Vũ khúc không buồn mà tê tái

Luôn luôn, người ta có thể đọc ra
những buồn vui của cả kiếp người,


qua những buồn vui của một đời văn




Ai bảo nghề văn là khổ? Cứ xem như
đời anh L., một người bạn vong niên của tôi, thì sướng lắm chứ. Hãy nói một
chuyện: sự hưởng thụ. Thời ấy đồng bạc có giá, lương anh đã rủng rỉnh. Vậy mà
luôn luôn còn có nhuận bút. Những quyển sách trên trăm trang của anh in ra,
thường được tính hàng cây. Cái xe đạp quý như cái cúp bấy giờ, mỗi lần sách in
đều thừa sức để mua.
Thuở ấy, nhà văn được trọng vọng. Anh nổi tiếng. Anh luôn
được mọi người nhắc nhở. Nhiều cơ sở - các nhà máy, các đơn vị quân đội - chèo
kéo mời mọc anh. Mà anh bạn tôi lại có lối chơi rất sang. Người ta mời anh đến,
cốt để lấy tiếng, về có viết gì cũng phải khen. Nhưng L. không bao giờ chịu xu
phụ, trả nghĩa cái nơi đã cung đốn cơm rượu. Anh viết “khái quát”, anh “đặt vấn
đề “ hẳn hoi. Người được viết thì chán, nhưng người đứng ngoài thì thích. Cả
giới viết văn cũng thích. Mọi người thấy thơm lây vì anh. Người ta bảo trong sự
vận động tiến lên của xã hội, có vai trò của anh, sự đóng góp của anh nữa.

Giá kể cuộc sống cứ như thế mãi thì chưa chắc đã vui, hoặc mới vui một kiểu. Mà
gì thì gì, chứ vui mãi một kiểu, dễ sinh nhàm chán! Đùng một cái thời bao cấp
qua đi, cả xã hội chuyển sang kinh tế thị trường, mà ngành sản xuất văn chương
của chúng tôi cũng rập rềnh lên xuống theo cơ chế thị trường. Cái hình ảnh có
thể dùng để so sánh: từ gà công nghiệp, gà chỉ nuôi trong chuồng, chúng tôi trở
thành đám gà nhà, gà ta, tự đi kiếm lấy mồi mà ăn. Để bù lại, không khí sáng
tác trở nên cởi mở hơn hẳn. Những điều trước kia chỉ anh L. mới biết, thì bây
giờ cả làng biết. Vui vầy, hỗn loạn, bảo thế nào cũng được.

Trong cuộc thập tự chinh của giới viết văn để lo kiếm sống hôm nay, dĩ nhiên là
vẫn có anh bạn tôi, anh L. một thời nổi tiếng sắc sảo đó. Anh cũng phải lăn lộn
với các báo cũng chạy đôn chạy đáo nơi này nơi nọ lấy mấy trăm ngàn mỗi tháng
nuôi vợ con. Ban đầu, kể cũng ngại. Anh thử kêu rên. Anh đã thử làm phách như
cậu Phước trong Số đỏ, đập chân đập
tay em chã, ra đều tôi mà phải lo từng bữa thế này à, thôi tôi không viết nữa,
hỏng hết rồi còn gì. Mặc! Chả thấy ai động lòng. Thảng hoặc cũng có vài người
động lòng, song họ cũng nghèo như anh, chả cứu được anh. Kêu mãi chán, anh lại
cum cúp lo viết, lôi mọi chuyện cũ ra viết.


Nhìn nụ cười đôi khi như đã heo héo
ngay trên miệng anh, tôi biết rằng tận trong thâm tâm, anh đau khổ lắm. Và hình
như có cả chút hối tiếc nữa. Hối rằng có lúc đã cổ động cho sự nhộn nhạo hôm
nay. Giá kể cứ để tất cả đi bằng tay có phải mình khéo nhất hội không; nay đến
lúc đi bằng chân như thế này mọi người già trẻ lớn bé đều biết đi, mà mình thì
cũng nguệnh ngoạng chẳng hơn gì ai cả.

Nỗi đau của một cây bút từng biết rằng chỗ mạnh của mình là luôn
luôn đi trước mọi người
là ở cái thế khó chịu bất ngờ. Anh bị mọi người  nhìn bằng con mắt cá mè một lứa.

Mỗi lần nhìn lại cuộc đời viết văn
của người bạn vong niên -- mà bản thân tôi từng chịu ơn rất nhiều này --, tôi
như có dịp nghĩ thêm và thấm thía thêm về duyên nợ nghề nghiệp. Đứng ngoài
nhìn, nghề này đâu có buồn! Hôm qua rước sách tưng bừng hoan hỉ đã đành, mà
cảnh cả giới bì bõm chìm nổi như hiện nay chắc cũng làm bật cười cho ai đó
ngoài giới. Và, những vụ làm ăn những sự xoay sở, những thành bại của mỗi người
thì trở thành đề tài cho chuyện đàm tiếu của các đồng nghiệp, buồn làm sao
được?

Nhưng có lẽ, dưới một góc độ khác mà
xét, ở đây luôn luôn có chút thê thảm. Người hăng hái đi trước có lúc phải hối
hận; kẻ báo trước sự nhộn nhạo, mà lúc nhộn nhạo đến, mọi người hái ra tiền ra
bạc, còn bản thân lại nhếch nhác như vậy, nhếch nhác hơn cả hôm qua nữa - nhìn
cả vũ khúc đời văn, chẳng là tê tái hay sao? Lại còn buồn tê tái hơn, nếu trí
nhớ kha khá một chút, người ta nhớ được những cuộc tranh cãi bấy lâu về sứ mạng
nhà văn. Người bạn đời của J. P Sartre là S. de Beauvoir từng có lần than thở
đại ý: “Thật không thể ngờ là nghề văn có lắm ý nghĩa đến thế, trong khi nó chỉ
có thế!”.



In lần đầu trong  Những kiếp hoa dại,1993








  Viết thêm 25-11-2013

Nguyên do dẫn đến bài phiếm luận
về Nguyễn Khải này là ở một ít  điều tôi quan
sát được về ông những năm khoảng 1979-1986.

 Nguyễn Khải là người sớm truyền cho tôi niềm
tha thiết với sự đổi mới văn chương. Ông đọc nhiều và hay kể lại với tôi về văn
học nước ngoài Tất cả những cái  đó gộp
cả lại khắc họa trong tôi một định nghĩa văn học là thế nào, cái mà các nhà văn
đích thực muốn viết cần phải như thế nào.

Nhất là những chuyện ông biết về
giới cầm bút đương thời – nhiều khi là những chuyện rất khỉ gió như chữ của ông vẫn dùng – loại này càng thức dậy
trong  tôi một ám ảnh. Chúng ta đã sống
và viết chẳng ra làm sao cả. Cái mà chúng ta viết ra không phải là văn học.
Chúng ta sẽ phải viết khác.

Hoàn cảnh đổi mới đã tới. Đó là
những ngày sau chiến tranh khi xã hội cảm thấy cần phải sống khác đi về tất cả
mọi phương diện.

 Trong văn học từ sau 1975, có hai cao trào,
hai cái mốc đáng kể, 1979 và 1986.

Sẽ chẳng có gì lạ lùng khi thấy
trong cả hai lần ấy Nguyễn Khải sát cánh với Nguyên Ngọc trong việc làm thủ
lĩnh cho đổi mới.

Rồi cả hai lần ông thoái lui.

Chẳng những thế, trong những năm
tiếp theo, ông tham gia vào việc phủ định ngay con đường mà ông vừa tham gia
vào việc khai phá, phủ định một cách ác liệt. Tại sao ?

Tôi thấy ở đây rõ nhất là cái nguyên nhân này: tình hình xã hội nói chung.
Tình hình chưa cho phép thay đổi.

 Xưa nay vẫn thế, Nguyễn Khải sống và viết bằng
một sự tinh nhạy đặc biệt.  Luôn luôn ở
ông giữa sự cảm và sự viết có khoảng chênh lệch. Khi cảm thấy điều gì làm được
ông làm ngay. Nhưng khi cảm thấy không thể làm được, ông buông ngay.

Có phải từ giã chính mình, ông
cũng không cần.

 Bởi Nguyễn Khải sớm
có một vị thế đáng kể, và sự tha thiết với đổi mới của ông trước đó cũng rõ
quá, nên khi thấy Nguyễn Khải trở cờ, người ta oán trách ông. Song nên biết là sự không nhất trí, sự tự mâu thuẫn vốn là bản chất con người nơi ông. Miễn sao ông được
hành động, được viết, được đứng ở hàng
đầu, ngoài ra thì mọi điều kiện đặt ra cho 
ông thế nào ông cũng chịu được.




Còn nhớ hồi trước 1975, có một hồi Nguyễn Khải rất mê tử vi.
Ông đã từng theo nhà văn Hà Ân lần mãi tới chỗ nhà tử vi Hùng Văn, và được phán
một câu nhớ đời — mệnh vô chính diệu đắc
tam không
. Nguyễn Khải thú với câu ấy lắm. Thú ở chỗ nó nói đúng rằng ông không bị ràng buộc
bởi bất cứ điều gì cả.




--Tôi hoan nghênh cả sự kiên cường của anh Ngọc lẫn cả sự
chạy làng của anh Khải.

 Khi nhớ tới tình hình
sau Hội nghị Đảng viên 1979, tôi hay nhớ 
câu nói ấy của Nguyễn Minh Châu. Hình như tác giả Dấu chân người lính muốn
nói rằng “ông nào tôi cũng thấy có lý”.




Còn một nguyên nhân nữa dẫn đến sự đổi mầu ở Nguyễn Khải, mà
như bài trên, tôi thử phác họa. Là sang thời buổi hỗn loạn này, nhất là mấy năm
đầu, Nguyễn Khải thấy kiếm sống khó quá.

 Hồi ấy, nhà nước còn
chưa biết cách tung ra thật nhiều tiền để nuôi béo những kẻ ngoan ngoãn, nói
theo chữ các cụ xưa là chưa có biết phóng
tài hóa thu nhân tâm
như bây giờ.

 Các công thần có lúc
rất khổ. Tôi ở Moskva xa xôi mà cũng nghe được một câu của Nguyễn Khải do anh
em đồn sang:

-     
Tôi không viết được dâm như Kim Bình Mai. Tôi không viết được ác như
Bố già. Giờ tôi phải sống sao đây.

  Lần ấy tôi còn phát hiện ra một điều. Xưa nay
làm nũng là cái tính của những cậu con quan mà Nguyễn Khải rất ghét. Thì nay
lại thấy thò ra ở ông. Từ đó tôi hiểu rằng những khó khăn trước mắt là điều quá
sức với tác giả Tầm nhìn xa, Chiến sĩ.
Bao lâu nay được chiều chuộng và tôn sùng, ông không còn đường để trở về với
mọi người cầm bút bình thường.

Người ta kể rằng ở Nhật, các họa sĩ khi về già rất thích thể
nghiệm, rồi đổi tên ký dưới bức vẽ, cho người mang ra chợ tranh bán, xem sự đón
nhận của công chúng đến đâu. Ở Việt Nam không có loại nghệ sĩ như thế.




Hàng ngày Nguyễn Khải là người không biết buồn là gì. Cái
cảnh bùi ngùi và bế tắc mấy năm ấy ông chịu sao nổi.

 Những điều tôi nói ở trong
bài này đến với ông rất nhanh và rồi cũng qua đi rất nhanh.

 Giá trị bài viết
trên đây của tôi chỉ là ở chỗ nó ghi lại một chút tê tái mà trong những phút
yếu đuối, ông đã có dịp bộc lộ, nhưng rồi sẽ coi như một đứa con hoang, không
muốn nhìn nhận, thậm chí ai đó nhắc lại ông sẽ khó chịu.



 Nhưng riêng đối với
tôi, cái tâm cảnh ấy ở ông một lần quan sát được vẫn làm tôi nhớ mãi và mỗi khi
cần nói về Nguyễn Khải, vẫn muốn trình lại với độc giả.

 Điều khiến tôi tự tin
là ở đây, tôi không chỉ nói về một người, mà đã nói về cái lý do chi phối hành
động của nhiều người cầm bút thời chúng ta sống.

 Nhiều khi những vui buồn yêu
ghét, cả những niềm tin chính trị mà mỗi người đặt cả đời mình vào, tưởng là do
những nguyên nhân ghê gớm đâu đâu, hóa ra lại chỉ phụ thuộc vào cái nhu cầu ngấm ngầm mà
chúng ta vốn giấu kín tận đáy lòng, - đó là nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu muốn
 khôn ngoan sắc sảo nổi trội hơn so với
đồng loại.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 26, 2013 01:05
No comments have been added yet.


Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.