mưu sinh rách nát. Và bây giờ Hà Nội là thành phố của cướp bóc, cướp giật ban ngày, dí dao vào mạng sườn, cướp xe đạp, cướp mũ cối của những người lính đi qua đường. Tại sao ư? Tại vì cả xã hội lâu nay chỉ khuyến khích người đi đánh nhau. Yêu nước, chiến đấu thì cũng là đánh nhau chứ còn là gì khác? Mà đánh nhau là đặc tính thường trực của người nghèo. Được xã hội thức tỉnh, sau thời gian lao ra hành động, đến lúc quay về nhìn vào mình, người ta nhận thấy mình vẫn nghèo quá. So với yêu cầu và hiểu biết thì nghèo khó lúc này là không được phép.



Mất mùa khoảng 50%. Nhiều tỉnh đói. Cuộc vật lộn sinh sống ở xã hội này đôi khi mang lại những màu sắc cổ điển nhất. Là vật lộn cho mỗi miếng ăn. Làm sao mà còn dám đòi hỏi cái nọ cái kia? Làm sao mà còn tính chuyện hưởng thụ.



Nhàn: Những người như tôi, có lẽ chỉ thích hợp với hoàn cảnh thời bình.

Lê Đường Phong: Thế bây giờ thời chiến hay thời bình?

Nhàn: Thời chiến chứ. Đúng hơn là thời loạn. Còn phải coi là thời loạn vài năm nữa, cho đến bao giờ xã hội bình ổn.

Đã rất nhiều lần, những người như tôi nghĩ đây là một thời đại suy vi. Đây là những ngày tàn của một thể chế không thể tự đổi mới. Tương lai nào sẽ đến với một xã hội già cỗi như thế này, ao tù nước đọng như thế này?



11/11

Rất nhiều tin cho biết có thể đánh nhau lại. Sao không đánh nhau được? Nó lấn, nó muốn hất mình đi.

Ng Khải:

-- Thời gian mà nó dò mình, là thời gian mới hoà bình. Nó chỉ sợ mình lật. Còn bây giờ, nó nắm vững những vùng nó kiểm soát. Lực lượng thứ ba anh nào thò ra, nó thịt ngay. Nên chỉ có cách im tho! Đến lúc nó không tha mình rồi. Lính mình lại ở trong rừng, tư tưởng sa sút. Cho nên nhất định là phải đánh thôi, đánh để lấy không khí mà sống.

Nhàn: Không một sự thất bại nào là có thể nửa vời.



Hầm hố Hà Nội lại có lệnh không được phá. Nhiều công trình xây dựng (nhiều?) lại phải tạm hoãn.

Đài địch đưa tin: quân số Bắc Việt ở trong kia đã vượt quá thời gian cuộc tiến công 1972.

Thế còn ngoài này?

Mọi người đều nói cái chính là công tác tổ chức, tức là cách quản lý. Xã hội hoá ra hỗn loạn, theo nghĩa không ai bảo được ai, không ai nói được ai, vô nguyên tắc, tuỳ tiện. Thế thì còn ra sao nữa?

Tôi nhớ tới những buổi tối. Những cái xe Volga, Moskovíts nối nhau trên đường Điện Biên Phủ, rồi kéo sang Hùng Vương theo ngả đường Thanh Niên lên Nghi Tàm Quảng Bá. Đoàn xe đen trùi trũi, vùn vụt lao tới, phóng ra những luồng ánh sáng bao phủ một vùng. Còn chung quanh, là bóng tối hung hãn, những chiếc xe đạp, những người đi bộ chìm trong bóng tối, họ có vụt sáng lên trong ánh đèn, thì lại vụt biến mất.

Ở đất nước này bây giờ chỉ có những lãnh tụ, và những người dân thường, hai bên như bóng tối và ánh sáng, cách nhau thăm thẳm nghìn trùng.

Và tôi nhớ tới những buổi các lãnh tụ từ Gia Lâm về, hoặc là họ đi nước ngoài hoặc là đón khách. Một chiếc xe Công an đi trước dọn dẹp. Rất nhiều mô tô phóng, để bảo vệ, mà cũng là để hù doạ. Không bao giờ có một sự tiếp xúc bình thường giữa những người cầm đầu nhà nước, và người dân thường. Tôi cứ nghĩ, không hiểu người ta có biết rằng chúng tôi không có lốp xe đạp mà đi, không có thuốc đánh răng -- hình như họ không thể biết được điều đó.

Một xã hội ngưng đọng, xô đẩy theo một thói quen vô nguyên tắc -- tôi chỉ còn nghĩ được có thế.



Một nghị quyết, như nghị quyết cán bộ, cuối cùng cũng phải tan tành khi húc đầu vào thực tế. Người ta giải thích nghị quyết đó đại khái là:

- Đổi mới trình độ chung, chứ không phải đổi mới cán bộ.

- Phấn đấu làm sao để cấp phó trẻ khoẻ hơn cấp trưởng; cấp dưới trẻ khoẻ hơn cấp trên.

Mọi người hiểu biết đều nói không làm sao có thể thay đổi được mọi chuyện, những sự thay đổi bé nhỏ bây giờ đều là vớ vẩn, cần có những sự thay đổi rất lớn.



Một người như tôi chẳng hạn, chưa bao giờ tôi thấy luôn phải giáp mặt với xã hội như lúc này. Bất cứ lúc nào, động vào một chuyện bé nhỏ gì đấy -- đi ra đường, chữa một cái xe, viết một bài báo -- cũng cảm thấy một không khí trì trệ, ngưng đọng bao quanh. Chẳng những cái việc mình đang làm đây vấp váp, mà mọi việc khác cũng vấp váp. Tôi đâm ra tự nhủ tình hình này không tiếp xúc với ai càng tốt. Giáp mặt với cái gì cũng buồn, gặp thêm bất cứ người lạ nào cũng buồn. Cả những việc vớ vẩn lặt vặt, việc gì cũng phải tự lo lấy. Không tìm được chỗ để tin cậy, bàn bạc. Thậm chí cả số phận của mình -- tất cả những cái đó, đều không thể gửi gấm vào tay những người khác.

Cuộc đời mỗi người thật ngắn, mỗi ngày qua đi, như là cái vệt số mệnh của mình lại phải cưa bớt đi một đoạn, vậy mà từng giây từng phút một thì thật dài. Thấy công việc phải làm nhiều quá, trongkhi tự mình chả làm được trò gì.



17/11

Nay là thời gian tách rời giữa trí tuệ và sự dũng cảm. Tôi biết đó là hai vũ khí mạnh nhất của con người. Vậy mà bây giờ ở nước tôi, cái trí tuệ lớn, tách rời cái dũng cảm lớn. Chỉ những người không trí tuệ, trí tuệ quanh quẩn, mới dũng cảm, được gọi là dũng cảm.

Chẳng lẽ ý nghĩa của đời sống, rút lại chỉ là ở chỗ nó cực khổ như vậy, mà mình cũng vượt nổi, mình cũng vẫn còn sống.



Nguyễn Khải mới nói mấy ý:

- Bây giờ mình đúng là kiểu một nước Nga sa hoàng. Nước Nga lúc ấy chỉ toàn những tướng tá, và hàng ngũ quan liêu, viên chức nhà nước. Ở ta bây giờ thì người nào cũng cán bộ. Cán bộ nhiều đến nỗi thành một mạng lưới đè trĩu người dân xuống. Thế mà tìm một ê kíp cán bộ dùng được thật rất khó. Nói chung là thiếu những người đáp ứng đúng nhu cầu của thực tiễn.

- Thế nhưng cái ông Đốt, một lần ông ấy nói ngược lại, thì cũng phải, mà nó cũng là một cách để châm biếm. Ông ấy bảo nói thế chứ người Nga rất giàu đầu óc thực tiễn. Bằng chứng là chúng ta, trong khi giải quyết các vấn đề của đời sống rất thiếu người có cá tính, và có những ý kiến riêng. Người có ý kiến riêng, có cá tính thì xin việc khó. Còn như thiếu hai cái đó, thì lắp ghép vào đâu cũng được. Xin được việc là hiểu thực tiễn. Không xin được việc là ngược lại.

--Thật là đáng sợ, đất nước của một sự tập trung chỉ huy. Khi nó mạnh, đúng, thì nó rất ghê, nhưng khi nó yếu, sai, thì nó phá tán kinh khủng không thể tưởng tượng được. Bây giờ nhìn vào đâu cũng thấy những kết luận giống nhau, mà kết luận lớn nhất thì có liên qua đến cả guồng máy.

Còn như những vấn đề chung, bây giờ đã ở vào cái mức độ mà có thể nói, là chúng ta phải căm giận, căm giận bởi không thể tưởng tượng nổi nó lại đổ đốn đến thế . Hồi trước, còn chế giễu, đùa bỡn, vì nó là ở trong phạm vi hẹp. Nay đã đi xa hơn nhiều.



22/11

Hôm qua Khải còn nói nhiều chuyện liên quan tới phẩm của ông và chuyện trong giới nói chung:

-- Cái này, tôi cũng nói riêng với ông. Là khi viết Chiến sĩ, thì mình cũng phải nghĩ rằng cái chuyện đánh nguỵ là chuyện vớ vẩn, mà cuộc chiến tranh này rồi sẽ không đi đến đâu. Cái còn lại may ra chỉ là kiếp luân lạc của con người. Và mình chỉ viết về cái ấy thôi.

Bây giờ, về cái món linh mục này , viết lúc này là phải lắm. Như ông vẫn nói đấy, chính mình là một thứ tôn giáo mới, cái mình lớn ấy, còn cái mình nhỏ, cái mình cá nhân, thì là một thứ linh mục, một thứ thầy cả còn gì. Cho nên, chọn viết lúc này là phải nhất.



Nhàn: Vấn đề ý thức bao giờ cũng là vấn đề quan trọng.

Khải: Không, cũng tuỳ từng lúc. Nhưng đúng là lúc này làm được.

... Nhưng mà kỳ này, tôi nghỉ cũng hơi lâu đấy. Năm 1973 này đúng là năm khủng hoảng của bản thân tôi, khủng hoảng về mọi mặt.



Lại nói chuyện Chế Lan Viên. Hôm nọ, lão ấy bảo tôi. Dẫu sao cũng phải lạc quan chứ! Nhưng như thế tức là lo rồi.Tôi mới lấy tôi ra nói, mà cũng là để chửi khéo lão ấy. Tôi mới bảo thế này. Như tôi với anh là cốt cán của nhà nước chứ gì? Thế nhưng mình không cẩn thận, lúc nào dân họ dần cho, thì cũng là dập mặt.



Tôi thấy tôi lắm lúc cũng lưu manh quá đi. Tôi nói ngược nói xuôi thế nào cũng được. Như vào xem một bộ phim ra, tôi chê. Quả thật phim chả ra gì. Nhưng chốc nữa, gặp ông Xuân Trường, tôi lại có thể bốc phét ngược lại. Được thế này đã là khá lắm. Thì anh tính phim Liên Xô nó làm một năm hàng trăm cuốn, sang đây toàn những cuốn chọn lọc, mà cũng có phải mình thích cả đâu. Việt Nam mình như thế này là khá lắm rồi... Suy cho cùng, trong cả hai trường hợp, tôi đều lưu manh cả.

Đời sống bây giờ, người nào cũng trở thành láo lếu như thế. Những gì phải trái không biết. Trên dưới quan hệ rất buồn cười. Như ông Thi đấy, lúc đánh cũng do trên (ông Hoàng Tùng đi đâu cũng bêu riếu -- Viết thế mà cũng đòi quần chúng hoan nghênh à?) mà bây giờ nâng lên cũng do trên (tạp chí Học tập vừa rồi lại viết bài bênh). Như thế thì thân phận mình biết ra sao, văn chương này ấy à, rồi lúc nào đó, mang mà vứt xó cả.



Chế Lan Viên, theo lời Khải kể, vừa có những phát hiện rất thú:

-- Lắm lúc mình ngồi mình thấy cũng lạ, rồi ý nghĩ của mình rơi vào quỹ đạo của Kafka cả. Như ngẫm xem cái cảnh Trung quốc bây giờ, nay người này lên, mai người khác lên, bắn nhau, giết nhau, biết ai là thủ phạm. Có phải đúng triết lý của Vụ án không? Còn như Hóa thân. Nhìn vào những gia đình có con em đi bộ đội chẳng hạn, hôm qua còn nguyên vẹn, hôm nay quay về què cụt ra một thằng khác, thế chẳng phải Hóa thân là gì? Hoặc như Lâu đài, cái xã hội nay cũng là lâu đài, chả biết ai là chủ.

Khi ông Hoàng Phủ Ngọc Tường ra Hà Nội, tôi và ông Bảo Định Giang ra sân bay đón, oai lắm, hôm sau ông Hà Huy Giáp mở tiệc khoản đãi cơ mà. Nhưng rồi dần dần, người ta quên cả. Bảo đi nước ngoài bao nhiêu lượt rồi, đoàn nào cũng trượt. Định đi Rumani thôi. Lại bảo đi theo đoàn nhà văn Á Phi. Gần đến ngày đi, có lệnh là hoãn. Hay là đi theo anh Thi sang Đức. Không, các anh ấy ở chiến trường ra, to lắm, để danh chính ngôn thuận đi đoàn miền Nam. Thế rồi bây giờ cũng chưa đi. Không biết chừng nay mai muốn về Quảng Trị cũng không có tiền ôtô mà về. Nhưng cẩn thận, giải thích thế nào, không về lại có tin “không được đi, chỉ vì chính trị”, thì là chết người ta, người ta không còn làm ăn gì được.

Nguyễn Khải tiếp tục:

-- Cái lão Chế ấy thông minh lắm. Nhưng mà sao lúc cần kiếm chác, vẫn cứ ăn nói linh tinh. Tôi phải bảo như chúng tôi, bây giờ bốn mươi tuổi đầu thỉnh thoảng mới nghĩ ra được ít điều lạ. Nghĩ xong thấy không hợp thời, nên đành để bụng. Tự nhủ nói ra hay không nói ra không quan trọng. Nhưng không nói cái đến trong đầu của mình thì thôi,chứ đừng nói ngược lại.

(còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 14, 2013 01:13

November 12, 2013

Hà Nội cuối 1973- kỳ I

Nhật ký chiến tranh – phần tiếp sau bài

Vẻ đẹp tàn tạ -- Hà Nội tháng 6/1973




6/9

Từ Quảng Trị trở về Hà Nội. Cảm thấy như một con tàu đang đi, bị chững lại. Đấy, cái nơi mà ta ao ước trở về -- tức Hà Nội -- chỉ có như thế. Tôi vừa thấy đây là nơi chứa tất cả quá khứ tương lai cau, và tinh thần vì việc chung, cũng đã rất khó.






Dạo này, tôi sinh ra cầu an. Tôi sợ phải nghe những chuyện trái tai. Nhiều người nhắc tôi chuyện nọ chuyện kia, tôi cứ gạt đi. Nghĩ bụng, tất cả  là do chiến tranh. Sau này, người ta sẽ bảo đó là cuộc chiến tranh cuối cùng, cũng là cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Nó kéo chúng ta lùi lại đến phần tư thế kỷ.




Xuân Sách: Sau mười mấy năm chiến đấu, điều rút lại là có hai nước Việt Nam - Đó là điều cả chúng ta lẫn nhiều nước khác trên thế giới cùng khẳng định.




Có nước nào như ở Việt Nam, lý tưởng là đồng nghĩa với ảo tưởng, mơ ước hão và thực tế là đồng nghĩa với thực dụng, hèn kém.




11/9

 Bế tắc, ở đâu cũng thấy cái chữ ấy. Bế tắc tức là thiếu niềm tin, tức không biết hành động ra sao, tức là vô vọng. Không phải cứ chịu ngồi là tích lũy vốn sống được đâu. Tích lũy làm sao, khi không tính được cái gì là giá trị, cái gì không. Biết rằng từ nay trở đi chỉ có thể là còn xấu hơn, không thể khá được, nhưng vẫn hồi hộp  không biết rồi mọi thứ sẽ xấu đến mức nào nữa.

Trở lại  bình thường ư? Mất vài năm. Có khi hơn, hàng chục năm nữa.

 Thì cứ lấy thân phận mình ra là đủ hiểu.  Khốn khổ thân tôi, lúc thời thế đang lên, mọi người đang vui -- những năm 58 - 64 --, tôi sống trong nỗi bơ vơ không biết đặt hy vọng vào đâu. Bây giờ tôi vừa nhập được vào đời, thì đời sống lại đã xoay sang hướng tàn tạ. Tôi ngoi lên không  kịp.




Nguyễn Khải:

-- Viết về cái gì bây giờ? Chỉ có cách trở lại những giá trị cơ bản. Đánh thức trong mỗi người bình thường cái tình cảm lương tri trong cuộc sống. Ví như lâu nay tuyên truyền ta cứ nói dân ta không biết sợ gì hết. Có phải thế không? Chúng ta không sợ B52, không sợ súng đạn, nhưng chúng ta sợ nhau. Người nọ ghen ghét thù hằn người kia, cấp dưới sợ cấp trên mà thực ra sợ quyền lực, sợ những giá trị kinh tế.

-- Dạo này chỉ trông ảnh thôi, thấy mấy ông to, ông nào ông ấy cũng có vẻ cha già dân tộc. Hết cả sáng suốt với nhạy bén thì làm sao hy vọng.

-- Năm 1957 đi Festival về qua Trung quốc,  thấy cán bộ thanh niên nó trẻ lắm, bí thư thành đoàn 23 - 24, tiếp khách nước ngoài lại còn nói đùa nói bỡn. Không biết bao giờ người mình có được những bộ mặt sinh động như vậy.




Cái khó nhất bây giờ là công tác tổ chức - ông Vũ Cao nói.

Những gì là động lực của vận động lịch sử hôm qua, đến hôm nay thành ra lực cản. Sẽ là không đủ nếu chỉ nói đến vai trò của tuyên truyền chính trị. Chính hệ thống tổ chức đang đè nặng lên chúng ta, kìm hãm chúng ta! Không thay đổi những cái ấy đi, thỉ mọi lời kêu gọi  chắc chỉ là chuyện vớ vẩn.




 14/9

Vẫn bị ám ảnh vì chuyến đi Quảng Trị. Lần đầu tiên xa Hà Nội những 2 tháng, mà lại trong hoàn cảnh thời bình -- tôi cảm thấy đã xa lâu lắm.

 Về đây mới có những buổi tối, tôi đi dưới những bóng cây. Cảm giác có một không gian trong lành quanh mình.

Sau cơn mưa, mọi thứ hằn rõ lên, nguyên vẹn trong cung cách của mình, và màn đêm giống như một đại dương lớn lao, vô tận mà mình đang ở dưới đáy. Sống trong cái đêm bao la này, người ta có thể yên tâm, đi lại, nghỉ ngơi, suy nghĩ.




 Đặt bên cạnh những ban đêm u tối của các vùng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị… thì đêm Hà Nội đâm ra có cái vẻ rộn rã mà xưa nay tôi không nhận ra. Ngồi ở trong cái phòng con, nhiều buổi tôi lặng đi vì cuộc sống ở ngoài kia. Một đám 13-14 nối nhau trên đường, cùng reo vui vì một chuyện gì đó. Tiếng hai người bạn trẻ chuyện trò, có khi lại có cả tiếng một anh chàng nào nhiều khuya rất muộn còn huýt sáo.

Sau cơn mưa, trời đất trong hơn, mọi thứ tiếng động nghe vang hơn và ấm hơn, như ban ngày tôi nhìn thấy thì cả những lùm cây cũng xanh hơn. Những ngày mưa qua đi, lá sấu óng ả hơn, nắng chiều làm cho màu xanh của lá ấm lên trong cái sắc vàng bền bỉ và vững chãi.

Kể ra, so với thời chiến, tức cuối 1972 về trước, bây giờ tôi đã có một Hà Nội khác, Hà Nội bình thường trở lại. Nhưng cũng lập tức, phải hiểu là chiến tranh theo sát Hà Nội nó không buông tha Hà Nội cho đến lúc này. Sự thanh lịch, hào hoa, tất cả đều còn cả. Nhưng lại không phải là của cái thời bình hôm qua. Chỉ còn là cái gì nửa vời, pha tạp.





Có thể nói chung gì về tâm trạng mọi người sau tám tháng hoà bình?

Tôi ngồi tôi đọc lại một ít ý nghĩ, và thấy có lẽ vẫn có thể rút ra được một ít điều tốt  đẹp nào đó, mà tôi chưa thấu. Đó trước tiên là một cái gì như mong mỏi -- mong mỏi hạnh phúc sẽ đến, mong mỏi đời sống ổn định.





Bài Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn của Vũ, tôi chép vào trong sổ đã lâu, thỉnh thoảng lại mang ra đọc lại, thích nhất là đoạn cuối:

Thôi nhé mai này tiễn Khánh đi

Đường xa bom phá tàu không về

Lênh đênh ai hát ngoài song cửa

Bài ca thanh bình đêm cũ

“Hoa lá quên giờ tàn

Mây trắng bay tìm đàn”

Ngày xưa yên ấm quá

Trẻ hát đồng dao trên phố

Con trai xách điếu đi cày

Con gái quang liềm gặt lúa

Bao giờ hết khổ người ơi

Lòng như vầng trăng khuyết

Chém giữa trời khôn nguôi




Thanh bình, cái chữ ấy, nghe êm đẹp quá, vì gắn với thanh bình, là đoàn tụ, là hy vọng.

Cái không thể mất được, là hy vọng.





26/9

Mợ Tâm: Nhà như nhà mợ (5 người lớn) ngày phải 3 đồng thức ăn mới đủ ăn. Lại mấy cơn bão dúi dụi.

Phương Thảo: Ngày trước, lương như Thảo là ăn thoải mái, tiêu cũng thoải mái. Bây giờ chỉ được phần ăn. Tiền chi cho công việc, những việc lương thiện, thật không có chỗ. Mật ít ruồi nhiều. 

Còn như ở nhà máy của Thảo ư? Sau mấy năm đi học, về chỉ thấy như cũ. Với lại toàn thấy những chuyện không ra sao. Bây giờ người ta làm bậy theo kiểu mặt dày mày dạn, trâng tráo mà làm, không cần dấm dúi. Tức người ta không biết sợ là gì nữa.

Mấy năm vừa trải, cái chính là mình thấy giá trị của dân có học. Chả còn lạ gì những người hò hét, có khi họ lại không bằng những người mang tiếng công chức như mình.




Tôi hay nghĩ về những cái mất, cái còn của Hà Nội. Cái gì mất đi? Nhiều lắm, mất đi cả nhiều mặt tốt. Nhưng tôi cũng tin là vẫn còn lại một cái gì đó. Và nếu như một cái gì vừa mới biến động đã mất, thì cái của mất ấy, chắc cũng là vô duyên, và cũng chẳng đáng tiếc lắm.

Cái cuộc đời này là gì vậy? Tôi nghĩ thật thú vị, những cũng thật là xa lạ. Ngồi trên phòng nghe những âm thanh đường phố, cứ nao nao cả người. Muốn đi ra với đời. Nhưng làm sao để đi chơi được, tôi còn phải làm việc. Đi chơi với tôi là quá phung phí thời gian, tôi có nhiều đâu mà rải mành mành ra như vậy.





Và điều này, quan trọng nhất -- đôi khi đi chơi, như bị lấm bùn vào mặt, lại khó chịu thêm. Hà Nội còn nhếch nhác quá.

Người ta trả lại cho tôi một Hà Nội, nhưng nó không hoàn toàn như tôi mong muốn. Cũng như người ta chỉ cho tôi một tố chất thông minh vừa phải, một ít sự nhạy cảm nghệ sĩ vừa phải, để rồi làm một nghệ sĩ thì không nổi, và trở về với đời thường không xong.

Tôi không tiêu hoá được những cuộc chơi bời đang diễn ra chung quanh. Dạ dày tôi kém.

Tôi vẫn không cảm thấy tôi nhập được vào Hà Nội -- điều ấy có lúc ở phía Hà Nội, nhưng có lúc ở phía tôi, khổ chưa!

 Thế còn những người như Thảo? Họ nghĩ sao về Hà Nội? Họ còn thuộc Hà Nội ngày xưa hơn cả tôi nữa. Tôi muốn hỏi vậy vì cảm thấy Thảo còn giữ được chút gì đó như là chất sang trọng quý phái. Có lẽ một phần vì Thảo không quan hệ rộng, Thảo không bị những xô đẩy của cuộc sống, Thảo không bị cả cuộc đời này hành hạ.

Thảo có gì trong sáng và nhuần nhị hơn so với Xuân Quỳnh -- dù  cũng tự nhiên, thoải mái, và có thể nói như là dễ dàng với mọi người. Thảo đô thị hơn.





3/10

Dạo này hay cùng Tính đến chơi Thảo. Một ngôi biệt thự cũ trong ngõ Hạ Hồi nay đã tàn tạ khi phải sống theo nhịp thời chiến.

Mỗi lần gọi cổng, chúng tôi phải từ dưới đường réo lên. Bù lại, khi lọt vào cái phòng chật hẹp nhưng ngăn nắp của nữ chủ nhân, chúng tôi cảm thấy như chiến tranh đã ở phía ngoài.

Một lần, chúng tôi chứng kiến cảnh  một cháu nhỏ của Thảo ba bốn  tuổi gì đó ngồi chơi giữa phòng cô. Chơi truyền nước. Cháu cứ rót nước từ ấm ra bốn cái chén nhỏ, rồi lại rót ngược vào. Một niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt cháu khi nhận ra rằng mình không đánh rớt ra ngoài chút nước nào.




 Hôm nay chúng tôi ngồi bàn về đợt B52 mười tháng trước. Thảo kể:

-- Nhớ mãi năm ngoái có chục hoa cúc lạ. Mua đúng hôm Hà Nội bị B52. Đẹp chưa từng có. Mười ngày sau về, lá héo, mà từng vồng cúc vẫn chắc, khoẻ.

 Ngày nào mua hoa, là ngày vất vả nhất. Chạy khắp nơi, lên đầu Hàng Lược, ra chợ Đồng Xuân, rồi mới ra các cửa hàng mậu dịch. Bao nhiêu cũng mua.

 Ngày đi học, bao giờ áo cũng phải là một ít nước hoa. Mẹ chiều, đi xa về, đun cho ít nước tắm, rồi giục đi chơi nhà các bạn. Cụ ông cũng chiều, cũng giục đi. Chính tính cụ ông rất giống tính Thảo. Cái tự do hôm nay, là điều sẽ không chịu đổi lấy một cái gì khác, trừ trường hợp thật tự nguyện.






Hoa sữa -- thứ hoa của đường phố. Hoa của trên cao, cho người ta đứng dưới mà cảm thấy cả một trời ướp hương. Hoa của mọi nhà, có khi phố mình không hoa những vẫn là có hoa từ những phố khác phảng phất đưa tới.






(còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 12, 2013 00:31

November 6, 2013

Vòng kim cô trên đầu giới khoa học xã hội



Tiếp tục trao đổi với tác giả Từ Huy, nhân bài Vụ Luận văn về Mở Miệng: còn cơ hội nào cho ngành KHXH&NV? 7-10-2013


                        I /      CŨNG CHỈ LÀ MỨC ĐỘ….. THÔNG THƯỜNG.

   Trong đời sống văn chương học thuật ở ta,  luôn luôn người ta thấy có những hiện tượng tạm gọi là chệch hướng, còn chữ của giới chính thống là sai lầm hư hỏng chống đối. Rồi có sự tố giác phê phán. Rồi sau vài lời nói qua nói lại và có khi cả những “chiến dịch đấu tranh” kèm theo là những xử lý,  dư luận lại rơi vào im ắng cho đến khi … có những vụ mới.

Vụ Mở miệng và luận văn Nhã Thuyên thuộc loại ấy.


Về khâu xử lý, tôi nhớ thời chống Mỹ, cả Lưu Quang Vũ  lẫn Phạm Tiến Duật đều có những chuyện lôi thôi khiến người một hai năm, người tới bốn năm năm, bị cấm in trên các báo. Tức là hình thức xử lý còn nặng hơn rất nhiều so với cách chức hoặc cho thôi việc thời nay.

 Đặt trên cái nền chung, thấy  tình hình chung quanh vụ luận văn về “Mở miệng” hôm nay còn là ở mức …có thể hiểu được. 

 Điều tôi cho rất đáng hoan nghênh là, khi nhìn nhận vụ việc, nhà nghiên cứu Từ Huy đã không dừng lại ở hiện tượng cụ thể mà nhân đó nêu ra nhiều vấn đề chung của giới KHXH. Tôi cho là một sự triển khai cần thiết. Trong phạm vi bài này, tôi  thử đi vào giải thích tại sao giới nghiên cứu KHXH  VN đã có những ứng xử  như tất cả chúng ta đã thấy.





Cả  giới đã được đào tạo để trở thành như thế.

Nhắc tới mấy năm 1956-58,  ngày nay chúng ta chỉ nhớ tới vụ Nhân văn Giai phẩm , và những ảnh hưởng của nó tới giới sáng tác.

 Nhưng thời điểm trên cũng là bước ngoặt trong giới ở ta đại học ở ta, rõ nhất là giới nghiên cứu các bộ môn thuộc khoa học xã hội.

Sự phát triển trước đó của đại học là tự phát.  Nay nền đại học non trẻ và “tiên thiên bất  túc”, “bất thành nhân dạng” về  nhiều phương diện ấy, được làm lại với những chủ đích rõ ràng.

 Nếu ở các nước khác, đại học là khu vực cuộc sống được thể nghiệm, khu vực tự trị, khu vực dân sự điển hình,  thì ở ta nó được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt cũng như  sự can thiệp mạnh mẽ và trực tiếp của chính trị. Các cơ sở đại học phải trở thành những “pháo đài xã hội chủ nghĩa” như chữ nghĩa hồi 1958-60 vẫn dùng.  

  Lý do thì, như chỉ dẫn của một tác giả Nga mà tôi nêu trong bài viết  ngày 14-10-2013 trên blog này, KHXH ở VN  được sinh ra như thế, nó phải như thế, có gì là lạ. Nó cũng có nghiên cứu, nhưng là chỉ làm ở mức hết sức sơ lược. Trong những lúc bốc đồng, hoặc cố ý làm dáng, người ta cũng tuyên bố đi tìm chân lý, đứng về phía sự thật lịch sử …. . nhưng đó chỉ là trong ao ước. Phần chính khoa học lúc này phải làm là những công việc mà  thần học trung thế kỷ vẫn làm. Nếu thần học cuối cùng phải chứng minh được chỗ đúng của các kinh sách có liên quan tới Chúa thì khoa học xã hội lúc này lấy việc đi vào minh họa cho cái đúng của thời hiện nay, cái đúng theo các chỉ thị nghị quyết, cái đúng của cấp trên…làm mục đich.

Trên đại thể là thế, mà trong từng việc cụ thể cũng là thế.

Tôi lấy một ví dụ. Vào những ngày hạ tuần tháng mười 2013, trên báo chí đang rộ lên lời trách cứ các nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại về việc sao không đưa tướng Giáp vào sách giáo khoa. Tôi xin thanh minh hộ các giáo sư sử học thế này -- họ đâu có quyền! Đây toàn là do chỉ thị từ trên xuống cả. Thách kẹo cũng không có người biên soạn SGK dám tự tiện viết khác và các thầy lên lớp từ  tiểu học tới đại học dám giảng khác.





Không có ngoại lệ

Đọc bài của Từ Huy, ngay từ đầu, tôi đã không hiểu những lời ưu ái mà tác giả đưa ra đối với khoa nọ của trường đại học kia. Rằng đó là nơi rất có truyền thống tìm tòi chân lý. Rằng ở nơi đó luôn luôn có sự đón nhận, làm “bà đỡ” cho những tư tưởng mới trong nghiên cứu văn chương.

 Theo chỗ tôi biết thì hiện nay chẳng có một cơ sở nào như thế cả.

 Cuối bài, Từ Huy có nói tới tình trạng tạm gọi là “vượt thoát” và  kể ra là đã có những trường hợp khá thành công cả trong khu vực mà tác giả có quan hệ.

Trước hết là trong sáng tác, tôi thấy những trường hợp như Nguyễn Huy Thiệp, như Bảo Ninh đúng là những nhân vật vượt thoát thành công thật. Nhưng thử hỏi là sau họ làm gì có những tên tuổi nào khác.

Thứ nữa, nay các tác tác giả này đã được các tài liệu chính thống công nhận đâu. Trong xã hội, Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp vẫn được hoan nghênh được in lại. Nhưng họ không bao giờ được đưa vào giảng dạy trong nhà trường.

Khi cần kể thành tựu của giới nghiên cứu, Từ Huy có phần lúng túng hơn. Những ưu điểm tác giả nêu ra ở đây chỉ hạn chế trong việc sử dụng những lý thuyết văn học ở nước ngoài vào để thúc đẩy tình hình trong nước.

Về mặt số lượng, tôi cho là người đi theo phương hướng này còn rất ít.

Hơn thế phải nói thẳng là những thành công của mấy người này còn ở mức rất khiêm tốn. Trong những trường hợp tốt nhất thì chúng ta mới may mắn được coi là những người thuộc bài, còn việc áp dụng những kiến thức đó vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam – xin lỗi cho tôi nói một cảm giác mà có thể nhiều người không đồng ý – còn chưa có thành tựu nào đáng kể.

Trong một bài viết gần đây, tôi có nói rằng giáo dục ở ta nói chung đang trong tình trạng vô phương cứu chữa. Một trong những luận cứ của tôi là giá kể bây giờ có chương trình đúng đắn, sách giáo khoa đúng đắn thì cũng không lấy đâu ra người để dạy các chương trình đó cả. Và người ta cũng không biết làm gì với hàng triệu giáo viên đang đứng trên bục giảng hiện nay; ở họ, có một cái gì đó đã cứng lại rồi, họ không thể thay đổi được nữa.

Với giới đại học cũng thế. 

                                                          

                                    II/ THỬ XÁC ĐỊNH MỘT THỰC TRẠNG

Khi điểm lại tình hình, Từ Huy có ngỏ ý “trách móc” rằng sao từ ngày xảy ra cái vụ phê phán luận văn này, sau vài lời phản biện yếu ớt, trong giới không thấy nhiều người lên tiếng.Trong khi tỏ ý lo lắng cho tình hình từ nay về sau, tác giả thỉnh thoảng không quên giảng giải cho mọi người thế này mới là nghiên cứu, thế kia mới là khoa học.

 Tôi thì tôi thấy cách cư xử  của cả giới KHXH  như vừa rồi là nằm trong bản chất và lý do tồn tại của nghề nghiệp. Có một guồng máy đã hình thành, họ vừa là sản phẩm, lại vừa là các thành tố góp phần vận hành  guồng máy đó. Bận lắm, quay cuồng lắm! Về chuyện nên làm thế nào, họ không có thời gian mà nghĩ đến nữa. Cái phần tự vệ trong mỗi người luôn luôn mách bảo họ rằng biết ra chỉ thêm phiền, tốt hơn là đừng biết đừng nghĩ.

  

Cáo trạng và biện hộ

Đi vào cụ thể hơn.

 Từ Huy tự hỏi nguyên nhân của  vụ phê phán Luận văn về Mở Miệng xuất phát từ những hiềm khích cá nhân hay xuất phát từ một chủ trương

Trả lời: là chủ trương. Để mượn lại chữ của Từ Huy, chẳng có “nhát dao nào là mù quáng cả“.

        Từ Huy cảnh báo: Điều gây tuyệt vọng không phải chỉ là sự tái bùng nổ đáng ngạc nhiên của những cây bút phê bình dao búa [ …] mà còn là (và có lẽ chủ yếu là) biểu hiện của thái độ chấp nhận đầu hàng ở giới đại học. Chính sự chấp nhận này rất có thể sẽ đẩy KHXH&NV vào tử lộ.

Trả lời: Không đầu hàng sao được! Đến những Trần Văn Giàu Trần Đức Thảo Nguyễn Mạnh Tường Đào Duy Anh Trương Tửu… cũng phải mất chức khi người ta đã chẳng cần, nữa là những cá nhân mới nẩy nòi lên chính trong tay nhà cầm quyền mấy chục năm nay. Dựng lên thành bụt đạp xuống thành đất ngay, chuyện đâu có lạ.

Còn lo rằng, do đó, nó –  bộ môn KHXH mà chúng ta đang quan tâm --  sẽ  suy tàn  ư ? khó lòng sống sót ư?  Người ta đã đẻ, người ta sẽ nuôi. Cái việc phù phép cho nó trở thành sống động đâu có quá khó. Người ta sẽ biểu dương nó, khen ngợi nó. Cấp tiền nuôi nó. Ban cho nó danh hiệu. Giới thiệu nó với giới khoa học quốc tế (còn việc quốc tế có công nhận không thì không cần biết). Còn muốn gì nữa?

 Từ Huy nhắc tới một chân lý: không có tự do học thuật thì khoa học không thể phát triển được.

Trả lời: Trên nước Việt Nam này, không có thứ  KHXH  mà Từ Huy hiểu và các nước người ta vẫn hiểu. Ngược lại, ở ta, cũng như ở nước Nga xô viết trước đây, nó có một cái nghĩa riêng. Theo nghĩa này, tự nó vẫn phát triển chứ đâu có dừng lại. Cái làm cho nó phát triển không phải là tự do mà là  các … mệnh lệnh chỉ thị hồi trước và và các đơn đặt hàng. Cái đó thì hiện nay không thiếu, không bao giờ thiếu.

 Từ Huy viết : Người nghiên cứu cũng có quyền nhìn đối tượng theo cách của mình, có quyền đưa ra một quan điểm nghiên cứu và chứng minh quan điểm đó bằng các lý lẽ lập luận được thể hiện trong công trình của mình. Quan điểm đó đúng hay sai, có thuyết phục người khác hay không, đó là chuyện cần phải tranh luận, nhưng người nghiên cứu không thể bị vùi dập vì quan điểm  riêng.

Trả lời: Không. Ở KH XH Việt Nam, khi đã nhận những chức danh như giáo sư tiến sĩ , người ta không có quyền có quan điểm riêng, lại càng không có quyền có quan điểm sai (so với cái đúng mà nhà nước quy định). Chỗ riêng tư, anh có vụng trộm nói khác nghĩ khác, tôi tạm tha. Nhưng công khai thì không. Cái chuyện ăn đòn (= vùi dập) khi làm sai là chuyện đương nhiên.  Anh có vì thế mà chết cũng chẳng ai thương tiếc. Cố nhiên, người đứng đắn thì sẽ ăn đòn xong lại đứng dậy, nhưng đó là việc riêng của anh.





Sức sống dai dẳng

 Từ Huy lo một khối băng giá đang ngự trị trong cả giới. Và tác giả đặt giả thiết:

Đằng sau sự im lặng của giới đại học  [ …  ] có thể đọc thấy điều gì? Nỗi sợ hãi? Sự hạn chế về năng lực chuyên môn? Sự tê liệt khả năng phản ứng? Sự thờ ơ vô cảm (coi đấy không phải là việc của mình)? Sự chuẩn bị tâm lý cho một quá trình chịu đựng vô điều kiện những áp đặt từ trên xuống, bất kể những áp đặt đó phi lý như thế nào, một quá trình chịu đựng lâu dài chưa biết bao giờ mới kết thúc?

Trả lời: Tất cả sự dự đoán của tác giả là đúng. Nhưng cần biết thêm, cách phản ứng của con người hiện nay nói chung -- chứ không phải riêng của các “nhà” KHXH -- bị điều kiện hóa rất chặt chẽ  và đó chỉ là một bộ phận trong sự chịu đựng hàng ngày. Đừng quá hy vọng ở họ. Họ sẽ chẳng chết như đã chẳng sống. Họ sẽ như thế này… mãi. Và sống có lý có lẽ, có sự tự tin cẩn thận.

Hồi chống Mỹ, miền Bắc tức “bên thắng cuộc” sống trong một tình thế bị cắt đứt hoàn toàn với giới khoa học bên ngoài. Phía tư bản thì những Freud, Kafka, Sartre, Camus , Levy Strauss …đều phản động hết không nói làm gì.  Ngay cả với thế giới XHCN cũng vậy. Trung Quốc rơi vào cách mạng văn hóa, còn Liên Xô bị coi là xét lại, là một thứ nấm độc cần phải từ chối.

Những năm đó, bao nhiêu sinh viên và thực tập sinh đang học các ngành KHXH ở Liên xô và Đông Âu đều bị gọi về dù học còn dang dở.

 Tôi tuy chỉ ở bên văn chương nhưng mọi chuyện bên khoa học cũng được biết ít nhiều, vì  cả hai khu vực này đều trong phạm vi chi phối của ông Tố Hữu. Tôi nhớ có một tư tưởng của Tố Hữu, do giới  tuyên huấn lúc ấy cho lan truyền, cho rằng về khoa học tự nhiên thì chúng ta có thể kém các nước, nhưng còn về khoa học xã hội thì  ta là nhất, các nước khác cần cắp sách đến học chúng ta.

Về sau này, những tư tưởng đó có thể được trình bày kín đáo hơn, nhưng theo tôi thấy nó không bao giờ mất hẳn. Và nó biến hình thành những tư tưởng tinh vi hơn, chẳng hạn về cái gọi là tinh thần dân tộc trong nghiên cứu xã hội hay được nói gần đây. Riêng nó đủ tạo nên sức sống dai dẳng của các loại các bộ môn khoa học ở VN hôm nay.





 Mức độ suy đồi

Không phải trong giới không còn những người muốn làm khoa học xã hội thực sự.

Ở đây có một số người  được đào tạo đúng bài bản, tiếp thu được tinh thần khoa học chân chính từ nước ngoài về. Ngay trong những người chỉ là dân nội địa cũng có những người  do lương tri và học hỏi mà cảm thấy lẽ ra chúng ta phải có một thứ khoa học khác.

Tuy vậy, trong thực tế, có hai khía cạnh phải tính tới.

 Một là  ngay từ điểm xuất phát, giới đại học ở ta, nhất là bên KHXH, đã được hình thành theo kiểu ba vạ. Không ít người trong họ ban đầu là những cán bộ tuyên truyền chỉ giỏi về xách động, thiếu chuyên môn nhưng lại thừa ý chí, xông vào đủ mọi lĩnh vực và nay hóa ra những nhân vật đầu đàn, những pioneer (tạm dịch: người đặt nền móng) cho KHXH VN hiện đại.

Việc bảo vệ con đường đã qua của KHXH hôm nay là lẽ sống của họ. Cố nhiên họ thừa hiểu, mọi cố gắng đưa ngành này vào quỹ đạo của KHXH thế giới đều có nghĩa là phủ định công lao và vai trò của họ, đời nào họ cho phép.

Hai là  mấy chục năm nay,  tình trạng ọp ẹp ngành này kéo dài. Trên cái mặt bằng quá thấp của giáo dục nước ta, KHXH chính là khu vực trũng nhất. Học sinh phổ thông giỏi đi học y khoa, học tin học, học kinh tế… chứ mấy ai chịu theo bên văn bên sử. Khi vào ngành rồi, thì lại có sự sàng lọc tiếp theo, theo phương châm “ hồng trước chuyên sau”.

Ở các ngành khoa học tự nhiên, thì  sự kém cỏi còn khó che giấu. Chứ ở đây, cứ mạnh mồm là được. Không có gì lạ nếu bộ phận kém cỏi và hoạt đầu trong KHXH, lại được coi là bộ phận đáng nâng đỡ và dần dần đóng vai thao túng tình hình.

Những người ưu tú thì bị chèn ép, chỉ riêng việc chống lại chủ nghĩa bình quân cũng đủ khiến họ tiêu mòn sức lực.

Quan trọng không kém là vai trò của đãi ngộ. Trong khi các cán bộ có thiện chí khoa học cô đơn, và thiếu đủ mọi điều kiện để làm việc, thì những kẻ nịnh nọt, một lòng một dạ kiên trì thứ khoa học minh họa tha hồ được khen thưởng, được cho đi học nước ngoài, được cấp những khoản kinh phí lớn để “nghiên cứu”, những gì họ viết ra được đưa vào sách giáo khoa chính thức giảng dạy cho hàng triệu sinh viên học sinh.

Các nhà nghiên cứu trẻ có phải là thánh cả đâu? Bao nhiêu thông minh  vốn có trong họ trước tiên được sử dụng để giúp họ thích ứng với hoàn cảnh mà cũng là để mỗi người tìm cho mình một chỗ đứng. Nhu cầu tự do và khả năng học hỏi ở mỗi người dần bị mài mòn, người trước kẻ sau họ đều rơi vào cái quỹ đạo đã được vạch sẵn.

 Xét đại trà, bộ mặt của giới nghiên cứu đã hình thành đúng như sự nhào nặn của những người trả lương họ. Để đỡ phiền phức, càng ngày, những người trong cuộc càng tự mình thỏa mãn với công việc và trình độ của mình, không ai có ý ân hận và lo lắng về sự xa cách giữa KHXH Việt Nam và KHXH thế giới.

Không có gì là khó hiểu trong cái định hướng mà cả giới đã chọn. Thắc mắc mà làm chi khi bây giờ khi đại cục đã hỏng, tôi chỉ một con chim non bé bỏng – vứt trong lồng con giữa một lồng to(Tố Hữu).Trong khi đó, nhìn đi nhìn lại hóa ra so với ngày hàn vi mình nay cũng không đến nỗi nào. Phần lớn các nhân vật khôn ngoan trong giới đã đạt tới cái đích mà họ ôm ấp.  Giáo sư cũng có, tiến sĩ “ như lợn con”, viện sĩ hàn lâm nếu muốn rồi anh cũng có thể có.

Khi những điều kiện vật chất được thỏa mãn thì những đòi hỏi về tinh thần dần dà rồi cũng tan biến.

 Từ Huy đặt vấn đề trách nhiệm Chỉ còn hy vọng khi những người làm nghiên cứu ở Việt Nam, với tư cách cá nhân, vẫn giữ được cho mình quan điểm độc lập so với quan điểm chính thống này. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ phải nhìn thấy trách nhiệm của chính họ […] trong sự suy tàn của ngành KHXH&NV

Theo tôi hiểu, với giới nghiên cứu KHXH hiện nay, hai chữ trách nhiệm theo nghĩa cao nhất của nó -- trách nhiệm với lịch sử -- đang là thứ xa xỉ.

Trong nhiều luận văn công bố gần đây, Từ Huy đã giảng giải cho chúng ta thấy giới đại học phải có một cách hoạt động như thế nào, người làm khoa học xã hội phải có trình độ và tư cách  như thế nào.

Chẳng hạn, trong bài này, tác giả có nói đến yêu cầu của giới khoa học là đi tìm chân lý chứ không phải đi tìm cái đúng như cấp trên chỉ thị, và nhiều khi họ nghiên cứu mà họ không biết rằng mình sai hay đúng.

 Về phần mình, tôi ngờ rằng những điều đó ngày càng khó nghe đối với giới nghiên cứu hiện nay, vì chúng đánh vào lòng tự ái của họ, lương tâm của họ, là điều mà chính họ muốn quên lãng và không muốn ai nhắc lại nữa.

Từ Huy có lẽ đã cảm thấy điều đó khi mở đầu  bài viết bằng đoạn cảm thán Vẫn biết rằng những gì nói ra ở đây có thể chẳng ai nghe, có thể chẳng nhận được sự hồi đáp nào, mà có khi lại tự gây nguy hiểm cho bản thân, chuốc lấy sự thù ghét của đồng nghiệp. Nhưng đã cầm bút thì không làm khác được. 

Đây tôi không nói rằng việc giới nghiên cứu im lặng là tốt, nhưng chúng ta cần phải thông cảm với họ. Họ được đào tạo theo những cách khác và đặt quyền lợi của mình ở những điểm khác. Nêu ra những yêu cầu có tính chất " chuẩn mực quốc tế " đối với họ, là làm phiền họ và cũng chỉ gây thất vọng vì sẽ chẳng bao giờ mà yêu cầu đó được thỏa mãn.





 Sống tiếp như thế nào đây

Chúng ta thường chỉ lo lắng là có vẻ như KHXH ở ta hiện nay không có thành tựu. Cái đáng lo hơn là con người. Khi con người đã hỏng thì làm ra cái gì có giá trị nữa.

Một bạn theo dõi tình hình khoa học ở Nga kể với tôi câu chuyện sau:

Đúng năm 1991, khi Liên xô sụp đổ thì một nhà khoa học trẻ bảo vệ thành công một luận án tiến sĩ xuất sắc về chủ nghĩa vô thần. Đó là một người hết sức thông minh. Ông hiểu rằng cả tuổi trẻ của ông đã đi vào con đường sai lầm. Cảm thấy không có lý do để sống nữa, ông nhẩy lầu tự tử.

Ở ta không có những con người như thế. Trong trường hợp tốt nhất chúng ta chỉ có những người như Trần Quốc Vượng đã mô tả và sông theo. Cái gì cũng có một chút. Một chút phải đạo, một chút chống đối làm dáng. Một chút khoa học, một chút một chút xẩm chợ nói liều. Một chút cống hiến hết mình, một chút nhặt nhạnh kiếm chác.

Vả chăng, cái mẫu như ông Vượng cũng đang ngày một hiếm.

Thế tức là tình thế hoàn toàn tuyệt vọng hay sao? Khi tự đặt cho mình câu hỏi này, tôi tìm tới câu trả lời nước đôi. Vâng, tuyệt vọng thật . Đáng lẽ chúng ta phải có hàng trăm Bảo Ninh, hàng vài chục Nguyễn Huy Thiệp thì văn chương chúng ta mới khởi sắc được, chứ chỉ có một hai người ấy, mọi sự hy vọng đều là tự dối mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể chết như ông tiến sĩ người Nga, chúng ta phải sống. Đối với các bạn trẻ, tôi nghĩ nay là lúc phải phân thân, vừa biết sống như mọi người, vừa dành một phần tối đa có thể để học hỏi và thầm lặng bắt tay vào, làm một cách hết lòng, làm như làm cho chính mình, những việc tử tế, có đóng góp cho khoa học mà cũng là có đóng góp thực sự cho nhân dân đất nước .

 May mà chúng ta làm khoa học xã hội, công cụ làm việc nhiều khi chỉ cần ít cuốn sách là đủ. Cũng chẳng cần chung quanh công nhận vội…Bởi cái đích của ta rất xa…Trong việc này mỗi người có thể rất đơn độc, và thất bại nữa…Và trước mắt là chịu thiệt, là không có cả danh lẫn lợi. Nhưng niềm vui lớn nhất, niềm vui của cuộc truy tìm chân lý đang chờ. Nhờ thế, lòng ta luôn luôn thanh thản.

Trong cái cuộc sống khó khăn này, có một điều theo tôi nên nghĩ. Là không phải chúng ta bi đát mà nhiều người khác trên trái đất này cũng bi đát, các trí thức Nga , các trí thức Trung Quốc, và gần đây các trí thức Afganistan, Iraq , Ai Cập… Mà  nghĩ rộng ra nữa, đọc kỹ vào văn học phương Tây thế kỷ XX, thì ở đâu chúng ta chẳng bắt gặp cái giọng đau đớn.

 Ở một trang sổ tay cũ, tôi có chép được một câu danh ngôn, đúng hơn là một lời tự nhủ của một nhà văn, nó từng ám ảnh tôi nhiều năm, hồi chiến tranh đã thấy đúng, nay càng thấy đúng:

 Thời đại chúng ta  cốt yếu là một thời đại bi thảm, bởi thế chúng ta từ chối coi nó là một cái gì bi thảm. Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những túp lều  trú ngụ tạm bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé mới. Đó là một công việc khá nhọc nhằn. Nay là lúc không có con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai. Nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở ngại. Chúng ta  phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.



Câu này của D.H. Lawrence (1885 - 1930), tôi đọc được từ trong một cuốn sách của ông Nguyễn Hữu Hiệu, hình như là cuốn Con đường sáng tạo in ở Sài Gòn trước 1975.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 06, 2013 21:31

November 4, 2013

Bảy bước tới tha hóa

Không chỉ làm cho con người nghèo khổ đi, cái chính là trong cơn băng hoại của thời hậu chiến , xã hội  ngày  nay cũng đang làm cho con người hư hỏng thoái hóa hơn bao giờ hết. Mỗi người trở nên khác mình, con người cũ tốt đẹp của họ như bị đánh mất đánh tráo, thay bằng một kẻ khác tồi tàn khốn nạn hơn.

 Người ta gọi quá trình đó là quá trình tha hóa. Xã hội làm tha hóa con người. Mà mỗi con người thì tự tha hóa.

Cần nhấn mạnh rằng với lương tri sẵn có, hầu như tất cả mọi người đều tự phát chống lại sự tha hóa đó. Nhưng tất cả đều bất lực.


Xét cả quá trình, người ta dễ nhận thấy:

Nếu tạm gọi  khả năng chống lại cái ác từ chung quanh tấn công vào mình làm hỏng mình  là một thứ miễn dịch thì cái chất ấy ở con người ngày càng vơi cạn. 

Và con người đã lùi từng bước.

Tình thế đó đáng để chúng ta bàn bạc nhiều. Sau đây là cách lý giải của tôi .



 Bài viết này, tôi viết từ khoảng gần mười lăm năm trước, khi mà việc tố cáo tình trạng tha hóa còn bị  coi là  cái nhìn  sai lệch, người đứng đắn không nên đả động tới không nên phân tích làm gì nhiều. Ngày nay tình thế đã rõ ràng hơn và cái cơ chế làm tha hóa con người đã bộc lộ đầy đủ sức mạnh hơn, còn khả năng chống lại xu hướng chung của mỗi cá nhân ngày càng yếu đi. 

Tin rằng mỗi bạn đọc, bằng sự thể nghiệm của mình, sẽ có những bổ sung cần thiết cho bài viết còn quá hiền lành,  do đó mà đã trở nên lạc hậu, của tôi.







Hồi nhỏ, cũng như một số bạn bè cùng tuổi, tôi là đứa
trẻ đãng trí, hay đánh mất những thứ lặt vặt: khi cái khăn mùi xoa, cái
mũ, khi quyển truyện hoặc cái bút chì. Thông thường bố mẹ ở nhà cho qua
không mắng mỏ gì đáng kể.



Nhưng đâu một hai lần, tôi nhớ không những bị đánh cho mấy roi cứ gọi là
quắn đít, mà trước đó còn bị hỏi căn hỏi vặn:

Điên hả , sao nhắc bao nhiêu lần cũng bằng thừa?

Chạy nhảy thế nào mà đánh mất, kể lại xem nào.

Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?....

Đến bây giờ tôi cũng không nhớ lần ấy đánh mất cái gì, chỉ đoán chắc là mấy
thử đắt tiền lắm, chứ không phải ba cái đồ vớ vẩn như mọi khi. Người ta chỉ
phải suy nghĩ về sự mất mát khi cái bị đánh mất được coi là quan trọng.



Liên hệ tới chuyện ngày nay:

Niềm thiết tha với cái tốt cái đẹp vốn nằm trong tâm trí chúng ta từ thuở
thiếu thời, khi đang còn cắp sách đến trường.

Mấy chục năm nay, Nhà nước cách mạng cũng luôn luôn kêu gọi mỗi thành viên
của xã hội gắng trau dồi đạo đức. Câu nói của thầy Mạnh "Phú quý bất
năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất
” thường được nhắc nhở
vì trong một hình thức cũ, nó lại diễn tả tốt nhất nội dung chủ yếu của đạo đức
mới - sự vững vàng của nhân cách. 

Nhưng liệu có thể nói mỗi người chúng ta đã
làm được điều chúng ta mong mỏi?

Giả sử bây giờ, ra giữa buổi họp, tôi bảo ông nọ bà kia là thoái hoá biến
chất, mọi người sẽ cho tôi là có hiềm khích gì đó với họ, nên mới ăn nói sỗ
sàng như vậy. Nếu tôi lại mạnh mồm khái quát rằng nay là lúc không ít người
trong chúng ta đang hư hỏng đi, thì người ta sẽ bảo tôi là liều lĩnh vô
căn cứ, là không có cái nhìn toàn cục, không thấy "mặt tốt là chủ yếu”
.

Nhưng nhiều lúc ngồi một mình tỉnh táo, đối diện với lương tâm, hẳn nhiều
người chúng ta phải công nhận là quanh mình số người hiền lành thánh
thiện ngày một ít, số khôn ranh kiếm chác ngày một nhiều thêm.

Và tự ta
nữa, nghiêm khắc mà nói, ta cũng đang sống không phải như ta mong muốn. 

Ở đây
không nói tới những tội lỗi đã thành danh mục quản lý của pháp luật, mà chỉ nói
tới những thói xấu nho nhỏ những thói xấu vẫn bị coi là không đáng kể, và dễ bị
bỏ qua:

Xoay xỏa vụ lợi. Làm dở báo cáo hay qua loa vô trách nhiệm. Khéo léo
tô vẽ mình trước cấp trên.
Hùa theo đám đông, nói cho đám đông vừa lòng,
chứ không dám nói sự thật..


Có phải là không ít thì nhiều, hàng ngày chúng ta
đã để cho những thói xấu đó lộng hành? So với con người lý tưởng mà ta muốn
noi theo, khi bước vào đời, thì thật ra ta đang xa dần, thậm chí có những phẩm
chất tốt mà ta có từ lúc còn trẻ và cứ tưởng giữ được mãi, bây giờ đã bị đánh
mất.

Nay không còn là lúc sợ ai lục vấn mình như cậu bé năm xưa nữa. Nhưng có lẽ,
với tư cách người có học, sống nhiều bằng ý thức, cũng nên quan sát chính mình
xem xem một quá trình tâm lý như thế nào đã xảy ra, khi ta tự đánh mất cái phần
tốt đẹp ở con người mình như vậy.

Dưới đây là một vài nhận xét tôi rút ra từ kinh nghiệm bản thân và qua quan
sát những người gần gũi chung quanh:



1. Sự kiếm sống hàng ngày là một khái niệm lâu nay chúng ta hay lẩn
tránh và nó chỉ tồn tại như một giá trị ẩn, không được mang ra tính toán công
khai. Nhưng phải nhận nó vẫn là nhu cầu có thực, hàng ngày gây sức ép với mọi
người. Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là
nhằm kiếm thêm ít tiền bạc, để cùng với đồng lương còm cõi, duy trì sự sống của
bản thân và gia đình.



2. Các thói xấu lấn lướt ta mỗi ngày một ít. Thời gian đầu ta thường
vừa làm vừa tự nhủ: chỉ chấp nhận đầu hàng lần này nữa thôi, sau sẽ không bao
giờ tái diễn! Nhưng càng về sau, sự dằn vặt càng thưa thớt đi. Đời sống hàng
ngày mang lại bao nhiêu căng thẳng mệt mỏi, khiến cho mỗi người chỉ có cách
trượt theo thói quen và tránh nhất là gây thêm cho mình những phiền phức.



3. Có một điều ta thường viện ra để an ủi, ấy là khi thử đưa mắt quan sát
thấy không phải chỉ có riêng mình làm bậy, mà chung quanh, cả những người có
uy danh hơn, có trách nhiệm hơn, cũng đâu có giữ được lý tưởng
- "Hơi
đâu gái goá lo việc triều đình
" - đấy là lý lẽ của những cái đinh ốc
bé nhỏ.



4. Khái quát hơn, quả thật có nhiều việc thấy trái với lương tâm ta
vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi người đều hành động như vậy.

Mà cảm giác sống theo tập thể ăn vào ta rất nặng. Ta sợ trở thành đơn độc
lại càng sợ mang tiếng là chơi trội, dám khác mọi người(!).



5. Người ta ai mà chẳng vừa sống vừa trông trước trông sau xem cách sống của
mình được đánh giá ra sao, và được đền đáp ra sao. Đến lúc thấy bao nhiêu cố
gắng của mình cũng vô ích,
những người tốt như mình thường thua thiệt, còn
những kẻ xấu cứ được đủ thứ và lại leo cao mãi lên thì đành ngán ngầm buông
xuôi
(Sau khi phát hiện điều này, một số sẽ giãy giụa cốt vớt lại ít quyền
lợi mà họ cho rằng họ đáng được hưởng. Từ ấy trở đi, họ dám sống rất tàn bạo).



6. Chắc chắn trong ta không bao giờ chết hẳn con người lý tưởng, con người
tha thiết với sự nghiệp chung. Giả sử được xã hội dang tay dìu đỡ thì sau những
lầm lỡ ban đầu, cũng dễ tu tỉnh trở lại. Nhưng mọi chuyện quá ì ạch. Có vẻ
như điều mà xã hội mong đợi hơn cả ở các thành viên chỉ là những câu khẩu hiệu
chung
chung. Cái phần suy thoái trong ta chớp ngay lấy cơ hội thuận lợi
đó. Nảy sinh tình trạng phân thân, sống một đằng, nói một nẻo và bởi lẽ,
trước mặt bàn dân thiên hạ, giữa thanh thiên bạch nhật, ta vẫn luôn mồm nói
điều tốt, nên càng yên tâm xoay xỏa kiếm chác trong bóng tối.



7. Đến lúc nào đó, ta chợt nhận ra "rằng quen mất nết đi rồi",
có lẽ sẽ không bao giờ hoàn lương được. Sự lo sợ có tới (lo sợ chứ không
phải hối hận) và để hóa giải, ta xoay sang cấu cúng, xin xỏ, hối lộ thánh thần

Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự làm hỏng, nhờ có mê tín, các khâu
hoạt động khác có thể diễn ra một cách êm đẹp. Đại khái giống như một thứ bảo
hiểm
!



Khi một đứa trẻ đánh mất của quý gì đó, người ta phải căn vặn hỏi han xem
quá trình đánh mất diễn ra như thế nào bởi nghĩ rằng qua đó, giúp cho nó biết
tự giữ gìn của cải và từ nay trở đi không đánh mất nữa.

Quá trình tha hoá, quá trình tự đánh mất mình ở chúng ta có chỗ khác. Ai
cũng chỉ sống một lần trên đời, cái gì mất đi thì vĩnh viễn không lấy lại được
nữa.




Vậy cần gì phải mang bản thân
ra mà tra khảo cho thêm rách việc?

Có thể có một số người đã nghĩ thế và họ có lý của họ. Nhưng trong bài báo
này, tôi muốn để nghị một cách nghĩ khác: ít ra chúng ta cũng nên sòng phẳng
với nhau. Sự đánh giá chính xác về bản thân nên được xem như một phần di sản
của một lớp người đang sống để lại cho các lớp kế tiếp, và nếu như nhờ thế một
phần, mà những người sau ta sống không giống ta, tức sống tốt hơn, ấy là khi ta đã trở nên hữu ích.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 04, 2013 05:54

October 29, 2013

Trước tác động của Tố Hữu và bộ máy, tâm lý nghề nghiệp ở nhà văn thời nay đã thay đổi

Những bài lý luận mà Tố Hữu viết hay giảng ở các hội nghị văn
nghệ thường dài dòng và nhạt nhẽo.

Nhưng với các tư tưởng văn
nghệ hết sức đơn giản xúc tích của mình, ông lại có sự tận tâm đáng kính phục, nhờ thế đã đạt được hiệu quả mong muốn.

 Nói cho đúng thì đó không phải là những tư tưởng
mà chỉ là những định hướng tâm lý, những phương cách ông áp dụng trong chỉ đạo, để nắm phần hồn của giới văn nghệ và nhào nặn họ theo ý đồ riêng.




Như chúng tôi đã trình bày
trong bài Công việc viết văn nhìn dưới
góc độ nghề nghiệp,
có thể tạm tóm tắt cái cách Tố Hữu đã làm ở đây là:

-- Giải phóng người viết khỏi các quan niệm cũ. Không
coi viết văn là chuyện nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Kích động phần bản năng vốn có
của mỗi người, hướng tất cả nghị lực của họ vào việc rút ruột bản thân, mài mãi cái phần
năng khiếu ra để tồn tại.

Từ chỗ hữu chiêu, nghề văn giờ đây trở thành một thứ hoạt động vô chiêu.

-- Luôn luôn thổi vào tai nhà văn niềm tự tin và bất cần.
Không cần văn hóa sách vở, không cần bản lĩnh trí thức, chỉ cần là người chiến
sĩ có tinh thần phục vụ, tuân thủ sự lãnh đạo của trên, làm theo những bài bản tối
thiểu là đủ.

--  Sau khi biến người viết văn thành một thứ cán
bộ làm theo chỉ thị mệnh lệnh, đẩy họ vào con đường quan liêu hóa, tranh giành
quyền chức giải thưởng. Ban phát cho họ đủ thứ vinh quang hão hiền, để họ mê mẩn
đi theo con đường đã được dắt dẫn.

Điều này tác động vào toàn
bộ giới viết văn, nhất là lớp người mới
bắt đầu cầm bút.




Riêng đối với lớp người đã
có sự định hình từ trước 1945, tức văn nghệ tiền chiến, thì cách làm của Tố Hữu
tinh vi và sâu sắc hơn.

 -- Bằng
phương pháp tự tố khổ tự chỉnh huấn theo kiểu mao-ít, nhen nhóm ở họ mặc cảm có tội: mình có lỗi
với quốc gia dân tộc; mình sống quá xa lạ với nhân dân.

 -- Nêu ra những chuẩn mực thô thiển, buộc họ soi vào đó để thấy những thành tựu cũ như là đáng từ bỏ và cả con người cũ là đáng lên án.

 -- Đồng thời với việc đánh gục tiếng tăm uy thế
mà họ vốn có, đưa họ vào môi trường mới, buộc họ làm việc như những thợ học việc với đủ sự đe nẹt cần thiết. 

Bên cạnh
một số thành tựu không phải là không giá trị, phần nhiều những sáng tác của họ giờ
đây sút kém. Nhưng họ vẫn được dành những khích lệ tối đa, khiến nhiều
người -- khi vô tình khi cố ý -- trở nên những con rối đắt giá.




 Vậy là, trước áp lực quá mạnh mẽ, những người
bắt đầu cầm bút từ trước 1945 -- vốn rất yếu ớt -- phần lớn đã chọn con đường
chấp nhận.

Ở một số có sức sống hơn thì xảy ra tình trạng phân
thân, sống một đằng viết một nẻo, tức là thích nghi  một cách tiêu cực trước hoàn cảnh.




Đây là một khía cạnh của sự
tha hóa, nó là phản ứng thường thấy của giới trí thức trong hoàn cảnh
xã hội có những đột biến mà, ngay từ trong nhận thức, họ hoang mang bất định và không tìm được lối thoát thích đáng.




Tôi hy vọng một dịp khác sẽ
có thể dừng lại phân tích kiểu tác động của Tố Hữu (và bộ máy do ông cai quản) tới sự hình thành và phát triển lực lượng văn nghệ sau 1945.




Sau đây là một bài viết cũ trong đó sơ bộ miêu tả những diễn biến tâm lý ở các văn nghệ sĩ ( chủ yếu là ở các nhà văn tiền chiến) trước tác động nói trên. 

Bài viết có tên là Mặc cảm tha hóa phân thân trong tâm lý người
cầm bút,
in lần đầu trong tạp chí Cửa
Việt
của Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1991, sau đó đã in lại trong Những kiếp hoa dại 1993.







                                                                I

Trong
một lá thư viết năm 1988 mà nhiều người được đọc, Chế Lan Viên phản đối tính dự
báo của văn học. Đại ý ông bảo nếu căn cứ vào sáng tác trước 1945 thì không ai
nghĩ Cách mạng tháng Tám có thể nổ ra. Vậy mà đã có cách mạng. Cái sự kiện có
thực ấy đã bác bỏ tất cả.

Tôi
nghĩ rằng lúc này đây, vấn đề tính dự báo của văn học không còn là chuyện phải
bàn cãi - đã có hàng loạt trường hợp khác minh chứng cho nó. Nhưng nhận xét của
Chế Lan Viên vẫn hết sức thú vị ở chỗ nó gợi ý chúng ta nghĩ sang một hướng
khác.

Đúng
là cuộc Cách mạng của chúng ta là một cuộc cách mạng kỳ lạ.

Tính
trong văn học công khai thì gần như không có một dấu hiệu nào dự báo là nó sẽ
tới.


một ngòi bút năng động, nhạy cảm như Vũ Trọng Phụng, cách mạng chỉ được biểu
hiện qua hình ảnh ông già Hải Vân, một người mà hành tung có quá nhiều chỗ ám
muội và thiếu hẳn cái đàng hoàng của người làm việc chính nghĩa.

Tiếp
theo Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan định viết Bước đường ngoặt,
Bước đường sáng. Nhưng đấy là ý định. Hơn nữa, sau Cách mạng, khi một
phần ý định ấy được thực hiện- chúng tôi muốn nói tới các tiểu thuyết Tranh
tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư
- thì cũng không ai nghĩ là tác giả hiểu
cách mạng cả.

Trước
1945, Nam Cao, Tô Hoài là những nhà văn đã có chân trong Văn hoá cứu quốc.
Phần công dân của các ông, như thế đã rõ. Nhưng còn về sáng tác, thì người nghệ
sĩ trong các ông chín chắn hơn mà cũng là… chậm thức tỉnh hơn. 

Đọc các truyện
loài vật Tô Hoài tập hợp trong O chuột, người ta thấy cuộc sống có vận
động, nhưng chỉ là vận động để đến với già nua, nhạt nhẽo, trống rỗng.

 Còn
trong nhiều thiên truyện của Nam Cao, người ta bắt gặp tình trạng tiến thoái
lưỡng nan   (dilemme): con người hoặc là cam chịu
sống mòn, hoặc là trở thành thoái hoá, kỳ dị, khi muốn thay đổi.

Rút
lại về căn bản, trước Cách mạng 8-1945, cuộc sống được phản ánh là một cái gì
lặp đi lặp lại, ngưng đọng, đẹp ngay trong sự ngưng đọng ấy, như trong thiên
truyện của Thạch Lam mà chúng tôi nghĩ là một gợi ý tốt để hiểu thế nào là chủ
nghĩa hiện thực: truyện Hai đứa trẻ.

Ấy
vậy mà Cách mạng vẫn cứ xảy ra.

 Và khi đã xảy ra, thì "như một lưỡi cày
khổng lồ" ( chữ của Nguyễn Đình Thi), xốc lại tất cả, lật tung tất cả, bất
kể người ta có dự báo trước hay không.

Vốn
là những người có lòng yêu nước, việc phần lớn các nhà văn thế hệ tiền chiến
trước sau đều đứng về phía cách mạng, là chuyện tất nhiên.

Nhưng
cũng rất dễ hiểu, nếu nói rằng, với tư cách những người hết sức nhạy cảm, lại
cũng nhanh chóng nảy sinh trong lòng họ một tình cảm mới: cảm thấy mình có lỗi,
mình đã không đến với cách mạng từ chỗ còn trong bóng tối; do đó mình có vẻ
"ăn theo", thậm chí đứng trên lập trường mới mà suy xét, thì lúc bấy
giờ, sáng tác của mình có hại cho cách mạng nữa.

Đi
với dòng đời

(tên một bài thơ của Xuân Diệu), mà họ cứ canh cánh bên lòng.

Động
có việc gì xảy ra (mà trong cách mạng thì thiếu gì việc xảy ra), là họ lấy mình
ra xỉ vả.


thể nói, đấy là một thứ chủ đề chủ đạo quán xuyến trong tâm lý hàng loạt
người, từ những người lặng lẽ, nín nhịn như Nam Cao, đến những người sôi nổi,
dễ bốc dễ say, như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu.

 Cái gì đã chi phối việc Hoài Thanh đến
chết cũng không dám nhận
đứa con yêu Thi nhân Việt Nam 1932-1941,
nếu không phải là cái mặc cảm tội lỗi này?

Còn
Chế Lan Viên, một lần bắt gặp cảm giác ấy là ông không bao giờ quên nổi nữa;
ông sẵn sàng khai thác nó đến cùng; trong thơ, trong tiểu luận, bất cứ dịp nào
nhắc tới nó là ông nhắc bằng được.

- Tôi ở đâu? Đi đâu?
Tôi đã làm gì


Đời thấp thoáng sau
những trang sách Phật


Đất nước đau dưới
gót bầy ngựa Nhật


Lạc giữa sao trời,
tôi vẫn còn mê





- Tôi như con sông
Thương


Chảy lòng mình
thương nhớ


Đánh đắm cả thuyền
mình


Trong cuộc đời tại
chỗ


Như tờ lịch mỏi mòn

Thời
gian đến lấp bùn.


Những
dòng thơ giống như lời tự đay nghiến, nó cũng là nỗi hối hận về những lỗi lầm
không gì tự biện hộ nổi.

Chúng
ta thường nghe nói tới cái hoang tưởng của những người có công, họ gán cho mình
quá nhiều thành tích, tưởng thiếu mình là thiên hạ chết hết, họ tha hồ phóng to
công lao của mình lên, cuộc phiêu lưu cứ thế không biết đâu là cùng.

 Nhưng hoá ra, nỗi hoang tưởng về tội lỗi của
chính mình
cũng có đường biên dao động gần như vô tận, mà trường hợp Chế Lan
Viên ở đây là một thí dụ.

 Nếu ở Xuân Diệu, nhiều lúc ta còn thấy lời tự
xỉ vả chỉ được nói ra một cách ngượng nghịu, hình như cực chẳng đã nên phải làm
vậy, thậm chí có lúc tính chuyện cãi lại (như khi bàn về Thơ mới, Xuân
Diệu đã cãi lại), thì ở Chế Lan Viên lối nghĩ mới thật dứt khoát, các mệnh đề
chỉ có một nghĩa và không thể hiểu sang nghĩa khác.

 "Cách mạng làm tôi vui mà làm tôi hơi áy
náy: mình đã làm gì để được hưởng cái vui này? Ngỡ như mình dự một bữa tiệc mà
không phải tốn công xuống bếp".


 "Chúng tôi vào cách mạng là người cách
mạng rồi, nhưng không ngớt làm phiền cho cách mạng".


 "Hình như một tên ăn trộm dễ cải tạo hơn
một người thần bí!"
.

Từ
những nhận định kiểu ấy của Chế Lan Viên, người ta chỉ có thể nghĩ: phải nói
văn nghệ có một cái tội tổ tông truyền là xa rời cách mạng. Cả nước thì tiến
lên mà người làm văn nghệ thì dừng lại.


người sẽ bảo rằng chẳng qua đấy là một cách nói của Chế Lan Viên, ông quen tuyệt đối
hoá vấn đề, nói đến cùng, nói cho thật cạn kiệt!


điều, mấy chục năm qua, loại ý kiến ấy tự do trình bày, không có ai nói lại lấy
nửa lời.


những mặc cảm kiểu ấy cứ tha hồ lây truyền từ người nọ sang người kia, từ lớp
nhà văn này đến lớp nhà văn khác, như một mạch nghĩ chủ đạo.

Hồi
chống Pháp, một lớp nhà văn hình thành. Vũ Tú Nam và Mạc Phi, Hồ Phương và Hữu
Mai, Nguyễn Khải và Nguyên Ngọc…

Tiếp
đó là các nhà văn lớp chống Mỹ: Đỗ Chu, Phạm
Tiến Duật, Bằng Việt, Ngọc Tú, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo…

Ngay
từ lúc mới viết văn, họ đã hiểu rằng họ là con đẻ của cách mạng.

 Không một dòng chữ nào của họ được in ra trong
xã hội cũ.

 Nhưng mặc cảm tội lỗi, hay suy rộng hơn, mặc
cảm về sự kém cỏi của mình, cái đó vẫn cứ như một thứ tình cảm bẩm sinh, không
cần tìm mà tự nó đến và nếu không nói ra thì cũng chưa bao giờ họ phủ nhận. Lối
biểu hiện của mặc cảm lúc này cũng khá đa dạng.


Nguyễn Khải, đấy là cái dứt khoát muốn đoạn tuyệt với khái niệm nhà văn kiểu
, do đó, khái niệm nhà văn nói chung. Trong một bài viết mang trên
Con đường dẫn tôi đến nghề văn (1963), Nguyễn Khải nói thẳng ra rằng
không thích ai gọi mình là nhà văn, chỉ thích được gọi là người làm công tác
văn học (đại khái là một loại cán bộ, mà cán bộ vốn được quan niệm thế nào,
chúng ta đều đã biết). 


Vũ Thị Thường, nó là ý thức về sự non kém của mình trước những con người gọi là
nhân vật tích cực của thời đại. Trong một bài viết, in trên báo Nhân dân
10-8-1975, Vũ Thị Thường viết:

"Ở những xứ sở khác, nhà văn có
thể cao hơn nhân vật của anh ta… nhưng ở đây, trên đất nước này, những nhân vật
có thật ở ngoài đời lại thường cao hơn người viết (...). Những con người như
thế, khi miêu tả về họ, chính là người viết đã phải nâng mình lên, để cố gắng
ngang tầm nhân vật".


Nhiều
ý nghĩ tương tự như ý nghĩ trên đây của Vũ Thị Thường đã là điều được người cầm
bút viết ra, trong các bài tiểu luận và cả trong sáng tác.

Hồi
đầu chiến tranh chống Mỹ, khi nhà thơ Xuân Quỳnh viết trong một bài thơ rằng
không muốn làm thơ nữa, mà chỉ muốn cầm khẩu súng ra chiến trường, thì chị cũng
đã nghĩ trên cái mạch chung mọi người vẫn nghĩ.

     
Ở ta không có thói quen lấy người viết văn làm nhân vật chính trong các
tiểu thuyết. Nhưng trong một số truyện ngắn, họ cũng đã được nói tới (chẳng
hạn, tôi nhớ mấy truờng hợp in ra từ hơn chục năm về trước, trong các tập
truyện ngắn Trang 17 của Nhật Tuấn, Mùa hạ cuối cùng của Lưu
Quang Vũ). Bấy giờ họ thường hiện ra như những kẻ lười biếng, ích kỷ, vô trách
nhiệm với vợ con, mà về chuyên môn thì, ngoài một chút tài hoa, chẳng có điều
gì để nói. Tâm lý thích kể xấu giới mình, các đồng nghiệp của mình, chẳng qua
cũng là một biến tướng của cái mặc cảm tội lỗi được truyền lại từ các lớp người
trước!




                                                              II


những chữ mà chỉ cần đọc lên là người ta lập tức hình dung ra cung cách sinh
hoạt một thời. Một trong những chữ đó, từ khoảng 1985 về trước, vốn rất quen,
đi thực tế.

Đại
khái đó là những dịp các nhà văn tổ chức thành từng đoàn đến thâm nhập cơ sở, cùng
sinh hoạt và làm việc tại một đơn vị bộ đội, một nhà máy hay một hợp tác xã nào
đó; một thời gian sau họ có ngay sáng tác về cái cơ sở mà họ cùng sinh hoạt đó.

Công
bằng mà nói những chuyến đi đó có cái phía bổ ích của chúng.

Để
ép những cây bút lười biếng, thiếu nghị lực phải làm việc, và để có được những
tác phẩm thuộc loại trung bình, đọc được, bám sát ngay được vào một chủ trương
cụ thể nào đó, thì phải nói đó là những biện pháp hiệu nghiệm, rất hiệu
nghiệm
nữa.

 Thế nhưng, đáng lẽ chỉ nên coi đó là một động
tác nghề nghiệp, cùng lắm, là những hoạt động có tính cách biểu dương lực lượng
về mặt chính trị của cả giới, thì nhiều khi chúng ta lại tuyệt đối hoá ý nghĩa công việc, coi đi thực tế là cái chìa khoá
vạn năng mở ra mọi thành tựu sáng tác. 

Trong một bài phỏng vấn, nhà văn Nguyễn
Tuân kể rất hay về cái vai trò Tổng Thư ký Hội văn nghệ Việt Nam mà ông đảm
nhiệm, hồi chống Pháp:

-
Việc chủ yếu của ông Tổng Thư ký là hành quân theo bộ đội hết chiến dịch này
đến chiến dịch khác, đi vào vùng địch hậu với dân quân du kích, đi tuyên truyền
chính sách thuế nông nghiệp, đi tham gia phát động quần chúng giảm tô và cải
cách ruộng đất.

Tại
sao đi thực tế lại trở thành "việc chủ yếu của ông Tổng Thư ký" như
vậy? Ở  đây, có nhu cầu của cuộc kháng
chiến lúc ấy: cần động viên bộ đội. 

Lại có vai trò của một nhận thức máy móc,
hiểu sáng tác như một cái gì trực tiếp nảy ra từ thực tế, vậy, theo công thức
"gà đẻ trứng vàng", có đi thì mới có viết.

 Nhưng vượt lên trên những lý do cụ thể đó, câu
chuyện động viên nhau "đi" còn có ý nghĩa khác: khi tự nguyện đi theo
thực tế, đi ồ ạt, ầm ĩ, vừa đi vừa kêu lên cho cả xã hội biết, tức các nhà văn
muốn khẳng định mình vốn xa thực tế, và nay đã hiểu rằng đấy là điều không thể
tha thứ nổi.

Khi
công khai tuyên bố là phải tìm cái đẹp, cái tốt, ở người công nhân, ở người
chiến sĩ, có ý nghĩa là người viết văn cảm thấy mình và những người quanh mình
hàng ngày sống phù phiếm, vớ vẩn, phải nhờ quần chúng tẩy rửa, thanh lọc để tâm
hồn trong trẻo, sạch sẽ hơn. Đi thực tế, do đó, là một cách để từ bỏ tội lỗi,
như trên vừa nói.

Hình
như đã linh cảm đến điều ấy, cho nên hoạ sĩ Tô Ngọc Vân từ năm 1948 đã viết
trên tạp chí Văn nghệ (loại in bằng giấy dó, ra ở Việt  Bắc).

Cái hư truyền rằng nghệ sĩ sống xa
quần chúng, một người nói đi, hai người nhắc lại, đã hầu thành một tục truyền,
đến nỗi người ta không thể nào nghĩ khác được
Người ta có hiểu chăng: trong xã
hội loài người, kẻ nào sống gần đại chúng hơn, ấy là bọn nghệ sĩ. Người nghệ sĩ
Việt Nam
biết và hiểu Việt Bắc trước kháng chiến từ lâu.


Phải
nói ngay rằng khi viết đoạn văn đó, Tô Ngọc Vân không hề có ý muốn tránh việc
đi thực tế.

Trong
kháng chiến, ông cũng đã đi rất nhiều. Bản thân cái chết của ông trên đường đến
Điện Biên Phủ đã chứng minh cho điều đó.

Cái
mà Tô Ngọc Vân muốn cãi lại chỉ là cái ý nghĩa người ta muốn gán cho việc
"đi" ấy.

 Có điều trong không khí cuồng nhiệt đương thời
và lối nghĩ một chiều những năm về sau, ý kiến của Tô Ngọc Vân lọt thỏm đi
không một tiếng vang.

 Từ hoà bình lập lại (1954), qua cuộc chống Mỹ,
đi thực tế tiếp tục được giải thích như một sự nghiệp có ý nghĩa xã hội lớn lao
mà không phải là một động tác nghề nghiệp đơn thuần. Bởi thế mới có chuyện
không chỉ các văn nghệ sĩ sống quá sung sướng trước đây cần đi thực tế, mà các
cây bút vừa chân ướt chân ráo chuyển từ cơ sở lên các cơ quan sáng tác cũng lo
đi thực tế, coi một ngày mình xa thực tế là một ngày hỏng.

Mặc cảm tội lỗi đã trở thành
di truyền
, dù ở những thế hệ sau không có những người bảo vệ và thuyết lý
cho nó đầy sức thuyết phục như Chế Lan Viên từng làm với thế hệ tiền chiến.

Dẫu
sao, đi thực tế vẫn chỉ là chặng đường đầu tiên. Quyết tâm vượt qua tội lỗi còn
phải đuợc thể hiện đầy đủ khi nguời nghệ sĩ ngồi trước bàn sáng tác định huớng
cho mình từ nội dung viết (tỉ lệ tiêu cực - tích cực, màu đen và màu hồng, mức
độ lạc quan tin tưởng ở cuối tác phẩm), cho tới cách viết.

 Về mặt này, những băn khoăn mà Nam Cao từng
ghi lại trong nhật ký Ở rừng, có ý nghĩa tiêu biểu. Gần như lúc nào Nam
Cao cũng sợ rằng mình xa quần chúng quá, những cái mình đã viết ra, quần chúng
không hiểu. Trong một bài viết mang tên Sáng tác kịp thời để đẩy mạnh tổng
động viên,
 in trên Văn Nghệ
số 5-1950, cũng Nam Cao viết:

Phải thừa nhận rằng những sáng tạo
của chúng ta vẫn chưa thật gần gũi với nhân dân. Một phần vì chúng ta chưa đủ
thì giờ để hiểu rõ đối tượng. Nhưng một phần nữa cũng vì chúng ta không thực
tâm cố gắng trong khi sáng tác, chúng ta vẫn chiều theo ý riêng, tình cảm riêng
của chúng ta, chúng ta vẫn sáng tác cho ta (
). Những thứ "truyện không
có truyện" tả dài dòng, phân tích theo lối chẻ sợi tóc làm tư, làm sốt
ruột công nông, bởi họ là những người hành động chiến đấu thiết thực, chứ không
phải là những người chỉ toàn nghĩ lơ mơ, nghĩ viển vông, nghĩ không đâu, nghĩ
để chẳng để làm gì cả.


Đây
là việc mọi người bàn nhau ở Việt Bắc. Còn ở Khu Năm? Trong một bài viết mang
tên Sống còn, đăng ở báo Văn nghệ số 3-12-1993, nhà văn Nguyễn
Thành Long nhớ lại việc rèn luyện ngòi bút của mình hồi kháng chiến chống Pháp,
với niềm tự hào kín đáo:

Thật là nhọc, nhưng cũng thấy là kỳ
công thật, việc chúng tôi, ví dụ, đã rèn luyện bằng cách nhặt những câu chuyện
ở địa phương, kể lại bằng miệng, nhìn nét mặt người nghe, xem phản ứng thế nào
với từng câu văn. Và, về nhà viết lại để đăng trên báo. Nhưng cốt truyện ngắn
không quá một cột
.

Sẽ là không đúng sự thật nếu bảo rằng mấy
chục năm qua, văn xuôi ta cứ giẫm chân tại chỗ một kiểu như Nam Cao và Nguyễn
Thành Long đã nói.

Trong
những căn phòng của mình ở Hà Nội sau 1954 và ở thành phố Hồ Chí Minh sau 1975,
cuộc sống của nhiều người viết văn đã thay đổi, cách viết của họ cũng thay đổi.

 Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu như nhắm mắt
trước một thực tế rằng cái tinh thần mà Nam Cao, Nguyễn Thành Long nói ở
trên vẫn là tinh thần chính quán xuyến trong văn học.

Trong
thế đối lập giữa "ta" (người viết) và "họ" (người đọc),
"ta" phải hy sinh cho "họ". Có thể theo "họ" mà
lên. Nhưng nhất thiết không được vượt trước "họ".

 Nó cũng là cái tinh thần ngự trị ở văn học
Xô-viết mà A. Gide mô tả trong cuốn Đi Liên Xô về: "Ngày nay
nghệ thuật phải là bình dân, hoặc không phải là nghệ thuật".

(Thời
Stalin, cuốn sách của Gide được coi như vu cáo, bôi đen xã hội Xô- viết, nay
được dịch ra ở khắp nơi kể cả ở Liên Xô thời “tan băng”, và được xem như là một
lời tiên tri xác đáng.)

Ý
thức chủ đạo là như vậy. Thành thử những
thể nghiệm nếu có chỉ là chuyện dấm dúi, mò mẫm của từng người
. Trong hơn
bốn chục năm qua, ở ta, các vấn đề nghề nghiệp của người viết văn vẫn thường
không được mang ra thảo luận một cách nghiêm chỉnh.

Mặc
dù trên lý thuyết, ai cũng bảo nội dung và hình thức đều quan trọng, -- nhưng trong
thực tế của giới sáng tác thì vẫn có sự tách rời nội dung và hình thức một cách
thật hồn nhiên, để rồi, cái được chú ý
hơn hẳn là phần nội dung thiển cận và vụ lợi của tác phẩm.


Sáng
tác trở thành một cuộc săn đuổi tuyệt vọng: đuổi theo cuộc đời. Dĩ nhiên không
bao giờ nó đuổi kịp. Bao giờ nó cũng thấy mình lạc hậu. Mặc cảm tội lỗi trong
từng nghệ sĩ do đó lại thêm một bước củng cố vững chắc.




                                                                   III


nước nào cũng vậy, một dấu hiệu chứng tỏ xã hội trưởng thành là sự phân công
lao động được thúc đẩy mạnh mẽ, đi kèm với nó là sự hình thành tầng lớp trí
thức chuyên làm công việc sáng tạo.

 Của cải mà lớp trí thức này giao nộp cho xã
hội là những giá trị tinh thần với tất cả sự phong phú đa nghĩa của hai chữ
tinh thần. 

Trong khi có vẻ sống xa nhân dân thì những gì tốt đẹp mà họ làm ra
lại gắn liền với nhân dân. A. P. Tchékhov còn nói trí thức, đó là lương tâm của
nhân dân nữa.

Trong
số những thành phần làm nên giới trí thức, dĩ nhiên có các văn nghệ sĩ.

 Dù là ở nước Việt Nam thuộc địa trước 1945,
trí thức nói chung bị đào tạo theo lối thực dụng, riêng các nhà văn nhiều người
lại xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, bản lĩnh trí thức chưa được bồi đắp vững
chãi, nhưng ở họ vẫn thường âm thầm một niềm kiêu hãnh chính đáng: họ là những
người lao động trong sạch.

Trong
khi vật lộn với trường đời để kiểm miếng cơm manh áo nuôi sống bản thân và gia
đình, đồng thời họ còn làm được cái việc đáng kể là nói lên nỗi khổ của nhân
dân. Mà ý nghĩa sáng tạo trong công việc của họ thì trước sau còn đó, không gì
đánh tráo được.

Thành
thử, cái mảnh đất đẻ cho mặc cảm tội lỗi nói trên phát triển, suy cho cùng là
rất bé nhỏ.

Huống
chi, trong thực tế đời sống từ sau 1945 đến nay, vai trò văn nghệ sĩ vẫn có cái
phần quan trọng khiến người tỉnh táo không thể không nghĩ tới chuyện sử dụng.

 Để chứng minh rằng cách mạng là sự nghiệp
chính nghĩa và tất yếu phải xảy ra, các tài liệu chính thức vẫn viện dẫn rằng
cách mạng đã lôi cuốn được những kiện tướng xuất sắc của văn học cũ vào hàng
ngũ của mình. Dưới hình thức những đặc ân đã có nhiều sự đền đáp không phải là
không đáng kể.

Trước
các đặc ân ấy, những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, Tô Hoài, Nguyễn Xuân
Sanh… sớm nhận ra ngay và không bao giờ quên khai thác đến cùng. 

Còn đối với
thế hệ đến sau, từ Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương… cho tới Đỗ Chu, Phạm Tiến
Duật… những vinh quang mà tác phẩm mang lại rõ ràng không phải là nhỏ.

Giống
như phụ nữ, không cần kêu to lên, nhưng họ đều hiểu giá trị của mình, hiểu rằng   với cách mạng và chỉ với cách mạng, ngòi bút của mình mới là một thứ tài sản vô giá.

Niềm
tự hào đến với từng người hàng ngày, hàng giờ. Niềm tự hào cụ thể như là sờ mó
thấy, nó luôn luôn thì thào vào tai người ta rằng thật ra chỉ nó là có thực,
chỉ nó mới quan trọng.

Thế
thì tại sao người ta vẫn cứ tha thiết tự nhận rằng mình xa thực tế, chưa phản
ánh hết cái tốt đẹp của thực tế, vẫn bằng mọi cách kể lể về các tội lỗi của
mình, và vẫn ép mình làm đủ việc, sẵn sàng định hướng cả nghề nghiệp mình vào
việc giải tội?

 Ở đây trong lúc chưa thể cắt nghĩa đầy đủ,
chúng tôi chỉ có thể đưa ra một số giả định về một quá trình tâm lý đã hình
thành ở trong người viết văn.

Đúng  là chúng ta đã có một cuộc cách mạng kỳ lạ,
một cuộc cách mạng vượt ngoài mọi dự báo. Cuộc cách mạng đó cộng với sự nghiệp
đánh giặc cứu nước mấy chục năm tiếp theo, đòi hỏi một sự động viên lực lượng
thật lớn.

Trước
cuộc biểu dương lực lượng quần chúng kỳ vĩ như vậy, ở người nghệ sĩ dễ nảy sinh
cái tâm lý thấy mình quá bé bỏng, và quan trọng hơn, thấy mình quá phiền nhiễu,
do đó, như là vô tích sự. 

Trước những người dân thường, công nhân, nông dân,
cảm giác ban đầu về sự có lỗi của mình là một điều hoàn toàn có thể thông cảm.

Nhưng
ngày một ngày hai, mỗi ngày một tí, mỗi người một tí, không ai bảo ai cái tâm
lý có thực ấy đã bị tố lên, lại bị kéo quá dài, và đã xảy ra một tình trạng mâu
thuẫn. Lúc bấy giờ, trong những người viết văn nảy sinh hai kiểu định hướng tâm
lý khá rõ.

Loại
thứ nhất, nói một đằng, nghĩ một nẻo, mà không tự biết.


Như  Freud từng lưu ý, quá trình tâm lý ở mỗi cá
nhân là một quá trình phức tạp. Người ta không phải bao giờ cũng làm chủ được
đời sống nội tâm. Trong một người thường vẫn có những xu thế mâu thuẫn nhau
cùng tồn tại, mà người ta không ý thức nổi. Trong khi tiền hậu bất nhất rõ rệt,
người ta vẫn tin là mình thành thực, và sự biến hình lặng lẽ xảy ra, một sự
biến hình ngoài ý thức.

Trong
thực tế, đây là một quá trình có thật đã đến với một số rất đông những người
cầm bút: lúc nghe bảo rằng mình có cái tội là xa nhân dân, thì họ rưng rưng cảm
động và tin rằng mình xa nhân dân thật. Họ thành tâm muốn sửa chữa.

 Trong khi đó thì ở cõi vô thức của người trí
thức, vẫn còn nguyên nỗi tự hào chính đáng.

 Cả hai yếu tố đó "tồn tại hoà bình"
bên cạnh nhau, tuỳ lúc mà mặt nọ hay mặt kia nổi lên, chi phối hành động và suy
nghĩ của người cầm bút.

Nếu
sự phân thân ở loại người nói trên là ngây thơ, vô ý thức, thì ở loại người thứ
hai lại là cố tình, hoàn toàn có ý thức.


 Họ không lơ mơ bao giờ hết. Là những người
tỉnh táo làm chủ bản thân, chắc chắn họ nhận ra rằng ở mình có mâu thuẫn. Cả
cảm giác về tội lỗi lấn niềm tự hào đều được đưa  lên bình diện ý thức. Theo thói quen, họ vẫn
nói rằng người viết văn là xa nhân dân, là phải tích cực cải tạo.

Mặt
khác trong công việc hàng ngày của mình, họ lại thấy ngay là không phải vậy.

Họ
cố ý nói một đằng nghĩ một nẻo, để rồi lúc một mình đối diện với mình, lặng lẽ
cười khẩy: Ai khôn hơn mình nào? Ai sống sướng hơn mình nào?

Sự
phân thân cố ý chỉ xảy ra ở một số ít nhà văn. Lại nữa, có khi lúc này có ý
thức, lúc khác người ta cũng ngây thơ vô ý thức như các đồng nghiệp. 

Nhưng bảo
rằng tuyệt đối không ai làm việc này có ý thức thì không đúng.

 Có, vẫn có loại
người hành động theo sự dẫn dắt của ma quỷ như vậy, và, do kéo dài, nó sẽ là
căn bệnh làm cho nhân cách người viết thối rữa tự bên trong, không sao cứu vãn
nổi.


có ý thức hay không, những sự phân thân nói trên chính là sự biến đổi theo
hướng xấu, một sự làm hỏng, làm biến dạng con người. Khiến họ dần dần đánh mất
bản chất của mình.

Trong
thực tế đời sống mấy chục năm qua, sự tha hoá của người viết văn được biểu hiện
ra thành thiên hình vạn trạng, ở mỗi thế hệ, mỗi lứa tuổi, trong mỗi thời kỳ
lịch sử, lại bộc lộ ra một kiểu.


người luôn luôn sống trong tâm lý giằng xé hối hận, vừa sống vừa thấy bức xúc
không yên, có khi đã bắt tay vào việc rồi, lại không viết tiếp nữa, không sao
đủ sức kết thúc tác phẩm như đã dự định.


người có ý thức  tổ chức cuộc sống
viết văn của mình theo kiểu hai mang, hai mặt, họ cũng thích được tiếng
là sắc sảo và thực tế cũng sắc sảo thật, nhưng sau những sáng tác có vẻ đặt vấn
đề kiểu đó, lại tung ra những bài phát biểu nhũn như chi chi, xuê xoa dư luận,
cốt để khỏi bị lên án và yên thân tiếp tục lối viết sắc sảo của mình.

Nhưng
đó còn là những "ca" sang trọng!

Một
số khác láu cá hơn mà cũng là thực dụng hơn, cứ nói theo thời thượng, rồi ra
sức viết, viết thật nhiều, viết lấy được, chỉ cốt dư luận khen và những người
có chức quyền khen, lấy sự khen tụng đó để doạ mọi người, coi là mình đã làm
lợi cho cách mạng, còn trong thực tế, sáng tác có công thức, sơ lược, xa lạ với
sự thực và đời sống nhân dân chăng nữa, họ cũng chẳng mảy may xúc động.

 Khi mang mặc cảm phạm tội, cố nhiên số đông
người viết văn lo viết cho quần chúng dễ hiểu, chẳng bận tâm đi vào những tìm tòi
nghiêm túc về nghề nghiệp làm gì.

 Nhưng trong hoàn cảnh phân thân, đôi khi người
ta lại lặng lẽ phiêu lưu, âm thầm sa vào một thứ chủ nghĩa hình thức kỳ quái,
tìm chữ lạ, đặt câu tuỳ tiện, tự coi như vậy mới là văn chương thật hạt. Đó là
một biến chứng hiếm hoi của chủ nghĩa hình thức: chủ nghĩa hình thức ở dạng
cùng khốn của nó.


Trong
một cuốn tiểu thuyết mang tên Mặt lạ, nhà văn hiện đại Nhật Bản Kobo Abe
có nói tới một mô-típ biến hoá điển hình trong xã hội hiện đại: sau khi bị mắc
tai nạn, để khỏi trở thành kỳ quái, một nhà khoa học phải thường xuyên mang một
mặt nạ để sống.

 Lâu dần, cái mặt nạ đó không gỡ ra nổi, nó mặc
nhiên trở thành khuôn mặt thật của người ấy.

Từ
chỗ là một phương tiện bảo vệ cho người ta khỏi thế giới bên ngoài, mặt nạ trở
thành một sự ràng buộc đối với nhân vật.


nhân ông ta nhân đôi.

 Trong thế thất bại, nhà khoa học đành tự an ủi
rằng sự mất mặt không phải là bi kịch của riêng mình, mà là của nhiều người
khác.

Mặt
nạ

ở đây tượng trưng cho sự thích ứng của con người với thế giới và sự đối phó lại
của con người trước những thế lực xa lạ nhưng có sức ràng buộc cá nhân một cách
nghiệt ngã.

Từ
tấn kịch mà K. Abe miêu tả trong cuốn tiểu thuyết trên, chúng ta có thể tiếp
tục suy nghĩ về sự tha hoá nói chung và ở mức độ nào đó tâm thế của người viết
văn nói riêng: phải chăng nhiều người trong chúng ta ở dạng này hay dạng khác
cũng đã rơi vào tấn kịch tương tự mà ta không biết?

Một
xu thế phát triển của các nhà văn ở ta là 
xu thế quan liêu hoá, với tất cả sự phổ biến rộng rãi và mức độ nặng nề
của nó. Quan liêu hoá cũng là một dấu hiệu của bệnh tha hoá. Dù ban đầu hình
như xuất phát từ một mục đích tốt đẹp (cần đoàn kết nhau lại trong một tổ chức
để cùng làm việc), song nó vẫn dẫn tới một kết cục có hại. Quan liêu hoá sự
thật đối nghịch với sự sáng tạo như nước với lửa và cũng là nhân tố phá hoại
bản chất cao đẹp của nghề viết văn.




                                                                  IV


một nét tâm lý có thật người ta thường quan sát thấy ở nhiều nghệ sĩ, nhiều
người cầm bút trong những năm đất nước khó khăn: đó là sự ráng chịu. Thôi - họ
bảo nhau và tự bảo mình - giữa lúc nước sôi lửa bỏng này, hãy phục vụ cái đã!
Mai kia cuộc sống khá hơn, tự do và thoải mái hơn, chắc là mình sẽ viết được!
Ôi, mình sẽ viết hay lắm, lúc ấy người ta nghĩ thế.

Tuy
đất nước chưa hết khó khăn, song dẫu sao, cái ngày mà người nghệ sĩ mong mỏi,
ngày đó hôm nay đã tới.

Trước
1986, nằm mơ cũng không thể nghĩ có lúc Nguyễn Khải lại tự bảo rằng mình viết Tầm
nhìn xa
là bất nhân và giả dối.

Chế
Lan Viên đứng ra viết tựa cho Bích Khê, cho Hàn Mặc Tử.

Chẳng
những Vũ Trọng Phụng được in lại toàn bộ, mà những cuốn tiểu thuyết chính của
Nhất Linh, Khái Hưng cũng được in lại không thiếu cuốn gì.

Nay
thì tất cả những việc đó đã xảy ra! 

Bởi
hiểu không bao giờ có tự do tuyệt đối cả, nên chúng ta hết sức vui mừng với
chút tự do hôm nay đã có - quả thật, trước đây mấy năm, có ai mong ước hơn đâu!

Ấy
vậy mà nhìn vào đời sống sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học một vài năm
nay, phải nói là sự chuyển biến còn rất ỳ ạch.

Sinh
khí có thấy ở khu vực văn chương thương mại, nhưng ở đó cũng chưa bao giờ người
ta đạt tới sự làm hàng (hàng = tác phẩm) theo quy trình kỹ thuật hiện đại và
đạt tiêu chuẩn quốc tế.


khu vực văn chương nghiêm túc, tự do chân chính cũng chỉ mới được khai thác hữu
hiệu qua một ít thể nghiệm của các cây bút mới vào nghề.

Còn
đang thiếu hẳn những tác phẩm dầy dặn của các cây bút chuyên nghiệp. Giá có
loay hoay ngồi viết, một số nhà văn (kể cả những người dẫn đầu nền văn học)
cũng vẫn chưa đưa ra được những cái như chính người ta và bạn đọc hằng mong
muốn.


thể giải thích tình hình trên bằng nhiều cách, nhưng theo chúng tôi ở đây có
vai trò của cái hiện tượng mà bài viết này thử tìm cách phác hoạ: sự tha hoá.

Ai
cũng biết là nếu có sự tha hoá đó, thì những thay đổi muộn màng mà hoàn cảnh
mang lại chỉ rất hạn hẹp.

Phải
có những cố gắng vượt bực đến mức như là phải sẵn sàng làm lại mình nữa, người
ta mới tận dụng được cái không khí tự do vừa được mở ra cho công việc. Nhưng đó
cũng là một khía cạnh thú vị của viết văn nói riêng, của những tìm tòi trí thức
nói chung chăng?

A.
Camus viết:"Chân lý thì luôn bí
mật, tránh né, luôn luôn phải được chinh phục. Tự do thì nguy hiểm, làm chật
vật nhưng cũng làm phấn khởi sự sống
".

Càng
sống càng thấy có thể chia sẻ cái cảm giác đó của Camus một cách đầy đủ.





1990
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2013 23:45

October 25, 2013

Chuyện đời sống 1980

Nhà triển lãm 29 Hàng Bài vừa có triển lãm ảnh về Hà Nội của John Ramsden

-- các bạn có thể xem ở địa chỉ http://soi.com.vn/?p=128631.

Nhân dịp này xin giới thiệu lại mấy trang nhật ký đã in trên blog này ngày 12 và 14-6-2011\




8/1

Trứng 1 đ một quả. Thịt 2,6đ. Tất cả các thứ đều lên giá. Giá vàng tăng từ 23,5 lên 30. Xe pơgiô khoảng 5,6 ngàn. Từ 1/1 nhà nước chỉ bán cho mỗi người trong gia đình 1kg gạo 1 tháng. Đầu năm chưa có phiếu. Vợ Bằng Việt đẻ, con chưa được cấp phát gì hết.





Ở một khu phố ngoài bãi, điện đột ngột lên cao, hàng loạt nhà bị hỏng đồ điện. Không ai đặt vấn đề bồi thường.

Đăng kể: cả B trưởng, A trưởng của đơn vị cũng trốn. Càng tiếp xúc với những người lớn tuổi càng nghe họ kể một cách khách quan công việc hôm qua của họ, tôi càng thấy ngày hôm nay hỏng thế này là tất nhiên, làm sao khác được.

Một ông thợ nề kể đi làm thuê, 10 người có 3 người được tốt, còn toàn là không ra sao. Đầu tiên, có gì chủ cũng mang hết cho thợ. Sau thì xoay thợ. Cũng một phần vì nghèo quá, có gì đã xả láng hết từ đầu.

Báo chí có một vài bài (ở những góc nhỏ) nói chuyện không đổi tiền, giá gạo sụt 1 đ



14/1



Cơm bụi vỉa hè

Ngô Thảo nghe ở đâu về kể ở Thanh Hoá- Nghệ An, khi cán bộ mang phiếu đi đong gạo, thì nhà nước phát cho mỗi người 36 đ, bảo đi mua gạo ngoài mà ăn. Các trường đại học, trung cấp ở hai tỉnh đó, cho sinh viên nghỉ vô thời hạn.

Thanh Hoá, Bỉm Sơn, có một vụ giết người như sau:

Hai người bạn cũ. Một đi học kỹ sư ở nước ngoài về, một ở nhà đi bộ đội, rồi về làm bảo vệ ở một công trường (?)

Anh kỹ sư đến lĩnh hoặc xin gì đó. Người bảo vệ không cho, còn giết luôn cả người kỹ sư kia. Công nhân kéo đến bao vây. Bọn bảo vệ ở trong nhà doạ nếu ai vào sẽ bắn chết.

Bọn công nhân liền lấy đá lấp đầy chung quanh ngôi nhà bọn bảo vệ, chôn sống gần chục người trong đó. Họ làm từ 1 giờ đến 4 giờ thì xong. Công an không dám can thiệp.



Cô Oanh em tôi kể về một bà làm y tá ở Viện Việt Nam- Cu ba. Bảo bà sang bệnh viện Bạch Mai lấy máu về tiếp cho một bệnh nhân, bà đi.

Đến giữa đường, thấy có một ô tô sang Đông Anh bà nhảy lên luôn, sang mua một ít khoai tây. Trở về nhà người ta hỏi, bà bảo Bạch Mai không có máu.

Thực ra, chờ bà không thấy về, người ta đã cử một người khác, đi lấy về rồi.

Bà nghe vậy thản nhiên, quay ra, bảo mọi người.

- Có ai chia khoai, lại đây!

Thế là tất cả lại quây cả lại, lấy khoai.

Bà ta khuyên bọn Oanh:

- Các em nên vào đây, người có chết còn không sao. Xin vào làm ở Việt Xô, các ông to chết, mệt lắm.

Giá báo Nhân Dân lên 1 hào (từ 15/1). Cà phê đen mậu dịch 1 đ (năm 1976, hai hào) mỡ hơn 30 đ 1 kg

Ở Hải Phòng ăn cắp ghê gớm. Người ta đổ cả hàng bao đường để lấy mấy miếng vải.

Giá xe đạp ở Hà Nội tăng. Lý do: ở các nước Đông Âu, giá hàng tăng nhiều thứ gấp đôi. Nam Hà, Thái Bình, đời sống khó. Không có dầu để chạy máy. Không có đạm bón cho lúa.

Bên Trung quốc, nay người ta không dùng tới khái niệm xét lại nữa. Lý do 1/ Việc Liên xô làm, Trung quốc này vẫn làm và còn làm ghê hơn 2/ Trung quốc không đặt ra vấn đề lý tưởng nữa. Vấn đề đặt ra ở Trung quốc bây giờ là làm gì có ích cho Quốc gia ( ai đó hình như W. Durant từng nói, các dân tộc sống thản nhiên bên cạnh hệ tư tưởng)

Ngày chủ nhật 27/1 (10 tháng chạp năm Mùi) = 240 đám cười (sợ sang năm, năm Thân).

Sau khi đẩy lùi chế độ cũ , Lào có nhiều cái làm khác Việt Nam :

- Mở cửa cho hàng Thái Lan qua

- Vẫn dùng cán bộ của chính quyền trước

Một ngưòi hay xem ti vi về đối ngoại: Mình nói về Comecom luôn đấy. Nhưng có lẽ không nhả cho nó cái gì, nên chả được cái gì.

Tháng giêng, ngày cuối cùng 31, mới được nhận lương. Tiền mới toanh. Lạm phát.

Ở Trung quốc, sinh viên đại học biểu tình chống quân đội, bởi cho là họ được hưởng quá nhiều quyền lợi



Cách nói đương thời:

Lý tưởng =cái tưởng như có lý. Lương y là dì ghẻ.

Các cơ quan lập ra một uỷ ban chống tiêu cực. Xuân Tùng: Đó là những người tiêu sướng.

Câu hỏi của một sĩ quan Pháp khi Đức chiếm đóng Paris: Phải chăng lịch sử lừa dối chúng ta?

Một thượng tá lên đại tá bỏ 4000đ để chiêu đãi. Mở 2 két rượu quý, loại rượu Sài gòn, mua ngoài 250đ 1 chai. Trong số khách đến, có một cô gái Sài Gòn cũ, xinh xắn, nhiều quan khách cứ đòi hôn cô ta. Cô tâm sự với người bạn cùng đi:

- Em cũng không biết các anh là Việt cộng thật hay Việt cộng giả nữa.

Tất cả cười ồ lên, coi là một câu đùa ý vị.

Đạo diễn Ý Fellini

Người ta bảo với chúng tôi rằng tôi là một dân tộc vĩ đại nhất và hạnh phúc nhất. Chúng tôi tin ở điều đó, kết cục không còn biết gì về các dân tộc khác, cũng như về bản thân mình.

Hiện ở Hà Nội có khoảng 50 gia đình, đặc biệt mỗi gia đình có 400.000 tiền mặt.

Nhân viên đường sắt đi buôn, công an đường sắt lo khám chủ yếu đám nhân viên đó. Cứ một quãng lại phải thay người tăng bo, không cho họ áp tải suốt đường.

Bộ đội như D, trốn về từ 23 tết, dọn nhà, xong chạy lung tung xin việc làm làm lấy tiền tiêu tết. Nó bảo kiếm lấy vài hào (giờ hào để chỉ đồng)

Năm 1980, chỉ nhập đủ dầu để thắp đèn ở nông thôn.

Ở Ngh. A., ông T. K. đào một cái đập gì đấy, chết mấy chục người, vẫn vào trung ương. Đại hội Đảng bộ tỉnh, số phiếu đứng thứ 37, lại vẫn làm bí thư. Nhưng lúc bầu thường vụ không ai chịu cùng làm thường vụ với ông ta. Trung ương phải thay.

Một sinh viên đói quá, không dám ra đến đường, sợ thấy hàng quà thì thèm.

Các cơ quan thi nhau lấy xăng nhà nước mang bán lấy tiền, đi mua lợn.

Giải bóng đá hạng A toàn quốc, lần đầu tổ chức, thì xảy ra chuyện xcăng đan -- đội Thể Công tẩy chay. Bắt cầu thủ cắt tóc ngắn, họ không cắt, lại còn tuyên bố: Đào tạo 11 cầu thủ chúng tôi còn khó hơn 11 bí thư tỉnh uỷ.

Người ta tức quá, định tống cả bọn đi biên giới.

Tên một tác phẩm của Ortega y Gasset : sự nổi loạn của đám đông.

Giá hàng tết tăng, một cái bánh chưng khoảng 15-20đ. Tiền về muộn, mãi mới thấy cán bộ nhà nước xếp hàng đi mua hàng tết, trong khi mấy ngày trước ê hề không ai mua

Ai đó bảo câu thơ Chào 61 đỉnh cao muôn trượng là để chỉ đời sống không bao giờ lại còn sung sướng vậy!

Nhà Ân, 11g đêm mới có điện, 5 giờ sáng thì tắt.

Rét quá, không làm được việc gì.

Bích (bạn Oanh ) kể:

-Vốn cả lớp tích cực. Lao động đạt 300%. Vào Lâm Đồng (đường chim bay cách Đà Lạt 50km). Nước độc hơn nước cống Hà Nội(?), chỉ có 1 giếng dùng được, cách 5km. Học sinh hư, chỉ mong đuổi học về đi kiếm ăn. Tặng hoa cô giáo 20-11 xong lại đòi lại. Không có đài báo, chỉ có thư. Ra thị trấn nghe đài đã thấy thích.

Xuể: Tôi vào Bảo tàng Nam Đàn... Trong khi tôi co ro trong bộ quần áo rét rất dầy, áo bông khăn len, thì trẻ con cởi chuồng, mặc một áo mỏng, đứng trong xe. Giám đốc Nguyễn Sĩ Thoán gầy như một bóng ma ngồi đó, trong tiếng đều đều của đài, đưa lại bài phát biểu của một ông trên. Đầu giường ông giám đốc là cuốn Không được đụng đến Việt Nam của NXB QĐND

Ở Nam Đàn, một vụ mỗi khẩu được chia 7kg thóc. Để ngậm cũng không đủ.

Tôi lên biên giới công tác, ốm. Lính bảo, hàng tháng nay chúng em không có đường, biết chạy đâu ra đường cho anh ăn cháo bây giờ.

Một tay cần vụ ở báo QĐND còn hưởng tiêu chuẩn cao hơn một ông đại tá ở biên giới.

Ông Ph. H, bí thư Nam Hà, 60 tuổi lấy vợ 2, đám cưới tổ chức 10 ngàn (?) xong, tổ chức cho vợ lên Đà Lạt chơi, lấy cớ là đi thăm vùng kinh tế mới. Định sang Cămpuchia, nhưng bị công an giữ lại.

Ông ta làm một ngôi nhà rất đẹp. Dân có ca dao:

Ai về thăm đất Nam Hà

Mà xem con khỉ có nhà bê tông

Khỉ ơi khỉ có biết không

Ta đây là chủ, mà không có nhà.



Nhuận bút bài Một nhành xuân (Nhân Dân tết 1980) là 500. Mới đầu bọn Ban văn nghệ định đưa 120 ( bằng cách mua lên một đôi gà thiến), nhưng ông Hoàng Tùng bảo cứ 500 và đưa tiền.

Rồi lại lên ti vi, lên đài, chỗ nào dùng đều có tiền.

Ông Trần Lâm lên gặp phải mang theo băng ghi âm. Sợ trong khi báo cáo cấp trên, có gì thất thố chăng?

Sau bài viết Một nhành xuân ấy, Đài tiếng nói VN cử một tay biên tập cứng là Trần Mạnh Thường viết bài bình luận. Thường viết xong được khen và người ta định đưa hắn lên TV. Thường xấu hổ, không muốn. Lãnh đạo bảo, các cậu khiêm tốn thật. Nhưng mình làm được, không việc gì phải khiêm tốn. Vậy cứ lên TV đi.

Người ta không thể hiểu là Thường xấu hổ vì những cái đã viết của mình.

Vũ Quần Phương bảo đúng là thế hệ trước không thể hiểu nổi thế hệ sau.

18/3

Giá vàng lên 40. Một ngàn đồng được hơn hai đồng cân vàng. Giá báo Văn nghệ từ 2 hào lên 3 hào rưỡi. Giá vé máy bay từ 120 lên 220.

Một anh bạn trong cơn mê... nhà, kể rằng để dành được 10.000 thì giá nhà đã lên 15.000. Ma Văn Kháng bảo giờ có tay nhà ở Hà Nội đã đủ, lại đang tính nhà ở Nha Trang để nghỉ.

Đoàn Công Tính bảo, nay là lúc không ở đâu giá ô tô nhà lầu rẻ như nước mình.

Quân kể hai nhận xét của các chuyên gia Đức:

- Ở chúng mày hình như không có luật đi đường. Hình như thằng nào bóp còi to, thằng đó được.

- Nhưng mà tại sao con mắt mọi người vẫn ánh lên một cái gì đấy?

Tôi bảo : Còn gì nữa, đó là lòng ham sống.

Sống ở Hà Nội bụi mù trời, xe đạp kẽo kẹt trên đường vẫn cố đẩy lên, tranh nhau cãi nhau, giành chỗ, xếp hàng, kiếm lấy một cái áo đẹp...

Bên cạnh những lúc chán ngán, nhiều lúc nhiều người vẫn muốn kêu lên:

- Thật may là còn sống còn được làm người.

Muôn năm, muôn năm cuộc sống! Chiến tranh đã lùi xa. Ngày mai ra sao ư - kệ nó!

Một người vào miền Nam kể:

- Một gia đình bình thường, làm cho mậu dịch một sản phẩm nhỏ - ngòi bút viết. Sau ba tháng thu 50 ngàn.

- Một khu công nghệ nhà nước, vốn 700 triệu, nhiều năm lỗ vốn, mãi 1979 mới lãi 3 triệu. Trích ra 25 vạn làm tiền thưởng.



Tết ở Sài Gòn. Người ta buộc vài chục bánh pháo sau xe hon - đa, phóng xe, đốt pháo rầm trời.

Sao ở cái nhà xuất bản Tác phẩm mới này, tôi phải nghĩ về VNQĐ lâu thế, như xưa phải nghĩ về CK, PL vậy

- Chỉ vì ở cơ quan dân sự này miếng ăn kiếm trầy trật quá.

Thuốc lá sợi trộn lẫn nhiều lá sắn giá thuốc sợi 10, giá lá sắn 4.

LQN kể cả nhà quấn thuốc, 1 tháng được khoảng 300.

Ông Kiên kể: Đang đi đường, đến một quãng lội thấy người xúm lại rất đông. Những thanh niên quần bò áo bay cũng đứng lại, mò mẫm. Xe ô tô qua cũng kệ. Tại sao? Vừa có một xe chở đá lửa đi qua, đánh rơi rất nhiều. Đã có người nhặt được.

Một người cháu ông Vũ Tú Nam gãy tay từ Nam Định phải chở lên Hà Nội để vào nhà thương. Vì Nam Định không có bột.

- Tại sao các cửa hàng thiếu mì sợi. Vì xe ô tô không chịu chở loại hàng này. Họ không ăn cắp được.

- Các chuyến xe buýt trong thành phố phục vụ khách rất tận tuỵ. Vì nghề này, người ta bỏ tiền túi rất dễ.

Rau muống 1-1,2 đồng một bó. Nhà nước không bảo đảm cung cấp hàng cho dân không phải cán bộ. Dân chỉ được phát bìa mua hàng có 3 tháng.

Cách dùng tiền: có gia đình bán hết các phiếu lấy 4000. Để làm gì? để cho 1 tổ hợp sản xuất vay, lấy lãi 10%. Một tháng gia đình thêm 400 cộng với 1000 tiền lương tạm đủ ăn.

Giá gạo đã lên 9đ 1kg, ở Vĩnh Phú lên 10đ.

Ở Cửa Nam có một thanh niên giết người vì mấy chục bạc.

Lúc xử tử hắn, bố mẹ anh chị em sụt sùi. Hắn giậm chân hét lên “Các ông các bà có im đi không. Sống với chết cũng thế, việc gì mà khóc”

Ở khu Kim Liên Trung Tự, trước kia những vạt đất giữa các nhà đều cấm tăng gia mà giành làm nơi cho trẻ em chơi.

Nay người ta cuốc bật cả nền gạch lên để trồng rau .



15/4

Tôi đến cơ quan. Ông Vũ Tú Nam ốm. Ông Phó giám đốc Mãi đi lên Vĩnh Phú tính chuyện xin giấy (từ đầu năm tới nay chưa ra một quyển sách nào). Ông Nguyễn Kiên đi Campuchia. Lương tháng 4 chưa có. Nhuận bút, tạm ứng chưa có. Lại Nguyên Ân con ốm mấy ngày, vẫn phải đi Vĩnh Phú.

Xuân Quỳnh kể Vũ có một truyện ngắn được giải, trị giá 100đ. Quỳnh đi vay trước, giả bà Khánh 50đ. Còn 50 đ, về 20 đ mua cây tre để với tấm giấy sơn cũ, chữa lại mái cái lều; để riêng 30đ làm cơm mời thợ.

Đi mua 1, 5 đ cà phê về, con làm đổ, đánh con một trận, sau lại hối hận.

Y. kể Hảo (nhà cô Ch.) vào Sài Gòn lái xe chở hàng sang Campuchia (lính vận tải) không có tiền, vay một người 300 để buôn, trả xong nợ còn 300 lãi gấp đôi. Từ đó cứ đi về đều.

Một thiếu uý mang về cho ông bố ở nhà 200 ngàn đồng. Chắc nhiều nhà văn lại tiếc, sao lại đi viết văn!

Hà kể một phiểu Tôn Đản mỗi tháng được mua theo giá rẻ 3 cân thịt, 3 cân cá, 2 cân đường, 20 quả trứng, 1 tút thuốc. Ngoài ra còn bánh kẹo, rau, xà phòng, dép, vải vóc (Cả nhà có thể bấu xấu vào đấy.)

Phiếu đề ông Thông loại Văn nghệ sĩ tiêu biểu, cỡ ngang thứ trưởng. Những người được phiếu cùng đợt là Xuân Diệu, Tế Hanh, Nguyễn Văn Bổng.



25/4

Xã luận báo Nhân Dân nói đến chuyện ở Hà Đông, một hội trường 800 người đúng lúc đưa vào sử dụng thì bị sụp. May mà do cụ Tôn Đức Thắng chết, người ta tạm không sử dụng mấy hôm, nên không ai việc gì.

Ở Hải Phòng 1/3 hàng bị ăn cắp.

Công nhân coi kho dùng dao chặt bánh xe đạp của khách gửi về qua cảng, chỉ cốt lấy mấy cái may ô quấn quanh xe. Hiện trên phải đưa lính về thay công nhân.

Tổng kết về các vụ ăn cắp, đẩy hàng trên tàu Thống Nhất.

40% trong nội bộ ngành (nhân viên đường sắt, có cả công an)

30% cán bộ

Chỉ 3% lưu manh chuyên nghiệp.

Ở Hà Nội nghề quấn thuốc lá ế ẩm. vì... thuốc ngoại rẻ hơn thuốc nội. Bảy hào một điếu More

Hàng mang từ nước ngoài về. Để rút vàng ra.

Ở Thái Lan, Mỹ bán hàng theo lối bán thật rẻ. Nhưng phải trả bằng vàng. Thế giới người ta đang tích luỹ vàng, sợ chiến tranh lạnh trở lại.

Một ngày ở khoa ngoại bệnh viện St. Paul, đón chừng 40 vụ đâm nhau.

Báo Nhân Dân 10-4 có bài kể: Ban tổ chức hội chùa Hương thường lấy tiền của khách gấp 5 -10 lần giá quy định. Cả một hệ thống tổ chức ở đấy trở thành một thứ cai thầu hung hãn. Có một thuyền học sinh xuống, theo giá vé, không có tiền hối lộ cho họ, họ không chịu chở, lại đuổi các em lên. Các em không lên, hai bên xô đẩy thuyền chìm, họ dùng mãi chèo đánh một em vào gáy chết ngay. Họ giam một cán bộ và một bộ đội trong 8 giờ liền.

14/5

Hình ảnh của một người trên báo chí, sách vở ( và cả trong cái gọi là lịch sử nữa) với thực chất của con người đó, chẳng nhẽ lại có thể xa cách nhau đến thế hay sao?

Nixon có loạt bài trên Paris match đăng lại trên BTTK cuối tháng 4.

Chiến tranh thế giới thứ ba đã được chuẩn bị ngay từ đại chiến thế giới thứ hai. Stalin chiếm đất. Tây Âu phụ thuộc Trung Đông. Liên Xô tiến vào đó Afganistan Nam Yemen. Ở châu Phi, tất cả chính phủ mà Liên xô ủng hộ đều là bọn tham tàn, không đếm xỉa gì đến đời sống trong nước, miễn là họ nghe theo Liên xô, là Liên xô ủng hộ họ. Nếu để cho các dân tộc tự nguyện lựa chọn, họ sẽ không lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Các đại sứ luôn luôn than phiền với tôi: người Nga rất hay nói dối. Nói chung là họ hành động không chịu một ràng buộc nào hết. Một châm ngôn quan trọng của Níxon: Không bao giờ nên nghĩ rằng có một việc gì mà mình không bao giờ làm.

Những chuyện hình sự:

Một ông già thấy trộm vào vung dao đuổi trộm, nhặt được mấy ngón tay.

Mấy hôm sau có hai người xưng là công an vào, hỏi han sự việc, mời cụ lên dồn, kể cho rõ. Cụ đi 2 ngày không về.

Cụ bà ở nhà, tự nhiên có một người đến chơi, tự xưng là người quen cũ, lâu lắm mới lại thăm cụ ông. Chờ mãi không thấy, khách cáo xin phép ra phố một chút, gửi tạm chiếc ba lô. Khách không quay trở lại. Cụ bà bồn chồn, lên báo công an. Công an đến giở ra, trong ba lô: xác ông cụ.

Có khác gì chuyện Thuỷ Hử?

Một người đàn bà, thấy người khác bị móc túi, có nói to lên, giữ hộ.

Tên ăn cắp lủi mất. Lát sau, có 2 thanh niên lên xe. Hắn chen vào sát chị đàn bà:

- Chị tốt bụng nhỉ!

- Chị thương người quá!

- Nhân hậu ghê cơ!

Hắn đưa tay lên vuốt má người đàn bà. Máu chảy ròng ròng.

Trong những ngón tay hắn, có kẹp manh xơ lam.

Thịt lợn lên 40đ 1kg

Gạo hôm 1/5, do chuyện cắt gạo lên 10đ5-11đ. Nhưng rồi lại tụt 7,5-8đ

Chung quanh chuyện gạo nước, cả xã hội ồn lên vì thèm muốn và bất lực.

Nguyên từ mấy tháng trước, đã thấy nói sẽ phân phối lại lương thực. Chỉ cán bộ nhà nước được ăn 13kg. Ngoài ra người làm ngoài, có gì cung cấp nấy. Vì nhà nước cũng phải đi mua bằng giá ngoài.

Đồn rằng đã có đủ loại Nghị quyết chỉ thị Thủ tướng. Tất cả cảm thông. Nhưng chỉ sau khi có quyết định thi hành ở Hà Nội một ngày, phải hoãn ngay. Người ta phản ứng quá.



Ph bảo:

- Thế nào là phe? Bán mấy bao thuốc lá ở đường chăng? Người đó là ai, là mẹ, ta , chị ta. Bọn phe lớn bây giờ nó buôn bằng ô tô cơ. Lấy xe Von-ga đi chở hàng, mới hiệu nghiệm chứ. Cánh phe phẩy vớ vẩn ngoài phố, vợ con cán bộ đó, có việc và bảo đảm đời sống cho họ xem, họ bỏ ngay.

Anh tưởng truy đuổi phe phẩy thế là công bằng à ? Còn có một chuyện bất công lớn hơn . Bộ máy xí nghiệp nhà nước nhiều chỗ bất lực, không làm ra sản phẩm cho xã hội. Lương thấp thật, nhưng lại là cao quá, so với kết quả lao động. Rộng hơn chuyện một chính sách -- người ta thấy hoang mang, từ nay, đâu là phải trái, sai đúng bây giờ. Chính trên cũng thấy là nhiều chính sách đã sai quá nhưng không sửa được gì. Và từ nay, còn hòng làm được việc gì!



Một người nói: Dân mình tốt quá. Ở nước ngòai thiếu cà phê nó đã biểu tình.

Ông Phương Lựu: một loại dân thíếu cà phê biểu tình, nhưng về vẫn làm ăn hết sức; và một loại dân không nói gì, nhưng về không làm, lười biếng, đục khoét,-- anh chọn đằng nào?

Dân Việt Nam có chỗ dữ của nó chứ!

Từ 6/80 có công văn giấy 1980 giảm 28%

Chuyện gạo:

Cụ Hồ gạo một đồng ba

Cụ Tôn chậm chạp gạo ba bốn đồng

Bây giờ ông Duẩn ông Đồng

Gạo bẩy tám đồng, giá vẫn còn hơn.



Có thể trong năm 1980

- Lặng lẽ cho bộ đội về, vì quân quá đông.

- Không tuyển sinh vào đại học, tuy vẫn tổ chức thi và báo điểm như thường.

Phương Lựu: Cũng phải nghĩ tới chuyện đó đi thì vừa, chứ cứ đào tạo thế này để làm gì?

Một chuyên gia Liên xô hỏi Bộ Văn hoá:

- Hà Nội không có chỗ nào vui chơi công cộng. Vậy thanh niên các anh tìm hiểu nhau ở đâu?

- Tìm hiểu trong lao động.

- Thảo nào mà năng suất lao động của các anh tồi vậy









16/6

Phổ biến một nghị quyết mới, có các nhận định

- Người ăn lương đã đến mức không thể chịu được nữa.

- Chống tiêu cực, không chống nổi.

- Ta đầu tư vào xây dựng cơ bản quá nhiều. Nhiều công trình đắp chiếu nằm đấy, khi xong cũng đã lạc hậu.

- Sẽ gần như không chiêu sinh đại học thời gian tới. Học sinh hết lớp 10 chuyển về nông thôn, vào vùng B2 cũ, đi xuất khẩu lao động.



“Phải làm sao để cho tất cả những cái được in ra, từ vần vỡ lòng cho trẻ em tập đọc đến tờ báo hàng ngày, làm sao để cho tất cả sân khấu, điện ảnh cho đến một cột áp phích -- đều phải phục vụ cho cái sứ mệnh duy nhất và cao cả là lay chuyển những bộ óc sống động của dân tộc chúng ta, cho đến khi lời cầu nguyện nhát sợ mà các Hội những người yêu nước của chúng ta hướng lên trời “Lạy chúa, xin cho chúng con được tự do” trong đầu óc mỗi đứa trò nhỏ nhất , sẽ biến thành lời cầu nguyện chân thành này:” Lạy chúa hãy ban phuớc lành cho cuộc chiến đấu của chúng con.”

Trích từ Cuộc chiến đấu của tôi ( Mein Kampf của Hitler )



Ông Nguyễn Kiên: Nhà tôi ăn cơm chỉ có tương và cà. Tương có thêm thìa đường.

.........

Một ông chú của Quân ở quê ra:

- Văn nghệ các anh bây giờ toàn trừu tượng.





Báo Nhân dân ngày 17-6 trong mục bạn đọc viết, nêu 3 việc:

1. Nhiều người khai man về lương thực

2. Một xe lửa ra khỏi Vinh 2km thì... đỗ lại để cho con buôn vứt hàng lên tàu. (Hôm nọ, đã có chuyện: nhân viên nhà ga, mang xăng lên tàu, để xăng cạnh bếp, xăng bốc cháy, cả một toa tàu đi đời)

3. Công ty san nền chở thuê cho xí nghiệp Chùa Bộc một số than. Không có tiền lót tay cho lai xe họ không chịu chở. Bàn đưa tiền này cho công ty san nền biến thành tiền thưởng. Công ty này làm một thời gian, lại không chịu, xui lái xe đòi tiền tiếp.



Chị M. hàng xóm kể : Một bà ở cơ quan có một đứa con gái chủ nhật nào cháu cũng dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, vào thăm Lăng. Dậy sớm, mệt, bụng đói. Nhưng cố đi để tha bằng được một cái bánh mỳ về nhà gặm ăn, và sung sướng vì đã kiếm ra tiền.

Nhiều nhà, trẻ con rất hay xếp hàng thăm Lăng (phải ăn mặc rất đẹp) cũng là cốt để mua bánh mì rẻ. Ba hào một cái.



Oanh kể: Nhiều người bán máu ở các bệnh viện. Nay máu kém quá, bệnh viện không mua nữa, họ cứ ngồi đấy, bắt mua. Vì họ quen tiêu rộng rồi.



Các nghề ở mỏ đều sớm hủy hoại con người. 30 tuổi không lái xe nổi nữa. Người yếu, mắt kém. Năng suất không lên được. Bữa cơm công nghiệp của công nhân nhà nước cho 5 hào. Mua được 5 của khoai tây luộc.



Trên bảo: có 1,5 triệu đảng viên. Nói hơi quá lên, thì có đến 0,5 triệu hỏng, đuổi ra khỏi Đảng cũng không tiếc, miễn là đảng trong sạch.

Tôi nghĩ thế còn trình độ ? Trong sạch làm sao có thể tách rời trình độ. Vì sự dốt nát đẻ ra không trong sạch.



Hiền con ông Thảo kể lớp nó, phá hết bàn ghế rồi. Mang dao bầu đến phá. Phi dao găm cho nứt bảng ra. Khênh bục đi. Bây giờ tất cả lấy dép ra ngồi đất học, thày phải kiễng lên mới viết nổi lên bảng. Mà có lần học trò vẫn dùng gạch ném lên cửa kính, choang lên một tiếng, mảnh vụn bắn cả vào người thầy.

Tôi kể Hiền nghe chuyện ông Kháng đã kể cho tôi. Thầy gọi nó đọc bảo, nó đứng đực ra. Thôi ông cho điểm 1 đi, tôi về.

- Lớp cháu cũng thế.

Rồi lúc thầy quay ra viết bảng thì ném phấn lên đầu thầy.

- Lớp cháu cũng thế.

Rồi, sau khi thày xỉ vả cho một hồi, lại viết tiếp thì một tiếng huýt sáo vang lên. Ngoảnh lại hỏi, không ai biết.

- Lớp cháu cũng thế.



Yến kể: có những bọn học sinh bỏ sang Lào. Hoặc bỏ lên biên giới (y như hồi trước), sau lại về. Nhà trường không dám đuổi.

Tôi hỏi Hiền:

- Lớp có kính trọng một thầy nào không?

- Có. Có một thày thông thường mới dạy hộ một vài giờ, nhưng chúng nó rất quý, vì khi dạy, thầy bảo: Tôi sẽ dạy các em những điều người ta viết trong sách. Tôi phải làm thế. Còn thực tế ngoài đời như thế nào, các em đã biết.



Nguyễn Minh Châu: Người đời bây giờ, có cái đặc tính là gian manh. Có người càng giàu càng gian manh, có người càng nghèo càng gian manh. Càng lên to càng gian manh, càng bị chèn ép cũng gian manh. Càng trẻ càng gian manh, càng già càng gian manh.



8/7

Ông Nguyên Ngọc ( Bí thư Đảng Đoàn Hội) phổ biến một số ý của ông Thọ. Ta không ngờ khả năng quản lý của ta lại kém đến vậy. Kế hoạch lung tung. Có 7000 công nhân máy kéo. Mà đi nhập một lúc 70.000 máy (ở các nước, 3 công nhân một máy kéo). Nhà máy đường Văn Điển năng suất 20 vạn tấn/năm. thực chất chỉ làm được có vài vạn tấn. Vì không có mía.

Giá thu mua mía 6 xu 2 1kg, người ta không làm. Nhà máy đường trình quy hoạch lên trên 10 năm nay chưa được thông qua. Thuế nông nghiệp thất thu 50%. Giáo trình của trường tài chính 20 năm nay không đổi. Cán bộ (cả trung cao cấp) mệt mỏi, hưởng lạc. Thông thường, hiện nay, cán bộ dưới giỏi hơn cán bộ trên.



Ông Châu ghé tai tôi : Làng tôi, buôn cả đô la. Bọn con gái chỉ huy được cả lái tàu, bắt đỗ đâu, phải đỗ đấy.



Về chiến tranh ở Cămpuchia hiện nay (vẫn lời ông Thọ) ta không thể chủ động như trong chiến tranh giải phóng. Thương vong trên mặt trận Cămpuchia 1 ngày tính bằng con số hàng ngàn (?)



Sao con người mà tôi biết được trong sách vở phương Tây ghê gớm thế, mà con người trong cuộc sống của tôi bây giờ vớ vẩn thế.



18-7

- Cơ quan Hội Liên hiệp VHNT không có thuốc phát cho anh em.

-Xà phòng mậu dịch từ 0,7 đến 3,5đ

Bà Đậu theo thuyền vượt biên không thoát, bị bắt về Hà Nội. Người ta báo cho cơ quan cũ đến thăm, không ai dám đến. Ông Phong Lê, bà Vân Thanh, bà Chu Nga xin thế vào xuất ấy. Ông Phạm Huy Thông (Tiếng địch sông Ô) và ông Hoàng Trung Thông ( Mà vẫn mênh mông bát ngát tình) đều lớn tiếng phê bình: sao lại nhân đạo chung chung thế. Nhỡ bà Đậu là gián điệp thì sao?

26/7

Mưa bão. Nhiều cây đổ trên các ngả đường. Dân ra cắt ngay, Cty công viên khỏi phải dọn.

Mất điện 3 ngày liền. Mất luôn cả nước, trong khi đó mưa vẫn to. Có nhà đục ống máng ra, lấy nước. Có lẽ nhà ấy nuôi lợn.

Sau bão, có thông báo: các khu phố cử một ngày có điện, lại một ngày mất điện (không kể hàng ngày cả thành phố cắt từ 5h sáng đến 6 giờ chiều).Thư viện Quốc gia vắng teo, vì không có điện. 5h30 chiều thư viện đóng cửa.

6/8

Những ngày cả nước “rồ” vì Phạm Tuân:

- Cho Phạm Tuân huân chương Hồ Chí Minh hạng nhất (tướng G. chỉ được hạng ba)

- Sẽ làm cho cả nhà cửa.

- Một cô phóng viên bảo Phạm Tuân, anh có thấy không, trong 35 năm từ sau cách mạng tới nay, tám ngày vừa qua là tám ngày vẻ vang nhất của dân tộc.



Tính kể. Đi tàu từ Sài gòn đến Vĩnh Linh, lúc nào cũng có người mời gọi mua hàng tiền trong túi cứ chực nhảy ra thôi. Còn từ Vĩnh Linh ra đây, không có gì để mua, không có ai mời mua, có tiền đi tìm mua cũng không nổi.

Tính bảo muốn biết nước mình ra sao, hãy đi tàu Thống Nhất một chuyến.

Ông Hạnh đi Liên xô về:

- Chưa bao giờ tình hữu nghị Việt xô gắn bó như hiện nay. Nhưng cũng chưa bao giờ giá trị người Việt Nam ở Liên xô hạ như hiện nay.

Ông Phương Lựu: Ta đi với Liên xô phải thôi. Nhưng vì đi đã muộn rồi, giá biết mà đi sớm hơn, cái tư thế sẽ đỡ hèn hơn.



Quốc (Viện Sử) : Chúng ta bây giờ già nhanh vì 3 lý do.1/ ăn uống kém 2/ không có thông tin (sự hỗn loạn .Trong xã hội ta, kẻ có kiến thức không phải là kẻ mở đường cho cuộc sống) 3/ không biết đối thoại (không thể giao tiếp với thế hệ trẻ)

Quân: cứ đà này, 5 năm nữa sẽ ra sao?

Đi hội thảo quốc tế về thanh niên. Trong khi ta còn nói nhiều về lẽ sống thì các nước khác nói nhiều về lối sống, ăn uống xe cộ quần bò áo phông…

Đại biểu Mỹ bảo: Những người quần loe, tóc dài bên tôi phần lớn tham gia chống chiến tranh ở Việt Nam. Đám đi lính lại cắt tóc ngắn.

Khủng hoảng của xã hội Thuỵ Điển là không có mơ ước.



Đăng: Lính ăn 5,2 lạng một ngày. Chỉ được hơn 2 lưng, có thằng kêu 2 lưng không làm gì được nữa. Không đủ sức đẩy pháo ra khỏi nhà. Cán bộ cũng cáo ốm. Có mấy chục con lợn, lính giết cả. Để , lấy gì mà nuôi. Nó lại ăn tranh của người mất.



Ngô Thảo đi tàu chợ từ Vinh ra Hà Nội 3 ngày 3 đêm. Vì không có dầu máy. Không ai chịu trách nhiệm hết.

Trên tàu, 70% dân Quỳnh Lưu đi buôn; có một cụ già cũng đi.

- Cụ ở nhà, còn đi làm gì nữa.

- Chủ nhiệm cũ đây. Giờ con làm chủ nhiệm, mẹ đi buôn.

Ở Vĩnh Linh, có phong trào rời làng ra bãi cát, để lấy đất trồng trọt.

Gia đình thương binh liệt sĩ ở thấp nhất; gia đình trung bình ở giữa; cán bộ đảng viên ở trên cùng.

Một ông xây hẳn nhà gạch lên.

Bây giờ, đói, dân bỏ về. Chỉ còn trơ cái xác nhà ông đảng viên kia. Vợ con cũng bỏ về nốt (chung quanh không có cây cối nước non gì hết). Ba ngày vợ bới cơm cho ăn một lần

Cơm ở Vĩnh Linh, tức là khoai.

Chi đoàn không giới thiệu con một đảng viên lên Đảng, vì 1/ nó là thằng tham ô, 2/ là phản động (đề ra nhiều chủ trương sai lầm)

Cả xã Vĩnh Thái (?) bảo nhau vào Minh Hải, Thanh Hải gì đấy làm ăn.



Công trường cầu Thăng Long cứ bỏ đấy, không làm nốt được. Vì không có cán bộ để làm. Cả công trường không có lấy một chỗ uống nước cho công nhân. Chỉ có một vài quán phe phẩy. Công nhân không có gì ăn. Chỉ có ăn cắp. Ăn cắp 10kg xi măng trở lên mới bị bắt. Mà ăn cắp 5kg mới đủ sống.

Vừa rồi Ty công an đã cho bắt mười mấy người. Đại loại, một tay chuyên môn mua quang sọt cho công trường, ăn cắp khoảng 20 vạn.

Tất cả các điều được ghi trong hiệp ước Việt xô không được thực hiện. Tại Liên xô chăng? Không, tại ta. Không chuyển gì về tổ chức cả.



Ông Hoàng Thế Dũng ở báo Quân đội hồi 63 bị bắt ra sao? Đang làm phó tổng biên tập thì bị xe chắn ngang đường. Bắt đi tù, sau đó 4 năm cho về cạo rỉ ở nhà máy xe đạp, 4 năm nữa cho về nông thôn.

Gần đây, có người đến bảo ông không làm sao cả. Tự do. 6 tháng mới được phục hồi. Người vợ đã bỏ đi lấy người khác, con đã ly tán cả. Bây giờ về Thư viện quân đội.

Chuẩn bị lấy mấy chục nghìn lương trung tá từ đó đến nay.



Ca vè dân gian

- Ăn rau muống, uống nước ao, nói chuyện tào lao, bay vào vũ trụ

- Bay vào vũ trụ làm chi

Sao không lo gạo lo mì cho dân



Bạn Yến, cậu D. lấy một nguời vợ hơn tuổi. Gia đình không bằng lòng. cứ lấy, tưởng sống độc lập được. Bây giờ vợ đẻ, cửa mình có mủ, dạ con có mủ, phải tiêm kháng sinh liều cao, người cứ cứng lại, hết sữa, con gửi về cho bà ngoại trông 17 đ một hộp sữa. Bình nhớ con mắt sưng húp. D. phờ phạc vì hầu vợ ngày nào cũng phải vào thay rửa cho vợ. Hạnh phúc và điêu tàn.



Báo cáo trong nội bộ:

- Từ đầu năm Hà Nội khoảng 80 vụ các cửa hàng lương thực ăn cắp.

- Phân bón tuồn ra ngoài

- Nhân dân cán bộ hoang mang, 80% đảng viên không làm công tác đảng, là công tác quần chúng. Hà Nội định giảm biên chế 20% không làm nổi.



Một chuyên gia về ngoại thương Liên Xô sang Việt Nam

- Ở đâu buôn lậu ghê nhất

- Madagasca ?

- Việt Nam buôn lậu khác các nước ra sao?

- Nước nào buôn lậu cũng sợ cảnh sát cả. Riêng Việt Nam buôn lậu không sợ cảnh sát.

Tính kể tôi đã thử buôn thuốc. Nghe nói thuốc cảm đắt lắm, trong kia đồng bạc một viên, ngoài này có một hào. Thế là mua một lọ, hơn trăm bạc. Vào kia, không ai mua cả. Hoá ra lỗ.



Ông Hồ Đắc Di bảo chúng ta đã thực sự tổ chức được một tình trạng vô tổ chức thật toàn vẹn.

Bà Ý Nhi:

- Con tôi 5 tuổi đã biết bảo: Hồi trước sướng, má nhỉ.



Sự kiện Ba Lan cuối tháng 7 đầu tháng 8. Bãi công, đòi những người cầm đầu Đảng & nhà nước phải dần dần từ chức hết, kể cả Bí thư thứ nhất. Không manh động, nên quân đội Liên xô không dám làm gì. Đưa ra 21 yêu sách thì 20 yêu sách rưỡi phải chấp nhận ngay từ đầu.

Bài của ông Kania, dịch in trên báo Nhân Dân ngày 17-9, mở đầu bằng những câu rất hay: Trong suốt cuộc đời theo Đảng của mình chưa bao giờ tôi thấy tình hình đất nước bi đát và phức tạp như thế này.

Kania có một nhận thức rõ ràng, chính xác -- dẫu sao, Đảng cũng chỉ là một bộ phận của dân tộc, Đảng không thể thông minh hơn dân tộc được.

Thựa ra, toàn bộ tình hình Ba Lan cũng buộc người ta phải đặt vấn đề như vậy. Bản thân hành động tháng 7 vừa rồi, chứng tỏ giai cấp công nhân không chịu nhận Đảng làm giới hạn. Giai cấp công nhân còn thông minh hơn Đảng nhiều.



Giai thoại

Việt Nam bị Liên hợp quốc đuổi. Nằn nì mãi, nó bắt phải khai lại lý lịch.

Họ và tên: An Nam, tức Việt Nam

- Nghề chuyên môn: đi ăn xin...

- Anh em: Cămpuchia và Lào nhưng đều vô nghề nghiệp

- Sở trường: đánh nhau

- Mức sống : thấp nhất thế giới.

... Nếu ở lại, xin tích cực đóng góp vào việc thảo nghị quyết.



Một tờ báo Pháp

Nước Việt Nam luôn luôn nói theo CNXH nhưng họ lại hành động như chủ nghĩa đế quốc và sống như chủ nghĩa phong kiến.

Sinh ra trong nghèo đói, hiện nay đất nước đó lại đang hấp hối trong nghèo đói.



Ông tổng thư ký Liên hợp quốc họp báo ở Paris sau chuyến đi Việt Nam

Ở đây, khi lương người nhân viên bình thường, không mua nổi 2kg thịt 1 tháng thì không thể bàn về nhân quyền được. Miền nam đó là một thuộc địa của Mỹ nhưng Hà Nội là một thành phố chuồng chim.

Nghề của tôi là đọc diễn văn và nhiều lúc tôi chán ngấy việc này. Nhưng ở Việt Nam, nhà cầm quyền được tiếng là kiên cường, không hề có việc gì khác, ngoài việc đọc diễn văn. Họ, trong lúc này, không biết lo cho dân họ việc gì cả. Trước đây ít ngày tôi từng phải tham gia một hội nghị chống di tản. Tôi không thích gì việc di tản. Nhưng đến Việt Nam lần này, tôi hiểu tại sao người ta di tản. Đó là cái cách duy nhất giúp cho người ta tồn tại.

Tôi hiểu 25 vạn người Việt Nam đi được nước Mỹ trợ giúp. Tôi muốn người Mỹ làm việc đón tiếp tốt hơn để những người khác có thể tiếp tục di tản.



2 tàu thuỷ chạy đường Quảng Ninh Hải Phòng trốn sang Hồng Kông. Thuỷ Thủ + công an thông đồng với nhau. Nhiều hành khách bất ngờ được di tản với giá vé 1,2đ



Trận bão số 6 - 1980 ở Thanh Hoá, 6 huyện bị lụt, nhà của mất 80%

Một cái cầu nhỏ, cầu Tào Xuyên bị nước đe doạ. Người ta phải cho cả một toa tàu chở đá đến để giữ cầu, rồi lại phải đục nhiều chỗ đường tàu thì nước mới thông nổi.

Đột xuất kiểm tra xe ôtô Hà Nội - Hải Dương, khoảng 50 vé, thì 17 vé do nhà xe tuồn ra ngoài, bán lãi 15đ 1 vé



Trần NH được chia nhà. Do quen một người cùng làng, làm ở Sở nhà đất. Tết cả nhà mình đến bỏ bom nhà nó, Trần NH cắt nghĩa.



Ông Ma Văn Kháng đi nhà máy dệt Nam Định về kể :

1 vạn 3 công nhân, 1000 người ăn cắp. Ra cửa, khám nhau như thời Pháp.

Mỗi người chỉ lấy ngày 1 hay 2 con sợi cũng đủ chết.

Cái đau nhất là một chiến sĩ thi đua 7 năm liền, giờ ăn cắp.

Phải bù cho công nhân bằng cách bán vải bù cho họ, 5 đ độ 20 mét vải, ra họ bán ngoài.

Mới đầu chủ trương ai ăn cắp và nghỉ bừa, không được mua kiểu đó.

Sau họ chỉ đề nghị: tha cho người nghỉ bừa

Lý do vỡ trận như vậy

- Trả lương quá thấp. Vải làm ra, tiền lãi nhiều, lương chỉ đáng vài phần trăm y như thời Pháp.



Tỉnh đánh nhau. Bí thư Tỉnh ủy đi vào Lâm Đồng thăm khu kinh tế, mang theo 3 vạn đồng tiền mặt, vài tấn đường, rất nhiều giò, thịt. Phó bí thư đi viện, ở nhà, ban thường vụ tỉnh uỷ ăn cánh với nhau, cách chức một lúc 11 trưởng ti, gọi đến đàng hoàng bảo anh bàn giao (phe Ninh Bình đánh đổ phe Nam Hà); cả chủ tịch tỉnh, tay Soạn, mới lên 13 ngày, cũng phải đi Cămpuchia.



Thủ tướng Triệu Tử Dương: có thể phối hợp sự phát triển kinh tế với sự nghiêm khắc về chính trị, theo kiểu Đài Loan, Nam Triều Tiên.



10/10

Đâu cũng thấy tin đồn nhóm diễn viên Vân Khánh trốn đi nước ngoài. Họ lấy cớ đi biểu diễn, xuống Quảng Ninh rồi đi.

Trước đó, hai vợ chồng Vân Khánh giả vờ ly dị. Đến khoản chia gia tài, họ bảo: thôi, để bán đi, lấy tiền chia cho tiện.

Rút cục, họ giải quyết được việc đi khá dễ.

Nghe nói một sinh viên ta từ Liên xô đi tham dự cuộc thi toán quốc tế ở Anh trốn vào đại sứ quán Anh.

Có người thông cảm: Thôi ai được, may người ấy.

Một bài báo của Tây Đức về Việt Nam có cái tít nhỏ: Một dân tộc lêu lổng

Một bộ phim của Thuỵ Điển chiếu cho quốc hội hồi trước, đã có nhan đề Một dân tộc không thể cộng tác. Nay lại có một phim khác mang tên Một dân tộc không thể khôi phục.



Ông Lê Văn Lương, đến hội nghị mừng công của nhà máy sản xuất quạt.

- Các đồng chí có nói thiếu điện và thiếu nguyên vật liệu

Về điện, tôi không biết nói thế nào. Tất cả cười. Ông nghỉ một lúc. Còn về nguyên liệu, các đồng chí chịu khó chạy lấy.

Ma Văn Kháng bảo y như một ông nông dân



Những việc liên quan tới kỷ niệm Nguyễn Trãi

Ông VNG nói về Nguyễn Trãi, y như nói về Cụ Hồ. Đoạn nói Nguyễn Trãi là nhà văn hoá, chỉ gợi ra được một chuyện Nguyễn Trãi làm văn.

Chọn nhầm ảnh. Nhân viên đưa ra một ảnh hơi mờ. Ông Hoàng Tùng bảo bên Hà Nội mới nó có cái ảnh rõ lắm. Sang lấy về in. Hoá ra ảnh Phan Thanh Giản. Báo phải xin lỗi và gọi chệch là ảnh Dương Khuê.



Một tay tâm thần ở chợ Hôm, cầm dao chém đứt đầu đâu 5, 6 người, bị thương nhiều người khác. Hắn cầm dao đi qua nhiều phố. Cho nên người ta tưởng là có nhiều kẻ đi chém bậy, lại đổ đi lùng một hồi.

Béc linh gơ (ĐCS Ý -- TLTKDB)

(đại ý) Trường hợp Tiệp Khắc -- Liên xô bảo qua cơ hội thí nghiệm mở rộng dân chủ trong nội bộ các nước XHCN.

Trong chính trị, không có bản chất với hiện tượng gì.

Những điều gì chưa xảy ra thì sẽ xảy ra, đang xảy ra.

Từ nay ĐCS Ý rút bỏ danh từ chủ nghĩa Mác Lê. Đảng chỉ thừa nhận lý tưởng và truyền thống văn hoá bắt nguồn từ tư tưởng Mác -- Ăng ghen và được đổi mới nhờ các tư tưởng của Lê-nin

Cái có thể học ở Mỹ là cách làm ăn có hiệu quả, óc mạo hiểm, một khả năng học tập cực lớn.

Nước Mỹ tiến một bước dài trong việc không còn đơn thuần coi triết học như một khoa học nhân văn nữa.

Các nước cộng sản không chỉ là cộng sản. Đó là những quốc gia với những sự xung đột nhau về quyền lợi, những sự kình địch nhau, thù oán nhau, những cách đào tạo về ý thức hệ và những sự cuồng tín riêng

Giáo hoàng: “Hãy coi chừng nếu tiếp tục sản xuất vũ khí thì rồi cuối cùng, người ta sẽ đem dùng nó đấy”



Chuyện thất thu

- Thất thu ở khâu vận tải hành khách trong thành phố khoảng 30%

- Thất thu ở khâu nhà đất. Nhiều người không nộp tiền nhà. Từ khâu cho ở, đến khâu có hợp đồng, có khi hàng năm.



Đối đáp trên đường

- Chị làm em mải nhìn, đâm cả vào xe người ta đây này.

- Mày có mê mớ rau muống của tao thì có!



Một người vào nhà Hồng. Bố mẹ Hồng đi vắng. Anh ta chỉ đứng ngoài cửa.

- Thôi, cứ đứng đây cũng được. Vào cháu nó lại phải trông nhà, phiền ra.



Sự khốn khó của kiếp người

Cách đây mấy tháng, ở chợ Hôm có một vụ đốt nhà giết người. Hai người hàng xóm ở cùng nhau, cùng là dân phe. A đổ xăng ra nhà, đốt, cho B chết với cả chồng, con, 1 đứa con trong bụng = 4 người

Người ta ồn lên vì nỗi giết người.

Toà xử tử hình.

Nhưng tất cả người đi dự phiên toà xin phạt nhẹ hơn. Ai cũng thương khóc.

A. là một người con gái khoảng 20 tuổi. Người nông thôn, nhưng vì gia đình mẹ chết, bố đi lấy vợ, nên bỏ lên Hà Nội.

Lấy người chồng bây giờ là lấy lẽ. Chồng hiện thời đi cải tạo lao động ở đâu rất xa. Chị ta phải tần tảo nuôi mẹ chồng, nuôi con. Người rất tử tế

Trong khi đó, vẫn là tạm trú ở Hà Nội, vẫn không có hộ tịch.

Đối thủ của chị ta cũng trẻ như chị cũng dân phe phẩy. Nhưng mụ rất ác.

Mụ từng bắt chồng ngồi yên để đánh.

Gửi con ở nhà mẹ đẻ, có chút gì đó phải lôi về, mụ riếc móc: Phen này thì ngồi đấy mà há mồm.

Hai nhà đã chửi nhau đánh nhau nhiều phen. Trong phiển toà, A kể có những lần đánh nhau, mụ B cắn đứt đầu vú chị ta.Trông thấy, ai cũng rùng mình.

Bởi vậy, A nghĩ nếu không giết nó nó cũng giết mình chết.

Lúc A đi lùng mua xăng, một ý nghĩ loé ra. Đốt cho nó chết, rồi mình cũng đâm đầu vào đấy chết luôn thể.

Nhưng hỏi mãi, chẳng thấy đâu có bán xăng. May có một người đến phố Huế, đâu 2, 5 đ một lít.

A giục mẹ ẵm con đi, mọt mình ở nhà hành sự. Để thùng xăng cạnh cửa, giả vờ làm cháy cái gì đó, B chạy ra, ẩy cửa, xăng đổ tung toé. Lửa thiêu chết cả mấy người.

A thấy cái chết sợ quá bỏ trốn.

Sáng sớm, ra bến ô tô về quê, có mấy gã con trai tưởng ả là gái làm tiền trêu, ả bảo đừng có trêu tao, tao vừa đốt nhà thiêu chết người đây. Công an nghe tiếng bắt lại.

Ra toà, A chỉ bảo:

- Tôi xin nhận tội chết. Chỉ xin cho con tôi bú một lần cuối cùng.

Sao mà có hơi hướng Dostoievski quá. Xã hội xấu, đẩy người ta vào vòng tội ác. Trần Vũ Mai bảo chính người tốt người ta mới hay phẫn trước mọi việc bất công và sinh ra làm liều.



Thư kể:

-- Em ngày làm cho nhà nước tối thiểu 200, được lĩnh có 1,5 đ .Một ông khác tính làm ra vài vạn, được lĩnh có 2.000 (1năm). Tham ô ăn cắp kinh khủng. Có thằng thông đồng với bảo vệ, ngày mang ra hàng cân báo (nếu in báo). Hiện nay, thằng nào lấy đến 4 tờ cũng bị bắt. (Giá ngoài, như chị Yên mua, để nhuộm là 4 hào 1 tờ)



Đọc ở đâu đó "Tôn giáo là một nhân tố góp phần ổn định hoàn cảnh. Sự ổn định này tức là văn hoá".





.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 25, 2013 21:48

October 21, 2013

Công việc viết văn nhìn dưới góc độ nghề nghiệp

Bài in lần đầu trên tạp chí Sông Hương,1990 

với nhan đề Để nghề viết văn trở thành một nghề cao quý 

                        

  Từ sau 1945, một kiểu người viết
văn đã hình thành với chỗ mạnh chỗ yếu của họ. Bài viết không có tham vọng
trình bày vấn đề một cách toàn diện, mà chỉ đi vào một số khía cạnh:


- Nên nghĩ sao để đưa công việc
viết văn thành một hoạt động nghề nghiệp thực thụ.


- Nên lo sao để trau dồi bản lĩnh
người viết và hình thành nên những trí thức có cốt cách vững vàng.


- Nên đánh giá sao để mức độ quan
liêu hoá, từ đó dần tìm cách giải thoát khỏi căn bệnh ác độc đó.






                                                        I

Theo
nhiều người kể lại, trước Cách mạng,  nhà
văn Nguyễn Tuân có lần bị ra toà. Khi người ta hỏi ông nghề nghiệp gì, ông trả
lời viết văn thì viên thư lại liền ghi: vô nghề nghiệp.

Mẩu
giai thoại này thường được dẫn ra để ngụ ý là trước Cách mạng, nghề viết văn
rất bị xem thường. Nhưng theo chúng tôi tìm hiểu thì mặc dù bị thành kiến như
vậy, bấy giờ viết văn đã là một nghề với nghĩa:

a.
Có những người coi viết văn như một công việc làm đều đều để kiếm sống nuôi mình và
vợ con mình bằng chính nghề đó, không cần một thứ phụ cấp nào khác.

b.
Trình độ nghề nghiệp của người viết khá ổn định. Ai chỉ có năng khiếu mà không
hết lòng với nghề, sớm bị đào thải. Ngược lại những người theo đuổi nghề nhiều
năm là những người chuyên sâu, có trình độ tay nghề cao.

Khi
tôi hỏi nhà văn Tô Hoài trước Cách mạng trong vòng có mấy năm 1941 - 1944… sao
ông viết được nhiều thế, ông thường trả lời đại ý: Tình hình làm nghề lúc ấy nó
đòi hỏi như vậy. 

Không có mặt hàng riêng
anh không sống được (mặt hàng riêng, ở đây ý nói đề tài riêng, phong cách
riêng). 

Có mặt hàng riêng rồi, lại phải viết đều, viết khoẻ nữa. 

Có điều lạ là
đến bây giờ đọc lại nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài lúc ấy, --  những tác phẩm mà đôi khi các ông kể là phải viết vội để mang bán lấy tiền khi
vợ đau, con ốm v.v… còn thấy có giá trị, điều đó chỉ chứng tỏ ngòi bút của các
ông đã đạt đến độ chín cần thiết.

 Mặc dù nước ta bấy giờ là một nước thuộc địa,
nhưng những ảnh hưởng của thế giới vẫn dội vào đều đều, và văn học ta từ 1925
đến 1945 đã trải qua những giai đoạn phát triển tiêu biểu thường thấy ở nhiều
nền văn học khác, kể cả so với các nước Đông Nam Á gần cận.

Từ
sau Cách mạng, khi nói về nghề viết văn, chúng ta thường hay nói đây là một
công tác cách mạng, mà không xem như một nghề kiếm sống.

Đại
khái thấy có ai có năng khiếu viết lách một chút là các cơ quan báo chí xuất
bản liền kéo về làm các công việc kề cận với sáng tác, như phóng viên, biên tập
viên.

 Rồi dần dần, trong những trường hợp đặc cách
mà chủ yếu dành cho các ngòi bút cao niên, -- một số nhỏ tách ra thành sáng tác chuyên
nghiệp, không phải làm gì cụ thể vẫn được lên lương đều đều,
việc xếp lương và lên lương này dựa vào thâm niên tham gia cách mạng chứ không
phải chất lượng sáng tác.

Còn
nhuận bút chỉ là chuyện phụ, thêm thắt vào cho đỡ tủi, cả người trả lẫn người
nhận đều hiểu không ai sống bằng nhuận bút, thôi Nhà nước đã quy định vậy, thì
ta cũng theo vậy.

Nói
gọn lại là đến nay, chúng ta chỉ có những cán bộ viết văn chứ không có những
người viết văn sống bằng nghề nghiệp của mình. 

Về căn bản, Hội nhà văn là một
thứ hội của phong trào chứ không phải hội của những cây bút chuyên nghiệp.

Phong
trào có cái cần của nó. Và đây là điều mà những ai mới vào nghề vào những
năm  chiến tranh như bọn tôi thường được
răn dạy: hãy nhớ mình từ phong trào mà trưởng thành lên, không được tách rời cơ
sở v.v… và v.v….

Nhưng
đánh giá văn học một nước không bao giờ người ta dừng ở phong trào mà phải xem
trình độ chuyên nghiệp hoá đến đâu, tức là xem cách đào tạo những cây bút tiêu
biểu sống cả đời bằng nghề viết và trình độ những cây bút tiêu biểu đó so với
các thời đại trước và so với trình độ ở các nước khác.

Xét
theo nhu cầu chuyên nghiệp hóa quả thấy có nhiều điểm đáng lo ngại.

 Hàng năm, rồi vài năm một lần, Hội lại kiểm
điểm xem đã phát hiện được bao nhiêu cây bút mới, đã giúp cho phong trào tỉnh
nọ tỉnh kia ra sao. Còn số phận các cây bút hôm qua đã phát hiện đó như thế
nào, họ có khả năng trở thành những nhà văn chững chạc không thì không cần
biết.

Do
đẻ giỏi mà nuôi kém, đẻ tràn lan, cốt lấy thành tích, mà không chú trọng bồi
dưỡng tiếp tục, không mở ra con đường chọn lọc tự nhiên thông qua đào thải, nên
đã nảy sinh những hiện tượng rất lạ, phải nói là những hiện tượng kỳ cục, quái
gở.


những người chỉ ngẫu nhiên có được một số sáng tác đột xuất cũng được vào biên chế  tức "chuyên
nghiệp hoá", rồi sau cứ lẽo đẽo theo đuổi mãi với "nghề", song không bao giờ viết
được cái gì khá hơn những cái ban đầu kia nữa.

 Hoặc có những người có năng khiếu, phải nói là
rất có năng khiếu nữa, giá ở trong một hoàn cảnh tốt, có thể trở thành một cây
bút làm nghề thuần thục, đằng này ngược lại, sau một hai tác phẩm đầu, sinh ta
lười lĩnh, làm dối làm ẩu, sống bằng cái uy danh sẵn có của tác phẩm đầu tay mà
không biết rằng nhà văn là kẻ đời đời khởi nghiệp, cuộc đời người viết chỉ có
nghĩa ở chỗ luôn luôn là những cuộc làm lại từ đầu.

Do
không có đào thải, cũng như không có sự bắt buộc nhà văn để anh ta luôn luôn
làm mới mình, chinh phục lại độc giả… nên số người viết khoẻ, đều tay, cái sau
hơn cái trước, số đó quá ít.

 Tô Hoài thường  dặn dò một số anh em viết lớp sau chúng tôi
là nên nhớ cái nghiệp nhà văn An Nam ta nó mỏng lắm.

 Khó tìm  thấy người viết quyển nào cũng
hay.

Đã
có những người tuyên bố viết những bộ sách vài ba tập, nhưng thường thường là
chỉ được tập đầu, còn các tập sau chả ra gì.

Thậm
chí, trong một cuốn sách cũng có hiện tượng xôi đỗ, chương được, chương không.

 Nhắc lại ý kiến đó của tác giả Dế mèn, phải
thấy đấy là một điều đáng xấu hổ, không phải cho riêng ai, mà cho cả giới.

Lại
cũng rất đáng báo động là trình độ nghề nghiệp của người viết hiện nay rất
thấp.

Đã
đành viết văn là công việc của tâm huyết, của xúc động, nhưng trong nghề vẫn có
những cái thuộc về kỹ thuật viết, những biểu hiện  cụ thể của tư duy nghệ thuật, nó là dấu hiệu
khiến cho đọc văn của thế kỷ này thấy khác hẳn với văn của thế kỷ khác.

 Với những ai không cho rằng có kỹ thuật viết
văn, chúng tôi xin phép dừng lại ở đây, vì tranh luận về việc đó đòi hỏi rất
nhiều giấy mực.

 Riêng với những ai công nhận là có kỹ thuật
viết, tôi nghĩ các bạn đó cũng dễ nhận ra là kỹ thuật viết của chúng ta hiện
nay - đặc biệt là trong văn xuôi -- rất cổ lỗ.

Cũng
như nhiều ngành nghệ thuật khác, văn học ta hoàn toàn đứng ngoài mà không dây
dưa gì đến những trào lưu chung của thế giới, trong cái thế kỷ chúng ta đang
sống.

Khắc
phục sự lạc hậu ấy trong hành nghề phải có thời gian, phải có chuẩn bị, nhưng
nên nhớ đó là một trong những việc phải làm để đưa việc viết văn trở nên nghề
nghiệp thực thụ. Việc đào tạo những cây bút làm nghề thực thụ
là cách tốt nhất để củng cố cái phong trào mà xã hội đòi hỏi.

Từ
các cây bút có trình độ hành nghề hiện đại, chúng ta mới có cơ hình thành những
tài năng có tầm cỡ, những nhà văn đi ra thế giới bằng sáng tác của mình chứ
không phải chỉ được đón tiếp như một nhà văn Việt Nam nói chung, điều mà nhiều
nhà văn như Tế Hanh Nguyễn Minh Châu …trong khi nói chuyện riêng với chúng tôi, từng
than tiếc.

Và những ai có lương tâm đều thấy đúng.




                                              II

Từ
những người viết có năng khiếu tới những người viết sống bằng nghề, có tay nghề
hiện đại, đã có một nấc thang; từ những người làm nghề thành thạo lo sao hình
thành nên những người có cốt cách trí thức, biết suy nghĩ và trả lời cho những
lo toan chung của dân tộc, của đất nước, -- đấy lại là một nấc thang cao hơn, khó
hơn.

Do
sự "biết điều"  đã ăn vào máu chúng ta (một
thứ khiêm tốn đồng nghĩa với cầu an, sợ sệt, không dám chịu trách nhiệm, cốt
sống yên thân qua ngày), giới cầm bút thường lảng tránh câu chuyện này, cho là
trình độ ta còn thấp, không nên bàn.

Nhưng
lảng mãi không được, cho nên xin phép 
khơi gợi lên ở  đây và mong được
hưởng ứng. Bàn đi, bàn đi, rồi may ra có lúc chúng ta có thể làm. Chứ
không bao giờ bàn thì chắc chắn không bao giờ làm nổi.

Đọc
lịch sử văn học một nước có nhiều duyên nợ với ta như nước Pháp, hẳn mọi người
đều biết rằng ở đây, thời đại nào cũng hình thành nên những nhà văn đồng thời
là những trí thức lớn của đất nước,-- những người viết văn không có chức vụ gì
trong chính quyền, nhưng luôn luôn là những tiếng nói mạnh mẽ tham gia vào các
việc lớn trong xã hội.

 Từ V. Huygo trở đi qua R. Rolland, A.France,
H. Barbusse đến A. Gide và J.P. Sartre, A. Camus và L.Aragon … các nhà văn ấy
đồng thời là những trí thức lớn.

Cốt
cách trí thức toát ra qua tác phẩm của họ, ở đó có cả truyền thống lâu dài mà
nền văn hoá Pháp đã thu góp được, cốt cách trí thức đó lại cô kết trong con
người của họ, bộc lộ ra qua cách ứng xử của họ.

Nhắc
đến tên tuổi các nhà văn ấy có nghĩa là nhắc đến một quyền lực, một uy tín.

 Đây
cũng là chỉ số đánh dấu sự phát triển rất cao của một nền văn học, cái trình độ
mà, khi nhìn lại văn học Việt Nam trước Cách mạng, chúng ta thấy chưa đạt tới.

Trước Cách mạng 1945, giới viết văn ở nước ta mới chỉ có những
người hành nghề giỏi mà chưa có những trí thức với nghĩa tốt đẹp nhất của chữ
ấy: những giá trị tinh thần đến nhà nước cũng phải vì nể.

Thế
còn vai trò người viết văn trong xã hội ta từ sau 8-1945? 

Đây là một vấn đề
lớn, liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của trí thức Cách mạng nói
chung.

 Chúng tôi muốn nói một số điều
liên quan đến sự định hướng, mà lớp người viết trẻ từ hồi chống Mỹ hay được nhắc
nhở, tới kiểu nhà văn mà bọn tôi  được giáo dục là phải cố noi theo.

Đối
tượng phục vụ của nền văn học mới là nhân dân lao động. Bản thân những người
cầm bút trẻ phần lớn là con em của nhân dân lao động trưởng thành lên.

Suốt mấy chục năm qua, đất nước lại luôn luôn bận rộn.

 Do hoàn cảnh chiến tranh thúc bách, tận trong tâm khảm mọi
người viết, bao giờ cũng khắc khoải một điều  -- phục vụ trước đã, tìm tòi làm chi
vội, gắng viết làm sao để những người mới thoát nạn mù chữ cũng hiểu, thế là
quý rồi.

 Bấy nhiêu lời dặn dò, điều tâm sự… là những
yếu tố tạo nên cả một khí hậu văn học, nếu có thể nói như vậy.

Chúng
ta thường chỉ mới lưu ý tới ảnh hưởng của những điều kiện đó tới kết quả về mặt
sáng tác.

 Rằng văn học ta sau 1945 mới chỉ có những tác phẩm lành mạnh phản ánh
một cách khiêm tốn những biến chuyển của cách mạng.

 Rằng các nhà văn còn cần
làm việc nhiều mới dần dần có được những tác phẩm tương ứng với tầm vóc của
lịch sử v.v…. và v.v…

Tất
cả những cái đó đều đúng, nhưng những sai lầm lớn trong chỉ đạo còn gây nhiều hệ luỵ khác, nhất là những hệ luỵ cô
kết thành nếp sống nếp nghĩ, cái đó mới đáng lo.

Chẳng
hạn, việc miêu tả đời sống một cách thô thiển (chỉ dừng lại ở mức miêu tả mà
không đào sâu vào làm nổi bật ý nghĩa đời sống) ban đầu là một thực tế phải
chấp nhận, sau trở thành một thứ khuôn thước, không ai nghĩ là nên làm khác.

 Do sợ sai, người viết văn ngần ngại không dám đi vào các vấn đề khái quát thuộc về hệ tư tưởng mà chỉ chờn vờn mọi chuyện râu ria.

 "Ở nước Việt Nam
hôm nay, trẻ con làm văn nghị luận, người lớn làm văn miêu tả
" - đấy là một
câu tổng kết, ngẫm ra thấy đúng và do đó, thấy rất đau xót.

Trong
một bài báo viết trước khi mất, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận xét: "Một
thời gian có lẽ cũng khá dài, hoặc ngay cả bây giờ, trong xã hội ta có một thứ
quan niệm: làm nhà văn chỉ cần viết câu cho gãy gọn, đúng văn phạm, khéo hơn
một chút nữa là viết cho dí dỏm…".

Ý
ông muốn nói do quan niệm như thế, nên không bao giờ lớp nhà văn trẻ trưởng
thành nổi.

Nếu
được gọi sự vật bằng tên của nó, thì theo chúng tôi, quan niệm mà Nguyễn Minh
Châu chỉ trích ở đây là quan niệm tước đi cốt cách trí thức ở nhà văn.

Viết
văn chỉ là một hành động tự phát, thấy đời đẹp thì ngứa cổ hót chơi.


ở thời đại này lịch sử đã quá nhiều kỳ tích, trong nhân dân đã quá nhiều mẫu
người đẹp, hào hùng, nên nhà văn không cần suy nghĩ gì thêm, cứ ghi chép về họ
cũng đủ.

Một
quan niệm như thế đẻ ra kiểu nhà văn có
tính chất nghệ nhân
, hoặc ca ngợi hoặc than vãn (khi thấy có một số mặt
tiêu cực như hiện nay thì than vãn) mà không bao giờ hiểu bản chất đời sống.

 Đó
là loại nhà văn giống như xẩm chợ,
thiên về nói leo, phát biểu một thứ phản xạ tức thời và nông nổi trước đời sống, hơn là chiêm nghiệm suy nghĩ và lo tổ chức tác phẩm thành thế giới nghệ thuật độc đáo của riêng mình
.

Xẩm
thì cũng cần, chắc có người nói thế, được công nhận là xẩm tức cũng phải có
năng khiếu, có lao động, và như thế là được rồi!

Nhưng
ở thời đại nào cũng vậy, điều mà đất nước và nhân dân đòi hỏi là những nghệ sĩ hành
nghề một cách tự giác.


những nghệ sĩ này, bên cạnh năng khiếu còn cần nhiều phẩm chất khác: trình độ
văn hoá (văn hoá theo nghĩa rộng, chứ không phải bằng cấp của người đi học),
khả năng vừa đi vào đời sống vừa đơn độc suy nghĩ, thậm chí không ngại dấn thân
vào những khu vực thoạt nhìn tưởng là trừu tượng siêu hình, nhưng nằm trong bản
chất của sự sống, những điều hình như không dây dưa gì đến đời thường, nhưng
một lúc nào đó, những người bình thường lại rất cần.

 Tóm lại, cần tạo ra những nhân cách lớn, mà
phần vốn liếng tinh thần bao gồm cả quan sát thể nghiệm lẫn kiến thức do sách
vở mang lại, từ đó có thói quen sống làm việc của một trí thức.

Chỉ
những người như thế mới có khả năng vừa nói một cách bao quát về đời sống, vừa
nâng người đọc lên tầm tư duy mới.

Đó cũng là những người dám lên tiếng về các vấn
đề lớn lao của nhân dân đất nước và khi cần, lấy uy tín danh dự của mình ra,
bảo đảm cho điều mình nói.

Cái
cốt cách trí thức ấy cũng chính là tiền đề gốc, để tạo ra những giá trị có tính
chất nhân bản sâu sắc.

Thiếu lý tưởng nghề
nghiệp, thiếu cốt cách trí thức
, -- đây có phải căn bệnh có thật của những
người viết văn hôm nay không, thậm chí nếu có thì  nên gọi là bệnh hay là quan điểm thực tiễn
cần thiết, một điểm đáng tự hào, xin các bạn đồng nghiệp cùng bàn.

Phần
chúng tôi, xin thú thực là trước khi nêu ý kiến này, đã phải phân vân rất
nhiều, cầm bút viết ra mà cứ cảm thấy ngần ngại.

Đúng
là khi đã vào sâu nghề nghiệp, trong thâm tâm nhiều người cũng thấy phải phấn
đấu để tạo ra cốt cách cho ngòi bút của mình. Phải học thêm, trau dồi bản lĩnh thêm.


Tự
đào luyện thành một trí thức chân chính, cái điều ấy càng ngày càng hiện lên
như một mơ ước.

 Có điều trong những ngày gạo châu củi quế, văn
hoá tiêu dùng tràn lan này, cái chuyện đó xa vời quá, bàn tới không được, nói
ra e thành chuyện lạc lõng.

Nhưng
có cái lạ ở những người viết văn là những nét tâm lý đáng sợ sau đây: khi không
thể làm, thì coi là việc không cần làm.


nếu mình không làm được mà người khác có ý muốn làm thì ra công khích bác, chế
giễu.

-Thời
buổi này còn nói chuyện trí thức ư? Cũ rồi, lỗi thời rồi!

-
Lại muốn chơi trội ư? Lại muốn theo kiểu thơ văn hũ nút ư?….

Những
lời châm chọc tương tự đã giết hại bao mầm mống tốt đẹp ở những người toan đi
vào con đường tự rèn mình, những mong mang lại cho nghề văn một ý nghĩa cao quý, như một thiên chức tốt đẹp.

Ấy
là không kể có những nhà văn nhà thơ đàn anh từng được đào tạo kỹ càng, giờ vẫn
chịu khó làm nghề, chịu khó học hỏi, có thói quen làm việc của những trí thức,
nhưng đôi khi cũng vô tình hay cố ý hùa theo mọi người, bỉ bác những tìm tòi
học hỏi của các bạn trẻ.

Việc
hùa theo một cách vô trách nhiệm này lâu ngày ở các vị ấy trở thành một thứ
thói quen nhắc đi nhắc lại không biết nhàm chán đến mức người ta có thể tự hỏi:
hay là các vị ấy có tri thức rồi thì
không muốn ai có nữa, thậm chí muốn nghề văn của ta càng lạc hậu càng tốt, nhân
cách anh em chung quanh càng kém đi thì nhân cách các vị ấy càng đẹp đẽ hơn lên


Dù là động cơ nào đi nữa thì lối ứng xử này cũng rất nguy hiểm.




                                              III

Không
lo rèn luyện về mặt nghề nghiệp, không tự cảnh tỉnh và hướng suy nghĩ vào cuộc
tìm tòi hoàn thiện của người trí thức, thế các nhà văn  -- tôi không nói tất cả, nhưng ngờ rằng không
ít nhà văn ở ta - hướng năng lượng, hướng nhiệt tình đời sống của mình vào đâu?

 Xin thưa: hướng đi làm quan.

 Câu trả lời nghe có vẻ lạ tai nhưng lại là sự
thật mỗi ngày mỗi hiển hiện rõ rệt.

Xưa
kia, dưới thời phong kiến, nhiều nhà nho có tâm huyết đã ra làm quan rồi, thậm
chí đã hiển đạt lắm rồi, thượng thư, tổng đốc hẳn hoi, nhưng vẫn canh cánh bên
lòng một nỗi buồn cảm thấy mình rơi vào vòng ô trọc, và dồn cả tấc lòng mình
vào những câu thơ tâm sự mà lúc viết ngỡ rằng có thể không ai biết tới.

Trong
lòng các ông quan ấy vẫn còn những thi sĩ chân chính.

Nay
thì hình như mọi chuyện xảy ra theo chiều ngược lại, người ta thích làm quan
ngay trong giới của mình, một sự lạ lùng, vậy mà, oái oăm thay, lại là điều có
thật.

Trong
bộ máy hành chính của ta, Hội nhà văn chỉ là một cơ quan nhỏ, cỡ ngang một vụ,
quyền lợi hình như không có gì béo bở lắm. 

Nhưng
như mấy câu thơ tức cảnh của Nguyễn Gia Thiều:

Vẻ
chi tèo teo cảnh


Thế
mà cũng tang thương


ở đây cũng vẫn có đủ những căn bệnh mà xã
hội ta đang có.

Cái
ham muốn làm quan đó diễn ra dai dẳng hàng ngày lại càng nồng nã quay cuồng
trong lòng người ta trước những sự kiện như một kỳ bổ nhiệm, một đợt đại hội.

 “Lâu nay nhiều người chúng ta đến đại hội,
điều đầu tiên là xì xào xem ai vào chấp hành “.

Một
nhận xét như thế không làm ai bận tâm vì nó là chuyện đương nhiên. Sở dĩ người
nào cũng ngong ngóng nhìn vào chỗ ấy, vì quả thật, theo cách tổ chức như của
chúng ta, một chức vụ trong Hội  bảo đảm
cho người ta nhiều thứ lắm.

Một
người phụ trách nếu biết tận dụng quyền lực sẽ có thể in sách ào ào vì Hội có
nhà xuất bản riêng. Sách ra rồi sẽ có báo của Hội ca ngợi tâng bốc. Các hội
đồng thì đề nghị tặng thưởng. Các cơ quan đối ngoại thì gợi ý Hội bạn bên Liên xô bên Đông Âu nên dịch
nên in…

Hồi
còn bao cấp, quyền lợi lớn kiểu vậy đó. (Về sau lại lớn theo cách khác, lớn theo mức độ chi trả và những phụ cấp đi kèm   -- phụ mà lớn gấp nhiều lần lương chính) !


thể so với "quan chức" ở các ngành khác, quyền lợi của các "quan
chức" trong giới cầm bút chả mùi mẽ gì!

Nhưng
"quan chức" trong văn nghệ có cái thú là nhàn thân và có một lớp vỏ
rất đẹp đẽ.

Trong
lúc làm "quan", người ta có thể tự an ủi: 

 Ta vẫn là người
lao động cơ mà…

Do
ta viết hay nên sách được tái bản và nước ngoài cho dịch…

Họ
không viết hay bằng ta nên họ tị nạnh…

Cái
lý để tự biện hộ khéo léo đến như thế, thì sự hấp dẫn của quyền lực chỉ càng
thêm mạnh mẽ!

Cũng
do chỗ được một hình thức màu mè che đậy, nên chủ nghĩa quan liêu có nhiều biến
dạng cụ thể, tạo nên một sức quyến rũ .

 Người xưa nói tu tại gia, còn trong giới chúng
ta có lối vụ tiếng tăm nhất thời, thực chất cũng là làm quan mà lại không có
chức tước nào, chỉ có sự thiêng liêng của nghề văn bị đánh tráo và bị lợi dụng.


ta, danh nghĩa hội viên Hội nhà văn khá quan trọng, và đó là một quan niệm được
hình thành trong một thời gian vài chục năm (lưu ý là  thời tiền chiến vàng son với Tự
Lực văn đoàn và nhóm Tân Dân kéo dài chỉ hơn chục năm) -- nên khá bền chắc
trong lòng người.

Trong
khi kiếm sống bằng nhiều nghề khác, 
nhiều người vẫn tìm đủ cách để xin vào Hội, và hay oán thán rằng Hội
không mở rộng cửa đón mình.

--Lại
cốt vào để dành quyền lợi, một ít tiền trợ cấp, một suất vé đi tham quan, đi
họp ở nước ngoài chứ gì?

 Một số người khinh bạc dè bỉu.

Cái
đó theo tôi có, nhưng không phải tất cả.

Công
bằng mà nói, phải thấy nhiều người có động cơ trong sáng, muốn vào Hội vì nghĩ
rằng có xuất hội viên nghĩa là tài năng được khẳng định, là có được một vị trí
nghề nghiệp vững chắc. Nhưng với tư cách là một hội viên vào hội từ 1977, tôi
cũng xin được phép thú nhận một suy nghĩ khác:

Cái
đích của việc viết văn cao đẹp hơn nhiều.

Sự
công nhận của những người đương thời, kể cả những người cùng giới, rất cần cho
mình, nhưng suy cho cùng, vẫn không phải là bảo đảm chăc chắn cho những gì mình
đã và sẽ viết ra.

Xưa
nay, trong lịch sử, đã có bao nhiêu trường hợp một nhà văn được người đương
thời đưa lên tận mây xanh, sau không ai biết tới nữa.

 Vậy thì dù rất quý những lời động viên nhau,
chúng ta cũng nên nhìn sự đời nhẹ đi một chút, và chính các nhà văn phải đi đầu
trong việc này, thành thực, biết điều, thận trọng.

Sở
dĩ, một số anh em mới viết đôi khi cay cú với chuyện vào hội vì chính các hội
viên cũ đầu têu gây ra một thứ danh hão.

 Trong thâm tâm những hội viên ấy không khỏi
cảm thấy (và qua giọng nói tiếng cười cho người ta cảm thấy) mình là một cái gì
đã thành rồi, đã liệt hạng rồi, có ngạch có bậc rồi.

 Đây chính là chủ nghĩa quan liêu thông thường,
một thứ tâm lý quan liêu bắt rễ vào suy nghĩ trong số đông .

Từ
chỗ cần khẳng định vị trí và thành tựu của văn học cách mạng, chúng ta đi dần
tới chỗ khuếch đại đóng góp của từng người.

 Tự chúng ta làm, rồi lại tự chúng
ta khen nhau. 

Văn thơ chúng ta in trên báo chưa ráo mực nhiều khi đã vào thẳng
sách giáo khoa.

Trong các sách văn
học sử, chúng ta dành chỗ cho thời hiện đại quá nhiều;  dù cố ý hay vô tình thì cũng là cách vĩnh
viễn hoá những tên tuổi hiện thời, xếp mình và bè bạn mình bên cạnh những đấng,
những bậc kỳ cựu trong quá khứ đã chịu nổi thử thách của thời gian. Đấy là một
thứ tự đầu độc rất có hại cho sáng tác
.

Sinh
thời, nhà thơ Xuân Diệu là một người lao động rất cần cù, ngay khi tuổi đã cao,
ông vẫn hàng ngày đánh vật với trang giấy trắng, luôn luôn dốc sức làm những
công việc lâu dài mà khi có dịp xuất hiện trên báo chí cũng không bỏ qua bao
giờ.


điều, đối với nhiều anh em làm biên tập ở các báo, nhà xuất bản, tức cánh ở
trong bếp núc nghề văn như chúng tôi, Xuân Diệu thường hiện ra với một chỗ yếu
không thể khắc phục, đó là ông rất sợ người ta quên mình, lâu không mời ông
viết là ông không bằng lòng, trong một "bảng vàng danh dự" nào đó
(nhiều khi chỉ là một danh sách đưa ra ngẫu nhiên, trong một bài báo nhỏ) mà
thiếu tên ông là ông cự ngay.

Sự
hiếu danh ở Xuân Diệu rất thành thực, khiến không ai nỡ giận ông.

Chúng
tôi cũng hiểu, trong đời tư, ông rất đơn độc, nên luôn luôn cần được bù đắp,
muốn mình luôn luôn sống với văn học, sống với mọi người.

 Song nghĩ đến việc một nhà thơ thuộc loại dẫn
đầu cả một nền thơ, mà luôn luôn sợ người ta quên, sợ người ta xếp lầm chỗ mình
như thế, chúng tôi cứ thấy có gì tội nghiệp, lại cứ thấy tiếc cho ông.

Mặc
dù đã có gan bỏ hết các chức tước để chỉ dồn sức vào các trang viết, Xuân Diệu
vẫn bị mấy chữ tiếng thơm trói buộc, và điều đó đã kìm hãm ông, không cho phép
ông tập trung làm việc, nhất là không cho phép ông phiêu lưu tìm kiếm, như nghề
văn vốn đòi hỏi.

Trường
hợp Xuân Diệu thật ra chỉ là một ca điển hình, căn bệnh trên đây ít
nhiều có trong mỗi chúng ta.

Do
ảnh hưởng của một thứ chủ nghĩa tập thể thô thiển, ta quan niệm rằng sự đánh
giá của số đông về từng cá nhân bao giờ cũng chính xác và nhất thành là bất
biến, và thuộc về lịch sử. 

Ta đâm ra sợ hãi khi có vẻ ra ngoài thông lệ, không theo lối nói, lối ứng xử của chung quanh
và chỉ hoàn toàn yên tâm khi thấy mình nói chung cũng giống như mọi người, rồi
trong khuôn khổ cái chung ấy, nhích được một chút hơn mọi người thì hí hửng,
sung sướng.

 Cái tâm lý bầy đàn này - ở Liên Xô cũ người ta
gọi như thế - vốn đã đi ngược lại bản chất con người nói chung, lại càng là
không thể chấp nhận được với những ai làm nghề sáng tạo, bởi nó không tạo được
sự đơn độc tinh thần vốn là cần thiết với những công việc lớn.

Để
khắc phục chỗ yếu này, trước hết cần có sự cởi mở về quan niệm.

Cái
mới nào khi mới ra đời chẳng đơn độc, thậm chí là thiểu số nữa.

 Nếu cứ lấy đa
số ra mà áp đặt thì trong nhiều trường hợp, không có được cái mới thực sự.

 Muốn
có được cái mới, chủ quan từng người phải có sự kiên trì mà chung quanh phải có
sự thông cảm.

Trong
nền văn học ta sau Cách mạng, đã có những trường hợp do người viết có được
ngoan cường chỉ là mình, dám là mình, mà một phong cách được hình thành. 

Đó là, chẳng hạn, những trang văn xuôi của Nguyễn Khải, một cách nhìn đời sống
ban đầu bị bao người kêu là độc ác, tàn nhẫn, nhưng khi quen rồi, lại cho là
sắc sảo, biết phát hiện.

 Đó là, chẳng hạn, thơ của Nguyễn Đình Thi, thứ
thơ có một thời bị mang ra phê bình cho là yếu đuối, xa lạ với quần chúng
(chúng tôi còn được nghe kể là có một câu phê phán rất cô đọng "Anh không khóc nhưng những chữ của anh nó
thút thít"
), nay đối với chúng ta lại là một thứ thơ có chiều sâu nội tâm
và  một cách tân về giọng điệu trong thơ.

 Hoá ra, chưa nói đâu xa, ngay ở các bậc đàn
anh hôm nay đang viết, cũng đã có những bài học quý, các anh đã nêu gương dũng
cảm tìm tòi, đi ngược lại sự công nhận nhất thời của số đông để tìm tới giá trị
lâu dài hơn cho tác phẩm của mình.

Tôi
không rõ là tại sao các anh thường quên không dặn dò lớp người sau dũng cảm,
dám đơn độc tìm tòi, mà thường chỉ nhắc chúng tôi là lắng nghe chung quanh, hoà
hợp với phong trào và khi xem xét các tác phẩm mới viết ra, các anh cũng chỉ
lấy sự công nhận của số đông ra làm tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá.


Trong
một hoàn cảnh như thế, dĩ nhiên, cái tâm lý quan liêu nói trên - thích danh
tiếng, thích xác định "địa vị lâu dài" trong văn học, hợm hĩnh một
cách nông nổi - tha hồ lây lan như một thứ dịch bệnh, đời sống văn học có lúc
chỉ còn cái vẻ nhộn nhịp bề ngoài mà thiếu sự âm thầm kiên nhẫn tìm tòi.

Lấy
cái nhất thời để đánh giá nhau hoặc chê bai nhau, chúng ta tự làm yếu mình đi
rất nhiều và đến khi làn sóng văn hoá tiêu dùng lan tới, thì nhiều người bó gối
quy hàng.

Trước
khi mất, nhân chuyện Nguyễn Đình Thi đề nghị cấp trên đừng phát động quần chúng
đi vào đổi mới,  Nguyễn Minh Châu có nói
với Nguyễn Đăng Mạnh: "Nhà văn mà sợ dân chủ thì không thể hiểu
được".

Mượn
cách nói đó cũng có thể nói nhà văn mà chỉ  biết có tiếng thơm đương thời (tôi nhấn mạnh chữ
chỉ), mà chỉ đánh giá nhau theo số lượng trang viết, số cuốn được
làm khi in tuyển tập, số bài phê bình tâng bốc và số tiền đút túi nhất là tiền
ngoài sáng tác… thì cũng không thể hiểu được.

 Nhưng đó là một nét tâm lý đang phổ biến và
càng ở những lớp người sau, cách biểu hiện càng trâng tráo.







Bài viết ban đầu định dùng làm tham luận 

trong Đại hội nhà văn VN lần thứ ba 1989,

 nhưng viết xong bản thân tôi thấy không nên gửi Đại  hội

 vì tin rằng có gửi cũng không được đọc

 đọc cũng chẳng ai nghe. 




Sau bản in báo , đã in
lại trong tập 
Những kiếp hoa dại,
1993



Có một số sửa chữa nhỏ trước khi in trên blog lần này.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 21, 2013 01:39

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.