Vương Trí Nhàn's Blog, page 74
May 13, 2014
Truyền thông trong một xã hội tiểu nông
Rửa hờn của Nam Cao
(Tuyển tập Nam Cao bản của NXB Văn học in 1987, tr 424) viết về
cuộc hiềm khích kèn cựa giữa hai vị tai to mặt lớn làng nọ. Một bên là lý
Nhưng, một bên là khóa Mẫn.
Kẻ thứ nhất -- người xưa gọi là lý đương -- là một
thứ đang có thực quyền.
Nhưng kẻ thứ hai cũng không phải chân trắng.
Gọi là
khóa Mẫn tức ông ta thuộc loại có học và sự học được cả cộng đồng làng xóm công
nhận. Làng xóm xưa cho phép loại người như ông ta len vào bộ máy cầm quyền và bằng
những cách khác nhau tác động tới sự vận hành của bộ máy này.
Họ kiện
nhau đến vong gia bại sản.
Ban đầu cái cớ chỉ là chuyện nhà chức trách (tức
lý Nhưng) tống tiền ăn bẩn. Chuyện lan ra. Bàn dân thiên hạ đều khinh ghét.
Sau khi nghe ngóng tình hình thấy việc xấu của mình làng xóm đã hay
biết, Lý Nhưng liền cho rằng tất cả là từ khóa Mẫn. Hẳn là lão này không được
ăn thì đạp đổ!
Cứ thế người nọ ra đòn trị, người kia báo thù, cả hai ngày mỗi
lút sâu vào cảnh thân bại danh liệt.
Cường hào nói ở đây là kẻ có quyền chứ không phải chỉ là địa chủ tức kẻ có đất .
Từ thế kỷ
XV, Lê Thánh Tôn đã có chỉ dụ về quản lý làng xã, trong đó "cường hào thao túng, phong tục kiêu bạc, dân sinh đau khổ."
Sang thời Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đã có 107 lần chép về tệ nạn này . Trong một tờ sớ gửi vua Minh Mệnh, Nguyễn Công Trứ viết: "Cái hại quan lại là một hai phần mười, cái nạn cường hào đến tám chín phần mười "(Dẫn theo Bùi Xuân Đính, Cái nạn cường hào thời phong kiến )
Thời tiền chiến, trong khi Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố viết nhiều về quan hệ kinh tế giữa địa chủ và nông dân thì Nam Cao là người chú ý tới cả bộ máy quyền lực ở nông thôn, nó chi phối mọi hoạt động và làm biến dạng cả số phận lẫn mày mặt của con người.
Ngoài Chí Phèo, chủ đề cường hào còn được
tác giả Nam Cao đả động tới trong Nửa đêm, Đôi móng giò …
Riêng Rửa hờn nói ở đây đi vào khía cạnh
bọn cường hào thù nhau, hại nhau ra sao.
Rửa hờn lại còn là một bằng chứng về các vấn đề có liên quan tới thông tin ở làng xã xưa.
Vụ Lý
Nhưng bục ra từ một cái trần ngôn
--Trời ơi có thấu tình chăng
Một con mẹ đẻ mấy thằng ăn no
Ai về tôi gửi cái mo—
Lý Nhưng có thiếu thì cho mà
dùng
Lý Nhưng ơi hỡi Lý Nhưng
Tưởng là ông hóa ra thằng ăn dơ.
Trần ngôn
(trần ở đây có nghĩa là bộc lộ, bày tỏ) chẳng qua chỉ một thứ vè viết lên giấy dán ở cửa đình.
Nhưng chẳng phải bước đầu
nó đóng vai trò một thứ báo chí theo nghĩa hẹp nhất, một thứ sách trắng? Một mô
hình có từ thời làng xã, được tiếp nối khi văn hóa phương Tây tràn vào?
Xã hội lúc ấy đã hình thành một nhu cầu là phải có những thông tin về chính
mình.
Có điều
loại truyền thông tự phát này dù dưới dạng truyền khẩu hay đã viết ra đều ở tình trạng ấu trĩ. Nó giống như một khoảng trắng, ai muốn bôi bẩn thế nào cũng được.
Thiếu sót rõ nhất của những lời đồn thổi, là người ta không sao xác minh được
rõ ràng. Tự nhiên nó lại dễ trở thành công cụ để người ta hại nhau.
Sự phát
ngôn của số đông người trong các “ hương đảng tiểu triều đình “ vậy là
chưa trưởng thành đã tha hoá.
Nó sớm là đất để
bọn cường hào tha hồ thao túng.
Phải còn rất lâu, rồi một dư luận lành mạnh sáng suốt mới có thể
xuất hiện.
Không
phải ngẫu nhiên lại xảy ra tình hình ấy.
Xã hội nào thông tin vậy. Xã hội lúc đó quá trì trệ. Đã tồn tại dai
dẳng cả một cơ cấu bùng nhùng, cộng đồng thì vật vờ xiêu vẹo mà cá nhân cũng
chưa thành hình.
Người ta không có ý
niệm chắc chắn về sự cùng sống cùng tồn tại. Rất khó khăn là việc hình thành cho
được những chuẩn mực chung. Các quy phạm
xử thế quá tùy tiện, ai mạnh áp đặt thì cộng đồng phải theo. Con người chỉ lấy
việc chiều chuộng bản năng làm hứng thú.
Cả xã hội như chìm trong bóng tối. Trong
bóng tối người ta vừa thờ ơ lảng tránh nhau lại vừa dòm hành soi mói nhau, đồn
thổi về nhau, tung tin hại nhau, nghĩa là lợi dụng bóng tối đó mưu lợi riêng.
Một cách gián tiếp, mọi người thầm mong bóng tối kéo dài mãi.
Đây là một
thực tế nối tiếp trong lịch sử. Sách Tục
lệ cổ truyền làng xã VN kể rằng ở
hương ước nhiều làng có ghi rõ đàn ông cũng như đàn bà khi gặp viên quan sai
trên phái về hỏi, thì việc gì cũng phải bảo là không biết. Nếu máy mồm trả lời,
“bản xã phát hiện ra sẽ phạt nặng “.
Ấn tượng
chung như vậy là sự bưng bít. Một cái gì chỉ mới gần giống dư luận, mà đã bị
chặn từ trong trứng, tại sao ? Bởi người ta thừa biết người ta xấu, nên phải
chặn.
Có thể làm
cách nào để thay đổi việc này không ? Có cách nào để thông báo về những bất
công sai phạm? Người xưa đã định làm
thử, mà làm hẳn trên phạm vi rộng.
Sách Việt
sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng kể thời Trịnh Doanh chúa đã cho đặt một ống đồng ở cửa phủ
ai có việc gì oan khuất, hoặc thấy ai hư
hỏng -- nhất là quan lại tham nhũng --,
thì viết thành thư bỏ vào đó, cứ năm ngày một lần trình lên chúa.
Nhưng sau xem lại người ta
ngớ ra phần lớn những lời kêu oan và tố cáo là không đúng, nên hình thức này bị
bỏ luôn. Tức là người dân đã làm hỏng luôn cơ hội có một dư luận sáng suốt của
cộng đồng mình.
Thiên truyện của Nam Cao có một cái kết ngồ
ngộ.
Cuối truyện, Lý Nhưng bại nên ức lắm, tìm bằng được mộ tổ nhà khóa Mẫn đái
vào một bãi thì mới yên lòng. Đọc lên con người ngày nay không khỏi cười thầm.
Trong tình trạng dân trí và quan trí như thế thì cái làng
Vũ Đại ấy còn hy vọng gì vào việc thay đổi nữa!
Đã in Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
(Tuyển tập Nam Cao bản của NXB Văn học in 1987, tr 424) viết về
cuộc hiềm khích kèn cựa giữa hai vị tai to mặt lớn làng nọ. Một bên là lý
Nhưng, một bên là khóa Mẫn.
Kẻ thứ nhất -- người xưa gọi là lý đương -- là một
thứ đang có thực quyền.
Nhưng kẻ thứ hai cũng không phải chân trắng.
Gọi là
khóa Mẫn tức ông ta thuộc loại có học và sự học được cả cộng đồng làng xóm công
nhận. Làng xóm xưa cho phép loại người như ông ta len vào bộ máy cầm quyền và bằng
những cách khác nhau tác động tới sự vận hành của bộ máy này.
Họ kiện
nhau đến vong gia bại sản.
Ban đầu cái cớ chỉ là chuyện nhà chức trách (tức
lý Nhưng) tống tiền ăn bẩn. Chuyện lan ra. Bàn dân thiên hạ đều khinh ghét.
Sau khi nghe ngóng tình hình thấy việc xấu của mình làng xóm đã hay
biết, Lý Nhưng liền cho rằng tất cả là từ khóa Mẫn. Hẳn là lão này không được
ăn thì đạp đổ!
Cứ thế người nọ ra đòn trị, người kia báo thù, cả hai ngày mỗi
lút sâu vào cảnh thân bại danh liệt.
Cường hào nói ở đây là kẻ có quyền chứ không phải chỉ là địa chủ tức kẻ có đất .
Từ thế kỷ
XV, Lê Thánh Tôn đã có chỉ dụ về quản lý làng xã, trong đó "cường hào thao túng, phong tục kiêu bạc, dân sinh đau khổ."
Sang thời Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đã có 107 lần chép về tệ nạn này . Trong một tờ sớ gửi vua Minh Mệnh, Nguyễn Công Trứ viết: "Cái hại quan lại là một hai phần mười, cái nạn cường hào đến tám chín phần mười "(Dẫn theo Bùi Xuân Đính, Cái nạn cường hào thời phong kiến )
Thời tiền chiến, trong khi Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố viết nhiều về quan hệ kinh tế giữa địa chủ và nông dân thì Nam Cao là người chú ý tới cả bộ máy quyền lực ở nông thôn, nó chi phối mọi hoạt động và làm biến dạng cả số phận lẫn mày mặt của con người.
Ngoài Chí Phèo, chủ đề cường hào còn được
tác giả Nam Cao đả động tới trong Nửa đêm, Đôi móng giò …
Riêng Rửa hờn nói ở đây đi vào khía cạnh
bọn cường hào thù nhau, hại nhau ra sao.
Rửa hờn lại còn là một bằng chứng về các vấn đề có liên quan tới thông tin ở làng xã xưa.
Vụ Lý
Nhưng bục ra từ một cái trần ngôn
--Trời ơi có thấu tình chăng
Một con mẹ đẻ mấy thằng ăn no
Ai về tôi gửi cái mo—
Lý Nhưng có thiếu thì cho mà
dùng
Lý Nhưng ơi hỡi Lý Nhưng
Tưởng là ông hóa ra thằng ăn dơ.
Trần ngôn
(trần ở đây có nghĩa là bộc lộ, bày tỏ) chẳng qua chỉ một thứ vè viết lên giấy dán ở cửa đình.
Nhưng chẳng phải bước đầu
nó đóng vai trò một thứ báo chí theo nghĩa hẹp nhất, một thứ sách trắng? Một mô
hình có từ thời làng xã, được tiếp nối khi văn hóa phương Tây tràn vào?
Xã hội lúc ấy đã hình thành một nhu cầu là phải có những thông tin về chính
mình.
Có điều
loại truyền thông tự phát này dù dưới dạng truyền khẩu hay đã viết ra đều ở tình trạng ấu trĩ. Nó giống như một khoảng trắng, ai muốn bôi bẩn thế nào cũng được.
Thiếu sót rõ nhất của những lời đồn thổi, là người ta không sao xác minh được
rõ ràng. Tự nhiên nó lại dễ trở thành công cụ để người ta hại nhau.
Sự phát
ngôn của số đông người trong các “ hương đảng tiểu triều đình “ vậy là
chưa trưởng thành đã tha hoá.
Nó sớm là đất để
bọn cường hào tha hồ thao túng.
Phải còn rất lâu, rồi một dư luận lành mạnh sáng suốt mới có thể
xuất hiện.
Không
phải ngẫu nhiên lại xảy ra tình hình ấy.
Xã hội nào thông tin vậy. Xã hội lúc đó quá trì trệ. Đã tồn tại dai
dẳng cả một cơ cấu bùng nhùng, cộng đồng thì vật vờ xiêu vẹo mà cá nhân cũng
chưa thành hình.
Người ta không có ý
niệm chắc chắn về sự cùng sống cùng tồn tại. Rất khó khăn là việc hình thành cho
được những chuẩn mực chung. Các quy phạm
xử thế quá tùy tiện, ai mạnh áp đặt thì cộng đồng phải theo. Con người chỉ lấy
việc chiều chuộng bản năng làm hứng thú.
Cả xã hội như chìm trong bóng tối. Trong
bóng tối người ta vừa thờ ơ lảng tránh nhau lại vừa dòm hành soi mói nhau, đồn
thổi về nhau, tung tin hại nhau, nghĩa là lợi dụng bóng tối đó mưu lợi riêng.
Một cách gián tiếp, mọi người thầm mong bóng tối kéo dài mãi.
Đây là một
thực tế nối tiếp trong lịch sử. Sách Tục
lệ cổ truyền làng xã VN kể rằng ở
hương ước nhiều làng có ghi rõ đàn ông cũng như đàn bà khi gặp viên quan sai
trên phái về hỏi, thì việc gì cũng phải bảo là không biết. Nếu máy mồm trả lời,
“bản xã phát hiện ra sẽ phạt nặng “.
Ấn tượng
chung như vậy là sự bưng bít. Một cái gì chỉ mới gần giống dư luận, mà đã bị
chặn từ trong trứng, tại sao ? Bởi người ta thừa biết người ta xấu, nên phải
chặn.
Có thể làm
cách nào để thay đổi việc này không ? Có cách nào để thông báo về những bất
công sai phạm? Người xưa đã định làm
thử, mà làm hẳn trên phạm vi rộng.
Sách Việt
sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng kể thời Trịnh Doanh chúa đã cho đặt một ống đồng ở cửa phủ
ai có việc gì oan khuất, hoặc thấy ai hư
hỏng -- nhất là quan lại tham nhũng --,
thì viết thành thư bỏ vào đó, cứ năm ngày một lần trình lên chúa.
Nhưng sau xem lại người ta
ngớ ra phần lớn những lời kêu oan và tố cáo là không đúng, nên hình thức này bị
bỏ luôn. Tức là người dân đã làm hỏng luôn cơ hội có một dư luận sáng suốt của
cộng đồng mình.
Thiên truyện của Nam Cao có một cái kết ngồ
ngộ.
Cuối truyện, Lý Nhưng bại nên ức lắm, tìm bằng được mộ tổ nhà khóa Mẫn đái
vào một bãi thì mới yên lòng. Đọc lên con người ngày nay không khỏi cười thầm.
Trong tình trạng dân trí và quan trí như thế thì cái làng
Vũ Đại ấy còn hy vọng gì vào việc thay đổi nữa!
Đã in Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
Published on May 13, 2014 01:17
May 4, 2014
Những tháng ngày ngột ngạt -- nhật ký Hà Nội 1974 (kỳ II)
26/5
Hình như tất cả các khu vực của đời sống đều là đang ở vào chung một
tình trạng. Đi đâu cũng gặp những điều làm
mình nản lòng, mà những điều đó lại thật giống nhau, khiến người ta có cảm giác không
sao thoát nổi.
Như đối với tôi hôm nay. Tôi ghê tởm xã hội. Nhưng tôi cũng khó chịu ngán
ngẩm mỗi khi về với gia đình, cũng sợ hãi chán chường khi nhận ra những manh
nha thói xấu nẩy sinh trong ngay những người mà mình gần gũi và quý mến ở cái cơ quan
tôi đang làm việc. Đi ra đường, tôi ghê sợ tai nạn, và tôi càng hiểu những tai
nạn đó bao vây mình dày đặc trong đời sống, chỉ cần một chút không may nào
đó, là nó va phải con người mình.
Không có ai là trùng khít với ai cả,-- tôi hiểu điều đó. Nhưng trong con
người, sao chỉ thấy nẩy nòi lên những cái xấu, những cái dở, những cái dốt nát.
Quá ít những người để cho mình yêu mình phục, đó là điều làm tôi đau khổ hơn cả. Hình
như hôm nọ chính Nguyễn Khải có nói, lắm lúc trong người cứ dậy lên những điều
hằn học, khinh ghét mọi người, không dám nhìn vào mặt ai, không dám gặp ai cả.
Thế thì ý nghĩa đời sống, còn là chỗ nào? Chỗ nào bây giờ. Chịu.
Những tiếng trẻ con khóc, và cùng với nó là mũi dãi bẩn thỉu. Những đoạn
đường nhênh nhang nhếch nhác. Những lời chửi bới hằn học, những câu đùa nhạt nhẽo.
Một câu nói tục gây phản cảm chẳng khác một câu nói chính trị suông. Bao nhiêu thứ hàng ngày dồn ép
vây bủa lấy tôi, và tôi hiểu rằng chính nó lại là cái gì đời sống nhất, cái phần
đời sống mà nếu tôi xa rời, thì cũng rất tiếc.
27/5
Những dấu hiệu của tình hình mới:
- Đêm quan họ vẫn diễn như mọi
năm, nay không hiểu sao làm nhiều người khó chịu. Chậm quá. Trong khi đó, trẻ
con hát Oan ta mê la đầy đường. Một
nhịp điệu mới đang len lỏi.
- Những tổ chức tan rã. Đội, Đoàn
chỉ còn là nghi thức... Chính các thành viên trong các tổ chức đó rất biết điều
đó.
- Bất cứ cái gì mới nảy sinh,
cũng gây phiền phức cho những người khác, cho những gì đã cũ. Trong khi đó, thì
không có cách nào khác, là cuộc đời phải
có sự nảy sinh.
- Cái lớn nhất của xã hội này, là
sự di chuyển: chuyển từ một đạo quân sang một xã hội thật sự với những nguyên
lý bình thường của nó. Những quy luật sẽ chi phối đại khái bao gồm: sống theo
những quy luật giá trị, sống với nhau như những cá nhân, sống lật bài, mỗi người
nói rõ mình...
Cái thấy rõ nhất trong việc việc
chuyển đổi, là những cái hôm qua ta tưởng nghịch lý, lại làm nên bản chất của hiện
thực. Những trường hợp đột xuất lại biểu hiện đúng đắn quy luật. Những hiện tượng
không bình thường, lại tiêu biểu cho cuộc sống bình thường.
30/5
Nóng bức. Cái nóng bức của thời tiết, cái nóng
bức của những đòi hỏi riêng tư trong một người thanh niên như tôi. Nhưng còn là
những nóng bức của tình hình xã hội.
- Nhất định là phải tiếp tục đánh
nhau. Cái đích vẫn là như cũ, không thể thay đổi.
Mọi việc chuẩn bị xây dựng XHCN ở
miền Bắc chỉ là tạm bợ. Để ổn định tình hình
trước mắt. Còn thì trông chờ ở những năm tới 1975, 1976.
- Đất nước đã từng là một đạo
quân, đang là một đạo quân -- và sẽ còn là một đạo quân. Lính tráng được ưu
tiên mọi mặt. Và người ta nắm lính tráng chắc số một. Anh có thể sai lầm, hư hỏng,
nhưng anh không thể phản chiến.
- Cho đến cái vốn của đất nước, để
mang ra chào hàng trước thế giới, thì vẫn chỉ có chiến tranh. Hiện đang dồn sức
tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, rồi lấy vốn tổng kết đó, làm ngọn cờ tinh thần
và cũng là một cách trấn an dân chúng.
Ở phía bên kia, cũng như ở phía
bên này, thì cái cách để ràng buộc con người vẫn chỉ là một. Vẫn chỉ là tổ chức
+ tư tưởng. Ràng buộc nhau, hành hạ nhau, xô đẩy con người ta theo công việc
đánh nhau. Thật là khốn khổ cho dân tộc này.
Bao giờ yên ổn? Không biết.
Không biết người Việt Nam sẽ ra sao, nếu như
không đánh nhau, không sao hình dung ra nổi.
... Nếu như tôi nói về người Việt
Nam trong lúc này, thì ở Bắc cũng như ở Nam, tôi đều muốn nói trên lập trường
dân đen. Nói trên vị trí của gia đình tôi, bè bạn tôi. Có thể, tôi hiểu biết
nhiều chuyện hơn một người dân đen bình thường, nhưng tôi không thể tiến sang vị
trí khác.
13/6
Chuyện xã hội. Ông Chưởng Cần một
thày phủ thuỷ nghe nói chữa được bệnh. Hai nhà khoa học lao vào, cho là một thứ
điện sinh vật. Những tướng tá mới lên, bị ốm bị thương, tiếc đời, cũng đổ đến
chạy chữa. Mang cả phim đến quay ông này. Tuyên giáo có ý kiến “thật là nhục
cho những người cộng sản.” Và thế là dẹp hết. Người ta rũ bỏ “nhà khoa học”
kia, ông bị xem như một thằng vô lại. Kiện đến đâu bây giờ? Không có chỗ.
Thời buổi của những chuyện nhảm
nhí. Tất cả các cơ quan đều chia ra hai phái: người ủng hộ, kẻ phản đối Chưởng
Cần. Nhưng mà làm gì? Mọi chuyện dẹp đi
rất nhanh.
Đến cái nạn đói vừa rồi cũng thế.
Cũng kết luận đó là một cái đói giả tạo. Thế thì còn gì không bị coi là giả tạo
nữa. Chiến thắng giả tạo, cuộc chiến tranh giả tạo. Cho đến cả bộ mặt cuộc
chiến tranh này, khi trình ra thế giới, cũng là giả tạo nốt.
Có một luận điểm: Chúng ta kiên
quyết hoàn thành di chúc của Người lãnh đạo cao nhất đã đặt ra là thống nhất đất nước.
Từ nay đến lúc tất cả chúng ta nằm xuống. Còn xây dựng tương lai sẽ là công việc
của các thế hệ kế tiếp.
Chỉ sợ cái thế hệ này sau khi chiến
thắng sẽ nằm đấy ăn vạ, và không cho tương lai ngóc đầu dậy. Vả chăng tương lai
nào chẳng bắt đầu từ hiện tại?
23/6
Chưa năm nào nóng như năm nay. Mọi
người như đang bị luộc đi, bị nhúng vào nước sôi và từ đấy lôi ra, mặt mũi đỏ lựng,
mắt nhớn nhác.
Đúng hơn, cái đang hành hạ người ta, là những
dục vọng, là một cách sống, cách quan hệ không còn tương xứng với sự phát triển
cá nhân.
Nguyễn Minh Châu: Chật chội đến nỗi
người nào ở nguyên nhà ấy. Người ta không dám sang nhà nhau. Chỉ cần sang, là
anh chiếm một chỗ mà người trong gia đình
vốn có. Có khi họ phải ra đường.
Cũng Nguyễn Minh Châu: Mỗi người
đang phải đánh nhau với một thằng người trong mình.
... Một đất nước không có mùa
xuân. Một đất nước quá nóng nực. Nóng là một dấu hiệu của không gian bị dồn ép,
của một sức ép mà người ta không khống
chế nổi.
Hân: Cái đáng tiếc nhất ở mình,
là một thứ gì như là chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa nghiệp dư trong lãnh đạo kinh
tế. Chính ở nước Tiệp, bọn báo chí bảo cũng thế, huống chi ở nước mình.
Nhàn: Ở nước mình, xưa nay, người
ta đều đến với quyền hành bằng làm chíến tranh, chứ có ai biết làm kinh
tế.
Trên một vài phương diện trọng yếu
xã hội này còn là quay ngược về phía lạc hậu của thời phong kiến.
Ví như xu hướng cát cứ địa phương. Nó chưa bao giờ mãnh liệt như bây giờ. Các địa phương có quyền hành như những lãnh
thổ độc lập.
Có nước đời nào như thế này: Nước
Việt Nam chuyên môn sợ các nước khác là “hữu”, là đầu hàng.
Đến lượt trong nước,
các tỉnh “cách mạng” hơn “ cấp tiến” hơn Trung ương, và huyện hơn tỉnh, xã hơn
huyện, trong quân đội thì các quân khu hơn tổng cục, trung đoàn hơn sư đoàn.
Cứ
xem việc cho du nhập sách vở phim ảnh thì biết. Có nhiều phim trên đã cho nhập dưới vẫn cấm. Đúng là theo quy luật “càng đi
xuống, càng cách mạng” nói ở trên. Còn thế
nào là cách mạng thì có giời mà biết!
Nếu lùi xa, tính cả mấy năm nay,
thấy người ta ngày càng bảo thủ đi.
... Bây giờ tôi mới hiểu cái ý
ông Khải hay nói: sau này lịch sử có nhắc lại những ngày này, cũng chỉ nhắc vài
ba câu. Có phải như thế nghĩa là chúng ta sống rất nhiều ngày lắp đi lắp lại,
chán chường, và không có một biến đổi nào tích cực cả.
29/6
Cùng một lúc, trong văn học có từng này chuyện
.
1/Cây
táo ông Lành ( báo Văn nghệ
1-6-74) phạm huý. Và bắt đầu thì cũng bằng đồn thổi. Người ta suy ra: Tại sao lại
có sự trùng hợp đến kỳ lạ giữa các tên tuổi. Rồi nhưng chi tiết tổ kiến, cái
nhà đổ...
Hoàng Cát đi đâu cũng bị người
ta... từ chối không tiếp.
Gặp Ng Khải: Tôi là Hoàng Cát đây, tác giả Cây táo ông Lành đây.
Ng Khải phải bảo ông làm gì mà cứ phải kêu toáng lên thế. Bây giờ cũng đừng nên đi đâu, đừng
thanh mình, đừng gây gổ gì. Rồi sẽ qua đi thôi.
2/Chuyện thứ hai, thơ Phạm Tiến
Duật, một bài thơ về cái vòng tròn, trong đó có những câu cái vòng tang như con
số O. Người ta cho là một bài thơ phản chiến, đánh giá tội rất nặng. Hiện nay, thơ
Phạm Tiến Duật không được ngâm trên đài, bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây
không được hát. Quân đội (Vũ Cao, Chính Hữu) kết luận chỉ là một bài thơ yếu về
tư tưởng, đăng lúc này không có lợi gì. Nhưng người ta vẫn không tha Duật.
Khi bọn tôi ngờ rằng chẳng qua Duật say mê
về kỹ thuật, làm thơ tìm được một ý hay, nên cứ làm theo mãi thì Hoàng Trung
Thông bảo các ông hơi đơn giản quá đấy.
3/ Kỷ niệm Ngô Tất Tố, một cụ
già bạn cụ Tố viết bài kỷ niệm, có nhắc đến chuyện đói một năm trước 1945 và bảo
là "đói tất sinh biến". Tuyên giáo Trung ương cho thế là không nhạy
bén, tình hình này lại nói thế. Không biết có phải vì thế mà Hoàng Tùng nhận định
"Thời buổi này mà có người kêu gọi nông dân nổi loạn !"
4/Nhưng cũng có thể ý Hoàng Tùng là để chỉ kịch
rối Sự tích Thăng Long của Tô Hoài.
Vì trong vở kịch đó, có những ý ngầm lấp lửng.
Một ông vua đối diện với những người
dân thường, ăn nói toàn những câu ghê gớm. Vua bảo một người dân, bác có nghe không, trời đất phập
phồng thế nào ấy... Trời đất này bác với trâu cũng đến đi ngủ với giun... .
Cuối kịch vua Lý Công Uẩn lại đi học
làm vua v.v.
Toàn truyện vậy, giọng cứ tưng tửng tưng tửng, hiểu thế nào cũng
được, vận vào đâu cũng được.
Có thể nghĩ Tô Hoài đã cố ý viết
thế, vì cách đây ít lâu, dưới bút danh Hồng Hoa, ông đã nói vỗ mặt Tố Hữu.
Một
quyển Kiều mới in, lại đặt mấy câu thơ của Tố Hữu lên đầu. Hồng Hoa bảo làm thế
ít ra cũng là vô duyên, nếu không nói là chướng. Thơ Nguyễn Du không cần gì phải
trang điểm thêm. Chỉ tiếc là ông không còn sống để mà lên tiếng phản đối .
Bài Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân, cũng đã từng
bị nhiều người kêu là láo! Như vậy, là
Tô Hoài đã nói Hà Huy Giáp là nịnh, và Tố Hữu là láo với tiền nhân.
Lại còn vụ ông Khải, các bài Nếp sống nếp nghĩ trên báo Nhân dân mà tôi đã ghi vào cuốn sổ
riêng.
Phản ứng của người trong cuộc ra sao? Như Tô
Hoài, bây giờ người ta có thể nói đúng là một gã phiêu lưu, sự phiêu lưu lặng lẽ.
Nguyễn Khải kể, khi hỏi sao viết vậy, Tô
Hoài bảo thì mình cũng tưởng trên cho làm
ăn thật thà. Và tủm tỉm cười.
Vụ Cây táo ông Lành, mọi người đang rất hốt hoảng. Xuân Diệu đang đề
nghị Ng Khải viết một ít chân dung cho tạp chí Tác phẩm mới, lập tức phải thôi. Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh đang định nghỉ sáng tác. Hoàng Trung Thông bảo là hãy ở lại để lo chuyện bài báo Văn nghệ cho tốt cái đã.
Ý kiến nghe được thì tản mạn và mâu thuẫn.
Như Xuân Diệu, người ta đồn có
lúc ông đã nói với Hoàng Cát người vốn được Xuân Diệu nhận làm em nuôi: “Em ơi,
trong lúc này, đồng chí Tố Hữu còn đang bận bịu, em lại làm cho đồng chí phải vất
vả thêm”.
Nhưng một lúc khác, ông lại bảo với
những người chung quanh, thế này tức là địch nó thắng ta. Nó làm cho chúng ta
nhìn đâu cũng ra nó hết cả rồi!
Có một người đang khổ sở là Vũ Tú
Nam.
Ông này nổi tiếng là nghiêm chỉnh, vậy mà toàn mắc cạm (Sau này, anh em giải
thích: Vì ông ta trong sáng quá, ông chỉ có thực tế bàn giấy và chỉ thị nghị
quyết cấp trên, mà không có chuyện ở ngoài quán bia).
Người duyệt bài Cây táo ông Lành là ông. Trong số đó,
ông lại có bài Từ Thức, lấy chuyện cổ tích ra kể lại, nhưng cũng bị bới móc. Từ Thức trong truyện của ông đi gõ cửa bên đông, cửa bên tây không được, bây giờ về làng cũ, dân làng đã
già.
Vũ Tú Nam than thở:
- Thế hoá ra văn nghệ không được
sai? Các ngành sai không nói gì, Văn
nghệ mà sai là làm rầm rĩ cả lên, thế là thế nào? Lúc nào cũng bảo văn nghệ là
dễ sai cơ mà.
... Nhưng nhìn rộng ra thật đáng
lo. Bao nhiêu chuyện xấu xa trong xã hội, văn nghệ chỉ là một chuyện rất nhỏ.
Phạm Tiến Duật cho rằng thôi, chẳng qua tình hình này chỉ yêu cầu người ta nên
im lặng. Mà im lặng là phải. Ví như bây giờ cái xe đang đi qua đoạn cua khó khăn. Chúng mình thì ngồi
sau xe. Sợ hãi không được. Mà nhìn lên cao, reo hò phong lan đẹp quá cũng
vô duyên.
Một cách giải thích hợp lý hơn: Cứ
khi nào xã hội có chuyện , muốn răn đe dân chúng nói chung, thì người ta mang
văn nghệ ra đánh.
Khi vào ném bom miền Bắc, thường
có hiện tượng máy bay Mỹ ném không hết bom. Trước khi trở lại tàu sân bay, phải
ném mốt số bom này đi, nếu không hạ cánh nguy hiểm. Có những vùng tự nhiên bị vạ.
Là địa điểm để hứng chỗ bom thừa đó.
Văn nghệ là một vùng ném bom tự
do như thế.
Không biết ai là người nói ra cái
ý này đầu tiên? Nghe bảo là ông Tô Hoài.
30/6
Xã hội gì mà... bất cứ chuyện
giai thoại, tiếu lâm nào cũng vận vào mình. Rất nhiều chuyện đồn đại. Điều đáng
sợ, là đồn đại luôn luôn ...đúng. Người ta sống bằng những bản năng tự vệ, và
những bản năng đó, cứ thế hoành hành.
Nguyễn Tuân: Thời nào, người ta
hay nói về những chuyện to tát, thì lại thường hay khổ vì những chuyện vặt.
Xuân Diệu: Xã hội này là xã hội
lý tưởng của những thằng mê - đi - oóc (
mediocre = kẻ tầm thường).
3/7
Một cô con gái mới ở nông thôn ra, làm nhà bếp
quân đội, cũng muốn ăn, muốn diện, muốn làm quen với các bạn bè khác, nhưng lại
chưa biết làm thế nào. Những câu đưa đẩy bắt quen của cô rất dại dột. Bọn thanh
niên không chơi với cô. Cuối cùng, cô lại rơi vào bẫy một lão già khốn nạn.
Những khu nhà Hà Nội đã không chứa
nổi người lớn, và càng không chứa nổi trẻ con. Trẻ con đổ ra đầy đường, bây giờ
nghỉ hè, tối người ta lại dạy hát cho bọn nó, sáng người ta lại bắt chúng nó tập
thể dục. Ở những phố vắng, người ta rào đường lại để làm sân chơi cho trẻ.
Cuộc sống hôm nay là thế nào? Là
cách sống chung không còn phù hợp với sự sống và sự phát triển của cá nhân nữa.
Là người ta đang cần phải sống khác đi, nhưng không sao khác được, loay hoay
không biết sống như thế nào cả.
Tôi nói ngay như chuyện giải trí. Lúc nào chúng tôi cũng thèm nhưng xã hội không mở ra bất cứ phương hướng nào và mỗi cá nhân không biết thỏa mãn nhu cầu của mình bằng cách nào.
Lại như nhu cầu làm việc. Khi một con người biết rằng mình cần làm việc
như thế nào, tức con người đó đã trưởng thành.
4/7
Như là đang có một thứ dịch, dịch phát hiện những
cái xấu, xỏ xiên, hai mặt trong văn học. Ngoài những chuyện vừa kể trên, ngày
càng lần ra những chuyện khác, có chuyện đúng, có chuyện sai, có chuyện do hớ
hênh, vớ vẩn mà buồn cười, có chuyện thật không đâu vào đâu, song người ta cứ vận
vào mình, hết sức lẩm cẩm.
- Báo Văn hoá nghệ thuật tiến hành một cuộc phỏng vấn những đức tính của
dân Việt Nam.
Kết quả, những đức tính như cần cù, giản dị, được 79-80% coi là
quan trọng. Những đức tính như trung thành với Đảng, với Cách mạng, số phiếu rất
thấp. Đúng là lạy ông tôi ở bụi này, mấy người ở báo rất dại dột, rất hớ hênh, không ra
làm sao cả.
- Bài ông Lê Đình Kỵ viết về Hải
Triều, trong đó có những đoạn trích rất ác. Giai cấp thống trị độc quyền, tự
chuốc lấy sự thoái hoá. Người nghệ sĩ trong những điều kiện đó như một thứ thày
tuồng, một thứ nhắc vở.
- Những Người về đồng cói, Bão biển lâu nay không sao, bây giờ cũng có ý kiến.
Câu hỏi đặt ra với Người về đồng cói:
Lấy đâu ra cái kiểu có một người đi xa về làm ầm lên mọi chuyện như vậy.
- Ông Thông đi nói chuyện ở các
nơi: Chủ tịch huyện có vấn đề. Ông Khải
không hiểu gì về CNXH
- Chuyện liên quan đến Nguyễn
Đình Thi: Kịch Hoa và Ngần và tập thơ
Dòng sông trong xanh. Mặc dù phần chủ
yếu trong tập, những bài hay nhất là lấy
từ Bài thơ Hắc Hải, nhưng Dòng sông trong xanh vẫn bị coi là yếu đuối, uỷ mị.
Thời buổi khó khăn. Cái khó khăn
lớn nhất là khó khăn để có thể tin, vì chỉ có thể, người ta mới làm được một ít
việc cần làm.
Lòng tin, đâu phải là chuyện của
những nhân vật lớn. Vì khái niệm thiên tài đã bao hàm trong nó khái niệm về
lòng tin mất rồi. Chỉ những người bình thường chúng tôi, mới cần đến lòng tin đến
thế!
19/7
Khải:
-- Cơ sở tâm lý của chủ nghĩa
McCarthy ở Mỹ -- Sau chiến tranh, trở về, người lính không thể trở lại làm một
người bình thường nữa. Người ta không biết làm nghề gì. Người ta phải tìm một
con đường ngắn nhất để kiếm sống.
Đang có cuộc trao đổi trên báo Nhân dân về làm ăn thật thà.
Hữu Mai:
-- Xã hội mình thì làm ăn
thật thà sao được. Sản xuất nhỏ không thể làm ăn thực thà. Phải có một nền sản
xuất lớn cơ!
Nguyễn Đình Thi:
--Lão chủ hãng Peugeot có thể làm ăn thật thà, còn như
anh chữa xe đạp đầu đường Hà Nội, nhất định phải sống bằng gian dối.
Cái chính là sau chiến tranh, người
ta phải thấy sợ, biết sợ, tuân thủ chặt chẽ những gì quy luật cuộc sống đòi
hỏi. Sự dũng cảm mà chiến tranh mang lại có những mặt tiêu cực của nó. Là nó
làm cho người ta không còn biết sợ là gì nữa, kể cả sợ những quy luật tất yếu.
Trong hai ngày 10, 11-7, ở Ninh
Bình có một cuộc phiến loạn. Thương binh dùng bạo lực, làm chủ thị xã.
Có khẩu hiệu, khẩu hiệu thay đổi nhanh. Thông tin liên lạc vững chắc, tổ chức
như một chiến dịch. Nhận định: đây có bàn tay địch. Từ nay về sau, cho phép bắn
bỏ.
Chiến tranh chỉ có ý nghĩa duy nhất,
khi nó đồng nghĩa với chiến thắng.
Dân số thủ đô: 1.378.000 người.
Dưới 15 tuổi : 570.000người. Dưới 6 tuổi:
240.000 người
Ngoài phố, ngày nào cũng có những
tin đồn về những vụ bắn nhau, giết nhau. Có một trăm lý do khác nhau, giải
thích quanh một vụ giết người như vậy. Nhưng chỉ có một lý do duy nhất -- chiến
tranh. Chiến tranh làm cho người ta không còn biết kỳ cương là gì nữa, không
còn biết sợ hãi, không còn nói với nhau bằng lời lẽ, pháp luật.
Cái chính là một xã hội làm thì
ít, ăn thì nhiều, đầu tư sức lực vào việc làm ra của cải thì ít, lo phân phối của
cải thì nhiều.
Cái chính là sự công bằng không có, khiến mọi người không cảm thấy
yên tâm làm việc. Làm hay làm dở ai biết cho mà cố? Làm chết xác trong khi kẻ khác
phá hoại thì làm làm gì?
Nhiều lần, tôi
muốn kêu to lên. Xã hội gì thì xã hội, tôi không cần biết tên, tên gì cũng được,
nhưng tôi cần cái này -- cần làm sao mọi người lao động, lao động làm thêm ra của
cải. Nếu không có lao động, thì mọi chuyện sẽ sụp đổ.
Dạo này, tôi muốn đi tới những
chuyện gốc rễ của vấn đề, đi tới như một cách kết luận cuối cùng.
- Có những vấn đề thuộc về chiến
tranh. Nhưng có những vấn đề thuộc về
cái mạch chung của xã hội này, 30 năm nay. Tôi muốn nói Cách mạng tháng 8, hình
như đó là một trường hợp ăn may. Và những người cầm đầu cứ thế mà kéo mình
đi, tưởng rằng có thể làm liều như vậy
mãi mãi. Không phải chỉ là chiến tranh và cũng không phải do người ta già yếu.
30 năm nay, ngay lúc người ta khoẻ mạnh, người ta đã chẳng ra sao rồi.
- Có những vấn đề thuộc về chủ nghĩa
nọ lý thuyết kia, những vấn đề chính trị. Nhưng cũng có những vấn đề thuộc về
cái cách sống của người dân thường ở đây nữa. Có ở đâu, người ta sống tạm bợ,
hèn hạ như ở đây. Xấu đều hơn tốt lỏi. Ăn
cỗ đi trước lội nước đi sau. Đọc những ca dao, những truyện cười, thấy người
ta loanh quanh chế giễu nhau trong những chuyện rất tầm thường. Cái dân tộc
tính ứ đọng trì trệ như vậy, là mảnh đất tốt để nhân tính biến hình, thay đổi,
mốc đi, rỉ đi, không sao ngóc đầu lên được.
...
Nhìn quanh lắm lúc bàng hoàng
kinh sợ cả người.
Sao dân mình nhiều người tồi tàn
như vậy. Ở những nơi khác, thêm một người,
là đóng góp thêm cho công việc, là thêm bao nhiêu điều tốt đẹp. Ở đây, thêm
một người, là thêm những đòi hỏi. Và đẻ thêm ra sự hỗn loạn, đẻ thêm ra bao
nhiêu lo toan. Tôi còn tin tưởng được ai nữa.
4/8
Tháng 7 âm lịch oi nồng là tháng
7 sống trong đe doạ của bệnh tật, nước sông, lụt lội, và cả bão nữa. Trời đất
phập phồng như thế nào ấy. Không ai có thể yên tâm làm việc gì.
Có xã hội nào như cái xã hội sau
chiến tranh, người cứ đổ cả ra đường, người không biết làm gì, ai cũng tính phải
sống khác, mà không biết sống thế nào.
Cuộc sống là tươi đẹp quá, không
ai muốn từ giã nó mà đi, nhưng ai cũng cảm thấy mình đã bị làm hỏng, mình không
xứng đáng, chẳng qua cùng sống ngắc ngoải với nhau cho xong --, một tình cảnh
không sao tha thứ được.
... Những buổi tối nghe Lâm kể chuyện Vũ. Hình như tất cả những người có tài đều xấu, xấu đến ghê gớm, đến làm
cho mình căm ghét lên được. Nhưng họ lại tài. Còn những người tốt, như tôi, như
Lâm, mới nhạt nhẽo làm sao, vô duyên làm sao. Cái xấu đứng đó để chứng nhận cho
chúng tôi thấy rằng chúng tôi sống khó khăn như thế nào, và giá có bị chửi là yếu
đuối, nhạt nhẽo, thì cũng là dễ hiểu thôi, không thể khác.
21/8
Đằng sau các vụ văn nghệ, nhiều
người nghe ra hơi các vấn đề chính trị. Hình như đang có một sự chạy đua vào
Trung ương, đang có một sự phân công lại công việc, và thế là bên nào cũng muốn
phô trương lực lượng.
Người ta thường khớp tất cả những việc báo Nhân Dân làm, từ Làm ăn thật thà, đến Minh
Chi, qua những bài Nguyễn Khải như là những đòn tấn công, tập trung vào một hướng,
và những đòn phản công toàn bộ hoạt động trên, làm nên cái hướng ngược lại.
Ở cấp trung gian, chắc những nhân
vật cỡ tương tự như Xuân Trường, Hoàng Trung Thông... phải tính toán nhiều hơn,
và có lợi cho họ cụ thể hơn.
Nhưng chỉ là đoán thế.
Một người như Duật thì chịu. Ngay
như ông Khải cũng thường nói:
-- Tôi cũng thấy có những nguyên nhân mơ hồ nào đó,
nó thổi bài tôi lên, gây những tác động bất ngờ. Đỗ Thân bảo do xôn xao việc chạy vào Trung
ương nên nhiều người chú ý tới bài Đối
mặt của Khải. Xưa nay những người làm văn nghệ vẫn chỉ là cái bung xung,
ai mà hiểu được.
23/8
Có đến bao nhiêu năm, tôi không chú ý gì tới
mùa thu. Nhưng năm này, tôi yêu quá màu hoa phượng còn sót lại khi cây lá đã lưa thưa. Tôi yên tâm đứng bên cửa sổ, nhìn những đoá hoa đại rơi trên đường. Buổi sáng vào thành để bơi, đạp xe trên những
con đường vắng, phải cố tránh đừng chẹt vào quả bàng. Mới hôm nào lá bàng bắt đầu
nẩy mầm mà hôm nay quả đã rụng, như từ lâu lắm đã chín lên như vậy.
Tôi yêu những buổi tối trong cơ
quan vắng vẻ, cây cối hương hoa chợt thức dậy. Yêu những con đường sau cơn mưa. Những gì thuộc về ước ao bản năng của một người con trai, tôi hiểu là chính
đáng, tôi không từ chối. Tôi bắt đầu cảm thấy tự hào vì cánh tay tôi mập khoẻ,
thân hình tôi rắn chắc, tôi bắt đầu thích ăn mặc những bộ quần áo đẹp, để một
kiểu đầu được mọi người chú ý. Tôi muốn yêu cuộc sống. Và cũng cần được cuộc sống
yêu lại... Giá như tôi có một gia đình, một đứa con, tôi sẽ trông nom cẩn thận.
Nhưng tôi lớn lên vào những năm
khốn khó quá chừng. Một cuộc sống êm đềm hạnh phúc và có tri thức là cuộc sống ở
đâu kia, làm sao mà tôi với tới được... Chung quanh, toàn những chuyện vô học,
bỉ ổi, lừa gạt, xoay sở. Nói một cách khái quát, thì thực tế cứ có những chỗ
vênh váo, mà tôi không sao chấp nhận. Tôi có thể sống với Th. nhưng Th.
đau yếu và bạc nhược thế, làm sao có hạnh phúc. Ngược lại bao nhiêu người con
gái khác lại không có cái khôn ngoan và từng trải như Th. Làm sao vừa thoả mãn
được cả những yêu cầu cụ thể của đời sống
hôm nay lẫn yêu cầu hạnh phúc lâu dài? Làm sao vừa có bản năng, vừa có trí tuệ?
20/11
Những điều người ta viết ra đã
ghê gớm.
Nhưng những điều con người chưa viết ra, lại
còn kinh khủng hơn biết bao nhiêu nữa.
Ví như, có lẽ chưa ai viết về việc
trong đời sống hôm nay, cái xấu nó lấn át, nó vây ép cái tốt ra sao. Mà đây lại
là một tình hình có thật, ít ra là trong hoàn cảnh của quanh tôi hôm nay. Tôi
đã được thấy những đám đông rối ren. Nhưng khi sự rối ren đã trở thành sự kiện
thường xuyên trong một đầu óc, thì mới là đáng kể.
Ngay giữa hai người bất kỳ thôi,
nhiều khi cũng có giời mà biết những gì hai người ấy nói với nhau.
4/12
Còn biết nói cách nào khác, nỗi
kinh khủng của chiến tranh, nhất là một cuộc chiến tranh thất bại.
Một ít người ở chiến trường về,
không biết làm gì, nhưng lại công thần, điệu bộ. Tôi biết họ có lý của họ, vào
địa vị họ tôi cũng phải làm thế. Nhưng nghĩ trên cái đại cục cứ thấy có gì
không phải.
Còn lớp người ở hậu phương là cả
một đống hỗn tạp, kẻ xấu hoành hành người tốt cắn răng nhẫn nhục. Luôn luôn cảm
thấy như một mắc nợ, mình phải nợ những người ở chiến trường về, trong khi họ
gây ra bao nhiêu phiền phức cho mình, họ chẳng biết làm gì cả.
Giữa hai bên là một thứ tình cảm
thù hằn ngấm ngầm.
Nhìn chung, con người bắt đầu sống
theo quy luật của rừng, người nào cũng giương vây lên, xù lông xù cánh ra. Một
người CA tát người lái xe già. Người lái xe bị xúc phạm dùng xe đâm chết người
CA. Khi kẻ thù của mình ngắc ngoải, ông ta còn lao vào đâm một lượt nữa mới hả.
Sau đó tự tử chết.
Chuyện ở đâu vậy? Chuyện ngay ở
đây, những người cùng thành phố của tôi. Tôi ghê tởm cái thực tế này. Tôi biết
chỉ có một cách sống là mềm ra như bún, là nhắm mắt nhắm mũi sống cho qua ngày.
Nhưng tôi biết rằng sức lực của tôi bị bào mòn. Và sức lực của bao nhiêu người
khác cũng bị bào mòn tương tự.
24/12
Bây giờ mới biết mùa đông là đẹp. Hỡi ôi, đến
cái mờ nhạt lạnh lẽo của cuộc đời này cũng đẹp. Cây cối xác xơ. Trời đất ong
ong tai tái. Những đốm đỏ trên đường, màu áo của bao nhiêu người, mà tôi đã thấy
trong bao nhiêu năm, giờ đây lại càng hấp dẫn. Tôi yêu trời đất này không thể tả.
Nhưng mà sao, nghĩ sao về mảnh đất
này, về những con người, mà hôm nay tôi gặp.
Không thể yêu nổi, đó là cái cảm
giác sau cùng, cái cảm giác quán xuyến về những người chung quanh tôi.
Rất đau khổ, nhưng không biết
cách kết luận nào khác.
Sao mà đất nước này nghèo vậy. Vì
nghèo mà sinh ra bao nhiêu chuyện - dốt nát, thấp hèn. Vì nghèo mà sinh ra tồi
tàn, mưu mẹo, bẩn thỉu. Những gì ở một cái chợ. Những gì ở một đám học trò. Những
gì ở câu chuyện ngồi lê đôi mách nơi các công sở. Tôi tưởng đáng lẽ người ta phải
sống có văn hoá hơn và chăm chỉ hơn. Đúng thế, tôi tưởng thế nào cơ. Sao đi đâu
cũng gặp những nghèo nàn và biếng lười, nó sinh ra bao nhiêu chuyện khác. Người
ta không biết sống với nhau. Người ta đang muốn sống khác đi, mà không khác nổi. Chắc thế, chỉ có một cách kết luận như thế.
26/12
Những đêm lạnh, trời rét, cái
rét ngấm vào phòng, và trừ những lần ngủ quên đi, còn thỉnh thoảng trong tôi
cũng có những đêm như đêm nay. Tôi muốn thức đến sáng. Tôi như được đối diện với
cả cuộc đời. Tôi miên man duyệt lại những cảm giác lớn nhất của cuộc đời
này. Lòng ham sống, bất cứ thế nào cũng sống. Những bàng hoàng khi hé nhìn ra cả thế giới này. Sự tẻ nhạt. Sự bất lực. Một ít biến động nửa vời. Một ít thèm muốn trở đi trở lại dù biết là không bao giờ đến được.
Không, tôi không thể sống như ngày hôm qua nữa.
Nhưng không, tôi cũng lại không
thể sống khác những gì tôi đã sống và đang sống.
Hình như tất cả các khu vực của đời sống đều là đang ở vào chung một
tình trạng. Đi đâu cũng gặp những điều làm
mình nản lòng, mà những điều đó lại thật giống nhau, khiến người ta có cảm giác không
sao thoát nổi.
Như đối với tôi hôm nay. Tôi ghê tởm xã hội. Nhưng tôi cũng khó chịu ngán
ngẩm mỗi khi về với gia đình, cũng sợ hãi chán chường khi nhận ra những manh
nha thói xấu nẩy sinh trong ngay những người mà mình gần gũi và quý mến ở cái cơ quan
tôi đang làm việc. Đi ra đường, tôi ghê sợ tai nạn, và tôi càng hiểu những tai
nạn đó bao vây mình dày đặc trong đời sống, chỉ cần một chút không may nào
đó, là nó va phải con người mình.
Không có ai là trùng khít với ai cả,-- tôi hiểu điều đó. Nhưng trong con
người, sao chỉ thấy nẩy nòi lên những cái xấu, những cái dở, những cái dốt nát.
Quá ít những người để cho mình yêu mình phục, đó là điều làm tôi đau khổ hơn cả. Hình
như hôm nọ chính Nguyễn Khải có nói, lắm lúc trong người cứ dậy lên những điều
hằn học, khinh ghét mọi người, không dám nhìn vào mặt ai, không dám gặp ai cả.
Thế thì ý nghĩa đời sống, còn là chỗ nào? Chỗ nào bây giờ. Chịu.
Những tiếng trẻ con khóc, và cùng với nó là mũi dãi bẩn thỉu. Những đoạn
đường nhênh nhang nhếch nhác. Những lời chửi bới hằn học, những câu đùa nhạt nhẽo.
Một câu nói tục gây phản cảm chẳng khác một câu nói chính trị suông. Bao nhiêu thứ hàng ngày dồn ép
vây bủa lấy tôi, và tôi hiểu rằng chính nó lại là cái gì đời sống nhất, cái phần
đời sống mà nếu tôi xa rời, thì cũng rất tiếc.
27/5
Những dấu hiệu của tình hình mới:
- Đêm quan họ vẫn diễn như mọi
năm, nay không hiểu sao làm nhiều người khó chịu. Chậm quá. Trong khi đó, trẻ
con hát Oan ta mê la đầy đường. Một
nhịp điệu mới đang len lỏi.
- Những tổ chức tan rã. Đội, Đoàn
chỉ còn là nghi thức... Chính các thành viên trong các tổ chức đó rất biết điều
đó.
- Bất cứ cái gì mới nảy sinh,
cũng gây phiền phức cho những người khác, cho những gì đã cũ. Trong khi đó, thì
không có cách nào khác, là cuộc đời phải
có sự nảy sinh.
- Cái lớn nhất của xã hội này, là
sự di chuyển: chuyển từ một đạo quân sang một xã hội thật sự với những nguyên
lý bình thường của nó. Những quy luật sẽ chi phối đại khái bao gồm: sống theo
những quy luật giá trị, sống với nhau như những cá nhân, sống lật bài, mỗi người
nói rõ mình...
Cái thấy rõ nhất trong việc việc
chuyển đổi, là những cái hôm qua ta tưởng nghịch lý, lại làm nên bản chất của hiện
thực. Những trường hợp đột xuất lại biểu hiện đúng đắn quy luật. Những hiện tượng
không bình thường, lại tiêu biểu cho cuộc sống bình thường.
30/5
Nóng bức. Cái nóng bức của thời tiết, cái nóng
bức của những đòi hỏi riêng tư trong một người thanh niên như tôi. Nhưng còn là
những nóng bức của tình hình xã hội.
- Nhất định là phải tiếp tục đánh
nhau. Cái đích vẫn là như cũ, không thể thay đổi.
Mọi việc chuẩn bị xây dựng XHCN ở
miền Bắc chỉ là tạm bợ. Để ổn định tình hình
trước mắt. Còn thì trông chờ ở những năm tới 1975, 1976.
- Đất nước đã từng là một đạo
quân, đang là một đạo quân -- và sẽ còn là một đạo quân. Lính tráng được ưu
tiên mọi mặt. Và người ta nắm lính tráng chắc số một. Anh có thể sai lầm, hư hỏng,
nhưng anh không thể phản chiến.
- Cho đến cái vốn của đất nước, để
mang ra chào hàng trước thế giới, thì vẫn chỉ có chiến tranh. Hiện đang dồn sức
tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, rồi lấy vốn tổng kết đó, làm ngọn cờ tinh thần
và cũng là một cách trấn an dân chúng.
Ở phía bên kia, cũng như ở phía
bên này, thì cái cách để ràng buộc con người vẫn chỉ là một. Vẫn chỉ là tổ chức
+ tư tưởng. Ràng buộc nhau, hành hạ nhau, xô đẩy con người ta theo công việc
đánh nhau. Thật là khốn khổ cho dân tộc này.
Bao giờ yên ổn? Không biết.
Không biết người Việt Nam sẽ ra sao, nếu như
không đánh nhau, không sao hình dung ra nổi.
... Nếu như tôi nói về người Việt
Nam trong lúc này, thì ở Bắc cũng như ở Nam, tôi đều muốn nói trên lập trường
dân đen. Nói trên vị trí của gia đình tôi, bè bạn tôi. Có thể, tôi hiểu biết
nhiều chuyện hơn một người dân đen bình thường, nhưng tôi không thể tiến sang vị
trí khác.
13/6
Chuyện xã hội. Ông Chưởng Cần một
thày phủ thuỷ nghe nói chữa được bệnh. Hai nhà khoa học lao vào, cho là một thứ
điện sinh vật. Những tướng tá mới lên, bị ốm bị thương, tiếc đời, cũng đổ đến
chạy chữa. Mang cả phim đến quay ông này. Tuyên giáo có ý kiến “thật là nhục
cho những người cộng sản.” Và thế là dẹp hết. Người ta rũ bỏ “nhà khoa học”
kia, ông bị xem như một thằng vô lại. Kiện đến đâu bây giờ? Không có chỗ.
Thời buổi của những chuyện nhảm
nhí. Tất cả các cơ quan đều chia ra hai phái: người ủng hộ, kẻ phản đối Chưởng
Cần. Nhưng mà làm gì? Mọi chuyện dẹp đi
rất nhanh.
Đến cái nạn đói vừa rồi cũng thế.
Cũng kết luận đó là một cái đói giả tạo. Thế thì còn gì không bị coi là giả tạo
nữa. Chiến thắng giả tạo, cuộc chiến tranh giả tạo. Cho đến cả bộ mặt cuộc
chiến tranh này, khi trình ra thế giới, cũng là giả tạo nốt.
Có một luận điểm: Chúng ta kiên
quyết hoàn thành di chúc của Người lãnh đạo cao nhất đã đặt ra là thống nhất đất nước.
Từ nay đến lúc tất cả chúng ta nằm xuống. Còn xây dựng tương lai sẽ là công việc
của các thế hệ kế tiếp.
Chỉ sợ cái thế hệ này sau khi chiến
thắng sẽ nằm đấy ăn vạ, và không cho tương lai ngóc đầu dậy. Vả chăng tương lai
nào chẳng bắt đầu từ hiện tại?
23/6
Chưa năm nào nóng như năm nay. Mọi
người như đang bị luộc đi, bị nhúng vào nước sôi và từ đấy lôi ra, mặt mũi đỏ lựng,
mắt nhớn nhác.
Đúng hơn, cái đang hành hạ người ta, là những
dục vọng, là một cách sống, cách quan hệ không còn tương xứng với sự phát triển
cá nhân.
Nguyễn Minh Châu: Chật chội đến nỗi
người nào ở nguyên nhà ấy. Người ta không dám sang nhà nhau. Chỉ cần sang, là
anh chiếm một chỗ mà người trong gia đình
vốn có. Có khi họ phải ra đường.
Cũng Nguyễn Minh Châu: Mỗi người
đang phải đánh nhau với một thằng người trong mình.
... Một đất nước không có mùa
xuân. Một đất nước quá nóng nực. Nóng là một dấu hiệu của không gian bị dồn ép,
của một sức ép mà người ta không khống
chế nổi.
Hân: Cái đáng tiếc nhất ở mình,
là một thứ gì như là chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa nghiệp dư trong lãnh đạo kinh
tế. Chính ở nước Tiệp, bọn báo chí bảo cũng thế, huống chi ở nước mình.
Nhàn: Ở nước mình, xưa nay, người
ta đều đến với quyền hành bằng làm chíến tranh, chứ có ai biết làm kinh
tế.
Trên một vài phương diện trọng yếu
xã hội này còn là quay ngược về phía lạc hậu của thời phong kiến.
Ví như xu hướng cát cứ địa phương. Nó chưa bao giờ mãnh liệt như bây giờ. Các địa phương có quyền hành như những lãnh
thổ độc lập.
Có nước đời nào như thế này: Nước
Việt Nam chuyên môn sợ các nước khác là “hữu”, là đầu hàng.
Đến lượt trong nước,
các tỉnh “cách mạng” hơn “ cấp tiến” hơn Trung ương, và huyện hơn tỉnh, xã hơn
huyện, trong quân đội thì các quân khu hơn tổng cục, trung đoàn hơn sư đoàn.
Cứ
xem việc cho du nhập sách vở phim ảnh thì biết. Có nhiều phim trên đã cho nhập dưới vẫn cấm. Đúng là theo quy luật “càng đi
xuống, càng cách mạng” nói ở trên. Còn thế
nào là cách mạng thì có giời mà biết!
Nếu lùi xa, tính cả mấy năm nay,
thấy người ta ngày càng bảo thủ đi.
... Bây giờ tôi mới hiểu cái ý
ông Khải hay nói: sau này lịch sử có nhắc lại những ngày này, cũng chỉ nhắc vài
ba câu. Có phải như thế nghĩa là chúng ta sống rất nhiều ngày lắp đi lắp lại,
chán chường, và không có một biến đổi nào tích cực cả.
29/6
Cùng một lúc, trong văn học có từng này chuyện
.
1/Cây
táo ông Lành ( báo Văn nghệ
1-6-74) phạm huý. Và bắt đầu thì cũng bằng đồn thổi. Người ta suy ra: Tại sao lại
có sự trùng hợp đến kỳ lạ giữa các tên tuổi. Rồi nhưng chi tiết tổ kiến, cái
nhà đổ...
Hoàng Cát đi đâu cũng bị người
ta... từ chối không tiếp.
Gặp Ng Khải: Tôi là Hoàng Cát đây, tác giả Cây táo ông Lành đây.
Ng Khải phải bảo ông làm gì mà cứ phải kêu toáng lên thế. Bây giờ cũng đừng nên đi đâu, đừng
thanh mình, đừng gây gổ gì. Rồi sẽ qua đi thôi.
2/Chuyện thứ hai, thơ Phạm Tiến
Duật, một bài thơ về cái vòng tròn, trong đó có những câu cái vòng tang như con
số O. Người ta cho là một bài thơ phản chiến, đánh giá tội rất nặng. Hiện nay, thơ
Phạm Tiến Duật không được ngâm trên đài, bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây
không được hát. Quân đội (Vũ Cao, Chính Hữu) kết luận chỉ là một bài thơ yếu về
tư tưởng, đăng lúc này không có lợi gì. Nhưng người ta vẫn không tha Duật.
Khi bọn tôi ngờ rằng chẳng qua Duật say mê
về kỹ thuật, làm thơ tìm được một ý hay, nên cứ làm theo mãi thì Hoàng Trung
Thông bảo các ông hơi đơn giản quá đấy.
3/ Kỷ niệm Ngô Tất Tố, một cụ
già bạn cụ Tố viết bài kỷ niệm, có nhắc đến chuyện đói một năm trước 1945 và bảo
là "đói tất sinh biến". Tuyên giáo Trung ương cho thế là không nhạy
bén, tình hình này lại nói thế. Không biết có phải vì thế mà Hoàng Tùng nhận định
"Thời buổi này mà có người kêu gọi nông dân nổi loạn !"
4/Nhưng cũng có thể ý Hoàng Tùng là để chỉ kịch
rối Sự tích Thăng Long của Tô Hoài.
Vì trong vở kịch đó, có những ý ngầm lấp lửng.
Một ông vua đối diện với những người
dân thường, ăn nói toàn những câu ghê gớm. Vua bảo một người dân, bác có nghe không, trời đất phập
phồng thế nào ấy... Trời đất này bác với trâu cũng đến đi ngủ với giun... .
Cuối kịch vua Lý Công Uẩn lại đi học
làm vua v.v.
Toàn truyện vậy, giọng cứ tưng tửng tưng tửng, hiểu thế nào cũng
được, vận vào đâu cũng được.
Có thể nghĩ Tô Hoài đã cố ý viết
thế, vì cách đây ít lâu, dưới bút danh Hồng Hoa, ông đã nói vỗ mặt Tố Hữu.
Một
quyển Kiều mới in, lại đặt mấy câu thơ của Tố Hữu lên đầu. Hồng Hoa bảo làm thế
ít ra cũng là vô duyên, nếu không nói là chướng. Thơ Nguyễn Du không cần gì phải
trang điểm thêm. Chỉ tiếc là ông không còn sống để mà lên tiếng phản đối .
Bài Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân, cũng đã từng
bị nhiều người kêu là láo! Như vậy, là
Tô Hoài đã nói Hà Huy Giáp là nịnh, và Tố Hữu là láo với tiền nhân.
Lại còn vụ ông Khải, các bài Nếp sống nếp nghĩ trên báo Nhân dân mà tôi đã ghi vào cuốn sổ
riêng.
Phản ứng của người trong cuộc ra sao? Như Tô
Hoài, bây giờ người ta có thể nói đúng là một gã phiêu lưu, sự phiêu lưu lặng lẽ.
Nguyễn Khải kể, khi hỏi sao viết vậy, Tô
Hoài bảo thì mình cũng tưởng trên cho làm
ăn thật thà. Và tủm tỉm cười.
Vụ Cây táo ông Lành, mọi người đang rất hốt hoảng. Xuân Diệu đang đề
nghị Ng Khải viết một ít chân dung cho tạp chí Tác phẩm mới, lập tức phải thôi. Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh đang định nghỉ sáng tác. Hoàng Trung Thông bảo là hãy ở lại để lo chuyện bài báo Văn nghệ cho tốt cái đã.
Ý kiến nghe được thì tản mạn và mâu thuẫn.
Như Xuân Diệu, người ta đồn có
lúc ông đã nói với Hoàng Cát người vốn được Xuân Diệu nhận làm em nuôi: “Em ơi,
trong lúc này, đồng chí Tố Hữu còn đang bận bịu, em lại làm cho đồng chí phải vất
vả thêm”.
Nhưng một lúc khác, ông lại bảo với
những người chung quanh, thế này tức là địch nó thắng ta. Nó làm cho chúng ta
nhìn đâu cũng ra nó hết cả rồi!
Có một người đang khổ sở là Vũ Tú
Nam.
Ông này nổi tiếng là nghiêm chỉnh, vậy mà toàn mắc cạm (Sau này, anh em giải
thích: Vì ông ta trong sáng quá, ông chỉ có thực tế bàn giấy và chỉ thị nghị
quyết cấp trên, mà không có chuyện ở ngoài quán bia).
Người duyệt bài Cây táo ông Lành là ông. Trong số đó,
ông lại có bài Từ Thức, lấy chuyện cổ tích ra kể lại, nhưng cũng bị bới móc. Từ Thức trong truyện của ông đi gõ cửa bên đông, cửa bên tây không được, bây giờ về làng cũ, dân làng đã
già.
Vũ Tú Nam than thở:
- Thế hoá ra văn nghệ không được
sai? Các ngành sai không nói gì, Văn
nghệ mà sai là làm rầm rĩ cả lên, thế là thế nào? Lúc nào cũng bảo văn nghệ là
dễ sai cơ mà.
... Nhưng nhìn rộng ra thật đáng
lo. Bao nhiêu chuyện xấu xa trong xã hội, văn nghệ chỉ là một chuyện rất nhỏ.
Phạm Tiến Duật cho rằng thôi, chẳng qua tình hình này chỉ yêu cầu người ta nên
im lặng. Mà im lặng là phải. Ví như bây giờ cái xe đang đi qua đoạn cua khó khăn. Chúng mình thì ngồi
sau xe. Sợ hãi không được. Mà nhìn lên cao, reo hò phong lan đẹp quá cũng
vô duyên.
Một cách giải thích hợp lý hơn: Cứ
khi nào xã hội có chuyện , muốn răn đe dân chúng nói chung, thì người ta mang
văn nghệ ra đánh.
Khi vào ném bom miền Bắc, thường
có hiện tượng máy bay Mỹ ném không hết bom. Trước khi trở lại tàu sân bay, phải
ném mốt số bom này đi, nếu không hạ cánh nguy hiểm. Có những vùng tự nhiên bị vạ.
Là địa điểm để hứng chỗ bom thừa đó.
Văn nghệ là một vùng ném bom tự
do như thế.
Không biết ai là người nói ra cái
ý này đầu tiên? Nghe bảo là ông Tô Hoài.
30/6
Xã hội gì mà... bất cứ chuyện
giai thoại, tiếu lâm nào cũng vận vào mình. Rất nhiều chuyện đồn đại. Điều đáng
sợ, là đồn đại luôn luôn ...đúng. Người ta sống bằng những bản năng tự vệ, và
những bản năng đó, cứ thế hoành hành.
Nguyễn Tuân: Thời nào, người ta
hay nói về những chuyện to tát, thì lại thường hay khổ vì những chuyện vặt.
Xuân Diệu: Xã hội này là xã hội
lý tưởng của những thằng mê - đi - oóc (
mediocre = kẻ tầm thường).
3/7
Một cô con gái mới ở nông thôn ra, làm nhà bếp
quân đội, cũng muốn ăn, muốn diện, muốn làm quen với các bạn bè khác, nhưng lại
chưa biết làm thế nào. Những câu đưa đẩy bắt quen của cô rất dại dột. Bọn thanh
niên không chơi với cô. Cuối cùng, cô lại rơi vào bẫy một lão già khốn nạn.
Những khu nhà Hà Nội đã không chứa
nổi người lớn, và càng không chứa nổi trẻ con. Trẻ con đổ ra đầy đường, bây giờ
nghỉ hè, tối người ta lại dạy hát cho bọn nó, sáng người ta lại bắt chúng nó tập
thể dục. Ở những phố vắng, người ta rào đường lại để làm sân chơi cho trẻ.
Cuộc sống hôm nay là thế nào? Là
cách sống chung không còn phù hợp với sự sống và sự phát triển của cá nhân nữa.
Là người ta đang cần phải sống khác đi, nhưng không sao khác được, loay hoay
không biết sống như thế nào cả.
Tôi nói ngay như chuyện giải trí. Lúc nào chúng tôi cũng thèm nhưng xã hội không mở ra bất cứ phương hướng nào và mỗi cá nhân không biết thỏa mãn nhu cầu của mình bằng cách nào.
Lại như nhu cầu làm việc. Khi một con người biết rằng mình cần làm việc
như thế nào, tức con người đó đã trưởng thành.
4/7
Như là đang có một thứ dịch, dịch phát hiện những
cái xấu, xỏ xiên, hai mặt trong văn học. Ngoài những chuyện vừa kể trên, ngày
càng lần ra những chuyện khác, có chuyện đúng, có chuyện sai, có chuyện do hớ
hênh, vớ vẩn mà buồn cười, có chuyện thật không đâu vào đâu, song người ta cứ vận
vào mình, hết sức lẩm cẩm.
- Báo Văn hoá nghệ thuật tiến hành một cuộc phỏng vấn những đức tính của
dân Việt Nam.
Kết quả, những đức tính như cần cù, giản dị, được 79-80% coi là
quan trọng. Những đức tính như trung thành với Đảng, với Cách mạng, số phiếu rất
thấp. Đúng là lạy ông tôi ở bụi này, mấy người ở báo rất dại dột, rất hớ hênh, không ra
làm sao cả.
- Bài ông Lê Đình Kỵ viết về Hải
Triều, trong đó có những đoạn trích rất ác. Giai cấp thống trị độc quyền, tự
chuốc lấy sự thoái hoá. Người nghệ sĩ trong những điều kiện đó như một thứ thày
tuồng, một thứ nhắc vở.
- Những Người về đồng cói, Bão biển lâu nay không sao, bây giờ cũng có ý kiến.
Câu hỏi đặt ra với Người về đồng cói:
Lấy đâu ra cái kiểu có một người đi xa về làm ầm lên mọi chuyện như vậy.
- Ông Thông đi nói chuyện ở các
nơi: Chủ tịch huyện có vấn đề. Ông Khải
không hiểu gì về CNXH
- Chuyện liên quan đến Nguyễn
Đình Thi: Kịch Hoa và Ngần và tập thơ
Dòng sông trong xanh. Mặc dù phần chủ
yếu trong tập, những bài hay nhất là lấy
từ Bài thơ Hắc Hải, nhưng Dòng sông trong xanh vẫn bị coi là yếu đuối, uỷ mị.
Thời buổi khó khăn. Cái khó khăn
lớn nhất là khó khăn để có thể tin, vì chỉ có thể, người ta mới làm được một ít
việc cần làm.
Lòng tin, đâu phải là chuyện của
những nhân vật lớn. Vì khái niệm thiên tài đã bao hàm trong nó khái niệm về
lòng tin mất rồi. Chỉ những người bình thường chúng tôi, mới cần đến lòng tin đến
thế!
19/7
Khải:
-- Cơ sở tâm lý của chủ nghĩa
McCarthy ở Mỹ -- Sau chiến tranh, trở về, người lính không thể trở lại làm một
người bình thường nữa. Người ta không biết làm nghề gì. Người ta phải tìm một
con đường ngắn nhất để kiếm sống.
Đang có cuộc trao đổi trên báo Nhân dân về làm ăn thật thà.
Hữu Mai:
-- Xã hội mình thì làm ăn
thật thà sao được. Sản xuất nhỏ không thể làm ăn thực thà. Phải có một nền sản
xuất lớn cơ!
Nguyễn Đình Thi:
--Lão chủ hãng Peugeot có thể làm ăn thật thà, còn như
anh chữa xe đạp đầu đường Hà Nội, nhất định phải sống bằng gian dối.
Cái chính là sau chiến tranh, người
ta phải thấy sợ, biết sợ, tuân thủ chặt chẽ những gì quy luật cuộc sống đòi
hỏi. Sự dũng cảm mà chiến tranh mang lại có những mặt tiêu cực của nó. Là nó
làm cho người ta không còn biết sợ là gì nữa, kể cả sợ những quy luật tất yếu.
Trong hai ngày 10, 11-7, ở Ninh
Bình có một cuộc phiến loạn. Thương binh dùng bạo lực, làm chủ thị xã.
Có khẩu hiệu, khẩu hiệu thay đổi nhanh. Thông tin liên lạc vững chắc, tổ chức
như một chiến dịch. Nhận định: đây có bàn tay địch. Từ nay về sau, cho phép bắn
bỏ.
Chiến tranh chỉ có ý nghĩa duy nhất,
khi nó đồng nghĩa với chiến thắng.
Dân số thủ đô: 1.378.000 người.
Dưới 15 tuổi : 570.000người. Dưới 6 tuổi:
240.000 người
Ngoài phố, ngày nào cũng có những
tin đồn về những vụ bắn nhau, giết nhau. Có một trăm lý do khác nhau, giải
thích quanh một vụ giết người như vậy. Nhưng chỉ có một lý do duy nhất -- chiến
tranh. Chiến tranh làm cho người ta không còn biết kỳ cương là gì nữa, không
còn biết sợ hãi, không còn nói với nhau bằng lời lẽ, pháp luật.
Cái chính là một xã hội làm thì
ít, ăn thì nhiều, đầu tư sức lực vào việc làm ra của cải thì ít, lo phân phối của
cải thì nhiều.
Cái chính là sự công bằng không có, khiến mọi người không cảm thấy
yên tâm làm việc. Làm hay làm dở ai biết cho mà cố? Làm chết xác trong khi kẻ khác
phá hoại thì làm làm gì?
Nhiều lần, tôi
muốn kêu to lên. Xã hội gì thì xã hội, tôi không cần biết tên, tên gì cũng được,
nhưng tôi cần cái này -- cần làm sao mọi người lao động, lao động làm thêm ra của
cải. Nếu không có lao động, thì mọi chuyện sẽ sụp đổ.
Dạo này, tôi muốn đi tới những
chuyện gốc rễ của vấn đề, đi tới như một cách kết luận cuối cùng.
- Có những vấn đề thuộc về chiến
tranh. Nhưng có những vấn đề thuộc về
cái mạch chung của xã hội này, 30 năm nay. Tôi muốn nói Cách mạng tháng 8, hình
như đó là một trường hợp ăn may. Và những người cầm đầu cứ thế mà kéo mình
đi, tưởng rằng có thể làm liều như vậy
mãi mãi. Không phải chỉ là chiến tranh và cũng không phải do người ta già yếu.
30 năm nay, ngay lúc người ta khoẻ mạnh, người ta đã chẳng ra sao rồi.
- Có những vấn đề thuộc về chủ nghĩa
nọ lý thuyết kia, những vấn đề chính trị. Nhưng cũng có những vấn đề thuộc về
cái cách sống của người dân thường ở đây nữa. Có ở đâu, người ta sống tạm bợ,
hèn hạ như ở đây. Xấu đều hơn tốt lỏi. Ăn
cỗ đi trước lội nước đi sau. Đọc những ca dao, những truyện cười, thấy người
ta loanh quanh chế giễu nhau trong những chuyện rất tầm thường. Cái dân tộc
tính ứ đọng trì trệ như vậy, là mảnh đất tốt để nhân tính biến hình, thay đổi,
mốc đi, rỉ đi, không sao ngóc đầu lên được.
...
Nhìn quanh lắm lúc bàng hoàng
kinh sợ cả người.
Sao dân mình nhiều người tồi tàn
như vậy. Ở những nơi khác, thêm một người,
là đóng góp thêm cho công việc, là thêm bao nhiêu điều tốt đẹp. Ở đây, thêm
một người, là thêm những đòi hỏi. Và đẻ thêm ra sự hỗn loạn, đẻ thêm ra bao
nhiêu lo toan. Tôi còn tin tưởng được ai nữa.
4/8
Tháng 7 âm lịch oi nồng là tháng
7 sống trong đe doạ của bệnh tật, nước sông, lụt lội, và cả bão nữa. Trời đất
phập phồng như thế nào ấy. Không ai có thể yên tâm làm việc gì.
Có xã hội nào như cái xã hội sau
chiến tranh, người cứ đổ cả ra đường, người không biết làm gì, ai cũng tính phải
sống khác, mà không biết sống thế nào.
Cuộc sống là tươi đẹp quá, không
ai muốn từ giã nó mà đi, nhưng ai cũng cảm thấy mình đã bị làm hỏng, mình không
xứng đáng, chẳng qua cùng sống ngắc ngoải với nhau cho xong --, một tình cảnh
không sao tha thứ được.
... Những buổi tối nghe Lâm kể chuyện Vũ. Hình như tất cả những người có tài đều xấu, xấu đến ghê gớm, đến làm
cho mình căm ghét lên được. Nhưng họ lại tài. Còn những người tốt, như tôi, như
Lâm, mới nhạt nhẽo làm sao, vô duyên làm sao. Cái xấu đứng đó để chứng nhận cho
chúng tôi thấy rằng chúng tôi sống khó khăn như thế nào, và giá có bị chửi là yếu
đuối, nhạt nhẽo, thì cũng là dễ hiểu thôi, không thể khác.
21/8
Đằng sau các vụ văn nghệ, nhiều
người nghe ra hơi các vấn đề chính trị. Hình như đang có một sự chạy đua vào
Trung ương, đang có một sự phân công lại công việc, và thế là bên nào cũng muốn
phô trương lực lượng.
Người ta thường khớp tất cả những việc báo Nhân Dân làm, từ Làm ăn thật thà, đến Minh
Chi, qua những bài Nguyễn Khải như là những đòn tấn công, tập trung vào một hướng,
và những đòn phản công toàn bộ hoạt động trên, làm nên cái hướng ngược lại.
Ở cấp trung gian, chắc những nhân
vật cỡ tương tự như Xuân Trường, Hoàng Trung Thông... phải tính toán nhiều hơn,
và có lợi cho họ cụ thể hơn.
Nhưng chỉ là đoán thế.
Một người như Duật thì chịu. Ngay
như ông Khải cũng thường nói:
-- Tôi cũng thấy có những nguyên nhân mơ hồ nào đó,
nó thổi bài tôi lên, gây những tác động bất ngờ. Đỗ Thân bảo do xôn xao việc chạy vào Trung
ương nên nhiều người chú ý tới bài Đối
mặt của Khải. Xưa nay những người làm văn nghệ vẫn chỉ là cái bung xung,
ai mà hiểu được.
23/8
Có đến bao nhiêu năm, tôi không chú ý gì tới
mùa thu. Nhưng năm này, tôi yêu quá màu hoa phượng còn sót lại khi cây lá đã lưa thưa. Tôi yên tâm đứng bên cửa sổ, nhìn những đoá hoa đại rơi trên đường. Buổi sáng vào thành để bơi, đạp xe trên những
con đường vắng, phải cố tránh đừng chẹt vào quả bàng. Mới hôm nào lá bàng bắt đầu
nẩy mầm mà hôm nay quả đã rụng, như từ lâu lắm đã chín lên như vậy.
Tôi yêu những buổi tối trong cơ
quan vắng vẻ, cây cối hương hoa chợt thức dậy. Yêu những con đường sau cơn mưa. Những gì thuộc về ước ao bản năng của một người con trai, tôi hiểu là chính
đáng, tôi không từ chối. Tôi bắt đầu cảm thấy tự hào vì cánh tay tôi mập khoẻ,
thân hình tôi rắn chắc, tôi bắt đầu thích ăn mặc những bộ quần áo đẹp, để một
kiểu đầu được mọi người chú ý. Tôi muốn yêu cuộc sống. Và cũng cần được cuộc sống
yêu lại... Giá như tôi có một gia đình, một đứa con, tôi sẽ trông nom cẩn thận.
Nhưng tôi lớn lên vào những năm
khốn khó quá chừng. Một cuộc sống êm đềm hạnh phúc và có tri thức là cuộc sống ở
đâu kia, làm sao mà tôi với tới được... Chung quanh, toàn những chuyện vô học,
bỉ ổi, lừa gạt, xoay sở. Nói một cách khái quát, thì thực tế cứ có những chỗ
vênh váo, mà tôi không sao chấp nhận. Tôi có thể sống với Th. nhưng Th.
đau yếu và bạc nhược thế, làm sao có hạnh phúc. Ngược lại bao nhiêu người con
gái khác lại không có cái khôn ngoan và từng trải như Th. Làm sao vừa thoả mãn
được cả những yêu cầu cụ thể của đời sống
hôm nay lẫn yêu cầu hạnh phúc lâu dài? Làm sao vừa có bản năng, vừa có trí tuệ?
20/11
Những điều người ta viết ra đã
ghê gớm.
Nhưng những điều con người chưa viết ra, lại
còn kinh khủng hơn biết bao nhiêu nữa.
Ví như, có lẽ chưa ai viết về việc
trong đời sống hôm nay, cái xấu nó lấn át, nó vây ép cái tốt ra sao. Mà đây lại
là một tình hình có thật, ít ra là trong hoàn cảnh của quanh tôi hôm nay. Tôi
đã được thấy những đám đông rối ren. Nhưng khi sự rối ren đã trở thành sự kiện
thường xuyên trong một đầu óc, thì mới là đáng kể.
Ngay giữa hai người bất kỳ thôi,
nhiều khi cũng có giời mà biết những gì hai người ấy nói với nhau.
4/12
Còn biết nói cách nào khác, nỗi
kinh khủng của chiến tranh, nhất là một cuộc chiến tranh thất bại.
Một ít người ở chiến trường về,
không biết làm gì, nhưng lại công thần, điệu bộ. Tôi biết họ có lý của họ, vào
địa vị họ tôi cũng phải làm thế. Nhưng nghĩ trên cái đại cục cứ thấy có gì
không phải.
Còn lớp người ở hậu phương là cả
một đống hỗn tạp, kẻ xấu hoành hành người tốt cắn răng nhẫn nhục. Luôn luôn cảm
thấy như một mắc nợ, mình phải nợ những người ở chiến trường về, trong khi họ
gây ra bao nhiêu phiền phức cho mình, họ chẳng biết làm gì cả.
Giữa hai bên là một thứ tình cảm
thù hằn ngấm ngầm.
Nhìn chung, con người bắt đầu sống
theo quy luật của rừng, người nào cũng giương vây lên, xù lông xù cánh ra. Một
người CA tát người lái xe già. Người lái xe bị xúc phạm dùng xe đâm chết người
CA. Khi kẻ thù của mình ngắc ngoải, ông ta còn lao vào đâm một lượt nữa mới hả.
Sau đó tự tử chết.
Chuyện ở đâu vậy? Chuyện ngay ở
đây, những người cùng thành phố của tôi. Tôi ghê tởm cái thực tế này. Tôi biết
chỉ có một cách sống là mềm ra như bún, là nhắm mắt nhắm mũi sống cho qua ngày.
Nhưng tôi biết rằng sức lực của tôi bị bào mòn. Và sức lực của bao nhiêu người
khác cũng bị bào mòn tương tự.
24/12
Bây giờ mới biết mùa đông là đẹp. Hỡi ôi, đến
cái mờ nhạt lạnh lẽo của cuộc đời này cũng đẹp. Cây cối xác xơ. Trời đất ong
ong tai tái. Những đốm đỏ trên đường, màu áo của bao nhiêu người, mà tôi đã thấy
trong bao nhiêu năm, giờ đây lại càng hấp dẫn. Tôi yêu trời đất này không thể tả.
Nhưng mà sao, nghĩ sao về mảnh đất
này, về những con người, mà hôm nay tôi gặp.
Không thể yêu nổi, đó là cái cảm
giác sau cùng, cái cảm giác quán xuyến về những người chung quanh tôi.
Rất đau khổ, nhưng không biết
cách kết luận nào khác.
Sao mà đất nước này nghèo vậy. Vì
nghèo mà sinh ra bao nhiêu chuyện - dốt nát, thấp hèn. Vì nghèo mà sinh ra tồi
tàn, mưu mẹo, bẩn thỉu. Những gì ở một cái chợ. Những gì ở một đám học trò. Những
gì ở câu chuyện ngồi lê đôi mách nơi các công sở. Tôi tưởng đáng lẽ người ta phải
sống có văn hoá hơn và chăm chỉ hơn. Đúng thế, tôi tưởng thế nào cơ. Sao đi đâu
cũng gặp những nghèo nàn và biếng lười, nó sinh ra bao nhiêu chuyện khác. Người
ta không biết sống với nhau. Người ta đang muốn sống khác đi, mà không khác nổi. Chắc thế, chỉ có một cách kết luận như thế.
26/12
Những đêm lạnh, trời rét, cái
rét ngấm vào phòng, và trừ những lần ngủ quên đi, còn thỉnh thoảng trong tôi
cũng có những đêm như đêm nay. Tôi muốn thức đến sáng. Tôi như được đối diện với
cả cuộc đời. Tôi miên man duyệt lại những cảm giác lớn nhất của cuộc đời
này. Lòng ham sống, bất cứ thế nào cũng sống. Những bàng hoàng khi hé nhìn ra cả thế giới này. Sự tẻ nhạt. Sự bất lực. Một ít biến động nửa vời. Một ít thèm muốn trở đi trở lại dù biết là không bao giờ đến được.
Không, tôi không thể sống như ngày hôm qua nữa.
Nhưng không, tôi cũng lại không
thể sống khác những gì tôi đã sống và đang sống.
Published on May 04, 2014 22:08
April 28, 2014
Một cách nghĩ khác về Nguyễn Khải
Bài đã in trên blog này ngày 26-8-2008
Tôi biết rằng nhiều người có cách nghĩ tương tự như Dương Tường khi đọc Đi tìm cái Tôi đã mất - Tùy bút chính trị của Nguyễn Khải (xem bài phỏng vấn trên talawas số ra 11-6-08). Và tôi tin chắc ở dưới suối vàng, tác giả Xung đột cũng muốn người đọc và đồng nghiệp nghĩ về mình như vậy. Nhưng với tôi, tác phẩm này gợi ra những suy nghĩ khác, xin sơ bộ trình bày như sau.
1. Gọi là Đi tìm cái Tôi đã mất cho sang. Ở đây tác giả không định đi tìm cái gì cả. Ông chỉ có nhu cầu trình bày một số ý tưởng. Những ý tưởng này đã sẵn có từ khi viết Thượng đế thì cười. Nhưng lúc đó tính rằng viết ra không tiện. Mà để không dùng làm gì thì cứ tiếc mãi. Nên nảy ra một hình thức tận dụng gọi là bổ sung hay phụ lục như vừa thấy. Có thể ông cũng biết rằng đời mình có những thứ bị đánh mất. Nhưng như chúng ta đều biết, việc đi tìm những cái đó bao hàm một nguy hiểm: Nó sẽ dẫn tới xu thế phủ nhận những gì ông đã có. Một người khôn ngoan và thực dụng như Nguyễn Khải chẳng đời nào bỏ công cho việc đó làm gì. Rút lại, định hướng chủ yếu của tác giả trong cả hai trường hợp chỉ là kể lại sự khôn ngoan tài ba “biết lui biết tới” của mình trong đường đời, bao gồm suốt quá trình lập nghiệp. Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết Đi tìm cái Tôi đã mất? Theo tôi, trường hợp này cũng giống như Chế Lan Viên viết Di cảo thơ, và Tố Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh. Thực chất cái việc các ông “cố ý làm nhòe khuôn mặt của mình” như thế này là cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).
2. Dương Tường rất thích cái câu Nguyễn Khải nói về giải thưởng, ấy là khi nhà văn “nhận ra ngay đây là cái bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc.” Nhưng như mấy anh em làm báo kể với tôi, những năm cuối đời, thấy ai khi nhắc tới mình mà quên nói thứ bậc giải mình đã được nhận là Nguyễn Khải đã không bằng lòng. Tôi tin điều đó vì còn nhớ một đầu việc hồi 1986-88. Đó là khi Nguyễn Khải có làm vài điều khiến anh em đồng nghiệp, nhất là lớp trẻ, thấy không phải. Trong tinh thần đổi mới, họ đối xử với ông thế nào đó khiến ông cảm thấy cũng chỉ cá mè một lứa như anh em chứ chẳng thuộc loại đấng bậc như mọi khi. Thế là ông kêu ầm lên, rằng người ta không được nói hỗn với tôi như vậy, rằng chẳng gì tôi cũng là cỡ Thường vụ Hội (một thứ quan chức chủ chốt, cái lõi của Ban chấp hành thuở còn thịnh trị; người có chân trong Thường vụ đứng còn cao hơn người chỉ là thành viên Ban chấp hành một bậc). Lại như khi Nguyễn Khải nói về toàn bộ sự nghiệp ông. “Cái tài sản tinh thần thâu góp một đời” ấy “về già nhìn lại”, ông nhận ra “chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.” Mấy chục năm trước ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi cũng thường được nghe Nguyễn Khải nói bằng cái giọng tương tự và cũng đã tin thật, tin hết mình. Nhưng càng ngày, tôi càng thấy đó chỉ là một nửa cái bánh mì. Và nửa kia của cái bánh chính là những lời đường mật người ta thường rót vào tai khi đối diện với chính mình “Ồ, mình chẳng kém ai!” “Liệu có ai sánh ngang mình? Không và không!” Câu nói đánh dấu phút tự bằng lòng của L. Tolstoi “Lão già ghê thật!” có thể dùng làm đề từ cho cuốn Thượng đế thì cười. Bên cạnh lời tự thú nhũn nhặn mà Dương Tường tin và dẫn ra, lúc nào cũng còn một Nguyễn Khải tự mê mình như vậy. Cả hai hợp lại mới làm nên thái độ của Nguyễn Khải với sự nghiệp của bản thân.
3. Đúng như Dương Tường nói, trong Nguyễn Khải có hai con người. “Một Nguyễn Khải khôn khéo giả dối và một Nguyễn Khải thành thật trắng trợn. Một Nguyễn Khải hèn nhát và một Nguyễn Khải khinh ghét tay Nguyễn Khải hèn nhát kia. Và sự tranh chấp giữa hai con người ấy không bao giờ ngã ngũ.” Tôi chỉ muốn bổ sung: Sự tranh chấp ở đây thực ra chỉ là bề ngoài, trên sàn diễn, trước mặt bàn dân thiên hạ. Chứ ở hậu trường Nguyễn Khải yêu cả hai con người đó ở mình. Ông sống hòa hợp với cả hai. Tùy trường hợp mà ông đưa con người này hay con người kia ra để làm hàng. Lối nghĩ này đã giúp ông thành công chói lọi trong suốt đường đời, và cho đến giai đoạn chung cục của đời sống, ông vẫn giữ, không tự khác mình đi đến một mi-li -mét!
4. Nếu được phép thành thực, tôi muốn nói rằng những nhận xét về xã hội và đời sống mà Nguyễn Khải viết trong tùy bút chính trị này không mấy đặc sắc, không phải là cỡ Nguyễn Khải mới nghĩ được, người ta vẫn nói giăng giăng với nhau ngoài quán nước. Điều kiện để một nhà văn khi trình bày những ý nghĩ loại này không trở thành chung chung mà có sức thuyết phục là tác giả phải sống với nó một cách sâu sắc. Tức là nó phải được viết nên như vừa được tác giả tìm ra, chỉ có nó duy nhất đúng, nhà văn đã lấy cả đời mình ra bảo đảm cho nó, tất cả những gì ngược với nó phải bị xem như đáng xấu hổ, đáng băm vằm hủy bỏ. Đến chỗ này phải nói Nguyễn Khải – cũng như số đông chúng ta – đã dừng lại, dù không cố ý, thì sự thực đã dừng. Thời Xôviết, ở Nga có nhà văn J. Trifonov (1925-1981). Năm mới 26 tuổi (1951), ông được Giải thưởng Stalin với cuốn Những sinh viên. Sau này ông viết những truyện vừa hoặc tiểu thuyết như Đổi trao, Giã từ, Ông già, Ngôi nhà khu bờ sông… với cảm hứng hoàn toàn “phi chính thống”, nên được bạn đọc trong ngoài nước đặt nhiều kỳ vọng và nhiều nhà xuất bản lớn ở Anh, Pháp, Đức cho dịch. Có người bảo rằng họ thích ông cả hai, tức cả thời Những sinh viên lẫn thời sau. Trifonov bảo như thế là vô liêm sỉ. Và trong các tuyển tập có sự đồng ý của ông, cuốn tiểu thuyết đầu tay không bao giờ được phép xuất hiện. Ở Việt Nam gần như không thể tìm thấy một nhà văn nào có cách cư xử tương tự. Cùng lắm, khi làm các tuyển tập, người ta có thể bỏ một số bài thơ trang truyện quá “chối”, quá “lộ diện”. Chứ còn toàn bộ tư tưởng thời trẻ thì người ta xin cứ được giữ, không ai là không muốn giữ.
5. Khi viết về tiểu thuyết Thượng đế thì cười, tôi đã nói rằng hồi ký không phải là những cuốn sách ở đó người viết ca công tụng đức mình. Mà yêu cầu chính đặt ra với các cuốn hồi ký theo nghĩa hiện đại là nhà văn phải lấy toàn bộ con người mình ra làm đối tượng khảo sát, sẵn sàng “lật tẩy”, “xét lại” chính mình, “lật lại cả vụ án” là chính cuộc đời mình. Chỉ có làm như thế người ta mới thực sự làm cuộc phiêu lưu mới và viết được những trang cần cho nhân quần thế sự. Đến nay tôi vẫn có ý nghĩ đó. Tùy bút Đi tìm cái Tôi đã mất cũng như tiểu thuyết Thượng đế thì cười đều có dáng dấp hồi ký nhưng vẫn không phải thực là hồi ký theo nghĩa tôi đề nghị. Hầu như người viết hồi ký nào cũng hứa hẹn rằng ông ta sẽ viết rất thật. Nhưng tôi cho rằng cần có một sự phân biệt rạch ròi giữa kỳ vọng và hiệu quả mà tác phẩm mang lại. Trong nghệ thuật thành thực không hề là chuyện dễ mà là việc khó, không phải chuyện tối thiểu mà là việc tối đa. Không phải người ta cứ muốn rồi là thành thực ngay được đâu, phải có tài năng và bản lĩnh thế nào mới thực sự đạt tới cái hiệu quả tuyệt vời kia.
6. Một lần nữa trở lại với cái tên Đi tìm cái Tôi đã mất. Chắc không chỉ riêng tôi mà nhiều người cảm thấy nó là tiếng vọng từ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust. Hồi trẻ, giá thấy ai làm thế, hẳn Nguyễn Khải sẽ gọi tên chỉ mặt ra mà giễu cợt, hoặc nếu không cũng tự mình cười thầm. Nay thì Nguyễn Khải cũng hồn nhiên mà làm cái việc nương tựa vào ánh vinh quang xa lạ kia. Thế mới biết sức mạnh của thời gian. “Ôi khủng khiếp thời gian ăn cuộc sống.” Đâu có một lần Xuân Diệu đã dẫn ra một câu thơ Pháp như vậy và ông bảo là của C. Beaudelaire. Còn mới hôm nọ thôi, đọc báo Văn Nghệ trẻ 18-5-08, thấy có bài viết riêng về tác giả Người Trung Quốc xấu xí nhân việc nhà văn này qua đời. Đây là một câu của Bá Dương được người ta nhắc tới: “Lòng tham lam gặm nhấm nhân tính.”
7. Bài viết này chủ yếu là viết về Nguyễn Khải, nhưng nó được gợi ý từ những câu trả lời của Dương Tường. Ở cuối bài, Dương Tường kể là dạo này ông thường đi lại chơi bời cùng lớp trẻ. Và khi được hỏi Văn chương hôm nay, điều gì đang làm cho ông quan tâm nhất?, ông bảo đó là "Sự khao khát vạch những con đường mới của lớp trẻ, rũ bỏ mặc cảm và phá vỡ những khuôn khổ kìm hãm sáng tạo". Đọc giữa hai hàng chữ, tôi hiểu có một điều Dương Tường chưa tiện nói ra, đó là với lớp trẻ, ông đang đóng vai một thứ sếp sòng, một người cổ võ nồng nhiệt, người hướng đạo. Hẳn nhiều cây bút trong lớp đi trước cũng cảm thấy thơm lây vì có một Dương Tường như vậy. Nhưng từ trường hợp của Nguyễn Khải nói ở đây, có thể thấy còn một cách làm nữa mà tôi muốn ngày càng có thêm người thử bắt tay làm. Đó là chúng ta hãy mang mình ra phân tích. Hãy thật sự tỉnh táo trong việc nhìn lại mình. Hãy đối chiếu mình với yêu cầu của cộng đồng và tự vạch ra cho chung quanh thấy hết những lầm lỡ và cả những cơ hội hèn hạ kiếm chác ngu muội man trá của thế hệ mình… Có nghĩa làm chính những việc Nguyễn Khải làm, chỉ có điều với nhiệt tình khác hẳn, hoặc có thể nói với tinh thần quyết liệt hơn, sòng phẳng hơn và cũng vô tư hơn. Khi ấy những ê chề đau đớn mà chúng ta trải nghiệm không biết chừng sẽ đóng vai một bài học cho lớp trẻ. Họ sẽ tránh được những vết xe đổ.
Hà Nội 15-6-08
Published on April 28, 2014 19:22
April 26, 2014
Những tháng ngày ngột ngạt -- nhật ký Hà Nội 1974 (kỳ I)
11/1
Đoàn Công Tính - Cảm giác về
Hải Phòng. Mọi người cứ ngơ ngác, như là vừa bị lừa. Không ai còn thiết gì nữa.
Gọi nhau đi ăn thì lùi lũi đi, không hăng hái, không bốc lên được.
Những gì mà mọi người lo chi chút ngày hôm qua, coi như hỏng cả -- không dùng được việc gì.
Hôm nay, lại phải lo tích luỹ lại.
Và bây giờ sao người ta quên nhau ghê gớm như vậy -- Tính nói
thêm. Như tôi có thằng bạn, hồi chiến tranh phá hoại, tôi ngồi viết cho nó những
bức thư hàng 8-10 trang. Nay tôi nhận được nó bức thư 4 trang cũng chẳng muốn
trả lời.
15/1
Sách báo Sài Gòn ra ngày một nhiều mà các nhà văn trong ấy
cũng được nhắc tới nhiều hơn bao giờ hết. Trong một bài ký Tô Hoài kể ra một
người mà ai cũng hiểu là Vũ Bằng.
- Ở trong Nam, Vũ Bằng cũng viết hồi ký, không những kể chuyện
Thương nhớ mười hai mà còn kể về Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố
Nhân chuyện B52 cuối
72, Vũ Bằng tiếc Khâm Thiên cho đó là một
thứ nôi văn nghệ trước cách mạng, nhiều vấn đề của văn nghệ được bắt đầu từ
đây.
20/1
Thỉnh thoảng tôi quay ra hỏi ông Khải xem ngày xưa có thế này
không? Biết là làm khó cho ông, nhưng cứ muốn, nên không kìm được. Loanh quanh
lại trở về với vấn đề ấy. Để rồi hôm nay nghe ông gắt:
- Cái ông này cứ hỏi đường ngang cuốn chỉ mãi.... Cũng phải dần
dần vỡ ra, chứ ngày xưa cũng như thế này, ai sống làm sao nổi.
Nhưng mà thôi rồi, bây giờ đổ vỡ hết rồi. Không phương cứu chữa.
Chúng tôi nghĩ đến nước Đức sau đại chiến. Chúng tôi nghĩ đến nước Nga sa
hoàng.
Lúc nào đó, tôi lại trừng trừng tưởng tượng ra một khuôn mặt là cái mặt chính
mình để rồi nhìn thẳng vào đó. Anh nên nhớ anh ở vào một đất nước vừa qua một
cuộc chiến tranh. Và để làm cuộc chiến tranh này, người ta phải nghĩ ra một thứ
chủ nghĩa phát xít. Sống qua được thời này đã khá. Làm sao mà có thể ngẩng mặt
lên được.
Một nhà báo Pháp (?) viết đại ý : Tình hình ở Việt Nam là cả
hai bên còn muốn đánh nhau nữa. Nhưng dân chúng cả hai bên đã chán. Dân chúng
thành một thứ sức ép. Thế là một. Thứ hai, cần phải lo kiến thiết chứ. Thứ ba vấp
phải một bộ máy hành chính quá nặng .
Khải tóm tắt:
-- Cả thống nhất tổ quốc, cả xây dựng CNXH, với việc tự tổ chức mình lại xây dựng lại -- cả ba việc ấy đều hỏng, thế thì còn nói
chuyện gì.
Còn như chuyện hoà hợp dân tộc.
Một sĩ quan Sài Gòn:
-- Hoà hợp cũng có nhiều cách, như chanh pha nước đường,
thành nước chanh rất tuyệt. Nhưng cuội bỏ vào nước ngàn đời vẫn là hai thứ rời
rã. Bây giờ chúng tôi gặp các ông. Các ông không đời nào từ bỏ cách sống của
các ông. Mà chúng tôi vẫn phải giữ kiểu của chúng tôi. Thế thì chịu, chịu. Các
ông cứ nói rằng chúng tôi ôm chân Mỹ. Nhưng ở Việt Nam này, thả nào cũng phải dựa
vào một thế lực nước ngoài. Nếu không, làm sao tồn tại được. Chính chúng tôi
không bao giờ nói rằng: “Đời đời nhớ ơn nước bạn” như các ông...
Xuân Sách: Bây giờ hết chuyện đối thoại. Đối thoại trở thành
trớ trêu. Khổng Tử nói chuyện với Híp - pi làm sao được.
25/1
Tết. Những ngày vui là
một dịp để người ta nhìn mặt nhau gần
hơn. Một dịp để phô bày, tự bộc lộ. Đốt pháo ngày tết ư? Chẳng qua muốn
kêu to lên một tiếng chứng tỏ về sự có mặt của mình ở trong đời sống.
Cái xã hội hiện nay, chỉ có thể chấp nhận cho người ta sống với nhau như vậy.
Lòng đường là một cái
gì còn để hở một khoảng cho tự do với
nghĩa ai muốn làm gì thì làm. Con người đi lại tuỳ tiện. Xe ô tô tự dưng cắm cờ
(xí nghiệp nào đó mừng công). Có lần, một đám cưới thổi kèn bu rích rầm đường. Mỗi người giải thích
cái khe hở đó một kiểu, và khai thác nó theo cách có lợi cho mình. Xét ở cái sự bừa bãi, xuôi chiều, nhố nhăng, xã hội ta
cũng tự do lắm chứ.
ĐCTính:
-- Đi trên đường bây giờ, rất khó phân biệt những người nào,
thuộc nghề nghiệp gì. Mặt mũi tất cả nhoà hẳn đi. Nhưng sự khác nhau lặn sâu
vào bên trong thì vẫn còn đấy dù chỉ chút ít. Bên trong người ta vẫn khác nhau
bao nhiêu, để lại giống nhau biết mấy.
14/2
Khải:
--Đất nước làm sao mà lắm thứ kỷ niệm. Quanh năm kỷ niệm.
Nguyên Ngọc gửi thư về cho tôi, nói rằng chúng ta qua những ngày tháng chiến thắng
quằn quại. Mình ( Nguyên Ngọc) còn đang viết được vì mình còn ở giữa cái thực tế
đó. Nhưng mình còn phải vươn lên trên cái quằn quại kia.
Khải bình luận thêm:
-- Vươn lên thì chỉ còn bộ xương. Ông ấy gửi ra một cái ký,
lo rằng ở ngoài này không còn tinh thần chiến đấu nữa, nên lên giọng dạy đời.
Nghe mà sợ.
Tình cảnh và suy
nghĩ các nhà văn ở chiến trường thường vẫn
trở lại trong câu chuyện của chúng tôi.
Đâu trong một lá thư, Nguyễn Khoa Điềm cũng e ngại ngoài Bắc,
mọi người quên mất mọi chuyện, thanh niên bắt đầu nghĩ đến nghỉ ngơi.
Triệu Bôn gửi thư ra cho ông Tô Hoài. Em cũng muốn ra, nhưng
trên các anh ấy không cho ra. Trong này ngày ngày du kích chỉ uống rượu và nghe
đài Sài Gòn. Bọn em ngày đêm cầu nguyện làm sao cho Trung ương thấu hiểu tình
hình miền Nam.
Nguyễn Khắc Phục thì khái quát vào đây bây giờ ông dở ông, thằng
dở thằng, nửa đời nửa đoạn thế này!
Khải đế thêm, đến ở Hà Nội, cũng còn dở ông dở thằng nữa là ở
trong ấy..
Một câu ca dao tồn tại kiểu truyền khẩu ở chiến trường
Năm nay ăn tết rừng
xanh
Sang năm ăn tết ở quanh
rừng già
Anh ơi cố gắng nuôi gà
Để ta lại chuẩn bị ăn tết
rừng già rừng xanh
Tôi buột mồm chỉ cần
mượn hai bài thơ của Bertold Brecht là nói đủ hết tâm sự của mình. Một là Gửi người mai sau: “Quả tôi sống thời
gian cay đắng lắm”. Hai là Nói với con ( lúc đầu nói thời buổi này việc
gì phải học: sau đã lại dặn con cứ học văn học sử...). Câu trên là nhận định về
thời thế bây giờ. Câu dưới là trong tình thế ấy, phải sống và hành động ra sao.
Bằng Việt bảo thế thì hóa ra thời này cũng tương tự như thời Quốc xã rồi còn gì.
Tôi không cãi lại. Tôi cũng không biết tôi nghĩ gì nữa.
Cái tội ác lớn nhất của người quả lý xã hội hiện nay là làm cho người ta
không còn nghĩ đến chuyện làm thêm của cải. Làm thì bị cấm đoán. Chỉ sợ cá nhân giàu
thêm. Người ta chỉ còn có cách ăn cắp, nịnh bợ, đục khoét, nhớ thế mới có thể mát mặt ít chút. Và thế là ngấm ngầm đua nhau. Cái ao ước có
thể khá giả hơn, nó gắn chặt như một bộ phận trong mỗi con người chúng ta, làm
sao mà hòng xoá bỏ được.
3-3
Lúc nào buồn, có lẽ chỉ
cần ra đường là có thể hết. Hết cả buồn vặt . Bởi còn lại chỉ nỗi đau lòng lớn
lao. Bụi bậm, sự chen chúc, sự vô học, những gì lầm lụi, những gì tê liệt. Mặt
đường là một cái sân bẩn thỉu. Mặt đường là một cái ao tù nước đọng sau nhà để người
ta tha hồ vứt rác. Những câu nói khốn nạn, những câu chửi cay nghiệt.
Tôi biết nói thế nào đây, đây là cái thành phố của tôi, thành
phố quẫy lộn, thành phố dầu dãi, thành phố ngồi bệt xuống đất để tồn tại.
Cái điều mà tôi thường
không dám nghĩ tới, cái điều gọi bằng tên của nó là sự thất trận, cái không khí
chiến bại đang hoành hành, đang hiện ra đầy đủ với bộ mặt nhàu nát của nó hơn bao giờ
hết.
Đến lúc nào đó, sự trắng trợn của người ta là tự nhiên là có
đủ lý do chân chính. Không còn biết nói với nhau thế nào nữa. Có lúc, chính tôi
cũng nản. Với một nhân dân thế này, có thể xoay sở điều gì được?
21/3
Chưa bao giờ đời sống văn nghệ gay gắt như lúc này. Người ta
cần phải đe nẹt nhau, mỗi người phải đe nẹt chính mình.
Nxb Thanh niên mời
một buổi họp về thơ. Ông Chế Lan Viên "quạt cho bọn thơ trẻ một trận",
như lời sau này tôi nghe anh em kể lại.
- Lúc này chưa phải là lúc cầm cành đào đi giữa phố.
- Tình hình như phòng đầy hơi xăng. Anh làm cái gì? Hay anh định
xoè que diêm đốt lên ngọn lửa.
- Không cẩn thận sẽ sập tiệm
- Thơ không phải là để nói chuyện buồn.
- Chúng ta phải tự hào ở Trung ương Đảng ta có đường lối đúng
đắn. Bây giờ muốn có gạo ăn, ra đường mà hô Mao Trạch Đông muôn năm, Brêznhép
muôn năm, là lập tức có gạo ăn. Nhưng
chúng ta sẽ không làm như vậy. Chúng ta chọn bài Hịch tướng sĩ, và chọn chiến công Trần Hưng Đạo, là những gì chủ yếu
của lịch sử.
Ngay tình hình giải thưởng Hội nhà văn cũng phải chững lại, dạo
này đang có những chuyện đói kém. Tình hình chẳng ra sao. Ví như, giá làm được
cái chuyện giải thưởng này ngay sau ngừng bắn, thì phải hơn. Bây giờ thấy đã có
vị bẽ bàng.
30/3
Lại vẫn có nhiều tin
đánh nhau. Xe ủi đất đánh nhau với máy bay trực thăng. Các kỹ sư Bắc Việt làm
đường chia đôi miền Nam. Xe ủi đất đã ủi tung con đường đi đến hoà hợp—ai đó
bình luận.
... Xe tăng, thiết giáp vẫn là còn đang vào. Khốn khổ cho dân
tộc tôi, người ta đọ nhau về lòng tin, tranh hơn giành kém, một đứa bé con cũng
nói bố đi Nam, bố đi Nam. Nó chỉ biết có thế.
Không ai lo chuyện làm
ra của cải. Một kỹ sư nhà máy Trần Hưng Đạo nói với tôi: Mọi sản phẩm làm ra đều
hỏng đến 30%. Có nơi hỏng 70%. Một mẻ gang, chuẩn bị hàng nửa tháng trời. Một
công nhân rót gang nóng quá, vứt cát lung tung vào khuôn. Hỏng hết cả. Mất hàng
nghìn tiền điện.
31/3
Thành phố ồn quá, người đi, thanh niên nói cười ầm ĩ ngoài đường.
Thành phố như một con tàu trì trệ ì ạch. Những đám khói vẩn lên trên vườn hoa,
đám khói ở một gốc cây, đám khói sau một vạt lá sấu... Thành phố như một xứ nhà
quê, người già cổ hủ, trẻ em nhố nhăng lưu manh hoá.
Luôn luôn Hà Nội gợi cho ta cảm tưởng là một thứ thành phố có
thể đẹp, và ngày xưa có lẽ cũng đẹp, hơn là hôm nay đang đẹp. Không phải xấu nữa,
nó đang hư hỏng.
... Có lẽ trong cuộc đời, tôi sẽ không bao giờ quên được mùa
xuân năm nay. Mùa xuân thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng năm nay, chúng tôi ở vào một
mùa xuân bị đe doạ bởi nạn đói, có lẽ vì thế mà nó càng đẹp hơn chăng. Những
bông gạo nở tung ra trên thân cây nứt nẻ, hoa như rót từ nhựa cây phá ra mà
thành, hoa như một tiếng kêu cuối cùng của một thân cây. Cái không khí này mơn
man. Nền trời hồng lên như sắc lửa ở một đám cháy xa. Trời đất cũng đĩ tính
quá. Những đôi trai gái đi sát vào nhau hơn. Mọi vật đều khao khát sự sống.
Nhưng, như thế đấy, cái mà nẩy nở ở đây chỉ có là những mầm xấu, và cái đẹp
hùng vĩ thì hoá ra vô duyên lạc lõng.
Một xã hội cơ cấu theo kiểu con giun. Nghĩa là chỉ gồm những
bộ phận đơn giản và giống hệt nhau. Đó là xã hội của chúng tôi hôm nay. Sống
trong xã hội như vậy, không ai khác đi nổi.
Một lần nào đó, tôi đã nói với ông Khải rằng sống trong xã hội
này, để khỏi cảm thấy mình cắt đứt với lịch sử. Nhưng như thế thì đáng buồn
sao. Và một trong những lý do đáng buồn là chúng tôi không được chuẩn bị để sống
trong một xã hội như vậy.
12/4
Ngày hè đầu tiên, là ngày hôm kia: mưa rào.
Và ngày hôm nay, nắng rực rỡ, như suốt mùa hè qua , suốt những
mùa đông qua...đã nắng. Hoa gạo bung ra đã được một tháng. Cây đại trước cửa
phòng tôi đã lên những mầm thật mạnh. Suốt mấy ngày hôm nay, tôi có nhiều việc,
lúc thật vui, thật buồn. Mùa rét qua, có những khi tôi làm việc được liên tục.
Mùa xuân này, thì cái chính là tôi không còn an tâm để làm việc bình thường,
tôi không thể chịu được tình trạng nhạt nhẽo, lối đi bước một.
Tôi luôn luôn cảm thấy rằng mình thừa sức, nhưng lại không tìm
ra việc đáng làm . Và rút cục, kết quả công việc gần như số không.
Đọc lại một ít nhật ký những ngày 1967-68. Mấy năm nay, tôi
khác đi bao nhiêu trong ý nghĩ, nhưng lại vẫn cô quạnh như thế trong tâm tư.
Nhớ lại năm 1971, cái năm tôi gặp bao nhiêu người con gái, mà
sao không giữ được ai dừng lại với tôi. Khi ấy tôi 28 tuổi. Những lớp học, những
cuộc đi ngăn ngắn, và bài vở viết được khá nhiều. Cái năm 1971, lòng người, cái
loại người "cán bộ" mới vào đời như tôi, lòng còn đầy hy vọng, còn cảm thấy có thể thành tựu
gì đấy về "giải phóng". Một năm sau, chiến tranh nổ ra dữ dội hơn bao
giờ hết. Một năm sau nữa, hy vọng chỉ thành thất vọng, hoà bình thành ra sự tụt
xuống cái nấc cuối cùng trong niềm tin của mỗi người. Và đến năm nay, vẫn cái nấc
thang cuối cùng, cái mà năm ngoái tưởng đã là đáy, thì bây giờ ở trên đầu mình.
Vậy thì mọi điều sẽ ra sao?
Bây giờ là tháng tư 1974. Lại nhớ những khi tôi cố sống trong
bom đạn. Bây giờ, bom đạn ở xa, nhưng cả xứ sở này vẫn là xứ sở chiến tranh.
Cái luôn luôn đòi hỏi con người là sự nhẫn nại không chịu chết. Phải cố sống
trong mọi hoàn cảnh.
... Hãy quan sát xem, cái sự tan rã về mọi phía của xã hội,
nhất là sự tan rã của tư tưởng. Nó vẫn mang đầy đủ những nhân tố là cái vỏ cũ,
nhưng lại tự mình huỷ hoại đi tan nát đi, một cách kỳ lạ.
Một câu trong phim Waterloo
mới xem bên Xưởng phim quân đội: Ngoại trừ thất bại không kể, thì cuộc chiến
thắng nào cũng vẫn có nỗi buồn của nó.
14/4
Một đất nước của những tiếu lâm chính trị. Một đất nước lúc
này đây là của vinh quang, của những cuộc viếng thăm, nhưng ngay đấy là nỗi khổ
cực đến tê dại của mọi người dân bao gồm cả sự đầu độc tuyên truyền mà họ phải
chịu. Một đất nước mà mọi nguyên vọng bình thường đều cảm thấy lạc lõng, người
cầm quyền không cần đến cái bình thường đó.
Trong khi ở đây không có tự do gì hết, thì cái đài, tờ báo tự
nhận là vì dân xoen xoét thương tiếc cho những người nơi khác không có tự do.
Lúc nào cũng thấy người ta phân ưu với các nơi lụt bão. Làm
như ở đây sung sướng lắm.
Không, tôi không sợ sống khổ sở, chiến tranh thì tránh sao khỏi
khổ! Nhưng tôi đau đớn vì ngày mai, ngày kia, người ta còn bắt mọi người sống
khổ sở. Tôi có đủ lý do để hoàn toàn thất vọng vì cái xã hội này, cách cai trị
người dân ở đây. Nói một đằng thực tế một nẻo. Vơ vét để kiếm sống, ăn thịt
nhau. Đó là cách sống của con người.
Có những lúc, tôi oán trách “những người
anh em” không thương dân tộc tôi, không giúp chúng tôi đến cùng. Bây giờ
tôi thấy họ có lý, họ không thể thương những kẻ đi phá của. Đất nước chỉ đào tạo
những kẻ đi giết người. Ôi, thấy ghê rợn quá. Một bức ảnh phóng to đặt giữa đường
phố lớn nhất của thủ đô -- một đứa trẻ con cầm khẩu súng, vênh mặt.
... Sẽ sống làm sao đây, rồi sẽ ra sao nữa, tôi nguyền rủa những
kẻ không tính gì đến số phận chung của cộng đồng, không tính đến tương lai của
xứ sở.
16/4
Những buổi chiều cuối xuân đầu hè. Cảm giác mùa xuân muộn mằn,
cảm giác về một quãng đời tốt đẹp đi qua (nó như mùa xuân), cảm giác về một ít
thử thách sẽ tới (đáng sợ lắm, cái mùa hạ ấy).
Tôi, một người như tôi, một người
lười biếng, đơn điệu, vậy mà tôi có bao nhiêu điều đã sống.
Tôi nhớ lại một ít
quá khứ, một hai năm trước, năm mười năm trước. Tôi nghĩ tới hôm nay.
Cái đói
ám ảnh bao nhiêu đời thường ngay ở chung quanh Hà Nội. Những nồng nóng trong
không khí chính trị. Và cuộc đời thường, mà tôi thường mơ ước cho mình, như ao
ước cho bao nhiêu người khác, bao giờ cuộc đời thường đó đến được? Và tôi phải
làm gì cho nó, ở một người như tôi, tôi nên làm gì. Tôi không hiểu.
Ngay tôi
cũng không biết chia sẻ với ai nữa. Có bao nhiêu nơi tôi cần đến, cần biết.
Nhưng hình như chả có ai cần tôi. Đến gia đình nào, bạn bè hay họ hàng, tôi
cũng thấy hoặc là người ta bận bịu, khổ sở, không còn hơi đâu gặp tôi, hoặc là
họ lại nhạt nhẽo, vớ vẩn, khiến tôi không còn muốn nói điều gì với họ. Tôi muốn chửi toáng lên, về
cái trình độ thấp kém chung, nhưng tôi hiểu rằng như thế, trong cái đám ấy, tôi
cũng đã rất thấp kém, tôi làm sao giãy giụa ra thoát mọi chuyện. Cuộc đời đáng
yêu quá đi, cần phải sống quá, do đó mà phải bàn về cuộc sống, nhưng biết là bàn được với ai.
Đất nước của những khả năng.
Một người ít nhạy bén
về chuyện chính trị như tôi, cũng đã cảm nghe thấy rằng cần phải thay đổi, và
đây đó, trong những người chung quanh, cũng có dấu hiệu muốn thay đổi.
....
Chính là chiến tranh đã đến với Hà Nội chứ không phải ở nơi
nào khác. Chính là chiến tranh ở đây, chiến tranh tàn phá, xâu xé tất cả, chiến
tranh làm cho mọi thứ nát nhèo và rối tung cả lên, chiến tranh ăn rỗng mọi thân
thể, phá hoại mọi linh hồn, không còn đâu là sự lương thiện, không còn đâu là
niềm tin của con người.
- Tôi kinh nhất sự nguỵ tạo, sự dối trá.
- Ở đâu chẳng có dối trá? – một thằng tôi khác cãi lại.
- Không, dối trá ở những nơi khác là như thế nào đó, in ít
thôi, loáng thoáng thôi, người ta vẫn làm việc. Còn như ở chúng ta, sự dối trá
là để phụ hoạ cho sự ích kỷ hèn hạ, sự lười biếng. Dối trá thường xuyên và dối
trá nơi nơi.
Ôi, cái đất nước người nào cũng nhạy bén, người nào cũng làm
chính trị, rồi thì sẽ ra sao, có một cái thứ chính trị quan trọng nhất, là làm
việc một cách bình thản thì người ta không ai thèm làm.
7/5
Khải: Chiến tranh vui vẻ thật, người ta lên tướng lên tá ầm ầm.
Khi nhìn cái lon mới của mình thì chả ai nhớ chiến tranh cũng là khốn nạn cho
biết bao nhiêu người.
12/5
Từ miền Nam ra, Triệu
Bôn kể :
Ở trong ấy, không nghĩ được gì nữa. Như một con bò, chỉ biết
có gặm cỏ. Cách mạng miền Nam như một cơn mê ngủ, đến bây giờ cũng chưa ra khỏi
cơn mơ đó. Mọi người nôn nao chờ một cái gì đó thay đổi, mà không có. Sống ở
trong đó, chỉ có mấy anh em thân mật bàn bạc với nhau. Còn ra đám đông, cái
khóc cái cười của người ta rất lạ, không biết rằng thật hay giả nữa.
Có lúc, chúng tôi ngồi bàn nhau, hay là viết thư ra Trung
ương. Nhưng rồi thôi, chả ai làm.
Một cô gái hủ hoá với
rất nhiều người, nhưng không lấy ai. Hỏi cô, cô bảo bức bách thì giải quyết
sinh lý vậy. Chứ chả có ai đáng yêu.
Tiếp tục ghi những tâm sự Triệu Bôn :
- Cái mà tôi phải luôn luôn đấu tranh, đó là sự bất mãn. Mình
phải tránh bất mãn. Nhiều lý do lắm! Có lúc, tôi thấy ghê sợ khi nhìn mặt người.
Như một thứ bệnh sinh lý. Cái sức mạnh ghê gớm, lúc này lại càng hiểu được, tức
là lý tưởng. Không có lý tưởng, chúng tôi đã rơi vào tình trạng như vậy.
Ở chiến trường, người ta chỉ nói tới khôn dại. Không còn khái
niệm đúng sai gì nữa. Người ta chiến đấu, bởi không biết làm một việc gì khác nữa.
Nếu năm 1976, chúng ta không đánh, thì sẽ tan rã từng mảng.
Thằng địch nó bảo: Tha hồ cho các anh đánh tôi. Chúng tôi là
bán nước. Vâng! Chúng tôi là lính đánh thuê. Vâng! Chúng tôi là công cụ chủ
nghĩa thực dân mới. Vâng! Nhưng nhất định là chúng tôi sẽ đánh thắng các anh.
Cái chính của cuộc chiến
tranh lúc này, là người dân đứng ngoài mọi chuyện. Ở Nam Bộ, có loại thanh
niên, gọi là thanh niên bù trao. Họ không theo địch, khi địch đến thì họ chạy,
cùng lắm thì họ mới đánh. Nhưng họ cũng không theo ta. Họ tụ tập với nhau,
thành một đám người giữa đồng, cũng tăng võng như bộ đội, rồi đi buôn, đi tát
cá. Kiếm ăn. Kiếm ăn và ngồi hát cải lương sầu tủi, nội dung cuộc sống chỉ còn
như vậy. Toàn Nam Bộ, số người đi bù trao này tập họp cũng được vài sư đoàn.
Đoàn Công Tính - Cảm giác về
Hải Phòng. Mọi người cứ ngơ ngác, như là vừa bị lừa. Không ai còn thiết gì nữa.
Gọi nhau đi ăn thì lùi lũi đi, không hăng hái, không bốc lên được.
Những gì mà mọi người lo chi chút ngày hôm qua, coi như hỏng cả -- không dùng được việc gì.
Hôm nay, lại phải lo tích luỹ lại.
Và bây giờ sao người ta quên nhau ghê gớm như vậy -- Tính nói
thêm. Như tôi có thằng bạn, hồi chiến tranh phá hoại, tôi ngồi viết cho nó những
bức thư hàng 8-10 trang. Nay tôi nhận được nó bức thư 4 trang cũng chẳng muốn
trả lời.
15/1
Sách báo Sài Gòn ra ngày một nhiều mà các nhà văn trong ấy
cũng được nhắc tới nhiều hơn bao giờ hết. Trong một bài ký Tô Hoài kể ra một
người mà ai cũng hiểu là Vũ Bằng.
- Ở trong Nam, Vũ Bằng cũng viết hồi ký, không những kể chuyện
Thương nhớ mười hai mà còn kể về Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố
Nhân chuyện B52 cuối
72, Vũ Bằng tiếc Khâm Thiên cho đó là một
thứ nôi văn nghệ trước cách mạng, nhiều vấn đề của văn nghệ được bắt đầu từ
đây.
20/1
Thỉnh thoảng tôi quay ra hỏi ông Khải xem ngày xưa có thế này
không? Biết là làm khó cho ông, nhưng cứ muốn, nên không kìm được. Loanh quanh
lại trở về với vấn đề ấy. Để rồi hôm nay nghe ông gắt:
- Cái ông này cứ hỏi đường ngang cuốn chỉ mãi.... Cũng phải dần
dần vỡ ra, chứ ngày xưa cũng như thế này, ai sống làm sao nổi.
Nhưng mà thôi rồi, bây giờ đổ vỡ hết rồi. Không phương cứu chữa.
Chúng tôi nghĩ đến nước Đức sau đại chiến. Chúng tôi nghĩ đến nước Nga sa
hoàng.
Lúc nào đó, tôi lại trừng trừng tưởng tượng ra một khuôn mặt là cái mặt chính
mình để rồi nhìn thẳng vào đó. Anh nên nhớ anh ở vào một đất nước vừa qua một
cuộc chiến tranh. Và để làm cuộc chiến tranh này, người ta phải nghĩ ra một thứ
chủ nghĩa phát xít. Sống qua được thời này đã khá. Làm sao mà có thể ngẩng mặt
lên được.
Một nhà báo Pháp (?) viết đại ý : Tình hình ở Việt Nam là cả
hai bên còn muốn đánh nhau nữa. Nhưng dân chúng cả hai bên đã chán. Dân chúng
thành một thứ sức ép. Thế là một. Thứ hai, cần phải lo kiến thiết chứ. Thứ ba vấp
phải một bộ máy hành chính quá nặng .
Khải tóm tắt:
-- Cả thống nhất tổ quốc, cả xây dựng CNXH, với việc tự tổ chức mình lại xây dựng lại -- cả ba việc ấy đều hỏng, thế thì còn nói
chuyện gì.
Còn như chuyện hoà hợp dân tộc.
Một sĩ quan Sài Gòn:
-- Hoà hợp cũng có nhiều cách, như chanh pha nước đường,
thành nước chanh rất tuyệt. Nhưng cuội bỏ vào nước ngàn đời vẫn là hai thứ rời
rã. Bây giờ chúng tôi gặp các ông. Các ông không đời nào từ bỏ cách sống của
các ông. Mà chúng tôi vẫn phải giữ kiểu của chúng tôi. Thế thì chịu, chịu. Các
ông cứ nói rằng chúng tôi ôm chân Mỹ. Nhưng ở Việt Nam này, thả nào cũng phải dựa
vào một thế lực nước ngoài. Nếu không, làm sao tồn tại được. Chính chúng tôi
không bao giờ nói rằng: “Đời đời nhớ ơn nước bạn” như các ông...
Xuân Sách: Bây giờ hết chuyện đối thoại. Đối thoại trở thành
trớ trêu. Khổng Tử nói chuyện với Híp - pi làm sao được.
25/1
Tết. Những ngày vui là
một dịp để người ta nhìn mặt nhau gần
hơn. Một dịp để phô bày, tự bộc lộ. Đốt pháo ngày tết ư? Chẳng qua muốn
kêu to lên một tiếng chứng tỏ về sự có mặt của mình ở trong đời sống.
Cái xã hội hiện nay, chỉ có thể chấp nhận cho người ta sống với nhau như vậy.
Lòng đường là một cái
gì còn để hở một khoảng cho tự do với
nghĩa ai muốn làm gì thì làm. Con người đi lại tuỳ tiện. Xe ô tô tự dưng cắm cờ
(xí nghiệp nào đó mừng công). Có lần, một đám cưới thổi kèn bu rích rầm đường. Mỗi người giải thích
cái khe hở đó một kiểu, và khai thác nó theo cách có lợi cho mình. Xét ở cái sự bừa bãi, xuôi chiều, nhố nhăng, xã hội ta
cũng tự do lắm chứ.
ĐCTính:
-- Đi trên đường bây giờ, rất khó phân biệt những người nào,
thuộc nghề nghiệp gì. Mặt mũi tất cả nhoà hẳn đi. Nhưng sự khác nhau lặn sâu
vào bên trong thì vẫn còn đấy dù chỉ chút ít. Bên trong người ta vẫn khác nhau
bao nhiêu, để lại giống nhau biết mấy.
14/2
Khải:
--Đất nước làm sao mà lắm thứ kỷ niệm. Quanh năm kỷ niệm.
Nguyên Ngọc gửi thư về cho tôi, nói rằng chúng ta qua những ngày tháng chiến thắng
quằn quại. Mình ( Nguyên Ngọc) còn đang viết được vì mình còn ở giữa cái thực tế
đó. Nhưng mình còn phải vươn lên trên cái quằn quại kia.
Khải bình luận thêm:
-- Vươn lên thì chỉ còn bộ xương. Ông ấy gửi ra một cái ký,
lo rằng ở ngoài này không còn tinh thần chiến đấu nữa, nên lên giọng dạy đời.
Nghe mà sợ.
Tình cảnh và suy
nghĩ các nhà văn ở chiến trường thường vẫn
trở lại trong câu chuyện của chúng tôi.
Đâu trong một lá thư, Nguyễn Khoa Điềm cũng e ngại ngoài Bắc,
mọi người quên mất mọi chuyện, thanh niên bắt đầu nghĩ đến nghỉ ngơi.
Triệu Bôn gửi thư ra cho ông Tô Hoài. Em cũng muốn ra, nhưng
trên các anh ấy không cho ra. Trong này ngày ngày du kích chỉ uống rượu và nghe
đài Sài Gòn. Bọn em ngày đêm cầu nguyện làm sao cho Trung ương thấu hiểu tình
hình miền Nam.
Nguyễn Khắc Phục thì khái quát vào đây bây giờ ông dở ông, thằng
dở thằng, nửa đời nửa đoạn thế này!
Khải đế thêm, đến ở Hà Nội, cũng còn dở ông dở thằng nữa là ở
trong ấy..
Một câu ca dao tồn tại kiểu truyền khẩu ở chiến trường
Năm nay ăn tết rừng
xanh
Sang năm ăn tết ở quanh
rừng già
Anh ơi cố gắng nuôi gà
Để ta lại chuẩn bị ăn tết
rừng già rừng xanh
Tôi buột mồm chỉ cần
mượn hai bài thơ của Bertold Brecht là nói đủ hết tâm sự của mình. Một là Gửi người mai sau: “Quả tôi sống thời
gian cay đắng lắm”. Hai là Nói với con ( lúc đầu nói thời buổi này việc
gì phải học: sau đã lại dặn con cứ học văn học sử...). Câu trên là nhận định về
thời thế bây giờ. Câu dưới là trong tình thế ấy, phải sống và hành động ra sao.
Bằng Việt bảo thế thì hóa ra thời này cũng tương tự như thời Quốc xã rồi còn gì.
Tôi không cãi lại. Tôi cũng không biết tôi nghĩ gì nữa.
Cái tội ác lớn nhất của người quả lý xã hội hiện nay là làm cho người ta
không còn nghĩ đến chuyện làm thêm của cải. Làm thì bị cấm đoán. Chỉ sợ cá nhân giàu
thêm. Người ta chỉ còn có cách ăn cắp, nịnh bợ, đục khoét, nhớ thế mới có thể mát mặt ít chút. Và thế là ngấm ngầm đua nhau. Cái ao ước có
thể khá giả hơn, nó gắn chặt như một bộ phận trong mỗi con người chúng ta, làm
sao mà hòng xoá bỏ được.
3-3
Lúc nào buồn, có lẽ chỉ
cần ra đường là có thể hết. Hết cả buồn vặt . Bởi còn lại chỉ nỗi đau lòng lớn
lao. Bụi bậm, sự chen chúc, sự vô học, những gì lầm lụi, những gì tê liệt. Mặt
đường là một cái sân bẩn thỉu. Mặt đường là một cái ao tù nước đọng sau nhà để người
ta tha hồ vứt rác. Những câu nói khốn nạn, những câu chửi cay nghiệt.
Tôi biết nói thế nào đây, đây là cái thành phố của tôi, thành
phố quẫy lộn, thành phố dầu dãi, thành phố ngồi bệt xuống đất để tồn tại.
Cái điều mà tôi thường
không dám nghĩ tới, cái điều gọi bằng tên của nó là sự thất trận, cái không khí
chiến bại đang hoành hành, đang hiện ra đầy đủ với bộ mặt nhàu nát của nó hơn bao giờ
hết.
Đến lúc nào đó, sự trắng trợn của người ta là tự nhiên là có
đủ lý do chân chính. Không còn biết nói với nhau thế nào nữa. Có lúc, chính tôi
cũng nản. Với một nhân dân thế này, có thể xoay sở điều gì được?
21/3
Chưa bao giờ đời sống văn nghệ gay gắt như lúc này. Người ta
cần phải đe nẹt nhau, mỗi người phải đe nẹt chính mình.
Nxb Thanh niên mời
một buổi họp về thơ. Ông Chế Lan Viên "quạt cho bọn thơ trẻ một trận",
như lời sau này tôi nghe anh em kể lại.
- Lúc này chưa phải là lúc cầm cành đào đi giữa phố.
- Tình hình như phòng đầy hơi xăng. Anh làm cái gì? Hay anh định
xoè que diêm đốt lên ngọn lửa.
- Không cẩn thận sẽ sập tiệm
- Thơ không phải là để nói chuyện buồn.
- Chúng ta phải tự hào ở Trung ương Đảng ta có đường lối đúng
đắn. Bây giờ muốn có gạo ăn, ra đường mà hô Mao Trạch Đông muôn năm, Brêznhép
muôn năm, là lập tức có gạo ăn. Nhưng
chúng ta sẽ không làm như vậy. Chúng ta chọn bài Hịch tướng sĩ, và chọn chiến công Trần Hưng Đạo, là những gì chủ yếu
của lịch sử.
Ngay tình hình giải thưởng Hội nhà văn cũng phải chững lại, dạo
này đang có những chuyện đói kém. Tình hình chẳng ra sao. Ví như, giá làm được
cái chuyện giải thưởng này ngay sau ngừng bắn, thì phải hơn. Bây giờ thấy đã có
vị bẽ bàng.
30/3
Lại vẫn có nhiều tin
đánh nhau. Xe ủi đất đánh nhau với máy bay trực thăng. Các kỹ sư Bắc Việt làm
đường chia đôi miền Nam. Xe ủi đất đã ủi tung con đường đi đến hoà hợp—ai đó
bình luận.
... Xe tăng, thiết giáp vẫn là còn đang vào. Khốn khổ cho dân
tộc tôi, người ta đọ nhau về lòng tin, tranh hơn giành kém, một đứa bé con cũng
nói bố đi Nam, bố đi Nam. Nó chỉ biết có thế.
Không ai lo chuyện làm
ra của cải. Một kỹ sư nhà máy Trần Hưng Đạo nói với tôi: Mọi sản phẩm làm ra đều
hỏng đến 30%. Có nơi hỏng 70%. Một mẻ gang, chuẩn bị hàng nửa tháng trời. Một
công nhân rót gang nóng quá, vứt cát lung tung vào khuôn. Hỏng hết cả. Mất hàng
nghìn tiền điện.
31/3
Thành phố ồn quá, người đi, thanh niên nói cười ầm ĩ ngoài đường.
Thành phố như một con tàu trì trệ ì ạch. Những đám khói vẩn lên trên vườn hoa,
đám khói ở một gốc cây, đám khói sau một vạt lá sấu... Thành phố như một xứ nhà
quê, người già cổ hủ, trẻ em nhố nhăng lưu manh hoá.
Luôn luôn Hà Nội gợi cho ta cảm tưởng là một thứ thành phố có
thể đẹp, và ngày xưa có lẽ cũng đẹp, hơn là hôm nay đang đẹp. Không phải xấu nữa,
nó đang hư hỏng.
... Có lẽ trong cuộc đời, tôi sẽ không bao giờ quên được mùa
xuân năm nay. Mùa xuân thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng năm nay, chúng tôi ở vào một
mùa xuân bị đe doạ bởi nạn đói, có lẽ vì thế mà nó càng đẹp hơn chăng. Những
bông gạo nở tung ra trên thân cây nứt nẻ, hoa như rót từ nhựa cây phá ra mà
thành, hoa như một tiếng kêu cuối cùng của một thân cây. Cái không khí này mơn
man. Nền trời hồng lên như sắc lửa ở một đám cháy xa. Trời đất cũng đĩ tính
quá. Những đôi trai gái đi sát vào nhau hơn. Mọi vật đều khao khát sự sống.
Nhưng, như thế đấy, cái mà nẩy nở ở đây chỉ có là những mầm xấu, và cái đẹp
hùng vĩ thì hoá ra vô duyên lạc lõng.
Một xã hội cơ cấu theo kiểu con giun. Nghĩa là chỉ gồm những
bộ phận đơn giản và giống hệt nhau. Đó là xã hội của chúng tôi hôm nay. Sống
trong xã hội như vậy, không ai khác đi nổi.
Một lần nào đó, tôi đã nói với ông Khải rằng sống trong xã hội
này, để khỏi cảm thấy mình cắt đứt với lịch sử. Nhưng như thế thì đáng buồn
sao. Và một trong những lý do đáng buồn là chúng tôi không được chuẩn bị để sống
trong một xã hội như vậy.
12/4
Ngày hè đầu tiên, là ngày hôm kia: mưa rào.
Và ngày hôm nay, nắng rực rỡ, như suốt mùa hè qua , suốt những
mùa đông qua...đã nắng. Hoa gạo bung ra đã được một tháng. Cây đại trước cửa
phòng tôi đã lên những mầm thật mạnh. Suốt mấy ngày hôm nay, tôi có nhiều việc,
lúc thật vui, thật buồn. Mùa rét qua, có những khi tôi làm việc được liên tục.
Mùa xuân này, thì cái chính là tôi không còn an tâm để làm việc bình thường,
tôi không thể chịu được tình trạng nhạt nhẽo, lối đi bước một.
Tôi luôn luôn cảm thấy rằng mình thừa sức, nhưng lại không tìm
ra việc đáng làm . Và rút cục, kết quả công việc gần như số không.
Đọc lại một ít nhật ký những ngày 1967-68. Mấy năm nay, tôi
khác đi bao nhiêu trong ý nghĩ, nhưng lại vẫn cô quạnh như thế trong tâm tư.
Nhớ lại năm 1971, cái năm tôi gặp bao nhiêu người con gái, mà
sao không giữ được ai dừng lại với tôi. Khi ấy tôi 28 tuổi. Những lớp học, những
cuộc đi ngăn ngắn, và bài vở viết được khá nhiều. Cái năm 1971, lòng người, cái
loại người "cán bộ" mới vào đời như tôi, lòng còn đầy hy vọng, còn cảm thấy có thể thành tựu
gì đấy về "giải phóng". Một năm sau, chiến tranh nổ ra dữ dội hơn bao
giờ hết. Một năm sau nữa, hy vọng chỉ thành thất vọng, hoà bình thành ra sự tụt
xuống cái nấc cuối cùng trong niềm tin của mỗi người. Và đến năm nay, vẫn cái nấc
thang cuối cùng, cái mà năm ngoái tưởng đã là đáy, thì bây giờ ở trên đầu mình.
Vậy thì mọi điều sẽ ra sao?
Bây giờ là tháng tư 1974. Lại nhớ những khi tôi cố sống trong
bom đạn. Bây giờ, bom đạn ở xa, nhưng cả xứ sở này vẫn là xứ sở chiến tranh.
Cái luôn luôn đòi hỏi con người là sự nhẫn nại không chịu chết. Phải cố sống
trong mọi hoàn cảnh.
... Hãy quan sát xem, cái sự tan rã về mọi phía của xã hội,
nhất là sự tan rã của tư tưởng. Nó vẫn mang đầy đủ những nhân tố là cái vỏ cũ,
nhưng lại tự mình huỷ hoại đi tan nát đi, một cách kỳ lạ.
Một câu trong phim Waterloo
mới xem bên Xưởng phim quân đội: Ngoại trừ thất bại không kể, thì cuộc chiến
thắng nào cũng vẫn có nỗi buồn của nó.
14/4
Một đất nước của những tiếu lâm chính trị. Một đất nước lúc
này đây là của vinh quang, của những cuộc viếng thăm, nhưng ngay đấy là nỗi khổ
cực đến tê dại của mọi người dân bao gồm cả sự đầu độc tuyên truyền mà họ phải
chịu. Một đất nước mà mọi nguyên vọng bình thường đều cảm thấy lạc lõng, người
cầm quyền không cần đến cái bình thường đó.
Trong khi ở đây không có tự do gì hết, thì cái đài, tờ báo tự
nhận là vì dân xoen xoét thương tiếc cho những người nơi khác không có tự do.
Lúc nào cũng thấy người ta phân ưu với các nơi lụt bão. Làm
như ở đây sung sướng lắm.
Không, tôi không sợ sống khổ sở, chiến tranh thì tránh sao khỏi
khổ! Nhưng tôi đau đớn vì ngày mai, ngày kia, người ta còn bắt mọi người sống
khổ sở. Tôi có đủ lý do để hoàn toàn thất vọng vì cái xã hội này, cách cai trị
người dân ở đây. Nói một đằng thực tế một nẻo. Vơ vét để kiếm sống, ăn thịt
nhau. Đó là cách sống của con người.
Có những lúc, tôi oán trách “những người
anh em” không thương dân tộc tôi, không giúp chúng tôi đến cùng. Bây giờ
tôi thấy họ có lý, họ không thể thương những kẻ đi phá của. Đất nước chỉ đào tạo
những kẻ đi giết người. Ôi, thấy ghê rợn quá. Một bức ảnh phóng to đặt giữa đường
phố lớn nhất của thủ đô -- một đứa trẻ con cầm khẩu súng, vênh mặt.
... Sẽ sống làm sao đây, rồi sẽ ra sao nữa, tôi nguyền rủa những
kẻ không tính gì đến số phận chung của cộng đồng, không tính đến tương lai của
xứ sở.
16/4
Những buổi chiều cuối xuân đầu hè. Cảm giác mùa xuân muộn mằn,
cảm giác về một quãng đời tốt đẹp đi qua (nó như mùa xuân), cảm giác về một ít
thử thách sẽ tới (đáng sợ lắm, cái mùa hạ ấy).
Tôi, một người như tôi, một người
lười biếng, đơn điệu, vậy mà tôi có bao nhiêu điều đã sống.
Tôi nhớ lại một ít
quá khứ, một hai năm trước, năm mười năm trước. Tôi nghĩ tới hôm nay.
Cái đói
ám ảnh bao nhiêu đời thường ngay ở chung quanh Hà Nội. Những nồng nóng trong
không khí chính trị. Và cuộc đời thường, mà tôi thường mơ ước cho mình, như ao
ước cho bao nhiêu người khác, bao giờ cuộc đời thường đó đến được? Và tôi phải
làm gì cho nó, ở một người như tôi, tôi nên làm gì. Tôi không hiểu.
Ngay tôi
cũng không biết chia sẻ với ai nữa. Có bao nhiêu nơi tôi cần đến, cần biết.
Nhưng hình như chả có ai cần tôi. Đến gia đình nào, bạn bè hay họ hàng, tôi
cũng thấy hoặc là người ta bận bịu, khổ sở, không còn hơi đâu gặp tôi, hoặc là
họ lại nhạt nhẽo, vớ vẩn, khiến tôi không còn muốn nói điều gì với họ. Tôi muốn chửi toáng lên, về
cái trình độ thấp kém chung, nhưng tôi hiểu rằng như thế, trong cái đám ấy, tôi
cũng đã rất thấp kém, tôi làm sao giãy giụa ra thoát mọi chuyện. Cuộc đời đáng
yêu quá đi, cần phải sống quá, do đó mà phải bàn về cuộc sống, nhưng biết là bàn được với ai.
Đất nước của những khả năng.
Một người ít nhạy bén
về chuyện chính trị như tôi, cũng đã cảm nghe thấy rằng cần phải thay đổi, và
đây đó, trong những người chung quanh, cũng có dấu hiệu muốn thay đổi.
....
Chính là chiến tranh đã đến với Hà Nội chứ không phải ở nơi
nào khác. Chính là chiến tranh ở đây, chiến tranh tàn phá, xâu xé tất cả, chiến
tranh làm cho mọi thứ nát nhèo và rối tung cả lên, chiến tranh ăn rỗng mọi thân
thể, phá hoại mọi linh hồn, không còn đâu là sự lương thiện, không còn đâu là
niềm tin của con người.
- Tôi kinh nhất sự nguỵ tạo, sự dối trá.
- Ở đâu chẳng có dối trá? – một thằng tôi khác cãi lại.
- Không, dối trá ở những nơi khác là như thế nào đó, in ít
thôi, loáng thoáng thôi, người ta vẫn làm việc. Còn như ở chúng ta, sự dối trá
là để phụ hoạ cho sự ích kỷ hèn hạ, sự lười biếng. Dối trá thường xuyên và dối
trá nơi nơi.
Ôi, cái đất nước người nào cũng nhạy bén, người nào cũng làm
chính trị, rồi thì sẽ ra sao, có một cái thứ chính trị quan trọng nhất, là làm
việc một cách bình thản thì người ta không ai thèm làm.
7/5
Khải: Chiến tranh vui vẻ thật, người ta lên tướng lên tá ầm ầm.
Khi nhìn cái lon mới của mình thì chả ai nhớ chiến tranh cũng là khốn nạn cho
biết bao nhiêu người.
12/5
Từ miền Nam ra, Triệu
Bôn kể :
Ở trong ấy, không nghĩ được gì nữa. Như một con bò, chỉ biết
có gặm cỏ. Cách mạng miền Nam như một cơn mê ngủ, đến bây giờ cũng chưa ra khỏi
cơn mơ đó. Mọi người nôn nao chờ một cái gì đó thay đổi, mà không có. Sống ở
trong đó, chỉ có mấy anh em thân mật bàn bạc với nhau. Còn ra đám đông, cái
khóc cái cười của người ta rất lạ, không biết rằng thật hay giả nữa.
Có lúc, chúng tôi ngồi bàn nhau, hay là viết thư ra Trung
ương. Nhưng rồi thôi, chả ai làm.
Một cô gái hủ hoá với
rất nhiều người, nhưng không lấy ai. Hỏi cô, cô bảo bức bách thì giải quyết
sinh lý vậy. Chứ chả có ai đáng yêu.
Tiếp tục ghi những tâm sự Triệu Bôn :
- Cái mà tôi phải luôn luôn đấu tranh, đó là sự bất mãn. Mình
phải tránh bất mãn. Nhiều lý do lắm! Có lúc, tôi thấy ghê sợ khi nhìn mặt người.
Như một thứ bệnh sinh lý. Cái sức mạnh ghê gớm, lúc này lại càng hiểu được, tức
là lý tưởng. Không có lý tưởng, chúng tôi đã rơi vào tình trạng như vậy.
Ở chiến trường, người ta chỉ nói tới khôn dại. Không còn khái
niệm đúng sai gì nữa. Người ta chiến đấu, bởi không biết làm một việc gì khác nữa.
Nếu năm 1976, chúng ta không đánh, thì sẽ tan rã từng mảng.
Thằng địch nó bảo: Tha hồ cho các anh đánh tôi. Chúng tôi là
bán nước. Vâng! Chúng tôi là lính đánh thuê. Vâng! Chúng tôi là công cụ chủ
nghĩa thực dân mới. Vâng! Nhưng nhất định là chúng tôi sẽ đánh thắng các anh.
Cái chính của cuộc chiến
tranh lúc này, là người dân đứng ngoài mọi chuyện. Ở Nam Bộ, có loại thanh
niên, gọi là thanh niên bù trao. Họ không theo địch, khi địch đến thì họ chạy,
cùng lắm thì họ mới đánh. Nhưng họ cũng không theo ta. Họ tụ tập với nhau,
thành một đám người giữa đồng, cũng tăng võng như bộ đội, rồi đi buôn, đi tát
cá. Kiếm ăn. Kiếm ăn và ngồi hát cải lương sầu tủi, nội dung cuộc sống chỉ còn
như vậy. Toàn Nam Bộ, số người đi bù trao này tập họp cũng được vài sư đoàn.
Published on April 26, 2014 20:31
April 22, 2014
Nguyễn Khải, 1973
Thế nào là một nhân vật tiểu thuyết - Giới hạn của tìm tòi -Ám ảnh người mẹ -Con người thực tế - Một đứa con chết
Xô
đổ khuôn mẫu thể loại -Phá
vỡ lô gích cuộc sống - Không
trông đợi ở ai khác ngoài chính mình - Luồn
lách mà sống - Mình
quá lạc hậu so với thế giới
Đọc
để viết- Nhân
nói về vấn đề Tôn giáo - Nguyễn
Minh Châu nhận xét về Chiến sĩ - Lại nói về vụ Nhân văn Giai phẩm -Những chuyện bực mình chung quanh Chiến sĩ
Đi tìm cách viết để trốn - Huy động bản thân vào tác phẩm - Trò chuyện bình đẳng với bạn đọc - Còn muốn làm một cái gì đó - Về Chế Lan Viên
Thế nào là một nhân vật tiểu
thuyết
-- Tôi vẫn chưa phân biệt
ở anh đâu là nhà tiểu thuyết nghĩ bằng nhân vật, đâu là phần người mượn nhân
vật phát biểu một số quan niệm...
- Nói một cách kiêu ngạo,
thì tôi cao hơn các nhân vật của tôi, tôi lấn át họ. Nhưng mà vẫn có cốt
truyện, cốt truyện là cái tay vịn, là cái cớ để mình nói mọi chuyện.
Bà Elsa có nói câu này: Nếu
quyển sách viết ra mà chỗ nào cũng là những dòng vàng ngọc thì người đọc sẽ
không thể đọc nổi.
Trong văn học hiện
thực XHCN, chỉ có một nhân vật văn học
có số phận bi thảm, đó là Grigôri Mélékhov. Rồi từ đó thì toàn là những nhân
vật của bi kịch lạc quan - mà đáng nhẽ thì phải có những hài kịch bi quan mới
đúng.
Cái chết của văn học mình
là các nhân vật phải thành công, phải thỏa mãn, mà thực tế không phải thế. Những
con người có suy nghĩ sẽ rất say sưa nếu nghe chuyện một nhân vật thất bại.
Lịch sử con người là lịch sử bi thảm nhưng chính trong những thất bại đó, người
ta tìm lấy bài học. Cũng tức là chính trong những thất bại đó, con người khẳng
định mình.
Bởi khi nhân vật thất
bại, là hắn đã đầy rẫy những sự chống đối. Chống đối lại hoàn cảnh. Dù thất bại vẫn vẫn chống
đối.
Nhân vật của Nguyễn Thế
Phương trong Đi bước nữa không thể nói là một nhân vật văn học. Bởi nhân
vật đó luôn luôn bị động trước hoàn cảnh mà không dám cưỡng lại. Tự nó đã tước
đi của nó cái khả năng trở thành một nhân vật văn học mất rồi.
15/3
Giới hạn của tìm tòi
--Tôi nghĩ rằng trong Chiến
sĩ có những chương hay nhất của tôi. Tôi có thể đi vào một cách viết mới. Ví
dụ như những đoạn nhân vật đối thoại. Tôi đã mở rộng được đối thoại, đến mức là
có thể thay thế cho mọi cách tự sự miêu tả.
- Các ông khác sẽ phê
bình anh là ít thực tế, anh không dựng được tính cách và hoàn cảnh.
--Có cái đó một phần.
Đúng là mọi điều đều do mình kể lại.
Nhưng thời nay, dựng từ đầu đến cuối
thì nhạt lắm, khó hay lắm.
- Dạo này tôi mới hiểu ra
cái sự vụ thực kinh khủng trong văn học mình.
- Họ gọi mình là văn học
hiện thực sát mặt đất. Cái mục đích quyết định cách làm. Để thay cho họp, người
ta dùng văn học.
- Làm sao để trình ra
được những nhận định mà mình tin là cần
cho xã hội?
- Cứ vừa phải làm, vừa
tính thôi. Ví dụ như hồi ấy người ta chưa chú ý vấn đề tôn giáo thì mình đâm
đầu vào chuyện tôn giáo. Hay là cũng từ đó về sau, tôi hay nói về tính ích kỷ, nó là cái mặt xấu
của con người mọi thời. Trong chiến tranh, lại tìm cách nói về bản lãnh của con
người, xem trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, cái bản lãnh ấy được vận dụng để đối
phó ra sao.
- Có bao giờ anh định trả
lời những câu hỏi cụ thể. Ví như cách mạng mà ta theo đuổi gần ba chục năm nay
là gì, ý thức chủ đạo trong đời sống xã
hội hôm nay là thế nào?
- Tôi cho rằng đó là
nhiệm vụ của các ngành khác.
- Nhưng văn học cũng phải
trả lời.
- Khu vực của văn học
rộng hơn. Văn học có thể có một câu trả lời chung về con người thời đại. Từ đó,
họ sẽ giải quyết mọi câu hỏi khác.
18/3
-- Người ta bảo tôi những
người ở bên Hội còn ảo tưởng lắm. Anh thì cái đó hơi ít?
- Này, đừng có nói. Nhưng
mà đúng là tôi hay nghĩ được đến đâu, hay đến đó. Viết được cái gì, hãy cứ
viết, in ngay. Biết sang năm là thế nào? Tình hình này, mình dễ ngả sang Tầu,
chứ không phải Nga đâu. Có thể thành số không hết.
- Bọn chúng tôi, mới vào
nghề mới khổ.
- Còn bao thanh niên non
trẻ khác khổ hơn các ông. Mỗi lớp người một nỗi khổ riêng.
- (Nhàn) Từ hồi tôi về đây, cũng đã được 5 năm.
Cũng bằng thời gian 1957-62 của anh. Mà có làm gì được mấy. Mất bao nhiêu công
sức để tìm cái đúng. Bây giờ thì mỏi mệt .
- Thì ông tính, có người
còn cả đời cũng không đến được quan niệm văn nghệ chân chính thì sao? Còn như
làm được ít thì hoàn cảnh như thế, có ai làm được mấy.
- Tôi chỉ buồn là hồi đi
học mình được nghe một đằng, bây giờ thực tế một nẻo. Như bảo mình tự do, thì
chằng có tự do gì. Bảo vì quần chúng nhưng rất khinh quần chúng. Bảo nghệ thuật
vị nhân sinh, vì bây giờ nghệ thuật vị nghệ thuật chính cống. Thế có phải không
ra sao không. Không biết bắt đầu từ đâu, nó như thế này.
Ng Khải buông một câu ráo
hoảnh, bắt đầu từ chỗ nó đã bắt đầu, chỗ mọi người cùng bắt đầu chứ còn sao nữa,
để rồi sau đó lại nói với giọng buồn bã:
-- Thôi, thế là coi như
hy sinh đi cả một thế hệ. Chẳng có ai để hy vọng. Ngay nay mai có thay đổi thì cái cách thay đổi của nó, cũng
chẳng có gì lạ lẫm.
Ông Trường Chinh, tôi
biết, hách lắm. Còn ông Lê Duẩn đủ chuyện điên điên khùng khùng. Nghĩa là, trên
dưới nhớp nháp.
10/4
Ám ảnh người mẹ
Ông nói rằng hoàn cảnh của ông khổ. Thật ra
thì chưa ai khổ như tôi. Mang tiếng rằng con quan nhưng vợ lẽ, con riêng. Đã có
thời gian tôi về ở với những ông anh con nhà tư sản, nó đánh nó riếc cho nhục
nhã .
... Tôi nhớ hình như đâu
là thời gian cuối 1944, đầu 1945. Tôi nghe mẹ tôi bảo hai anh em, thôi thế này
có gì mấy mẹ con ta đi tự tử. Tao hô xong, chúng mày cùng nhảy xuống nước. Sau đó, thì có
ai đó, đến đưa tiền cho, nên mới thôi.
Bà mẹ tôi là một người
đàn bà có thể nói là kiêu hãnh. Kiêu hãnh về phẩm chất của mình. Ông cụ lừa bà
cụ, nói rằng chưa có vợ, nên bà cụ mới lấy.
Tới lúc ông ấy thú thật,
bà cụ bỏ đi. Có lần, cụ cứ đến nhà mà chửi, gọi tên ông bố tôi ra chửi. Bảo chủ
nhà là... ra có người đòi nợ!
Hoặc như trong kháng chiến
có lần ông cụ đến mời về. Ông cụ gọi bằng bà, mà bà cụ thì cứ mày, tao - mày...
khổ sở thế chứ.
- Thôi cho con nó về với
tôi.
- Cho nó về thì đừng cho
nó nhìn thấy mặt tôi nữa.
Tôi về theo bố một thời
gian, sau lại trốn về với mẹ.
Bà cụ bây giờ già, nhưng
ốm nhất định không chịu uống thuốc. Chỉ muốn chết.
Cô Bắc thì sợ lắm. May ra
vài năm gần đây, mới dám đưa tiền cho bà cụ đấy chứ! Trước toàn phải tự tay tôi
đưa.
Con người thực tế
- Có phải vì thế mà anh hay bảo tôi là phải
sống cho thực tế?
- Không. Nhất định đó
phải là bài học chủ yếu trong tuổi trẻ của tôi rồi. Trước sau, tôi vẫn nhìn
nhận xét này thế này. Những cái cũ còn đìa ra đó, có họa là phép thánh thì
mới mơ màng được.
Như là chuyện lấy vợ. [Có lần tôi nghe Hà Trì kể, ông Khải có tìm
hiểu gì nhiều lắm đâu! Đi xem chiếu bóng, ông Cao còn ngồi giữa, hai anh chị ngồi 2 bên]. Nếu ảo tưởng, tôi đã không
lấy tay Bắc. Hồi đó, tôi đi trên đường Hà Nội, con gái quay lại nhìn mặt cơ mà.
Hay là chuyện con cái. Tôi không hy vọng gì ở chúng nó cả. Tôi chỉ muốn chúng
nó khỏi ốm, khỏi mất dạy, để khỏi làm phiền mình.
Trong gia đình, tôi là
một người chồng độc đoán, phong kiến lắm. Hơi một tí là tôi sưng sỉa. Tôi bắt
mọi người phải nghe mình nói, không được cãi lại . Phải chấp nhận một cách vô
điều kiện. Đó thật là một vương quốc mà tôi cai trị theo những luật pháp riêng.
Có lần vợ tôi bảo:
-- Anh vui lên một tí.
Anh vui thì cả nhà vui!
8/6
Một đứa con chết
-- Tôi đã nói với
Nhàn với
Sách nhiều lần đấy. Tôi linh cảm thấy rất rõ những tai vạ xảy đến. Trong
Chiến sĩ tôi nói rất nhiều về
những tai họa.
- Có phải nên coi đây là
một cái gì khách quan để cho mình đỡ khổ?
- Không, không được làm
giảm nhẹ ý nghĩa của tai họa, không được gây cho mình những ảo tưởng, đến lúc
nào đó ảo tưởng sụp đổ, thì anh sẽ không làm gì được nữa.
Tôi cứ tưởng rằng khi
chuyện này tới thì tôi không thể vượt qua. Nhưng bây giờ thì hóa ra cũng chịu
được. Từ nay trở đi, tôi cho rằng không có khó khăn nào lớn hơn đối với tôi
nữa. Không khó khăn nào, mà tôi không vượt qua được.
Chắc chắn rằng tôi sẽ
không viết như hôm qua nữa. Từ tai họa này tôi sẽ thay đổi , tôi tin như thế.
Đời tôi lắm lúc tôi nghĩ
mình trọn vẹn quá. Làm việc đều. Gia đình tạm ổn. Lúc trẻ thì vợ chiều, bây giờ con lớn thì con chiều... Thằng Huỳnh nó vẫn giặt quần áo cho tôi đấy chứ. Trong những gia đình bên cạnh, chồng người ta đi B con
cái người ta nheo nhóc, nhìn cứ ghê ghê. Cho nên, khi nào vợ tôi hỏi nhà hỏi cửa
tôi đều bảo, thôi, hãy cứ mong được trông thấy nhau đầy đủ thế này, đến mùa
nước lại chạy vào tạp chí, thế là được rồi.
Bây giờ, có những thứ lại phải bắt đầu
lại. Lại phải đẻ thêm. Lại phải nuôi con. Con lớn, lại có thể có tai kia nạn
nọ.
Chỉ có điều tôi không bao
giờ ân hận. Tôi đã tận hưởng hạnh phúc. Những năm qua, tôi đã không bỏ qua,
không coi thường nó. Đẻ được thằng con lớn hãnh diện lắm. Đi đâu cũng có hai bố
con, như đôi bạn. Giờ như một đôi, bị chẻ ra còn một... Đau quá.
Thằng Huỳnh nhà tôi, nó
trong sáng lắm. Thật là một thanh niên giỏi giang, sẵn sàng làm mọi việc nghĩa.
Nhưng mà ở nó đúng là không cân xứng giữa thể xác và tinh thần. Thân thể phát
triển quá, mà tinh thần không theo kịp. Dễ bị kích động.
Thằng Khoa thì ghê lắm.
Nó gan. Nó trông thấy anh nó chết, nó chỉ tái mặt đi một tí, tuyệt nhiên không
khóc.
- Còn thân mày nữa đấy - Mẹ
nó đe.
- Không, con không sao
cả, mẹ ạ. Anh Huỳnh hoàn toàn quá, anh ấy mới bị. Con thì ai cũng chê, không ai
làm gì đến đâu. Anh Huỳnh hiếu thắng, anh ấy mới bị. Con không hiếu thắng bao
giờ cả. Con biết thân con chứ.
Một thanh niên 16 tuổi
chết. Tất cả mọi người trong chúng tôi như bàng hoàng. Lâu nay, đời sống bị xô
đẩy tất cả hình như có một nguyên nhân chung là chính trị, là bom đạn, là đế
quốc Mỹ và phe ta. Chính trị phát triển,
bành trướng đến đâu chăng nữa, thì nó cũng không làm đầy được cả cuộc đời này.
Nó vẫn dành một chỗ cho tiềm thức, bên cạnh ý thức; dành chỗ sự phi lý bên cạnh
quy luật tự nhiên. Đây là một điều xưa nay ai cũng đã biết nhưng một cái chết
cứ nhắc nhở mình một lần nữa. Như một tiếng gọi của chính mình vậy.
Khải là người viết hay
nói về niềm tin, về lý tưởng, về tôn giáo. Đọc tác phẩm của anh, bao giờ cũng
thấy một cái gì rất hợp lý, thì đây là một đòn phi lý đánh thẳng vào anh.
Trong tang tóc, vẫn thấy
một Nguyễn Khải như cũ, Nguyễn Khải hay phân tích về mình, Nguyễn Khải lý trí, Nguyễn
Khải ích kỷ, Nguyễn Khải thực dụng. Anh mặc cho mấy người cơ quan lo giúp
chuyện mai táng Huỳnh. Hôm đưa nó đi anh chỉ ở nhà cốt trông bà vợ đang đứt
lòng đứt ruột khỏi đau nặng thêm. Nhiều phen anh nhìn những người tới chia buồn
với con mắt nghi ngại, hình như mọi người cốt tới thăm anh để nhìn ngắm nỗi đau
khổ của anh ra sao.
Nhưng rồi có lúc vẫn đùa
được:
- Mấy ngày vừa rồi, cả
nhà tôi phải nghe đủ mọi lời khuyên, nghe nói đến mọi thứ tai họa. Đau khổ mấy,
cũng không thể lột ra được đâu chị ạ. Này, con chết không bằng chồng chết. Không
trông nom ông ấy cẩn thận, ông ấy làm sao, thì lại rất khổ. Mẹ Bắc nghe thế, sợ
quá, hết cả khóc!
4/9
Xô đổ khuôn mẫu thể loại
Trần Dần nói bây giờ ở
đâu văn nghệ cũng thấy bí. Các nhà văn cổ điển họ đi hết các khu vực phải đi
rồi.
May ra, bây giờ có một hướng phá bỏ các thể
loại, ở đó, chỉ cần có ba yếu tố 1/tư tưởng 2/ giọng điệu nghệ thuật 3/
chất nghệ sĩ ở ngòi bút tác giả.
Cho nên nhiều tác phẩm
bây giờ lại chủ ý phá ra về mặt nghệ thuật.
Viết về những gì bình
thường ai cũng viết rồi. Thêm vào đó một cách giải thích mới, cách nhìn mới đó
là công việc của hai loại. Hoặc là hạng ngẩn ngơ mới vào nghề. Hoặc những bậc
thiên tài.
Còn như những người khôn
ngoan ra người ta toàn phải đi vào những khu vực lạ
Trần Dần còn bảo ở ta chỉ
có một tác giả là ông Tuân. Ông (chỉ Ng Khải) cố lên, thì cũng có thể được đấy!
10/9
Tôi ngồi đọc lại Tu sĩ
áo đen. Ai mà nói đó là quyển sách nói về bệnh vĩ đại, tay ấy đại ngu.
Chính nó nói cái phần này. Khi người ta có ảo tưởng, người ta có thể làm thêm
được một số việc nào đó. Và khi đó con
người ta khá hơn lên, thanh thoát hơn lên. Còn khi không có ảo tưởng kia xem,
con người ta trở nên nhạt nhẽo đi, vô duyên đi. Có lẽ chính Sékhov cũng đã thể
nghiệm cái cảm giác đó, trong đời văn của mình, cho nên ông ấy mới viết như
vậy.
- …..
- Tôi xem lại Sékhov rồi.
Khối chuyện nhảm, như Nguyễn Công Hoan nước mình. Có truyện chỉ viết về một tay giã rượu.
14/9
Phá vỡ lô gích cuộc sống
Tôi nghĩ ra rồi. Cứ viết thôi, cứ trông gương
Hữu Mai kia kìa, lại mới viết xong 700 trang, thế mà lại ăn. Tôi cũng sẽ viết. Hôm nọ ngồi
họp, ông Chính Hữu lại bảo phải bàn về quan niệm viết sự thật thế nào. Sự thật
là sự thật chứ việc gì mà phải bàn.
Hồi 1963, tay Mai Thúc Luân nó nói chuyện phá vỡ lô gich
cuộc sống tạo lô gich nghệ thuật là đúng thôi, nhưng các ông nhà mình sực làm
sao nổi, ông Trường Chinh chỉ đọc Jean Prévin với lại tay Boris Maylakh của nhà
xuất bản ngoại văn Mạc Tư Khoa nên quan niệm thế thôi, có gì mà lạ.
- Bây giờ... nói thế nào
nhỉ. Tôi có thể nói là tôi tìm ra lẽ rồi, tìm ra lẽ để hiểu mọi người, mọi
chuyện hiểu từ những ông trên, từ những ông phật như ông Từ Bích Hoàng cho đến
những ông lươn lẹo như các ông ở ngoài .
Tô Hoài có gì, chỉ là một
khoảng rỗng, ông ấy lại cứ làm ra vẻ bí mật, có gì mà bí mật.
Trước tôi còn tưởng thế
hệ thanh niên từ sau mình nó là một cái gì khó hiểu. Hóa ra cũng chẳng có gì
khó hiểu cả. Tôi cam đoan thế hệ sau mình, rồi 1, 2 thế hệ sau cũng thế không
ra ngoài mọi chuyện hôm nay được.
Không trông ở ai khác ngoài chính mình
Tôi có thể nói rằng như
thế là đời tôi cũng đã đi hết mọi sướng khổ rồi, tất nhiên là ở phương diện
sáng tác mà nói, mình tồn tại ở phương diện ấy. Bây giờ giá người ta có bắt
mình đi tù, đi cải tạo, thì rồi mình cũng vẫn thành một thằng tù xuất sắc, có
nhiều hối cải để mau được ra, rồi ra mình lại xoay sở mình làm.
Cũng không có thể đánh
mất mình đi đâu mà sợ, đời người có những cái nhẹ như gió, nhưng có những cái
nặng như chì, đến tuổi này của tôi là mình phải tìm ra rồi, phải cố kết thành
xi măng, cốt sắt trong người mình rồi.
Dẫu sao thì cũng phải
sống, sống còn hơn là chết. Có thể nói như Pavel, là người ta sống có một lần,
nên phải sống đến cùng. Với lại mình cứ sống nghiêm chỉnh, thì cũng chẳng ai
làm gì nổi mình.
Như tôi viết đấy, chẳng
hay nhưng mà cũng không thối, không ai dám chê . Trong cuộc họp, cũng không
thấy tay nào dám đùa bỡn.
Là vì thế này, người mình
chỉ hay xỏ xiên nhau. Nghĩ hẹp, sợ trực diện lắm. Sang Hội nhà văn khối ông nói
xa nói xôi, tôi biết, nhưng vẫn mặc kệ.
Còn động đến tôi, là không được.
Tôi mới mang quyển tiếu lâm về đọc. Chỉ có
truyện này là ghê này, truyện Đánh mất mình. Một gã bị chuốc rượu, người ta cạo trọc đầu,
vứt vào một cái chùa. Lúc tay này tỉnh dậy, thấy ở giữa chùa, lại sờ cái đầu
không có tóc. Tự hỏi, không biết còn là mình? Hay mình là sư, không phải mình
nữa. Bây giờ mới nghĩ ra một kế, là đi về nhà. Xem thế nào. Con chó trông thấy,
cắn. Thế là co cẳng chạy.
Đó, mình không còn là
mình nữa rồi, chỉ được truyện ấy là có ý nghĩa triết học. Còn ngoài ra thì nhảm,
toàn là chuyện nhảm, cười với cợt vớ vẩn lắm.
- Thế là cái điều kết
luận của anh là gì? Là một quan niệm hư vô hay là nó có phương hương của nó. Mà
đó là hướng gì?
- Điều đó thì bây giờ tôi
chưa thể nói với ông được. Nhưng tôi có thể chắc một điều. Viết xuôi viết ngược
thế nào, cứ lấy mình ra mà suy, viết được tất.
18/9
Luồn lách mà sống
Đọc một quyển trinh thám
Ý, nói về một người điên. Rút ra được bao nhiêu điều quan trọng. Thế mới biết
trinh thám bên Tây cũng khá lắm. Vừa đọc vừa nghĩ nếu mình có điên, chắc mình
cũng rơi vào hoàn cảnh như nó.
Hôm nọ, đi xem một bộ
phim Bulgari. Chỉ có một thằng nó làm cái thùng. Cái thùng tượng trưng cho tài
năng. Xem xong quay về lúc họp ông Châu ông ấy mới tương cho một câu “Nó viết
toàn những điều vớ vẩn, nhưng lại dẫn tới những kết luận quan trọng. Mình viết
toàn những chuyện quan trọng, kết luận rút ra lại toàn là vớ vẩn”. Cả bọn cùng
ngớ ra một lượt. Cứ y như người ta làm phim dậy mình vậy.
- Dẫu sao, cũng không
cưỡng lại được hoàn cảnh, cưỡng lại được quan niệm đương thời. Hôm nọ, ông
Nguyễn Thanh Long lại ngồi khuyên tôi ông nên viết một cái gì nó khái quát một
chút. Ông vừa hiểu quân đội, vừa hiểu hợp tác xã, ông có đau khổ chung của dân
tộc, lại có đâu khổ riêng của bản thân thế là viết được chứ gì . Tôi nói thế
viết đủ sĩ nông công thương chứ gì không. Ông Long giọng rất chân thật, không
phải đầy đủ thế, nhưng vẫn cứ là khái quát.
Người tốt như thế mà còn
quan niệm như thế, quan niệm đặc kiểu Viện văn học chứ còn gì... Cho nên ông có
cái gì mà nói về sự bất lực với lại hoang dại thì người ta có vứt đi cũng ráng chịu. Toàn chuyện phạm thượng cả.
Không ai in cho ông đâu. Ông nên biết rằng người ta không phải là người tầm
thường, mà người ta lại biết rằng người ta đang phải làm những việc tầm thường.
Đừng tưởng Tác phẩm mới, hay báo Văn
nghệ rộng rãi đâu. Gay lắm, bị marqué cả mấy lớp. Mình ở đây có sai, thì họ cho
là lính tẩy là anh không tự giác, không có trình độ. Ngoài kia có sai ấy à,
chính anh là đạo gốc rồi, anh còn nói gì nữa?
... Trường hợp tôi, phải viết dưới tay thế này, thôi cũng đành chịu! Làm thế nào được. Quyển Chiến sĩ này, hôm nọ một ông bên nhà
xuất bản lại kêu. Có ý kiến đấy anh ạ. Có ý kiến đoạn này đoạn kia sao lại cho
in. Tôi chỉ đóng vai cười trừ, tôi nói thì các anh đọc cả đấy, tôi chỉ có một
khuyết điểm là thiếu thực tế, là tán róc. Nói thế mà sốt cả ruột.
Ông Chính Hữu chỉ có mỗi
cái ngón võ là phương pháp tư tưởng. Mình mới phải cho một câu khóa ngay từ
đầu. Rốt cục, lão Chính Hữu phải nhận có hơi bất mãn làm thơ mới hay. Bởi vì
khi bất mãn, anh viết thật; khi ca ngợi, anh giả dối, có gì lạ đâu.
2/10
Mình quá lạc hậu so với thế giới
Một tay nó nói cũng đúng.
Ở nước ngoài trẻ con nó làm văn miêu tả, mà người lớn, viết nghị luận.
Ở nước mình trẻ con nứt
mắt đã nghị luận về lòng yêu nước, yêu nhân dân, trong khi nhà văn toàn làm
chuyện miêu tả sao cho mùi mẫn hấp dẫn.
Trần Dần hôm nọ bảo
với tôi tiểu thuyết thế giới bây giờ gay lắm. Bọn tiểu thuyết mới chỉ được quyển đầu. Quyển sau nâng lên thành trường
phái, thành lý luận và cứ thế mà viết theo. Nhưng khi khuôn vào trường phái,
làm sao có thể đẻ ra những tác phẩm chứa được tài năng của anh nữa rồi.
Ông H. Boll chỉ viết kiểu cổ điển.
Với ông Aragon, tiểu thuyết chỉ là những thứ
phẩm của thơ ông ta thôi.
Cái chính là con người
mình bây giờ, mỗi người đều cảm thấy cô đơn, không có gì thông cảm với nhau
được. Cho nên cả những tay ở họa, ở nhạc nữa, chỉ làm ra những thứ đâu đâu, chả
cái gì làm cho mình xúc động cả.
- Mà lại toàn chuyện ngồi
lê đôi mách.
- Ấy, giữa chuyện ngồi lê
đôi mách với văn học, khoảng cách không xa đâu. Anh chỉ cần đẩy nó lên một tí,
thì nó thành văn học. Thế mới biết cái ma lực của của văn học là ghê gớm thật.
Đọc để viết
Tôi cũng đã gặp lắm thằng
đọc nhiều. Đúng, Trần Đĩnh. Ông này là
loại đang xem nốt quyển này, mà không có quyển khác trong tay là rất khó chịu!
Nhưng ở đời này, những
thằng đọc quá nhiều có thằng nào làm được trò gì đâu. Viết thì dở, có khi viết
bài báo cũng không được.
Đọc là anh phải đọc để
làm cơ, ăn được cơ. Trước hết là xem ở đó một cách nhìn. Tại sao mà cùng vấn đề
đó, mình chỉ nhìn được chỗ này, mà người ta nhìn được những chỗ khác.
Nhân nói về vấn đề Tôn giáo
-- Sự thực thì thế giới
ngày nay, người ta vẫn bị mắc giữa hai con đường. Hoặc là suy nghĩ cho kỹ, cho
thấu đáo, thì rồi không dám làm gì. Hai là làm liều đi, làm lấy được, thì lại rơi vào dung tục tầm thường.
Nguyễn Minh Châu nhận xét về Chiến sĩ
Ông Khải viết cái này đọc mệt lắm. Đứng gần
thằng lính quá. Cái gì cũng làm, cũng nhìn, cũng cắt nghĩa. Chính cái bút pháp
đó, lại không ăn với thằng lính. Ở thằng lính cái khả năng quên, cái khả năng
sống cho tự nhiên, cái đó nhiều khi rất lớn.
Các nhân vật của ông Khải đều sắc sảo, nhưng một đống người sắc sảo như
thế, lại là một sự đơn điệu, chứ phong phú làm sao được?
Cứ bảo các nhân vật của
ông Khải hay lý lẽ. Nhưng lý lẽ cái gì, toàn là kinh nghiệm ở với bố mẹ, gia
đình, sự khôn ngoan trong cách đối xử và làm ăn, một tí những kinh nghiệm kiềm
chế bản bản thân, để bản thân trở nên đỡ lố bịch.
Cái khả năng chia mình ra
nhiều loại người, cái khả năng ấy Khải
không có, hay là có rất ít.
Cái lối viết có những tiêu
đề ở trên chẳng qua là một lối xâu chuỗi các sự kiện. Nhưng nội dung thế này,
thì có xâu lại cũng không ra chuỗi.
18/10
-- Anh có công nhận xem
các ông nhà mình lãnh đạo văn nghệ thì biết ngay là các ông chả hiểu gì chuyện
làm ăn cả. Vì văn nghệ dẫu sao cũng là cái điều các ông ấy dễ biết hơn mọi thứ
khác. Nó gần các ông ấy hơn là kinh tế.
-- Tôi lại thấy thế này.
Kinh tế, đúng là chỗ người ta không biết, với lại kinh tế, kỹ thuật nó chỉ là
tay sai. Còn như văn nghệ, văn nghệ luôn luôn gây ra những mầm mống chống đối.
Luôn luôn nó là một thách thức, trong khi chính quyền anh chỉ muốn kìm hãm người
ta, thế thì chịu sao được. Những tay văn
nghệ ghê chứ.
Lại nói về vụ Nhân văn Giai
phẩm
- Đúng là hồi ấy mình
không biết gì. Còn như giữa họ giữa những người văn chương với nhau, đấy là
cuộc đấu tranh của giới quý tộc - mình len vào cũng là một thứ vũ khí cho họ
dùng. Nhưng không hiểu sao, bọn mấy ông
Trần Dần các ông ấy cũng không ghét tôi lắm đâu. Có lẽ là vì họ biết rằng mình
không hiểu, mình nói liều thôi.
Chứ nhiều người khác, tố
điêu, tố láo, bây giờ còn thù nhau mãi.
- Chính những ông như
Trần Dần, họ vẫn tự coi mình người chân chính mác xít đấy. Chỉ có điều mác xít
nhưng mà phải tự do. Quan niệm văn nghệ tự do thấm vào với họ từ trong máu rồi.
Năm 1953, Trần Dần sang nghiên cứu văn nghệ
Trung quốc, đã nói nhiều tới Hồ Phong.
Đi đường toàn cãi nhau với Hoàng Xuân Tùy thôi.
Bây giờ Trần Dần vẫn nói
về những chuyện văn nghệ trụy lạc, suy đồi, với giọng khinh bỉ thực sự!
... Hồi ấy, trong bọn,
Trần Dần là người có học hơn. Là người
đi đến đâu cũng được nhiều người nghe. Đến khi ông ta bị "cầm cố"
rồi, vẫn ung dung đọc sách, và cũng không ai dám đùa bỡn! Nguyễn Hữu Đang là
nhà lý luận chung. Còn đây là nhà lý luận văn nghệ. Vả lại, so với những Phan
Khôi... thì tay này mới hơn chứ! Chính đó là người đi đơm đặt, mời mọc các ông
Văn Cao, Nguyễn Tuân...
- Về phía bên này, người
mà có thể gọi là kỳ phùng địch thủ của Trần Dần, là Nguyễn Đình Thi. Hồi ấy, Tố
Hữu cũng hơi sợ, không dám đối mặt nhiều lần với cánh bên kia đâu.
- Thôi, cứ coi đó là một
thoáng dân chủ duy nhất của mình. Họp hành các thứ ở trên gác 2, khách sạn Bờ
Hồ. Ông Trường Chinh đến, chỉ có tiếng vỗ tay lẹt đẹt... Chỉ những người trong Đảng
vỗ tay. Rồi có ý kiến, rồi ông ấy lên trả lời. Hồi ấy, người còn sinh khí lắm, ăn
nói đâu vào đấy, mặt không hề biến sắc. Tức là người đã có kinh nghiệm từ hồi
hoạt động công khai mà.
-- Năm 1956, anh có bị
xúc động ghê gớm, nó giống như thể thất vọng không?
-- Không. Có lẽ một phần
cũng là vì tôi không bao giờ tin mọi điều một cách nông nổi. Hoặc là vì mình
cũng đã có những năm sống dưới cái chế độ cũ điên đảo, có lúc mình tin rằng
không bao giờ người ta có thể diễn thuyết được bằng tiếng tiếng Việt. Biết thế,
cho nên cũng khó lòng nói là bị một cái gì đổ vỡ.
Lắm lúc buồn quá, chỉ
nghĩ thế là đời mình coi như hỏng rồi, không còn mong gì nữa.
Dẫu sao, năm nay chúng tôi đã hơn 40 tuổi. Cũng
đã được một chặng rồi, chả hối hận gì nữa. Từ nay trở đi, sẽ thấy thời gian đi
rất nhanh. Sẽ thấy anh chẳng còn làm gì được nữa đâu. Có làm được gì, là làm từ
năm 25 tuổi.... Nhưng mà trong tình hình chung, thì còn gay lắm, chưa thấy gì
cả. Lại còn lo cánh giải phóng nó gọi vào. Ông Thép Mới đang xin ra đấy. Nghe
đâu ông ấy bảo những anh em nào có khả năng làm việc thì cố tìm cách mà thoái
thác
26/10
Những chuyện bực mình chung
quanh Chiến sĩ
Làm việc với nhà xuất bản
quân đội phiền ghê cơ. Ở những nơi khác, họ thông qua rất nhanh. Ở đây, thì họ hay làm ra vẻ quan
trọng.
Ông Uyển lại vừa gọi tôi
sang. Phản ánh là có nhiều ý kiến về Chiến
sĩ.
Từ bạn mình cũng có. Hồ
Phương bảo truyện đéo gì mà chỉ toàn thấy đi lạc. Còn Hữu Mai, Hữu
Mai chỉ tủm tỉm. Nghe đâu, chính ông ta vừa lăng xê một cái ý của một ông phê
bình: Người ta chỉ nói ba hoa. Ông này
lại còn nghĩ ba hoa nữa cơ.
Cái mà ông Uyển gọi mình ra hôm nay, là ý kiến của Tuyên huấn thiết giáp.
Thế này thì chả hiểu Xe tăng chúng
tôi gì cả! Có lẽ họ không cho bộ đội ở dưới đọc. Mình phải bảo cái chính là xem
tôi có viết sai đường lối chính trị không. Tôi phục vụ đường lối chính trị
chung chứ đâu phục vụ công tác chính trị của Xe tăng.
Cái số mình bao giờ cũng vậy, làm với anh nào, bị anh ấy nó chửi. Như quyển
Chủ tịch huyện, Hưng Yên phản ứng ghê gớm quá, đến nỗi báo Nhân Dân
không dám cử người viết phê bình, giới thiệu nữa.
Buồn cười nhất là công binh. Trước kia thì quý quý hoá hoá. Đến khi
đọc Đường
trong mây gặp nhau, họ cũng chẳng buồn bắt tay mình nữa. Thằng Mai Thế
Chính kể sách vừa mới xuất bản, các ông ấy bảo nhau đọc hết. Đọc xong ông chủ nhiệm chính trị đánh ngay xe
con đến nhà Hồ Phương, yêu cầu Hồ Phương viết công binh cho họ.
Dạo này, tôi cũng ghét cái lão thọt [giám đôc thư viện quân đội ]. Trông vẻ hồn nhiên thế mà vừa rồi viết
thư tận Tuyên giáo đấy, viết rằng sao lại có cái đoạn bắn thằng Mỹ tha thằng
nguỵ. Như thế thì để đâu quan niệm thù bạn. Chúng tôi rất lấy làm khó nghĩ.
...
-- Hôm nọ anh bảo các ông xuất bản cũng đã rà soát kỹ lắm cơ mà.
-- Ví
như, ông ấy cũng bảo nên đưa cho Tuyên huấn thiết giáp xem. Tôi phải gạt phắt
đi . Tôi bảo, thôi mà anh, tôi có viết gì mấy về xe tăng đâu.
Ông Trần Cư thì bảo truyện này có vẻ nói về cá nhân, mà ít nói về tập thể.
Tôi nghĩ ra cái câu này mới lọt. Tôi bảo tôi viết cái chuyện này là người thực
việc thực, chứ chớ có tiểu thuyết tiểu thiếc gì lắm. Chuyện các cá nhân, mỗi cá
nhân như một cành hoa, tất cả làm thành một bó hoa nói về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng...
Chết một nỗi, giá kể có ai nói nhà xuất bản Văn học thì nó cũng mặc kệ. Ở đây không. Ai nói gì là về lại đeo
kính lại, soi, soi, rồi cuối cùng là lại than phiền. Ờ đoạn này đáng ra không nên in. Ờ đoạn này...
Phen này, tôi chỉ thương ông Uyển. Với lại, cái lão cục phó Mai Ninh nữa.
Khổ, lão ấy có đọc gì đâu, chỉ thân lão Uyển
thấy Uyển bảo được là được. Lúc lão Lữ Giang về, lão ấy cũng đọc lại,
mới ngớ ra. Nhưng mà không thể không in. Văn mình không thể chữa vặt cho nên
không soi vào đâu được. Thôi, thế cũng là đến chia tay cái nhà xuất bản này....
Rồi thì nó cũng chả làm gì được đâu, không có vấn đề gì lớn, chỉ thôi hết thôi.
Tôi đã phải nói với ông Uyển.
- Đấy, anh làm việc với tôi anh biết. Quyển này xong, tôi cũng chỉ có thể
nói là tôi đã làm hết sức. Không phải là tôi làm tay trái, làm qua loa. Thế còn
như nó có dở, có thế nào, thì đúng là tôi, không có chuyện gì phải ân hận cả.
Gặp bà Duệ nữa. Lại phê bình trong tác phẩm này, anh không yêu chiến sĩ,
anh chỉ phục... Và nhiều chỗ anh còn giễu nữa... Khốn khổ cho mình. Thế mà còn
bảo giễu. Cũng như chiến dịch, trên dưới bảo thua, mình viết thành thắng. Trong
những năm vừa qua, không có bọn nhà văn quân đội, thì lấy ai ra mà nói về chiến
tranh, nói về những thằng lính...
Cuối cùng về cái truyện tuyên huấn xe tăng, tôi phải nói với ông Uyển. Anh
bảo họ là cứ yên chí. Nay mai còn quyển tiểu thuyết của anh Phú về xe tăng nữa
thì nó sẽ đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xe tăng.
Nhị Ca:
--Nay mai, chỉ sợ thằng phê bình nào nó viết nhìn lại về 3 quyển tiểu
thuyết xe tăng thì ông Khải chết.
Châu :
--Cái trớ trêu của đời sống là bao
giờ ông Khải sắc sảo cũng phải
buộc chung cỗ xe với một anh nào đó tầm
thường. Cười dở khóc dở.
-- Tôi thấy bi quan lắm, chả trông mong được gì. Càng nhìn ra ngoài càng
thấy mờ mịt.
-- Đấy, điều quan
trọng là ở chỗ ấy. Mình đọc, mình tiếp thu những cái tiên tiến của thế giới,
nhưng mình lại sống ở đây, mình phải nhớ cái đó.
-- Cách mạng gì mà lại như nước mình.
Bao nhiêu nhân vật cũ vẫn còn nguyên đấy cả, chả ai có gì thay đổi cả. Chả ai phải lưu vong, tự sát.
-- Không thể so
được. Như ở nước Nga, đúng là bọn lưu vong nó tràn ra như châu chấu. Nước mình
không thể có như thế được đâu...
2/11
Đi tìm cách viết để trốn
Lúc đầu Chủ tịch huyện những
300 trang, tôi tước đi, tước mãi ấy chứ. Có những chương rất thích. Ví dụ như
chương bà Huyện uỷ xuống xã, bị xã nó lừa như thế nào, nó nịnh cho như thế nào.
- Chính ngòi bút như của anh mà phải viết Chiến sĩ là khổ lắm, khó
xoay xở lắm.
- Nhất là mấy chục trang đầu viết về đánh nhau. Nghĩa là mình loay hoay
mãi.. Nhưng mà không viết thế không được. Trong tình hình hiện nay, ai người ta
in cho mình. Nhưng cũng là chỉ mất mấy
chục trang thôi. Từ sau trở đi, là tha hồ thoải mái. Người ta mới bảo là mình
ba hoa mà lại.
Tiên sư tôi từ sau trở đi tôi lại còn viết dài nữa. Cứ trăm rưởi, hai trăm
trang thôi.
... Nghỉ lâu quá, chán rồi, phải đi lấy tài liệu viết một cái về công giáo đè
Bão biển của ông Chu Văn xuống mới được.
Bây giờ tất cả mọi thứ nghĩ ra rồi, chỉ còn tài liệu. Bây giờ tôi cũng chán cái
lối đi phải hỏi lâu la rồi. Ví dụ như hỏi về cách giám mục. Cứ được đọc biên
bản của mấy tay CA có khi lại tốt.
Tôi sẽ không tả cảnh tả kiếc gì nữa. Tôi sẽ dùng thể văn báo cáo. Thật khô,
thật xám, nhưng lại ăn không biết chừng.
Có cái này, ông giữ kín cho tôi. Lúc nào đó, tôi sẽ viết cái đại khái những
lời kể khác nhau về một con người. Độ 4,
5 người, mỗi người cho biết về một phía, mà hoá ra được một hình ảnh về một con
người.
Hôm nọ lại gặp ông Thi, ông Thi than phiền rằng văn Nguyễn Minh Châu đối
thoại gì mà dài quá. Đối thoại người ta phải ngắn mới phải. Nói thế thì chán
thật. Đối thoại của các ông ấy toàn là đối thoại sinh hoạt. Bà ăn cơm chưa.
Không dám, tôi ăn rồi. Viết thế thì viết làm gì
Ông Châu cũng thuộc dòng các ông của ông ấy thôi. Dòng văn miêu tả. Nhưng
Châu nó là loại cao cấp hơn.
Càng ngày tôi càng cảm thấy thế là mình đứng riêng ra một khu vực, không
giống ai cả. Cánh trẻ cũng chẳng ghé vào đây được. Những ông tài hoa như ông Chu,
ông Châu thì tôi không sợ.
Chỉ có những vấn đề thuộc về tư tưởng của người ta là quan trọng nhất. Một
khu vực mới, đúng thế. Còn như thiếu gì tài liệu.
Phấn đấu của tôi bây giờ ư. Cố làm sao viết được 10 năm nữa. Như thế là các
nhà xuất bản họ cùng quen với mình rồi, họ thấy lão này bố cục lỏng lẻo, nhân
vật không phát triển. Kệ nó. Họ kỳ kèo thế nào rồi họ cũng in, thế là được rồi.
Còn như mình cũng chẳng phấn đấu để in nước ngoài. Thỉnh thoảng các ông ấy
cứ bảo mình nêu lên đi để họ giới thiệu cho. Khổ quá, văn mình ai in mà giới thiệu.
Cái phần mà mình hướng tới giải quyết, thì nước ngoài nó đã vượt qua từ lâu
rồi. Cái chính của một nhà văn là ở trong nước anh.
Huy động bản thân vào tác
phẩm
Tay A. Gide có viết một quyển tôi vừa đọc, Những người làm bạc giả.
Nhân vật chính là một nhà văn, hình ảnh tự truyện của tác giả thôi. Tay này nó
nói rằng khi viết, người ta thường bổ tài liệu theo chiều dọc, trình bày theo
trình tự thời gian một vấn đề nào đấy. Tôi không. Tôi tương tất cả tài liệu ra
một lúc, tôi mang tất cả những hiểu biết của tôi trong một thời gian ra trình
bày. Như thế là phải hơn. Có những đoạn, Gide nói về những điều ông ta định
viết, lấy tài liệu ra sao, rồi viết ra sao. Cái đó rất hay.
Nhưng Gide nói cái này tôi thích nhất này: Mỗi tác phẩm, nó đều có một
sự bí ẩn. Trong trường hợp ra đời của tác phẩm, đều có những lý do gì đấy
rất riêng, và có lẽ nhờ thế mà tác phẩm có sức hấp dẫn.
Phần tôi, thì tôi có thể nói là mình cũng thể nghiệm một cái gì gần như
thế! Tôi nhớ những ngày tôi viết Tầm nhìn xa. Có những sự việc mình
không biết đầu biết cuối nó là thế nào cả. Sau này, Ra đảo. Trong chúng
ta, có nhiều sự thay đổi không ai lường nổi.
Và như hồi tôi viết Chiến sĩ này. Tôi đã linh cảm thấy rằng không ai
tránh được khỏi phải trải qua những thử thách riêng chỉ đặt ra cho chính mình. Những điều bí ẩn ấy cứ lởn vởn suốt trong tôi.
Mình viết mà như chính mình phải giải quyết cho chính mình - mỗi bên một đường, nhưng nó lại gắn với nhau, thế mới
đúng cách của nó.
Còn bây giờ, quyển sách về linh mục mà tôi định viết nay mai? Cũng từ hồi thằng con tôi chết đến giờ, tôi cứ
lởn vởn mãi cái điều này. Tại sao mà con người ta dễ duy tâm, người ta dễ tin
vào Chúa vậy? Đời sống bao giờ nó cũng có một phần buộc con người, tạo điều
kiện cho con người nghĩ đến một cái gì ở ngoài đời sống. Tức là phần đời sống
tinh thần. Là cái mà tâm lý học nó gọi là ý thức.
Nhưng cũng phải lựa lọc một thời gian mới viết được. Ngay lúc viết, mình
phải tính liệu từng tí một. Không thế thì ai nó in cho anh ? Cho nên, ngày nào
tôi viết độ 10 trang, là dứt khoát phải bỏ. Cứ độ 3-4 trang là trung bình.
-- Quan trọng nhất bao giờ cũng là phương hướng. Không có phương hướng, anh
cứ đi mòn mỏi theo những lối cũ, chẳng được cái quái gì cả.
-- Phương hướng
làm cho anh có chỗ xoay sở.
-- Chả trách họ cứ bảo anh đi độ hơn tháng trời, mà sao viết được 400-500
trang
-- Và cũng biết đâu, là trong cú làm ăn như thế, tự nhiên anh phụt ra được
một cái gì đấy, ngoài sự dự đoán của mọi người, như thế thì là càng phúc. Chứ
tôi thấy văn chương tả tả cái chuyện chung quanh bây gìờ đã dở lắm.
Hôm nọ, gặp ông Tô Hoài, tự nhiên ông ấy nói cho một câu thế này, chả biết
thật hay giả. Mình biết rồi, văn chương ông không phải ăn ở sự hoa lá, ông ấy
bảo. Nếu thế thật thì ra ông ấy cũng có đọc mình cẩn thận.
-- Có phải anh định bảo không ai đi vào cái phía như mình. Vậy nên
cũng không phải chia sẻ với ai cả.
- Cũng chẳng cần ai chia sẻ thật. Nhìn quanh chỉ thấy những người láng
tráng thôi! Với lại bây giờ mình cũng mong đừng ai người ta biết, nhất là giới
phê bình các ông. Biết họ đánh cho thì có giời đỡ. Ai mà viết như những điều
tôi vừa nói ra, là tôi đến tôi đập cửa Toà soạn liền.
- Thế cái cách của anh như thế, thì có lẫn với những người làm xã hội học?
Có khi anh lại giẫm chân lên xã hội học.
- Khu vực của tôi vẫn khác khu vực của họ. Có những kết luận giống nhau,
nhưng con đường tới kết luận sẽ khác chứ. Trên đường, có chỗ mình cho là quan
trọng, thì họ lại bỏ qua chẳng hạn.
10/11
Quan hệ với bạn đọc
Nói chuyện ở trường Đại học Sư phạm (8-11-73)
- Nói với những người này, thật khó. Ví như sinh viên sắp ra trường, họ là
những người đã có hiểu biết, gần như họ chẳng tin ở cái gì cả, mình thuyết phục
được họ cũng khó. Nhưng tôi biết là tôi còn nói được. Nhiều người đến nghe. Hôm
ấy, ở gần đấy, ông Lê Kim lại nói về tình hình Trung Đông nữa. Tôi bảo bạn nào
cần, cứ đi nghe Trung Đông đi. Nhưng sau, có nhiều người sang bên ấy rồi vẫn
quay lại, và họ nghe. Nhiều sinh viên đứng lạo động ở gần đấy, cũng chạy vào
đứng nghe. Tôi cảm thấy người ta có đọc mình và hiểu mình. Ngay cả quyển sách của
tôi mới ra, không phải tất cả, nhưng đã có nhiều người đọc, và hiểu.
- Cái chính trong buổi nói chuyện, tôi chỉ nói một điều này. Là xưa nay,
tôi chỉ viết về tôi, tôi lấy tôi ra mà nói.
Một cặp vợ chồng: Bản tự thú của một anh chàng chê vợ.
Anh đội phó và người thợ mộc: Những phấn đấu của mỗi người bình
thường trong những công việc bình thường, mà thiếu đi, thiếu những sự phấn đấu
ấy, thì người ta có ra vẻ hiểu biết, nhiều sáng kiến đến đây, cũng không thể
làm được việc gì hết.
Tôi lấy tôi ra làm nhân vật chính. Tôi lấy tôi ra để phân tích, tôi nói vậy
. Ví như cái hồi tôi viết Hãy đi xa hơn nữa - cái đó là gì? Là những cảm
giác khó chịu của một người đang sống độc thân, giờ đây bị ràng buộc vào cuộc
sống gia đình, cái điều mà một mặt thì mình cảm thấy gò bó, nhưng một mặt khác
nói thật là mình cũng cảm thấy thú vị, và sẵn sàng bị ràng buộc vào đó.
Trong tình hình văn học hiện nay, khó làm được gì nhiều. Nhưng tôi chỉ phấn
đấu làm sao mà đặt vấn đề từ những góc
độ bình thường nhất. Làm cho mỗi người đều cảm thấy vấn đề đặt ra, là y như từ
cuộc sống của họ, do đó, thêm vào, những điều có ích cho họ. Cái chính là có
được cái điều cần nói. Thật ra như cuộc sống của chúng ta, có biết bao nhiêu
điều cần nói.
Ví như cái hồi tôi viết Một cặp vợ chồng, hồi ấy ông Bùi Huy Phồn
còn làm phó giám đốc Nxb - đến nhà ông ấy, mấy đứa con ông ấy cứ bảo chú ấy lấy
chính chuyện bố mẹ ra mà viết hay sao ấy.
Hay quyển Chiến sĩ của tôi gần đây - tôi nói tiếp. Trong những ngày
đi với bộ đội, tôi chỉ nghĩ một điều cuộc sống đòi hỏi mỗi người lớn quá. Và
cái gì là cái chính mà như một nhà văn, mình cần nói với họ. Đó là vấn đề bản
lĩnh cá nhân.
- Cái này thì chính các bạn biết hơn ai hết, cái sự tỉnh táo là rất cần cho
đời sống mỗi người. Khi nghĩ lại đời mình, mỗi chúng ta đều hiểu nhiều lúc hoàn
cảnh dễ xui chúng ta có những quyết định sai lầm lắm. Có cả những lúc, tập thể
chung quanh chúng ta sai, mà chúng ta đúng. Trong trường hợp ấy mỗi hành động
của chúng ta, vẫn phải là do chúng ta chịu trách nhiệm. Ở các đơn vị bộ đội,
cũng có thể vấp phải những chuyện đó. Nhiều đồng chí mới tập viết, thường bị
chung quanh soi mói. Gớm, nhà văn của đại đội. Rõ ràng trong trường hợp này,
đây là một thái độ không đúng. Vậy người bạn trẻ của tôi phải vững vàng mà đi
tiếp trên con đường mà mình đã chọn.
- Vậy quan hệ giữa tôi và nhân vật của tôi là thế nào? Có người hỏi - Cái
chính là bao giờ tôi cũng viết về những nhân vật hơi thấp hơn so với mình. Tôi
mạnh hơn họ, để tôi dễ dàng điều khiển họ. Và bao giờ tôi cũng chỉ viết về một
vài nhân vật nhất định, không nhiều. Khi cái điều tôi nói vừa hết, thì số phận của họ cũng chấm dứt. Nói
thế, nhưng thực ra, các nhân vật ấy phải sống cho quyết liệt. Bao giờ tôi cũng
bắt họ đối mặt với những khó khăn trong chính họ.
- Thế nhà văn có bắt buộc phải sống hết tất cả những gì mà nhân vật đã
sống?
- Cũng không hẳn như vậy. Tôi ví dụ phải tả những nhân vật
ăn cắp. Tôi lấy gì để tả? Tôi nhớ lại những cảm giác phạm tội, mà cái
này thì ai cũng đã có một lần trong đời. Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi sang nhà một thày
giáo, nhân thể thấy quyển Têlimai phiêu lưu ký. Tôi thó về luôn. Chính
thày giáo cũng không biết. Nhưng những ngày sau gặp ông, tôi cứ chứng kiến một
cảm giác sợ hãi. Không biết chừng, ông sắp hỏi mình về quyển sách bây giờ!
Nói chung trong mối quan hệ giữa nhà văn và người đọc, bao giờ cái đáng lo
nhất vẫn là ở chỗ: xem xem mình có hiểu họ không, mình nói có ăn khớp được với
những điểm họ nói không?
Nếu ăn khớp tức là còn viết được thoải
mái.
Những lần đi công tác, tôi nói rất
nhiều mà nghe kể thì ít. Làm sao lại có thể bắt một người chiến sĩ kể những ý
nghĩ của họ lúc này lúc nọ? Phải lấy mình ra mà suy chứ. Tôi thường không ngại nói
nhiều. Nói thật tự nhiên là một cách để dò xem điều mình nói ra có được mọi
người chấp nhận.
Nếu như mặc dù anh mới gặp họ lần đầu, mà anh có thể đùa bỡn được, bông
phèng được, như thế tức là anh có thể tin có một sự thông cảm với nhau rồi. Bây
giờ cứ dở sổ ra, mà ghi chi tiết, cái này thì khó gì, ghi một lúc thì được, và
về cứ thế mà viết thôi.
Lý do làm cho tôi viết nhanh, cũng một phần là ở đấy. Tôi chỉ cầu mong cho
mình là có được sức khoẻ, và tránh được mọi tai nạn, để có thể tiếp tục viết.
Làm một cái gì lớn hơn ư? Chịu, tôi cũng chịu, không làm được! Không những thế,
rồi đây với thời gian, tôi được bạn đọc thông cảm hơn, mà tránh đi cho những
đòi hỏi về hình thức, thì tôi lại càng dễ dàng lui tới trong nội dung, và do
đó, tôi càng nói được điều cần nói, thế là được.
Thành thật mà nói, đọc lại, chính tôi cũng
không thấy tôi mất đi gì cả.
3/12
Cứ nói lại mọi chuyện chán thế này,
không viết được đâu. Vì như một người viết văn, không phải lúc nào anh cũng
nhắm đồng tiền. Anh còn muốn làm một cái gì hơn thế nữa chứ?
Đọc lại quyển Hoàng Lê nhất thống chí thấy phần Nguyễn Huệ ra Bắc
chỉ có 2 trang, một chiến công hiển hách mà có hai trang. Còn toàn chuyện ở
đâu, ở đâu. Có nhiều chương tác giả không có ý thức, nhưng bây giờ mình đọc,
mình thấy ghê. Thí dụ chương kiêu binh đến phá một cái phủ gì đấy. Lúc đầu quần
chúng không thể có ý thức được, họ vừa làm vừa sợ, chỉ nhân đà nhân đà, rồi họ
mới dám làm dấn lên thôi.
Nhân ít chuyện ông Mạn - ông Thái
trong cơ quan.
-- Thôi thế là hỏng tận xương cốt. Người ta cũng gần 50 tuổi đầu rồi, cũng
phải tin vào một cái gì chứ? Bây giờ không thể tin được. Cho nên ngày nào tôi
nói cái này, ông Vũ Tú Nam cứ bảo là khinh bạc. Tôi bảo bất cứ một anh chàng
tích cực nào, đằng sau thả nào cũng vướng một ít động cơ cá nhân.
Về Chế Lan Viên
Đúng là cái lão này giả thật. Thằng Dương Tường nó bảo: chính họ tên của nó
cũng giả chứ gì?
Nhân nói về Dimitrôva, Dương Tường bảo cái mụ này nó cũng giống như Chế Lan
Viên, nó cứ vân vi như thế, nhưng được cái nó là đàn bà, nên nó cũng hấp dẫn
hơn.
Cái chính là mình cũng phải làm, cũng phải nói thôi. Nhưng như ông Chế, ông
ấy cứ nhảy chồm chồm lên thế, thì có ra sao. Đâu chỉ ăn ở với cấp trên, còn phải
lo ăn ở với dân thường chứ. Quan nhất thời, dân vạn đại.
(vào một dịp khác) Chẳng phải chỉ
mình hay sợ. To như tay Chế Lan Viên, mà lúc doạ cho, cũng cứ là xanh mặt đi
chứ tưởng.
Xô
đổ khuôn mẫu thể loại -Phá
vỡ lô gích cuộc sống - Không
trông đợi ở ai khác ngoài chính mình - Luồn
lách mà sống - Mình
quá lạc hậu so với thế giới
Đọc
để viết- Nhân
nói về vấn đề Tôn giáo - Nguyễn
Minh Châu nhận xét về Chiến sĩ - Lại nói về vụ Nhân văn Giai phẩm -Những chuyện bực mình chung quanh Chiến sĩ
Đi tìm cách viết để trốn - Huy động bản thân vào tác phẩm - Trò chuyện bình đẳng với bạn đọc - Còn muốn làm một cái gì đó - Về Chế Lan Viên
Thế nào là một nhân vật tiểu
thuyết
-- Tôi vẫn chưa phân biệt
ở anh đâu là nhà tiểu thuyết nghĩ bằng nhân vật, đâu là phần người mượn nhân
vật phát biểu một số quan niệm...
- Nói một cách kiêu ngạo,
thì tôi cao hơn các nhân vật của tôi, tôi lấn át họ. Nhưng mà vẫn có cốt
truyện, cốt truyện là cái tay vịn, là cái cớ để mình nói mọi chuyện.
Bà Elsa có nói câu này: Nếu
quyển sách viết ra mà chỗ nào cũng là những dòng vàng ngọc thì người đọc sẽ
không thể đọc nổi.
Trong văn học hiện
thực XHCN, chỉ có một nhân vật văn học
có số phận bi thảm, đó là Grigôri Mélékhov. Rồi từ đó thì toàn là những nhân
vật của bi kịch lạc quan - mà đáng nhẽ thì phải có những hài kịch bi quan mới
đúng.
Cái chết của văn học mình
là các nhân vật phải thành công, phải thỏa mãn, mà thực tế không phải thế. Những
con người có suy nghĩ sẽ rất say sưa nếu nghe chuyện một nhân vật thất bại.
Lịch sử con người là lịch sử bi thảm nhưng chính trong những thất bại đó, người
ta tìm lấy bài học. Cũng tức là chính trong những thất bại đó, con người khẳng
định mình.
Bởi khi nhân vật thất
bại, là hắn đã đầy rẫy những sự chống đối. Chống đối lại hoàn cảnh. Dù thất bại vẫn vẫn chống
đối.
Nhân vật của Nguyễn Thế
Phương trong Đi bước nữa không thể nói là một nhân vật văn học. Bởi nhân
vật đó luôn luôn bị động trước hoàn cảnh mà không dám cưỡng lại. Tự nó đã tước
đi của nó cái khả năng trở thành một nhân vật văn học mất rồi.
15/3
Giới hạn của tìm tòi
--Tôi nghĩ rằng trong Chiến
sĩ có những chương hay nhất của tôi. Tôi có thể đi vào một cách viết mới. Ví
dụ như những đoạn nhân vật đối thoại. Tôi đã mở rộng được đối thoại, đến mức là
có thể thay thế cho mọi cách tự sự miêu tả.
- Các ông khác sẽ phê
bình anh là ít thực tế, anh không dựng được tính cách và hoàn cảnh.
--Có cái đó một phần.
Đúng là mọi điều đều do mình kể lại.
Nhưng thời nay, dựng từ đầu đến cuối
thì nhạt lắm, khó hay lắm.
- Dạo này tôi mới hiểu ra
cái sự vụ thực kinh khủng trong văn học mình.
- Họ gọi mình là văn học
hiện thực sát mặt đất. Cái mục đích quyết định cách làm. Để thay cho họp, người
ta dùng văn học.
- Làm sao để trình ra
được những nhận định mà mình tin là cần
cho xã hội?
- Cứ vừa phải làm, vừa
tính thôi. Ví dụ như hồi ấy người ta chưa chú ý vấn đề tôn giáo thì mình đâm
đầu vào chuyện tôn giáo. Hay là cũng từ đó về sau, tôi hay nói về tính ích kỷ, nó là cái mặt xấu
của con người mọi thời. Trong chiến tranh, lại tìm cách nói về bản lãnh của con
người, xem trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, cái bản lãnh ấy được vận dụng để đối
phó ra sao.
- Có bao giờ anh định trả
lời những câu hỏi cụ thể. Ví như cách mạng mà ta theo đuổi gần ba chục năm nay
là gì, ý thức chủ đạo trong đời sống xã
hội hôm nay là thế nào?
- Tôi cho rằng đó là
nhiệm vụ của các ngành khác.
- Nhưng văn học cũng phải
trả lời.
- Khu vực của văn học
rộng hơn. Văn học có thể có một câu trả lời chung về con người thời đại. Từ đó,
họ sẽ giải quyết mọi câu hỏi khác.
18/3
-- Người ta bảo tôi những
người ở bên Hội còn ảo tưởng lắm. Anh thì cái đó hơi ít?
- Này, đừng có nói. Nhưng
mà đúng là tôi hay nghĩ được đến đâu, hay đến đó. Viết được cái gì, hãy cứ
viết, in ngay. Biết sang năm là thế nào? Tình hình này, mình dễ ngả sang Tầu,
chứ không phải Nga đâu. Có thể thành số không hết.
- Bọn chúng tôi, mới vào
nghề mới khổ.
- Còn bao thanh niên non
trẻ khác khổ hơn các ông. Mỗi lớp người một nỗi khổ riêng.
- (Nhàn) Từ hồi tôi về đây, cũng đã được 5 năm.
Cũng bằng thời gian 1957-62 của anh. Mà có làm gì được mấy. Mất bao nhiêu công
sức để tìm cái đúng. Bây giờ thì mỏi mệt .
- Thì ông tính, có người
còn cả đời cũng không đến được quan niệm văn nghệ chân chính thì sao? Còn như
làm được ít thì hoàn cảnh như thế, có ai làm được mấy.
- Tôi chỉ buồn là hồi đi
học mình được nghe một đằng, bây giờ thực tế một nẻo. Như bảo mình tự do, thì
chằng có tự do gì. Bảo vì quần chúng nhưng rất khinh quần chúng. Bảo nghệ thuật
vị nhân sinh, vì bây giờ nghệ thuật vị nghệ thuật chính cống. Thế có phải không
ra sao không. Không biết bắt đầu từ đâu, nó như thế này.
Ng Khải buông một câu ráo
hoảnh, bắt đầu từ chỗ nó đã bắt đầu, chỗ mọi người cùng bắt đầu chứ còn sao nữa,
để rồi sau đó lại nói với giọng buồn bã:
-- Thôi, thế là coi như
hy sinh đi cả một thế hệ. Chẳng có ai để hy vọng. Ngay nay mai có thay đổi thì cái cách thay đổi của nó, cũng
chẳng có gì lạ lẫm.
Ông Trường Chinh, tôi
biết, hách lắm. Còn ông Lê Duẩn đủ chuyện điên điên khùng khùng. Nghĩa là, trên
dưới nhớp nháp.
10/4
Ám ảnh người mẹ
Ông nói rằng hoàn cảnh của ông khổ. Thật ra
thì chưa ai khổ như tôi. Mang tiếng rằng con quan nhưng vợ lẽ, con riêng. Đã có
thời gian tôi về ở với những ông anh con nhà tư sản, nó đánh nó riếc cho nhục
nhã .
... Tôi nhớ hình như đâu
là thời gian cuối 1944, đầu 1945. Tôi nghe mẹ tôi bảo hai anh em, thôi thế này
có gì mấy mẹ con ta đi tự tử. Tao hô xong, chúng mày cùng nhảy xuống nước. Sau đó, thì có
ai đó, đến đưa tiền cho, nên mới thôi.
Bà mẹ tôi là một người
đàn bà có thể nói là kiêu hãnh. Kiêu hãnh về phẩm chất của mình. Ông cụ lừa bà
cụ, nói rằng chưa có vợ, nên bà cụ mới lấy.
Tới lúc ông ấy thú thật,
bà cụ bỏ đi. Có lần, cụ cứ đến nhà mà chửi, gọi tên ông bố tôi ra chửi. Bảo chủ
nhà là... ra có người đòi nợ!
Hoặc như trong kháng chiến
có lần ông cụ đến mời về. Ông cụ gọi bằng bà, mà bà cụ thì cứ mày, tao - mày...
khổ sở thế chứ.
- Thôi cho con nó về với
tôi.
- Cho nó về thì đừng cho
nó nhìn thấy mặt tôi nữa.
Tôi về theo bố một thời
gian, sau lại trốn về với mẹ.
Bà cụ bây giờ già, nhưng
ốm nhất định không chịu uống thuốc. Chỉ muốn chết.
Cô Bắc thì sợ lắm. May ra
vài năm gần đây, mới dám đưa tiền cho bà cụ đấy chứ! Trước toàn phải tự tay tôi
đưa.
Con người thực tế
- Có phải vì thế mà anh hay bảo tôi là phải
sống cho thực tế?
- Không. Nhất định đó
phải là bài học chủ yếu trong tuổi trẻ của tôi rồi. Trước sau, tôi vẫn nhìn
nhận xét này thế này. Những cái cũ còn đìa ra đó, có họa là phép thánh thì
mới mơ màng được.
Như là chuyện lấy vợ. [Có lần tôi nghe Hà Trì kể, ông Khải có tìm
hiểu gì nhiều lắm đâu! Đi xem chiếu bóng, ông Cao còn ngồi giữa, hai anh chị ngồi 2 bên]. Nếu ảo tưởng, tôi đã không
lấy tay Bắc. Hồi đó, tôi đi trên đường Hà Nội, con gái quay lại nhìn mặt cơ mà.
Hay là chuyện con cái. Tôi không hy vọng gì ở chúng nó cả. Tôi chỉ muốn chúng
nó khỏi ốm, khỏi mất dạy, để khỏi làm phiền mình.
Trong gia đình, tôi là
một người chồng độc đoán, phong kiến lắm. Hơi một tí là tôi sưng sỉa. Tôi bắt
mọi người phải nghe mình nói, không được cãi lại . Phải chấp nhận một cách vô
điều kiện. Đó thật là một vương quốc mà tôi cai trị theo những luật pháp riêng.
Có lần vợ tôi bảo:
-- Anh vui lên một tí.
Anh vui thì cả nhà vui!
8/6
Một đứa con chết
-- Tôi đã nói với
Nhàn với
Sách nhiều lần đấy. Tôi linh cảm thấy rất rõ những tai vạ xảy đến. Trong
Chiến sĩ tôi nói rất nhiều về
những tai họa.
- Có phải nên coi đây là
một cái gì khách quan để cho mình đỡ khổ?
- Không, không được làm
giảm nhẹ ý nghĩa của tai họa, không được gây cho mình những ảo tưởng, đến lúc
nào đó ảo tưởng sụp đổ, thì anh sẽ không làm gì được nữa.
Tôi cứ tưởng rằng khi
chuyện này tới thì tôi không thể vượt qua. Nhưng bây giờ thì hóa ra cũng chịu
được. Từ nay trở đi, tôi cho rằng không có khó khăn nào lớn hơn đối với tôi
nữa. Không khó khăn nào, mà tôi không vượt qua được.
Chắc chắn rằng tôi sẽ
không viết như hôm qua nữa. Từ tai họa này tôi sẽ thay đổi , tôi tin như thế.
Đời tôi lắm lúc tôi nghĩ
mình trọn vẹn quá. Làm việc đều. Gia đình tạm ổn. Lúc trẻ thì vợ chiều, bây giờ con lớn thì con chiều... Thằng Huỳnh nó vẫn giặt quần áo cho tôi đấy chứ. Trong những gia đình bên cạnh, chồng người ta đi B con
cái người ta nheo nhóc, nhìn cứ ghê ghê. Cho nên, khi nào vợ tôi hỏi nhà hỏi cửa
tôi đều bảo, thôi, hãy cứ mong được trông thấy nhau đầy đủ thế này, đến mùa
nước lại chạy vào tạp chí, thế là được rồi.
Bây giờ, có những thứ lại phải bắt đầu
lại. Lại phải đẻ thêm. Lại phải nuôi con. Con lớn, lại có thể có tai kia nạn
nọ.
Chỉ có điều tôi không bao
giờ ân hận. Tôi đã tận hưởng hạnh phúc. Những năm qua, tôi đã không bỏ qua,
không coi thường nó. Đẻ được thằng con lớn hãnh diện lắm. Đi đâu cũng có hai bố
con, như đôi bạn. Giờ như một đôi, bị chẻ ra còn một... Đau quá.
Thằng Huỳnh nhà tôi, nó
trong sáng lắm. Thật là một thanh niên giỏi giang, sẵn sàng làm mọi việc nghĩa.
Nhưng mà ở nó đúng là không cân xứng giữa thể xác và tinh thần. Thân thể phát
triển quá, mà tinh thần không theo kịp. Dễ bị kích động.
Thằng Khoa thì ghê lắm.
Nó gan. Nó trông thấy anh nó chết, nó chỉ tái mặt đi một tí, tuyệt nhiên không
khóc.
- Còn thân mày nữa đấy - Mẹ
nó đe.
- Không, con không sao
cả, mẹ ạ. Anh Huỳnh hoàn toàn quá, anh ấy mới bị. Con thì ai cũng chê, không ai
làm gì đến đâu. Anh Huỳnh hiếu thắng, anh ấy mới bị. Con không hiếu thắng bao
giờ cả. Con biết thân con chứ.
Một thanh niên 16 tuổi
chết. Tất cả mọi người trong chúng tôi như bàng hoàng. Lâu nay, đời sống bị xô
đẩy tất cả hình như có một nguyên nhân chung là chính trị, là bom đạn, là đế
quốc Mỹ và phe ta. Chính trị phát triển,
bành trướng đến đâu chăng nữa, thì nó cũng không làm đầy được cả cuộc đời này.
Nó vẫn dành một chỗ cho tiềm thức, bên cạnh ý thức; dành chỗ sự phi lý bên cạnh
quy luật tự nhiên. Đây là một điều xưa nay ai cũng đã biết nhưng một cái chết
cứ nhắc nhở mình một lần nữa. Như một tiếng gọi của chính mình vậy.
Khải là người viết hay
nói về niềm tin, về lý tưởng, về tôn giáo. Đọc tác phẩm của anh, bao giờ cũng
thấy một cái gì rất hợp lý, thì đây là một đòn phi lý đánh thẳng vào anh.
Trong tang tóc, vẫn thấy
một Nguyễn Khải như cũ, Nguyễn Khải hay phân tích về mình, Nguyễn Khải lý trí, Nguyễn
Khải ích kỷ, Nguyễn Khải thực dụng. Anh mặc cho mấy người cơ quan lo giúp
chuyện mai táng Huỳnh. Hôm đưa nó đi anh chỉ ở nhà cốt trông bà vợ đang đứt
lòng đứt ruột khỏi đau nặng thêm. Nhiều phen anh nhìn những người tới chia buồn
với con mắt nghi ngại, hình như mọi người cốt tới thăm anh để nhìn ngắm nỗi đau
khổ của anh ra sao.
Nhưng rồi có lúc vẫn đùa
được:
- Mấy ngày vừa rồi, cả
nhà tôi phải nghe đủ mọi lời khuyên, nghe nói đến mọi thứ tai họa. Đau khổ mấy,
cũng không thể lột ra được đâu chị ạ. Này, con chết không bằng chồng chết. Không
trông nom ông ấy cẩn thận, ông ấy làm sao, thì lại rất khổ. Mẹ Bắc nghe thế, sợ
quá, hết cả khóc!
4/9
Xô đổ khuôn mẫu thể loại
Trần Dần nói bây giờ ở
đâu văn nghệ cũng thấy bí. Các nhà văn cổ điển họ đi hết các khu vực phải đi
rồi.
May ra, bây giờ có một hướng phá bỏ các thể
loại, ở đó, chỉ cần có ba yếu tố 1/tư tưởng 2/ giọng điệu nghệ thuật 3/
chất nghệ sĩ ở ngòi bút tác giả.
Cho nên nhiều tác phẩm
bây giờ lại chủ ý phá ra về mặt nghệ thuật.
Viết về những gì bình
thường ai cũng viết rồi. Thêm vào đó một cách giải thích mới, cách nhìn mới đó
là công việc của hai loại. Hoặc là hạng ngẩn ngơ mới vào nghề. Hoặc những bậc
thiên tài.
Còn như những người khôn
ngoan ra người ta toàn phải đi vào những khu vực lạ
Trần Dần còn bảo ở ta chỉ
có một tác giả là ông Tuân. Ông (chỉ Ng Khải) cố lên, thì cũng có thể được đấy!
10/9
Tôi ngồi đọc lại Tu sĩ
áo đen. Ai mà nói đó là quyển sách nói về bệnh vĩ đại, tay ấy đại ngu.
Chính nó nói cái phần này. Khi người ta có ảo tưởng, người ta có thể làm thêm
được một số việc nào đó. Và khi đó con
người ta khá hơn lên, thanh thoát hơn lên. Còn khi không có ảo tưởng kia xem,
con người ta trở nên nhạt nhẽo đi, vô duyên đi. Có lẽ chính Sékhov cũng đã thể
nghiệm cái cảm giác đó, trong đời văn của mình, cho nên ông ấy mới viết như
vậy.
- …..
- Tôi xem lại Sékhov rồi.
Khối chuyện nhảm, như Nguyễn Công Hoan nước mình. Có truyện chỉ viết về một tay giã rượu.
14/9
Phá vỡ lô gích cuộc sống
Tôi nghĩ ra rồi. Cứ viết thôi, cứ trông gương
Hữu Mai kia kìa, lại mới viết xong 700 trang, thế mà lại ăn. Tôi cũng sẽ viết. Hôm nọ ngồi
họp, ông Chính Hữu lại bảo phải bàn về quan niệm viết sự thật thế nào. Sự thật
là sự thật chứ việc gì mà phải bàn.
Hồi 1963, tay Mai Thúc Luân nó nói chuyện phá vỡ lô gich
cuộc sống tạo lô gich nghệ thuật là đúng thôi, nhưng các ông nhà mình sực làm
sao nổi, ông Trường Chinh chỉ đọc Jean Prévin với lại tay Boris Maylakh của nhà
xuất bản ngoại văn Mạc Tư Khoa nên quan niệm thế thôi, có gì mà lạ.
- Bây giờ... nói thế nào
nhỉ. Tôi có thể nói là tôi tìm ra lẽ rồi, tìm ra lẽ để hiểu mọi người, mọi
chuyện hiểu từ những ông trên, từ những ông phật như ông Từ Bích Hoàng cho đến
những ông lươn lẹo như các ông ở ngoài .
Tô Hoài có gì, chỉ là một
khoảng rỗng, ông ấy lại cứ làm ra vẻ bí mật, có gì mà bí mật.
Trước tôi còn tưởng thế
hệ thanh niên từ sau mình nó là một cái gì khó hiểu. Hóa ra cũng chẳng có gì
khó hiểu cả. Tôi cam đoan thế hệ sau mình, rồi 1, 2 thế hệ sau cũng thế không
ra ngoài mọi chuyện hôm nay được.
Không trông ở ai khác ngoài chính mình
Tôi có thể nói rằng như
thế là đời tôi cũng đã đi hết mọi sướng khổ rồi, tất nhiên là ở phương diện
sáng tác mà nói, mình tồn tại ở phương diện ấy. Bây giờ giá người ta có bắt
mình đi tù, đi cải tạo, thì rồi mình cũng vẫn thành một thằng tù xuất sắc, có
nhiều hối cải để mau được ra, rồi ra mình lại xoay sở mình làm.
Cũng không có thể đánh
mất mình đi đâu mà sợ, đời người có những cái nhẹ như gió, nhưng có những cái
nặng như chì, đến tuổi này của tôi là mình phải tìm ra rồi, phải cố kết thành
xi măng, cốt sắt trong người mình rồi.
Dẫu sao thì cũng phải
sống, sống còn hơn là chết. Có thể nói như Pavel, là người ta sống có một lần,
nên phải sống đến cùng. Với lại mình cứ sống nghiêm chỉnh, thì cũng chẳng ai
làm gì nổi mình.
Như tôi viết đấy, chẳng
hay nhưng mà cũng không thối, không ai dám chê . Trong cuộc họp, cũng không
thấy tay nào dám đùa bỡn.
Là vì thế này, người mình
chỉ hay xỏ xiên nhau. Nghĩ hẹp, sợ trực diện lắm. Sang Hội nhà văn khối ông nói
xa nói xôi, tôi biết, nhưng vẫn mặc kệ.
Còn động đến tôi, là không được.
Tôi mới mang quyển tiếu lâm về đọc. Chỉ có
truyện này là ghê này, truyện Đánh mất mình. Một gã bị chuốc rượu, người ta cạo trọc đầu,
vứt vào một cái chùa. Lúc tay này tỉnh dậy, thấy ở giữa chùa, lại sờ cái đầu
không có tóc. Tự hỏi, không biết còn là mình? Hay mình là sư, không phải mình
nữa. Bây giờ mới nghĩ ra một kế, là đi về nhà. Xem thế nào. Con chó trông thấy,
cắn. Thế là co cẳng chạy.
Đó, mình không còn là
mình nữa rồi, chỉ được truyện ấy là có ý nghĩa triết học. Còn ngoài ra thì nhảm,
toàn là chuyện nhảm, cười với cợt vớ vẩn lắm.
- Thế là cái điều kết
luận của anh là gì? Là một quan niệm hư vô hay là nó có phương hương của nó. Mà
đó là hướng gì?
- Điều đó thì bây giờ tôi
chưa thể nói với ông được. Nhưng tôi có thể chắc một điều. Viết xuôi viết ngược
thế nào, cứ lấy mình ra mà suy, viết được tất.
18/9
Luồn lách mà sống
Đọc một quyển trinh thám
Ý, nói về một người điên. Rút ra được bao nhiêu điều quan trọng. Thế mới biết
trinh thám bên Tây cũng khá lắm. Vừa đọc vừa nghĩ nếu mình có điên, chắc mình
cũng rơi vào hoàn cảnh như nó.
Hôm nọ, đi xem một bộ
phim Bulgari. Chỉ có một thằng nó làm cái thùng. Cái thùng tượng trưng cho tài
năng. Xem xong quay về lúc họp ông Châu ông ấy mới tương cho một câu “Nó viết
toàn những điều vớ vẩn, nhưng lại dẫn tới những kết luận quan trọng. Mình viết
toàn những chuyện quan trọng, kết luận rút ra lại toàn là vớ vẩn”. Cả bọn cùng
ngớ ra một lượt. Cứ y như người ta làm phim dậy mình vậy.
- Dẫu sao, cũng không
cưỡng lại được hoàn cảnh, cưỡng lại được quan niệm đương thời. Hôm nọ, ông
Nguyễn Thanh Long lại ngồi khuyên tôi ông nên viết một cái gì nó khái quát một
chút. Ông vừa hiểu quân đội, vừa hiểu hợp tác xã, ông có đau khổ chung của dân
tộc, lại có đâu khổ riêng của bản thân thế là viết được chứ gì . Tôi nói thế
viết đủ sĩ nông công thương chứ gì không. Ông Long giọng rất chân thật, không
phải đầy đủ thế, nhưng vẫn cứ là khái quát.
Người tốt như thế mà còn
quan niệm như thế, quan niệm đặc kiểu Viện văn học chứ còn gì... Cho nên ông có
cái gì mà nói về sự bất lực với lại hoang dại thì người ta có vứt đi cũng ráng chịu. Toàn chuyện phạm thượng cả.
Không ai in cho ông đâu. Ông nên biết rằng người ta không phải là người tầm
thường, mà người ta lại biết rằng người ta đang phải làm những việc tầm thường.
Đừng tưởng Tác phẩm mới, hay báo Văn
nghệ rộng rãi đâu. Gay lắm, bị marqué cả mấy lớp. Mình ở đây có sai, thì họ cho
là lính tẩy là anh không tự giác, không có trình độ. Ngoài kia có sai ấy à,
chính anh là đạo gốc rồi, anh còn nói gì nữa?
... Trường hợp tôi, phải viết dưới tay thế này, thôi cũng đành chịu! Làm thế nào được. Quyển Chiến sĩ này, hôm nọ một ông bên nhà
xuất bản lại kêu. Có ý kiến đấy anh ạ. Có ý kiến đoạn này đoạn kia sao lại cho
in. Tôi chỉ đóng vai cười trừ, tôi nói thì các anh đọc cả đấy, tôi chỉ có một
khuyết điểm là thiếu thực tế, là tán róc. Nói thế mà sốt cả ruột.
Ông Chính Hữu chỉ có mỗi
cái ngón võ là phương pháp tư tưởng. Mình mới phải cho một câu khóa ngay từ
đầu. Rốt cục, lão Chính Hữu phải nhận có hơi bất mãn làm thơ mới hay. Bởi vì
khi bất mãn, anh viết thật; khi ca ngợi, anh giả dối, có gì lạ đâu.
2/10
Mình quá lạc hậu so với thế giới
Một tay nó nói cũng đúng.
Ở nước ngoài trẻ con nó làm văn miêu tả, mà người lớn, viết nghị luận.
Ở nước mình trẻ con nứt
mắt đã nghị luận về lòng yêu nước, yêu nhân dân, trong khi nhà văn toàn làm
chuyện miêu tả sao cho mùi mẫn hấp dẫn.
Trần Dần hôm nọ bảo
với tôi tiểu thuyết thế giới bây giờ gay lắm. Bọn tiểu thuyết mới chỉ được quyển đầu. Quyển sau nâng lên thành trường
phái, thành lý luận và cứ thế mà viết theo. Nhưng khi khuôn vào trường phái,
làm sao có thể đẻ ra những tác phẩm chứa được tài năng của anh nữa rồi.
Ông H. Boll chỉ viết kiểu cổ điển.
Với ông Aragon, tiểu thuyết chỉ là những thứ
phẩm của thơ ông ta thôi.
Cái chính là con người
mình bây giờ, mỗi người đều cảm thấy cô đơn, không có gì thông cảm với nhau
được. Cho nên cả những tay ở họa, ở nhạc nữa, chỉ làm ra những thứ đâu đâu, chả
cái gì làm cho mình xúc động cả.
- Mà lại toàn chuyện ngồi
lê đôi mách.
- Ấy, giữa chuyện ngồi lê
đôi mách với văn học, khoảng cách không xa đâu. Anh chỉ cần đẩy nó lên một tí,
thì nó thành văn học. Thế mới biết cái ma lực của của văn học là ghê gớm thật.
Đọc để viết
Tôi cũng đã gặp lắm thằng
đọc nhiều. Đúng, Trần Đĩnh. Ông này là
loại đang xem nốt quyển này, mà không có quyển khác trong tay là rất khó chịu!
Nhưng ở đời này, những
thằng đọc quá nhiều có thằng nào làm được trò gì đâu. Viết thì dở, có khi viết
bài báo cũng không được.
Đọc là anh phải đọc để
làm cơ, ăn được cơ. Trước hết là xem ở đó một cách nhìn. Tại sao mà cùng vấn đề
đó, mình chỉ nhìn được chỗ này, mà người ta nhìn được những chỗ khác.
Nhân nói về vấn đề Tôn giáo
-- Sự thực thì thế giới
ngày nay, người ta vẫn bị mắc giữa hai con đường. Hoặc là suy nghĩ cho kỹ, cho
thấu đáo, thì rồi không dám làm gì. Hai là làm liều đi, làm lấy được, thì lại rơi vào dung tục tầm thường.
Nguyễn Minh Châu nhận xét về Chiến sĩ
Ông Khải viết cái này đọc mệt lắm. Đứng gần
thằng lính quá. Cái gì cũng làm, cũng nhìn, cũng cắt nghĩa. Chính cái bút pháp
đó, lại không ăn với thằng lính. Ở thằng lính cái khả năng quên, cái khả năng
sống cho tự nhiên, cái đó nhiều khi rất lớn.
Các nhân vật của ông Khải đều sắc sảo, nhưng một đống người sắc sảo như
thế, lại là một sự đơn điệu, chứ phong phú làm sao được?
Cứ bảo các nhân vật của
ông Khải hay lý lẽ. Nhưng lý lẽ cái gì, toàn là kinh nghiệm ở với bố mẹ, gia
đình, sự khôn ngoan trong cách đối xử và làm ăn, một tí những kinh nghiệm kiềm
chế bản bản thân, để bản thân trở nên đỡ lố bịch.
Cái khả năng chia mình ra
nhiều loại người, cái khả năng ấy Khải
không có, hay là có rất ít.
Cái lối viết có những tiêu
đề ở trên chẳng qua là một lối xâu chuỗi các sự kiện. Nhưng nội dung thế này,
thì có xâu lại cũng không ra chuỗi.
18/10
-- Anh có công nhận xem
các ông nhà mình lãnh đạo văn nghệ thì biết ngay là các ông chả hiểu gì chuyện
làm ăn cả. Vì văn nghệ dẫu sao cũng là cái điều các ông ấy dễ biết hơn mọi thứ
khác. Nó gần các ông ấy hơn là kinh tế.
-- Tôi lại thấy thế này.
Kinh tế, đúng là chỗ người ta không biết, với lại kinh tế, kỹ thuật nó chỉ là
tay sai. Còn như văn nghệ, văn nghệ luôn luôn gây ra những mầm mống chống đối.
Luôn luôn nó là một thách thức, trong khi chính quyền anh chỉ muốn kìm hãm người
ta, thế thì chịu sao được. Những tay văn
nghệ ghê chứ.
Lại nói về vụ Nhân văn Giai
phẩm
- Đúng là hồi ấy mình
không biết gì. Còn như giữa họ giữa những người văn chương với nhau, đấy là
cuộc đấu tranh của giới quý tộc - mình len vào cũng là một thứ vũ khí cho họ
dùng. Nhưng không hiểu sao, bọn mấy ông
Trần Dần các ông ấy cũng không ghét tôi lắm đâu. Có lẽ là vì họ biết rằng mình
không hiểu, mình nói liều thôi.
Chứ nhiều người khác, tố
điêu, tố láo, bây giờ còn thù nhau mãi.
- Chính những ông như
Trần Dần, họ vẫn tự coi mình người chân chính mác xít đấy. Chỉ có điều mác xít
nhưng mà phải tự do. Quan niệm văn nghệ tự do thấm vào với họ từ trong máu rồi.
Năm 1953, Trần Dần sang nghiên cứu văn nghệ
Trung quốc, đã nói nhiều tới Hồ Phong.
Đi đường toàn cãi nhau với Hoàng Xuân Tùy thôi.
Bây giờ Trần Dần vẫn nói
về những chuyện văn nghệ trụy lạc, suy đồi, với giọng khinh bỉ thực sự!
... Hồi ấy, trong bọn,
Trần Dần là người có học hơn. Là người
đi đến đâu cũng được nhiều người nghe. Đến khi ông ta bị "cầm cố"
rồi, vẫn ung dung đọc sách, và cũng không ai dám đùa bỡn! Nguyễn Hữu Đang là
nhà lý luận chung. Còn đây là nhà lý luận văn nghệ. Vả lại, so với những Phan
Khôi... thì tay này mới hơn chứ! Chính đó là người đi đơm đặt, mời mọc các ông
Văn Cao, Nguyễn Tuân...
- Về phía bên này, người
mà có thể gọi là kỳ phùng địch thủ của Trần Dần, là Nguyễn Đình Thi. Hồi ấy, Tố
Hữu cũng hơi sợ, không dám đối mặt nhiều lần với cánh bên kia đâu.
- Thôi, cứ coi đó là một
thoáng dân chủ duy nhất của mình. Họp hành các thứ ở trên gác 2, khách sạn Bờ
Hồ. Ông Trường Chinh đến, chỉ có tiếng vỗ tay lẹt đẹt... Chỉ những người trong Đảng
vỗ tay. Rồi có ý kiến, rồi ông ấy lên trả lời. Hồi ấy, người còn sinh khí lắm, ăn
nói đâu vào đấy, mặt không hề biến sắc. Tức là người đã có kinh nghiệm từ hồi
hoạt động công khai mà.
-- Năm 1956, anh có bị
xúc động ghê gớm, nó giống như thể thất vọng không?
-- Không. Có lẽ một phần
cũng là vì tôi không bao giờ tin mọi điều một cách nông nổi. Hoặc là vì mình
cũng đã có những năm sống dưới cái chế độ cũ điên đảo, có lúc mình tin rằng
không bao giờ người ta có thể diễn thuyết được bằng tiếng tiếng Việt. Biết thế,
cho nên cũng khó lòng nói là bị một cái gì đổ vỡ.
Lắm lúc buồn quá, chỉ
nghĩ thế là đời mình coi như hỏng rồi, không còn mong gì nữa.
Dẫu sao, năm nay chúng tôi đã hơn 40 tuổi. Cũng
đã được một chặng rồi, chả hối hận gì nữa. Từ nay trở đi, sẽ thấy thời gian đi
rất nhanh. Sẽ thấy anh chẳng còn làm gì được nữa đâu. Có làm được gì, là làm từ
năm 25 tuổi.... Nhưng mà trong tình hình chung, thì còn gay lắm, chưa thấy gì
cả. Lại còn lo cánh giải phóng nó gọi vào. Ông Thép Mới đang xin ra đấy. Nghe
đâu ông ấy bảo những anh em nào có khả năng làm việc thì cố tìm cách mà thoái
thác
26/10
Những chuyện bực mình chung
quanh Chiến sĩ
Làm việc với nhà xuất bản
quân đội phiền ghê cơ. Ở những nơi khác, họ thông qua rất nhanh. Ở đây, thì họ hay làm ra vẻ quan
trọng.
Ông Uyển lại vừa gọi tôi
sang. Phản ánh là có nhiều ý kiến về Chiến
sĩ.
Từ bạn mình cũng có. Hồ
Phương bảo truyện đéo gì mà chỉ toàn thấy đi lạc. Còn Hữu Mai, Hữu
Mai chỉ tủm tỉm. Nghe đâu, chính ông ta vừa lăng xê một cái ý của một ông phê
bình: Người ta chỉ nói ba hoa. Ông này
lại còn nghĩ ba hoa nữa cơ.
Cái mà ông Uyển gọi mình ra hôm nay, là ý kiến của Tuyên huấn thiết giáp.
Thế này thì chả hiểu Xe tăng chúng
tôi gì cả! Có lẽ họ không cho bộ đội ở dưới đọc. Mình phải bảo cái chính là xem
tôi có viết sai đường lối chính trị không. Tôi phục vụ đường lối chính trị
chung chứ đâu phục vụ công tác chính trị của Xe tăng.
Cái số mình bao giờ cũng vậy, làm với anh nào, bị anh ấy nó chửi. Như quyển
Chủ tịch huyện, Hưng Yên phản ứng ghê gớm quá, đến nỗi báo Nhân Dân
không dám cử người viết phê bình, giới thiệu nữa.
Buồn cười nhất là công binh. Trước kia thì quý quý hoá hoá. Đến khi
đọc Đường
trong mây gặp nhau, họ cũng chẳng buồn bắt tay mình nữa. Thằng Mai Thế
Chính kể sách vừa mới xuất bản, các ông ấy bảo nhau đọc hết. Đọc xong ông chủ nhiệm chính trị đánh ngay xe
con đến nhà Hồ Phương, yêu cầu Hồ Phương viết công binh cho họ.
Dạo này, tôi cũng ghét cái lão thọt [giám đôc thư viện quân đội ]. Trông vẻ hồn nhiên thế mà vừa rồi viết
thư tận Tuyên giáo đấy, viết rằng sao lại có cái đoạn bắn thằng Mỹ tha thằng
nguỵ. Như thế thì để đâu quan niệm thù bạn. Chúng tôi rất lấy làm khó nghĩ.
...
-- Hôm nọ anh bảo các ông xuất bản cũng đã rà soát kỹ lắm cơ mà.
-- Ví
như, ông ấy cũng bảo nên đưa cho Tuyên huấn thiết giáp xem. Tôi phải gạt phắt
đi . Tôi bảo, thôi mà anh, tôi có viết gì mấy về xe tăng đâu.
Ông Trần Cư thì bảo truyện này có vẻ nói về cá nhân, mà ít nói về tập thể.
Tôi nghĩ ra cái câu này mới lọt. Tôi bảo tôi viết cái chuyện này là người thực
việc thực, chứ chớ có tiểu thuyết tiểu thiếc gì lắm. Chuyện các cá nhân, mỗi cá
nhân như một cành hoa, tất cả làm thành một bó hoa nói về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng...
Chết một nỗi, giá kể có ai nói nhà xuất bản Văn học thì nó cũng mặc kệ. Ở đây không. Ai nói gì là về lại đeo
kính lại, soi, soi, rồi cuối cùng là lại than phiền. Ờ đoạn này đáng ra không nên in. Ờ đoạn này...
Phen này, tôi chỉ thương ông Uyển. Với lại, cái lão cục phó Mai Ninh nữa.
Khổ, lão ấy có đọc gì đâu, chỉ thân lão Uyển
thấy Uyển bảo được là được. Lúc lão Lữ Giang về, lão ấy cũng đọc lại,
mới ngớ ra. Nhưng mà không thể không in. Văn mình không thể chữa vặt cho nên
không soi vào đâu được. Thôi, thế cũng là đến chia tay cái nhà xuất bản này....
Rồi thì nó cũng chả làm gì được đâu, không có vấn đề gì lớn, chỉ thôi hết thôi.
Tôi đã phải nói với ông Uyển.
- Đấy, anh làm việc với tôi anh biết. Quyển này xong, tôi cũng chỉ có thể
nói là tôi đã làm hết sức. Không phải là tôi làm tay trái, làm qua loa. Thế còn
như nó có dở, có thế nào, thì đúng là tôi, không có chuyện gì phải ân hận cả.
Gặp bà Duệ nữa. Lại phê bình trong tác phẩm này, anh không yêu chiến sĩ,
anh chỉ phục... Và nhiều chỗ anh còn giễu nữa... Khốn khổ cho mình. Thế mà còn
bảo giễu. Cũng như chiến dịch, trên dưới bảo thua, mình viết thành thắng. Trong
những năm vừa qua, không có bọn nhà văn quân đội, thì lấy ai ra mà nói về chiến
tranh, nói về những thằng lính...
Cuối cùng về cái truyện tuyên huấn xe tăng, tôi phải nói với ông Uyển. Anh
bảo họ là cứ yên chí. Nay mai còn quyển tiểu thuyết của anh Phú về xe tăng nữa
thì nó sẽ đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xe tăng.
Nhị Ca:
--Nay mai, chỉ sợ thằng phê bình nào nó viết nhìn lại về 3 quyển tiểu
thuyết xe tăng thì ông Khải chết.
Châu :
--Cái trớ trêu của đời sống là bao
giờ ông Khải sắc sảo cũng phải
buộc chung cỗ xe với một anh nào đó tầm
thường. Cười dở khóc dở.
-- Tôi thấy bi quan lắm, chả trông mong được gì. Càng nhìn ra ngoài càng
thấy mờ mịt.
-- Đấy, điều quan
trọng là ở chỗ ấy. Mình đọc, mình tiếp thu những cái tiên tiến của thế giới,
nhưng mình lại sống ở đây, mình phải nhớ cái đó.
-- Cách mạng gì mà lại như nước mình.
Bao nhiêu nhân vật cũ vẫn còn nguyên đấy cả, chả ai có gì thay đổi cả. Chả ai phải lưu vong, tự sát.
-- Không thể so
được. Như ở nước Nga, đúng là bọn lưu vong nó tràn ra như châu chấu. Nước mình
không thể có như thế được đâu...
2/11
Đi tìm cách viết để trốn
Lúc đầu Chủ tịch huyện những
300 trang, tôi tước đi, tước mãi ấy chứ. Có những chương rất thích. Ví dụ như
chương bà Huyện uỷ xuống xã, bị xã nó lừa như thế nào, nó nịnh cho như thế nào.
- Chính ngòi bút như của anh mà phải viết Chiến sĩ là khổ lắm, khó
xoay xở lắm.
- Nhất là mấy chục trang đầu viết về đánh nhau. Nghĩa là mình loay hoay
mãi.. Nhưng mà không viết thế không được. Trong tình hình hiện nay, ai người ta
in cho mình. Nhưng cũng là chỉ mất mấy
chục trang thôi. Từ sau trở đi, là tha hồ thoải mái. Người ta mới bảo là mình
ba hoa mà lại.
Tiên sư tôi từ sau trở đi tôi lại còn viết dài nữa. Cứ trăm rưởi, hai trăm
trang thôi.
... Nghỉ lâu quá, chán rồi, phải đi lấy tài liệu viết một cái về công giáo đè
Bão biển của ông Chu Văn xuống mới được.
Bây giờ tất cả mọi thứ nghĩ ra rồi, chỉ còn tài liệu. Bây giờ tôi cũng chán cái
lối đi phải hỏi lâu la rồi. Ví dụ như hỏi về cách giám mục. Cứ được đọc biên
bản của mấy tay CA có khi lại tốt.
Tôi sẽ không tả cảnh tả kiếc gì nữa. Tôi sẽ dùng thể văn báo cáo. Thật khô,
thật xám, nhưng lại ăn không biết chừng.
Có cái này, ông giữ kín cho tôi. Lúc nào đó, tôi sẽ viết cái đại khái những
lời kể khác nhau về một con người. Độ 4,
5 người, mỗi người cho biết về một phía, mà hoá ra được một hình ảnh về một con
người.
Hôm nọ lại gặp ông Thi, ông Thi than phiền rằng văn Nguyễn Minh Châu đối
thoại gì mà dài quá. Đối thoại người ta phải ngắn mới phải. Nói thế thì chán
thật. Đối thoại của các ông ấy toàn là đối thoại sinh hoạt. Bà ăn cơm chưa.
Không dám, tôi ăn rồi. Viết thế thì viết làm gì
Ông Châu cũng thuộc dòng các ông của ông ấy thôi. Dòng văn miêu tả. Nhưng
Châu nó là loại cao cấp hơn.
Càng ngày tôi càng cảm thấy thế là mình đứng riêng ra một khu vực, không
giống ai cả. Cánh trẻ cũng chẳng ghé vào đây được. Những ông tài hoa như ông Chu,
ông Châu thì tôi không sợ.
Chỉ có những vấn đề thuộc về tư tưởng của người ta là quan trọng nhất. Một
khu vực mới, đúng thế. Còn như thiếu gì tài liệu.
Phấn đấu của tôi bây giờ ư. Cố làm sao viết được 10 năm nữa. Như thế là các
nhà xuất bản họ cùng quen với mình rồi, họ thấy lão này bố cục lỏng lẻo, nhân
vật không phát triển. Kệ nó. Họ kỳ kèo thế nào rồi họ cũng in, thế là được rồi.
Còn như mình cũng chẳng phấn đấu để in nước ngoài. Thỉnh thoảng các ông ấy
cứ bảo mình nêu lên đi để họ giới thiệu cho. Khổ quá, văn mình ai in mà giới thiệu.
Cái phần mà mình hướng tới giải quyết, thì nước ngoài nó đã vượt qua từ lâu
rồi. Cái chính của một nhà văn là ở trong nước anh.
Huy động bản thân vào tác
phẩm
Tay A. Gide có viết một quyển tôi vừa đọc, Những người làm bạc giả.
Nhân vật chính là một nhà văn, hình ảnh tự truyện của tác giả thôi. Tay này nó
nói rằng khi viết, người ta thường bổ tài liệu theo chiều dọc, trình bày theo
trình tự thời gian một vấn đề nào đấy. Tôi không. Tôi tương tất cả tài liệu ra
một lúc, tôi mang tất cả những hiểu biết của tôi trong một thời gian ra trình
bày. Như thế là phải hơn. Có những đoạn, Gide nói về những điều ông ta định
viết, lấy tài liệu ra sao, rồi viết ra sao. Cái đó rất hay.
Nhưng Gide nói cái này tôi thích nhất này: Mỗi tác phẩm, nó đều có một
sự bí ẩn. Trong trường hợp ra đời của tác phẩm, đều có những lý do gì đấy
rất riêng, và có lẽ nhờ thế mà tác phẩm có sức hấp dẫn.
Phần tôi, thì tôi có thể nói là mình cũng thể nghiệm một cái gì gần như
thế! Tôi nhớ những ngày tôi viết Tầm nhìn xa. Có những sự việc mình
không biết đầu biết cuối nó là thế nào cả. Sau này, Ra đảo. Trong chúng
ta, có nhiều sự thay đổi không ai lường nổi.
Và như hồi tôi viết Chiến sĩ này. Tôi đã linh cảm thấy rằng không ai
tránh được khỏi phải trải qua những thử thách riêng chỉ đặt ra cho chính mình. Những điều bí ẩn ấy cứ lởn vởn suốt trong tôi.
Mình viết mà như chính mình phải giải quyết cho chính mình - mỗi bên một đường, nhưng nó lại gắn với nhau, thế mới
đúng cách của nó.
Còn bây giờ, quyển sách về linh mục mà tôi định viết nay mai? Cũng từ hồi thằng con tôi chết đến giờ, tôi cứ
lởn vởn mãi cái điều này. Tại sao mà con người ta dễ duy tâm, người ta dễ tin
vào Chúa vậy? Đời sống bao giờ nó cũng có một phần buộc con người, tạo điều
kiện cho con người nghĩ đến một cái gì ở ngoài đời sống. Tức là phần đời sống
tinh thần. Là cái mà tâm lý học nó gọi là ý thức.
Nhưng cũng phải lựa lọc một thời gian mới viết được. Ngay lúc viết, mình
phải tính liệu từng tí một. Không thế thì ai nó in cho anh ? Cho nên, ngày nào
tôi viết độ 10 trang, là dứt khoát phải bỏ. Cứ độ 3-4 trang là trung bình.
-- Quan trọng nhất bao giờ cũng là phương hướng. Không có phương hướng, anh
cứ đi mòn mỏi theo những lối cũ, chẳng được cái quái gì cả.
-- Phương hướng
làm cho anh có chỗ xoay sở.
-- Chả trách họ cứ bảo anh đi độ hơn tháng trời, mà sao viết được 400-500
trang
-- Và cũng biết đâu, là trong cú làm ăn như thế, tự nhiên anh phụt ra được
một cái gì đấy, ngoài sự dự đoán của mọi người, như thế thì là càng phúc. Chứ
tôi thấy văn chương tả tả cái chuyện chung quanh bây gìờ đã dở lắm.
Hôm nọ, gặp ông Tô Hoài, tự nhiên ông ấy nói cho một câu thế này, chả biết
thật hay giả. Mình biết rồi, văn chương ông không phải ăn ở sự hoa lá, ông ấy
bảo. Nếu thế thật thì ra ông ấy cũng có đọc mình cẩn thận.
-- Có phải anh định bảo không ai đi vào cái phía như mình. Vậy nên
cũng không phải chia sẻ với ai cả.
- Cũng chẳng cần ai chia sẻ thật. Nhìn quanh chỉ thấy những người láng
tráng thôi! Với lại bây giờ mình cũng mong đừng ai người ta biết, nhất là giới
phê bình các ông. Biết họ đánh cho thì có giời đỡ. Ai mà viết như những điều
tôi vừa nói ra, là tôi đến tôi đập cửa Toà soạn liền.
- Thế cái cách của anh như thế, thì có lẫn với những người làm xã hội học?
Có khi anh lại giẫm chân lên xã hội học.
- Khu vực của tôi vẫn khác khu vực của họ. Có những kết luận giống nhau,
nhưng con đường tới kết luận sẽ khác chứ. Trên đường, có chỗ mình cho là quan
trọng, thì họ lại bỏ qua chẳng hạn.
10/11
Quan hệ với bạn đọc
Nói chuyện ở trường Đại học Sư phạm (8-11-73)
- Nói với những người này, thật khó. Ví như sinh viên sắp ra trường, họ là
những người đã có hiểu biết, gần như họ chẳng tin ở cái gì cả, mình thuyết phục
được họ cũng khó. Nhưng tôi biết là tôi còn nói được. Nhiều người đến nghe. Hôm
ấy, ở gần đấy, ông Lê Kim lại nói về tình hình Trung Đông nữa. Tôi bảo bạn nào
cần, cứ đi nghe Trung Đông đi. Nhưng sau, có nhiều người sang bên ấy rồi vẫn
quay lại, và họ nghe. Nhiều sinh viên đứng lạo động ở gần đấy, cũng chạy vào
đứng nghe. Tôi cảm thấy người ta có đọc mình và hiểu mình. Ngay cả quyển sách của
tôi mới ra, không phải tất cả, nhưng đã có nhiều người đọc, và hiểu.
- Cái chính trong buổi nói chuyện, tôi chỉ nói một điều này. Là xưa nay,
tôi chỉ viết về tôi, tôi lấy tôi ra mà nói.
Một cặp vợ chồng: Bản tự thú của một anh chàng chê vợ.
Anh đội phó và người thợ mộc: Những phấn đấu của mỗi người bình
thường trong những công việc bình thường, mà thiếu đi, thiếu những sự phấn đấu
ấy, thì người ta có ra vẻ hiểu biết, nhiều sáng kiến đến đây, cũng không thể
làm được việc gì hết.
Tôi lấy tôi ra làm nhân vật chính. Tôi lấy tôi ra để phân tích, tôi nói vậy
. Ví như cái hồi tôi viết Hãy đi xa hơn nữa - cái đó là gì? Là những cảm
giác khó chịu của một người đang sống độc thân, giờ đây bị ràng buộc vào cuộc
sống gia đình, cái điều mà một mặt thì mình cảm thấy gò bó, nhưng một mặt khác
nói thật là mình cũng cảm thấy thú vị, và sẵn sàng bị ràng buộc vào đó.
Trong tình hình văn học hiện nay, khó làm được gì nhiều. Nhưng tôi chỉ phấn
đấu làm sao mà đặt vấn đề từ những góc
độ bình thường nhất. Làm cho mỗi người đều cảm thấy vấn đề đặt ra, là y như từ
cuộc sống của họ, do đó, thêm vào, những điều có ích cho họ. Cái chính là có
được cái điều cần nói. Thật ra như cuộc sống của chúng ta, có biết bao nhiêu
điều cần nói.
Ví như cái hồi tôi viết Một cặp vợ chồng, hồi ấy ông Bùi Huy Phồn
còn làm phó giám đốc Nxb - đến nhà ông ấy, mấy đứa con ông ấy cứ bảo chú ấy lấy
chính chuyện bố mẹ ra mà viết hay sao ấy.
Hay quyển Chiến sĩ của tôi gần đây - tôi nói tiếp. Trong những ngày
đi với bộ đội, tôi chỉ nghĩ một điều cuộc sống đòi hỏi mỗi người lớn quá. Và
cái gì là cái chính mà như một nhà văn, mình cần nói với họ. Đó là vấn đề bản
lĩnh cá nhân.
- Cái này thì chính các bạn biết hơn ai hết, cái sự tỉnh táo là rất cần cho
đời sống mỗi người. Khi nghĩ lại đời mình, mỗi chúng ta đều hiểu nhiều lúc hoàn
cảnh dễ xui chúng ta có những quyết định sai lầm lắm. Có cả những lúc, tập thể
chung quanh chúng ta sai, mà chúng ta đúng. Trong trường hợp ấy mỗi hành động
của chúng ta, vẫn phải là do chúng ta chịu trách nhiệm. Ở các đơn vị bộ đội,
cũng có thể vấp phải những chuyện đó. Nhiều đồng chí mới tập viết, thường bị
chung quanh soi mói. Gớm, nhà văn của đại đội. Rõ ràng trong trường hợp này,
đây là một thái độ không đúng. Vậy người bạn trẻ của tôi phải vững vàng mà đi
tiếp trên con đường mà mình đã chọn.
- Vậy quan hệ giữa tôi và nhân vật của tôi là thế nào? Có người hỏi - Cái
chính là bao giờ tôi cũng viết về những nhân vật hơi thấp hơn so với mình. Tôi
mạnh hơn họ, để tôi dễ dàng điều khiển họ. Và bao giờ tôi cũng chỉ viết về một
vài nhân vật nhất định, không nhiều. Khi cái điều tôi nói vừa hết, thì số phận của họ cũng chấm dứt. Nói
thế, nhưng thực ra, các nhân vật ấy phải sống cho quyết liệt. Bao giờ tôi cũng
bắt họ đối mặt với những khó khăn trong chính họ.
- Thế nhà văn có bắt buộc phải sống hết tất cả những gì mà nhân vật đã
sống?
- Cũng không hẳn như vậy. Tôi ví dụ phải tả những nhân vật
ăn cắp. Tôi lấy gì để tả? Tôi nhớ lại những cảm giác phạm tội, mà cái
này thì ai cũng đã có một lần trong đời. Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi sang nhà một thày
giáo, nhân thể thấy quyển Têlimai phiêu lưu ký. Tôi thó về luôn. Chính
thày giáo cũng không biết. Nhưng những ngày sau gặp ông, tôi cứ chứng kiến một
cảm giác sợ hãi. Không biết chừng, ông sắp hỏi mình về quyển sách bây giờ!
Nói chung trong mối quan hệ giữa nhà văn và người đọc, bao giờ cái đáng lo
nhất vẫn là ở chỗ: xem xem mình có hiểu họ không, mình nói có ăn khớp được với
những điểm họ nói không?
Nếu ăn khớp tức là còn viết được thoải
mái.
Những lần đi công tác, tôi nói rất
nhiều mà nghe kể thì ít. Làm sao lại có thể bắt một người chiến sĩ kể những ý
nghĩ của họ lúc này lúc nọ? Phải lấy mình ra mà suy chứ. Tôi thường không ngại nói
nhiều. Nói thật tự nhiên là một cách để dò xem điều mình nói ra có được mọi
người chấp nhận.
Nếu như mặc dù anh mới gặp họ lần đầu, mà anh có thể đùa bỡn được, bông
phèng được, như thế tức là anh có thể tin có một sự thông cảm với nhau rồi. Bây
giờ cứ dở sổ ra, mà ghi chi tiết, cái này thì khó gì, ghi một lúc thì được, và
về cứ thế mà viết thôi.
Lý do làm cho tôi viết nhanh, cũng một phần là ở đấy. Tôi chỉ cầu mong cho
mình là có được sức khoẻ, và tránh được mọi tai nạn, để có thể tiếp tục viết.
Làm một cái gì lớn hơn ư? Chịu, tôi cũng chịu, không làm được! Không những thế,
rồi đây với thời gian, tôi được bạn đọc thông cảm hơn, mà tránh đi cho những
đòi hỏi về hình thức, thì tôi lại càng dễ dàng lui tới trong nội dung, và do
đó, tôi càng nói được điều cần nói, thế là được.
Thành thật mà nói, đọc lại, chính tôi cũng
không thấy tôi mất đi gì cả.
3/12
Cứ nói lại mọi chuyện chán thế này,
không viết được đâu. Vì như một người viết văn, không phải lúc nào anh cũng
nhắm đồng tiền. Anh còn muốn làm một cái gì hơn thế nữa chứ?
Đọc lại quyển Hoàng Lê nhất thống chí thấy phần Nguyễn Huệ ra Bắc
chỉ có 2 trang, một chiến công hiển hách mà có hai trang. Còn toàn chuyện ở
đâu, ở đâu. Có nhiều chương tác giả không có ý thức, nhưng bây giờ mình đọc,
mình thấy ghê. Thí dụ chương kiêu binh đến phá một cái phủ gì đấy. Lúc đầu quần
chúng không thể có ý thức được, họ vừa làm vừa sợ, chỉ nhân đà nhân đà, rồi họ
mới dám làm dấn lên thôi.
Nhân ít chuyện ông Mạn - ông Thái
trong cơ quan.
-- Thôi thế là hỏng tận xương cốt. Người ta cũng gần 50 tuổi đầu rồi, cũng
phải tin vào một cái gì chứ? Bây giờ không thể tin được. Cho nên ngày nào tôi
nói cái này, ông Vũ Tú Nam cứ bảo là khinh bạc. Tôi bảo bất cứ một anh chàng
tích cực nào, đằng sau thả nào cũng vướng một ít động cơ cá nhân.
Về Chế Lan Viên
Đúng là cái lão này giả thật. Thằng Dương Tường nó bảo: chính họ tên của nó
cũng giả chứ gì?
Nhân nói về Dimitrôva, Dương Tường bảo cái mụ này nó cũng giống như Chế Lan
Viên, nó cứ vân vi như thế, nhưng được cái nó là đàn bà, nên nó cũng hấp dẫn
hơn.
Cái chính là mình cũng phải làm, cũng phải nói thôi. Nhưng như ông Chế, ông
ấy cứ nhảy chồm chồm lên thế, thì có ra sao. Đâu chỉ ăn ở với cấp trên, còn phải
lo ăn ở với dân thường chứ. Quan nhất thời, dân vạn đại.
(vào một dịp khác) Chẳng phải chỉ
mình hay sợ. To như tay Chế Lan Viên, mà lúc doạ cho, cũng cứ là xanh mặt đi
chứ tưởng.
Published on April 22, 2014 04:47
April 17, 2014
Nguyễn Khải 1972
Trong
thời gian từ 1967 tới 1979, tôi có nhiều dịp nghe nhà văn Nguyễn Khải trò
chuyện, giảng giải… và đã ghi lại đều đều trong những cuốn sổ riêng. Sau đây là phần ghi chép trong các năm
1972-1974 đầu 1975. Các ý kiến bình luận thời sự của Nguyễn Khải đã được ghép vào phần Nhật ký Hà Nội 1972-73. Phần
ghi hôm nay tập trung vào các suy nghĩ của ông về đời sống văn học cũng
như các ý tưởng liên quan tới các tác phẩm vừa viết như Chủ tịch huyện( 1972), Chiến
sĩ (1973) Cách mạng (1976). Có nhiều điều ghi chép hôm qua, ngày nay đọc lại thấy không đúng, hoặc quá ngây ngô, nhưng vẫn được giữ nguyên. Chỉ riêng các đầu đề nhỏ là mới được thêm vào khi chỉnh lý.
18/2
Dạo này trong những tin tức vào Nam
có nhiều chuyện hay lắm. Nghe cứ rợn cả lên, những tay nhà mình viết giỏi quá.
Bọn này không vừa đâu.
Tôi thấy mình -- chưa kể viết -- cứ nói đã lợi hại rồi. Nói chuyện ở
ngoài hội trường, sinh viên nhiều lớp đang học bỏ ra nghe cơ mà.
Cái Chủ tịch huyện này, phải
cắt xén nhiều quá. Tôi vẫn chưa viết được quyển sách mà mình thích. Xem bản
đính chính rồi. Thế là lại coi như là xong. Bây giờ nói tới làm gì, thật chẳng
rỗi hơi.
Còn quyển Chiến sĩ , viết giả
nợ chuyến đi năm ngoái ấy mà, không ra gì đâu.
Nhưng mà lắm lúc, cứ phải nghĩ không
ai chịu trách nhiệm về bài viết của mình hết ngoài mình. Không việc gì phải
hoảng cả lên vì những lời khen chê chung quanh. Cứ phải tự anh đánh giá anh
thôi. Bằng cái lạnh của mình mà thấy. Rồi được hay hỏng cũng là của mình.
Trong Chủ tịch huyện tôi có
viết một câu thế này:
- Người thông mình nhất có lúc cũng
bị tai hoạ.
Sau lo sợ là người ta hỏi người
thông minh nhất là ai, thì lại phải chữa lại:
- Người nào cũng có lúc bị tai hoạ.
Mỗi người chỉ có một thời
Tôi ở đây, nổi tiếng thế này đã 10
năm, tức cũng là quá lâu. Nay mai rồi cũng bị hạ bệ thôi. Hạ bệ một cách vớ vẩn
nhất cho mà xem. Lúc ấy, nếu ông còn, thì ông có thể nói với mọi người tôi đã
chuẩn bị. Tôi biết những cái đó từ lâu.
Hôm đi họp viết về nông dân, mỗi
người nói một nẻo, bây giờ xem bài phát biểu trên báo, tất cả lại ra một nẻo
khác.
Thế mà cũng không ai ngạc nhiên, bên
báo cũng không ngạc nhiên. Đủ hiểu là mình bây giờ đã thập thành trong cái việc
dối trá thế nào.
Khi viết lại bài ấy, tôi chỉ nói có
một điểm: tất cả những sự khôn ngoan gọi là phát hiện trong tác phẩm đã có
trong nghị quyết của các cấp. Tức là Đảng đã phát hiện ra cả. Như mình thì biết
gì mà gọi là phát hiện. Mình chỉ làm cái việc ghi chép lại. Thế thì nay mai,
đọc Chủ tịch huyện có ai còn nỡ đánh tôi nữa.
Nhàn: Có rất nhiều vấn đề mà văn học
do tính năng động của nó, nó phát hiện ra. Những người chính trị tiếp thu lấy
cái tinh thần đó, nhưng đồng thời lại trị luôn cái anh văn nghệ làm việc phát
hiện, cái anh đầu têu ra mọi điều. Văn học được quy định một số phận như vậy.
Khải: Không phải. Văn học mình cũng
chẳng phát hiện được vấn đề gì trước chính trị đâu. Cùng lắm, cả hai bên cùng
phát hiện ra. Nhưng anh văn học thường đặt vấn đề một cách lý tưởng, cũng là
một cách không tưởng, còn anh chính trị phát hiện ra một cách thực tế hơn, có
ngay phương sách giải quyết hơn. Hai anh vẫn nương tựa vào nhau, mà vẫn ghét
nhau là vì thế.
25/2
Tôi viết quyển Chiến sĩ được 200 trang rồi. Viết nữa cũng được. Mà cắt đi còn 150
trang cũng được.
Những lúc này, đúng là nên nghỉ,
không nên viết cái gì cả. Viết cái gì ra sau này cũng sẽ tiếc, tiếc đáng lẽ
mình có thế viết hơn được chứ.
Tiếng vọng của văn học nước ngoài
- Nghe Hân nói Marques có quyển Trăm
năm đơn độc hay lắm. Mình phải đi tìm xem nó ba đầu sáu tay nó thế nào. Tôi
mà là tổng thư ký Hội, tôi cho dịch ngay.
- Cuốn ấy viết về một tên độc tài, chưa từng có trên thế giới Mỹ la tinh
bao giờ.
- Tôi chỉ tiếc là ở miền Nam, không có tay nào viết được về những tên
độc tài...
-- Người ta có thể ở Pháp, Anh lấy tài liệu chứ.
- Nhưng thật ra, đó phải là người lăn lộn trong các cuộc chơi chính trị,
biết mọi thứ đầu dây mối rợ với lại thông tỏ mọi loại người cơ. Ở ta có ai?
Xem này, quyển Phương tây văn học
và con người. Ông Hoàng
Trinh ông ấy viết thế cho trên đọc chứ cho gì mình. Dịch ra thế giới thì hay
phải biết. Tôi đã đọc những tay như tay Koestler. Gọi nó là cây bút tình báo
gián điệp thì không đúng đâu. Chỉ có cái tay ấy bi quan quá, và thấy cái tự do
của trí thức là bao trùm lên mọi thứ, nên mới ra thế .
Koestler nói thà dưới trướng một viên toàn
quyền, còn hơn dưới sự lãnh đạo một ông chính uỷ. Những tay chính ủy thường cứ
tỏ ra cái gì cũng biết, ông ấy có thể tham gia vào mọi chuyện, mà thực ra chỉ là nghe lỏm. Trong khi các viên toàn quyền lại thường là
chuyên gia ở cái xứ mà hắn cai trị.
Chính trong những loại trinh thám,
cũng có thể học được nhiều chứ. Những quyển trinh thám có giết người là loại
xoàng. Phải nói tới loại đấu trí cơ. Ở đó mình học được cách đo đắn, xét đoán
con người.
Nhưng cả loại này nữa đọc mãi rồi cũng thấy
chán. Bao giờ cũng có một tay thám tử, một cô thư ký rất đẹp, và người
mà dễ bỏ qua nhất thì lại chính là thủ phạm.
Thế mới biết trí óc con người và vô
hạn, mà cũng là hữu hạn.
Nhưng tay viết tiểu thuyết lớn đều
rất ghét truyện viễn tưởng. Đến hôm nay anh còn không biết được, làm sao anh
biết nổi chuyện ngày mai.
Quan hệ với giới chính trị
Ông không biết chứ, có lần trong
buổi chiêu đãi, có rất nhiều cái loại vụ trưởng, ông Tố Hữu ghé tai tôi,
ông ấy bảo:
- Ông Khải này, trong đám này, ông
nhìn có lẽ cũng nhiều tay lố bịch lắm đấy nhỉ.
Nghĩa là ông ấy cũng chú ý đến tôi chứ không phải xoàng đâu.
Ông ấy định cho tôi ra khỏi quân đội. Nhiều lúc cũng muốn
làm công tác tổ chức một ít, thử thi thố xem sức lực của mình đến đâu. Nhưng ra
thì ít nhất phải làm phó tổng thư ký. Chứ làm chân chạy, tôi không chịu.
Nói cho cùng, mình cũng lơ lửng. Có tên rồi.
Nhưng vẫn lại là chưa có một cái tên người ta sử dụng được. Các ông khác, như
ông Xuân Diệu, có lẽ kỳ này được chú ý cũng nên.
Một lần, Khảỉ bảo làm văn nghệ mà
không ở Hà Nội, không viết được đâu. Tôi hỏi lại:
-
Có phải anh nói với nghĩa ở Hà Nội mới hiểu biết các vấn đề chính giới.
Mà không hiểu gì chính giới, viết không được.
Ông lại lảng ngay:
- Các ông khác có thể cần, tôi thì
hiện nay quen thế cũng đủ để tôi viết rồi.
Sắp tới chắc được viết cũng thích.
Ít nhiều cũng dễ dàng hơn. Nhưng mà đừng tưởng vào trong kia [vùng giải phóng ]
là dễ dàng đâu. Đi đã khó. Người ta phải giữ người chứ !
Các ông ở Hội, ông Thi, ông Tô Hoài
sắp tới đều muốn nghỉ việc. Nghĩa là các ông ấy còn muốn viết.
Văn học và thời sự
Mối quan hệ giữa văn học và người
đọc của mình bị đứt đã lâu rồi. Người đọc ngày nay người ta hoàn toàn không
trông chờ gì ở văn chương.
Nhưng mà phần mình, tôi vẫn nghĩ rồi có một
quyển sách nào đó, mình sẽ viết. Viết rất thích nữa đằng khác. Người ta đọc
quyển ấy là xong.
Gặp những tay nhà văn Liên Xô, mình
vẫn thấy họ có gì khờ dại. Ví như họ hay nghĩ đến sự bất tử của nghề văn. Mình
thì mình nghĩ không làm gì có thứ bất tử ấy hết. Hôm nay người ta cần, người ta
đưa mình lên, mai người ta không cần nữa, người ta đánh đi.
Khi anh viết về những vấn đề chính
sách, những vấn đề gì mà tự anh cũng thấy thoải mái nhất, thì tin rằng những
vấn đề đó, sẽ còn đóng vai trò quan trọng về sau, và chắc chắn, nó sẽ không có
gì trái ngược đời với lương tâm anh.
Vai trò của những bài tiểu luận
Hồi Hội nghị những người viết trẻ các ông
không nói, tôi cứ tiếc mãi.
Sự nổi tiếng của một người, cố nhiên
có nhiều mặt, nhưng một mặt quan trọng là phải nói. Người ta không chỉ thấy
mình có thể dùng được. Người ta còn thấy có thể chủ trì được các chuyện tổ
chức. Người ta thấy mình làm không phải cầu may, mà rõ ràng, đó là một thứ ý
thức.
Nên người ta mới thấy có thể giao việc cho tôi. Như ông Nguyễn Minh Châu, vừa rồi chỉ
viết tiểu thuyết, có phải chưa chắc đã ăn không? Nhưng ông ấy lại viết luôn
mấy bài tiểu luận nữa, tất nhiên là người ta phải chú ý hơn.
-- Anh có để ý việc học hỏi của các
ông viết văn khác.
-- Có chứ. Ví như ông Lê Khâm, ông ấy
học được nhiều ngoại ngữ, cái gì ông ấy cũng đọc, đọc một cách rất là lẩn mẩn.
Bây giờ lại đi học Nguyễn Ái Quốc đấy. Hay là ông Tô Hoài, ông này đọc nhiều,
nhưng mà lại giữ được một cách sống tương đối đúng mực. Với người nào ông ấy
thích ông ấy nói rõ; người nào ông ấy không thích, thì ông ấy chê; hoặc nếu
không, cũng không vuốt ve.
Mình mới công tác văn nghệ một vài năm, mà đã
sớm học được cái tình màu mè, ranh vặt, chả đọc gì cả. Gặp cái gì cũng khen um
cả lên, một cách vô trách nhiệm.
Một dịp khác:
- Ông Tô Hoài đọc thế nhưng lại vẫn
không phải là người có tri thức đâu. Với lại mỗi người có cách làm việc riêng.
Nếu như anh làm thế nào có ích cho anh, thì anh cứ làm. Không việc gì mà phải
trông vào người khác.
Giỏi đóng kịch
Xuân Sách bảo tôi:
-- Mình chỉ sợ ông Khải ở cái điểm
này. Ví dụ như đối với ông Phú, ông Nguyên là ông ấy rất ghét, nhưng ông ấy vẫn
có thể nói một cách thoải mái, thì quả thật là ông ấy ghê. Mình mà ghét ai,
mình chịu, không nói đuợc một lời nào cả.
- Ông Phương thật thà hơn, tất cả
những thứ ông ấy đang suy nghĩ, có gì
ông ấy đều bộc lộ ra mình thích hơn chứ? – tôi đùa
- Không. Ông Khải là cái loại biết
điều, tự kiềm chế được. Cái xấu của ông ấy không lộ ra. Mình đỡ khổ hơn .
Các ông bên Hội giao cho tôi cái món
trẻ. Trông thấy ông Xuân Sách (là người gợi ý
nếu Khải rủ, sẽ sẵn sàng cộng tác—VTN)
tôi đã không thích. Nhưng nói thế, cũng phải làm thôi. Tôi đề nghị dọn
cái chỗ Câu lạc bộ, để có chỗ cho anh em nó ăn uống -- nếu không, nó lại ra ngoài thì
hết người.
Nhưng mà trong lúc bàn về sinh hoạt,
tôi định kéo 1, 2 anh em trẻ vào bàn thêm . Việc của anh em, mà không có anh em
bàn, thì ra sao nữa? Tôi nghĩ đến Nhàn và Hân.
- Anh cứ làm, rồi chỉ được ít lâu,
người ta chán và lại có người khác làm. Không được lâu đâu.
Nhưng mà cứ phải làm.
- Trong tình hình hiện nay, nghĩ như
thế là hợp lý đấy. Có làm có hỏng, rồi lại làm.
Sự trì trệ của văn học
--Vừa rồi, thường vụ họp, cũng bàn
về giải thưởng văn học 15 năm. Nhưng mà
cho tác giả, chứ không phải cho những quyển sách cụ thể. Chả có cuốn nào
nổi hẳn lên cả.
Nhà văn và nhân vật
Các nhân vật của tôi luôn luôn suy
nghĩ. Chính tôi cũng muốn như thế, cũng muốn là làm sao con người mình nó làm
nó sống đỡ bản năng đi - bản năng ghê quá.
Nhân vật Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng thì bản năng
thật rồi. Các nhân vật của Nam Cao nghĩ đằm hơn.
Nhưng nhân vật của Nam Cao cũng chỉ lần mần
chứ chưa nghĩ được cái lớn.Thực tế là người mình, đánh giá nhau, nghĩ về nhau
thì rất giỏi. Nhưng nghĩ về rường mối thì còn kém.
Cái lúc này và cái vĩnh cửu
Có lúc nghĩ, cứ viết như thế này, rồi tính ra
có tội đấy.
Nhưng có lúc lại tự bảo không bao
giờ nên nghĩ làm cái gì lâu la, nào tìm ra chân lý, nào viết cho hậu thế. Cuộc
sống tự nó thay đổi luôn. Anh tìm cho anh chưa xong, sẽ tìm cho ai?
Hãy cứ viết cái gì của ngày hôm nay,
cho được rõ ràng.
Một quyển sách như quyển Chủ tịch
huyện của tôi, người ta đọc hai buổi
trưa thì xong, người đọc nhanh chỉ đọc một buổi trưa. Nghĩ được cái gì thì
nghĩ, rồi phải nghĩ sang cái khác. Thế là vừa với người đọc hơn cả.
- Có bao giờ anh nghĩ anh sẽ viết
lại về cải cách ruộng đất?
- Cũng chẳng định. Có điều là mọi
chuyện cải cách ruộng đất, nếu mình nhận thức được, thì nó lại nhập vào trong
những cái mới viết của mình.
-
Xung đột ghê thật.
-
Ghê chứ. Vì nó quyết liệt. Chính cái thời kỳ của Mùa lạc về sau,
lại là thời kỳ lãng mạn.
Giữa các đồng nghiệp
Ng M Châu:
-- Có hai loại nhà văn. Một, phải va
chạm mới sống được, và một loại tự mình ngồi một mình đã viết được. Khải nó
cũng biết nhận loại người như nó phải qua va chạm, mới đập ra, phản ứng ra được
thành những ý nghĩ. Còn những người như tôi, lắm lúc đọc quyển sách, bỏ xuống,
bụng bảo dạ giá cứ nằm mà nghĩ, có khi còn ra được những cái hay hơn.
(…) Trong mỗi người đều có mấy khuôn
mặt… Thôi, ít ra hai khuôn mặt, khuôn mặt thằng láu cá, và khuôn mặt thằng đần.
Đi với ông Khaỉ lắm lúc thấy ông ấy đần ra, rất thích.
Hồng Duệ nói về Chiến sĩ:
-- Anh đặt ra cái món đầu đề nhỏ đọc
nghe hấp dẫn thật đấy
-- Bây giờ hơn với kém nhiều khi ăn
nhau ở cái tiểu xảo ấy. Nếu như nhìn cái biển treo lên đã thấy thích thì người
ta còn muốn vào .
Hôm trước ở thôn sơ tán Hương Ngải, đang ngồi bên ấm nước, Ng M Châu độp cho một
câu:
-- Hôm qua, tôi nghe nó đánh Hà Nội,
rồi lại chạy sang nhìn mặt ông Khải, thì tưởng sự nghiệp của cách mạng chúng ta
đã sụp đổ đến nơi rồi.
Ng Khải giận lắm, bỏ về. Đến cửa phòng mới cho một câu:
--Ông này lúc nào cũng đùa quá trớn.
Nguyễn Minh Châu:
--Tôi đã đùa, thì chỉ có đùa quá
trớn thôi mà.
Một lần khác, Ng Khải đang ngồi nói
chuyện với cánh nhà văn chỗ này, lại tạt sang chỗ khác. Ng M Châu:
-- Cái lão này đối với ai cũng toe
toét, đối với ai cũng ve vãn.
Cái quyền của ngưới nổi tiếng
Mấy hôm sau, Khải giải thích:
-- Người ta bao giờ cũng thích trội
hơn đồng loại một chút. Ông Đốt được nhiều người đọc, một phần là vì ông ấy
diễn tả được cái đó những cái phút muốn hơn đồng loại của một người nào đó. Và
cái mà người khác im, thì ông ấy nói ra.
Ví dụ ngay ông Châu, thỉnh
thoảng ông ấy cũng ghét tôi. Mình chỉ
muốn tát vào mặt nó một cái. Thả nào chả có lúc ông ấy nghĩ thế.
Cả ông nữa, thỉnh thoảng ông ghét,
tôi biết. Tôi nhậy cảm như đàn bà vậy.
Ông Châu bây giờ cái gì cũng khen.
Là bởi vì ông thấy văn mình hay quá rồi. Và thấy rằng mình hơn mọi người.
Chứ nói chuyện với một người hơn ông
ấy xem, ông ấy phải rất cẩn thận. Không chê đã đành, khen quá đáng cũng không
được, khen quá thì sợ người ta khinh cho.
Bây giờ phải viết như là Lỗ Tấn thì
mới được. Viết thẳng vào các vấn đề. Còn thì loanh quanh mà làm gì. Chính dân
nhà văn mình bây giờ lại tổ sư nghệ thuật vị nghệ thuật.
Những năm vừa qua, tôi đã cố để mà
được lấy cái phần này, coi việc viết của mình như một sự thức tỉnh, làm sôi động
những người khác.
... Nhưng mà bây giờ thì trở nên bó
chân bó tay quá rồi. So với ông Châu gần đây
đi viết về công trường 800, về những đứa con đi sơ tán của nhà mình, thì
tôi thấy thật là tôi không có gan. Không thể viết được.
Một chút hổ thẹn
Làng đang có bộ đội sơ tán. Họ nói
thẳng với Xuân Sách cái ông cao lớn ấy – chỉ
Nguyễn Khải -- người thì béo nứt ra, đi đường mặc áo lót. Hưởng lương
thiếu tá, ngồi khểnh dái ra mà viết văn.
Khải cũng biết. Nhiều lần tự kể đi
đâu gặp lính là tôi phải cau mặt xuống, có khi lại còn úp luôn cả cái mũ che
mặt đi nữa. Chứ cái mặt béo béo như mình là dễ bị lính chửi lắm.
Xuân Sách:
-- Trong cơ quan, Khải là người bắt nạt mọi người, là người trị
mọi người. Nhưng mà lắm lúc ông sợ từ cả một người lính.
Tìm tới một sự đánh giá chính xác
Xuân Sách kể Nguyễn Khải nói gì
không biết, Nguyễn Minh Châu sang tận nơi, uất ức nói :
--Ông áp bức chúng tôi lâu quá rồi,
chúng tôi không thể chịu được nữa rồi...
Châu giải thích với tôi:
--Bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng phải
nói với Khải nhiều chuyện rất thẳng... Mình yêu lão hơn. Cho nên mình mới dám nói, chứ cứ như ông
Mai, tôi lại không dám nói.
--Những năm vừa qua, chính những tay
nhà văn chuyên nghiệp nước mình, như Tô Hoài có viết gì về xã hội chủ nghĩa
đâu. Trong lúc ông Khải hò hét thì các
ông ấy im.
--Suy cho cùng, những quyển sách
viết về hợp tác hoá của ông Khải nói gì. Người ta bảo hợp tác là tốt, ông ấy
thì bảo không, rất tốt - thế thôi.
Bây giờ so sánh những tác phẩm của những
người viết về nông thôn trước cách mạng như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình
Lạp... với những cái của ông Khải, thì thấy ông Khải trẻ con hơn nhiều chứ.
Ông
Khải có hiểu gì lắm về nông thôn.
Nhìn ra chung quanh
Thời nay mới biết văn học của mình
là cái trò vớ vẩn, tức là nghĩ một đằng, viết một nẻo.
Chỉ có cái lạ,
như ông Hữu Mai bây giờ vẫn phấn khởi ngồi viết Vùng trời tập 2 trong đó
cũng toàn là những công thức công nhân thì đơn giản, trí thức thì phức tạp --
toàn những chuyện ông ấy muốn, với lại trên muốn, chứ chẳng có đâu như thế.
Lại như cái câu văn học nói về con người.
Ông Hoài Thanh nói ở Viện Văn học bảo con
người ở mình đẹp kì lạ.
Nhưng chính lão ta đã phải nói với
ông Thi: “Thôi bây giờ anh cho tôi về làm Tổng thư ký hội - rồi Đảng Đoàn bảo
gì, anh bảo gì, tôi cũng xin nghe “.
Hay là như loại Nông Quốc Chấn, có 5
rúp gửi ông Tô Hoài sang Liên Xô, dặn 3 rúp mua cái mũ bê rê, còn 2 rúp ký
quỹ tiết kiệm, để có gì lại sang. Thế
thì đẹp đẽ cái nỗi gì không biết.
... Ông Hữu Mai, ông ấy cứ viết về
những chuyện ấy, tức là toàn những chuyện ông ấy ước mong, chứ không phải là
chuyện ông ấy sống với chung quanh.
Nhà văn và chiến tranh
Các nhà phê bình thường chỉ kêu tôi
không làm cái gì điển hình. Nhưng tôi thì cũng chưa hiểu thế nào là cái điển
hình.
Ví dụ cái điển hình nhất mà mình
biết, thì chỉ là cái ngược đời. Tốt ra xấu, đơn giản ra phức tạp.
- Thế hoá ra anh tin rằng cuộc sống
không tiến hoá, mà lại chỉ thụt lùi à ?
- Không, mình không nghĩ thế. Nhưng
đấy là do cách tổ chức của mình. Cách tổ chức của mình như vậy, thì người ta
sinh ra như thế thôi. Tất cả là do chiến tranh... Chính tôi đã viết những câu
mà các nhà phê bình không lôi ra. Tôi đã viết rằng trong chiến tranh, người ta
không sao lường trước được các sự kiện. Bao giờ trong chiến tranh cũng có những
chỗ giành cho sự bất ngờ.
....
-- Sau này, khi hòa bình rồi, chắc
là các nhà văn tha hồ làm ăn.
-- Nhà văn mình nó như là cái loại
gia cầm nuôi trong nhà rồi, bây giờ có thả ra ngoài thì cũng chẳng làm ăn nên
trò gì. Ra với rừng, nó phải có thế thế nào mới bay nhẩy được.
Bùi Bình Thi trong thư gửi Ng Khải
viết rằng Đỗ Chu rất khen Chiến sĩ của anh. Bây giờ thì nó gọi anh là maitre
(bậc thầy) rồi.
Khải:
-- Thế là tôi có một ông học trò
thật là vĩ đại.
.. Nói thế chứ, chính lúc viết, mình
cũng phải có một cái gì phiêu lưu một tí mới thích được. Cũng không hoàn toàn
tính được những cái sắp viết là như thế nào.
Cái chính đối với tôi trong quyển Chiến sĩ
này, là tôi nghiệm thấy rằng mình còn yêu quý những người bạn trẻ, mình còn
muốn trên thấy ở họ một cái gì đó. Có
nhiều người ít tuổi hơn mình nhưng mình kính phục thật.
Tầm suy nghĩ của nhân vật
-- Như tôi đã nói với ông một lần,
những nhân vật của tôi phần lớn là những nhân vật của sự thức tỉnh, của lý trí.
Con người bây giờ, con người Việt Nam mình phải thêm cái đó, mang cái đó vào
trong nếp suy nghĩ thì mới được.
-- Đến những năm này nhân vật của anh
suy nghĩ đã trầm tĩnh hơn đấy chứ. Nhưng tôi tưởng anh không nên tả như Ra đảo mà
nên viết các vấn đề chung.
-- Đúng thế, tôi tả không bằng các ông
khác được. Chính tôi mạnh phần đối thoại.
Tôi vẫn thích những nhân vật nghĩ
nhiều. Ngay khi đọc nước ngoài, mình cũng không đọc phần tiểu thuyết của họ, mà
cũng thích đọc lý luận, hoặc sổ tay, hoặc thư từ....
4/11.
Sự
cựa quậy của lớp trẻ
Kỳ về HN họp lần này, tôi được đến
mấy người quan trọng nói vào mặt là cánh trẻ lại có chuyện đây. Bạn thân của
ông với VP lại thành một cặp rồi. Người có tài năng, người có quyền thế. Chính
tôi cũng không ngờ tay ấy lại choàng vào mụ kia đấy nhớ.
- Chuyện riêng thì không nói, nhưng
sao lại có chuyện chính trị vào đây.
- Không, bao giờ những chuyện ấy
cũng gắn với nhau, nó mới hoá thiêng liêng. Nó cứ lẫn lộn (Vũ Cao: y như đọc
thơ, phải thắp nến lên, mới thích!). Bây
giờ bà Quỳnh không bị ràng buộc vào gia đình, bà ấy vừa ly dị chồng xong. Cũng
không bị ràng buộc vào tổ chức . Chả ông Chế Lan Viên với các ông kia vừa làm cho bà
ấy một vố trên báo! Thế thì bà ấy tự do quá rồi. Trong lúc người ta đang cô
đơn, người ta cần phải bấu víu vào một cái gì đó.
- Tôi công nhận là bây giờ bà ấy
đang cô đơn... Nhưng bây giờ thì có thể làm được việc gì ? Cùng lắm thì nói
bậy, đọc thơ.
- Và đồn thổi truyện triều đình. Tay
kia biết nhiều chuyện lắm (ông Như Phong đã khái quát một điều này: Xưa nay làm
loạn, toàn là bí thư của các ông to).
-- Nhưng về viết lách thì phận ai
nấy chịu?
-- Không đúng. Biết đâu rằng lại
thêm cái cớ cho người ta ghét. Trên chỉ nhíu lông mày một cái, là không ai dám
in cho bà ấy nữa. Như bà Trang, từ giờ thì Tác Phẩm Mới với báo Văn
nghệ... đố còn dám in. Người ta còn tích cực hơn cả Quân Đội mình nữa.
- Tôi vẫn không hiểu là chuyện trai
gái quan trọng đến mức nào. Những chuyện ấy xưa nay vẫn có. Xưa nay bọn trẻ đến
như Lưu Quang Vũ là cùng. Lưu Quang Vũ thì người ta cho là đứa trẻ hư rồi,
không tính nữa.
- Sao lại không tính? Lập luận phổ
biến là người hư về đạo đức thường cũng
hỏng luôn về chính trị. Càng hư lại càng lèn cho đau.
Một ông ấy ấy nói thế
này, tôi thấy có lý này. Là bây giờ vấn đề trẻ, già là vấn đề lớn trên thế
giới. Ở các nước tư bản, các nước xã hội chủ nghĩa đều có chuyện ấy. Ở ta, thì
thanh niên sinh viên miền Nam, lại một số miền Nam nó ra đây. Nó có ảnh hưởng
của nó chứ.
- Cái đó thì ai có đọc báo nước
ngoài ít chút đều biết. Ở nước mình bây giờ cũng có. Tôi cảm thấy những yếu tố
một vụ NV - GP bây giờ đã le lói. Ở tất cả các ngành bọn trẻ đều oán các ông
già, chẳng qua thời buổi chiến tranh, không ai dám hé miệng. Như tôi đây thì
lắm lúc cũng nhắm mắt hay tính việc gì cho nó xong đi, chứ ngồi nghĩ mãi cũng
chả có lối thoát.
- Cấp trên người ta không buông xuôi
thế được. Bây giờ các ông còn rời rạc thì người ta thít, thít từng chỗ một.
- Nhưng tôi vẫn nghi ngờ lúc này
không có người cầm đầu, đủ sức tập hợp.
- Thì lá cờ là cái ông kia còn gì
nữa.
- Tôi không chấp nhận. Ông ta chưa
đủ uy tín.
- Không phải là một phong trào, ngay
từ đầu đã có lãnh tụ tương xứng của nó. Cũng không phải các ông ấy là đã gặp
nhau lắp sẵn kế hoạch với nhau. Không, lúc đầu là anh A, khi anh A hỏng là B,
rồi anh C, rồi anh D, có thể là các anh đều không biết nhau, và người quan
trọng là anh E. ở đâu nhảy tới.
...
- Tóm lại, kỳ này các ông có làm gì thì
làm đi. Tôi lại được một dịp xem.
…
--Nhưng mà nói thế thôi, chứ làm được
gì. Vừa mới nho nhoe, thế là người ta đã biết.
Chuyện Nhân văn
- Anh nhớ lại xem, bây giờ so với
thời kỳ NV-GP, có khác nhau nhiều không?
- Khác nhiều chứ. Trước kia, bọn họ
có lý luận hơn. Bây giờ các ông chẳng nói gì nên hồn, đọc sách thì toàn đọc trên
ngọn, nghe hóng nghe hớt.
- Bây giờ không khí chung là bất mãn
hơn, người ta phức tạp hơn. Nhưng thời thế thì lại không có. Anh bảo nho nhoe
người ta đã biết. Bởi vì những người nghe cũng đã có sẵn những ý nghĩ người nói
kia nói ra. Nhưng người gọi là phản loạn kia, cũng chẳng có được ý kiến gì mới,
làm cho những người khác ngạc nhiên và phải đặc biệt chú ý. Người ta không cần
nghiên cứu. Sự đời nói ở đây hoàn toàn chỉ ở chỗ một bên nói ra, và một bên
không nói ra.
-- Ấy đấy, người ta chỉ cần có thế.
--Anh thử nhớ lại xem, hồi NV GP,
anh sở dĩ không tham gia vào đấy, là vì nguyên nhân gì ? Anh biết trước, nên
không nhảy vào. Kệ cho nó nói, mình ở ngoài mình biết, mình tránh ?
- Không phải. Hồi ấy tôi vẫn còn
quen biết ít thôi. Cái chính là vì nhân cách, mình thấy những người này trong
nhóm ấy nhân cách kém quá, ba hoa phét lác, mà không làm được việc gì... Cái
người mà tôi còn quý, may có Phùng Quán, với mấy tác phẩm.
Ở đây, mình mới thấy phục những ông
như ông Thi.
Ông Tưởng, ông Tô Hoài hồi ấy đều lơ mơ.
Ông Tuân thì ông ấy biết, nhưng ông ấy bỏ mặc.
Mình ông ấy thành một thứ nhà văn đứng riêng ra. Ông ấy khích cho bọn ấy làm.
Trong bọn, hoạ chăng ông quý có Văn Cao, và mấy họa sĩ, còn Hoàng Cầm cũng coi
thường. Trần Dần ông cho là một thằng mất dạy, chưa bao giờ ông cho là có tài
năng. Trương Tửu thì cơ hội. Thuỵ An là người ông ấy ghét, ai theo địch là ông
đều ghét, ông có một ranh giới rất rõ.
Thế đấy, ông Tuân biết, nhưng mặc
kệ. Đúng sai cũng im. Nhưng sau này ông lại là người chơi với cánh đó sớm nhất.
Còn như ông Thi, ông này tính từ rất
sớm. Ông Tố Hữu chỉ đạo chung, ông Thi thì tách riêng các đầu mối về mặt văn
học nghệ thuật, kéo những vấn đề lên đến đúng mức của nó.
Có một điều tôi thấy hồi ấy người ta nói quá
nhiều đến nhân cách, mà không có lý lẽ gì, không giải thích được các hiện tượng
một cách rạch ròi.
Họ nói nhiều về nhân cách là để bù
chỗ trống, thiếu của lý luận. Các bài của tôi rất ít nói đến nhân cách. (Các
bài phát biểu được viết rành rọt này, chủ yếu nói trong hội nghị thôi đăng báo
có mấy đâu).
Tôi là cái loại hăng hái tích cực đến nỗi sau
này Hữu Mai kể chúng nó bảo phải truyền tên Nguyễn Khải cho con cái để chửi bới
cơ mà. Nhưng được cái sau này, đối với các ông ấy, tôi vẫn hỉ hả ngay được.
Từ đó về sau, tôi thấy những cánh Châu Diên,
Xuân Khánh... chả tay nào ghê như cánh NV GP cả.
Nói chung, hồi ấy những tay kia nó có cái rõ
của nó. Nó không có quần chúng. Ta đúng. Chính vì thế, về sau, mới có một hồi
sáng tác tốt, như những năm 58 - 63.
Vào một dịp khác
Hồi ấy chúng tôi
viết được, là vì hiểu biết của mình vừa khít với cái mà trên mở ra. Mình cũng
chỉ hiểu biết đến thế. Bây giờ, hiểu biết của mình thì đâm phức tạp, mà cấp
trên mở lại hẹp hơn. Vậy thì phải liệu mà làm, nói được một mặt nào đó thì nói.
Các nhà phê bình hay bảo tôi không dựng được những điển hình toàn diện. Làm sao
mà nói ra nhận xét toàn diện của mình được !
13/11
Trở lại câu chuyện giới trẻ
- Tôi thấy các ông bây giờ nó không
định hình thế nào ấy. Định hình như lứa chúng tôi, ví như mấy tay Đào Vũ, Huy
Phương, cũng toàn những người có khuôn mặt rất rõ.
Các ông cũng chẳng ra thế.
Lớp trẻ hôm nay hiện ra với quá nhiều
lời nói cạnh khoé, mà quá ít phát biểu cho người ta trọng. Thiếu những khuôn
mặt lầm lì... Một phần quan trọng: các ông rất thiếu mẫn cảm chính trị, thiếu
sự hiểu biết về thời cơ của mình - đúng, có cái này đấy.
Tôi mà như thằng Chu thì tôi không bạ đâu cũng nói vớ nói vẩn, đến nỗi phí phạm đi. Cái chính không phải là mình nói
khác mọi người, thời thế nào cho phép thế. Cái chính là mình cũng nói giống mọi
người thôi, nhưng người ta cũng vẫn phân biệt được mình chút ít.
- So với các anh, tôi thấy thanh niên
bây giờ nhiều yêu cầu, mà lại hèn hạ hết sức. Tôi thấy ở trong Nam nó đào tạo
được nhiều thanh niên dám chết vì lý tưởng hơn. Ví dụ như HT Mẫm.
- HT Mẫm là cộng sản đấy. Người cộng
sản trong ấy trong sáng hơn.
- Tại sao tôi nhìn về miền Nam, thấy
mọi điều rất rõ ràng. Còn nhìn về xã hội mình cứ thấy hơi rối, chẳng biết bấu
ví vào đâu cả. Tóm lại, văn nghệ chẳng làm được trò gì đâu, may ra trông chờ ở
những tay khoa học tự nhiên.
- Bọn ấy biết gì ? Đệ nhất ngu. Nó
chỉ biết nó với lại những công trình của nó. Nó không thể tính như cánh văn
nghệ được.
Nhưng mà thôi, các ông lo liệu lấy
thôi.
Đấy văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu là ông Hồ Phương. Mà bây giờ
lứa các ông thì có ông Bùi Bình Thi.
Thằng ấy bây giờ đang lên như gió. Ngồi ở
cái ghế bành Hội nhà văn, đọc một quyển trinh thám... Thằng Hân bảo nó nằm đườn
ra trên đài với những bài viết về Quảng Trị. Lại còn truyện ở báo Văn Nghệ.
Bây giờ nó khinh thằng Chu ra mặt.
- Công nhận. Công nhận ông Bùi Bình
Thi là cái thứ văn chương cần cho đài báo bây giờ thật.
Từ chối không làm chính trị trực
tiếp
- Anh cho là từ nay về sau, anh có
thể bị kéo vào một cuộc gì đó không.
- Không, tôi thấy hồi NV -- GP tôi
cũng không thể tham gia mà sau này cũng không. Căn bản một người như tôi là máu
lạnh, tôi không thể làm theo ai. Những phong trào phản đối, đúng nó là những
động lực của lịch sử, nhưng ở nước mình, không làm gì được đâu. Tôi sẽ đứng
ngoài. Có thể là những biến động vẫn vang ứng vào tác phẩm của tôi, tôi sẽ cám
ơn. Thế thôi.
Ngay như bên này dùng, tôi cũng
chuội cơ mà. Năm 1965, bảo tôi ra làm Thường vụ TW Đoàn, một bước lên cán bộ
cao cấp tôi không ra.
Bảo làm Phó Tổng Thư ký, tôi cũng không làm.
Tôi chỉ viết
thôi, bảo tôi viết gì tôi viết cũng được.
Như làm Phó Tổng thư ký, nhất định là
tôi phải trị các ông. Khi tôi trị thì cũng ác đấy. Không trị thì không được,
không thể đứng ở giữa, rồi lại mất lòng cả hai.
Giá tôi ra làm TW Đoàn, thì tôi
mất vị trí nhà văn như không.
Các ông ấy giờ đang chú ý đến tôi. Đang làm cho
tôi một tuyển tập.Trong các tác giả
sau Cách mạng, chỉ có tôi với ông Thông. Tôi tự nhận là từng
quyển, có chỗ nọ chỗ kia, nhưng toàn bộ,
đúng là tôi có một cái gì đó.
Trong bản danh sách của ông Bùi Hiển, tôi khai 11
quyển, ông gạch đít những 7 quyển, gạch là chấm những quyển được đấy. Nên tôi
càng yên chí chỉ có cái sách là viết.
-
Nghĩa là đời vẫn công bằng.
-
Tất nhiên, đời vẫn đáng cho chúng ta tin lắm.
22/11
Về Nguyên
Ngọc và Nguyễn Tuân
Ông Nguyên Ngọc nổi tiếng sớm, và từ
đó, quả cũng có những thói quen đáng sợ, thói quen được người ta nâng đỡ. Nên
có lần, nhìn thấy Tố Hữu, mà ông ấy không gọi, là đã buồn rồi cơ mà. Cái năm
viết Mạch nước ngầm, nghe Tố Hữu phán mà cứ run lên. Đểu cáng - không nói đồ đểu, chỉ mới văn
chương đểu cáng. Rồi từ đó đám chung quanh mình những tay vốn ghét mình nó hùa
vào. Hoặc khi đang lên, phía nghịch có những thằng len lỏi lợi dụng. Nguyên Ngọc đủ thông
minh để không thích những cái đó. Bọn kia cũng chửi.
Bây giờ ông Nguyên Ngọc vào trong
kia, lại sống bằng những cái khác. Bằng cách làm gương cho mọi người. Bằng sự
cao thượng. Nhưng cũng lại rất nhạy bén để luôn luôn đau khổ về sự cao thượng
ấy.
Tôi muốn sống khác, tôi muốn sống
mình thật là mình.
Nguyễn Khải rất có ý thức phân ngành
phân ngọn. Đi Liên Xô về, ông nhớ cái chuyện thuốc lá thơm đầu lọc chỉ bán cho
thường vụ. Về nhà ông hay nói chuyện ông Tuân:
- Cái ông Tuân là ông ấy có ý thức
về cái xấu cái tốt lắm đấy. Những khi ông ấy nói ngang nói ngược mà ông nào đi
đứng cạnh nói quá lên, ông ấy độp vào mặt. Hôm nọ ông ấy vừa nói đây. Ông ấy
bảo, rồi mà xem nay mai tình hình nó xoay chuyển, thì ai là cứng ai là mềm, ai
vững vàng ai dao động.
Thế này thì ông ấy thách thức các ông bên Hội Nhà văn
thật. Tức là ông ấy đi uống rượu, ở đại sứ quán Hungari, đại sứ quán Pháp. Ở chỗ Pháp uống xong tiệc chính, lại xuống uống với cánh hầu bàn. Ở chỗ Angéri
thì uống xong, ngủ lại ở đấy với nó.
25/11
Học nghề qua sách báo phương Tây
Đọc một số tạp chí Châu Âu về tiểu thuyết.
- Từ một câu quen thuộc của truyện
cổ tích ngày xửa ngày xưa, nó khái quát được cái ý nhà văn là người nói
lại những chuyện đã qua. Một định nghĩa về nhà thơ - Nhà thơ là người đi tìm
những giá trị đã mất.
- Những tay lớn nó đều nói thế này,
chính những cái biết nhất, là cái mà nó không viết được. Những cái mà nó không
biết, thì lại viết rất hay. Ví dụ có một nhà văn nữ, gốc người Hungari, sang
Pháp - Tay ấy sang từ năm 1958 viết rất nổi tiếng. Một quyển sách nhan đề: Tù
nhân là Hồng y giáo chủ. Bà ta kể tôi chỉ nghe tin, rồi tôi viết. Tôi không
hề biết ông Hồng y giáo chủ đó là người thế nào ?
Có một tay nó nêu cái này cũng đáng
sợ. Trong chiến tranh thứ hai, nhiều nhà văn phải vào trại tập trung. Sau chiến
tranh, họ ra, viết hàng loạt sách.Thế nhưng kiểm điểm lại, bây giờ, những sách
ấy đều mất biến cả. Không phải là vì thời gian chiến tranh họ không chứng kiến chuyện trong các trại. Cũng
không phải là vì không có tư tưởng triết học. Cái loại như Cái chết là nghề của
tôi, Trần trụi giữa bầy sói ghê chứ.
Thế nhưng số đứng được vẫn ít lắm.
Tức là vẫn có một khoảng cách giữa cái anh biết và cái anh viết.
Sau chiến tranh chỉ có một quyển nổi lên hơn
cả - quyển sách mà nó khái quát cao hơn một chút: Dịch Hạch.
- Có một tay nói thế này thì mới ghê
chứ. Tôi không thích thuyết cách quãng, khoảng cách. Người viết viết về một
hiện thực đã được tổng kết, hay đã được phơi bày ra ánh sáng rồi, thì còn thú
vị gì nữa. Tôi muốn nhập ngay vào nó, từ lúc mà chưa ai biết nó hết.
- Cũng với số Europe này, tôi học thêm được một điều, thế nào là chủ nghĩa hiện
thực hư ảo.
- Có phải nó là cái făng tát tích?
- Gần đúng thôi. Nếu thuần tuý făng tát tích, nó lại ra Edgar Poe. Đây
phải có cả cái pô ê tích, pô ê tich
nâng lên, făng tát tích hạ xuống một
tí. Nhưng nó không phải là li rích rồi.
Tóm lại nó là hiện thực ở cái phần cốt tuỷ của nó.
Thử nhìn lại đời mình
- Làm tuyển tập Nguyễn Khải.
Ông kể với tôi mới kê
ra, đại khái:
Tiểu thuyết: Xung đột 1 Tập
IV (chương Nhàn +Môn)
2 Chương mấy
cha đạo
Đường trong mây: chương VI về trả ba lô
Ra đảo : chương cuối
Chủ tịch huyện: chương Hiệp về xã.
Truyện
- Chuyện người tổ trưởng lái máy
kéo.
- Đứa con nuôi
- Một cặp vợ
chồng
- Người trở về
Ký
- Họ sống và
chiến đấu Chương Biên
Đinh
Kính
- Hoà Vang:
Chương lính Mỹ
Không có gì quý
hơn độc lập tự do.
Phụ lục
- Vị trí
tình cảm trong sáng tạo nghệ thuật
- Con đường dẫn
tôi đến văn học
Khải nói thêm:
- Đường
trong mây lấy chương Vị về cho gọn
- Không lấy lý
luận nhiều bài đọc hò hét quá. Ông Tế Hanh bảo
về lý luận để cho những ông như ông Chế Lan Viên. Có ít trang mình lấy sáng tác
là chính. Với lại lý luận, ngay CN HT XHCN mình còn phân vân nữa là.
Nhàn: Truyện
ngắn, tôi thích cái Mùa lạc. Mùa lạc thay vào chuyện Người tổ trưởng lái máy
kéo được. Nên lấy Gia đình lớn hơn Người trở về. Lý luận tôi
không thích bài Vị trí tình cảm một chút nào cả...
Nguyễn Khải có
vẻ nghe.
Nhưng đến Xuân
Sách thì mới ghê.
- Ông nên bỏ
tiểu thuyết đi cũng được .Bỏ Đường trong mây đi. Có khi ông lại ăn ở
truyện ngắn và truyện vừa không biết chừng. Với lại bỏ cái Hòa Vang đi.
Đang đọc truyện, lại thêm cái Hòa Vang vào, buồn cười lắm. Chọn thế
nào để trong kia, nó còn in lại nữa chứ.
Đi ra ngoài
hành lang, Kh ải bảo:
-- Xem thế mới
biết, mình viết mất cũng nhiều, mấy năm chống Mỹ lại càng mất nhiều thật.
Buổi chiều.
--Tay Sách nó
nói thế này mình cũng sợ. Thơ chỉ còn lại 3 nhà thơ: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế
Lan Viên. Một người yêu đời, một người trầm tư, một người suy nghĩ.
Văn chương cũng
thế: Nguyễn Minh Châu khéo lại còn cái Cửa sông, hơn là cái Dấu chân
người lính. Bây giờ cứ tính thế này. Dấu chân người lính nói cái gì
trong tâm lý thằng lính đi đánh nhau trong Nam bây giờ. Suy cho cùng Nguyễn
Minh Châu vẫn là xuất hiện không hợp thời, tức là xuất hiện vào lúc khó khăn
này.
- Mấy chương
hành quân cũng được.
- Tài mà chưa
được.
...Vì căn bản là
như thế này, anh gắn với một sự thực không thực
- Tức là anh đi
ngụy biện cho một sự nghiệp không chính nghĩa?
- Cũng như bây
giờ ông ấy đi viết về những người lính giải tán rồi lại tự nguyện trở lại chiến
đấu. Đâu có chuyện như vậy.
30/11
Văn chương và thời đại
--Tôi không biết
thế nào, nhưng đọc những quyển sách như Dấu binh lửa vẫn cứ thấy hiểu về xã hội nó, hơn là muốn
hiểu xã hội mìền Bắc mà lại đi đọc tác phẩm của mình. Cái thời gian này thì cũng tương tự như thời gian Hoàng Lê nhất thống chí chứ gì?
-- Những điều
mình nói, có lẽ vào độ hai trang Hoàng Lê
nhất thống chí là hết
- Còn nhìn về
đời sống chung, không hiểu sao, lắm lúc cứ thấy khổ. Làm thế nào mà dân mình cứ
hèn mãi đi, mỗi người cứ hèn mãi đi, y như là một bọn hết hơi cả một lượt. Đời
sống khó giải thích quá.
- Nghĩ cũng
ghê... Thế mới biết lắm ông bên Hội nhà văn ông ấy chuồn rất giỏi.
- Hôm nọ Ng M Châu bảo các ông ấy có
viết gì về chống Mỹ với CNXH đâu
- Không... CNXH
thì phải viết chứ, CNXH thì mình không biết gì thật, nhưng viết về việc khôi
phục giá trị con người sau chiến tranh, viết về sự tôn trọng con người.
3/12.
Đi họp Hội nhà văn. Sau khi nói về các giải
thưởng, tự nhủ:
- Lần này, tôi
cũng chỉ rửa cái tôi được tiếng là tham quyền cố vị, hoặc là hay thắc mắc.
- Nhưng mà tại
sao anh lại làm cho người ta có ấn tượng ấy về anh chứ?
- Có, có lý do
của nó . Không hiểu sao mấy năm 57-58 ấy tôi đáo để lắm cơ. Chả biết sợ là gì
cả. Hay phát biểu, chuyện gì cũng dúng mồm vào.
Chất cốt cán hồi Nhân văn
Hôi học ở ấp
Thái Hà.. Tôi làm tổ trưởng cả mấy khóa. Tổ trưởng của cả những ông Trần Thanh
Mại cơ mà.
Hôm nào ai lên
phát biểu trên hội trường, là có ghi tên trước. Hôm nào đến lượt tôi, người đi
nghe rất đông. Tôi lại được tiếng là người có lý luận nữa. Ông Trần Quang Huy
xuống cũng khen. Tôi nhớ hôm ấy có ý kiến rằng giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé,
chưa thể tác động vào hoạt động VHNT chống Đảng, chống nhân dân. Tôi mới nói
rằng: Ông Giêsu chết từ 2000 năm trước, ông ấy còn chống gậy đến những làng xóm
xa xôi nhất, ông ấy giành quần chúng với Đảng.
Nữa là bây giờ một giai cấp tư sản cũng có hoạt động như thế này. Người
vỗ tay rầm rầm lên. Hồi ấy tôi năng nổ lắm. Cả ngày cả đêm chỉ ngủ vài tiếng.
Tối còn đi họp với ông Tố Hữu đến khuya. Sáng lại chuẩn bị bài vở thảo luận.
Đầu óc căng thẳng. Y như một chiến dịch. Đúng, là một anh tử vì đạo, một tay
Quảng[ nhân vật thanh
niên công giáo trong Xung đột ] đi bắt cán bộ. Chả biết sợ là gì cả.
- Có lẽ vì anh
cũng không ý thức được việc mình làm
- Có thể. Nhưng
mà lại rất say. Làm ngày làm đêm Chả ai làm mà các
ông trên lại bày cho mình làm. Hồi ấy ông Trần Văn Cẩn còn làm giám đốc trường
Mỹ thuật. Ông ấy mời tôi đến nói chuyện với trường. Hôm nay Đảng đoàn giới thiệu đồng chí Nguyễn Khải đến... Thế là tôi
hoa chân mua tay.
Trên ông Tố Lành ông ấy cũng chiều
tôi lắm cơ. Ai lại ông ấy bảo này, mai anh Thế Lữ lên phát biểu. Cụ ấy trình độ
có hạn. Vậy anh đến anh xem lại, góp ý kiến với bản phát biểu ấy. Thôi, tôi
không phải xem lại nữa đâu, anh Khải nhớ. Thế là đến. Câu đầu tiên, nhưng mà
bác phải viết ra cơ, chứ để đề cương thế này khó góp ý kiến lắm. Sau này mới
nghĩ nói như thế là nói mỉa. Mình đã đáng tuổi con người ta đâu.
- Trước đó, hồi 1945-57 thảo luận về
vấn đề tô hồng bôi, đen, tôi còn dám nói rằng theo tôi, không có tác phẩm tô
hồng, tác phẩm bôi đen, chỉ có tác phẩm viết tồi thôi.
- Có lần chỉ tôi với ông Tuân cãi
nhau cả buổi. Mấy lần nói xong ông Tuân định bỏ về, tôi với tư cách tổ trưởng
lại bảo anh không thể bỏ về được. Thế cơ mà.
- Cho đến năm 1965, tôi vẫn còn lắm
điều. Lần ấy, nhân ông Hoài Thanh ông ấy tranh luận về hư cấu, tôi sang tôi nói
cả một buổi. Các đồng chí bảo không có hư cấu. Ngay trong một bản báo cáo thành
tích đã có hư cấu. Một lời tự nhận xét, đã tước đi những phần mà tác giả cho là
không quan trọng, như thế là hư cấu chứ
gì. Tôi nói xong một lượt, hỏi còn ai hỏi gì nữa không, rồi lại nói tiếp.
Có lúc tôi bảo:
-- Có phải các đồng chí bảo Họ sống
và chiến đấu là… là lính tẩy, xan-da
-tét. (Chính ông Hoài Thanh bảo vậy). Tôi cho rằng..
Đến nhà người ta mà nói như thế, thì
còn ra cái gì nữa! Mãi đến mấy năm gần đây, tôi mới bỏ đi được đấy. Thấy chán.
Thấy cũng chả được việc gì.
Nhưng mà như gần đây, cái bài phê
bình Chủ tịch huyện của tôi trên Văn Nghệ có ra cái gì. Hôm nọ ông Khái
Vinh ông ấy trông thấy tôi, ông ấy cứ gườm gườm. Tôi cũng mặc kệ. Tôi đã phải
nhắn qua Nguyễn Thành Long để đến tai mấy ông phụ trách. Sau này, tôi có sách
gì ra thì mặc xác thôi. Nhà tôi con đàn, chứ chẳng phải con một gì mà tôi phải
nuông (Cái ý con đàn là chính một ông khác ông ấy nói, chứ không phải mình. Ông
ấy bảo, thằng Khải nó cần gì, nó đương còn viết khối đấy).
Chưa thấy người viết vượt mình
- Người ta bảo tôi không say mê.
Nhưng ở tình trạng xã hội Việt Nam thế này, say mê thế nào được? Làm sao nói
được hết cái ghét của mình, cái yêu của mình bây giờ?
- Với lại thế nào là say mê? Tôi say
mê sự phân tích, say mê sự phẫn nộ, thế cũng là say mê chứ còn gì?
- Tôi viết mỗi trang không có lấy 2
dòng không phải sửa chữa. Viết rất khổ sở. Chỉ nghĩ rằng viết được những điều
mình nghĩ là thích nhất... Có bao giờ tôi viết vì những lời khen.
- Bao giờ tôi cũng nôn nóng nói ra
những điều mình nghĩ được, và mong sao điều đó đến thẳng với mọi người đọc. Tôi
không tin rằng phải nói qua hành động, qua cử chỉ của nhân vật. Tôi muốn nói
cái đó càng trục tiếp càng tốt, nói từ phía mình.
- Có bao giờ anh cảm thấy viết tắc.
- Không, nhưng trong những năm qua,
tôi chỉ dự tính có những lúc, mình sẽ bí, viết không được thứ gì cả, cho nên
tôi cứ phải cố, phải dấn lên.
- Anh có cảm thấy ai viết vượt mặt
mình.
- Cũng không có, chỉ thấy loáng
thoáng từng chỗ, rồi lại thôi
Không bao giờ nên viết vì lời khen,
vì người sự nổi tiếng. Hãy tự mình suy xét về mình cho kỹ...
Ví dụ Đỗ Chu, hồi ấy tôi hy vọng là
vì Đỗ Chu viết được những cái sao chín đến như thế. Tôi xem Đỗ Chu như một dấu
hiệu, dấu hiệu về sự trưởng thành của mình.
Nhưng những ngày gần đây, thấy
Đỗ Chu sao mà chán thế.
Hôm nọ đang đi trong sân, tự nhiên cảm thấy nó ở phía
trước mình, thế là chạy bạt đi sang phía khác. Dạo này nó vừa không viết nhớ,
lại vừa lăng nhăng, bát nháo nhớ.
Quang Thọ: Tôi đi Cồn Cỏ, tôi phục
Nguyễn Khải cái này... Đó là một nhà văn
đó là người làm ra những tác phẩm nghệ thuật. Tức là thế nào? Tức là anh phải
là tấm gương. Cuộc sống soi vào anh, lại bật ra một thứ hình ảnh khác, không
phải thực tế nguyên xi, nhưng mà là do thực tế gợi ý. Về mặt ấy, Nguyễn Khải là
một tấm gương sáng.
Người ích kỷ và tầm ảnh hưởng
Xuân Thiều nói với tôi:
--Trong tổ sáng tác ông Hồ Phương cứ
như con rối. Ng Khải mới là người có ảnh
hưởng lớn trong cách sống của anh em.
Tôi đã phải bảo Hồ Phương muốn làm tốt
công việc, thì phải đẩy ông Khải đi, rồi có làm gì thì mới hòng làm được. Là vì
thế này. Khải nó hết lòng với sáng tác.
Trong khi các ông kia còn có những cách xoay xở thì Khải nó sống bằng lao động
của mình.
Nhưng nó ích kỷ quá. Ngoài chuyện sáng tác, và chuyện vợ con ra, nó
không biết một cái gì khác nữa. Đấy như vợ tôi cũng phải tị. Xem anh Khải xem.
Anh ấy có phải đi đâu, đằng này anh thì... Tôi phải bảo vợ thôi, cái số tôi như thế.
-- Có lẽ ở Tổ sáng tác, cũng mỗi người
một góc, cô độc lắm?
--
Làm thằng nhà văn của nước Việt Nam lúc này, mà lúc nào anh càng nói
đến dại đến khôn, như thế không được.
Nhân vật của ông Khải lúc nào cũng tính toán dại, khôn.
... Nhưng cái chính là một thằng như
thằng Chu bây giờ cũng học ông Khải, cũng kỳ. Tôi bảo Châu, chính anh kêu
thằng Khải, rồi anh lại học nó. Thế còn ra sao nữa. Bây giờ anh cũng chỉ biết
đến sáng tác của anh, anh không lo chuyện gì khác. Anh ích kỷ một cách rất buồn
cười. Thế là anh giống ai?
Tôi không thể cãi lại Xuân Thiều.
Nhưng tôi thử giải thích chuyện dại khôn thế này. Chúng ta
sống trong một hoàn cảnh chật hẹp quá.
Mỗi người loay hoay trong cảnh phá ra, chỉ lo phá ra cho mỗi riêng mình. Một cá
nhân có thể làm thế nhưng một dân tộc không thể làm thế. Nhiều lúc, tôi có cảm
tưởng chúng ta chưa biết chung sống với nhau.
Mời đọc tiếp Nguyễn Khải 1973
Published on April 17, 2014 20:45
April 10, 2014
Nước Nga hôm qua, nước Nga hôm nay
Cậu bảo: Cũng không xa
- Nước Nga?
- Ờ nước ấy
Và há mồm khoan khoái
Lão ngồi mơ nước Nga…
Tố Hữu Lão đầy tớ 6-1938
Những hình ảnh
nước Nga hôm nay, vốn đã thường
xuyên đi về trong tâm trí chúng ta, lại được tô đậm nhân sự kiện xảy ra ở Ukraina từ 3-2014.
“Hình như bên đó chủ nghĩa cộng sản không
chết, nay ở họ đang là chủ nghĩa Stalin không đảng”—một người tôi quen đã đoán như vậy.
Một người khác nói một câu vu vơ, sau cũng thấy có vẻ rơi vào khái quát non, nhưng vẫn cả
quyết là chắc đúng đến 50%.. Cái câu buột miệng của anh ấy là “Khi một dân tộc
đã dính vào chủ nghĩa này thì không bao giờ rời khỏi nó được nữa, không bao giờ
trở lại như một dân tộc bình thường ”.
Tôi nghe thấy hoang mang, không dám tin mà cũng không có cách gì bác
bỏ…
Chỉ có điều chắc là đang có một tình trạng suy đồi của xã hội và con người,
và tất cả bắt nguồn từ lịch sử.
Những bài báo nước ngoài mấy năm nay tôi đọc
được, đã ghi chép vào nhật ký, và gộp lại dưới đây, đều thống nhất ở cái ý đó.
27-2-09
Ghi rải rác từ các bản dịch trên Bản tin
tham khảo của TTXVN
- Ở đó, những
người đang đóng vai trò chi phối xã hội là KGB cũ và mới. Họ chỉ có một khuôn mặt. Muốn có một xã hội ổn định. Tất cả
làm theo cấp trên. Không ai có chuyên môn gì cả.
--Tham nhũng
không chỉ là căn bệnh xã hội mà là cách điều hành xã hội. Nghĩa là chính
quyền dùng tham nhũng để điều hành.
- Nông dân phá sản. Sau khi nông trường giải tán,
họ làm riêng. Nhưng không có kỹ thuật vốn liếng. Một ít thành phẩm lương thực -
thực phẩm làm ra bị bọn con buôn trên thành phố trả quá rẻ. Họ không làm ăn gì
nữa. Các thành phố tràn ngập thực phẩm nước ngoài. Các quan chức rất thích nhập khẩu vì bằng cách đó họ được dùng những hàng nước ngoài loại hảo hạng.
Rất nhiều người nông thôn
bỏ lên thành phố kiếm ăn bằng những nghề tệ hại nhất.
-- Dân sống
trong tăm tối. 60-70% đàn ông nghiện rượu và chết mòn trong rượu.
Trước đó tôi đã đọc một bài của các nhà
nghiên cứu Trung quốc-- họ bảo căn bản xã hội Nga đang co lại trong khi xã hội
Trung quốc hướng ra thế giới.
9-6-09
Lại một mẩu tin có liên quan đến nước Nga. Một
người phương Tây viết:
Một trong những người thầy Nga của tôi, một nữ giáo sư ngôn ngữ học, khi được
tôi hỏi “theo bà, đâu là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của Liên
Xô?”, đã viết trong thư trả lời tôi như sau:
“Sự suy đồi đạo đức, có lẽ vậy. Y như thời kì
cuối của Đế quốc La-mã, nếu anh từng quan tâm đến.
Vào thời gian cuối của Liên Xô, xã hội xô-viết
giống như một cái thùng sắt tây rỗng tuếch.
Quân đội
thì vẫn còn một chút nanh vuốt nào đấy, nhưng mọi thứ khác đều đã thành vô dụng
và nhạt thếch.
Nạn nhũng
lạm lây lan như dịch hạch, trở thành nguồn sống và môi trường sống cho mọi người.
Trọn một thế hệ đã sinh ra, được dưỡng dục và trưởng thành trong đó.
Cuối cùng thì điều không tránh khỏi là, chỉ cần
một cú chọc bất kể theo hướng nào, cũng sẽ khiến cái vỏ rỗng kia bẹp dúm vào
trong.
Không ai biết chắc sai hỏng bắt đầu từ đâu. Có
thể là từ những năm tháng sơ khởi đẫm máu của chế độ: thói độc đoán và lạm dụng
bạo lực đã in hằn vào dân chúng tình cảm bất tín và căm ghét chính quyền…”
2-2010
Một bài trong đợt kỷ niệm bức tường Berlin
nói về sự chuyển biến của Đông Âu
Ba Lan,
Hungary, Litva xây dựng lại đất nước của họ từ bên trong, tạo lập một tầng lớp
tinh hoa mới, tự trả giá cho các sai lầm của mình để đạt được thành công.
Tác giả không nói rõ,
nhưng hàm ý nước Nga chưa biết làm kiểu đó.
Quan niệm về chiến tranh
Nhà phê bình trẻ Lidija Dovletkireeva ( Nga) khi phân tích nhiều cuốn sách viết
về chiến tranh do các nhà văn Chesnia và Nga viết, đã rút ra kết luận rất đáng
chú ý:
"Chính
những cuộc chiến tranh gần đây đã dẫn người đương thời đến ý niệm về sự cần
thiết quý báu của hòa bình, đã hướng dẫn người ta trong việc lựa chọn sự ưu
tiên không phải là chiến thắng một kẻ thù nào đó mà là khắc phục chiến tranh
theo đúng nghĩa của nó vì cuộc sống sáng tạo thanh bình".
Câu này tôi đọc được từ bài viết về văn học Nga hôm nay của tác giả Sergei Filatov trên Báo Văn.
Bài phê bình có
đoạn viết tiếp:
“ Những vấn đề của ngày hôm nay vốn
gắn liền với quá khứ của chúng ta, với cuộc sống tinh thần của chúng ta, và với
những ưu thế giả tạo, vốn ngăn cản việc tạo ra ở trong nước bầu không khí đạo
đức lành mạnh.
Không một nước nào trên thế giới lại
bị bao bọc bằng những huyền thoại đầy mâu thuẫn trong lịch sử như nước Nga. Và
không một dân tộc nào trên thế giới lại được đánh giá một cách rất khác nhau
như dân tộc Nga.
Một trong
những nguyên nhân, như N. Berdjaev đã nhận xét, là do tính phân cực của tính
cách Nga mà trong đó những nét đối lập được kết hợp với nhau một cách kỳ lạ
- lòng nhân hậu với tính tàn bạo, sự tinh tế của tâm hồn và chất thô lỗ, lòng
yêu chuộng tự do với sự chuyên chế độc tài, sự tự ti với tính ngạo mạn dân tộc
và chủ nghĩa Sôvanh.”
Trên
Le monde diplomatique tháng 10-2010
có bài Nước Nga - một xã hội không công dân
Từ
Bản tin tham khảo của TTXVN, tôi đọc
được bản dịch trong đó thích nhất mấy ý :
“Quái gở dưới nhiều khía cạnh, chế độ hiện nay điều khiển một đất nước
tự do một cách ngược đời”.
Đó là một sự pha trộn giữa “hầu như là Liên Xô “ và “phương Tây giả hiệu”.
Một nhà sử học kết luận ”người ta cuối cùng cũng cảm thấy có được tự do ở một
nước triệt để không tuân theo những tiêu chuẩn dân chủ”. Nhưng đó là thứ tự do
không dây dưa gì với quan niệm tự do phổ biến trên thế giới
7-2-11
Băng giá tận trong cốt lõi là
tên một bài viết trên báo Economist Anh, TTXVN dịch ra tiếng Việt. Đọc
vào bắt gặp vài ý.
Nước Nga
hiện có một nhà nước không chỉ trắng trợn coi thường pháp luật vì lợi ích của
riêng mình mà còn gửi một tín hiệu mạnh mẽ cho bộ máy hành chính quan liêu
rằng hành động này giờ đây được tán thành.
Hiện nhà nước đó được coi một như tài sản
không được đầu tư, yếu kém, và người ta đang tư hữu hóa nó. Ranh giới
giữa các doanh nghiệp quan trọng nhất và các quan chức chính phủ đi
từ mập mờ đến không tồn tại.
Thanh
niên thích có môt công việc trong chính phủ, hoặc một công ti nhà
nước, hơn là một doanh nghiệp tư nhân.
Hối lộ là một thị trường lớn, giá trị của
nó tăng đến 300 tỷ USD, hoặc 20% GDP.
12-10-11
Nước Nga sau 2011 ra
sao? Sau đây là bài của Ju. Afanasiev Nước
Nga đã đến hồi cáo chung được viết từ mấy năm trước, nay nhân kỷ niệm 20
năm Liên xô sụp đổ đọc lại thấy hay quá nên tôi chép lại vào đây.
Mở đầu là câu hỏi Chúng ta không phải là nô
lệ sao? Tác giả cho biết nay là lúc những người cầm quyền chỉ coi Nhà nước
Nga là phương tiện để trộm cắp. Những người cầm quyền ấy giống như những kẻ
chiếm đóng, một lũ mọi rợ.
Hư vô
về luật pháp. Vô luân. Nomenkluctura
--bộ máy quan liêu -- thao túng tất cả.
Nhìn
đất nước thấy trống rỗng. Hướng về chính phủ thấy trống rỗng. Hướng về nhân dân
trống rỗng hơn. Cảm tưởng mình như kẻ mất trí.
Người
ta vẫn nói Nhà nước và nhân dân là một. Nhưng dưới góc nhìn duy lý, nay nhà
nước không phải nhà nước, nhân dân không phải nhân dân.
Nhân
dân đang khổ đau, một thứ nỗi khổ mà, nói như N.M.Karamzin, “chỉ những kẻ đê mạt mới chịu đựng nổi”. Họ hiện nguyên hình là một đám đông vô ý thức, sẵn
sàng bạo loạn. Một thứ điên rồ đáng sợ, đáng buồn, đáng tởm nữa.
Thỉnh thoảng vùng lên rồi họ lại nhanh chóng trở về cuộc sống tối tăm.
Sức
lực quần chúng bị bóp nặn bằng bạo lực. Tình trạng ngột ngạt bao trùm. Sự trì trệ
là đặc thù tính cách Nga.
Nước
Nga từ xưa vốn thay đổi như theo đường vòng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội = xoá bỏ
nhân tố con người. Nay vẫn tiếp tục làm biến dạng con người.
Trước
thế kỷ XX, nhân dân có tự tổ chức thành một cộng đồng. Từ cách mạng, phá bỏ.
Quá trình tự tổ chức xã hội chỉ còn là quá trình phớt lờ cấm đoán, tội phạm,
tham nhũng.
Cách
mạng 1917 làm sống dậy những điều tồi tệ nhất: bản năng thú vật, tính ích kỷ.
Sau 10-91 chẳng có điều gì xảy ra. Chính quyền, toà án, giáo dục … tất cả vẫn như
cũ. Mọi thành viên trong xã hội chỉ bị chi phối bởi quyền lợi vật chất và cố
gắng tồn tại.
Sau
1991 người ta đi bầu cho Yeltsin. Họ không thể có những hành động có ý thức của
những con người được tổ chức về mặt xã hội.
Họ
vẫn là những đám đông nhu cầu như nhau, suy nghĩ giống nhau, gào lên những điều
giống nhau, tạo nên những tấm phông, mà nhảy múa trên sân khấu là những con chuột
của lịch sử.
Sự khốn nạn đang đi từ cực kỳ tệ hại sang tệ hại hơn.
Yeltsin – Putin không làm gì để cải tạo “truyền thống”. Người ta
buộc phải dùng đến cái từ hoang dã
nếu muốn miêu tả sự quay trở lại của một quá khứ chuyên chế lạc hậu. Lịch sử
nhiều thế kỷ của Nga, lịch sử thời xô viết cùng lúc hiện diện.
Nhà
nước phường hội, nhà nước thân hữu hôm nay chẳng qua là một thứ quái thai
hậu xô viết. Nó đang quay về quá khứ, tức trở về nơi mà mọi thứ đều bị nhà
nước đè bẹp, không có chỗ cho xã hội công dân, không có chỗ cho luật pháp.
Sự
chấp nhận các định chế kinh tế thị trường một cách hời hợt có tạo ra vẻ ngoài
hiện đại trùm lên bộ máy quản lý chính trị. Sau đó tất cả lại tự phát. Đây là
xã hội lý tưởng của bọn mediocre (
bọn tầm thường ).
Trí
thức vốn có nghĩa tổng số những nhân vật có sự tìm tòi mở đường trong lĩnh vực
của mình. Sự tìm tòi đó thành mẫu cho kẻ
khác noi theo mà sống. Khái
niệm giới elite – tức giới tinh hoa--
liên quan đến khái niệm hiện đại hoá - phát triển.
Ở nước Nga hiện nay trí thức
chân chính thực sự đứng bên lề, vì đất nước từ trên xuống không có cái nhu cầu
hiện đại hoá đó. Tri thức (thực thụ) ngày nay sống khép kín.
Nga
luôn luôn hướng về quá khứ. Nước Nga không có chỗ cho người thích sống tích cực
và độc lập. Sự tự khám phá bản thân -- sự tự nhận thức -- là bất khả thi.
Chế độ quyền uy thao túng
tất cả. Đàn áp đã làm tê liệt mọi ý tưởng đổi mới.
Trong
lịch sử những người có học ở Nga --kể cả người tự do -- nếu muốn tồn tại, cũng
chỉ có việc là góp phần củng cố quyền lực nhà nước. Chính quyền họ tôn phò đó
là chính quyền chuyên chế.
Từ thế kỷ XV, nước Nga đã chỉ lo mở rộng đế chế hơn là tự do cho xã
hội.
Thời
xô viết tiếp tục mà nay cũng vậy. Thậm chí có nhiều khía cạnh nay còn tệ hại
hơn các thế kỷ trước.
11-11
Nhân
có phóng viên hỏi xem nên nghĩ sao về
tình trạng thi hoa hậu hiện thời, tôi muốn trở lại với những ý tưởng của một nhà
văn hóa Nga là Sergei Averintsev về một hướng phát triển của đời sống tinh thần
nước Nga sau 1991:
Những sai lầm của quá khứ, kết quả của những
nhà tư tưởng đáng giá hồi cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, đã bị truất ngôi cùng với những hệ tư tưởng cực quyền. Việc
truy tìm gốc rễ của cái xấu ở thời xa xưa trong lịch sử tư tưởng đang được theo
đuổi ráo riết.
Tuy nhiên vẫn còn những lý do để lo
âu. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhận ra những dấu hiệu của một chủ nghĩa khóai lạc rất phàm tục.
Ở một nước còn rất thiếu hàng hóa
như nước Nga, cái chủ nghĩa khoái lạc này càng trở nên dữ dội vì người ta đã bị
bỏ khát quá dài và giờ đây đuổi theo khoái lạc bao nhiêu cũng luôn luôn cảm
thấy chưa thỏa.
Thứ đến là là sự biến mất tăm của
nền văn hóa với đặc trưng là ý thức liêm sỉ hoặc thói quen biết xấu hổ.
Và cuối cùng là sự xuất hiện một chủ nghĩa phi lý hẩu lốn, pha trộn nháo nhào các giá trị tư bản chủ nghĩa và mác xít.
Rồi một thứ nữa, không phải là dung
hợp càng không phải tổng hòa, mà chẳng qua là một sự nhập cục cơ học cả Ford,
Freud, lẫn Marx trong cùng một cấp độ, trong một thế giới không thượng đế.
Dục năng ( libido) đang
xâm chiếm đời sống, không phải chỉ là một thứ dục năng nhục thể mà – lạ thay -- cứ
như là máy móc đang trở nên đầy thèm khát hoặc bản chất con người đang biến
dạng để trở nên máy móc vậy.
Ngày nay ở nước Nga thật khó nói đến một ý
thức biết xấu hổ.
Kể cũng cần thiết là việc người ta sổ toẹt cả
một loạt quy phạm phẩm hạnh giả dối mà trước đây người ta áp đặt cho họ. Nhưng
rồi người ta đi tới đâu ?
Cũng có thể nói là con người trở lại với
một tình trạng trống trơ của trẻ con, nhưng đó chỉ là bề ngoài, những đứa trẻ
con này đã bị làm hỏng để trở nên thối rữa tự bên trong.
Đã đành những quy phạm ứng xử thời xô viết
chỉ là biếm họa của một thứ văn hóa liêm sỉ đích thực. Nhưng từ bỏ nó, không
phải là người ta tới được sự cao thượng về tâm hồn. Thay thế vào đó, chỉ là
những lệch lạc mới, chẳng hạn thói đạo đức giả và nhất là xu thế chạy theo
khoái lạc tầm thường mà người ta tưởng là biểu trưng của tự do.
Trong trường hợp này phải nói bản chất tự
nhiên của con người cũng bị đe dọa.
Bên Nga sắp bầu cử. Vừa thấy có những cuộc biểu tình phản đối thì lại có ngay những cuộc biểu tình khác, đông hơn vui vẻ hơn, ủng hộ Putin. Do ông Putin tổ chức, cố nhiên. Một ông hiệu trưởng nói rằng ông được lệnh phải huy động các giáo viên tham gia, nếu không sẽ mất việc.
Nay thì người ta có thể chế ra tất cả các thứ hàng giả, và thứ hàng giả chính trị ở cấp quốc gia như thế này phổ biến ở nhiều nước. Nga chỉ đẩy nó đến đỉnh điểm.
Nhớ một lần họp báo, nhân có tin Putin đã có tới 40 tỉ đôla gửi ngân hàng.
Một phóng viên phương Tây hỏi:
-- Nghe nói ngài giàu lắm phải không?
thì được tổng thống trả lời:
-- Vâng tôi rất giầu, đó là giầu tình yêu của nhân dân Nga với tôi!
Phát điên Dân Nga nói về Putin sau vụ bầu cử
:"Chính phủ của ông ta tệ hại, tòa án là những con rối, những kẻ chuyên áp
hình phạt thì khoác áo cảnh sát, các ủy ban bầu cử đã xếp sẵn kết quả và những
người trong guồng máy của ông ta thì nắm giữ những vị trí quan trọng nhất, béo
bở nhất - tất cả những thứ đó khiến chúng tôi phát điên!"
Sự
tưởng tượng chỉ huy cuộc sống Nhà
phê bình lịch sử Ian Ratchinski nhận định về cặp lãnh đạo nước Nga
Putin-Medvedev: “Dù họ không ủng hộ tư
tưởng cộng sản, nhưng hai ông vẫn quản lý đất nước theo kiểu chế độ Xô Viết,
giống như các lãnh đạo Liên Xô cũ chỉ dựa trên các báo cáo ngụy tạo của cơ quan
mật để ra quyết định. Họ luôn sống trong một thế giới tưởng tượng.”
2-12
Một định nghĩa về cách mạng 1917
Bác
sĩ Zhivago, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết cùng tên của Boris Pasternak
có lần nói với bạn gái:
“Cô
thử nghĩ xem cái thời đại chúng ta thật là lạ lùng. Và cô với tôi đang phải
sống trong đó. Thật ngàn năm một thuở mới lại xẩy ra những chuyện điên rồ như
thế này. Cô có thấy cả nước Nga như mất nóc -- tôi và cô, tất cả những
người như chúng ta đang sống ngoài trời. Không còn ai kiểm soát chúng ta.
Tự do!
Đúng là tự do thực chứ không phải những lời rỗng tuếch, nhưng đó là một thứ tự
do ngoài mọi sự chờ đợi của chúng ta, tự do vì tình cờ vì ngộ nhận.”
Tôi
ngờ rằng lẽ ra tác giả đã viết thêm …”tự do vô chính phủ, tự do làm khổ
nhau hành hạ nhau.“
Từ
những biến thiên kiểu ấy, hôm nay nước Nga rơi vào tình cảnh thế nào?
Có
hai chi tiết đáng nhớ từ các bài báo rải rác tôi đã đọc.
Một
là về các vùng quê, thấy rất nhiều người đàn ông say rượu, có khi tất cả đàn
ông trong làng say rượu. Còn đàn bà thì dạy nhau để làm sao bán được thân mình
cho những người giầu có.
Và
thứ hai, nếu ngày xưa, các phương tiện truyền thông chuyên môn đóng vai giảng
đạo thì nay ngược lại. Xem ti-vi, dân không phải nghe dậy bảo là hãy sống như
thế này thế nọ nữa. Trong khi tha hồ lê lết trong cực khổ, giờ đây họ toàn được
nghe những điều họ muốn nghe, những lời nịnh nọt rằng nước Nga thuộc loại cường
quốc dắt dẫn thế giới, người dân Nga đang sống cực kỳ hạnh phúc.
Ngay từ năm 1970, Andrei Amalrik, một trí thức xô - viết lưu vong đã tiên đoán - trong một chuyên luận mỏng nhan đề Liệu Liên Xô có tồn tại được đến năm
1984?( lấy tứ từ tên gọi tác phẩm 1984 của George Orwell) - rằng xã hội toàn
trị xô-viết phát triển theo xu thế tích tụ chóng vánh các mâu thuẫn bất khả
giải:
“Có một nhân tố mạnh mẽ sẽ cản phá mọi cơ hội cải tổ [xã hội xô-viết] một
cách hoà bình, một nhân tố sẽ tác động tiêu cực đến mọi tầm mức của xã hội, đó
là việc chế độ tự đặt bản thân nó và xã hội vào một sự cô lập cùng cực.
Sự cô lập này không chỉ chia rẽ chế độ với xã hội hay chia rẽ mọi bộ phận
của xã hội với nhau, mà còn đặt đất nước vào tình thế bị cô lập tột độ khỏi
phần còn lại của thế giới.
Sự cô lập này bao trùm lên tất cả: từ
đám quan chức lưu manh cho đến những giai tầng thấp nhất của xã hội - một bức
tranh siêu thực quái dị về xã hội xô-viết, về vị trí của nó và các bộ phận của
nó trong thế giới. Tình trạng này càng kéo dài, sự tan rã bất khả cưỡng sẽ đến
càng chóng vánh một khi [chế độ] phải đương đầu với hiện thực.
(…)
"Bất cứ một nhà nước nào tập trung một cách khiên cưỡng quá nhiều sức lực vào
việc kiểm soát các công dân của nó về cả thể xác lẫn tinh thần sẽ không thể tồn
tại lâu dài.” [Andrei Amalrik, Will the Soviet Union Survive until 1984?,
Harper & Row 1970]
25-3 -12
Lý
giải chế độ tân phong kiến ở Nga là tên bài viết của
một nhà khoa học Nga Vladislav Inozemtsev in trên báo Mỹ . Có mấy ý đáng nhớ:
-- Chế độ hôm nay sẽ
chẳng phát triển giống nước nào. Nó chỉ là nó. Gọi nó là chế độ tân phong
kiến vì nguyên tắc của nó rất đơn giản, dưới lo cống nạp và trên chấp nhận.
-- Hy vọng vào sự thay đổi của chế độ hôm nay là
một điều hão huyền. Vì nó được sự đồng thuận của nhiều người, kể cả những người
bị thua thiệt nhưng đã quá mệt mỏi trong quá khứ.
Tham nhũng không phải là một lỗi hệ thống mà
chỉ là nguyên tắc cơ bản của các hoạt động bình thường.
-- Bộ máy quan chức
được tổ chức theo lối phi chuyên nghiệp hóa. Nó yếu kém một cách đột biến so với thời xô viết.
Nhưng do đó, nó lại đánh thức cái phần kém cỏi
non nớt hoang dại vô văn hóa và rất tàn bạo vốn đầy rẫy trong mọi xó xỉnh của
nước Nga. Nó thu hút được rất nhiều người trẻ tuổi đang khao khát một chỗ đứng
dưới ánh mặt trời.
Đám người hạ lưu này dám làm tất cả những gì những người có tiền và có quyền đòi hỏi.
Họ lấp đầy bộ máy hành chính và bộ máy sức mạnh.
Ngày càng thắng thế và tự tin, họ tự trang bị cho mình đủ thứ danh hiệu giáo sư
viện sĩ v. v.. Họ khiến cho những tầng
lớp ưu tú ngày càng trở nên thiểu số, tức ngày càng teo tóp bất lực.
Mỗi năm có khoảng 40.000—45.000 chuyên gia trẻ
tuổi có tài đổ ra nước ngoài. Hiện có khoảng 3.000.000 công dân Nga sống ở các nước thuộc Liên minh châu Âu.
- Nước Nga?
- Ờ nước ấy
Và há mồm khoan khoái
Lão ngồi mơ nước Nga…
Tố Hữu Lão đầy tớ 6-1938
Những hình ảnh
nước Nga hôm nay, vốn đã thường
xuyên đi về trong tâm trí chúng ta, lại được tô đậm nhân sự kiện xảy ra ở Ukraina từ 3-2014.
“Hình như bên đó chủ nghĩa cộng sản không
chết, nay ở họ đang là chủ nghĩa Stalin không đảng”—một người tôi quen đã đoán như vậy.
Một người khác nói một câu vu vơ, sau cũng thấy có vẻ rơi vào khái quát non, nhưng vẫn cả
quyết là chắc đúng đến 50%.. Cái câu buột miệng của anh ấy là “Khi một dân tộc
đã dính vào chủ nghĩa này thì không bao giờ rời khỏi nó được nữa, không bao giờ
trở lại như một dân tộc bình thường ”.
Tôi nghe thấy hoang mang, không dám tin mà cũng không có cách gì bác
bỏ…
Chỉ có điều chắc là đang có một tình trạng suy đồi của xã hội và con người,
và tất cả bắt nguồn từ lịch sử.
Những bài báo nước ngoài mấy năm nay tôi đọc
được, đã ghi chép vào nhật ký, và gộp lại dưới đây, đều thống nhất ở cái ý đó.
27-2-09
Ghi rải rác từ các bản dịch trên Bản tin
tham khảo của TTXVN
- Ở đó, những
người đang đóng vai trò chi phối xã hội là KGB cũ và mới. Họ chỉ có một khuôn mặt. Muốn có một xã hội ổn định. Tất cả
làm theo cấp trên. Không ai có chuyên môn gì cả.
--Tham nhũng
không chỉ là căn bệnh xã hội mà là cách điều hành xã hội. Nghĩa là chính
quyền dùng tham nhũng để điều hành.
- Nông dân phá sản. Sau khi nông trường giải tán,
họ làm riêng. Nhưng không có kỹ thuật vốn liếng. Một ít thành phẩm lương thực -
thực phẩm làm ra bị bọn con buôn trên thành phố trả quá rẻ. Họ không làm ăn gì
nữa. Các thành phố tràn ngập thực phẩm nước ngoài. Các quan chức rất thích nhập khẩu vì bằng cách đó họ được dùng những hàng nước ngoài loại hảo hạng.
Rất nhiều người nông thôn
bỏ lên thành phố kiếm ăn bằng những nghề tệ hại nhất.
-- Dân sống
trong tăm tối. 60-70% đàn ông nghiện rượu và chết mòn trong rượu.
Trước đó tôi đã đọc một bài của các nhà
nghiên cứu Trung quốc-- họ bảo căn bản xã hội Nga đang co lại trong khi xã hội
Trung quốc hướng ra thế giới.
9-6-09
Lại một mẩu tin có liên quan đến nước Nga. Một
người phương Tây viết:
Một trong những người thầy Nga của tôi, một nữ giáo sư ngôn ngữ học, khi được
tôi hỏi “theo bà, đâu là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của Liên
Xô?”, đã viết trong thư trả lời tôi như sau:
“Sự suy đồi đạo đức, có lẽ vậy. Y như thời kì
cuối của Đế quốc La-mã, nếu anh từng quan tâm đến.
Vào thời gian cuối của Liên Xô, xã hội xô-viết
giống như một cái thùng sắt tây rỗng tuếch.
Quân đội
thì vẫn còn một chút nanh vuốt nào đấy, nhưng mọi thứ khác đều đã thành vô dụng
và nhạt thếch.
Nạn nhũng
lạm lây lan như dịch hạch, trở thành nguồn sống và môi trường sống cho mọi người.
Trọn một thế hệ đã sinh ra, được dưỡng dục và trưởng thành trong đó.
Cuối cùng thì điều không tránh khỏi là, chỉ cần
một cú chọc bất kể theo hướng nào, cũng sẽ khiến cái vỏ rỗng kia bẹp dúm vào
trong.
Không ai biết chắc sai hỏng bắt đầu từ đâu. Có
thể là từ những năm tháng sơ khởi đẫm máu của chế độ: thói độc đoán và lạm dụng
bạo lực đã in hằn vào dân chúng tình cảm bất tín và căm ghét chính quyền…”
2-2010
Một bài trong đợt kỷ niệm bức tường Berlin
nói về sự chuyển biến của Đông Âu
Ba Lan,
Hungary, Litva xây dựng lại đất nước của họ từ bên trong, tạo lập một tầng lớp
tinh hoa mới, tự trả giá cho các sai lầm của mình để đạt được thành công.
Tác giả không nói rõ,
nhưng hàm ý nước Nga chưa biết làm kiểu đó.
Quan niệm về chiến tranh
Nhà phê bình trẻ Lidija Dovletkireeva ( Nga) khi phân tích nhiều cuốn sách viết
về chiến tranh do các nhà văn Chesnia và Nga viết, đã rút ra kết luận rất đáng
chú ý:
"Chính
những cuộc chiến tranh gần đây đã dẫn người đương thời đến ý niệm về sự cần
thiết quý báu của hòa bình, đã hướng dẫn người ta trong việc lựa chọn sự ưu
tiên không phải là chiến thắng một kẻ thù nào đó mà là khắc phục chiến tranh
theo đúng nghĩa của nó vì cuộc sống sáng tạo thanh bình".
Câu này tôi đọc được từ bài viết về văn học Nga hôm nay của tác giả Sergei Filatov trên Báo Văn.
Bài phê bình có
đoạn viết tiếp:
“ Những vấn đề của ngày hôm nay vốn
gắn liền với quá khứ của chúng ta, với cuộc sống tinh thần của chúng ta, và với
những ưu thế giả tạo, vốn ngăn cản việc tạo ra ở trong nước bầu không khí đạo
đức lành mạnh.
Không một nước nào trên thế giới lại
bị bao bọc bằng những huyền thoại đầy mâu thuẫn trong lịch sử như nước Nga. Và
không một dân tộc nào trên thế giới lại được đánh giá một cách rất khác nhau
như dân tộc Nga.
Một trong
những nguyên nhân, như N. Berdjaev đã nhận xét, là do tính phân cực của tính
cách Nga mà trong đó những nét đối lập được kết hợp với nhau một cách kỳ lạ
- lòng nhân hậu với tính tàn bạo, sự tinh tế của tâm hồn và chất thô lỗ, lòng
yêu chuộng tự do với sự chuyên chế độc tài, sự tự ti với tính ngạo mạn dân tộc
và chủ nghĩa Sôvanh.”
Trên
Le monde diplomatique tháng 10-2010
có bài Nước Nga - một xã hội không công dân
Từ
Bản tin tham khảo của TTXVN, tôi đọc
được bản dịch trong đó thích nhất mấy ý :
“Quái gở dưới nhiều khía cạnh, chế độ hiện nay điều khiển một đất nước
tự do một cách ngược đời”.
Đó là một sự pha trộn giữa “hầu như là Liên Xô “ và “phương Tây giả hiệu”.
Một nhà sử học kết luận ”người ta cuối cùng cũng cảm thấy có được tự do ở một
nước triệt để không tuân theo những tiêu chuẩn dân chủ”. Nhưng đó là thứ tự do
không dây dưa gì với quan niệm tự do phổ biến trên thế giới
7-2-11
Băng giá tận trong cốt lõi là
tên một bài viết trên báo Economist Anh, TTXVN dịch ra tiếng Việt. Đọc
vào bắt gặp vài ý.
Nước Nga
hiện có một nhà nước không chỉ trắng trợn coi thường pháp luật vì lợi ích của
riêng mình mà còn gửi một tín hiệu mạnh mẽ cho bộ máy hành chính quan liêu
rằng hành động này giờ đây được tán thành.
Hiện nhà nước đó được coi một như tài sản
không được đầu tư, yếu kém, và người ta đang tư hữu hóa nó. Ranh giới
giữa các doanh nghiệp quan trọng nhất và các quan chức chính phủ đi
từ mập mờ đến không tồn tại.
Thanh
niên thích có môt công việc trong chính phủ, hoặc một công ti nhà
nước, hơn là một doanh nghiệp tư nhân.
Hối lộ là một thị trường lớn, giá trị của
nó tăng đến 300 tỷ USD, hoặc 20% GDP.
12-10-11
Nước Nga sau 2011 ra
sao? Sau đây là bài của Ju. Afanasiev Nước
Nga đã đến hồi cáo chung được viết từ mấy năm trước, nay nhân kỷ niệm 20
năm Liên xô sụp đổ đọc lại thấy hay quá nên tôi chép lại vào đây.
Mở đầu là câu hỏi Chúng ta không phải là nô
lệ sao? Tác giả cho biết nay là lúc những người cầm quyền chỉ coi Nhà nước
Nga là phương tiện để trộm cắp. Những người cầm quyền ấy giống như những kẻ
chiếm đóng, một lũ mọi rợ.
Hư vô
về luật pháp. Vô luân. Nomenkluctura
--bộ máy quan liêu -- thao túng tất cả.
Nhìn
đất nước thấy trống rỗng. Hướng về chính phủ thấy trống rỗng. Hướng về nhân dân
trống rỗng hơn. Cảm tưởng mình như kẻ mất trí.
Người
ta vẫn nói Nhà nước và nhân dân là một. Nhưng dưới góc nhìn duy lý, nay nhà
nước không phải nhà nước, nhân dân không phải nhân dân.
Nhân
dân đang khổ đau, một thứ nỗi khổ mà, nói như N.M.Karamzin, “chỉ những kẻ đê mạt mới chịu đựng nổi”. Họ hiện nguyên hình là một đám đông vô ý thức, sẵn
sàng bạo loạn. Một thứ điên rồ đáng sợ, đáng buồn, đáng tởm nữa.
Thỉnh thoảng vùng lên rồi họ lại nhanh chóng trở về cuộc sống tối tăm.
Sức
lực quần chúng bị bóp nặn bằng bạo lực. Tình trạng ngột ngạt bao trùm. Sự trì trệ
là đặc thù tính cách Nga.
Nước
Nga từ xưa vốn thay đổi như theo đường vòng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội = xoá bỏ
nhân tố con người. Nay vẫn tiếp tục làm biến dạng con người.
Trước
thế kỷ XX, nhân dân có tự tổ chức thành một cộng đồng. Từ cách mạng, phá bỏ.
Quá trình tự tổ chức xã hội chỉ còn là quá trình phớt lờ cấm đoán, tội phạm,
tham nhũng.
Cách
mạng 1917 làm sống dậy những điều tồi tệ nhất: bản năng thú vật, tính ích kỷ.
Sau 10-91 chẳng có điều gì xảy ra. Chính quyền, toà án, giáo dục … tất cả vẫn như
cũ. Mọi thành viên trong xã hội chỉ bị chi phối bởi quyền lợi vật chất và cố
gắng tồn tại.
Sau
1991 người ta đi bầu cho Yeltsin. Họ không thể có những hành động có ý thức của
những con người được tổ chức về mặt xã hội.
Họ
vẫn là những đám đông nhu cầu như nhau, suy nghĩ giống nhau, gào lên những điều
giống nhau, tạo nên những tấm phông, mà nhảy múa trên sân khấu là những con chuột
của lịch sử.
Sự khốn nạn đang đi từ cực kỳ tệ hại sang tệ hại hơn.
Yeltsin – Putin không làm gì để cải tạo “truyền thống”. Người ta
buộc phải dùng đến cái từ hoang dã
nếu muốn miêu tả sự quay trở lại của một quá khứ chuyên chế lạc hậu. Lịch sử
nhiều thế kỷ của Nga, lịch sử thời xô viết cùng lúc hiện diện.
Nhà
nước phường hội, nhà nước thân hữu hôm nay chẳng qua là một thứ quái thai
hậu xô viết. Nó đang quay về quá khứ, tức trở về nơi mà mọi thứ đều bị nhà
nước đè bẹp, không có chỗ cho xã hội công dân, không có chỗ cho luật pháp.
Sự
chấp nhận các định chế kinh tế thị trường một cách hời hợt có tạo ra vẻ ngoài
hiện đại trùm lên bộ máy quản lý chính trị. Sau đó tất cả lại tự phát. Đây là
xã hội lý tưởng của bọn mediocre (
bọn tầm thường ).
Trí
thức vốn có nghĩa tổng số những nhân vật có sự tìm tòi mở đường trong lĩnh vực
của mình. Sự tìm tòi đó thành mẫu cho kẻ
khác noi theo mà sống. Khái
niệm giới elite – tức giới tinh hoa--
liên quan đến khái niệm hiện đại hoá - phát triển.
Ở nước Nga hiện nay trí thức
chân chính thực sự đứng bên lề, vì đất nước từ trên xuống không có cái nhu cầu
hiện đại hoá đó. Tri thức (thực thụ) ngày nay sống khép kín.
Nga
luôn luôn hướng về quá khứ. Nước Nga không có chỗ cho người thích sống tích cực
và độc lập. Sự tự khám phá bản thân -- sự tự nhận thức -- là bất khả thi.
Chế độ quyền uy thao túng
tất cả. Đàn áp đã làm tê liệt mọi ý tưởng đổi mới.
Trong
lịch sử những người có học ở Nga --kể cả người tự do -- nếu muốn tồn tại, cũng
chỉ có việc là góp phần củng cố quyền lực nhà nước. Chính quyền họ tôn phò đó
là chính quyền chuyên chế.
Từ thế kỷ XV, nước Nga đã chỉ lo mở rộng đế chế hơn là tự do cho xã
hội.
Thời
xô viết tiếp tục mà nay cũng vậy. Thậm chí có nhiều khía cạnh nay còn tệ hại
hơn các thế kỷ trước.
11-11
Nhân
có phóng viên hỏi xem nên nghĩ sao về
tình trạng thi hoa hậu hiện thời, tôi muốn trở lại với những ý tưởng của một nhà
văn hóa Nga là Sergei Averintsev về một hướng phát triển của đời sống tinh thần
nước Nga sau 1991:
Những sai lầm của quá khứ, kết quả của những
nhà tư tưởng đáng giá hồi cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, đã bị truất ngôi cùng với những hệ tư tưởng cực quyền. Việc
truy tìm gốc rễ của cái xấu ở thời xa xưa trong lịch sử tư tưởng đang được theo
đuổi ráo riết.
Tuy nhiên vẫn còn những lý do để lo
âu. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhận ra những dấu hiệu của một chủ nghĩa khóai lạc rất phàm tục.
Ở một nước còn rất thiếu hàng hóa
như nước Nga, cái chủ nghĩa khoái lạc này càng trở nên dữ dội vì người ta đã bị
bỏ khát quá dài và giờ đây đuổi theo khoái lạc bao nhiêu cũng luôn luôn cảm
thấy chưa thỏa.
Thứ đến là là sự biến mất tăm của
nền văn hóa với đặc trưng là ý thức liêm sỉ hoặc thói quen biết xấu hổ.
Và cuối cùng là sự xuất hiện một chủ nghĩa phi lý hẩu lốn, pha trộn nháo nhào các giá trị tư bản chủ nghĩa và mác xít.
Rồi một thứ nữa, không phải là dung
hợp càng không phải tổng hòa, mà chẳng qua là một sự nhập cục cơ học cả Ford,
Freud, lẫn Marx trong cùng một cấp độ, trong một thế giới không thượng đế.
Dục năng ( libido) đang
xâm chiếm đời sống, không phải chỉ là một thứ dục năng nhục thể mà – lạ thay -- cứ
như là máy móc đang trở nên đầy thèm khát hoặc bản chất con người đang biến
dạng để trở nên máy móc vậy.
Ngày nay ở nước Nga thật khó nói đến một ý
thức biết xấu hổ.
Kể cũng cần thiết là việc người ta sổ toẹt cả
một loạt quy phạm phẩm hạnh giả dối mà trước đây người ta áp đặt cho họ. Nhưng
rồi người ta đi tới đâu ?
Cũng có thể nói là con người trở lại với
một tình trạng trống trơ của trẻ con, nhưng đó chỉ là bề ngoài, những đứa trẻ
con này đã bị làm hỏng để trở nên thối rữa tự bên trong.
Đã đành những quy phạm ứng xử thời xô viết
chỉ là biếm họa của một thứ văn hóa liêm sỉ đích thực. Nhưng từ bỏ nó, không
phải là người ta tới được sự cao thượng về tâm hồn. Thay thế vào đó, chỉ là
những lệch lạc mới, chẳng hạn thói đạo đức giả và nhất là xu thế chạy theo
khoái lạc tầm thường mà người ta tưởng là biểu trưng của tự do.
Trong trường hợp này phải nói bản chất tự
nhiên của con người cũng bị đe dọa.
Bên Nga sắp bầu cử. Vừa thấy có những cuộc biểu tình phản đối thì lại có ngay những cuộc biểu tình khác, đông hơn vui vẻ hơn, ủng hộ Putin. Do ông Putin tổ chức, cố nhiên. Một ông hiệu trưởng nói rằng ông được lệnh phải huy động các giáo viên tham gia, nếu không sẽ mất việc.
Nay thì người ta có thể chế ra tất cả các thứ hàng giả, và thứ hàng giả chính trị ở cấp quốc gia như thế này phổ biến ở nhiều nước. Nga chỉ đẩy nó đến đỉnh điểm.
Nhớ một lần họp báo, nhân có tin Putin đã có tới 40 tỉ đôla gửi ngân hàng.
Một phóng viên phương Tây hỏi:
-- Nghe nói ngài giàu lắm phải không?
thì được tổng thống trả lời:
-- Vâng tôi rất giầu, đó là giầu tình yêu của nhân dân Nga với tôi!
Phát điên Dân Nga nói về Putin sau vụ bầu cử
:"Chính phủ của ông ta tệ hại, tòa án là những con rối, những kẻ chuyên áp
hình phạt thì khoác áo cảnh sát, các ủy ban bầu cử đã xếp sẵn kết quả và những
người trong guồng máy của ông ta thì nắm giữ những vị trí quan trọng nhất, béo
bở nhất - tất cả những thứ đó khiến chúng tôi phát điên!"
Sự
tưởng tượng chỉ huy cuộc sống Nhà
phê bình lịch sử Ian Ratchinski nhận định về cặp lãnh đạo nước Nga
Putin-Medvedev: “Dù họ không ủng hộ tư
tưởng cộng sản, nhưng hai ông vẫn quản lý đất nước theo kiểu chế độ Xô Viết,
giống như các lãnh đạo Liên Xô cũ chỉ dựa trên các báo cáo ngụy tạo của cơ quan
mật để ra quyết định. Họ luôn sống trong một thế giới tưởng tượng.”
2-12
Một định nghĩa về cách mạng 1917
Bác
sĩ Zhivago, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết cùng tên của Boris Pasternak
có lần nói với bạn gái:
“Cô
thử nghĩ xem cái thời đại chúng ta thật là lạ lùng. Và cô với tôi đang phải
sống trong đó. Thật ngàn năm một thuở mới lại xẩy ra những chuyện điên rồ như
thế này. Cô có thấy cả nước Nga như mất nóc -- tôi và cô, tất cả những
người như chúng ta đang sống ngoài trời. Không còn ai kiểm soát chúng ta.
Tự do!
Đúng là tự do thực chứ không phải những lời rỗng tuếch, nhưng đó là một thứ tự
do ngoài mọi sự chờ đợi của chúng ta, tự do vì tình cờ vì ngộ nhận.”
Tôi
ngờ rằng lẽ ra tác giả đã viết thêm …”tự do vô chính phủ, tự do làm khổ
nhau hành hạ nhau.“
Từ
những biến thiên kiểu ấy, hôm nay nước Nga rơi vào tình cảnh thế nào?
Có
hai chi tiết đáng nhớ từ các bài báo rải rác tôi đã đọc.
Một
là về các vùng quê, thấy rất nhiều người đàn ông say rượu, có khi tất cả đàn
ông trong làng say rượu. Còn đàn bà thì dạy nhau để làm sao bán được thân mình
cho những người giầu có.
Và
thứ hai, nếu ngày xưa, các phương tiện truyền thông chuyên môn đóng vai giảng
đạo thì nay ngược lại. Xem ti-vi, dân không phải nghe dậy bảo là hãy sống như
thế này thế nọ nữa. Trong khi tha hồ lê lết trong cực khổ, giờ đây họ toàn được
nghe những điều họ muốn nghe, những lời nịnh nọt rằng nước Nga thuộc loại cường
quốc dắt dẫn thế giới, người dân Nga đang sống cực kỳ hạnh phúc.
Ngay từ năm 1970, Andrei Amalrik, một trí thức xô - viết lưu vong đã tiên đoán - trong một chuyên luận mỏng nhan đề Liệu Liên Xô có tồn tại được đến năm
1984?( lấy tứ từ tên gọi tác phẩm 1984 của George Orwell) - rằng xã hội toàn
trị xô-viết phát triển theo xu thế tích tụ chóng vánh các mâu thuẫn bất khả
giải:
“Có một nhân tố mạnh mẽ sẽ cản phá mọi cơ hội cải tổ [xã hội xô-viết] một
cách hoà bình, một nhân tố sẽ tác động tiêu cực đến mọi tầm mức của xã hội, đó
là việc chế độ tự đặt bản thân nó và xã hội vào một sự cô lập cùng cực.
Sự cô lập này không chỉ chia rẽ chế độ với xã hội hay chia rẽ mọi bộ phận
của xã hội với nhau, mà còn đặt đất nước vào tình thế bị cô lập tột độ khỏi
phần còn lại của thế giới.
Sự cô lập này bao trùm lên tất cả: từ
đám quan chức lưu manh cho đến những giai tầng thấp nhất của xã hội - một bức
tranh siêu thực quái dị về xã hội xô-viết, về vị trí của nó và các bộ phận của
nó trong thế giới. Tình trạng này càng kéo dài, sự tan rã bất khả cưỡng sẽ đến
càng chóng vánh một khi [chế độ] phải đương đầu với hiện thực.
(…)
"Bất cứ một nhà nước nào tập trung một cách khiên cưỡng quá nhiều sức lực vào
việc kiểm soát các công dân của nó về cả thể xác lẫn tinh thần sẽ không thể tồn
tại lâu dài.” [Andrei Amalrik, Will the Soviet Union Survive until 1984?,
Harper & Row 1970]
25-3 -12
Lý
giải chế độ tân phong kiến ở Nga là tên bài viết của
một nhà khoa học Nga Vladislav Inozemtsev in trên báo Mỹ . Có mấy ý đáng nhớ:
-- Chế độ hôm nay sẽ
chẳng phát triển giống nước nào. Nó chỉ là nó. Gọi nó là chế độ tân phong
kiến vì nguyên tắc của nó rất đơn giản, dưới lo cống nạp và trên chấp nhận.
-- Hy vọng vào sự thay đổi của chế độ hôm nay là
một điều hão huyền. Vì nó được sự đồng thuận của nhiều người, kể cả những người
bị thua thiệt nhưng đã quá mệt mỏi trong quá khứ.
Tham nhũng không phải là một lỗi hệ thống mà
chỉ là nguyên tắc cơ bản của các hoạt động bình thường.
-- Bộ máy quan chức
được tổ chức theo lối phi chuyên nghiệp hóa. Nó yếu kém một cách đột biến so với thời xô viết.
Nhưng do đó, nó lại đánh thức cái phần kém cỏi
non nớt hoang dại vô văn hóa và rất tàn bạo vốn đầy rẫy trong mọi xó xỉnh của
nước Nga. Nó thu hút được rất nhiều người trẻ tuổi đang khao khát một chỗ đứng
dưới ánh mặt trời.
Đám người hạ lưu này dám làm tất cả những gì những người có tiền và có quyền đòi hỏi.
Họ lấp đầy bộ máy hành chính và bộ máy sức mạnh.
Ngày càng thắng thế và tự tin, họ tự trang bị cho mình đủ thứ danh hiệu giáo sư
viện sĩ v. v.. Họ khiến cho những tầng
lớp ưu tú ngày càng trở nên thiểu số, tức ngày càng teo tóp bất lực.
Mỗi năm có khoảng 40.000—45.000 chuyên gia trẻ
tuổi có tài đổ ra nước ngoài. Hiện có khoảng 3.000.000 công dân Nga sống ở các nước thuộc Liên minh châu Âu.
Published on April 10, 2014 06:47
April 8, 2014
Những người Nga kỳ cục
Đầu thiên niên kỷ
này, một nhà xuất bản ở Anh vừa cho in một xê-ri có tính cách đi vào tìm hiểu
đặc tính các dân tộc, mà trước tiên là miêu tả những khuôn mẫu đã định hình
trong lịch sử về dân tộc đó.
Tủ sách mang cái tên khá khiêu khích Xenophobe`s Guide
to... tạm dịch là Sách hướng dẫn cho những kẻ bài bác người nước
ngoài ( Anh, Pháp, Đức...).
Để các
trang sách có thể được viết bằng giọng khách quan, pha chút hài hước mang cái
nhìn tự chỉ trích từ bên trong, NXB đặt ra yêu cầu người
nước nào tự viết về người nước ấy.
Mùa hè 2001, cuốn Sách hướng dẫn
cho những kẻ bài bác người Nga đã được in ra ở London và một nxb ở Moskva
đã lập tức cho dịch cuốn sách này ra tiếng Nga.
Dưới đây là mấy đoạn trích dịch
ngắn từ báo Nga Vremya
Sầu
muộn,bi quan và nồng nhiệt bẩm sinh
Tính cách dân tộc thường khi là một cái gì mâu
thuẫn và người Nga cũng vậy, người Nga trung bình mang hình ảnh một kẻ sầu muộn,
trong khi chờ đợi những gì tốt đẹp thì đồng thời biết là tai vạ có thể đổ xuống
đầu mình bất cứ lúc nào.
Thật là chó cắn áo rách,
anh ta lầu bầu khi gặp hoàn cảnh rủi ro, lặng lẽ thu dọn những gì còn còn sót từ đống đổ nát và lại tính cho mình ván
bài mới.
Đấy cũng là dịp để người ta than thở rằng
người Nga là một dân tộc bất hạnh nhất
trên đời, rằng ngày xưa họ sống không đến nỗi nào và chẳng hiểu làm sao cứ ngày
càng khốn khó hơn. Trong khi đó, vào những lúc mọi chuỵện vui vẻ, họ sẽ nói với
bạn rằng họ biết mình là một trong những dân tộc tốt bụng mến khách nhất trên
thế giới và điều này chính ra là rất gần
với sự thực.
Tuy nhiên nếu “đập vỡ “ một người
Nga ra, luôn luôn ta sẽ bắt gặp một người mơ mộng. Chủ nghĩa lãng mạn Nga là
một cái gì bền chắc lạ thường, để lâu không hỏng, thả xuống nước không chìm,
chôn xuống đất không chết. Và cuộc sống càng nặng nề thì trái tim lãng mạn ấy ở người ta càng đập
mạnh. Họ rất thích tin ở những ai nói rằng có thể có được thiên đường ngay trên mặt đất.
Chen vai thích cánh
Khía cạnh tiêu biểu trong tính cách Nga là cảm giác có người có ta.
Họ thích tụ lại thành những đám đông:
một chiếc xe buýt ken chặt những người
đối với họ luôn có sức hấp dẫn, nhất
định là họ phải chen lên bằng được, cốt có người đã đi là ta cứ thế mà đi theo,
đông mấy cũng không ngại.
Trong hoạt động hàng ngày việc gì họ chỉ cần có người khác cùng làm, còn kết quả làm đến đâu không cần biết.
Thật khó tưởng tượng một người
Thuỵ Điển bệ vệ kiểu cách lại có thể nhập ngay vào một một dàn đồng ca gồm toàn
những người anh ta không quen trên một toa xe hoả chật ních người.
Còn người Nga nào cũng sẵn lòng
làm vậy, chẳng cần có vôt-ca họ cũng tìm thấy hào hứng trong việc tạo ra một
bầu không khí gắn bó; lời bài hát chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí hát sai nhịp
cũng được, điều quan trọng là cái dàn dồng ca ca này vang lên càng to càng sôi
nổi càng tốt, ca rằng chúng ta đang ở bên nhau
và chẳng còn gì là đáng sợ nữa.
Ba khái niệm cơ bản
Để hiểu cái nhìn người Nga đối với đời sống, cần lưu ý tới ba khái niệm cơ bản là tâm hồn, nỗi buồn, số
phận.
Tâm hồn ở đây gắn với chính giáo.
Nỗi buồn thì là sự hoà trộn của
lãnh đạm, dày vò, sầu thảm và chán chường. Nó cũng có chút ý vị “ nỗi đau thế
giới” của người Đức, song mang màu sắc cá nhân rõ hơn. Người Nga chấp nhận nỗi
buồn này một cách tự nhiên,trong thâm tâm họ luôn luôn kêu lên như nhân vật
Oneguin trong vở opéra của
Tchaikovski “Thật là nhục nhã
! Ôi nỗi buồn ! Ôi số phận thảm thương của ta !”
Còn chữ số phận ở đây có đủ các nghĩa của thiên mệnh, điềm dữ điềm lành, tiền kiếp
tiền định, chạy trời không khỏi nắng, trời đã phạt mi bằng cách suốt đời buộc
mi khóc than cho số phận của mình…
Thành thử không ai ngạc nhiên khi
thấy nhiều người Nga chuyển vai nhanh chóng, từ nhân vật trung tâm của một lễ tiệc đèn sáng rực rỡ với những câu bông
đùa hóm hỉnh, sang anh chàng chán đời ngồi nức nở trước cốc ruợu cạn và tự làm
khổ mình bằng cách đập tay lên trán tự hỏi
ý nghĩa cuộc sống là gì mà không bao giờ trả lời được.
Dễ dãi thế nào cũng được. Thích
ăn sẵn và thụ động chờ đợi
Người Nga thích ngồi ước ao tự nhiên mình trở nên giàu có.
Một trong những truyện cổ tích phổ biến nhất ở Nga là câu chuyện Êmélia và con cá măng thần kỳ, đại khái kể về
một anh chàng không thích động tay vào
bất cứ việc gì mà lại có được tất cả mọi thứ.
Rút lại số phận
của ngừơi ta đi đằng nào, sự tốt xấu … tất cả chẳng có nghĩa lý gì hết,
đạo lý cuối cùng là vậy.
Tiếng Nga có một từ là khaliav có nghĩa
là của trời cho, người ta dùng nó để gọi một cái vé xem một vở hát mang tính chất chiêu
đãi, một tập quảng cáo mỏng chả ai buồn xem, cho tới giấy mời tới dự bữa ăn tối
với một thương gia có thể là cần cho bạn trong một việc gì đấy.
Người Nga cho rằng cứ được mời là thích
rồi, ngoài ra mời cái gì mà chẳng được.
Một
biểu hiện khác của thụ động là sự chịu đựng, nghiến răng chấp nhận đau khổ,
ngóng đợi một cuộc sống khá hơn dù không biết bao giờ nó tới.
Khả năng chịu đựng của người Nga thật mênh
mông không có giới hạn, người có quyền
muốn quát mắng họ, chửi bới họ thế nào cũng được. Cuối cùng nhà cầm
quyền đành ra lệnh treo đầu cả bọn ngoài chợ :
-- Ngày
mai cho tất cả lên đoạn đầu đài hết. Tám
giờ có mặt ở đây. Có hỏi thêm gì không ?
-- Dạ có. Xin hỏi dây thừng đã có
sẵn hay chúng tôi phải mang theo ?
Họ dám chờ đợi và hy vọng ngay
trong những điều kiện mà không một dân tộc nào chịu đựng nổi.
Giới trí thức
Đây
không phải là khái niệm chỉ lớp người có học mà dân tộc nào cũng có.
Ở Nga, là một trí thứccó nghĩa là phải hiểu được những người đang sống quanh,
cùng đau khổ với họ, cùng mơ mộng và khi
cần lên tiếng chống lại bất công cùng với họ. Cố nhiên trước đó anh phải là
người đọc nhiều biết rộng được dạy dỗ dến nơi đến chốn, song luôn luôn tự hiểu chưa phải là đủ.
Một nhà văn, một nhạc sĩ, một giáo sư hay một viện sĩ không
thể tự nhiên liệt mình vào hạng trí thức, làm thế chẳng khác gì tự anh phong thánh cho mình mà ông ta thừa biết rằng
danh hiệu này phải do nhân dân phong tặng. Các nhà trí thức thực thụ thường
không giấu nổi sung sướng khoe với hàng
xóm về vai trò của mình nhưng không quên
nói thêm “mình là thứ đã bị sâu ăn”, tức chưa phải đã xứng đáng với danh hiệu cao quý
ấy.
này, một nhà xuất bản ở Anh vừa cho in một xê-ri có tính cách đi vào tìm hiểu
đặc tính các dân tộc, mà trước tiên là miêu tả những khuôn mẫu đã định hình
trong lịch sử về dân tộc đó.
Tủ sách mang cái tên khá khiêu khích Xenophobe`s Guide
to... tạm dịch là Sách hướng dẫn cho những kẻ bài bác người nước
ngoài ( Anh, Pháp, Đức...).
Để các
trang sách có thể được viết bằng giọng khách quan, pha chút hài hước mang cái
nhìn tự chỉ trích từ bên trong, NXB đặt ra yêu cầu người
nước nào tự viết về người nước ấy.
Mùa hè 2001, cuốn Sách hướng dẫn
cho những kẻ bài bác người Nga đã được in ra ở London và một nxb ở Moskva
đã lập tức cho dịch cuốn sách này ra tiếng Nga.
Dưới đây là mấy đoạn trích dịch
ngắn từ báo Nga Vremya
Sầu
muộn,bi quan và nồng nhiệt bẩm sinh
Tính cách dân tộc thường khi là một cái gì mâu
thuẫn và người Nga cũng vậy, người Nga trung bình mang hình ảnh một kẻ sầu muộn,
trong khi chờ đợi những gì tốt đẹp thì đồng thời biết là tai vạ có thể đổ xuống
đầu mình bất cứ lúc nào.
Thật là chó cắn áo rách,
anh ta lầu bầu khi gặp hoàn cảnh rủi ro, lặng lẽ thu dọn những gì còn còn sót từ đống đổ nát và lại tính cho mình ván
bài mới.
Đấy cũng là dịp để người ta than thở rằng
người Nga là một dân tộc bất hạnh nhất
trên đời, rằng ngày xưa họ sống không đến nỗi nào và chẳng hiểu làm sao cứ ngày
càng khốn khó hơn. Trong khi đó, vào những lúc mọi chuỵện vui vẻ, họ sẽ nói với
bạn rằng họ biết mình là một trong những dân tộc tốt bụng mến khách nhất trên
thế giới và điều này chính ra là rất gần
với sự thực.
Tuy nhiên nếu “đập vỡ “ một người
Nga ra, luôn luôn ta sẽ bắt gặp một người mơ mộng. Chủ nghĩa lãng mạn Nga là
một cái gì bền chắc lạ thường, để lâu không hỏng, thả xuống nước không chìm,
chôn xuống đất không chết. Và cuộc sống càng nặng nề thì trái tim lãng mạn ấy ở người ta càng đập
mạnh. Họ rất thích tin ở những ai nói rằng có thể có được thiên đường ngay trên mặt đất.
Chen vai thích cánh
Khía cạnh tiêu biểu trong tính cách Nga là cảm giác có người có ta.
Họ thích tụ lại thành những đám đông:
một chiếc xe buýt ken chặt những người
đối với họ luôn có sức hấp dẫn, nhất
định là họ phải chen lên bằng được, cốt có người đã đi là ta cứ thế mà đi theo,
đông mấy cũng không ngại.
Trong hoạt động hàng ngày việc gì họ chỉ cần có người khác cùng làm, còn kết quả làm đến đâu không cần biết.
Thật khó tưởng tượng một người
Thuỵ Điển bệ vệ kiểu cách lại có thể nhập ngay vào một một dàn đồng ca gồm toàn
những người anh ta không quen trên một toa xe hoả chật ních người.
Còn người Nga nào cũng sẵn lòng
làm vậy, chẳng cần có vôt-ca họ cũng tìm thấy hào hứng trong việc tạo ra một
bầu không khí gắn bó; lời bài hát chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí hát sai nhịp
cũng được, điều quan trọng là cái dàn dồng ca ca này vang lên càng to càng sôi
nổi càng tốt, ca rằng chúng ta đang ở bên nhau
và chẳng còn gì là đáng sợ nữa.
Ba khái niệm cơ bản
Để hiểu cái nhìn người Nga đối với đời sống, cần lưu ý tới ba khái niệm cơ bản là tâm hồn, nỗi buồn, số
phận.
Tâm hồn ở đây gắn với chính giáo.
Nỗi buồn thì là sự hoà trộn của
lãnh đạm, dày vò, sầu thảm và chán chường. Nó cũng có chút ý vị “ nỗi đau thế
giới” của người Đức, song mang màu sắc cá nhân rõ hơn. Người Nga chấp nhận nỗi
buồn này một cách tự nhiên,trong thâm tâm họ luôn luôn kêu lên như nhân vật
Oneguin trong vở opéra của
Tchaikovski “Thật là nhục nhã
! Ôi nỗi buồn ! Ôi số phận thảm thương của ta !”
Còn chữ số phận ở đây có đủ các nghĩa của thiên mệnh, điềm dữ điềm lành, tiền kiếp
tiền định, chạy trời không khỏi nắng, trời đã phạt mi bằng cách suốt đời buộc
mi khóc than cho số phận của mình…
Thành thử không ai ngạc nhiên khi
thấy nhiều người Nga chuyển vai nhanh chóng, từ nhân vật trung tâm của một lễ tiệc đèn sáng rực rỡ với những câu bông
đùa hóm hỉnh, sang anh chàng chán đời ngồi nức nở trước cốc ruợu cạn và tự làm
khổ mình bằng cách đập tay lên trán tự hỏi
ý nghĩa cuộc sống là gì mà không bao giờ trả lời được.
Dễ dãi thế nào cũng được. Thích
ăn sẵn và thụ động chờ đợi
Người Nga thích ngồi ước ao tự nhiên mình trở nên giàu có.
Một trong những truyện cổ tích phổ biến nhất ở Nga là câu chuyện Êmélia và con cá măng thần kỳ, đại khái kể về
một anh chàng không thích động tay vào
bất cứ việc gì mà lại có được tất cả mọi thứ.
Rút lại số phận
của ngừơi ta đi đằng nào, sự tốt xấu … tất cả chẳng có nghĩa lý gì hết,
đạo lý cuối cùng là vậy.
Tiếng Nga có một từ là khaliav có nghĩa
là của trời cho, người ta dùng nó để gọi một cái vé xem một vở hát mang tính chất chiêu
đãi, một tập quảng cáo mỏng chả ai buồn xem, cho tới giấy mời tới dự bữa ăn tối
với một thương gia có thể là cần cho bạn trong một việc gì đấy.
Người Nga cho rằng cứ được mời là thích
rồi, ngoài ra mời cái gì mà chẳng được.
Một
biểu hiện khác của thụ động là sự chịu đựng, nghiến răng chấp nhận đau khổ,
ngóng đợi một cuộc sống khá hơn dù không biết bao giờ nó tới.
Khả năng chịu đựng của người Nga thật mênh
mông không có giới hạn, người có quyền
muốn quát mắng họ, chửi bới họ thế nào cũng được. Cuối cùng nhà cầm
quyền đành ra lệnh treo đầu cả bọn ngoài chợ :
-- Ngày
mai cho tất cả lên đoạn đầu đài hết. Tám
giờ có mặt ở đây. Có hỏi thêm gì không ?
-- Dạ có. Xin hỏi dây thừng đã có
sẵn hay chúng tôi phải mang theo ?
Họ dám chờ đợi và hy vọng ngay
trong những điều kiện mà không một dân tộc nào chịu đựng nổi.
Giới trí thức
Đây
không phải là khái niệm chỉ lớp người có học mà dân tộc nào cũng có.
Ở Nga, là một trí thứccó nghĩa là phải hiểu được những người đang sống quanh,
cùng đau khổ với họ, cùng mơ mộng và khi
cần lên tiếng chống lại bất công cùng với họ. Cố nhiên trước đó anh phải là
người đọc nhiều biết rộng được dạy dỗ dến nơi đến chốn, song luôn luôn tự hiểu chưa phải là đủ.
Một nhà văn, một nhạc sĩ, một giáo sư hay một viện sĩ không
thể tự nhiên liệt mình vào hạng trí thức, làm thế chẳng khác gì tự anh phong thánh cho mình mà ông ta thừa biết rằng
danh hiệu này phải do nhân dân phong tặng. Các nhà trí thức thực thụ thường
không giấu nổi sung sướng khoe với hàng
xóm về vai trò của mình nhưng không quên
nói thêm “mình là thứ đã bị sâu ăn”, tức chưa phải đã xứng đáng với danh hiệu cao quý
ấy.
Published on April 08, 2014 19:17
Ở Trung quốc, tự trào nghĩa là thu hẹp những cấm kỵ trong tự nhận thức
Trở lại với cuốn Người Trung quốc tự trào nxb Văn học, 2002
Công bằng mà nói, phải nhận biếng nhác,
dối trá, tham lợi, cầu an, nịnh nọt, trơ tráo, rồi cái gì cũng cười, cái gì
cũng cho là không quan trọng...là những thứ tính chung của loài người, nhìn vào
dân nước nào cũng thấy.
Mà cuốn sách tôi nói đây lại chỉ là một cuốn sách mang tính cách phổ
thông, có lẽ là đã đăng tải làm nhiều kỳ
trên một tờ báo nào đó bằng Trung văn
trước khi in sách.
Bởi vậy sẽ là vô lý nếu đòi hỏi nó phải có những
phát hiện ghê gớm liên quan đến những khuyết điểm của người Trung
quốc (tên sách trong nguyên văn).
Đúng ra sự phân tích ở đây chỉ dừng lại ở chỗ làm cho người đọc thấy những mặt yếu kém trong dân tộc tính Trung Hoa và nói rõ chúng
là phổ biến, là đang đầy rẫy trong cuộc sống chung quanh, từ đó giúp cho mọi
người tỉnh táo nghiêm túc hơn trong việc nhìn mình cũng như đồng bào của mình.
Tuy nhiên, NTQTT vẫn nổi lên giữa vô số sách vở đang được dịch in và bày bán rộng rãi, ấy là vì nó đã giới thiệu được một xu thế
suy nghĩ chi phối xã hội và xem như một
định hướng của công tác nghiên cứu văn
hoá ở Trung quốc hiện nay.
Thứ nhất, hãy nhìn vào những ví dụ, những bằng chứng mà
các tác giả đưa ra để nói về từng thói xấu một.
Nhiều chuyện trong lịch sử được
nêu ra,chẳng hạn Khổng Tử cũng thèm làm quan, Khuất Nguyên cũng thèm được dùng,
Lý Bạch Vương Duy cũng có lúc nhờ cậy người có quyền thế để tiến thân. Rồi Dương Quýnh nhà thơ đời
Đường tính hay tị nạnh, rồi Quách Mạt Nhược nhà thơ hiện đại kiêu ngạo khinh
đời v..v..
Thoát khỏi khu vực cấm kỵ không
ai dám đụng tới để cùng chung số phận với người bình thường, những nhân vật
lớn trong lịch sử lại trở nên những dẫn chứng sinh động cho việc hình dung ra những nét căn
bản của quốc tính.
Thứ hai, một điều quan trọng hơn là trong
chừng mực nhất định, các tác tác giả bắt đầu tiến tới những khái quát tầm cỡ, một loại khái quát mà những ai muốn
truy cầu sự thật một cách nghiêm túc không thể lảng tránh. Trong phần hay nhất
của NTQTT là phần Nhân cách,
người đọc được biết người Trung quốc
không chỉ xu thời, cầu an, sẵn sàng hối lộ thần thánh hoặc rúc đầu vào
cánh cam chịu trước cuộc đời bất công...
mà còn “coi nhẹ tri thức văn hoá thù hằn tri thức văn hoá “.
Đây nữa, “giảo hoạt là sự kết tinh thông minh tài trí
của người Trung quốc, khuyết điểm lớn nhất của nó là đối lập chủ nghĩa lý tưởng
với chủ nghĩa hành động, nó cười giễu mọi cố gắng của nhân loại...”.
Những
kết luận như vậy vượt qua phạm vi một số ý kiến về một dân tộc cụ thể, mà trở thành gợi ý để con người ở các dân tộc
khác cũng phải suy nghĩ khi có nhu cầu tự nhận thức.
***
Ở nước nào cũng vậy, người dân thường cũng
nghĩ đủ điều không hay ho về bản thân mình, có điều nói giăng giăng với nhau ở
ngoài đường để cười giễu mình thì chẳng sao, nhưng thấy ai đó tính chuyện viết
vào sách thì chính họ lại e ngại, cho rằng công khai hoá vậy là “vạch áo cho người xem lưng” hoặc ghê gớm hơn là “hạ nhục dân tộc” và bảo nhau càng ít đả động tới chuyện này
càng tốt.
Rồi đến lượt các nhà cầm quyền cũng hùa thêm vào cấm đoán. Chính là để dân chúng chìm ngập trong không khí tự sùng bái, người ta càng dễ cai trị.
Ngay ở Đài Loan, cuốn Người Trung quốc xấu xí của Bá Dương ban đầu cũng chịu đủ đòn đả kích. Đừng nói là ở Trung quốc đại lục.
Thế nhưng do nhu cầu thúc đẩy xã hội
phồn vinh, rồi các dân tộc đều có trưởng
thành dần trong việc nhìn nhận bản thân.
Tôi không có tài liệu trong tay nhưng
biết rằng ở nhiều nước loại sách
người một nước tự cười mình tự nói ra cái xấu của mình một cách nghiêm túc,
loại đó ngày càng nhiều.
Chẳng những thế,
người ta còn sưu tầm nghiên cứu và cho in ra cả những loại sách đại loại người
Anh dưới con mắt người Pháp, hoặc dân Pháp theo cách nhìn của dân Đức v..v..
Những lời gọi là tự nói xấu ấy chẳng làm ai nản lòng, ngược lại chỉ giúp cho các
dân tộc đẩy tới cái công việc thú vị là khám phá bản thân.
Đi xa hơn người ta
còn khái quát :
-- một dân tộc không thể
nên người nếu không qua giai đoạn tự nhận thức một cách khoa học, khách
quan trong đó có chấp nhận cả đau xót xấu hổ.
-- Trong quá trình tự nhận thức đó, các cấm kỵ sẽ được thu hẹp.
-- Và tự trào là một công cụ hiệu nghiệm.
***
Với Trung Hoa, một dân tộc gần gũi với
chúng ta và xưa vẫn được các cụ ta gọi là đồng văn đồng chủng thì sao ? Người
dân nơi đây thừa lòng tự hào về tài làm người của mình. Đất nước được xem là
trung tâm của thế giới. Xã hội được xây dựng theo hình ảnh của thiên cung. Văn
minh thì được gọi là hoa hạ (
không phải là bông hoa; hoa đây, có nghĩa là đẹp, tinh
túy, lộng lẫy ...).
Nhìn vào sách vở Trung quốc được dịch in
ra tiếng Việt vài chục năm nay lâu nay ta chỉ biết vậy và bảo nhau vậy.
Có biết đâu trong thực tế sách vở bên
ấy từ lâu đã có hướng nghĩ khác và đã
dội sang bên ta.
Khoảng mươi năm nay, báo giấy cũng như
báo mạng ở ta đã trích in Người Trung
quốc xấu xí của Bá Dương, một tác
phẩm mà cũng như truyện chưởng của Kim Dung vốn thuộc mạch suy nghĩ của Đài Bắc
Hồng Kông và chỉ gần đây mới được in ở đại lục.
Chúng ta cũng không nên ngại
nhắc lại cái dẫn chứng đã quá cổ điển là tạp văn Lỗ Tấn với điều kiện bổ sung
thêm: một Lỗ Tấn như vậy chỉ hình thành khi có sự chuẩn bị không khí của cả một
thời đại.
Có một người hoạt động văn học đồng thời với tác giả AQ và còn sống lâu hơn vài chục năm là Lâm Ngữ Đường (1895-1976). Ông này cũng thuộc loại muốn nhìn con người Trung quốc một
cách khách quan, giữa các trang sách hào hứng ca ngợi dân tộc đôi khi ông không quên dừng
lại tự hỏi không hiểu sao đồng bào mình
vốn cao nhã thông minh mà có lúc lại ngớ
ngẩn tầm thường đến kỳ cục.
Khi viết về chất giảo hoạt nói trên, các tác giả
Người Trung quốc tự trào đã phải dẫn
Lâm Ngữ Đường là vì vậy.
Một cuốn sách khác cùng một xu hướng
cũng đã được dịch ra tiếng Việt nhưng bị làm hỏng, đó là Mặt dày tim đen
của Lý Tôn Ngô (1879-1944 ).
Nguyên là trước khi nước Trung Hoa của Mao Trạch
Đông ra đời, xã hội Trung quốc thời Dân quốc đã
đi khá xa trên con đường hiện đại hoá, kể cả trong tư duy.
Nhằm bắt mạch
quốc dân tính, Lý Tôn Ngô khởi xướng cả
một quan niệm mệnh danh là Hậu hắc học, đại ý cho rằng anh hùng hào kiệt
trong lịch sử Trung quốc nói chung không mặt dày thì tim đen. Lý Tôn Ngô có cái
mạnh là ông không dừng lại ở những chi tiết đời sống quanh mình mà hướng cái
nhìn vào lịch sử và ở đây ông cũng không chịu
bất một hạn chế nào, cả những thánh nhân, triết gia, anh hùng cái thế
cũng được ông mang ra khảo xét và đánh giá bằng những tiêu chuẩn nhân bản.
Sở dĩ một cuốn sách như Người Trung quốc
tự trào có thể được biên soạn,
ấy là vì trước đó đã có những nhà nghiên cứu dày công sưu tầm
và mở ra những hướng mới trong suy nghĩ
về quốc dân tính Trung quốc.
***
Chuyện dân tộc tự trào mang ý nghĩa
một bước đổi mới tư duy.
Đứng ở góc độ mỹ học mà xét thì rõ là trong cách nhìn
nhận có sự biến cải về mặt sắc thái.
Vấn đề tính dân tộc xưa nay vốn coi như cấm kỵ, lại được đặt trong màn sương khói thiêng liêng -- tức có tính huyền thoại, nay được đặt trong sự tiếp xúc suồng sã, nên ban đầu thường
khó chấp nhận.
Song nghĩ cho cùng đây là bước đi mọi dân tộc phải trải qua trên
con đường lâu dài là hiện đại hoá và đặt mình trong cộng đồng nhân loại.
Với ý
nghĩa đó, có thể xem công việc các tác giả NTQTT là hết sức cần thiết.
Quá trình khai phá của những Lý Tôn Ngô,
Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường, Bá Dương.... phải tìm được cách thâm nhập vào công chúng rộng rãi thì mới có cơ dựng tạo được những kết quả
chắc chắn.
Đã in Thể thao & văn hóa 2002
Phụ lục
Khi chuẩn bị bài
viết trên để đưa vào blog, tôi có tra lại các tài liệu có liên quan tới cuốn
Người Trung quốc tự trào mà tuy đã viết bài về nó,
nhưng hiện không có dưới tay.
Ở trang mạng Những
câu hỏi tại sao, phần Các dân tộc
trên thế giới
http://hoitaisao.com/cac-dan-toc-tren...
tôi đọc được bài sau đây, xin giới thiệu để các
bạn đọccó quan tâm tới đề tài này cùng tham khảo. Bài ghi rõ Posted
on 03/11/2013 by Nguyen
Oanh
Do chỗ chỉ là sách viết phổ cập, nên nội dung thói hư tật xấu dân Tầu được kể ra dưới đây quá dàn trải và thiếu sự khái quát cần thiết.
Nhưng một cuốn sách tương tự viết về người Việt hiện vẫn chưa có.
-----
Hỏi :
Có phải Trung Quốc đã xuất bản cuốn Người Trung Hoa
xấu xí, nhằm vạch ra để tránh các tật xấu thường gặp ở người Trung Quốc. Cuốn
sách này đã được dịch sang tiếng Việt chưa? Tật bệnh của người Trung Quốc có
giống của người Việt Nam hay không?
Trả lời:
Có quyển Những khuyết điểm của người Trung Quốc, tác giả là Trương Bình Trị
và Dương Cảnh Long, NXB Trung Quốc
xã hội, tái bản lần thứ 3, 1998.
Dịch giả
Dương Quốc Anh đã biên dịch và NXB Văn học xuất bản bằng tiếng Việt năm 2002
với tên sách là Người Trung Quốc
tự trào.
Cuốn
sách được viết theo ý tưởng
của đại văn hào Lỗ Tấn : Vạch ra nguồn gốc của bệnh để rồi trị liệu, cứu chữa.
Các bệnh tật
chính của người Trung Quốc có thể kể ra là:
1.Trên bắt
tay, dưới ngáng chân;
Cam phận
làm con cừu nhỏ để người khác lăng nhục;
Dù có
dài hơn vẫn có thể đi theo đường cong;
Đổi màu
như con kỳ nhông;
Tuyệt đối không được thiếu tiền;
6.Không
nhìn ra phía trước, chỉ nhìn lại phía sau;
Sự
nghiệp chi phối bởi số phận;
Trăm họ
sợ quan;
Chỉ tin
việc mình đã làm;
Tính cách AQ (tự cao, gàn dở, phép thắng lợi tinh thần, lưu manh, quá đề phòng quan hệ
giữa nam và nữ, giận dữ khi bị chạm huý, căm ghét vì không bằng người, cãi chày
cãi cối);
11.Dệt lưới
quan hệ trong quan trường;
Dùng
người do thân cận;
Quan
trường lắm điều thị phi;
Quan
trường dày da mặt;
Làm một
việc phải đóng rất nhiều con dấu;
16.Quyền
gắn với lợi, thoái hoá cả tập thể;
Cuồng
nhiệt theo đuổi ghế quan trường; Ta sống chưa ai vượt ta, ta chết chưa ai thay
ta;
Văn nhân
coi khinh nhau;
Giải sầu
không gì bằng rượu;
Không
giữ gìn tiết tháo; Mua danh, chuốc tiếng;
21.Khoe
giàu sang, phú quý;
Tiêu xài
của công thoải mái;
Tốt xấu nồi cơm vẫn bằng nhau;
Thói
quen lâu dần thành đúng;
.Lã Bất
Vi có ba ngàn thực khách;
26.Áo mũ
thay người;
Ba đời
mặc giống nhau;
Quyết
không bắt chước quần áo;
Không ra thằng, cũng chẳng ra ông;
Thuyết
có thể hở hang chỉ là cái cớ;
31. Ưa nói suông, nói phét;
Lừa
người không phải tội;
Thùng
rỗng kêu to;
Ô nhiễm ngôn ngữ;
Ác khẩu
chết người;
36.Cưỡng
bức hôn nhân;
Mua bán
phụ nữ;
Thê thảm
vợ bé;
Me Tây
bất hạnh;
Hóng mát
dưới cây to buồn tẻ;
41.Tìm vợ
vụ lợi;
Phô
trương hôn lễ;
Hủ tục
làm náo động đêm tân hôn;
Sĩ diện
mà không xấu hổ;
Thích
ngóng chuyện lạ;
46.Ăn cơm
nhà vác tù và hàng tổng;
Thói
quen nhờ vả, lợi dụng;
Chuyện
bé xé ra to;
Đông con
lắm phúc;
Hủ tục
bó chân nhỏ lại;
51.Ham mê
gái trinh;
Một tỷ
người đánh bạc;
Hủ tục
cầu tự, gọi hồn, xem số, lên đồng, mời thầy phù thuỷ chữa bệnh;
Sùng bái chính trị, thiên tử chịu mệnh với
trời;
55. Bói toán
ngu muội, yên phận thủ thường.
Các thói xấu kể trên có giống với dân ta hay không, xin để các bạn tự phán xét
Published on April 08, 2014 01:17
April 5, 2014
Xuân Quỳnh & những vui buồn của kiếp hoa dại
Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu
(XQ-THƠ
TÌNH CHO BẠN TRẺ)
Khi
nghe ca sĩ Thúy Mị hát bài Đợi có lẽ
bạn nghe đài cũng như bạn đọc nói chung nhiều người không để ý rằng trong việc
phổ thơ Vũ Quần Phương, nhạc sĩ Huy Thục đã làm một việc đảo lộn nho nhỏ.
Nguyên văn câu thơ đầu tiên trong bài của Vũ Quần Phương Anh đứng trên cầu đợi em.
Bài thơ nói cái cảnh người đàn ông đợi người đàn bà.
Còn bản nhạc Đợi của Huy Thục thì diễn tả một tình thế ngược lại. Người phụ nữ tới trước và đợi người yêu của mình. Cả
bài ca là tiếng lòng tha thiết của "phái yếu" khi chủ động làm công việc chờ đợi đó.
Người
viết bài này chưa có dịp gặp Huy Thục để hỏi nhạc sĩ tại sao đổi như vậy. Nhưng
khách quan mà xét, thì việc đảo lộn ấy rất hợp với quy luật.
Không
hẹn mà nên, trong ca dao dân ca, trong
chèo, trong truyện cổ tích, khi cần diễn tả tình yêu, các tác giả vô danh và khuyết
danh Việt Nam có thói quen để cho phụ nữ đóng vai trò chủ động.
Họ thường yêu
sâu sắc hơn nam giới.
Họ không ngại mang tiếng yêu trước và sau đó lại chung thủy
đến cùng, kể cả vì thế mà bị lừa lọc phản bội rồi thân tàn ma dại và suốt đời
mang tiếng khờ khạo, nhẹ dạ. Xúy Vân trong vở chèo cùng tên đã đứng cao hơn Trần
Phương, như Kiều có chút gì đó hết mình hơn, người hơn, mà lại trong sạch hơn,
bên cạnh Kim Trọng.
Sang thời hiện đại, một Tố Tâm “ bít khăn tua đen”,“đầu ngôi rẽ giữa" " tóc vuốt sáp”, cũng là nhiều lần cao đẹp hơn trong
tình yêu, so với nhân vật xưng tôi trong thiên truyện của Hoàng Ngọc Phách.
Tố
Tâm vừa say đắm hơn, vừa rộng lượng hơn bên người học trò Đạm Thủy một mực tuân
thủ lể giáo, lúc nào cũng ra vẻ long trọng song thực ra lại nhút nhát.
Chẳng
trách ngày nào Hồ Xuân Hương đã tai quái ném ra hình ảnh bố cu lổm ngổm bò trên
bụng.
Đằng sau cái tư thế cụ thể tức cười, câu thơ phát ra một điều khái quát,
nó là một sự thật càng sống càng thấy đúng: đó là vẻ cao quý của một người phụ
nữ Việt Nam, cao quý ngay trong sự chủ động chờ đợi mà Huy Thục hôm nay chạm tới.
Không
biết có nên gọi là truyền thống không, nhưng đấy thật là nét lạ của người phụ nữ Việt Nam và hôm nay cũng được các thế hệ phụ
nữ ta chứng minh. Một trong những trường hợp đó là nhà thơ Xuân Quỳnh.
NIỀM KHAO KHÁT KHÔN NGUÔI
Cũng
như các diễn viên ca, múa và những chị em làm nghệ thuật khác, một phụ nữ làm
thơ viết truyện ở nước ta dễ chuốc lấy nhiều
thành kiến không đâu.
Ngoài việc có hai đời chồng, ở Xuân Quỳnh lại còn kèm thêm
những vụ tai tiếng trong tình yêu mà trong giới gần như không ai không biết.
Nên chi có nhiều người bỡ ngỡ không tin khi nghe nói Xuân Quỳnh là một con người
hết sức tha thiết với hạnh phúc gia đình.
Nhưng sự thật là vậy.
Lớn lên trong cảnh
mồ côi mẹ (Em đánh chắt chơi chuyền từ
nhỏ - Hái rau dền rau rệu nấu canh – Tập
vá may tết tóc một mình – Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ), suốt đời người
con gái này khao khát một nơi nương tựa, tức một gia đình hạnh phúc.
Không bao
giờ chị yêu một cách đùa cợt. Yêu ai là tính chuyện sống hẳn với người đó.
Với
bàn tay thô vụng, bàn tay“mó tới đâu
là đổ vỡ” bàn tay “khi nói chuyện với ai,…thấy tay thừa không
biết giấu vào đâu”, chị chăm chỉ lo việc nhà và không thể làm gì, kể cả đọc
sách làm thơ, nếu chưa lo được cho chồng con bữa ăn ngon, bộ quần áo sạch.
Vốn
có nhiều kinh nghiệm về quyền lực của nhan sắc, nhưng nhân nói về thơ, có lần nhà thơ vẫn cả quyết: “Thơ đối với cuộc sống ví như một người con gái đối với gia đình.
Cái để cho người ta làm quen với nhau là nhan sắc, nhưng để sống với nhau lâu
dài lại là đức hạnh”.
Cùng với tuổi tác,
mỗi ngày Xuân Quỳnh mỗi thấy cái đức hạnh ấy là lẽ sống của mình.
Tiếp nối những
bài thơ khao khát tình yêu lúc trẻ, các bài làm mấy năm cuối đời thường đầm ấm một tình yêu gia đình, yêu chồng, yêu
con. Nhiều bài thơ thiết tha như lời tự nhủ rằng có lẽ trong hoàn cảnh nước
mình, được như thế này có thể gọi là hạnh phúc.
Tuy mỗi thời cái hạnh phúc ấy
có một khuôn mặt riêng, song bao giờ con người ấy cũng run rẩy khi được biết mình đang
được có nó, đang được sống với nó.
Và càng mong manh dễ vỡ, với Xuân Quỳnh, nó lại càng
đáng quý.
LẦM LẪN NHƯNG KHÔNG MAN TRÁ
Có
một mô-típ thơ thường hay trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh là cỏ hoang, hoa dại, với tất cả những cay đắng thua thiệt mà loài hoa này phải chịu. Trong bài Hoa dại núi Hoàng Liên, chị viết:
Anh
đừng hỏi em tên hoa làm chi nữa
Những hoa này chỉ hoa dại mà
thôi
Không phải hoa được ở cùng người
Đươc chăm sóc trong mảnh vườn sạch cỏ
Đươc khoe đến muôn màu sắc lạ
Và được đời chiêm ngưỡng mùi hương
Không phải hoa được cắm trên bàn
Trong ngày hội của những niềm vui mới
Những hoa này lại nở cho triền núi
Lại nở cho vẻ đẹp của rừng chung
Nên ít ai để ý sắc từng bông
Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ
Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ
Có thể chỉ là trong tiềm thức, nhưng hình như nhà
thơ thầm cảm thấy hoa hèn, cỏ dại là ứng với mình, thân phận mình. Tại sao?
Không phải cứ khao khát là người ta đã có được hạnh phúc.
Cũng như phần lớn
chúng ta, trên đường truy tìm hạnh phúc, không biết bao lần trong cuộc đời, con
người thông minh và cực kỳ nhạy cảm này đã lầm lẫn, đã là nạn nhân của những ảo
tưởng về mình và về người.
Cái khỏe của Xuân Quỳnh là đã vượt qua được những
đau khổ để tiếp tục sống. Nhưng tận đáy lòng nhà thơ vẫn thấy có chút gì đó
xót xa tội nghiệp cho mình: giá có ai bảo mình, giá mình biết sống hơn…
Trong
hình ảnh hoa dại, nhà thơ không chỉ tìm thấy niềm an ủi, ở đó còn bao hàm cả lời
thú nhận về sự bất lực của bản thân, cả nỗi hờn tủi oán trách.
Có một điều cũng phải nói ngay là mặc dù qua nhiều lần
lầm lẫn, nhưng Xuân Quỳnh thường có cách ứng xử khác hẳn những kẻ tầm thường: con người này không man trá.
Khi nhận ra lầm lẩn, chị sẵn sàng làm lại tất cả. Chị ghê sợ
những gì giả tạo.
Ở đây không chỉ có sự thành thực mà còn có một chút gì như sự
sòng phẳng.
Cái thành thực trước khi cần cho mọi người, đã là cần cho chính người trong cuộc.
Trong khi
làm khổ Xuân Quỳnh không biết bao nhiêu mà kể, sự thành thực này tựu trung chỉ
cứu chị, giúp ích chị trong một việc: làm thơ.
Càng đau khổ càng muốn tìm đến
thơ để tự giải thoát.
Tự trong thâm tâm chị hiểu rằng nếu cuộc sống là cái gì
quan trọng nhất với mình thì thơ lại là cách duy nhất để mang lại cho cuộc sống
đó là một hình thức bất tử.
BỊ
TÌNH YÊU HÀNH HẠ
Sinh thời, khi trò chuyện với bạn bè, Xuân Quỳnh
thích nhắc lại câu nói của L.Tolstoi, đại ý cho rằng người ta sẽ có sức mạnh vô
cùng vô tận nếu có tình yêu.
Tình yêu làm nên tất cả.
Nếu có một thứ tôn giáo
tình yêu thì chị là một trong những tính đồ ngoan đạo nhất. Tình yêu quả thật
đã giải phóng ở chị có những sức lực không ngờ trong cuộc sống, làm việc và gây
dựng gia đình.
Và chị tưởng rằng với tình yêu, mình có thể làm được tất cả, -- biến
kẻ xấu thành người tốt, người đàn ông ích kỷ thành người chồng hết lòng với vợ
con.
Thậm chí tình yêu vượt luôn được khoảng cách xa về thời gian tuổi tác để
đưa bất kỳ lứa đôi nào trở thành những cặp vợ chồng mẫu mực.
Chỉ cần có một chút kinh nghiệm thôi, người ta sẽ nhận
ra rằng niềm tin ấy của Xuân Quỳnh là ảo tưởng. Là yếu tố thiết yếu để tạo nên
hạnh phúc nhưng tự nó, tình yêu chưa phải là hạnh phúc.
Vả chăng, nói gì thì
nói, sức mạnh của tình yêu chỉ có giới hạn, nhất là khi nó chưa phải là sự hòa
hợp của hai tâm hồn mà mới là tình yêu một phía của người đàn bà với người đàn
ông.
Giá có dịp đứng ngoài mà nhìn, Xuân Quỳnh sẽ công bằng
mà nhận ra rằng trong khi chỉ mang lại một ích niềm vui, thì ảo tưởng kia đã là
nguồn gốc gây nên mọi bất hạnh nơi chị.
Đồng thời với việc bòn rút tâm lực, nó
còn làm biến dạng cả chính chị nữa.
Con người rất sợ cái gì đó dối trá giả tạo,
có lúc phải đóng vai hạnh phúc.
Trót kêu căng tin vào sức mạnh của chính mình, chị
không còn dám chia sẻ về nỗi đau khổ với bất cứ ai.
Cái giá phải trả quả thật quá lớn!
Nhưng nếu được cãi lại, thì Xuân Quỳnh không ngần ngại
mà nói rằng: “Với tôi, niềm tin ấy chính là số phận”.
Khi đã thành lời nguyền, dù nặng nề biết bao nhiêu,
chị vẫn tự nguyện mang nó.
Và như sau này ta thấy, chị đã mang nó cho tới lúc
chết. Hình ảnh cả đời Xuân Quỳnh rút lại là một hình ảnh con người sồng bằng tình yêu, làm thơ nhờ
tình yêu, sung sướng vô cùng trong tình yêu và cũng bị tình yêu hành hạ đến
cùng cực.
…Tôi có một tình yêu rất sâu
Rất dữ dội nhưng không bao giờ yêu
được hết
Ở các cô, các cô âm thầm chịu đựng
Cho đến ngày tình yêu ấy tắt đi
Còn ở tôi, tôi mang nó nặng nề
Muốn nguôi quên, nó lại ngày càng lớn
Luôn xáo động tôi không sao ngủ được
Không làm sao có thể ngồi nguyên
…
Ôi con trai thật là kỳ lạ
Tôi yêu tất cả mọi người mà chẳng
yêu được riêng ai
Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được
một người
Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi
nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng
Những câu thơ ấy là lời thú nhận của Xuân Quỳnh
nhưng cũng là thú nhận của bao thế hệ phụ nữ từ Xúy Vân, Kiều, Tố Tâm đến cô
gái trong bài hát Đợi, cô gái trong
bài hát Sợi nhớ sợi thương (“nghiêng
sườn đông mà che cho anh -" "… mà em nghiêng hết ấy về phương anh”).
Chỉ những người
phụ nữ say đắm, tự tin, những người hồn nhiên nhận lấy sự ràng buộc của số phận
mới có cách cư xử như vậy.
Trong khi
thông cảm với những đau đớn đến xé ruột xé lòng họ từng phải gánh chịu, đồng thời
chúng ta cũng hiểu rằng trước tiên họ đáng kính trọng.
Đã
in Những kiếp hoa dại 1993
Published on April 05, 2014 07:27
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
