Vương Trí Nhàn's Blog, page 76
February 22, 2014
Một nước Nhật quá xa xôi!
Cộng với những hiểu biết vốn có từ trước
năm ngày du lịch bụi ngắn ngủi,
đủ để tôi cảm thấy xã hội Nhật, người Nhật
là cả một hình ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt
8 - 6 -2013
Xuất phát từ Hà Nội, sau một chuyến bay đêm hơn bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi bắt đầu một ngày mới trên chiếc xe từ sân bay Narita về Tokyo. Không khí dịu mát như một ngày cuối thu đầu đông ở đồng bằng sông Hồng, song cái lạnh ở đây lại có khí vị vùng biển bắc, cái cảm giác mà tôi cảm nhận khi đến Leningrad vào năm 1988.
Nhìn chung quanh, thấy khung cảnh thoáng rộng sạch sẽ, cây cối đạm bạc. Ghé lại một trạm bên đường để xe mua xăng, bắt gặp không khí của nước Nhật bình thường, người nào người nấy chăm chú vào công việc.
Có cái lạ là, khi đến Tokyo, tôi cũng lại gặp một khung cảnh vắng lặng như vậy. Không những trên đường người đi bộ thưa thớt mà cả ô tô đi lại cũng ít. Trong khi đó, lại biết rằng Tokyo có đến 20 triệu dân và hàng ngày có đến 40 triệu người lai vãng. Nơi tôi tới chỉ là ngoại ô chăng? Thành phố chính ở đâu? Như đã đoán được thắc mắc của tôi, người hướng dẫn du lịch sớm giải thích, đây chỉ là phần trên mặt đất, còn trong lòng đất có đến bốn thành phố nữa. Ở đó cũng có giao thông, xe điện ngầm, những phố buôn bán; ở đó mặc dù rất đông, nhưng rất trật tự.
Ngày đầu xa lạ
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến tham quan là phía ngoài hoàng cung Nhật. Cũng như mọi người dân nội địa, chúng tôi không được vào tham cung điện chính của hoàng gia, chỉ được đứng và quan sát từ xa và nghe người giới thiệu kể chuyện lại về một cuộc sống rất khổ hạnh của những người sống trong cung điện đó.
Người Nhật quen chấp nhận tình trạng cách ly này bởi họ hiểu những người sống trong hoàng cung phải nhận vai hình mẫu của nước Nhật, có nghĩa phải chịu rất nhiều áp lực. Có những người con gái trong đó cảm thấy thật nhẹ nhõm nếu lấy được người chồng dân thường, ra khỏi hoàng cung, để được sống như mọi người bình thường.
Buổi chiều chúng tôi đến thăm ngôi nhà của Tòa thị chính, ở đây có tháp truyền hình cũ, từ đó có thể nhìn ra cả Tokyo.
Có điều mất vui là ngay trong buổi chiều đầu tiên này, đoàn du lịch chúng tôi đã có một người bỏ trốn. Khi cả đoàn lên tháp rồi lần lượt xuống dần thì anh ta lẩn mất. Sau mới biết, từ Hà Nội anh ta đã chuẩn bị để làm việc này. Cái ba lô còn lại trên xe ô tô của anh nhẹ tênh. Theo sự giải thích của người hướng dẫn, có lẽ đây là một người Việt được bố trí sang Nhật để trộm cắp thuê. Dân Việt có hộ chiếu bên đó, khi phát hiện ăn cắp thì sẽ bị trục xuất khỏi nước Nhật. Nên họ phải thuê những người trong nước sang làm chân rết. Người này có bị tống về thì cũng không mất đầu mối.
Trong lúc vẩn vơ chờ làm các thủ tục, khoảng hơn một tiếng đồng hồ, tôi nhìn quanh khu Tòa thị chính, thấy một không khí vắng vẻ. Nhớ nhất là hình ảnh một cô gái dắt hai con chó đi đường. Cô chăm sóc chúng hết sức cẩn thận. Khi chúng đói lấy thức ăn và theo dõi chúng ăn, bình thản chờ đợi như bà mẹ đang đi chơi với những đứa con thân yêu của mình.
Tâm thế mới của phụ nữ Nhật
Để giải tỏa nỗi chán chường của bọn tôi, người hướng dẫn giới thiệu một tình thế của người dân Nhật mà trước kia chúng tôi không thể tưởng tượng nổi.
Anh cho biết , hiện nay ở nước Nhật có đến 62% người sống độc thân. Nếu nhìn trên đường, chúng ta luôn thấy những người đàn ông chăm chú nhìn về phía trước. Họ buồn, như là một thứ nhân vật phụ của cuộc đời. Còn chính phụ nữ mới là những người đầy sức sống và thách thức.
Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật --từ nhỏ, đã được nghe câu nói ghi nhận sự tận tụy của người phụ nữ Nhật với gia đình.
Sau chiến tranh, khi nước Nhật bắt tay khôi phục kinh tế, người đàn ông tập trung vào công việc của mình và ít khi về nhà trước 7h tối. Mọi việc liên quan tới gia đình và con cái đặt cả lên vai vào người đàn bà. Họ tự nguyện làm như thế cả đời. Hôm nay đây tôi còn chứng kiến cảnh một đôi ông bà già trên đường; khi tới chỗ nghỉ, người phụ nữ rút chiếc khăn mù xoa trong túi ra mời chồng mình ngồi. Nay mẫu phụ nữ loại đó chỉ còn thưa thớt.
Bề ngoài người phụ nữ Nhật không tự biểu hiện lộ liễu như người Việt. Màu sắc phần lớn trang phục là màu trắng, màu xám và màu đen. Như đang tự giấu mình đi. Không ai tô son, trát phấn… Nhưng cuộc sống bên trong thì, theo anh hướng dẫn viên, thực sự nồng nhiệt. Khoảng mươi, mười lăm năm gần đây, phụ nữ Nhật nổi loạn, nhiều người không lấy chồng vì không thích phụ thuộc vào gia đình chồng và rất tự lập trong đời sống riêng tư.
Ở Nhật, đời sống tình dục được coi bình thường như cơm ăn nước uống và phụ nữ có phố đèn đỏ của mình. Ở đó, đối tác của họ là những thanh niên mới lớn và lấy việc thỏa mãn nhu cầu phụ nữ làm nghề phụ. Người ta có cách giữ bí mật cho cả hai bên.
Trong túi đàn bà, từ em thanh nữ mới lớn đến đám sồn sồn tuổi trung niên luôn có ca-pốt. Và họ chủ động tìm tới những đối tượng để có thể thỏa mãn những khát khao bất chợt nhưng chính đáng. Trong các món quà, chính phụ nữ là màu nóng, còn nam giới được tượng trưng bởi màu lạnh.
9 – 6
Niềm vui với những công việc bình thường
và tính tự lập được rèn từ nhỏ
Buổi sáng chủ nhật, bọn tôi đến khi vui chơi Disney Land nổi tiếng. Ấn tượng lớn nhất, vẫn là những người phụ nữ làm công việc như hướng dẫn người đi tham quan và bảo vệ trật tự chung quanh đó. Những công việc có vẻ tẻ nhạt như thế được người Nhật làm với tất cả niềm vui và sự háo hức khiến người Việt chúng ta gần như không thể hiểu nổi. Đứng bên cạnh những đoàn xe lửa làm theo lối cổ, các nhân viênphục vụ không những ân cần giúp đỡ cho người lên xe, mà còn tình cảm vẫy chào khách lên đường, rồi lại hào hứng đón khách xuống khi hết vòng quay.
Người hướng dẫn du lịch giải thích thêm với chúng tôi, người Nhật rất nghiêm túc trong việc công. Tất cả công chức đi làm đều mặc Âu phục. Với họ, làm công chức không phải chỉ để kiếm tiền mà để phục vụ xã hội, việc làm hợp đạo nghĩa làm người.
Một ấn tượng khác, là trẻ con trên nước Nhật rất ngoan và quen tự lập. Trên đường mỗi trẻ có túi thức ăn riêng, tự lấy thức ăn khi muốn. Thông thường các em đi theo người lớn rất đàng hoàng. Một ngày ở công viên không nghe tiếng khóc nào của bọn trẻ.
Người Nhật có tinh thần tự trọng cao độ. Trong hoàn cảnh nghèo khó, ít khi chấp nhận sự giúp đỡ của người khác mà làm được cái gì thì hưởng cái đó. Điều đó được rèn từ nhỏ. Ở trường nuôi dạy trẻ, từ lúc biết bò, đứa trẻ đã phải tự bò đến bàn thức ăn để lấy thức ăn. Ở lớp lớn hơn, đứa trẻ tự gấp lấy quần áo và lo giữ vệ sinh.
Từ chuyện giao thông tới chuyện pháp luật
Đã hơn chục lần đi theo các đoàn du lịch nước ngoài, tôi thấy trên xe thường người Việt Nam chỉ hay pha trò đùa bỡn, trêu chọc nhau, bàn chuyện ăn uống, nói tục. Đa số người mình đi du lịch để làm dáng, để tiêu tiền, không mấy ai tính chuyện đi để hiểu biết về xứ sở mà mình đặt chân tới. Những người hướng dẫn du lịch Trung quốc chẳng hạn, rất hiểu cái sự tầm thường đó. Trên xe, thể theo yêu cầu của người mình, họ nói những chuyện trong thâm cung bí sử, nhưng toàn thứ vụn vặt gây tò mò. Nói chung trình độ những người hướng dẫn cho các đoàn VN ở các nước gần ta rất thấp. Người có chí chắc đi học tiếng Anh tiếng Đức chứ chả ai chịu học tiếng Việt làm việc với các đoàn Việt.
May mắn lần này chúng tôi gặp người hướng dẫn khác hẳn. Anh cũng là người Việt. Sang Nhật học, sau đó nhập quốc tịch Nhật và đưa cả vợ con sang đó. Trong những lúc rỗi trên xe, anh Đức (tôi không biết họ, chỉ nhớ tên) giới thiệu với chúng tôi rất nhiều về đặc sắc của nước Nhật, và điều đó rất cần thiết với những người từ Việt Nam tới.
Ví dụ có lần anh nói về chuyện giao thông trên đường.
Chúng ta biết rằng người Nhật đi lại rất từ tốn và người ta nhường đường nhau khi có việc cần tranh chấp. Trong câu chuyện của mình, anh Đức có lưu ý thêm một điều. Luật pháp được soạn thảo rất tỉ mỉ và nói cho cùng là rất nhân bản. Một mặt nhà nước bố trí cảnh sát theo dõi tốc độ của xe trên đường, nhưng một mặt họ cho phép các nhà sản xuất cung cấp cho lái xe các thiết bị cần thiết để biết được chỗ nào có công an, cảnh sát đứng bắn tốc độ, để tự động điều chỉnh lại. Tức là họ muốn bảo vệ quyền được đi nhanh hơn của xe cộ trong hoàn cảnh cho phép.
Sự áp đặt luật pháp của những người cầm quyền ở đây cũng là rất mềm dẻo.
Khi có người lái xe phạm lỗi, cảnh sát, từ lúc yêu cầu giữ lại đến lúc lên xe để đặt vấn đề phạt, đều có thái độ lịch sự tôn trọng đối tác, tìm cách thân thiện bàn bạc, chứ không phải một chiều hạch sách muốn bắt người ta thế nào cũng được. Khi không thống nhất được với nhau, họ để dành quyền phán xét cho tòa án,-- cố nhiên đó không phải loại tòa án bao giờ cũng nhăm nhăm bênh cảnh sát như người nước mình. Danh tính của những người bị phạt không bao giờ bị làm lộ.
Tôi cho đó mới là sự tôn trọng, sự khuyến khích người dân sống và làm theo luật pháp một cách hữu hiệu.
Pháp luật -- một bên nặng về răn đe
trừng trị và một bên biết “cận nhân tình”
Có lần đọc cuốn Đông Á – Đông Nam Á - Những vấn đề lịch sử và hiện tại (nx b Thế giới , 2004), thấy ông Vũ Minh Giang (Đại học Quốc gia Hà Nội) nói tới những điểm tương đồng trong tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có nhấn mạnh cả hai bên đều chú trọng pháp luật (sách trên tr. 62).
Hôm nay nhớ đến đoạn này bỗng thấy phì cười. Vì sự thật trong khi ở nước người, chính quyền hết sức tôn trọng và đặt mình vào trong pháp luật thì ở mình, pháp luật được soạn ra để áp dụng với dân, chứ nhân viên công quyền đều hiểu ngầm rằng mình là người đứng ngoài. Mà người dân cũng vậy, thấy pháp luật là chuyện phiền phức, song mặc nhiên chấp nhận, lại còn tìm thấy niềm vui trong việc làm ngược pháp luật. Trừng phạt răn đe nặng nề đến độ dã man được xem như một sự cần thiết.
Để hiểu tính mềm dẻo mà chặt chẽ của pháp luật ở Nhật Bản, hãy trở lại câu chuyện về nhu cầu phụ nữ, phố đèn đỏ, mua dâm và bán dâm. Một mặt theo phong tục tập quán cổ, luật nước Nhật cấm tất cả sự tiếp xúc nam nữ ở dạng trần trụi. Thế nhưng đồng thời họ vẫn thấy con người Nhật Bản đã thay đổi, nên các nghị sĩ khi làm luật đã nghĩ ra cách để bảo vệ sự tiếp xúc này, không để dân bị ràng buộc vào luật một cách máy móc. Ví dụ như họ sẽ phạt nếu một trong hai bên không có vật lạ trong người khi tiếp xúc. Mà vật lạ này hiểu theo nghĩa rất rộng, nếu phụ nữ có một vòng đeo tay hoặc người đàn ông có một cái răng giả thì tức là đã không phạm luật. Thế thì còn phạt được ai nữa? Những điều này, theo tôi rất nhân đạo. Còn thuần túy truy bức như ở ta là bất cận nhân tình và sẽ sinh ra gian dối.
Các cửa hàng đồ cũ và thói quen cộng tác trong mọi việc
Nhân khi vào cửa hàng đồ cũ, anh Đức giới thiệu cho chúng tôi biết ở Nhật, loại hàng này có cả một hệ thống phân phối. Những năm 70 – 80 người dân bình thường có thói quen thải loại đồ cũ ra theo hình thức rác và người Việt Nam sang nhặt mang những đồ cũ đó đem về trong nước. Nay họ có ý thức thu gom và phân phối lại. Nhân đây, anh Đức kể về việc tổ chức làm ăn ở xứ này. Là khi có một công việc hợp lí thì nó cũng được phổ biến khắp nước Nhật. Những người cùng ý tưởng tự tổ chức thành những công ty, không có người nào đứng ngoài công ty đó mà có thể cạnh tranh với họ được. Người Việt mình dành được miếng mồi thì ăn lẻ, không ai cộng tác được với nhau, mà chỉ dìm dập nhau, phá nhau. Ở Nhật, nếu một người có sáng kiến chung thì sẽ đưa ra để phục vụ lợi ích chung.
10 – 6
Chung quanh núi Phú Sĩ
Tối hôm qua, ngủ đêm tại khách sạn thuộc khu Hà Khẩu Hồ (tôi đọc theo âm Hán Việt) thuộc khu vực núi Phú Sỹ, chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào gia đình người Nhật. Ăn một bữa cơm theo kiểu gia đình người Nhật vẫn ăn. Xong, được bố trí đến khu vực tắm. Nam chung một bên, nữ một bên, nhưng đã xuống tắm phải bỏ hết quần áo. Đêm, được bố trí ngủ lại căn phòng như của người Nhật. Việc xâm nhập sâu vào phong tục ăn ở như thế trong những lần đi các chuyến khác, bọn tôi không có dịp thực hiện.
Sáng dậy, đi quanh hồ, tôi chợt nhận ra rằng nhà cửa ở đây cũng nhô ra thụt vào mà không có lớp lang trật tự như mạn Giang Nam bên Trung Quốc. Vườn hoa ở các gia đình hay các công sở không nổi bật lên vẻ rực rỡ mà trông hơi có vẻ khổ hạnh và chỉ gợi chú ý bởi lùm cây hoặc một tảng đá nào đấy. Tất cả khu vườn quy tụ chung quanh vào vật trung tâm đó. Ngoài ra cây cỏ trong vườn thì kém, cỏ mọc rườm rà, thiếu một sự xử lý công phu. Các công viên chỉ lo tạo ra sự kì bí mà tảng đá có vai trò vật chủ và mối liên hệ giữa đá và cây là nhân tố chính gợi nên một vẻ đẹp.
Ngồi xe lên núi. Các tài liệu du lịch đều nói rằng Phú Sĩ là biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Trước khi lên đến trạm 5 ở độ cao 2000m, chúng tôi phải vượt qua hàng chục cây số rừng. Nhưng khi đến nơi, ngôi miếu trên trạm 5 đó khá đơn sơ. Nói chung, chùa chiền của Nhật không hào nhoáng, lộng lẫy như đền chùa của Trung Quốc. Thu hút du khách nhất là việc đứng ở đấy chiêm ngưỡng cả ngọn núi trong tuyết phủ.
Đối với người Nhật, núi Phú Sỹ là biểu tượng cao nhất của sự thiêng liêng. Người ta theo dõi để không ai có thể lấy đi hòn đất nào chung quanh núi. Đã có những khách nước ngoài đến, định lấy những hòn đất đi và đều bị phát hiện.
Chung quanh núi là khu vực huyền bí, người ta nói có những người Nhật đã đến đây để sống những ngày cuối đời, tức là tự tử ngay trong khu rừng trùng điệp mà mãi về sau người ta mới phát hiện ra. Số người này đang tăng hàng năm.
Ấn tượng sau nửa ngày ròng ngồi ô tô
Từ giã Phú Sỹ, bọn tôi tới Owakudani, nơi có vết tích của miệng núi lửa phun trào cách cây 3000 năm. Sau đó, là chặng đường dài tới Nakoné và Nagoda.
Trước lúc qua Nhật, một người quen cũ đã nói rằng, do du lịch bụi, chắc là bọn tôi không có điều kiện để sử dụng những phương tiện hiện đại nhất như tàu cao tốc và phải di chuyển từ địa điểm nọ đến địa điểm kia bằng ô tô. Ông nói điều đó với sự ái ngại vì ở Nhật số người di chuyển bằng ô tô rất ít. Nhưng đối với tôi, cảm tưởng là được ngồi ô tô đi trên những con đường nhựa nhẵn bóng và hiện đại của nước Nhật cũng đã sung sướng lắm. Nữa là, sau một buổi chiều như thế, lại có may mắn gần như được nhìn gần vào một nước Nhật và hiểu thêm điều người ta hay nói “Xứ này nghèo về tài nguyên và chỉ có một thiên nhiên khắc khổ, nhưng đã chinh phục được thiên nhiên khắc khổ đó để trở thành một xứ giàu có.”
Nhìn một hai ngôi nhà lắt lẻo giữa một triền núi xa, tôi hỏi Đức họ sống ra sao thì được trả lời:
-- Một gia đình Nhật định cư ở đâu thì chính phủ Nhật có trách nhiệm làm đường tới đó, bảo đảm hàng hóa lưu thông tới đó để họ có thể sống bình đẳng với mọi người.
Có một chuyện mà ở nhà tôi đã biết nhưng chưa thấy hết ý nghĩa của nó, đó là việc người Nhật không khai thác tất cả những rừng cây và vùng mỏ cũng khá giàu có của mình. Tất cả những đồ gỗ ở đây đều nhập từ nguồn lâm sản nước ngoài, cũng như các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp của họ. Đối chiếu với cách nghĩ Việt Nam, kể ra đây cũng là một sự lạ. Và lạ hơn hết là người Việt chúng ta còn cho chuyện tàn phá tài sản thiên nhiên là chuyện thường, không bán hết đi thì lấy gì mà ăn.
Nông thôn đô thị chung một mặt bằng
Lúc này trước mắt du khách không còn là một nước Nhật của các cao ốc và các khu đô thị tráng lệ. Vùng đất nằm rải rác giữa núi non và bãi biển không có gì là hấp dẫn và mĩ lệ như các vùng biển của Việt Nam mình. Nhưng ở bất cứ nơi nào có điều kiện thì người nông dân Nhật vẫn cần cù sản xuất. Cảm giác còn lại trong tôi là một nước Nhật giống như một mặt bằng, giữa nông thôn và thành thị gần như không có sự chênh lệch. Nay, là thời, theo Đức kể, người nông dân Nhật làm ruộng bằng cách đi thuê các xí nghiệp nông nghiệp làm cho họ. Và đã có các hãng lớn chuyên làm nông nghiệp phụ trách giúp họ từ việc chọn giống, cày bừa đến bón phân và thu hoạch. Người nông dân chỉ việc ở nhà dùng tiền của mình đầu tư chứng khoán.
Người Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.
Đặt người Việt bên cạnh người Nhật
Cũng nhân thời gian rỗi trên đường xa, Đức kể với tôi về chuyện những người Việt Nam ở Nhật. Đức cho biết thật ra sau 4-1975, số người Việt sang Nhật không phải là ít, nhưng số có thể trụ lại được ở Nhật thì không nhiều và phần lớn là họ phải bỏ qua bên Úc hoặc bên Mĩ làm ăn. Việc du nhập vào cộng đồng Nhật, đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt mà người Việt không quen, chưa kể tiếng Nhật với nhiều người là khó học.
Chưa quen là như thế nào? Dù là mới tiếp xúc với người Nhật và văn hóa Nhật một cách đơn sơ, tôi vẫn có cảm tưởng người Nhật với người Việt Nam như hai đối cực, người nọ là thế giới đảo ngược của người kia.
Người Nhật có tinh thần gắn bó với xã hội, cấu kết với cộng đồng còn người Việt khôn lỏi, chạy vặt.
Người Việt thích phô trương còn người Nhật giấu mình sau vẻ ngoài bình lặng.
Người Việt ồn ào, lắm chuyện coi nơi công cộng là chỗ tự do buông thả còn người Nhật sợ nhất làm phiền người khác cũng như là bị làm phiền.
Bữa qua Miến Điện, tôi nhận ra một điều là không hiểu sao người bên đó có vẻ ít nói, trên đường không có cảnh vừa đi vừa cầm điện thoại tán chuyện. Có thể người Miến Điện không có tiền mua các loại máy mới? Nhưng Nhật là một nước giàu có. Sao dân họ vẫn không có thói nói lắm nói nhiều và xả ra cả khối lượng rác âm thanh ngập ngụa trên mọi ngả đường? Chợt nghĩ chính sự nói lắm nói nhiều nói một cách ba vạ đã giết chết sự suy nghĩ của người mình. Nó làm cho chúng ta thành một xã hội câm nín trước các vấn đề rất lớn đang phải đối mặt.
Xuất khẩu lưu manh
Hôm nay có đến hơn một giờ đồng hồ liền, anh Đức toàn kể chuyện người Việt sau 4-1975 tràn sang Nhật làm những việc gian dối như cờ bạc trộm cắp ra sao, cảnh sát Nhật đã từng bước đấu trí với người Việt để vô hiệu hóa các đồng bào lưu manh của chúng ta thế nào.
Chuyện đấu trí ấy tôi định ghi mà không sao theo dõi nổi. Chỉ nhớ nhất một chi tiết. Có nhiều người Việt sau khi kiếm bẫm bằng con đường bất chính trở về nước,liền lấy cái vốn thu được từ nước ngoài về làm vốn kinh doanh và trở thành đại gia.
Từ việc này nẩy ra hai ý nghĩ bổ sung:
1/ Ở các xã hội lành mạnh thì đám nhà giàu là những người con ưu tú của dân tộc họ. Ở một xã hội cách mạng đang biến chất như ở ta, nhất là ở căn cứ miền bắc ”xã hội chủ nghĩa” thì ngược lại, đám nhà giàu phần lớn là đám lưu manh phất lên trong chiến tranh. Với những đồng tiền kiếm được bằng các thủ đoạn xấu xa, khi trở về nước làm kinh tế, họ có góp phần thúc đẩy sự làm ăn và vì thế cả người dân lẫn chính quyền hoan nghênh họ. Nhưng lùi xa mà nhìn thì thấy đóng góp của những người này không thấm là bao so với sự phá hoại những nguyên tắc đạo đức, tức những tác hại lâu dài, mà họ mang lại.
2/ Ngoài số đại gia trên, hiện còn không ít người Việt, đang sống vất va vất vưởng theo kiểu ăn cắp vặt, buôn lậu, làm thuê làm mướn ở xứ người. Nhớ hồi chống Mỹ bộ máy tuyên truyền của ông Tố Hữu cứ nhét vào đầu mọi người dân cái ý nghĩ Ta chiến đấu thế này không phải chỉ vì ta. Ta đang chiến đấu cho cả thế giới. Ta đang trở thành lương tâm nhân loại… . Kỳ cục quái gở thế mà ai cũng thích. Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều người Việt sau 4-75 ra nước ngoài, tự cho mình làm tất cả những việc xấu xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.
11 – 6
Thăm các di tích lịch sử
Tham quan chùa Thanh Thủy. Ấn tượng nhất không phải là ngôi chùa, mà là cách dựng công trình tôn giáo này. Cách mà nó bám vào chân hòn núi đá. Cũng lại là một biểu tượng của tinh thần bám trụ của con người vào một thiên nhiên khắc nghiệt.
Buổi chiều tới ngôi Chùa Vàng. Đọc chữ Hán, thấy chính ra chùa này phải gọi là Kim Các tự mới đúng. Tôi thích cả không gian chung quanh chùa và cách mà người ta tạo ra ấn tượng đối với người đi tham quan.
Có một điều mà tôi thấy tin là những chi tiết mà người ta trình bày về ngôi chùa, cái giá trị cổ kính của nó. Các di tích ở Việt Nam thường có những bảng giới thiệu rất luộm thuộm, nhiều lúc có cảm tưởng do những người không hiểu biết viết ra.
(Còn nhớ là lần vào Văn miếu gần đây, khi mà đọc tiểu sử Khổng Tử thấy người ta viết là Đức Thánh Khổng "có đến bốn tác phẩm gọi là Tứ Thư". Điều này sai vì bốn tác phẩm đó có tên là Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Sao lại nói cuốn Mạnh Tử do Khổng Tử viết được?)
Một niềm tin khác, khi đến thăm các công trình kiến trúc cổ, là cảm thấy chắc chắn nó giống như là ban đầu nó đã được hình thành. Trong một cuốn sách về văn hóa Nhật, tôi đọc thấy người ta nêu lên một nguyên tắc khi trùng tu các công trình lịch sử. Là bất cứ thời nào, muốn làm lại các công trình cũ thì cũng phải làm đúng như cái ban đầu, kể từ hình dáng, các chi tiết trình bày cho đến chất liệu kiến trúc.
Một cách tự nhiên, tôi có cảm tưởng, chúng ta có thể tin được nền sử học Nhật Bản, một niềm tin không thể có đối với nền sử học Việt Nam hiện nay.
Trong số các đoàn nội địa tới tham quan tại các công trình kiến trúc lịch sử, ở đâu tôi cũng gặp những đoàn học sinh do các giáo viên già dẫn đường và giới thiệu. Sau được nghe lại, thấy nói là trong chương trình học phổ thông, tất cả các học sinh có quyền được đi tham quan các di tích có ghi trong sử sách. Chi phí các chuyến đi ấy do nhà nước đài thọ và chỉ những người kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới được giao việc hướng dẫn các em.
Tình hình này khiến người ngoại quốc hiểu thêm một điều là không bao giờ các di tích, các thắng cảnh ở Nhật lại có tình trạng tràn ngập khách tham quan như bên Trung Quốc. Hình như những người lớn tuổi của nước Nhật đã tham quan di tích này từ lúc nhỏ rồi, nếu có tham quan chỉ đi lại thôi. Còn ở Trung Quốc, các di tích thường bị lấp đầy bởi người nông dân của các tỉnh xa xôi mà họ muốn đến với các thắng cảnh. Giống như cánh du lịch bụi Việt Nam chúng ta, lấy đi làm cái mốt, đi chỉ để chứng tỏ rằng mình chẳng kém gì người.
Trở lại với quá khứ của Nhật Bản, tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi mối quan hệ của nước này với Trung Quốc. Một mặt thì cái ảnh hưởng ấy quá rõ và người Nhật không giấu điều này. Ai đó đã nói: “Người Nhật tìm ở Trung Hoa đức trầm tĩnh, vẻ hào hiệp và tính muôn màu muôn vẻ mà họ không thể có”. Mặt khác, suốt trong quá trình lịch sử, người ta cũng bắt gặp nỗ lực của người Nhật hướng theo cái tinh thần, trên cơ sở hoàn thiện mình, đã dám là mình, vui với mình và không ghen tức với người nước ngoài. Đó lại là điều tôi không thấy ở người Việt, văn hóa Việt.
Người Nhật làm du lịch
Những người tổ chức du lịch đã cố gắng cho chúng tôi biết được nước Nhật ở nhiều cung bậc khác nhau. Ví dụ về giao thông họ có bố trí cho chúng tôi ngoài chuyện thường xuyên ngồi trên ô tô, có lúc đi tàu thủy, có lúc đi tàu cao tốc.
Về ăn uống, ngoài những lối ăn nhanh theo kiểu buffet thì họ thường xuyên cũng cho chúng tôi vào những quán ăn tổ chức theo kiểu truyền thống. Ở đó, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, chân đặt lên cái hố được khoét rộng chung cho cả bàn, trên bàn đặt nồi lẩu. Cái thú vị nhất đối với bọn tôi nói ra kể cũng phàm tục song cũng xin kể ra kể đây. Thú vị vì, nhìn vào cái nồi lẩu, thịt không bao giờ thiếu. Khi ăn hết, nếu cần chúng tôi có thể gọi thêm mà không phải trả thêm tiền.
Lúc đầu bọn tôi cũng lo lắng có những món ăn của Nhật không hợp khẩu vị, sau thì thấy cũng thích nghi dễ dàng.
Trong các chương trình như là thêm vào buổi chiều hôm nay, có việc chúng tôi đến thăm cửa hàng Kimono. Ở đó, khách du lịch vừa có dịp tham quan cả cơ sở người ta đang dệt vải để làm ra Kimono, và cũng có một buổi biểu diễn thời trang, trong đó những người Nhật trình bày cách sử dụng trang phục này.
Điều “rất Nhật” ở đây lại chính là cái bề ngoài "không chuyên nghiệp", nó ngay lập tức gợi nên một thoáng thất vọng ở những người Việt thạo đời. Ra vào đi lại trên sân khấu lúc này không phải là những cô gái chuyên môn trình diễn thời trang, mà chỉ những người phụ nữ bình thường, tưởng như họ đang đi ngoài phố, vừa được mời vào.
Phụ nữ Nhật nói chung không đẹp, rất ít khi chúng tôi phải sững sờ cả người như khi sang Trung quốc, bắt gặp các cô gái còn chất quý phái hôm qua. Những cô gái Nhật biểu diễn thời trang ở xưởng làm và bán Kimono cũng không thể gọi là đẹp. Họ trình diện trước du khách như những người thông minh, nghiêm túc, tự trọng, có sự cởi mở với người bên ngoài, mà vẫn giữ cho riêng mình đời sống nội tâm. Những bộ trang phục họ mang ra trình diễn hôm đó không phải là những hàng đắt tiền mà đám dân du lịch Việt Nam – những người đang thèm tiêu tiền -- háo hức. Nhưng họ đâu có tính chuyện câu khách. Họ chỉ muốn giới thiệu một nét văn hóa Nhật.
Những dư âm của cuộc động đất
Tiếp tục câu chuyện về người Nhật trong sự so sánh với người Việt Nam. Sự kiện động đất xảy ra cách đây mấy năm vẫn còn trong kí ức người Nhật như chuyện mới xảy ra năm ngoái tháng trước hôm qua. Nhưng, chính lúc đó thì phẩm chất dân tộc của họ được bộc lộ.
Đức nói rằng là, ở đây đã lâu song chính anh cũng rất ngạc nhiên vì cách phản ứng của người Nhật với động đất.
Ví dụ như, khi Tokyo mất điện, người ta đi bộ về nhà có khi đến hàng vài chục cây số, cái cửa hàng bên đường tung hàng ra để phục vụ người đi lại, mặc dù họ không có tiền. Khách sạn cho người đi đường vào ở nhà và không tính tiền.
Sau đó, tinh thần và nghị lực của người Nhật cũng bộc lộ ở việc sự nhất trí của xã hội trong việc khắc phục hậu quả tai họa. Sau động đất, nhà nước cắt điện một số vùng thì các vùng khác cũng tự động cắt theo giúp nhà nước có được lượng điện dự trữ. Khi công chức đi làm việc, có lệnh chính phủ, công chính không dùng caravat để tránh giặt giũ nhiều thì người thường cũng tuân theo việc đó.
Cả nước bao giờ cũng làm quá hơn so với mức chính phủ yêu cầu. Chỉ có câu khẩu hiệu nêu ra và viết trong các taxi: Nhật Bản hãy cố gắng. Mấy chữ ngắn ngủi thế thôi, mà người Nhật đã hiểu rất nhiều.
Trở lại với ý nghĩ mới hình thành trong tôi mấy ngày nay, hình như với người Việt Nam thì người Nhật ở dạng đảo ngược. Người mình sống trong sự cạnh tranh là phải lấy dối trá quan hệ với mọi người. Trong quan hệ với nhà nước và cộng đồng càng trục lợi kiếm chác cho cá nhân càng tốt. Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng có niềm tin chắc chắn. Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của người ta sẽ được xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác.
12 – 6
Chuyện quanh những ngôi chùa
Ngày cuối cùng ở Nhật
Mấy hôm trước, chúng tôi đã đi qua những thành phố nổi tiếng của xứ sở này như Kyoto, nhưng dù thế cũng chỉ là lướt qua. Hôm nay cũng vậy, mang tiếng là được đến kinh đô cổ kính của nước Nhật là Nara, nhưng chúng tôi cũng chi được đi qua phố xá một quãng, sau đó thì được đến thăm ngôi chùa cổ đọc theo chữ Hán là Đông Đại Tự.
Trên đường phố Nara, bắt gặp những ngôi nhà cổ, loại nhà một tầng mà chắc chắn đã có từ rất lâu đời. Trong việc xử lí những di sản này, chỗ khác của người Nhật vẫn rất rõ. Họ có sự bố trí thế nào để những ngôi nhà cổ rộng rãi hòa hợp tự nhiên với những cao ốc hàng chục tầng bên cạnh,-- việc này gợi cảm giác những người sống trong ngôi nhà cổ là những cư dân lâu đời ở đất này, có thể là họ còn giàu có nữa kia thì mới được ở trong những ngôi nhà đó.
Còn ở Việt Nam bên cạnh những cao ốc thường khi cũng có những ngôi nhà rách nát, làm hỏng hết cảnh quan chung. Những cuộc đền bù bất minh, hoặc tâm lý thấy ai giàu có là ghen lồng ghen lộn, ì ra ăn vạ…đã là nguyên nhân làm cho cái cũ cái mới không thể chung sống hòa hợp.
Hai bên đường tới Nara, du khách cũng bắt gặp rất nhiều ngôi chùa. Đây là một địa điểm được mệnh danh kinh đô của Phật giáo, đã từng là địa điểm tổ chúc Đại hội Phật giáo của thế giới.
Nhưng một chuyện buồn lại bắt đầu len vào, khó mà quên được. Đức hướng dẫn viên chỉ hai bên đường và nói rằng ở đây có rất nhiều cửa hàng bán đồ dùng dành cho các nhà sư. Anh kể tiếp, nhiều nhà sư Việt Nam đến Nara này, và điều mà người Nhật bản xứ đã sửng sốt là những nhà sư đó đã mua những trang phục đắt tiền nhất mà những nhà sư các nước khác không dám mua.
Đức có người bạn đã đi theo đoàn Phật giáo ấy, chứng kiến cảnh mua bán của các vị sư. Với thói quen của người Sài Gòn, người bạn ấy có hai phản ứng. Một là lập tức tính sẽ tổ chức những của hàng ở Việt Nam để bán cho giới tu hành hám chuyện làm dáng. Hai là nhiều lúc nghĩ không muốn thành Phật tử nữa bời vì không hiểu vì sao sư mô Việt Nam lại trần tục đến như vậy.
Một chút so sánh và cảm giác về một nước Nhật quá xa xôi
Khi đi trên đất Nhật tôi hay nhớ lại những lần đến các xứ khác.
Du lịch Trung Quốc, đối với tôi như là một chuyến trở về nguồn. Ở đó tôi nhớ không phải là những lâu đài tráng lệ hay những viên lâm cổ kính sang trọng – không khí như trong phim Hồng lâu mộng -- mà tôi còn thấy ở đây có những mặt trái, tức cả đời sống cùng cực của người lao động bình thường. Ở Bắc Kinh, tôi đã vào những ngõ nhỏ mà ở đó người ta từng cụm dân trong hồ đồng phải dùng hố xí tập thể, và con đường quanh co là những mái nhà lợp tôn, lợp ngói cổ cái thấp cái cao như những hẻm nhỏ Hà Nội. Tôi cũng thấy người ta buôn gian, bán lận, nói thách, làm hàng giả theo lối làm tiền. Bởi Việt Nam luôn là Trung quốc bị hạ thấp hẳn xuống thu nhỏ hẳn lại cái tốt bớt dần cái xấu tăng thêm, nên tôi càng hiểu những tệ hại của xã hội Việt Nam không biết bao giờ mới khắc phục được.
Ngay cả với nước Nga nửa Âu nửa Á, tôi cũng thấy điều gì đó gần gũi. Hồi còn Liên xô, đó là những đống đất xây dựng ngổn ngang ngay ngoài cửa cách hàng rào sân bay không xa; những phiên chợ nông trường lèo tèo; đám đầu trọc nghênh ngang ngoài đường. Và bây giờ ở nước Nga của Putin, cái tôi còn nhớ khi đọc các bản tin, là những làng xóm vắng vẻ, người đàn ông say rượu, những người đàn bà chỉ lo trau chuốt để bán mình cho các nhà tư sản mới nổi.
Tóm lại thì ở đâu, tôi cũng thấy cái gì đó gần gũi với mình.
Ngược lại, đến với nước Nhật, từ lâu tôi cũng biết là đồng văn đồng chủng, da vàng mũi tẹt, nhưng ấn tượng còn lại của tôi thì lại là một cái gì khác hẳn so với những ấn tượng đi Nga đi Trung Quốc. Tôi thấy xã hội Nhật là một cái gì quá đồng đều và quá hoàn chỉnh, do đó là quá xa xôi, người mình không biết bao giờ mới có thể có một xã hội hợp lý như của họ. Tình thế đó của nước Nhật toát ra không phải từ không khí sinh hoạt của đường phố mà nó thấm vào trong cách sống cách nghĩ của từng con người, cũng như lối sống rời rã, cái năng động hỗn loạn, và tâm lý bèo dạt mây trôi đã thấm vào trong cách tổ chức xã hội của người Việt.
Nhớ lại khoảng thời gian mấy năm 75, 76. Quá say sưa vì chiến thắng, người mình có cảm tưởng rằng đã đánh Mĩ được thì làm gì cũng được. Tôi nhớ không phải ở người dân thường mà ở những cấp lãnh đạo cao nhất hồi ấy đã có ngưỡng vọng có ngày Việt Nam sẽ đuổi kịp Nhật. Công thức mà tôi còn nhớ như in là lời truyền miệng như thế này: “Thôi, nói 20 năm thì hơi lạc quan quá, độ 30 năm nữa thì chúng ta sẽ bằng Nhật”.
Nhắc lại ảo tưởng đó để hiểu rằng, chiến tranh để đẩy chúng ta chui vào sừng trâu, và ra khỏi chiến tranh chúng ta đã xa lạ với thế giới như thế nào. Ta chẳng hiểu gì về người, mà cũng chẳng hiểu gì về chính mình. Từ đó, trong cái thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày mắt chúng ta vẫn nhắm mắt mở bước đi loạng choạng. Trong sự vội vã điên cuồng lo làm ăn sinh sống, xã hội Việt Nam sau chiến tranh, thật ra trở thành xã hội tiêu thụ. Không ai bảo ai song trong thâm tâm nhiều người tin rằng sẽ chẳng bao giờ chúng ta sẽ theo kịp thiên hạ. Và cách sống thời thượng nhất lúc này là có cái gì bòn mót của cải mang bán lấy tiền rồi đi nước ngoài mua sắm những thứ xịn nhất, mới nhất, hiện đại nhất. Rồi lấy đó làm niềm tự hào rằng người mình cũng đang sự tiến bộ vượt bậc theo kịp các nước trên thế giới.
Mấy năm gần đây, nhờ sự trợ giúp của phía đối tác, các trường đại học ở ta thường mở ra các cuộc hội thảo văn học so sánh, trong đó nhiều báo cáo của giảng viên Việt trình bày như là có một bước tiến song song giữa văn học Nhật Bản hiện đại và văn học VN thế kỷ XX, rồi bước tương đồng giữa văn học Nhật đương đại và văn học Việt Nam hôm nay. Trên một số phương diện khác của đời sống cũng vậy. Một cái gì giống như ảo tưởng đang chi phối cái nhìn người Việt khi chúng ta làm cái việc đối sánh giữa mình với người, và người Nhật thì vì lịch sự cũng không tiện bác bỏ. Thường những lúc vậy trong tôi có cái cảm giác xót xa như khi thấy người ta xoa đầu mình coi mình là một lũ trẻ con. Trong những ngày du lịch bụi ngắn ngủi này, cái cảm giác xót xa ấy lại trỗi dậy để mà càng cảm thấy nó một cách thấm thía hơn.
Published on February 22, 2014 19:24
February 18, 2014
Thành kính và thuần thục
Thử trả lời câu hỏi:Thế nào mới là văn hóa thực thụ?
Thăm thú Hội An đến ngày thứ hai, buổi
chiều hôm ấy, chúng tôi được mấy bạn quen rủ ghé lại một nhà thờ họ. Thành thực
mà nói, lúc đầu cũng hơi ngại. Đến thăm
nơi này là để ngắm nghía chùa Tàu cầu Nhật, chứ mấy ngôi nhà thờ họ thì đâu
chẳng có, tới thăm mà làm gì?!
Nhưng chuyện chung quanh ngôi nhà thờ họ ấy cũng
rôm rả không kém mấy địa điểm du lịch khác. Tại sao ư? Nói tóm lại là không ở
đâu chúng tôi thấy con người ta sống với quá khứ của ông cha hết lòng đến thế.
Trong nhà nhiều đồ đạc từ hơn một trăm năm để lại. Đèn sáng vừa đủ để tạo không
khí. Và điều thú vị là: Mọi thứ đều có cái bề ngoài rất thực của nó, đại khái bảo đồ cổ thì có
thể tin là đồ cổ thứ thiệt, chứ không phải mấy thứ tân thời giả cổ(!).
Chẳng
những thế mọi vật kỷ niệm còn lại, mấy bức tranh, bộ bàn ghế, cái án thư - đều
sạch sẽ thơm tho như vẫn đang được sử dụng, mà người sử dụng thì đúng là những
người “cổ lai hy”, nghĩa là có phong thái sống khoan thai từ tốn, chứ không xô
bồ ù xoẹ như chúng ta bây giờ.
Trong một ngôi nhà dường như cả mấy thế hệ đang
sống hoà hợp.
Sau hết, sự hiện diện của cô chủ nhà, với những phẩm chất hiếm
hoi, kết hợp được cả tình cảm yêu kính ông cha, lẫn một sự hiểu biết lịch lãm.
Một mặt cô không giấu giếm tình cảm riêng, nỗi quyến luyến của cô với những gì
vợ chồng cô được thừa kế. Mặt khác là cái tinh tế trong giao tiếp: Cô biết đặt
mình vào địa vị người đến thăm, đón truớc những câu hỏi, ngừa trước những thắc
mắc. Và vui vẻ trước mọi kết luận để ngỏ: đấy gia tài ông cha chúng tôi để lại
là thế đấy, làm sao chúng tôi không tự hào cho được?
Những việc phản cảm
Từ khi
còn ngồi trên ghế trường tiểu học, tất cả chúng ta đã được dạy dỗ rằng tục thờ
cúng tổ tiên là một nét đặc sắc trong nền văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, hẳn là
câu chuyện về mấy ngôi nhà thờ họ ở Hội An sẽ không để lại trong đầu óc ấn
tượng sâu đậm đến thế, nếu nó không tương phản rõ rệt với cái tình trạng thường
thấy mấy năm gần đây.
- Ở
nơi này, sự thờ cúng trễ nải qua loa, thấy khách đến chủ nhà mới lôi mấy thứ đồ
thờ mốc meo ra phủi bụi, để chứng tỏ tấm lòng “không kém ai” của mình.
- Ở
nơi kia, một sự hiểu biết lỗ mỗ kém cỏi, không tương xứng với nỗi niềm tha
thiết của gia chủ. Một vài niên đại sai lệch. Một vài địa danh không chính
xác... lẽ tự nhiên là phải nghe những lời ba hoa vụng về, người ta dễ nảy sinh
ra sự nghi ngại.
- Còn
ở một nơi khác nữa, thì lại có tình trạng gia chủ có cái vẻ như là thích khoe,
thích làm dáng, vừa khấn vái tổ tiên vừa như là đứng tách ra tự ngắm nghía và
phải cố kiềm chế lắm mới không nói thẳng vào mặt khách: Các anh xem, tôi thờ
cúng thế đấy, tôi giữ gìn truyền thống thế đấy, bản sắc dân tộc ở tôi đậm đà
thế đấy (!)
Thành kính và thuần thục
Theo
những con đường khác nhau, song một khi sự phản cảm đã nảy sinh, thì không cách
gì cứu vớt lại được.
Hoá
ra, một hành động văn hoá chẳng thể có ý nghĩa như nó phải có, nếu được làm một
cách hình thức, thậm chí bôi bác, tuỳ tiện.
Ngược
lại, một công việc nào đó chỉ được xem là một hành động văn hoá thực thụ, nếu
ít nhất nó thoả mãn những điều kiện sau đây:
1. Nó
được làm với niềm tin thiêng liêng, người làm việc đó tin rằng mình đang hướng
đời sống tinh thần vào một cõi cao đẹp, và đây nhất thiết là một hành động vô
tư, không vụ lợi (với tất cả sự đa dạng và những biến thái tinh tế của chữ
lợi).
2. Nó
được làm một cách thành thục, theo những quy tắc nghiêm cẩn, đã hình thành từ
nhiều thế hệ.
Có
người sẽ bảo: Vẽ chuyện! Bảo tồn văn hoá là mục đích còn nghi lễ chỉ là cái vỏ,
cái bình đựng. Cốt lòng mình có nghĩ tới, còn làm thế nào chẳng được! Song văn
hoá vừa vô hình và cao cả tinh khiết, vừa là một cái gì rất cụ thể. Người ta sẽ
đọc ra cái thực chất văn hoá của một con người cũng như cả một xã hội ở đâu,
nếu không phải qua những thể thức biểu hiện sinh động, những thể thức này không
lừa được cảm giác của người chứng kiến.
Cẩu thả và thô lậu
Không
phải chỉ đến hôm nay mà từ ngàn xưa, các hành động văn hoá đều đã đòi hỏi được
biểu hiện chân thành và thuần thục như vậy.
Với tư
cách một cuốn sách ghi lại những nếp sống văn hoá đã trở thành thói quen bền
vững của người xưa, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, bên cạnh những
truyện nói về thú viết chữ đại tự, rồi thả thơ, đánh thơ, uống rượu,
làm đèn kéo quân, còn có một thiên truyện mang tên Chén trà trong sương
sớm (sau Nguyễn Tuân giản lược đi mà chỉ gọi Chén trà sương).
Nhân
vật chính trong truyện, một cụ già, đã làm cái việc chuẩn bị cho những chén trà
uống trong buổi sớm mai của mình với tất cả thành kính và những sự dụng công,
mà người ngày nay chắc bảo là cầu kỳ: nào ấm đun phải ra sao, lửa phải cháy
đượm thế nào, nước sôi già phải được thử lại thế nào.
Rồi pha, rồi uống, nhất
nhất đều tuân thủ những nguyên tắc khắt khe của trà đạo.
Nguyễn Tuân kết luận:
“Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời
khách, cụ ấy đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ
nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết
lý. “
Uống
trà đã vậy, đến như những ngày sóc vọng tức là tuần rằm mùng một, lên chùa lễ
Phật hoặc giỗ tết thờ cúng tổ tiên, ông cha ta xưa càng đòi hỏi một sự thuần
khiết trong nghi lễ, bao gồm cả tấm lòng chân thành lẫn sự tự nguyện tôn trọng
mọi quy tắc ứng xử đã trở thành khuôn mẫu.
Những cách làm phi văn hóa đang quá phổ biến
Sau
những năm dài chiến tranh, nay là lúc xã hội trở lại với những nếp sống bình
thường. Chính vào lúc cánh cửa giao tiếp với nước ngoài được mở rộng thì cũng
là lúc lời kêu gọi “Hãy quay trở về với mọi nền nếp văn hoá dân tộc” có được
những nội dung cụ thể.
Ta rủ nhau lên chùa.
Ta góp tiền xây dựng lại nhà thờ.
Ta đi nghe ca trù, xem rối nước v.v...
Nhưng liệu đã có thể coi mọi việc ổn
thoả chưa, thì còn phải xem xem đã. Đang thấy xảy ra một quá trình đối nghịch
đáng ngại, tức là người đến với văn hoá càng đông thì văn hoá lại càng trở nên
xô bồ, thô lậu và chưa biết bao giờ tìm lại được vẻ thiêng liêng thanh khiết
của nó. Đôi khi, người ta không khỏi phì cười để rồi sau đó thấm thía buồn
trước việc mấy cô mấy cậu choai choai vào chùa mà ăn mặc hở hang và cả mấy câu
cầu khấn tối thiểu cũng không thuộc.
Lại càng buồn hơn khi phải tận mắt chứng
kiến những công trình tu bổ di tích văn hoá theo lối học đòi, làm mất vẻ cổ
kính vốn có, hoặc phải đọc những dòng mô tả lịch sử một nghệ thuật truyền thống
nào đó được viết vội vàng theo kiểu nói lấy được, khen lấy được.
Dẫu
sao, những vụng dại ấy còn có thể tạm tha thứ. Đến như những người mở hội lễ
chỉ nhằm thu tiền lệ phí, góp tiền công đức xây chùa đúc tượng cốt để cầu mong
thần thánh bỏ qua cho mọi hành động gian manh, đội bát hương cốt để phát tài
phát lộc thăng quan tiến chức... tóm lại, làm tất cả những việc cao quý với mục
đích vụ lợi, rồi lại tự lừa luôn cả mình và lớn tiếng khuyên nhủ mọi người trở
về với văn hoá dân tộc, thì trước khi nói đến khía cạnh đạo đức, ở đây còn có
vấn đề chính danh tức là người ta
đã không làm đúng một việc như ý nghĩa việc đó phải có.
Một vài chi tiết
chung quanh câu chuyện thờ cúng tổ tiên còn tuỳ tiện nham nhở nói ở trên là nằm
trong cái mạch chung đó.
Ngược trở lại, sự thành tâm của người dân Hội An với
những ngôi nhà thờ họ của gia đình chính là ví dụ về một tinh thần văn hoá thực
thụ mà, rộng hơn chuyện thờ cúng, lẽ ra phải được quán xuyến trong nhiều hoạt
động khác.
In báo 1995
In lại trong Nhân nào quả ấy 2003

Thăm thú Hội An đến ngày thứ hai, buổi
chiều hôm ấy, chúng tôi được mấy bạn quen rủ ghé lại một nhà thờ họ. Thành thực
mà nói, lúc đầu cũng hơi ngại. Đến thăm
nơi này là để ngắm nghía chùa Tàu cầu Nhật, chứ mấy ngôi nhà thờ họ thì đâu
chẳng có, tới thăm mà làm gì?!
Nhưng chuyện chung quanh ngôi nhà thờ họ ấy cũng
rôm rả không kém mấy địa điểm du lịch khác. Tại sao ư? Nói tóm lại là không ở
đâu chúng tôi thấy con người ta sống với quá khứ của ông cha hết lòng đến thế.
Trong nhà nhiều đồ đạc từ hơn một trăm năm để lại. Đèn sáng vừa đủ để tạo không
khí. Và điều thú vị là: Mọi thứ đều có cái bề ngoài rất thực của nó, đại khái bảo đồ cổ thì có
thể tin là đồ cổ thứ thiệt, chứ không phải mấy thứ tân thời giả cổ(!).
Chẳng
những thế mọi vật kỷ niệm còn lại, mấy bức tranh, bộ bàn ghế, cái án thư - đều
sạch sẽ thơm tho như vẫn đang được sử dụng, mà người sử dụng thì đúng là những
người “cổ lai hy”, nghĩa là có phong thái sống khoan thai từ tốn, chứ không xô
bồ ù xoẹ như chúng ta bây giờ.
Trong một ngôi nhà dường như cả mấy thế hệ đang
sống hoà hợp.
Sau hết, sự hiện diện của cô chủ nhà, với những phẩm chất hiếm
hoi, kết hợp được cả tình cảm yêu kính ông cha, lẫn một sự hiểu biết lịch lãm.
Một mặt cô không giấu giếm tình cảm riêng, nỗi quyến luyến của cô với những gì
vợ chồng cô được thừa kế. Mặt khác là cái tinh tế trong giao tiếp: Cô biết đặt
mình vào địa vị người đến thăm, đón truớc những câu hỏi, ngừa trước những thắc
mắc. Và vui vẻ trước mọi kết luận để ngỏ: đấy gia tài ông cha chúng tôi để lại
là thế đấy, làm sao chúng tôi không tự hào cho được?
Những việc phản cảm
Từ khi
còn ngồi trên ghế trường tiểu học, tất cả chúng ta đã được dạy dỗ rằng tục thờ
cúng tổ tiên là một nét đặc sắc trong nền văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, hẳn là
câu chuyện về mấy ngôi nhà thờ họ ở Hội An sẽ không để lại trong đầu óc ấn
tượng sâu đậm đến thế, nếu nó không tương phản rõ rệt với cái tình trạng thường
thấy mấy năm gần đây.
- Ở
nơi này, sự thờ cúng trễ nải qua loa, thấy khách đến chủ nhà mới lôi mấy thứ đồ
thờ mốc meo ra phủi bụi, để chứng tỏ tấm lòng “không kém ai” của mình.
- Ở
nơi kia, một sự hiểu biết lỗ mỗ kém cỏi, không tương xứng với nỗi niềm tha
thiết của gia chủ. Một vài niên đại sai lệch. Một vài địa danh không chính
xác... lẽ tự nhiên là phải nghe những lời ba hoa vụng về, người ta dễ nảy sinh
ra sự nghi ngại.
- Còn
ở một nơi khác nữa, thì lại có tình trạng gia chủ có cái vẻ như là thích khoe,
thích làm dáng, vừa khấn vái tổ tiên vừa như là đứng tách ra tự ngắm nghía và
phải cố kiềm chế lắm mới không nói thẳng vào mặt khách: Các anh xem, tôi thờ
cúng thế đấy, tôi giữ gìn truyền thống thế đấy, bản sắc dân tộc ở tôi đậm đà
thế đấy (!)
Thành kính và thuần thục
Theo
những con đường khác nhau, song một khi sự phản cảm đã nảy sinh, thì không cách
gì cứu vớt lại được.
Hoá
ra, một hành động văn hoá chẳng thể có ý nghĩa như nó phải có, nếu được làm một
cách hình thức, thậm chí bôi bác, tuỳ tiện.
Ngược
lại, một công việc nào đó chỉ được xem là một hành động văn hoá thực thụ, nếu
ít nhất nó thoả mãn những điều kiện sau đây:
1. Nó
được làm với niềm tin thiêng liêng, người làm việc đó tin rằng mình đang hướng
đời sống tinh thần vào một cõi cao đẹp, và đây nhất thiết là một hành động vô
tư, không vụ lợi (với tất cả sự đa dạng và những biến thái tinh tế của chữ
lợi).
2. Nó
được làm một cách thành thục, theo những quy tắc nghiêm cẩn, đã hình thành từ
nhiều thế hệ.
Có
người sẽ bảo: Vẽ chuyện! Bảo tồn văn hoá là mục đích còn nghi lễ chỉ là cái vỏ,
cái bình đựng. Cốt lòng mình có nghĩ tới, còn làm thế nào chẳng được! Song văn
hoá vừa vô hình và cao cả tinh khiết, vừa là một cái gì rất cụ thể. Người ta sẽ
đọc ra cái thực chất văn hoá của một con người cũng như cả một xã hội ở đâu,
nếu không phải qua những thể thức biểu hiện sinh động, những thể thức này không
lừa được cảm giác của người chứng kiến.
Cẩu thả và thô lậu
Không
phải chỉ đến hôm nay mà từ ngàn xưa, các hành động văn hoá đều đã đòi hỏi được
biểu hiện chân thành và thuần thục như vậy.
Với tư
cách một cuốn sách ghi lại những nếp sống văn hoá đã trở thành thói quen bền
vững của người xưa, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, bên cạnh những
truyện nói về thú viết chữ đại tự, rồi thả thơ, đánh thơ, uống rượu,
làm đèn kéo quân, còn có một thiên truyện mang tên Chén trà trong sương
sớm (sau Nguyễn Tuân giản lược đi mà chỉ gọi Chén trà sương).
Nhân
vật chính trong truyện, một cụ già, đã làm cái việc chuẩn bị cho những chén trà
uống trong buổi sớm mai của mình với tất cả thành kính và những sự dụng công,
mà người ngày nay chắc bảo là cầu kỳ: nào ấm đun phải ra sao, lửa phải cháy
đượm thế nào, nước sôi già phải được thử lại thế nào.
Rồi pha, rồi uống, nhất
nhất đều tuân thủ những nguyên tắc khắt khe của trà đạo.
Nguyễn Tuân kết luận:
“Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời
khách, cụ ấy đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ
nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết
lý. “
Uống
trà đã vậy, đến như những ngày sóc vọng tức là tuần rằm mùng một, lên chùa lễ
Phật hoặc giỗ tết thờ cúng tổ tiên, ông cha ta xưa càng đòi hỏi một sự thuần
khiết trong nghi lễ, bao gồm cả tấm lòng chân thành lẫn sự tự nguyện tôn trọng
mọi quy tắc ứng xử đã trở thành khuôn mẫu.
Những cách làm phi văn hóa đang quá phổ biến
Sau
những năm dài chiến tranh, nay là lúc xã hội trở lại với những nếp sống bình
thường. Chính vào lúc cánh cửa giao tiếp với nước ngoài được mở rộng thì cũng
là lúc lời kêu gọi “Hãy quay trở về với mọi nền nếp văn hoá dân tộc” có được
những nội dung cụ thể.
Ta rủ nhau lên chùa.
Ta góp tiền xây dựng lại nhà thờ.
Ta đi nghe ca trù, xem rối nước v.v...
Nhưng liệu đã có thể coi mọi việc ổn
thoả chưa, thì còn phải xem xem đã. Đang thấy xảy ra một quá trình đối nghịch
đáng ngại, tức là người đến với văn hoá càng đông thì văn hoá lại càng trở nên
xô bồ, thô lậu và chưa biết bao giờ tìm lại được vẻ thiêng liêng thanh khiết
của nó. Đôi khi, người ta không khỏi phì cười để rồi sau đó thấm thía buồn
trước việc mấy cô mấy cậu choai choai vào chùa mà ăn mặc hở hang và cả mấy câu
cầu khấn tối thiểu cũng không thuộc.
Lại càng buồn hơn khi phải tận mắt chứng
kiến những công trình tu bổ di tích văn hoá theo lối học đòi, làm mất vẻ cổ
kính vốn có, hoặc phải đọc những dòng mô tả lịch sử một nghệ thuật truyền thống
nào đó được viết vội vàng theo kiểu nói lấy được, khen lấy được.
Dẫu
sao, những vụng dại ấy còn có thể tạm tha thứ. Đến như những người mở hội lễ
chỉ nhằm thu tiền lệ phí, góp tiền công đức xây chùa đúc tượng cốt để cầu mong
thần thánh bỏ qua cho mọi hành động gian manh, đội bát hương cốt để phát tài
phát lộc thăng quan tiến chức... tóm lại, làm tất cả những việc cao quý với mục
đích vụ lợi, rồi lại tự lừa luôn cả mình và lớn tiếng khuyên nhủ mọi người trở
về với văn hoá dân tộc, thì trước khi nói đến khía cạnh đạo đức, ở đây còn có
vấn đề chính danh tức là người ta
đã không làm đúng một việc như ý nghĩa việc đó phải có.
Một vài chi tiết
chung quanh câu chuyện thờ cúng tổ tiên còn tuỳ tiện nham nhở nói ở trên là nằm
trong cái mạch chung đó.
Ngược trở lại, sự thành tâm của người dân Hội An với
những ngôi nhà thờ họ của gia đình chính là ví dụ về một tinh thần văn hoá thực
thụ mà, rộng hơn chuyện thờ cúng, lẽ ra phải được quán xuyến trong nhiều hoạt
động khác.
In báo 1995
In lại trong Nhân nào quả ấy 2003
Published on February 18, 2014 18:10
February 17, 2014
Nhạt hội bởi chưng ...hội nhạt
Nguyễn Đình Chiểu từng viết trong
Lục Vân Tiên: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Tôi cũng đang ở trong
tình trạng dở dang vậy,.
Vì quá yêu các lễ hội mà gần đây cứ nghĩ đến hội là
ngại.
Trình độ tổ chức các lễ hội hiện nay không theo kịp nhận thức của cộng
đồng, nhìn chung toàn lặp đi lặp lại, xô bồ, hỗn tạp, làm chỗ cho người ta trục lợi.
Chùa
chiền được sang sửa nhiều. Nhưng đáng lẽ phải nghiêm túc nghiên cứu để trùng tu
cho ra không khí cổ kính thì người ta lại chỉ lo tô lại một ít chữ nho làm dáng
và thường là tô sai.
Các bức tường bị bôi xanh bôi đỏ khiến
công trình sặc sỡ một cách khó coi.
Phần hội mà các ban tổ chức buộc khách
thập phương phải xem cũng không khá hơn.
Một hai chiếc thuyền rồng đặt trong cái
ao cạn không sao gợi được vẻ trữ tình cần thiết.
Các điệu múa ở các địa phương khác nhau
mà quá giống nhau, hình như quanh quẩn học của nhau cả.
Với tư cách một người có nghiên cứu
văn hóa chút ít, tôi thường băn khoăn về tính chính xác của các chi tiết liên
quan đến lễ hội cũng như chùa chiền. Theo tôi, chính nó là cơ sở tạo nên sự
thiêng liêng có thực. Còn cái kiểu trùng tu theo tinh thần “có gia giảm thêm
dấm ớt” phổ biến hiện nay chỉ làm cho người tới hội thêm thất vọng vì lộ rõ tính
phàm tục của nó.
Những phản cảm trong khung cảnh
càng bị tô đậm bởi sự có mặt của con người. Đã quá biết rằng cái gì ở mình mà
chẳng luộm thuộm, đã đám đông là xô bồ, nhếch nhác – mà sao vẫn thấy khó chịu,
bao niềm háo hức xẹp dần.
Một lần đi hội Bà Chúa Kho, tôi hãi hùng
mãi về cảnh xếp hàng chờ đặt mâm cúng lên bàn thờ, người sau phải nhấc mâm cúng
lên đầu người trước, mỏi đến gẫy tay.
Còn nghĩ tới những lần đi hội Chùa
Hương là sợ tắc đường, sợ chờ đò, sợ phải tranh nhau cáp treo. Trong cảnh chen
lấn, lòng người trở nên nguội lạnh, chỉ thấy ngán ngẩm về tình trạng đất nước
lạc hậu và ghê sợ cho sự học đòi đua đả của con người, đến mức không còn can
đảm nghĩ chuyện lần sau đi tiếp.
Đang thiếu một tâm thế văn hóa chân chính trong tâm lý
người đi hội ngày nay. Nhiều khi đơn giản không biết làm gì thì người ta đi,
đua nhau mà đi, đi để cầu cúng vụ lợi.
Và sự vụ lợi này lan tới người tổ chức
hội cũng như những người tự nhận là phục vụ hội.
Lần tôi theo bà xã đi lễ Bà Chúa Kho, vừa xuống xe đã có người
bám theo, miệng thao thao những là để em sửa lễ cho bác, để em dẫn bác đi viết
sớ.
Lẽo đẽo theo mãi đến lúc vào đến cổng đền
mà chúng tôi không nhận đặt hàng, họ quay lại chửi.
--Tưởng là con cá quả, hóa là con tép
ranh!. Họ khái quát về chúng tôi như vậy.
Nếu phần lễ không tạo được cảm giác
thiêng liêng thì phần hội lại thường là tẻ nhạt .
Trong
một bài tạp văn in trong tập Giấc mộng ông thợ dìu mới in ra đầu 2007,
Tô Hoài đã phải dùng đến câu thành ngữ “nhạt như nước ốc”. Các trò chơi hoặc cổ
lỗ khiến không ai muốn tham gia, hoặc toàn ngả sang màu sắc hiện đại, môtô bay,
xiếc giả cầy, chẳng hợp gì với khung cảnh.
Đến cả việc cho chữ nữa.
Mới đây,
một tờ báo đã tả lại cảnh tại một ngôi chùa thuộc loại lớn nhất, đẹp nhất Hà
Nội, thầy trụ trì cho chữ đúng kiểu bán hàng bao cấp. Cứ ai nộp tiền thì thầy
viết, viết như cái máy. Và chính thầy cũng mù mờ không cắt nghĩa được mấy chữ Xuân
phong hòa hợp đã viết đến mỏi tay đó.
Nghĩ về các lần tham dự lễ hội, không khỏi
thấy lòng trống trải, bởi đặt quá nhiều hy vọng mà tính lại, các lễ hội ấy
không được như mình mong đợi.
Cái chính có lẽ là chúng ta phải thêm chất
tri thức, chất lý tính
cho các lễ hội, chứ không thể thả nó trong vòng tay của cảm hứng tầm thường dung tục tùy tiện như
hiện thời.
Lại nhớ có lần thấy trên TV cảnh mấy
người khách phương xa tới hỏi thăm mấy cụ già trong làng về một ngôi đền gần
đấy. Chính đền thờ ai các cụ không biết. Các cụ chỉ nhắc đi nhắc lại là đền
thiêng lắm, có cần cầu cúng gì các cụ nói giúp.
Tôi không muốn mình rơi vào cái cảnh như
thế. Tôi định tạm nghỉ đi hội một vài năm.
Thay vào đấy, tôi tìm về lịch sử - văn hóa
cổ truyền dân tộc qua các cuốn sách như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương loại chí, các sách Thiên
nam ngữ lục, Lĩnh nam chích quái…hoặc
bộ Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính một nhà nho mà có tư tưởng phê phán
rất gần tinh thần của văn hóa hiện đại.
Đọc các sách trên, chỉ cần vượt qua sự sốt
ruột và bình tĩnh tra cứu các chữ Hán cổ là thế nào cũng gặp được nhiều kiến
thức hấp dẫn, sẽ có ích khi nay mai trở lại với các lễ hội.
Đã in báo Người đại biểu nhân dân 16/04/2007
In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
Lục Vân Tiên: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Tôi cũng đang ở trong
tình trạng dở dang vậy,.
Vì quá yêu các lễ hội mà gần đây cứ nghĩ đến hội là
ngại.
Trình độ tổ chức các lễ hội hiện nay không theo kịp nhận thức của cộng
đồng, nhìn chung toàn lặp đi lặp lại, xô bồ, hỗn tạp, làm chỗ cho người ta trục lợi.
Chùa
chiền được sang sửa nhiều. Nhưng đáng lẽ phải nghiêm túc nghiên cứu để trùng tu
cho ra không khí cổ kính thì người ta lại chỉ lo tô lại một ít chữ nho làm dáng
và thường là tô sai.
Các bức tường bị bôi xanh bôi đỏ khiến
công trình sặc sỡ một cách khó coi.
Phần hội mà các ban tổ chức buộc khách
thập phương phải xem cũng không khá hơn.
Một hai chiếc thuyền rồng đặt trong cái
ao cạn không sao gợi được vẻ trữ tình cần thiết.
Các điệu múa ở các địa phương khác nhau
mà quá giống nhau, hình như quanh quẩn học của nhau cả.
Với tư cách một người có nghiên cứu
văn hóa chút ít, tôi thường băn khoăn về tính chính xác của các chi tiết liên
quan đến lễ hội cũng như chùa chiền. Theo tôi, chính nó là cơ sở tạo nên sự
thiêng liêng có thực. Còn cái kiểu trùng tu theo tinh thần “có gia giảm thêm
dấm ớt” phổ biến hiện nay chỉ làm cho người tới hội thêm thất vọng vì lộ rõ tính
phàm tục của nó.
Những phản cảm trong khung cảnh
càng bị tô đậm bởi sự có mặt của con người. Đã quá biết rằng cái gì ở mình mà
chẳng luộm thuộm, đã đám đông là xô bồ, nhếch nhác – mà sao vẫn thấy khó chịu,
bao niềm háo hức xẹp dần.
Một lần đi hội Bà Chúa Kho, tôi hãi hùng
mãi về cảnh xếp hàng chờ đặt mâm cúng lên bàn thờ, người sau phải nhấc mâm cúng
lên đầu người trước, mỏi đến gẫy tay.
Còn nghĩ tới những lần đi hội Chùa
Hương là sợ tắc đường, sợ chờ đò, sợ phải tranh nhau cáp treo. Trong cảnh chen
lấn, lòng người trở nên nguội lạnh, chỉ thấy ngán ngẩm về tình trạng đất nước
lạc hậu và ghê sợ cho sự học đòi đua đả của con người, đến mức không còn can
đảm nghĩ chuyện lần sau đi tiếp.
Đang thiếu một tâm thế văn hóa chân chính trong tâm lý
người đi hội ngày nay. Nhiều khi đơn giản không biết làm gì thì người ta đi,
đua nhau mà đi, đi để cầu cúng vụ lợi.
Và sự vụ lợi này lan tới người tổ chức
hội cũng như những người tự nhận là phục vụ hội.
Lần tôi theo bà xã đi lễ Bà Chúa Kho, vừa xuống xe đã có người
bám theo, miệng thao thao những là để em sửa lễ cho bác, để em dẫn bác đi viết
sớ.
Lẽo đẽo theo mãi đến lúc vào đến cổng đền
mà chúng tôi không nhận đặt hàng, họ quay lại chửi.
--Tưởng là con cá quả, hóa là con tép
ranh!. Họ khái quát về chúng tôi như vậy.
Nếu phần lễ không tạo được cảm giác
thiêng liêng thì phần hội lại thường là tẻ nhạt .
Trong
một bài tạp văn in trong tập Giấc mộng ông thợ dìu mới in ra đầu 2007,
Tô Hoài đã phải dùng đến câu thành ngữ “nhạt như nước ốc”. Các trò chơi hoặc cổ
lỗ khiến không ai muốn tham gia, hoặc toàn ngả sang màu sắc hiện đại, môtô bay,
xiếc giả cầy, chẳng hợp gì với khung cảnh.
Đến cả việc cho chữ nữa.
Mới đây,
một tờ báo đã tả lại cảnh tại một ngôi chùa thuộc loại lớn nhất, đẹp nhất Hà
Nội, thầy trụ trì cho chữ đúng kiểu bán hàng bao cấp. Cứ ai nộp tiền thì thầy
viết, viết như cái máy. Và chính thầy cũng mù mờ không cắt nghĩa được mấy chữ Xuân
phong hòa hợp đã viết đến mỏi tay đó.
Nghĩ về các lần tham dự lễ hội, không khỏi
thấy lòng trống trải, bởi đặt quá nhiều hy vọng mà tính lại, các lễ hội ấy
không được như mình mong đợi.
Cái chính có lẽ là chúng ta phải thêm chất
tri thức, chất lý tính
cho các lễ hội, chứ không thể thả nó trong vòng tay của cảm hứng tầm thường dung tục tùy tiện như
hiện thời.
Lại nhớ có lần thấy trên TV cảnh mấy
người khách phương xa tới hỏi thăm mấy cụ già trong làng về một ngôi đền gần
đấy. Chính đền thờ ai các cụ không biết. Các cụ chỉ nhắc đi nhắc lại là đền
thiêng lắm, có cần cầu cúng gì các cụ nói giúp.
Tôi không muốn mình rơi vào cái cảnh như
thế. Tôi định tạm nghỉ đi hội một vài năm.
Thay vào đấy, tôi tìm về lịch sử - văn hóa
cổ truyền dân tộc qua các cuốn sách như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương loại chí, các sách Thiên
nam ngữ lục, Lĩnh nam chích quái…hoặc
bộ Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính một nhà nho mà có tư tưởng phê phán
rất gần tinh thần của văn hóa hiện đại.
Đọc các sách trên, chỉ cần vượt qua sự sốt
ruột và bình tĩnh tra cứu các chữ Hán cổ là thế nào cũng gặp được nhiều kiến
thức hấp dẫn, sẽ có ích khi nay mai trở lại với các lễ hội.
Đã in báo Người đại biểu nhân dân 16/04/2007
In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009
Published on February 17, 2014 17:55
February 16, 2014
Độc đáo với bất cứ giá nào !

nhau cuối tuần trên VTV3 , ấy vậy mà nhân ngẫu nhiên được vợ con rủ
xem chương trình mang tên Hội ơi là hội (tối 30-3 -2005), lại thấy phục
sát đất .
Chuyện kể về một làng nọ làm hội .
Làm như thế nào ? Nói nôm
na là không có cũng vẽ ra mà làm . Tính chuyện bắt chước người khác. Ai đó đạo văn , đạo nhạc thì ở đây người ta sẵn sàng đạo hội .
Thấy
các làng khác có chọi trâu chọi gà thì nghĩ ra việc …chọi lợn .
Phỏng
theo lối đấu bò ở Tây Ban Nha, người ra đấu ngồi xổm trên mặt đất
tay cầm miếng vải đỏ khiêu khích lợn , tay kia cầm cái gì na ná như
cái khiên để tự che đỡ .
Không ai là nhịn cười nổi !
Ngay sau tiếng cười , cố nhiên , màn kịch cũng luôn tiện làm cho
người ta đau lòng.
Con người ở đây hiện ra trong một tình trạng thảm
hại :
-- Mang quá khứ ra để làm thương mại .
--Kiếm ăn với bất cứ giá nào.
-- Ma mãnh đủ kiểu .
-- Nhân danh một mục đích tốt đẹp, tự cho rằng có gian
dối một tí rồi thần phật cũng tha bổng cho hết .
Nghĩ lại thì chẳng qua cái sự làm liều nghĩ ẩu ở đây được bắt đầu
từ một nguyện vọng có vẻ rất chính đáng . Đó là muốn gây ấn tượng với
người .
Song do chỗ trong thâm tâm thừa biết mình kém sẵn , và không
bao giờ có thể bằng người , nên chỉ còn cách tạo ra sự độc đáo . Rồi
nhận ra đây là ngón võ có vẻ hiệu quả , người ta còn hùa nhau
nâng nó, cái sự độc đáo ấy , lên thành lý luận : sùng bái nó , cho nó
là quan trọng nhất trên đời , và lo đi tìm nó bằng được , -- kể cả
đến lúc bí , phải dùng tới cách tầm thường nhất , và bản thân thường
lên tiếng chống đối mạnh mẽ nhất , đó là nhập khẩu những cái cực kỳ xa
lạ từ nước ngoài .
Chỉ cần độc đáo là có giá trị, cái lầm lỡ tai hại ấy , kỳ lạ
thay, lại đang lan tràn như một căn bệnh .
Trong việc này bọn tôi
cũng có một ít kỷ niệm . Hồi đó là vào khoảng đầu những năm sáu mươi ,
một số thanh niên mới tập viết cũng có cái lối đi tìm bằng được sự
độc đáo để gây ấn tượng .
May mà các bậc đàn anh đã sớm nhắc nhở .
Còn
nhớ nhà thơ Xuân Diệu từng giảng rất hay về chuyện này.
Với lối nói
riết gióng của mình , ông bảo nên nhớ là hai con lợn khác nhau cũng mỗi
con một cá tính , nghĩa là chẳng con nào giống con nào; vậy đừng có
lẫn cá tính với cá tật … Sự độc đáo chỉ đáng ghi nhận khi nó là dấu hiệu
của một giá trị chân chính .
Nói cho vui , không chừng cái làng Cự Phách trong chương trình
Hội ơi là hội đã ăn phải đũa bọn tập tọng học nghề chúng tôi mấy chục
năm trước .
Trong bụng ước có một Xuân Diệu để nhắc nhở. Song lại
nghĩ , một khi cả làng cả nước bây giờ đã mê muội vậy, chắc ông Xuân
Diệu có tái sinh cũng phải giơ tay đầu hàng !
Đã in Thể thao và văn hoá số ra 6-5-2005.
In lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại, 2009
Published on February 16, 2014 22:21
February 10, 2014
Nguyễn Tuân huyền thoại một thời
Theo kiểu Hemingway
Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại
chúng, sự tiếp nhận văn chương của con người thời nay so với người xưa có thêm
những phương tiện mới: nếu muốn, họ có thể đồng thời vừa đọc sách một nhà văn,
vừa biết rất rõ về nhà văn ấy. Con người tác giả không còn là một yếu tố trung
tính và càng không được thông tin càng tốt. Ngược lại, con người tác giả cũng
phải tham gia vào quá trình chinh phục bạn đọc.
Ví như nhà văn Mỹ E. Hemingway
chẳng hạn.
Sinh thời, ông là một cá nhân được gần như cả xã hội để ý theo dõi.
Những cá tính kỳ lạ của ông, khả năng cô độc, khả năng dai dẳng ngồi xem đấu
bò, đi săn, đi câu giữa đại dương v.v… những cái đó được người ta săn tìm
truyền tụng đồn thổi bàn tán, không kém gì tác phẩm của ông.
Có người bảo rằng
Hemingway không vô tư trong việc này. Dường như ông cố ý trình ra trước xã hội
một con người nhà văn như ông muốn. Ông hiểu rằng những giai thoại kia giúp cho
ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi.
Khỏi phải nói, ai cũng biết việc tự giới thiệu như thế
không phù hợp với thói quen của các nhà văn lẫn bạn đọc ở Việt Nam.
Chúng ta thường bảo nhau rằng phương tiện tốt nhất và gần như duy nhất để nhà
văn đến với bạn đọc là tác phẩm.
Trong khi cuốn truyện, bài thơ làm việc, con
người nhà văn càng không dây dưa vào đấy càng tốt.
Ấy thế nhưng trong Văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn
dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm
chục năm cầm bút, ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai
thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có
thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.
Nhà văn đó là
Nguyễn Tuân.
Thích ứng theo hoàn cảnh
Theo một số nhà văn đương thời kể lại thì trước Cách
mạng, ngay từ khi chưa viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng
trong giới làm văn làm báo như một người chơi ngông, tiêu tiền như rác, hết sức
khinh bạc nói chung là có những cách ứng
xử vượt lên mọi quy cách thông thường.
Không có gì lạ khi thấy trong các sáng tác mang đậm chất tự truyện, những khía cạnh
đó của con người chàng Nguyễn vẫn được giữ nguyên, thậm chí được tô đậm lên ít
chút.
Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết.
Đôi khi ông có
đội cho nhân vật một cái tên họ khác đi thì cũng chỉ là một sự thay hình đổi
lốt sơ sài, lộ liễu.
Sự tò mò không bớt đi mà chỉ càng được khơi thêm mạnh mẽ.
Đọc ông, trong tâm trí bạn đọc luôn luôn dậy lên những thắc mắc, không biết
giữa ông với những Bạch, Nguyễn, những kẻ xưng tôi trong các tùy bút, có mối quan
hệ như thế nào.
Vậy là sự tiếp xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Nó làm
cho người ta cứ phải nấn ná giữa các trang sách để từ đó, khi đã đọc Nguyễn
Tuân một cách kỹ lưỡng, sẽ bắt gặp một con người nữa, con người tha thiết với
đời mà cũng là con người nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp, biết
gắn bó với vẻ đẹp trong truyền thống nghệ thuật của ông cha bằng một óc thẩm mỹ
độc đáo.
Cái tầng thứ hai này, cố nhiên,
sẽ là lý do để người ta yêu thích ông lâu dài. Nhưng nếu không có cái tầng thứ
nhất với cả những trò chơi trội độc đáo của chàng Nguyễn thì không chắc ngay từ
đầu tác phẩm của ông có được sức cuốn hút như nó đã có. Xét về tác dụng, huyền
thoại mà ông góp phần tạo ra không thừa, mà như nghề y cổ truyền, nó là một thứ
thang để “dẫn” thuốc cho con người.
So với quãng đời trước Cách mạng, thì từ sau 1945, cuộc
sống riêng của tác giả diễn ra theo một phương hướng khác hẳn.
Cũng như tất cả
các đồng nghiệp khác, nhà văn Nguyễn Tuân từ đó có thêm một tư cách mới: tư
cách chiến sĩ.
Con đường để ông đến với bạn đọc thường khi là con đường thẳng,
không khuất khúc như xưa.
Nhưng đó là trên đại thể. Nhìn kỹ thì thấy, cách tồn
tại của Nguyễn Tuân trong văn học vẫn có chút gì khác thường và trong việc đưa
tác phẩm của ông đến với bạn đọc, con người ông vẫn có một vai trò như không hề
thấy ở các nhà văn cùng thời.
Hãy chỉ nói tới một thời điểm rõ nhất: 20 năm
cuối đời ông. Lúc này, tên tuổi Nguyễn Tuân vẫn được nhiều người truyền tụng.
Đại khái, người ta hay rỉ tai nhau rằng đấy là một ngòi bút ngang bướng, sẵn
sàng nói ra những câu chướng tai, thích tự do cá nhân, và giữa thời chiến mà
còn khư khư giữ lấy nhiều nếp sinh hoạt cầu kỳ, xa lạ.
Không chỉ những người
trong giới văn chương mà cả những người thuộc các tầng lớp xã hội khác không
liên quan lắm với văn chương, cũng biết về ông như vậy. Và người ta lại tìm đọc
ông để vừa thưởng thức văn tài, vừa cảnh giác dò tìm những chỗ ngang ngạnh của
ngòi bút. Thế là một lần nữa, Nguyễn Tuân lại “ghi điểm”.
Xét trên một phương
diện nào đó thì sự tò mò mà ông gợi ra (trong đó cái sai xen lẫn cái đúng) đã giúp rất nhiều
vào việc phổ biến những bài ký viết về phi công Mỹ và nhiều loại đề tài khác mà
Nguyễn Tuân cho in những năm cuối đời. Nhờ vậy, điều ông viết ra (tội ác và sự
kém cỏi của địch, thế mạnh, thế tất thắng của ta) – những điều khá đơn giản đó lại đến với
người đọc thấm thía hơn.
Nếu không ngại dùng chữ huyền thoại thì có thể bảo là
cho đến lúc nhắm mắt, Nguyễn Tuân luôn luôn tạo được huyền thoại về mình, huyền
thoại ấy lần này giúp ông làm tròn sứ mệnh một chiến sĩ, một cán bộ viết văn mà
ông đã tự nguyện mang tất cả tài năng và tâm huyết để thực hiện.
Từ chỗ là một
ngòi bút cô độc (như hai câu thơ cổ ông dùng làm đề từ cho bài ký Sông Đà:
Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu – mọi con sông đều chảy ra
biển đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược lên phía bắc), ông đã trở thành một nhà
văn của mọi người như những câu được viết trong sổ tang ông ngày ông nằm
xuống (1987).
Một thời và vĩnh viễn
Tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Tuân chắc nhiều người không thể
quên một chi tiết: ngay từ khi chưa đầy 30 tuổi, người tài tử ấy đã mấy phen
ngồi uống rượu ngang ngửa với ông thần ngông Tản Đà. Vậy là sự già dặn đến với
ông ngay từ lúc trẻ. Chắc chắn, sự già dặn ấy đã giúp ông có được cái định
hướng độc đáo trong việc tổ chức đời sống của mình mà việc tạo huyền thoại,
sống trong huyền thoại nói trên, là một ví dụ.
Nay thì cùng với Nguyễn, tất cả đã trở thành quá khứ.
Trong khi những đứa con tinh thần thật sự của tác giả, những Một chuyến đi,
Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa đàn, Sông Đà, Chuyện nghề v.v… dần dần trở lại
đúng các vị trí mà chúng phải có, thì những huyền thoại không còn giữ được vẻ
thiêng liêng kỳ thú ngày nào.
Đến với hiện tượng Nguyễn Tuân giờ đây, trong
lòng không khỏi thoáng qua cảm tưởng thanh vắng y như đến chùa nhưng ngày hội
đã hết, chỉ còn gác chuông, mái ngói và những pho tượng trầm tư.
Ai người mau
xúc động thấy thế lại còn muốn ngả sang vẻ ngậm ngùi nữa!
Họ quên mất rằng khi
đặt tên cho tác phẩm đầu tay của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân
đã tự chứng tỏ ông là người có một quan niệm chắc chắn về thời gian: thời gian
làm nên những giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với cái
thời của mình, người đó coi như đã tìm
được cách để đến với vĩnh viễn.
In lần đầu trên Thể
thao&văn hóa 7-1990.
In lại trong Những kiếp hoa dại 1993
Viết thêm 10-2-2014
Trong bài báo trên, tôi mới chỉ nói qua tới việc chính Nguyễn Tuân tạo ra huyền thoại về mình -- nhất là huyền thoại ngông nghênh ngang ngạnh, thích tự do cá nhân, không ra chất một người chiến sĩ dễ bảo dễ chỉ huy...
Dần dà rồi mới hiểu thêm một điều quan trọng nữa: cái huyền thoại ấy còn được cả xã hội nâng đỡ và bồi đắp thêm.
Người lãnh đạo cao nhất trong văn nghệ là Tố Hữu dường như đã có một chương trình quản lý và sử dụng Nguyễn Tuân bao gồm mấy bước:
1/ đưa nhà văn này lên vị trí loại cao nhất trong giới
2/ cho báo chí phê phán nhà văn không thương tiếc khi có biểu hiện chệch hướng
3/ vẫn yêu cầu cấp dưới dành cho ông Nguyễn một sự ưu ái đặc biệt coi như một thứ của quý của xã hội, niềm tự hào của văn học dân tộc.
Tôi được các nhà văn lớp trước, từ Vũ Tú Nam, Nguyễn Thành Long tới Nguyễn Khải Nguyễn Kiên... cho biết là sau vụ Nhân văn, trong những chuyến gọi là đi thực tế, Nguyễn Tuân được các tỉnh ủy huyện ủy tiếp rước hết sức cung kính. Ai cũng lấy việc được chiêm ngưỡng ông chiều chuộng ông là niềm tự hào.
Quay trở lại với phần trách nhiệm chủ thể: Nguyễn Tuân thừa biết điều đó.
Ông khai thác đúng mức những gì được phép và dừng lại ở chỗ cần thiết.
Ông chỉ "sục sặc" "chọc ngoáy" vào những điểm phụ, những vấn đề không quan trọng. Khi bị phê phán ông không bao giờ cãi lại. Với báo chí, ông có một số bài ký thuộc loại hồi ấy gọi là phục vụ kịp thời, bản thân ông chỉ coi trả nợ cho xong chuyện.
Quan hệ giữa ông và cách mạng rút lại có thể diễn tả bằng cái công thức phổ biến trong giao tiếp "hai bên lợi dụng lẫn nhau"(nó là một dạng biến tướng của mối quan hệ giữa chính trị và chuyên môn mà Phan Khôi đã đúc kết trong truyện ngắn Ông Năm Chuột, tuy là biến tướng xoàng xĩnh bậc nhất).
Cách sống ấy hẳn đã làm nghèo ông đi. Chắc chắn là ông đã mang theo xuống mồ rất nhiều ý tưởng mà nếu viết ra có thể mang vạ, nhưng lại có lợi cho nhân dân đất nước về lâu dài.
Nhưng sự tha thiết với chính niềm tin của bản thân ở ông cứ leo lét dần.
Ông không dám chỉ viết cho mình, viết cho đời sau, như cách sáng tác của cánh họa sĩ Nghiêm Liên Sáng Phái mà ông rất hiểu.
Ông chấp nhận làm theo đơn đặt hàng, và khi không thích làm thì nghỉ, chơi.
Trong thâm tâm, ông tự nghĩ cái tạng của mình là thế, mình cần làm thế để sống.
Nếu theo dõi cả thời trai trẻ, người ta sẽ thấy cách sống cách tồn tại dưới dạng thích ứng một cách thụ động như thế thật ra là hợp với tính cách "sống bằng bề nổi" của ông.
Nhìn ra chung quanh lại thấy đây là cái mạch sống chung của tuyệt đại đa số nhà văn cùng lứa cùng thời cùng cảnh ngộ với Nguyễn.
Trong đám đông, ông vẫn bảo đảm được tính độc đáo của mình. Thế là đủ.
Trong tập chân dung văn học Cây bút đời người, khi viết về ông, tôi đã đặt tên bài viết là Nguyễn Tuân, người nhập vai, là với ý ấy. Song lúc đó nội dung này mới được khai thác hời hợt và dừng lại ở một gợi ý xa xôi. Nay xin bổ sung vài điều sơ lược như trên để tiếp tục nghĩ thêm.
Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại
chúng, sự tiếp nhận văn chương của con người thời nay so với người xưa có thêm
những phương tiện mới: nếu muốn, họ có thể đồng thời vừa đọc sách một nhà văn,
vừa biết rất rõ về nhà văn ấy. Con người tác giả không còn là một yếu tố trung
tính và càng không được thông tin càng tốt. Ngược lại, con người tác giả cũng
phải tham gia vào quá trình chinh phục bạn đọc.
Ví như nhà văn Mỹ E. Hemingway
chẳng hạn.
Sinh thời, ông là một cá nhân được gần như cả xã hội để ý theo dõi.
Những cá tính kỳ lạ của ông, khả năng cô độc, khả năng dai dẳng ngồi xem đấu
bò, đi săn, đi câu giữa đại dương v.v… những cái đó được người ta săn tìm
truyền tụng đồn thổi bàn tán, không kém gì tác phẩm của ông.
Có người bảo rằng
Hemingway không vô tư trong việc này. Dường như ông cố ý trình ra trước xã hội
một con người nhà văn như ông muốn. Ông hiểu rằng những giai thoại kia giúp cho
ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi.
Khỏi phải nói, ai cũng biết việc tự giới thiệu như thế
không phù hợp với thói quen của các nhà văn lẫn bạn đọc ở Việt Nam.
Chúng ta thường bảo nhau rằng phương tiện tốt nhất và gần như duy nhất để nhà
văn đến với bạn đọc là tác phẩm.
Trong khi cuốn truyện, bài thơ làm việc, con
người nhà văn càng không dây dưa vào đấy càng tốt.
Ấy thế nhưng trong Văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn
dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm
chục năm cầm bút, ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai
thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có
thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.
Nhà văn đó là
Nguyễn Tuân.
Thích ứng theo hoàn cảnh
Theo một số nhà văn đương thời kể lại thì trước Cách
mạng, ngay từ khi chưa viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng
trong giới làm văn làm báo như một người chơi ngông, tiêu tiền như rác, hết sức
khinh bạc nói chung là có những cách ứng
xử vượt lên mọi quy cách thông thường.
Không có gì lạ khi thấy trong các sáng tác mang đậm chất tự truyện, những khía cạnh
đó của con người chàng Nguyễn vẫn được giữ nguyên, thậm chí được tô đậm lên ít
chút.
Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết.
Đôi khi ông có
đội cho nhân vật một cái tên họ khác đi thì cũng chỉ là một sự thay hình đổi
lốt sơ sài, lộ liễu.
Sự tò mò không bớt đi mà chỉ càng được khơi thêm mạnh mẽ.
Đọc ông, trong tâm trí bạn đọc luôn luôn dậy lên những thắc mắc, không biết
giữa ông với những Bạch, Nguyễn, những kẻ xưng tôi trong các tùy bút, có mối quan
hệ như thế nào.
Vậy là sự tiếp xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Nó làm
cho người ta cứ phải nấn ná giữa các trang sách để từ đó, khi đã đọc Nguyễn
Tuân một cách kỹ lưỡng, sẽ bắt gặp một con người nữa, con người tha thiết với
đời mà cũng là con người nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp, biết
gắn bó với vẻ đẹp trong truyền thống nghệ thuật của ông cha bằng một óc thẩm mỹ
độc đáo.
Cái tầng thứ hai này, cố nhiên,
sẽ là lý do để người ta yêu thích ông lâu dài. Nhưng nếu không có cái tầng thứ
nhất với cả những trò chơi trội độc đáo của chàng Nguyễn thì không chắc ngay từ
đầu tác phẩm của ông có được sức cuốn hút như nó đã có. Xét về tác dụng, huyền
thoại mà ông góp phần tạo ra không thừa, mà như nghề y cổ truyền, nó là một thứ
thang để “dẫn” thuốc cho con người.
So với quãng đời trước Cách mạng, thì từ sau 1945, cuộc
sống riêng của tác giả diễn ra theo một phương hướng khác hẳn.
Cũng như tất cả
các đồng nghiệp khác, nhà văn Nguyễn Tuân từ đó có thêm một tư cách mới: tư
cách chiến sĩ.
Con đường để ông đến với bạn đọc thường khi là con đường thẳng,
không khuất khúc như xưa.
Nhưng đó là trên đại thể. Nhìn kỹ thì thấy, cách tồn
tại của Nguyễn Tuân trong văn học vẫn có chút gì khác thường và trong việc đưa
tác phẩm của ông đến với bạn đọc, con người ông vẫn có một vai trò như không hề
thấy ở các nhà văn cùng thời.
Hãy chỉ nói tới một thời điểm rõ nhất: 20 năm
cuối đời ông. Lúc này, tên tuổi Nguyễn Tuân vẫn được nhiều người truyền tụng.
Đại khái, người ta hay rỉ tai nhau rằng đấy là một ngòi bút ngang bướng, sẵn
sàng nói ra những câu chướng tai, thích tự do cá nhân, và giữa thời chiến mà
còn khư khư giữ lấy nhiều nếp sinh hoạt cầu kỳ, xa lạ.
Không chỉ những người
trong giới văn chương mà cả những người thuộc các tầng lớp xã hội khác không
liên quan lắm với văn chương, cũng biết về ông như vậy. Và người ta lại tìm đọc
ông để vừa thưởng thức văn tài, vừa cảnh giác dò tìm những chỗ ngang ngạnh của
ngòi bút. Thế là một lần nữa, Nguyễn Tuân lại “ghi điểm”.
Xét trên một phương
diện nào đó thì sự tò mò mà ông gợi ra (trong đó cái sai xen lẫn cái đúng) đã giúp rất nhiều
vào việc phổ biến những bài ký viết về phi công Mỹ và nhiều loại đề tài khác mà
Nguyễn Tuân cho in những năm cuối đời. Nhờ vậy, điều ông viết ra (tội ác và sự
kém cỏi của địch, thế mạnh, thế tất thắng của ta) – những điều khá đơn giản đó lại đến với
người đọc thấm thía hơn.
Nếu không ngại dùng chữ huyền thoại thì có thể bảo là
cho đến lúc nhắm mắt, Nguyễn Tuân luôn luôn tạo được huyền thoại về mình, huyền
thoại ấy lần này giúp ông làm tròn sứ mệnh một chiến sĩ, một cán bộ viết văn mà
ông đã tự nguyện mang tất cả tài năng và tâm huyết để thực hiện.
Từ chỗ là một
ngòi bút cô độc (như hai câu thơ cổ ông dùng làm đề từ cho bài ký Sông Đà:
Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu – mọi con sông đều chảy ra
biển đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược lên phía bắc), ông đã trở thành một nhà
văn của mọi người như những câu được viết trong sổ tang ông ngày ông nằm
xuống (1987).
Một thời và vĩnh viễn
Tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Tuân chắc nhiều người không thể
quên một chi tiết: ngay từ khi chưa đầy 30 tuổi, người tài tử ấy đã mấy phen
ngồi uống rượu ngang ngửa với ông thần ngông Tản Đà. Vậy là sự già dặn đến với
ông ngay từ lúc trẻ. Chắc chắn, sự già dặn ấy đã giúp ông có được cái định
hướng độc đáo trong việc tổ chức đời sống của mình mà việc tạo huyền thoại,
sống trong huyền thoại nói trên, là một ví dụ.
Nay thì cùng với Nguyễn, tất cả đã trở thành quá khứ.
Trong khi những đứa con tinh thần thật sự của tác giả, những Một chuyến đi,
Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa đàn, Sông Đà, Chuyện nghề v.v… dần dần trở lại
đúng các vị trí mà chúng phải có, thì những huyền thoại không còn giữ được vẻ
thiêng liêng kỳ thú ngày nào.
Đến với hiện tượng Nguyễn Tuân giờ đây, trong
lòng không khỏi thoáng qua cảm tưởng thanh vắng y như đến chùa nhưng ngày hội
đã hết, chỉ còn gác chuông, mái ngói và những pho tượng trầm tư.
Ai người mau
xúc động thấy thế lại còn muốn ngả sang vẻ ngậm ngùi nữa!
Họ quên mất rằng khi
đặt tên cho tác phẩm đầu tay của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân
đã tự chứng tỏ ông là người có một quan niệm chắc chắn về thời gian: thời gian
làm nên những giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với cái
thời của mình, người đó coi như đã tìm
được cách để đến với vĩnh viễn.
In lần đầu trên Thể
thao&văn hóa 7-1990.
In lại trong Những kiếp hoa dại 1993
Viết thêm 10-2-2014
Trong bài báo trên, tôi mới chỉ nói qua tới việc chính Nguyễn Tuân tạo ra huyền thoại về mình -- nhất là huyền thoại ngông nghênh ngang ngạnh, thích tự do cá nhân, không ra chất một người chiến sĩ dễ bảo dễ chỉ huy...
Dần dà rồi mới hiểu thêm một điều quan trọng nữa: cái huyền thoại ấy còn được cả xã hội nâng đỡ và bồi đắp thêm.
Người lãnh đạo cao nhất trong văn nghệ là Tố Hữu dường như đã có một chương trình quản lý và sử dụng Nguyễn Tuân bao gồm mấy bước:
1/ đưa nhà văn này lên vị trí loại cao nhất trong giới
2/ cho báo chí phê phán nhà văn không thương tiếc khi có biểu hiện chệch hướng
3/ vẫn yêu cầu cấp dưới dành cho ông Nguyễn một sự ưu ái đặc biệt coi như một thứ của quý của xã hội, niềm tự hào của văn học dân tộc.
Tôi được các nhà văn lớp trước, từ Vũ Tú Nam, Nguyễn Thành Long tới Nguyễn Khải Nguyễn Kiên... cho biết là sau vụ Nhân văn, trong những chuyến gọi là đi thực tế, Nguyễn Tuân được các tỉnh ủy huyện ủy tiếp rước hết sức cung kính. Ai cũng lấy việc được chiêm ngưỡng ông chiều chuộng ông là niềm tự hào.
Quay trở lại với phần trách nhiệm chủ thể: Nguyễn Tuân thừa biết điều đó.
Ông khai thác đúng mức những gì được phép và dừng lại ở chỗ cần thiết.
Ông chỉ "sục sặc" "chọc ngoáy" vào những điểm phụ, những vấn đề không quan trọng. Khi bị phê phán ông không bao giờ cãi lại. Với báo chí, ông có một số bài ký thuộc loại hồi ấy gọi là phục vụ kịp thời, bản thân ông chỉ coi trả nợ cho xong chuyện.
Quan hệ giữa ông và cách mạng rút lại có thể diễn tả bằng cái công thức phổ biến trong giao tiếp "hai bên lợi dụng lẫn nhau"(nó là một dạng biến tướng của mối quan hệ giữa chính trị và chuyên môn mà Phan Khôi đã đúc kết trong truyện ngắn Ông Năm Chuột, tuy là biến tướng xoàng xĩnh bậc nhất).
Cách sống ấy hẳn đã làm nghèo ông đi. Chắc chắn là ông đã mang theo xuống mồ rất nhiều ý tưởng mà nếu viết ra có thể mang vạ, nhưng lại có lợi cho nhân dân đất nước về lâu dài.
Nhưng sự tha thiết với chính niềm tin của bản thân ở ông cứ leo lét dần.
Ông không dám chỉ viết cho mình, viết cho đời sau, như cách sáng tác của cánh họa sĩ Nghiêm Liên Sáng Phái mà ông rất hiểu.
Ông chấp nhận làm theo đơn đặt hàng, và khi không thích làm thì nghỉ, chơi.
Trong thâm tâm, ông tự nghĩ cái tạng của mình là thế, mình cần làm thế để sống.
Nếu theo dõi cả thời trai trẻ, người ta sẽ thấy cách sống cách tồn tại dưới dạng thích ứng một cách thụ động như thế thật ra là hợp với tính cách "sống bằng bề nổi" của ông.
Nhìn ra chung quanh lại thấy đây là cái mạch sống chung của tuyệt đại đa số nhà văn cùng lứa cùng thời cùng cảnh ngộ với Nguyễn.
Trong đám đông, ông vẫn bảo đảm được tính độc đáo của mình. Thế là đủ.
Trong tập chân dung văn học Cây bút đời người, khi viết về ông, tôi đã đặt tên bài viết là Nguyễn Tuân, người nhập vai, là với ý ấy. Song lúc đó nội dung này mới được khai thác hời hợt và dừng lại ở một gợi ý xa xôi. Nay xin bổ sung vài điều sơ lược như trên để tiếp tục nghĩ thêm.
Published on February 10, 2014 03:27
February 6, 2014
Một tư duy nghệ thuật kiểu Liêu trai
Sinh thời Nguyễn Tuân,
các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành
tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới 1999 thì khai sinh cho nó
thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Chúng ta có dịp đọc
lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa
thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ),
Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi
hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn
Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản
mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong
cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng
một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém
treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý
“Lúc
quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết
kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh.
Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan
đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống
bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ
Bồ trong Tuỳ bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói
tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận
xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn
ít khi là thực”.
Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài
khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên.
Đây là câu chuyện về
một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa
ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết.
Nhưng, như có tiền
định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng.
Bói bằng cách khai bút
thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối
cùng”.
Ra sông bói đò thì nhỡ
đò.
Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào
xanh lè không có đầu”.
Sau hết, tối lần ra
chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là
một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám
đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc
và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp
(cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn
sách chưa đầy 200 trang).
Ở đây, khi nói rằng có
một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên
tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi
rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ
quái”.
Trong hai tập phóng sự
này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu
lên:
“Gớm sao
mà Bồ Tùng Linh thế!”
“Sao mà Edgar Poe thế!”.
Trong quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi
sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt
lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của
người bồi tiệm)
3. Một số người lầm
tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của
Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945.
Nhưng không phải vậy.
Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại
không khí một vùng buôn lậu, ông viết:
“Danh từ
Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có
sự rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa
những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia
lên giời (...)” (bài Cống Thần, in trongTuỳ bút kháng chiến.)
Sau này, viết Tình
rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá
xa.
“Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám
cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen
nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy
người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản
thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”.
Hoặc như, khi Kể
chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn
ở nơi mà người ta hay bảo là có ma.
“Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương... Đêm thanh
vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên
từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà
thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là
tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió
lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với
ánh trăng suông...”
4. Một phần tâm huyết
của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình.
Nhưng đó là những
trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói
cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc
bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái
phần con người riêng của ông.
Dĩ nhiên, là người đã
viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người
khác.
Chẳng hạn, trong số
rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc
trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một
mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”.
Đọc Tắt đèn ông
liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật
địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô
đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”.
Còn khi trở lại với
thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn
bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở
ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải
nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút
chì và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì.
Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên,
đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra
lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết
hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những
trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của
ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin
nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã
xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.
Nhưng đây là một câu
chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.
các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành
tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới 1999 thì khai sinh cho nó
thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Chúng ta có dịp đọc
lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa
thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ),
Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi
hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn
Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản
mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong
cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng
một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém
treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý
“Lúc
quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết
kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh.
Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan
đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống
bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ
Bồ trong Tuỳ bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói
tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận
xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn
ít khi là thực”.
Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài
khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên.
Đây là câu chuyện về
một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa
ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết.
Nhưng, như có tiền
định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng.
Bói bằng cách khai bút
thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối
cùng”.
Ra sông bói đò thì nhỡ
đò.
Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào
xanh lè không có đầu”.
Sau hết, tối lần ra
chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là
một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám
đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc
và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp
(cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn
sách chưa đầy 200 trang).
Ở đây, khi nói rằng có
một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên
tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi
rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ
quái”.
Trong hai tập phóng sự
này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu
lên:
“Gớm sao
mà Bồ Tùng Linh thế!”
“Sao mà Edgar Poe thế!”.
Trong quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi
sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt
lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của
người bồi tiệm)
3. Một số người lầm
tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của
Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945.
Nhưng không phải vậy.
Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại
không khí một vùng buôn lậu, ông viết:
“Danh từ
Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có
sự rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa
những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia
lên giời (...)” (bài Cống Thần, in trongTuỳ bút kháng chiến.)
Sau này, viết Tình
rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá
xa.
“Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám
cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen
nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy
người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản
thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”.
Hoặc như, khi Kể
chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn
ở nơi mà người ta hay bảo là có ma.
“Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương... Đêm thanh
vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên
từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà
thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là
tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió
lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với
ánh trăng suông...”
4. Một phần tâm huyết
của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình.
Nhưng đó là những
trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói
cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc
bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái
phần con người riêng của ông.
Dĩ nhiên, là người đã
viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người
khác.
Chẳng hạn, trong số
rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc
trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một
mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”.
Đọc Tắt đèn ông
liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật
địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô
đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”.
Còn khi trở lại với
thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn
bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở
ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải
nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút
chì và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì.
Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên,
đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra
lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết
hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những
trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của
ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin
nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã
xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.
Nhưng đây là một câu
chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.
Published on February 06, 2014 05:44
February 5, 2014
Một truyện ngắn của Nguyễn Tuân viết về những cuộc du xuân và việc báo oán
Dưới đây là một truyện ngắn thuộc dạng yêu ngôn của Nguyễn
Tuân, thiên truyện đậm chất ma quái song lại chưa được các nhà nghiên cứu chuyên về Nguyễn Tuân biết tới, do đó cũng chưa hề xuất hiện trong các tuyển tập làm khi ông còn sống lẫn cả bộ toàn tập làm sau khi ông mất .
Sở dĩ người sưu tầm tha thiết muốn nhiều bạn đọc cùng đọc
lại truyện ngắn Thạch tinh trong bụng một người này (in ra lần đầu từ 1943) vì hai lẽ.
Thứ nhất nó có những đoạn cực tả về tình trạng thụ bệnh của một con người.
Xã hội ta hiện đầy rẫy những người bệnh tật, bệnh nổi có bệnh
chìm có.
Chắc hẳn là sau những trạng thái bệnh bình thường, còn có biết bao nhiêu thứ bệnh kỳ lạ mà chỉ thời hiện đại mới có.
Hơn nữa, chữ bệnh theo nghĩa đen thường cũng tương ứng với một tình trạng bệnh tật về tinh thần,-- chữ bệnh theo nghĩa bóng. Theo nghĩa này và tổng quát lại có thể coi là chúng ta đang sống trong một xã hội của thời - hậu - chiến - bệnh - hoạn.
Với cả hai dạng đó, t rước khi bàn chuyện kê đơn
chữa chạy, đang cần những người biết miêu tả biết nói ra cho mọi người
rõ về bệnh để cùng biết, cùng ngấm, cùng sợ.
Thứ hai truyện nói về sự báo oán báo thù, nó cũng là cái thứ rất nặng nợ trong mối quan hệ giữa người với người thời nay.
Trong truyện ngắn dưới đây của Nguyễn Tuân, báo oán là sự
trừng phạt kỳ cục với những kẻ lừa dối dẫn đến cái chết của mấy người
đàn bà trẻ tuổi.
Ngày nay đang nẩy sinh những tội ác trên quy mô lớn, động chạm đến số phận tài sản nhân cách hàng vạn hàng triệu người.
Các nạn nhân chỉ còn có cách cầu cứu tới những thế lực siêu nhiên.
Người ta cùng mong đợi một sự báo oán ghê rợn tột cùng sẽ xẩy ra với bọn ác.
Niềm tin vào cái công lý mơ hồ huyền bí ấy hình như rất sâu
sắc nơi Nguyễn Tuân. Nó buộc ông ở cuối truyện, mượn lời một nhân vật ,
phải công khai đứng ra khuyên mọi người qua các tình tiết éo le “tìm
lấy một ý niệm trong đời sống đạo đức”.
Tác giả thường bị mọi người coi là một ngòi bút ngang ngược,
phá cách, duy mỹ, bất chấp cả những lẽ phải thông thường.
Ở đây, qua
việc tự nguyện đóng vai giáo huấn, ông có dịp thể hiện một sự “phá cách
ngược” nghiêm trang hiếm thấy.
Chính nó là cái dư vị kéo dài khiến tôi tin là thiên truyện
đáng được đông đảo chúng ta đọc đi đọc lại và liên hệ với tình hình
thời sự.
"…đến lúc nào mà đá lại biết nói nữa,
thì chúng bay sẽ chết hết"
Kinh Sám Hối
Từ cái chuyến đi chơi hội Đèn mùa Xuân năm ấy và đánh Tổ Tôm Người
(*) ở làng Nguyệt Tường về, là cậu Bảy đau nặng. Bệnh lạ quá. Động
ăn chút gì vào là thổ ra hết. Thuốc, đến chén này là chén thứ bốn mươi
hai -- tính đến cụ lang xóm Bình Xa này là ông danh y thứ mười một --,
không chén thuốc nào chịu đi qua cổ họng cậu Bảy.
Mặc dầu con bệnh cố nuốt nước thuốc mà thuốc không chịu xuống.
Hễ uống ngụm nào là lại trả ra ngay.
Nền gạch lá nem dưới giường kia, từ ngày cậu Bảy nằm liệt đó, đã
mất cái màu hồng tái cố hữu của nó. Những nước thuốc thổ ra đây đã sơn
lên một màu cánh gián dày cộm, mỗi khi gặp kỳ hanh nó lại nứt rộp ra
từng tảng cạnh uốn cong. Gặp gió nồm, những tảng sơn đó lại nhũn sũng
ra, lênh láng sánh đặc.
Trông cứ như là thuốc phiện tốt, chan hoà mà không trôi chẩy đi đâu cả.
Đến thế này thì con bệnh đã phụ thày và phụ thuốc nhiều quá.
Nước thuốc của đơn nào, cậu Bảy liền giả ngay cho thày đó, không hợp với ai cả.
Trong khi nằm chờ sự lành vững cũ trở về với thể xác, ở các lỗ chân
lông con bệnh vẫn tiết ra một thứ mồ hôi đỏ như máu, mỗi ngày thay đều
mấy lượt quần áo mà người vẫn cứ đỏ đẫm ra như máu.
Máu ấy khô cứng lại, dính bám vào da thịt, mỗi lần con bệnh bị
dựng dậy để thay mặc, sự đau khổ thực không biết thế nào mà nói cho hết
được.
Đũng và cạp quần, đường hồ lá sen áo cánh dính bết vào đã đành.
Lại đến cả đường bâu áo dài cũng phải khéo tay gỡ lắm thì mới
tránh được sự nhăn nhó rên la cho con bệnh. Nhục hình đó, sớm chiều ngày
nào cũng diễn lại.
Vào những buổi thay áo và tắm khan cho cậu Bảy, thân quyến đều
lánh đi hết. Chỉ có một người đầy tớ già làm việc bên giường.
Cậu Bảy lo khổ về bệnh thì có một phần và đau xót về nỗi nhục nhã này thì có đến muôn nghìn.
Không rõ có phải đây là một chứng nan y hay không, nhưng con bệnh
tưởng phụ ngay được đời sống bằng một việc quyên sinh, còn hơn là kéo
dài ngày chờ khỏi với cái cảnh tượng một phế nhân tanh tởm xấu xí này.
Hỡi ôi, trông cậu bây giờ, ai dám nghĩ rằng con người ấy, trước
đây, đã từng bao nhiêu lần mặc áo gấm lam có vảy bạc và cưỡi một con
ngựa màu phấn đạm.
Cậu Bảy tuy là người của thế kỷ này, nhưng nhất định không dùng
ô-tô, mặc dầu cậu thừa sức sắm được - mỗi lần ngừng nhạc (1) ở cổng vườn
nhà nào để hỏi thăm tiểu chủ nhân xem đêm trước hoa rụng nhiều hay ít,
thì miệng nói ra toàn là thơ và nhời của câu đối cả!
Con người phong lưu mã thượng ấy, giờ trông đáng kinh tởm lắm.
Ngày nào cũng vậy, ở các lỗ chân lông, thay cho mồ hôi của một thứ bệnh thoát dương,
chưa có tên chua trong y khoa xứ này thời này, máu cứ đều đều rỉ tuôn
ra tưởng như không bao giờ cái chất quý ấy ở một người lại có thể cạn
kiệt được.
Gian buồng bệnh, tanh hơn lòng thuyền của người đi bể đánh cá dài hạn.
Cho người lạ chợt vào đây, cái cử chỉ đầu tiên của người ấy là
cứng chân kìm đà bước, ưỡn ngửa người ra sau để đưa tay lên cố mà băn
khoăn với một cơn mửa lộn hộc.
Và nhìn người nằm đờ trên giường bệnh áo quần tẩm ướt đỏ ngòm
và dưới gầm bóng loáng nước thuốc nâu cô sánh lại, người ta nghĩ đến một
vụ án mạng -- tử thi nằm chờ quan huyện đến khám nghiệm, đối chiếu xác
với phép sách Tẩy Oan.
Thân quyến cũng héo dần trong sự ngậm ngùi.
Hết lễ bái ở đền này phủ nọ, hết bói toán tướng số thì lại ngờ đến mồ mả gia tiên xem có ai phạm tới không.
Ông thầy địa lý cũng không hơn gì được ông thầy bói và ông thầy thuốc.
Cô Chín -- em ruột cậu Bảy -- vốn biết anh mình không phải là
một người thẳng thắn, trong tâm tính những lúc ra ngoài, ngờ anh đã dính
vào một việc tình cảm ở chỗ đầu sông ngọn nguồn xứ Mường, đã chót chỉ
non thề bể với con nhà lang đạo nào ở thượng du, để đến nỗi người ta
phải hờn giận mà chài ốm chăng. Bèn nói với mẹ nên đem vàng nhang lên dò
hỏi ở những chỗ rừng xanh núi đỏ.
Cũng vô hiệu. Cũng vẫn không chỉ được cái thứ mồ hôi đó ngày ngày tuôn rỉ ra khắp mình Cậu Bảy.
Ấy là sự thuốc thang chạy chữa.
Còn như việc cơm cháo hằng ngày thì con bệnh chỉ chịu uống có
nước đậu xanh xanh lòng; còn bất cứ cái gì khác là cũng đều trả ra hết.
Người, ăn uống như thế, gì mà chẳng teo ngót mãi đi.
Tứ chi như bốn thân que, khắp mình đường gân xanh nổi lên rõ;
ổ mắt trũng xuống, xương lồng ngực đội mãi lên;
cuống họng thắt lại, tiếng nói bé dần, nói ra không ai nghe thấy gì nữa;
rồi đến thính giác lại càng hỏng quá; không nghe thấy một tiếng
động gì của ngoại cảnh lọt được vào và riêng trong đầu mình thì suốt
ngày đêm cứ thấy có cái gì nó kêu gào ngay ở đấy --
lắm lúc nghe sợ quá, con bệnh lại rú lên, vật vã giẫy giụa, trông thương thảm vô cùng.
Một hôm, theo lệ thường vào thay quần áo lần thứ nhất mỗi ngày
cho Cậu Bảy, người nghĩa bộc có tuổi bỗng kêu to lên, làm kinh động cả
một gia đình ít lâu nay chỉ còn sống trong âm thầm.
Y gọi cả nhà lại giường bệnh mà xem.
Người nằm đây không đỏ đẫm như mọi ngày nữa và giờ lại trắng
bệch. Thì ra, không hiểu vì phép sinh lý gì, máu đỏ trong người con bệnh
đã hết từ đêm trước và, tuôn ra các lỗ chân lông, giờ chỉ toàn là một
thứ máu trắng.
Lấy tờ giấy bản để lên mình con bệnh một lúc lâu cho nó thấm
hút lấy ít máu trắng, người lão bộc thè lưỡi nếm vào mảnh giấy ướt, thấy
nó nhạt như vị nước lã, bèn khóc oà lên với một câu: "Thế này thì cậu
con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu. Cả nhà lo liệu đi thì vừa
thôi."
Từ buổi nếm phải một thứ máu không có chất tanh, mặn và thay
những quần áo không còn màu đỏ máu như trước nữa, người đầy tớ già xác
tín rằng mình đang liệm sống cho một người lả dần về cõi khác.
Cuối tháng đó, nguời chú Cậu Bảy lật đật về đến nhà, sau khi
nhận được gia thư do Cô Chín gởi đi. Ông tức tốc vào buồng bệnh, đem
thẳng ngay cát bụi của đường xa vào gian phòng sâm tịch (2), muốn giáp mặt ngay đứa cháu để hỏi chuyện.
Đã từ lâu, Cậu Bảy vốn không nghe được tiếng gì và không nói
được ra tiếng, chú cháu phải lấy giấy mực ra để bút đàm. Tờ giáp (3) cuộc hội đàm thân mật bằng bút này, xem lại y như những lời hỏi cung và những lời thú tội. Gọn rõ và cảm động.
Chú hỏi: "- Tháng giêng mùa vừa rồi, mày cho ngựa ngày ăn cỏ ở vùng nào?"
Cậu Bảy, cố thu hết thân lực vào đôi mắt, nhìn ông chú không
chớp cố tỏ cho chú biết rằng mình không có điều gì phải minh (4) cùng
ai hết.
Biết đứa cháu có tính gan bướng, ông chú bèn đấu dịu. Bèn viết
lại: "Thầy cháu mất đi rồi, lớn nhất trong chi họ nhà ta, chỉ còn có
chú. Vì sự mưu sinh, chú phải đi xa luôn. Chú không ở luôn ở nhà được để
góp thêm tâm ý vào việc phục hưng gia tộc, thật là một điều lỗi đối với
các cháu hàng dưới. Nay nhận được thư của em Chín cháu, kể rõ sự tai
biến, chú vội về thăm cháu và cần nhất là hỏi cháu mấy điều, trước khi
cháu chết -- chú chẳng cần phải giấu mà không dám nói ngay cho cháu biết
rằng sự sống của cháu bây giờ cũng chỉ là việc của khoảnh khắc đây
thôi; có kéo dài lắm thì cháu cũng chỉ đậu được đến ngày thu phân tháng
sau thôi".
Đến đây, ông chú chừng cũng bùi ngùi thay cho đứa cháu bạc mệnh,
ngừng viết, nhìn Cậu Bảy. Mặt Cậu Bảy rớm lệ. Ông chú viết tiếp:
- Tháng giêng vừa rồi, cháu chơi ở làng Nguyệt Sương?
- Vâng. Chơi Tổ Tôm Người.
- Đúng rồi. Chẳng lúc về đây, tiện đường, chú rẽ vào làng Nguyệt Sương
thăm ông Chánh Ba và được nghe một câu chuyện tự ải (5). Người con gái
quan Lãnh Tín gieo mình xuống đầm. Rồi ông Chánh Ba lại kể cho chú nghe
về phong tư diện mạo một người khách phương xa đến chơi Tổ Tôm Người,
khăng khít với một con Thang Thang. Cứ những dáng điệu người và lời thơ
hạ chữ đối và gieo tử vận (6), do ông Chánh Ba thuật lại, thì chú đoán
ngay ông khách phương xa ấy lại là cháu chú rồi.
Thế còn cái con Thang Thang ấy? Ai sắm Thang Thang trong hội bài người?
- Bẩm chú, chính là con gái quan Lãnh.
Ông chú lịm người đi, tay rời hẳn bút ra. Thế này thì ông hiểu rồi.
Chợt trong có một phút của trực giác, ông nhận thấy ngay liên can giữa
bệnh người cháu và cái chết đuối của người con gái kia.
Ông gặng hỏi: "Vậy chớ mày thề thốt những gì với con gái ông Lãnh Tín?".
Cậu Bảy không trả lời, khẽ thở dài.
Ông đổi câu chuyện:
- Giờ tao hỏi về bệnh mày. Thế trong người mày bây giờ nó như thế nào? Kể rõ cho chú nghe.
- Kể lại cũng vô ích. Thuốc thầy nào chữa nổi. Cháu chỉ còn chờ có
chết để tạ lỗi cùng con bài Thang Thang. Việc cô con gái quan Lãnh tự
vẫn, cháu được biết từ trước khi chú nói. Chỉ có lửa vạc dầu sôi của một
thế giới khác là mới tẩy hết được căn bệnh của cháu. Lửa của cuộc đời
này, không đủ nóng để diệt những trùng trong mình cháu. Thôi, ngày giờ
của cháu đang bị tính đếm từng li từng phút, chú để cho cháu được yên
tĩnh mà nghĩ tới một hậu kiếp của cháu ở ngoài thế giới này.
- Làm ích được cho đời sống này chút nào, ta vẫn cứ phải gắng, gắng
cho tới phút cuối. Bệnh của cháu, tự cổ lai đến giờ, chưa có một y gia
cổ kim Đông Tây nào nói đến. Y học Thái Tây thì lại càng không có bàn
đến nữa. Nó là ở ngoài khu vực y khoa hiện đại.
Cháu cứ kể rõ chú nghe. Chú ghi lại để rồi sau sẽ thuật chép ra
để chất chính (7) cùng những bậc Biển Thước của năm cõi lục địa. Đã hay
rằng việc này là một việc quả báo, một việc âm oán.
Nhưng biết đâu đấy? Cháu cứ kể rõ. Cháu gây nên tội ác, cháu đau
khổ nhục nhã đến như thế, tưởng cũng là đủ cho linh hồn cháu siêu thoát
rồi. Đời cháu, vào quãng cuối, thế mà lại còn hơn cả những cuộc đời kẻ
khác trọn đời không làm một điều thiện nào và cũng chẳng làm một điều ác
nào.
Cháu cứ bình tĩnh mà kể lại chứng bệnh cháu, may ra có bổ ích gì cho người đồng thời không?
Tay run run, Cậu Bảy cầm bút.
Những giòng chữ chằng vào nhau và chữ nọ dính bắt qua chữ khác như chữ phép lá bùa trừ tà.
Chữ ít, không có linh khiếu, thiếu cả kiến lẫn thức (8), và lại không bác văn quảng học thì có người lại sẽ tưởng đây là một câu thai
(9) của sứ Tầu gởi đố và ai giảng được thì sẽ nhất đán (10 )được làm
Trạng - theo đúng vào một lời tiên tri của Tả Ao bắt hòn đất nhà mình
phải phát vào ngày giờ ấy đây.
Cậu Bảy kể rằng:
"Tính về thời kỳ thụ bệnh kể từ hôm người cháu tiết ra một thứ
máu trắng cho đến về trước, cháu không biết gì cả. Thân xác cháu ở ngoài
Thời Gian và Không Gian. Những chuyện mồ hôi đỏ như máu tuôn rỉ khắp
mình cháu là sau này người lão bộc kể lại thì cháu mới rõ đấy thôi. Rồi
mới biết kinh sợ và cháu thừa biết là cháu hỏng mất rồi, là đời cháu hết
rồi.
"Máu đỏ chảy cạn hết, thì tiếp ngay đến việc cháu điếc và cháu
câm. Ngày lại ngày, cháu nhìn lớp máu trắng tuôn đầy trên mình cháu
thay cho lớp máu đỏ trước, tịnh không nghe được ai nói vào một câu nào
và cũng tịnh không nói ra với ai một lời nào.
"Đầu cháu rức nặng như bị đánh đai sắt vào. Ngủ được tí nào thì
thôi, chứ hễ thức giấc dậy là như có người la ó trong đó. Tiếng kêu
trong đầu rất là phồn tạp hỗn loạn. Có khi như gió ngàn đuổi mãnh thú.
Có khi như bẻ bão rượt sóng bờ. Có khi vang dậy như hầm thuốc súng nhỡ
bén chạm phải lửa ngoài. Có khi lại xa vắng u tịch như vọng hưởng của
đàn chiêu hồn bên sông không có đò chở.
Ở trong đầu thì vang dậy kinh động như vậy mà nhìn ra quanh
mình để lắng lấy tiếng một cái gì quen thuộc của hằng ngày nó có thể làm
bạn với mình và nhắc cho mình nhớ rằng mình vẫn là người của cuộc đời
này, thì cháu chỉ thấy có im lặng.
Những bóng người qua lại của cả nhà này đều câm cả.
Những hình ảnh đó cử động và mấp máy môi như người trong trò phim câm.
"Mất đến ba tuần khổ loạn như thế ở trong đầu.
Được đúng một ngày một đêm, trong đầu cháu tắt hẳn tiếng kêu.
Nhưng đến ngày sau thì trong người cháu lại có một việc biến
rất mới lạ. Là ở trong bụng, lại có tiếng người rì rầm lào xào.
Hình như đấy là một cuộc nói chuyện tay đôi của hai con người.
Không rõ họ là già hay trẻ, đàn ông hay là đàn bà. Vì cái tiếng nói của
họ là một thứ âm thanh không có tuổi không phân ra giống cái giống đực.
Họ nói tuy bé nhưng rồi sau cháu cũng nghe được.
Có lẽ vì cháu đã thành một người điếc đối với tất cả biểu diễn
của cuộc đời bên ngoài bằng tiếng động, có lẽ vì thính giác của cháu chỉ
còn có thu dồn vào để mình lại lắng cái tiếng của cuộc đời bên trong
thôi, có lẽ vì thế mà cháu đã nghe nổi những cuộc đối thoại của họ trong
bụng cháu chăng? Buổi sớm họ cười đùa, buổi trưa họ hờn giận, buổi
chiều họ cãi nhau xỉ vả nhau để lúc khuya khoắt thì lại làm lành và cợt
nũng nhau. Không rõ họ có ngủ phút nào trong người cháu không, chứ hễ
cháu thức lúc nào là nghe thấy họ kể lể than vãn khúc khích lúc ấy.
"Một buổi nặng bụng buồn tay quá, cháu có đem việc này kể ra
giấy cùng tên nghĩa bộc vẫn luôn luôn có mặt ở bên giường cháu. Ngay
chiều ấy, cháu nghe thấy một cuộc than khóc vật vã của họ, tiếng thê
thảm đưa từ dưới lên trên đầu, rung mạnh các thớ màng óc. Cháu nghe rõ
mồn một. Câu của người thứ nhất:
" -Này, nó định trục hai đứa ta ra khỏi lòng nó đấy.
" Câu của người sau:
" - Sao biết? Và nó định dùng thuật pháp gì? Lòng nó là quê của
ta rồi. Một vào nổi là ở mãi, trăm ngàn năm cũng không ra nữa. Chỉ có nó
chết, là ta mới chịu rời đi đâu thôi. Chúng ta mà vào ngồi vững được ở
đáy lòng nó thì càng là việc Giời. Giời đã bảo ta vào thì rồi cũng chỉ
có Giời là bắt ta ra được thôi. Chứ thứ nó thì làm gì nổi.
"Đến đây, hai người lại hạ thấp giọng xuống.
" - Tao nghe thấy người nhà nó đang định cho nó ăn thịt chó để
đánh bật chúng ta ra ngoài. Người nhà nó, chắc đoán ra hai đứa ta là ai
rồi. Vậy chớ mày có sợ mùi thịt chó không?
" - Nếu thế này, thì cơ nguy đã đến nơi rồi. Ra ngoài, lạnh và lạ lắm. Mà rồi ăn vào đâu, ở vào đâu.
" - Vậy mày sợ? Tao thì yên trí lắm. Nó muốn làm gì thì làm. Tao vững lắm. Không ra.
" - Người có chất dương như anh, không sợ đã đành. Nhưng tôi
thuộc về chất âm, nghe cái tin này, rất lấy làm buồn sợ. Chúng ta sẽ
phải chia rời từ đây. Ra rồi thì khó mà vào lắm. Những lúc tưởng nhớ đến
nhau, tôi ở ngoài sẽ thông tin với người ở trong bằng cách nào? Chẳng
nhẽ biệt nhau lại có nghĩa là mất hẳn?
"Đến lúc này, cháu mới rõ rằng trong lòng cháu, có cả một người
đàn ông và một người đàn bà và họ đang xây dựng một cái gì trong người
cháu.
Cháu lấy làm nghĩ nhiều. Cháu liền cho gọi lão bộc vào hỏi. Y
cũng nói lại rằng ở nhà ngờ bệnh cháu thuộc về âm loạn và có người mách
cho rằng muốn trừ tà khí thì không gì bằng thịt loài cầy và sắp nấu cầy
cho cháu ăn.
Cháu cười và bảo lão bộc nên thôi việc ấy đi. Cháu nghĩ rằng
đằng nào thì cháu cũng tận số đến nơi rồi. Có trừ khử được những quái
vật ấy ra khỏi lòng dạ mình thì cuộc đời của cháu ở cõi đời này cũng vẫn
cứ phải tắt hết như thường.
Trước, lúc còn lành mạnh, đã gây nên điều lỗi với đàn bà; giờ,
người đã bạc nhược hao mòn đến thế này thì còn nên gây oán luỵ làm gì
với một người đàn bà khác - mặc dầu người đó là thuộc về giống yêu,
giống quái đang mượn cái lòng bị hình phạt của mình để làm một nơi
chung họp với một con quái khác.
Không phải là cháu nghĩ đến sự báo thù của giống yêu quái này mà
cháu sợ đâu. Điều oán của cháu gây nên ở đời thực tại này, cháu tin
rằng cháu đã trang trả xong bằng cái chết mòn này rồi.
Nhưng cái tương lai của cháu là ở ngoài đời thực tại này kia.
Công việc kiến thiết của cháu lại phải ở ngoài thế giới này.
Chết trong bây giờ ở đây, để mai kia cháu sẽ gặp lại con gái
quan Lãnh ở chỗ khác để lập lại với nàng một cuộc sống khác công bằng
hơn và đẹp hơn.
"Bây giờ cháu nhờ chú một việc này. Là chú sẽ cho táng cháu ở mé
gò Bạch Ảnh, ở bờ phía đông đầm làng Nguyệt-Sương, gần ngay chỗ con quan
Lãnh gieo mình. Các bề trên trong gia tộc có gì phản đối về việc chôn
cất này, chú thề với cháu là phải làm theo ý nguyện của cháu.
Thôi, lạy chú, chú ra đi. Và cho đào huyệt sẵn đi thì vừa. Cái chết đã dâng lên đến nửa phần người cháu rồi."
*
Lúc Cậu Bảy vừa thở hơi cuối cùng, quạ ở tám phương trời rủ nhau bay đến sao mà nhanh và nhiều đến thế.
Những cây và các luỹ tre các làng phụ cận bỗng hoá ra màu đen cả.
Ở những cây đen ngòm ấy, loài ác điểu ngày đêm kêu không ngớt tiếng.
Trông thi hài Cậu Bảy, người thương tiếc thì ít mà sợ tởm thì rất đông.
Trời là một đấng biết tha thứ, biết xoá bỏ, đối với một người đã
biết hối lỗi là gì rồi, sao Trời lại còn bày thêm ra một việc thảm mục
(11) đến thế nữa.
Cái thây Cậu Bảy ở giữa giường thực không còn hình nữa. Ra từ lúc
còn sống, xương Cậu Bảy đã rũa mòn dần mà không ai để ý tới.
Thành thử cỗ quan làm cho người chết hoá ra to rộng quá. Bỏ bao
nhiêu cỗ tổ tôm, bao nhiêu cuốn lịch, bao nhiêu giấy bản, bao nhiêu trà
phát du (12) vào đấy cho vừa. Nói cho đúng ra, thì phải đến năm cỗ thi
hài Cậu Bảy nữa thì mới chắc kín lòng săng.
Người ta lại phải thửa áo quan khác. Nó lại chỉ bé bằng thân hình
cái tiểu sành có viền đường gấm hoa chanh. Thành ra lúc đám khởi hành,
việc hung táng mà người không rõ chuyện lại tưởng là cát táng (13).
Lúc hạ huyệt, quạ trên một giời cao, một loạt chà xuống mép bờ đầm
bâu cứ đen đặc lại. Đứng xa trông, bờ đầm Nguyệt Sương như có người viền
một vành khăn đen tròn không nhoè lép lấy một nét.
Việc tang ma chôn cất người cháu quá mấy tuần cơm cúng rồi, bấy giờ
ông chú mới ngồi ở buồng sách tại mái tây biệt thự đã được xông hương
trầm mà giở cuốn Gia huấn trong họ nhà ra ghi vào đấy những dòng dưới đây:
" Đây là những lời quý báu ta để lại cho lũ con chính thống của ta
và cho lũ cháu trong họ nhà. Tụi bay, đứa lớn rồi thì phải đọc lấy mà
làm trọng và đe mình từ ngay phút này; còn đứa nhỏ thì noi các đàn anh
mà gắng hiểu ngay để sớm biết mà e sợ.
"Việc Cậu Bảy bị chết trong cảnh nghịch biến thương thảm - ta đã có
thuật rõ kèm vào đây, ở chương Cố sự nơi cuối tập Gia huấn này - là một
điều cảnh cáo của ý Trời. Ta vốn nặng lòng với những điều thuộc về đạo
đức thường, ta rất lấy làm đau xót cho danh dự gia tộc đã bị Cậu Bảy làm
tì ố. Người chết đã biết sám hối. Ta cũng đã biết tha thứ. Nhưng còn
ta còn sống, còn lũ bay còn sống đó!
"Nhân việc tai biến vừa xảy đến trong họ, ta lại nhớ đến một việc cũ.
"Trước đây, ta đã nhiều phen lên rừng xuống biển để tìm chân nhân.
Một chuyến đò đi bể, còn độ phần tư đường, thì ghé được tới đảo có người bên ta bị bọn giặc bể Tầu Ô bắt.
Ta được thoát chết vì cái đức bình thản của ta trước sự rộ nạt của
giáo mác lũ giặc. Đứa đầu đảng bèn đãi ta vào bực khách, lúc ăn ngủ ra
vào đều lấy các thứ lễ tiết đối với cao sĩ ra mà dùng. Ngoài những lúc
chúng phải bóc lột thuyền buôn để duy trì cuộc sống của chúng trên mặt
nước cả, đầu đảng bọn cướp thường vời ta tới bàn để hỏi về thiên văn,
địa lý và nhân luân.
Hắn biết rằng hắn hỏi ta chẳng phải để mà theo; ta biết rằng ta có nói ra, cũng chẳng phải là để cho hắn nghe.
Nhưng đã đãi nhau là đám có chữ, lấy chữ ra mà nói chuyện thì hỏi
đến đâu ta đều trả lời rất thành thực và hắn cũng lấy lễ độ cất những
câu ta viết ra.
Từ đấy, hắn đãi ta vào bực thượng khách.
Một buổi thuyền Tầu Ô vào vịnh Hạ Long, ghé đảo Cát Bà. Đổ bộ, hắn
đưa ta vào hầm đựng của, ở trong một hang núi cách bờ độ lụi hết hai nén
hương. Ta vào, chân tay bị vướng bởi vàng lụa, ngà voi, sừng tê, quế
chính sơn, mật ong, sa nhân và nhiều thứ nữa.
Hắn hỏi ta muốn gì và cười, tay giơ thẳng vào đống của cướp.
Ta cũng cười, hai tay giơ lên giời, nghĩa là đụng vào trần hang.
Ta để ý xem xét thấy bị mắc kẹt vào bọn châu báu phi nghĩa kia là một cuốn sách đã gần mục. Giở ra xem thì đấy là một tập lữ ký của
Trần Dĩ Luyện - một hàng nhân trong một đoàn tuế cống sứ (14) qua
Trung-Quốc, về đời Thiệu-Trị -- nói về những điều tai nghe mắt thấy, bên
cạnh con đường đi sứ ở Tàu (Ta vốn có khiếu riêng để nhớ những dã sử
của nước nhà).
Ta không đủ thời giờ để hỏi tên cướp xem hắn bắt được sách này ở
trường hợp nào. Ta chỉ kịp bảo hắn rằng vàng bạc của hắn định cho ta, ta
không lấy gì làm thú bằng việc xin hắn cuốn sách ấy.
Hắn thuận và cố giữ ta ở lại.
Ta nhất định bỏ hắn và thoái thác là nhớ quê cũ lắm. Sau hắn phải
chịu, cho ta xuống thuyền nhỏ nhìn ta xuôi về Hải Ninh (15) với một
cuốn sách cũ.
"Sách đó, Cậu Bảy, vì thiếu tiền đi chơi đã bán cho một người nước Hiệp Chủng du lịch qua xứ mình.
Ta tiếc giận vô cùng. (Nếu tụi bay mà tiền và lực có dư và lại
muốn nhìn thấy sách đó, ta dám cam đoan với lũ bay rằng sẽ thấy sách đó ở
tủ kính một viện bảo tàng Mỹ nào, chứ không sai).
Sách mất, nhưng trí nhớ của ta thì mất sao được. Ta đọc sách đến
đâu, chữ cứ như chôn vào ruột. Vì thế mà ta mới nhớ nổi chuyện lạ của
quan Hàn Lâm Trần Dĩ Luyện chép được ở dọc đường đi sứ, để kể nữa -
không sai lấy một chữ một lời -- cho tụi bay nghe lại:
"Đất Giang-Tô, nhiều người đưa lụa trắng ra cho đoàn sứ nước ta đề thi. Thi (16) hay và chữ đẹp quá, họ đều lấy làm cảm kích.
Một nhà kia thanh bạch, không biết lấy gì tạ lại người đi qua
chỉ có một thuở, bèn đem luôn một cái thảm sử trong gia tộc ra mà kể,
tưởng làm như thế cũng là đáp được cái duyên tri ngộ trong muôn một.
Tổ họ ấy ở đất ấy - tên người và tên đất, ngài Phó Công Sứ
Nguyễn Đại Nhân có ghi rõ --, vốn là người có tài và có duyên, lúc ra
ngoài, quanh năm chỉ đi chơi, chẳng mấy khi phải ăn bữa nào ở nhà.
Những lúc ra ngoài, lại hay thề thốt với rất nhiều giai nhân bên đường.
Cơm thiên hạ hay có nhiều sạn sỏi, ăn nhiều vào, sỏi sạn ấy
tích lữy và đúc lại thành những hòn cuội trong dạ dầy. Ruột ông tổ nhà
họ ấy đã có cuội.
Kế đến một lần, ông tổ nhà họ ấy dám thề nhảm với một nguời đàn
bà và rủi lại gặp giờ thiêng, sau khi uống láo những giọt nước mắt của
người đàn bà vào ruột, những hòn cuội cũ kia bèn hoá thành thạch tinh
(17).
Những thạch tinh ấy biết nói chuyện và biết làm hại người sống.
Nó phá từ trong lòng người ta mà phá ra. Phá hại lúc còn sống chưa đủ,
nó lại còn theo rồi đến lúc xuống huyệt nữa kia.
Vì thế mà thi hài tổ họ ấy đã mai táng xong xuôi tưởng yên ấm,
bỗng một đêm về sáu tháng sau, nó bật lên như có kẻ cắm cốt mìn vào mà
bắn.
"Có lẽ hai con nguời biết nói chuyện trong ruột Cậu Bảy là giống thạch tinh đó.
Đời Cậu Bảy, tung tích bôn tẩu hồng trần, chắc trong bụng không
thiếu gì sỏi sạn của cơm thiên hạ. Và nước mắt thiêng Cậu Bảy uống liều
vào trong cơn trí trá với lòng người, chính là nước mắt của con gái quan
Lãnh Tín làng Nguyệt Sương đó.
"Lũ bay nên khớp hai chuyện chênh nhau về cả thời lẫn không-gian,
nhưng đều chung một lý do huyền bí, để tìm lấy một ý niệm trong đời sống
đạo đức.
"Ta góp việc này vào tập Gia huấn, tự coi nó như một điều cần đáng thêm vào thập điều trong gia pháp. Lũ bay khá vâng theo”./.
GHI CHÚ VỀ VĂN BẢN
Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ
mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Dựa trên ý đồ và tài liệu
sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại
Yêu ngôn rồi khai sinh cho nó thành một tập sách riêng. Yêu ngôn in ra lần đầu ở nhà xuất bản Hội Nhà văn 1999.
Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, Lửa nến trong tranh, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi tìm hiểu, Yêu ngôn không chỉ có vậy.
Thiên truyện trên đây in ra lần đầu ở một tập sách mang tên Thơ văn mùa xuân (1943),
vốn là một thứ sách tập hợp sáng tác của nhiều người khác nhau.
Điều
đáng chú ý là trong truyện này, tác giả đã ghi chú là sẽ cho in Tổ tôm người và ở cuối truyện thì có ghi rõ là rút ở tập Yêu ngôn.
Tiếp đó, tới đầu 1945, trên tạp chí Thanh Nghị số đặc biệt ( 100,101.102,103,104) , còn thấy NXB Tân Việt quảng cáo rằng đã in của Nguyễn Tuân một tập ký mang tên Xe đào ( ghi rõ bản thường mỗi cuốn 7 đồng ) và sẽ cho in Cậu lãnh một.
Xe đào nói ở đây tức là xe điều, một quân trong cỗ tam cúc;
còn lối gọi nhân vật là “cậu lãnh một” cũng xui người ta liên tưởng
tới cách gọi nhân vật trong Chùa đàn.
Lại một lần nữa chúng ta thấy sự liên tục của những mô típ và chất liệu.
Bởi vậy mặc dù chưa tìm thấy các cuốn sách trên trong các thư viện ( thậm chí Cậu lãnh một
có thể là mới rao thế thôi, nhưng tác giả chưa cho in, thậm chí chưa
viết ), chúng tôi vẫn muốn tin rằng có cả một mạch tư duy “kiểu yêu
ngôn“ mà vào khoảng 1942 - 1945, Nguyễn Tuân đã theo đuổi.
Có khả năng cả loạt tác phẩm đã được thai nghén, và dù chỉ một
số đã xuất xưởng, số ấy cũng nhiều hơn những truyện trong tập Yêu ngôn chúng ta đang có.
Thiên truyện Thạch tinh trong ruột một người, in đúng
như văn bản đã tìm thấy, kể cả cách viết hoa trong một số trường hợp;
chỉ riêng cách viết một số từ, chúng tôi sửa theo quy định chính tả
hiện nay.
Chú giải
(*) Xem truyện Tổ tôm người sẽ đăng ở Thơ văn, tập mùa hạ ( chú thích của nguyên bản 1943, khác với các chú thích sau đây của người sưu tầm)
(1 ) tức là dừng ngựa
(2) sâu và vắng
(3) Ngày nay hay viết : tờ nháp
(4) làm rõ,cắt nghĩa
(5) Cũng có nghĩa tự tử tuy nghĩa ban đầu nói rõ là tự thắt cổ
(6) Cái vần gieo đến mức tuyệt vời . Tương tự như tử công phu là hết sức công phu .
(7) Gạn hỏi để tìm câu trả lời đúng
(8) Kiến: điều thấy ; thức: điều biết ; đây chỉ cả kinh nghiệm lẫn hiểu biết qua sách vở
(9)Câu đố
(10) Một ngày kia
(11) Đau xót cho con mắt ( khi phải chứng kiến những chuyện thương tâm )
(12) Chúng tôi chưa tra cứu được
(13 ) Người chết chôn xuống lần đầu gọi là hung táng , bốc mả chôn lại gọi là cát táng
(14) Đoàn đi cống theo chu kỳ hàng năm ; hành nhân , nghĩa đen là người
đi đường , nhưng đây chỉ người phiên dịch đi theo các sứ bộ
(15) Tên một tỉnh cũ sát biên giới Việt Trung , sau nhập vào thành tỉnh Quảng Ninh
(16) Đầu thế kỷ XX, trong ngôn ngữ hàng ngày , nhiều người vẫn gọi thơ là thi .
(17) Chỉ phần tinh tuý của đá
Tuân, thiên truyện đậm chất ma quái song lại chưa được các nhà nghiên cứu chuyên về Nguyễn Tuân biết tới, do đó cũng chưa hề xuất hiện trong các tuyển tập làm khi ông còn sống lẫn cả bộ toàn tập làm sau khi ông mất .
Sở dĩ người sưu tầm tha thiết muốn nhiều bạn đọc cùng đọc
lại truyện ngắn Thạch tinh trong bụng một người này (in ra lần đầu từ 1943) vì hai lẽ.
Thứ nhất nó có những đoạn cực tả về tình trạng thụ bệnh của một con người.
Xã hội ta hiện đầy rẫy những người bệnh tật, bệnh nổi có bệnh
chìm có.
Chắc hẳn là sau những trạng thái bệnh bình thường, còn có biết bao nhiêu thứ bệnh kỳ lạ mà chỉ thời hiện đại mới có.
Hơn nữa, chữ bệnh theo nghĩa đen thường cũng tương ứng với một tình trạng bệnh tật về tinh thần,-- chữ bệnh theo nghĩa bóng. Theo nghĩa này và tổng quát lại có thể coi là chúng ta đang sống trong một xã hội của thời - hậu - chiến - bệnh - hoạn.
Với cả hai dạng đó, t rước khi bàn chuyện kê đơn
chữa chạy, đang cần những người biết miêu tả biết nói ra cho mọi người
rõ về bệnh để cùng biết, cùng ngấm, cùng sợ.
Thứ hai truyện nói về sự báo oán báo thù, nó cũng là cái thứ rất nặng nợ trong mối quan hệ giữa người với người thời nay.
Trong truyện ngắn dưới đây của Nguyễn Tuân, báo oán là sự
trừng phạt kỳ cục với những kẻ lừa dối dẫn đến cái chết của mấy người
đàn bà trẻ tuổi.
Ngày nay đang nẩy sinh những tội ác trên quy mô lớn, động chạm đến số phận tài sản nhân cách hàng vạn hàng triệu người.
Các nạn nhân chỉ còn có cách cầu cứu tới những thế lực siêu nhiên.
Người ta cùng mong đợi một sự báo oán ghê rợn tột cùng sẽ xẩy ra với bọn ác.
Niềm tin vào cái công lý mơ hồ huyền bí ấy hình như rất sâu
sắc nơi Nguyễn Tuân. Nó buộc ông ở cuối truyện, mượn lời một nhân vật ,
phải công khai đứng ra khuyên mọi người qua các tình tiết éo le “tìm
lấy một ý niệm trong đời sống đạo đức”.
Tác giả thường bị mọi người coi là một ngòi bút ngang ngược,
phá cách, duy mỹ, bất chấp cả những lẽ phải thông thường.
Ở đây, qua
việc tự nguyện đóng vai giáo huấn, ông có dịp thể hiện một sự “phá cách
ngược” nghiêm trang hiếm thấy.
Chính nó là cái dư vị kéo dài khiến tôi tin là thiên truyện
đáng được đông đảo chúng ta đọc đi đọc lại và liên hệ với tình hình
thời sự.
"…đến lúc nào mà đá lại biết nói nữa,
thì chúng bay sẽ chết hết"
Kinh Sám Hối
Từ cái chuyến đi chơi hội Đèn mùa Xuân năm ấy và đánh Tổ Tôm Người
(*) ở làng Nguyệt Tường về, là cậu Bảy đau nặng. Bệnh lạ quá. Động
ăn chút gì vào là thổ ra hết. Thuốc, đến chén này là chén thứ bốn mươi
hai -- tính đến cụ lang xóm Bình Xa này là ông danh y thứ mười một --,
không chén thuốc nào chịu đi qua cổ họng cậu Bảy.
Mặc dầu con bệnh cố nuốt nước thuốc mà thuốc không chịu xuống.
Hễ uống ngụm nào là lại trả ra ngay.
Nền gạch lá nem dưới giường kia, từ ngày cậu Bảy nằm liệt đó, đã
mất cái màu hồng tái cố hữu của nó. Những nước thuốc thổ ra đây đã sơn
lên một màu cánh gián dày cộm, mỗi khi gặp kỳ hanh nó lại nứt rộp ra
từng tảng cạnh uốn cong. Gặp gió nồm, những tảng sơn đó lại nhũn sũng
ra, lênh láng sánh đặc.
Trông cứ như là thuốc phiện tốt, chan hoà mà không trôi chẩy đi đâu cả.
Đến thế này thì con bệnh đã phụ thày và phụ thuốc nhiều quá.
Nước thuốc của đơn nào, cậu Bảy liền giả ngay cho thày đó, không hợp với ai cả.
Trong khi nằm chờ sự lành vững cũ trở về với thể xác, ở các lỗ chân
lông con bệnh vẫn tiết ra một thứ mồ hôi đỏ như máu, mỗi ngày thay đều
mấy lượt quần áo mà người vẫn cứ đỏ đẫm ra như máu.
Máu ấy khô cứng lại, dính bám vào da thịt, mỗi lần con bệnh bị
dựng dậy để thay mặc, sự đau khổ thực không biết thế nào mà nói cho hết
được.
Đũng và cạp quần, đường hồ lá sen áo cánh dính bết vào đã đành.
Lại đến cả đường bâu áo dài cũng phải khéo tay gỡ lắm thì mới
tránh được sự nhăn nhó rên la cho con bệnh. Nhục hình đó, sớm chiều ngày
nào cũng diễn lại.
Vào những buổi thay áo và tắm khan cho cậu Bảy, thân quyến đều
lánh đi hết. Chỉ có một người đầy tớ già làm việc bên giường.
Cậu Bảy lo khổ về bệnh thì có một phần và đau xót về nỗi nhục nhã này thì có đến muôn nghìn.
Không rõ có phải đây là một chứng nan y hay không, nhưng con bệnh
tưởng phụ ngay được đời sống bằng một việc quyên sinh, còn hơn là kéo
dài ngày chờ khỏi với cái cảnh tượng một phế nhân tanh tởm xấu xí này.
Hỡi ôi, trông cậu bây giờ, ai dám nghĩ rằng con người ấy, trước
đây, đã từng bao nhiêu lần mặc áo gấm lam có vảy bạc và cưỡi một con
ngựa màu phấn đạm.
Cậu Bảy tuy là người của thế kỷ này, nhưng nhất định không dùng
ô-tô, mặc dầu cậu thừa sức sắm được - mỗi lần ngừng nhạc (1) ở cổng vườn
nhà nào để hỏi thăm tiểu chủ nhân xem đêm trước hoa rụng nhiều hay ít,
thì miệng nói ra toàn là thơ và nhời của câu đối cả!
Con người phong lưu mã thượng ấy, giờ trông đáng kinh tởm lắm.
Ngày nào cũng vậy, ở các lỗ chân lông, thay cho mồ hôi của một thứ bệnh thoát dương,
chưa có tên chua trong y khoa xứ này thời này, máu cứ đều đều rỉ tuôn
ra tưởng như không bao giờ cái chất quý ấy ở một người lại có thể cạn
kiệt được.
Gian buồng bệnh, tanh hơn lòng thuyền của người đi bể đánh cá dài hạn.
Cho người lạ chợt vào đây, cái cử chỉ đầu tiên của người ấy là
cứng chân kìm đà bước, ưỡn ngửa người ra sau để đưa tay lên cố mà băn
khoăn với một cơn mửa lộn hộc.
Và nhìn người nằm đờ trên giường bệnh áo quần tẩm ướt đỏ ngòm
và dưới gầm bóng loáng nước thuốc nâu cô sánh lại, người ta nghĩ đến một
vụ án mạng -- tử thi nằm chờ quan huyện đến khám nghiệm, đối chiếu xác
với phép sách Tẩy Oan.
Thân quyến cũng héo dần trong sự ngậm ngùi.
Hết lễ bái ở đền này phủ nọ, hết bói toán tướng số thì lại ngờ đến mồ mả gia tiên xem có ai phạm tới không.
Ông thầy địa lý cũng không hơn gì được ông thầy bói và ông thầy thuốc.
Cô Chín -- em ruột cậu Bảy -- vốn biết anh mình không phải là
một người thẳng thắn, trong tâm tính những lúc ra ngoài, ngờ anh đã dính
vào một việc tình cảm ở chỗ đầu sông ngọn nguồn xứ Mường, đã chót chỉ
non thề bể với con nhà lang đạo nào ở thượng du, để đến nỗi người ta
phải hờn giận mà chài ốm chăng. Bèn nói với mẹ nên đem vàng nhang lên dò
hỏi ở những chỗ rừng xanh núi đỏ.
Cũng vô hiệu. Cũng vẫn không chỉ được cái thứ mồ hôi đó ngày ngày tuôn rỉ ra khắp mình Cậu Bảy.
Ấy là sự thuốc thang chạy chữa.
Còn như việc cơm cháo hằng ngày thì con bệnh chỉ chịu uống có
nước đậu xanh xanh lòng; còn bất cứ cái gì khác là cũng đều trả ra hết.
Người, ăn uống như thế, gì mà chẳng teo ngót mãi đi.
Tứ chi như bốn thân que, khắp mình đường gân xanh nổi lên rõ;
ổ mắt trũng xuống, xương lồng ngực đội mãi lên;
cuống họng thắt lại, tiếng nói bé dần, nói ra không ai nghe thấy gì nữa;
rồi đến thính giác lại càng hỏng quá; không nghe thấy một tiếng
động gì của ngoại cảnh lọt được vào và riêng trong đầu mình thì suốt
ngày đêm cứ thấy có cái gì nó kêu gào ngay ở đấy --
lắm lúc nghe sợ quá, con bệnh lại rú lên, vật vã giẫy giụa, trông thương thảm vô cùng.
Một hôm, theo lệ thường vào thay quần áo lần thứ nhất mỗi ngày
cho Cậu Bảy, người nghĩa bộc có tuổi bỗng kêu to lên, làm kinh động cả
một gia đình ít lâu nay chỉ còn sống trong âm thầm.
Y gọi cả nhà lại giường bệnh mà xem.
Người nằm đây không đỏ đẫm như mọi ngày nữa và giờ lại trắng
bệch. Thì ra, không hiểu vì phép sinh lý gì, máu đỏ trong người con bệnh
đã hết từ đêm trước và, tuôn ra các lỗ chân lông, giờ chỉ toàn là một
thứ máu trắng.
Lấy tờ giấy bản để lên mình con bệnh một lúc lâu cho nó thấm
hút lấy ít máu trắng, người lão bộc thè lưỡi nếm vào mảnh giấy ướt, thấy
nó nhạt như vị nước lã, bèn khóc oà lên với một câu: "Thế này thì cậu
con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu. Cả nhà lo liệu đi thì vừa
thôi."
Từ buổi nếm phải một thứ máu không có chất tanh, mặn và thay
những quần áo không còn màu đỏ máu như trước nữa, người đầy tớ già xác
tín rằng mình đang liệm sống cho một người lả dần về cõi khác.
Cuối tháng đó, nguời chú Cậu Bảy lật đật về đến nhà, sau khi
nhận được gia thư do Cô Chín gởi đi. Ông tức tốc vào buồng bệnh, đem
thẳng ngay cát bụi của đường xa vào gian phòng sâm tịch (2), muốn giáp mặt ngay đứa cháu để hỏi chuyện.
Đã từ lâu, Cậu Bảy vốn không nghe được tiếng gì và không nói
được ra tiếng, chú cháu phải lấy giấy mực ra để bút đàm. Tờ giáp (3) cuộc hội đàm thân mật bằng bút này, xem lại y như những lời hỏi cung và những lời thú tội. Gọn rõ và cảm động.
Chú hỏi: "- Tháng giêng mùa vừa rồi, mày cho ngựa ngày ăn cỏ ở vùng nào?"
Cậu Bảy, cố thu hết thân lực vào đôi mắt, nhìn ông chú không
chớp cố tỏ cho chú biết rằng mình không có điều gì phải minh (4) cùng
ai hết.
Biết đứa cháu có tính gan bướng, ông chú bèn đấu dịu. Bèn viết
lại: "Thầy cháu mất đi rồi, lớn nhất trong chi họ nhà ta, chỉ còn có
chú. Vì sự mưu sinh, chú phải đi xa luôn. Chú không ở luôn ở nhà được để
góp thêm tâm ý vào việc phục hưng gia tộc, thật là một điều lỗi đối với
các cháu hàng dưới. Nay nhận được thư của em Chín cháu, kể rõ sự tai
biến, chú vội về thăm cháu và cần nhất là hỏi cháu mấy điều, trước khi
cháu chết -- chú chẳng cần phải giấu mà không dám nói ngay cho cháu biết
rằng sự sống của cháu bây giờ cũng chỉ là việc của khoảnh khắc đây
thôi; có kéo dài lắm thì cháu cũng chỉ đậu được đến ngày thu phân tháng
sau thôi".
Đến đây, ông chú chừng cũng bùi ngùi thay cho đứa cháu bạc mệnh,
ngừng viết, nhìn Cậu Bảy. Mặt Cậu Bảy rớm lệ. Ông chú viết tiếp:
- Tháng giêng vừa rồi, cháu chơi ở làng Nguyệt Sương?
- Vâng. Chơi Tổ Tôm Người.
- Đúng rồi. Chẳng lúc về đây, tiện đường, chú rẽ vào làng Nguyệt Sương
thăm ông Chánh Ba và được nghe một câu chuyện tự ải (5). Người con gái
quan Lãnh Tín gieo mình xuống đầm. Rồi ông Chánh Ba lại kể cho chú nghe
về phong tư diện mạo một người khách phương xa đến chơi Tổ Tôm Người,
khăng khít với một con Thang Thang. Cứ những dáng điệu người và lời thơ
hạ chữ đối và gieo tử vận (6), do ông Chánh Ba thuật lại, thì chú đoán
ngay ông khách phương xa ấy lại là cháu chú rồi.
Thế còn cái con Thang Thang ấy? Ai sắm Thang Thang trong hội bài người?
- Bẩm chú, chính là con gái quan Lãnh.
Ông chú lịm người đi, tay rời hẳn bút ra. Thế này thì ông hiểu rồi.
Chợt trong có một phút của trực giác, ông nhận thấy ngay liên can giữa
bệnh người cháu và cái chết đuối của người con gái kia.
Ông gặng hỏi: "Vậy chớ mày thề thốt những gì với con gái ông Lãnh Tín?".
Cậu Bảy không trả lời, khẽ thở dài.
Ông đổi câu chuyện:
- Giờ tao hỏi về bệnh mày. Thế trong người mày bây giờ nó như thế nào? Kể rõ cho chú nghe.
- Kể lại cũng vô ích. Thuốc thầy nào chữa nổi. Cháu chỉ còn chờ có
chết để tạ lỗi cùng con bài Thang Thang. Việc cô con gái quan Lãnh tự
vẫn, cháu được biết từ trước khi chú nói. Chỉ có lửa vạc dầu sôi của một
thế giới khác là mới tẩy hết được căn bệnh của cháu. Lửa của cuộc đời
này, không đủ nóng để diệt những trùng trong mình cháu. Thôi, ngày giờ
của cháu đang bị tính đếm từng li từng phút, chú để cho cháu được yên
tĩnh mà nghĩ tới một hậu kiếp của cháu ở ngoài thế giới này.
- Làm ích được cho đời sống này chút nào, ta vẫn cứ phải gắng, gắng
cho tới phút cuối. Bệnh của cháu, tự cổ lai đến giờ, chưa có một y gia
cổ kim Đông Tây nào nói đến. Y học Thái Tây thì lại càng không có bàn
đến nữa. Nó là ở ngoài khu vực y khoa hiện đại.
Cháu cứ kể rõ chú nghe. Chú ghi lại để rồi sau sẽ thuật chép ra
để chất chính (7) cùng những bậc Biển Thước của năm cõi lục địa. Đã hay
rằng việc này là một việc quả báo, một việc âm oán.
Nhưng biết đâu đấy? Cháu cứ kể rõ. Cháu gây nên tội ác, cháu đau
khổ nhục nhã đến như thế, tưởng cũng là đủ cho linh hồn cháu siêu thoát
rồi. Đời cháu, vào quãng cuối, thế mà lại còn hơn cả những cuộc đời kẻ
khác trọn đời không làm một điều thiện nào và cũng chẳng làm một điều ác
nào.
Cháu cứ bình tĩnh mà kể lại chứng bệnh cháu, may ra có bổ ích gì cho người đồng thời không?
Tay run run, Cậu Bảy cầm bút.
Những giòng chữ chằng vào nhau và chữ nọ dính bắt qua chữ khác như chữ phép lá bùa trừ tà.
Chữ ít, không có linh khiếu, thiếu cả kiến lẫn thức (8), và lại không bác văn quảng học thì có người lại sẽ tưởng đây là một câu thai
(9) của sứ Tầu gởi đố và ai giảng được thì sẽ nhất đán (10 )được làm
Trạng - theo đúng vào một lời tiên tri của Tả Ao bắt hòn đất nhà mình
phải phát vào ngày giờ ấy đây.
Cậu Bảy kể rằng:
"Tính về thời kỳ thụ bệnh kể từ hôm người cháu tiết ra một thứ
máu trắng cho đến về trước, cháu không biết gì cả. Thân xác cháu ở ngoài
Thời Gian và Không Gian. Những chuyện mồ hôi đỏ như máu tuôn rỉ khắp
mình cháu là sau này người lão bộc kể lại thì cháu mới rõ đấy thôi. Rồi
mới biết kinh sợ và cháu thừa biết là cháu hỏng mất rồi, là đời cháu hết
rồi.
"Máu đỏ chảy cạn hết, thì tiếp ngay đến việc cháu điếc và cháu
câm. Ngày lại ngày, cháu nhìn lớp máu trắng tuôn đầy trên mình cháu
thay cho lớp máu đỏ trước, tịnh không nghe được ai nói vào một câu nào
và cũng tịnh không nói ra với ai một lời nào.
"Đầu cháu rức nặng như bị đánh đai sắt vào. Ngủ được tí nào thì
thôi, chứ hễ thức giấc dậy là như có người la ó trong đó. Tiếng kêu
trong đầu rất là phồn tạp hỗn loạn. Có khi như gió ngàn đuổi mãnh thú.
Có khi như bẻ bão rượt sóng bờ. Có khi vang dậy như hầm thuốc súng nhỡ
bén chạm phải lửa ngoài. Có khi lại xa vắng u tịch như vọng hưởng của
đàn chiêu hồn bên sông không có đò chở.
Ở trong đầu thì vang dậy kinh động như vậy mà nhìn ra quanh
mình để lắng lấy tiếng một cái gì quen thuộc của hằng ngày nó có thể làm
bạn với mình và nhắc cho mình nhớ rằng mình vẫn là người của cuộc đời
này, thì cháu chỉ thấy có im lặng.
Những bóng người qua lại của cả nhà này đều câm cả.
Những hình ảnh đó cử động và mấp máy môi như người trong trò phim câm.
"Mất đến ba tuần khổ loạn như thế ở trong đầu.
Được đúng một ngày một đêm, trong đầu cháu tắt hẳn tiếng kêu.
Nhưng đến ngày sau thì trong người cháu lại có một việc biến
rất mới lạ. Là ở trong bụng, lại có tiếng người rì rầm lào xào.
Hình như đấy là một cuộc nói chuyện tay đôi của hai con người.
Không rõ họ là già hay trẻ, đàn ông hay là đàn bà. Vì cái tiếng nói của
họ là một thứ âm thanh không có tuổi không phân ra giống cái giống đực.
Họ nói tuy bé nhưng rồi sau cháu cũng nghe được.
Có lẽ vì cháu đã thành một người điếc đối với tất cả biểu diễn
của cuộc đời bên ngoài bằng tiếng động, có lẽ vì thính giác của cháu chỉ
còn có thu dồn vào để mình lại lắng cái tiếng của cuộc đời bên trong
thôi, có lẽ vì thế mà cháu đã nghe nổi những cuộc đối thoại của họ trong
bụng cháu chăng? Buổi sớm họ cười đùa, buổi trưa họ hờn giận, buổi
chiều họ cãi nhau xỉ vả nhau để lúc khuya khoắt thì lại làm lành và cợt
nũng nhau. Không rõ họ có ngủ phút nào trong người cháu không, chứ hễ
cháu thức lúc nào là nghe thấy họ kể lể than vãn khúc khích lúc ấy.
"Một buổi nặng bụng buồn tay quá, cháu có đem việc này kể ra
giấy cùng tên nghĩa bộc vẫn luôn luôn có mặt ở bên giường cháu. Ngay
chiều ấy, cháu nghe thấy một cuộc than khóc vật vã của họ, tiếng thê
thảm đưa từ dưới lên trên đầu, rung mạnh các thớ màng óc. Cháu nghe rõ
mồn một. Câu của người thứ nhất:
" -Này, nó định trục hai đứa ta ra khỏi lòng nó đấy.
" Câu của người sau:
" - Sao biết? Và nó định dùng thuật pháp gì? Lòng nó là quê của
ta rồi. Một vào nổi là ở mãi, trăm ngàn năm cũng không ra nữa. Chỉ có nó
chết, là ta mới chịu rời đi đâu thôi. Chúng ta mà vào ngồi vững được ở
đáy lòng nó thì càng là việc Giời. Giời đã bảo ta vào thì rồi cũng chỉ
có Giời là bắt ta ra được thôi. Chứ thứ nó thì làm gì nổi.
"Đến đây, hai người lại hạ thấp giọng xuống.
" - Tao nghe thấy người nhà nó đang định cho nó ăn thịt chó để
đánh bật chúng ta ra ngoài. Người nhà nó, chắc đoán ra hai đứa ta là ai
rồi. Vậy chớ mày có sợ mùi thịt chó không?
" - Nếu thế này, thì cơ nguy đã đến nơi rồi. Ra ngoài, lạnh và lạ lắm. Mà rồi ăn vào đâu, ở vào đâu.
" - Vậy mày sợ? Tao thì yên trí lắm. Nó muốn làm gì thì làm. Tao vững lắm. Không ra.
" - Người có chất dương như anh, không sợ đã đành. Nhưng tôi
thuộc về chất âm, nghe cái tin này, rất lấy làm buồn sợ. Chúng ta sẽ
phải chia rời từ đây. Ra rồi thì khó mà vào lắm. Những lúc tưởng nhớ đến
nhau, tôi ở ngoài sẽ thông tin với người ở trong bằng cách nào? Chẳng
nhẽ biệt nhau lại có nghĩa là mất hẳn?
"Đến lúc này, cháu mới rõ rằng trong lòng cháu, có cả một người
đàn ông và một người đàn bà và họ đang xây dựng một cái gì trong người
cháu.
Cháu lấy làm nghĩ nhiều. Cháu liền cho gọi lão bộc vào hỏi. Y
cũng nói lại rằng ở nhà ngờ bệnh cháu thuộc về âm loạn và có người mách
cho rằng muốn trừ tà khí thì không gì bằng thịt loài cầy và sắp nấu cầy
cho cháu ăn.
Cháu cười và bảo lão bộc nên thôi việc ấy đi. Cháu nghĩ rằng
đằng nào thì cháu cũng tận số đến nơi rồi. Có trừ khử được những quái
vật ấy ra khỏi lòng dạ mình thì cuộc đời của cháu ở cõi đời này cũng vẫn
cứ phải tắt hết như thường.
Trước, lúc còn lành mạnh, đã gây nên điều lỗi với đàn bà; giờ,
người đã bạc nhược hao mòn đến thế này thì còn nên gây oán luỵ làm gì
với một người đàn bà khác - mặc dầu người đó là thuộc về giống yêu,
giống quái đang mượn cái lòng bị hình phạt của mình để làm một nơi
chung họp với một con quái khác.
Không phải là cháu nghĩ đến sự báo thù của giống yêu quái này mà
cháu sợ đâu. Điều oán của cháu gây nên ở đời thực tại này, cháu tin
rằng cháu đã trang trả xong bằng cái chết mòn này rồi.
Nhưng cái tương lai của cháu là ở ngoài đời thực tại này kia.
Công việc kiến thiết của cháu lại phải ở ngoài thế giới này.
Chết trong bây giờ ở đây, để mai kia cháu sẽ gặp lại con gái
quan Lãnh ở chỗ khác để lập lại với nàng một cuộc sống khác công bằng
hơn và đẹp hơn.
"Bây giờ cháu nhờ chú một việc này. Là chú sẽ cho táng cháu ở mé
gò Bạch Ảnh, ở bờ phía đông đầm làng Nguyệt-Sương, gần ngay chỗ con quan
Lãnh gieo mình. Các bề trên trong gia tộc có gì phản đối về việc chôn
cất này, chú thề với cháu là phải làm theo ý nguyện của cháu.
Thôi, lạy chú, chú ra đi. Và cho đào huyệt sẵn đi thì vừa. Cái chết đã dâng lên đến nửa phần người cháu rồi."
*
Lúc Cậu Bảy vừa thở hơi cuối cùng, quạ ở tám phương trời rủ nhau bay đến sao mà nhanh và nhiều đến thế.
Những cây và các luỹ tre các làng phụ cận bỗng hoá ra màu đen cả.
Ở những cây đen ngòm ấy, loài ác điểu ngày đêm kêu không ngớt tiếng.
Trông thi hài Cậu Bảy, người thương tiếc thì ít mà sợ tởm thì rất đông.
Trời là một đấng biết tha thứ, biết xoá bỏ, đối với một người đã
biết hối lỗi là gì rồi, sao Trời lại còn bày thêm ra một việc thảm mục
(11) đến thế nữa.
Cái thây Cậu Bảy ở giữa giường thực không còn hình nữa. Ra từ lúc
còn sống, xương Cậu Bảy đã rũa mòn dần mà không ai để ý tới.
Thành thử cỗ quan làm cho người chết hoá ra to rộng quá. Bỏ bao
nhiêu cỗ tổ tôm, bao nhiêu cuốn lịch, bao nhiêu giấy bản, bao nhiêu trà
phát du (12) vào đấy cho vừa. Nói cho đúng ra, thì phải đến năm cỗ thi
hài Cậu Bảy nữa thì mới chắc kín lòng săng.
Người ta lại phải thửa áo quan khác. Nó lại chỉ bé bằng thân hình
cái tiểu sành có viền đường gấm hoa chanh. Thành ra lúc đám khởi hành,
việc hung táng mà người không rõ chuyện lại tưởng là cát táng (13).
Lúc hạ huyệt, quạ trên một giời cao, một loạt chà xuống mép bờ đầm
bâu cứ đen đặc lại. Đứng xa trông, bờ đầm Nguyệt Sương như có người viền
một vành khăn đen tròn không nhoè lép lấy một nét.
Việc tang ma chôn cất người cháu quá mấy tuần cơm cúng rồi, bấy giờ
ông chú mới ngồi ở buồng sách tại mái tây biệt thự đã được xông hương
trầm mà giở cuốn Gia huấn trong họ nhà ra ghi vào đấy những dòng dưới đây:
" Đây là những lời quý báu ta để lại cho lũ con chính thống của ta
và cho lũ cháu trong họ nhà. Tụi bay, đứa lớn rồi thì phải đọc lấy mà
làm trọng và đe mình từ ngay phút này; còn đứa nhỏ thì noi các đàn anh
mà gắng hiểu ngay để sớm biết mà e sợ.
"Việc Cậu Bảy bị chết trong cảnh nghịch biến thương thảm - ta đã có
thuật rõ kèm vào đây, ở chương Cố sự nơi cuối tập Gia huấn này - là một
điều cảnh cáo của ý Trời. Ta vốn nặng lòng với những điều thuộc về đạo
đức thường, ta rất lấy làm đau xót cho danh dự gia tộc đã bị Cậu Bảy làm
tì ố. Người chết đã biết sám hối. Ta cũng đã biết tha thứ. Nhưng còn
ta còn sống, còn lũ bay còn sống đó!
"Nhân việc tai biến vừa xảy đến trong họ, ta lại nhớ đến một việc cũ.
"Trước đây, ta đã nhiều phen lên rừng xuống biển để tìm chân nhân.
Một chuyến đò đi bể, còn độ phần tư đường, thì ghé được tới đảo có người bên ta bị bọn giặc bể Tầu Ô bắt.
Ta được thoát chết vì cái đức bình thản của ta trước sự rộ nạt của
giáo mác lũ giặc. Đứa đầu đảng bèn đãi ta vào bực khách, lúc ăn ngủ ra
vào đều lấy các thứ lễ tiết đối với cao sĩ ra mà dùng. Ngoài những lúc
chúng phải bóc lột thuyền buôn để duy trì cuộc sống của chúng trên mặt
nước cả, đầu đảng bọn cướp thường vời ta tới bàn để hỏi về thiên văn,
địa lý và nhân luân.
Hắn biết rằng hắn hỏi ta chẳng phải để mà theo; ta biết rằng ta có nói ra, cũng chẳng phải là để cho hắn nghe.
Nhưng đã đãi nhau là đám có chữ, lấy chữ ra mà nói chuyện thì hỏi
đến đâu ta đều trả lời rất thành thực và hắn cũng lấy lễ độ cất những
câu ta viết ra.
Từ đấy, hắn đãi ta vào bực thượng khách.
Một buổi thuyền Tầu Ô vào vịnh Hạ Long, ghé đảo Cát Bà. Đổ bộ, hắn
đưa ta vào hầm đựng của, ở trong một hang núi cách bờ độ lụi hết hai nén
hương. Ta vào, chân tay bị vướng bởi vàng lụa, ngà voi, sừng tê, quế
chính sơn, mật ong, sa nhân và nhiều thứ nữa.
Hắn hỏi ta muốn gì và cười, tay giơ thẳng vào đống của cướp.
Ta cũng cười, hai tay giơ lên giời, nghĩa là đụng vào trần hang.
Ta để ý xem xét thấy bị mắc kẹt vào bọn châu báu phi nghĩa kia là một cuốn sách đã gần mục. Giở ra xem thì đấy là một tập lữ ký của
Trần Dĩ Luyện - một hàng nhân trong một đoàn tuế cống sứ (14) qua
Trung-Quốc, về đời Thiệu-Trị -- nói về những điều tai nghe mắt thấy, bên
cạnh con đường đi sứ ở Tàu (Ta vốn có khiếu riêng để nhớ những dã sử
của nước nhà).
Ta không đủ thời giờ để hỏi tên cướp xem hắn bắt được sách này ở
trường hợp nào. Ta chỉ kịp bảo hắn rằng vàng bạc của hắn định cho ta, ta
không lấy gì làm thú bằng việc xin hắn cuốn sách ấy.
Hắn thuận và cố giữ ta ở lại.
Ta nhất định bỏ hắn và thoái thác là nhớ quê cũ lắm. Sau hắn phải
chịu, cho ta xuống thuyền nhỏ nhìn ta xuôi về Hải Ninh (15) với một
cuốn sách cũ.
"Sách đó, Cậu Bảy, vì thiếu tiền đi chơi đã bán cho một người nước Hiệp Chủng du lịch qua xứ mình.
Ta tiếc giận vô cùng. (Nếu tụi bay mà tiền và lực có dư và lại
muốn nhìn thấy sách đó, ta dám cam đoan với lũ bay rằng sẽ thấy sách đó ở
tủ kính một viện bảo tàng Mỹ nào, chứ không sai).
Sách mất, nhưng trí nhớ của ta thì mất sao được. Ta đọc sách đến
đâu, chữ cứ như chôn vào ruột. Vì thế mà ta mới nhớ nổi chuyện lạ của
quan Hàn Lâm Trần Dĩ Luyện chép được ở dọc đường đi sứ, để kể nữa -
không sai lấy một chữ một lời -- cho tụi bay nghe lại:
"Đất Giang-Tô, nhiều người đưa lụa trắng ra cho đoàn sứ nước ta đề thi. Thi (16) hay và chữ đẹp quá, họ đều lấy làm cảm kích.
Một nhà kia thanh bạch, không biết lấy gì tạ lại người đi qua
chỉ có một thuở, bèn đem luôn một cái thảm sử trong gia tộc ra mà kể,
tưởng làm như thế cũng là đáp được cái duyên tri ngộ trong muôn một.
Tổ họ ấy ở đất ấy - tên người và tên đất, ngài Phó Công Sứ
Nguyễn Đại Nhân có ghi rõ --, vốn là người có tài và có duyên, lúc ra
ngoài, quanh năm chỉ đi chơi, chẳng mấy khi phải ăn bữa nào ở nhà.
Những lúc ra ngoài, lại hay thề thốt với rất nhiều giai nhân bên đường.
Cơm thiên hạ hay có nhiều sạn sỏi, ăn nhiều vào, sỏi sạn ấy
tích lữy và đúc lại thành những hòn cuội trong dạ dầy. Ruột ông tổ nhà
họ ấy đã có cuội.
Kế đến một lần, ông tổ nhà họ ấy dám thề nhảm với một nguời đàn
bà và rủi lại gặp giờ thiêng, sau khi uống láo những giọt nước mắt của
người đàn bà vào ruột, những hòn cuội cũ kia bèn hoá thành thạch tinh
(17).
Những thạch tinh ấy biết nói chuyện và biết làm hại người sống.
Nó phá từ trong lòng người ta mà phá ra. Phá hại lúc còn sống chưa đủ,
nó lại còn theo rồi đến lúc xuống huyệt nữa kia.
Vì thế mà thi hài tổ họ ấy đã mai táng xong xuôi tưởng yên ấm,
bỗng một đêm về sáu tháng sau, nó bật lên như có kẻ cắm cốt mìn vào mà
bắn.
"Có lẽ hai con nguời biết nói chuyện trong ruột Cậu Bảy là giống thạch tinh đó.
Đời Cậu Bảy, tung tích bôn tẩu hồng trần, chắc trong bụng không
thiếu gì sỏi sạn của cơm thiên hạ. Và nước mắt thiêng Cậu Bảy uống liều
vào trong cơn trí trá với lòng người, chính là nước mắt của con gái quan
Lãnh Tín làng Nguyệt Sương đó.
"Lũ bay nên khớp hai chuyện chênh nhau về cả thời lẫn không-gian,
nhưng đều chung một lý do huyền bí, để tìm lấy một ý niệm trong đời sống
đạo đức.
"Ta góp việc này vào tập Gia huấn, tự coi nó như một điều cần đáng thêm vào thập điều trong gia pháp. Lũ bay khá vâng theo”./.
GHI CHÚ VỀ VĂN BẢN
Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ
mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Dựa trên ý đồ và tài liệu
sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại
Yêu ngôn rồi khai sinh cho nó thành một tập sách riêng. Yêu ngôn in ra lần đầu ở nhà xuất bản Hội Nhà văn 1999.
Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, Lửa nến trong tranh, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi tìm hiểu, Yêu ngôn không chỉ có vậy.
Thiên truyện trên đây in ra lần đầu ở một tập sách mang tên Thơ văn mùa xuân (1943),
vốn là một thứ sách tập hợp sáng tác của nhiều người khác nhau.
Điều
đáng chú ý là trong truyện này, tác giả đã ghi chú là sẽ cho in Tổ tôm người và ở cuối truyện thì có ghi rõ là rút ở tập Yêu ngôn.
Tiếp đó, tới đầu 1945, trên tạp chí Thanh Nghị số đặc biệt ( 100,101.102,103,104) , còn thấy NXB Tân Việt quảng cáo rằng đã in của Nguyễn Tuân một tập ký mang tên Xe đào ( ghi rõ bản thường mỗi cuốn 7 đồng ) và sẽ cho in Cậu lãnh một.
Xe đào nói ở đây tức là xe điều, một quân trong cỗ tam cúc;
còn lối gọi nhân vật là “cậu lãnh một” cũng xui người ta liên tưởng
tới cách gọi nhân vật trong Chùa đàn.
Lại một lần nữa chúng ta thấy sự liên tục của những mô típ và chất liệu.
Bởi vậy mặc dù chưa tìm thấy các cuốn sách trên trong các thư viện ( thậm chí Cậu lãnh một
có thể là mới rao thế thôi, nhưng tác giả chưa cho in, thậm chí chưa
viết ), chúng tôi vẫn muốn tin rằng có cả một mạch tư duy “kiểu yêu
ngôn“ mà vào khoảng 1942 - 1945, Nguyễn Tuân đã theo đuổi.
Có khả năng cả loạt tác phẩm đã được thai nghén, và dù chỉ một
số đã xuất xưởng, số ấy cũng nhiều hơn những truyện trong tập Yêu ngôn chúng ta đang có.
Thiên truyện Thạch tinh trong ruột một người, in đúng
như văn bản đã tìm thấy, kể cả cách viết hoa trong một số trường hợp;
chỉ riêng cách viết một số từ, chúng tôi sửa theo quy định chính tả
hiện nay.
Chú giải
(*) Xem truyện Tổ tôm người sẽ đăng ở Thơ văn, tập mùa hạ ( chú thích của nguyên bản 1943, khác với các chú thích sau đây của người sưu tầm)
(1 ) tức là dừng ngựa
(2) sâu và vắng
(3) Ngày nay hay viết : tờ nháp
(4) làm rõ,cắt nghĩa
(5) Cũng có nghĩa tự tử tuy nghĩa ban đầu nói rõ là tự thắt cổ
(6) Cái vần gieo đến mức tuyệt vời . Tương tự như tử công phu là hết sức công phu .
(7) Gạn hỏi để tìm câu trả lời đúng
(8) Kiến: điều thấy ; thức: điều biết ; đây chỉ cả kinh nghiệm lẫn hiểu biết qua sách vở
(9)Câu đố
(10) Một ngày kia
(11) Đau xót cho con mắt ( khi phải chứng kiến những chuyện thương tâm )
(12) Chúng tôi chưa tra cứu được
(13 ) Người chết chôn xuống lần đầu gọi là hung táng , bốc mả chôn lại gọi là cát táng
(14) Đoàn đi cống theo chu kỳ hàng năm ; hành nhân , nghĩa đen là người
đi đường , nhưng đây chỉ người phiên dịch đi theo các sứ bộ
(15) Tên một tỉnh cũ sát biên giới Việt Trung , sau nhập vào thành tỉnh Quảng Ninh
(16) Đầu thế kỷ XX, trong ngôn ngữ hàng ngày , nhiều người vẫn gọi thơ là thi .
(17) Chỉ phần tinh tuý của đá
Published on February 05, 2014 01:30
January 31, 2014
Phố cũ Hà Nội sớm mùng một tết
Nguyên là bài
Khi Hà Nội trở thành chính mình đã in trên
blog này ngày 15-2-2010
Chị Đàm một người tôi quen từng qua Pháp có lần bảo với tôi rằng vào những ngày thật vắng, Hà Nội còn đẹp hơn cả Paris nữa. Tôi chưa đến kinh thành nước Pháp nên không dám cãi lại, dù nghĩ bụng nói thế là cực đoan, sao mà Hà Nội có thể so với Paris được, chỉ đoán chẳng qua đấy là một cách để chị bạn nói rằng Hà Nội rất đẹp.
Nhưng hôm nay, một sáng mùng một mưa phùn, dạo quanh phố phường Hà Nội từ bẩy tới chín giờ sáng, tôi nhận ra một vẻ đẹp riêng của cái thành phố mà mặc dù sinh ở đây và gần như liên tục ở đây sáu chục năm nay, đây là lần đầu tôi mới cảm thấy-- một vẻ đẹp mà xét về độ chín và tính độc đáo thì chắc không thua kém mọi vẻ đẹp khác.
Quay trở về nhà sau hai tiếng lang thang trên phố cũ, tôi nói với mọi người trong gia đình như là tôi vừa được bay từ nước nào về thủ đô, và niềm vui này đủ nuôi tôi sống, với hy vọng là ngày đầu năm sau, lại làm một chuyến đạp xe đạp lang thang tương tự.
Hà Nội của tôi vốn mang dáng dấp một phố chợ phóng to. Khác với vẻ đẹp của tranh tre nứa lá các làng quê, đây là vẻ đẹp của phố phường gạch ngói hẳn hoi. Một vẻ đẹp cũ càng nghèo khổ, -- của một loại đô thị dang dở chưa thành hình thì đã già, tất nhiên rồi --, nhưng vẫn là cái héo hon tàn tạ của một thành phố, thứ xưa nay hiếm trên đất Việt.
Cuộc phiêu lưu của tôi sáng nay bắt đầu từ khu vực chung quanh chợ Đồng Xuân. Mấy phố lâu nay người ta quanh năm tràn ra đường để buôn bán, nay trước mắt tôi, không gian công cộng mới được trả lại vẻ mặt thật của nó. Các vỉa hè có được cái đặc tính mà ta tưởng từ lâu đã đánh mất, một vẻ rộng rãi đến thoáng đãng. Lại có cả những căn nhà vắng vẻ nữa, toàn những thứ không thể tưởng là lại có ở thành phố thời hậu chiến.
Lâu nay tôi vẫn bị ám ảnh bởi ý nghĩ giờ đây với những người như mình, Hà Nội đã bị đánh mất, cảm giác bắt nguồn từ chỗ phố xá lúc nào cũng xúm xít những người là người, người che mất nhà, người che mất tường, người che mất cửa...
Nay tất cả còn đủ. Hóa ra có một Hàng Khoai Hàng Chiếu Hàng Mã Hàng Cân Hàng Bồ Hàng Thíếc thật, chứ không phải những con phố ồn ào mà mọi khi tôi chỉ tìm cách, nếu có thể, thì lướt xe vượt qua thật nhanh.
Phố xá lúc này là nhà và cửa. Những cái nhà ken chặt cạnh nhau. Tôi ước ao có ai làm một bộ ảnh về những khung cửa Hà Nội hiện nay. Lác đác vẫn còn một vài nhà có cửa bức bàn, kiểu cửa gồm nhiều tấm gỗ dài xếp nối tiếp. Các loại cửa sắt thì nhiều hơn mặc dù thật ra gồm đủ các loại, giống nhau ở lớp sơn tróc màu trắng màu nâu nhòe nhoẹt.
Cũng như con người, nhà trên phố Hà Nội chỉ thỉnh thoảng lắm mới nhận được hai cái giống nhau, còn phần lớn mỗi nhà mỗi kiểu, chỗ chung của chúng là cái vẻ loang lổ của tường, cái cũ kỹ và chắp vá của vật liệu.
Những ngày thường đi lại trên phố, người ta chỉ cắm mặt xuống đất. Chỉ trong một ngày Hà Nội vắng như hôm nay , tôi mới có dịp nhìn lên phần Hà Nội trên cao, nơi có khi là ngói, có khi là tôn, có khi là ni-lông vải bạt, nhưng gọi chung là mái.
Bên cạnh những căn nhà phong sương, những mái phố tạm bợ, so với Hà Nội trong trí nhớ của tôi, thì Hà Nội hôm nay hơn hẳn ở số lượng kha khá những khách sạn mi-ni, kiểu khách sạn gia đình, vừa mới xây. Trước một khách sạn như thế, một người đàn bà ngoại quốc ngồi cạnh đứa con, vẻ mặt đứa bé lộ vẻ ngơ ngác. Ở một căn nhà sáng sủa khác, mấy người đàn ông da trắng đang chuyện trò rôm rả trước quầy tiếp tân.
Có cảm tưởng họ yêu Hà Nội hơn cả nhiều người chúng ta, họ biết đây là lúc Hà Nội đẹp nhất, họ đã đi hàng vạn cây số để tới chiêm ngưỡng nó trong lúc này. Trước một Hà Nội yên lặng run rẩy trong bộ khung nhà già lão, như không thể già thêm được nữa, họ hiểu đang được ngắm chân bản diện mục của thành phố .
Hơn ba chục năm nay, tôi mới có dịp sống lại cái cảm giác của Hà Nội những năm sơ tán. Trên cái xe đạp cà khổ, tôi đạp thật chậm mà không cảm thấy làm phiền mọi người. Trước một ngôi nhà hay một dãy phố vừa phát hiện, tôi tha hồ nhìn ngang nhìn ngửa, có lúc đi đến đầu phố lại quay ngoắt về đi dọc phố một lần nữa.
Lượn đi lượn lại mấy đoạn Bát Đàn, Lãn Ông, Thuốc Bắc, Hàng Phèn, tôi nhận ra rằng mạn mấy phố này có rất nhiều cây si hay cây đa trổ rễ lùm lòa. Có lúc đang đi ngước đầu lên khoảng không trước mặt, tôi gặp hai thân bàng bên đường xòe ra giao nhau.
Nhiều lần tôi dừng lại bên một cây lạ bên đường mà đến bây giờ vẫn không biết cây gì, chỉ biết nhìn mãi không chán. Ngày thường khuất lấp giữa người, nay cả cây với nhà mới hiện ra trong cái thế tôn nhau để cùng làm nên một vẻ đẹp.
Có cảm tưởng cái còn lại ở Hà Nội hôm nay luôn luôn là những gì vượt qua thách thức, tự mình biết mình, tự vui với mình, bất chấp mọi sự vô cảm của hoàn cảnh và bởi thế mà đẹp .
Dẫu sao cũng phải dành một ít phút cho Bờ Hồ. Từ trên phố xá tôi đã gặp nhiều phóng viên đi chụp hình, đến đây họ càng đông. Nơi tập trung nhiều tay săn ảnh nhất phải kể là bên cây lộc vừng.
Một người đi qua, may quá lại là một ông già áo ba-đờ-suy tầu tầu cu cũ. Như là từ ngóc ngách một căn nhà tối tăm nào bước thẳng ra đây, ông cụ trở thành khách mời hợp thời nhất, để thêm phần hồn cốt cho những bức ảnh về Hà Nội đang được hoài thai.
Chỉ tiếc cái ô ông cụ cầm là một cái ô vải ca-rô đỏ. Nhưng lấy đâu ra một cái ô đen kiểu của các ông lý ông xã bây giờ?
Sáng mùng một. Những luống hoa hoang dã mà cọc cạch, những giá đặt chậu hoa đơn sơ xấu xí và cả bãi cỏ chỗ gần Tháp Bút bị xéo nát, dư âm của buổi tối giao thừa hôm trước, vẫn bầy cả ra đấy… Tuy nhiên tất cả những cái đó không làm cho người ta hết nao lòng khi dạo qua trên con đường ven hồ.
Đi vào mấy phố Cầu Gỗ, ngược lên Hàng Bạc Đào Duy Từ, cảm tưởng rõ nhất của tôi là không thấy có cây cối nữa, chỉ có nhà cửa và những cách tổ chức không gian sống mang dư vị phong cách người Hoa, từ các sạp hàng tới các ngôi đền ngôi chùa lắt nhắt chật hẹp. Kỷ niệm về những rạp hát, Kim Chung Kim Phụng Lạc Việt, cùng với hình ảnh phố xá của những cuộc chơi đêm trở dậy. Bao giờ nơi đây buổi sáng chẳng bắt đầu muộn, cứ gì buổi sớm đầu năm.
Mưa bụi vẫn đang rắc đều trên phố xá. Nhiều nhà cửa giả còn đóng im ỉm. Loáng thoáng vẫn cảm thấy dấu vết cảnh chen chúc của giao thừa đêm trước. Nếu ở trên cầu Long Biên, đó là mấy mẩu chai vỡ, dấu vết của một đám say, thì ở đây, đầu một ngã tư, một quầy hàng ăn hôm trước bán muộn, đến giờ, trên mấy tấm ghế ghép tạm, chủ quán còn cuộn tròn trong chăn.
Không gì cần mẫn bằng việc dân mình lo ăn. Thay thế cho ca đêm là ca sáng. Ngay lúc vắng vẻ nhất này, các loại hàng ăn bún riêu bún ốc đã bắt đầu nổi lửa, hứa hẹn tạo nên sự nhộn nhịp ở một vài ngã tư.
Cửa chùa Cầu Đông 38 hàng Đường rộng mở, trong số mấy người đi lễ chùa sớm, tôi nhận ra có cả những thanh niên mười tám đôi mươi.
Khi nào thì Hà Nội trở thành mình nhất ? Theo tôi hiểu, đó là những khi Hà Nội đồng nghĩa với phố với cây với nhà, tự phố tự cây đã có linh hồn, còn những con người thật chỉ đóng vai trò điểm xuyết, như trong các bức tranh của Bùi Xuân Phái.
Buổi sáng mùng một vắng vẻ hôm nay, tôi đã bắt gặp một thành phố như thế.
14-2-10
Khi Hà Nội trở thành chính mình đã in trên
blog này ngày 15-2-2010
Chị Đàm một người tôi quen từng qua Pháp có lần bảo với tôi rằng vào những ngày thật vắng, Hà Nội còn đẹp hơn cả Paris nữa. Tôi chưa đến kinh thành nước Pháp nên không dám cãi lại, dù nghĩ bụng nói thế là cực đoan, sao mà Hà Nội có thể so với Paris được, chỉ đoán chẳng qua đấy là một cách để chị bạn nói rằng Hà Nội rất đẹp.
Nhưng hôm nay, một sáng mùng một mưa phùn, dạo quanh phố phường Hà Nội từ bẩy tới chín giờ sáng, tôi nhận ra một vẻ đẹp riêng của cái thành phố mà mặc dù sinh ở đây và gần như liên tục ở đây sáu chục năm nay, đây là lần đầu tôi mới cảm thấy-- một vẻ đẹp mà xét về độ chín và tính độc đáo thì chắc không thua kém mọi vẻ đẹp khác.
Quay trở về nhà sau hai tiếng lang thang trên phố cũ, tôi nói với mọi người trong gia đình như là tôi vừa được bay từ nước nào về thủ đô, và niềm vui này đủ nuôi tôi sống, với hy vọng là ngày đầu năm sau, lại làm một chuyến đạp xe đạp lang thang tương tự.
Hà Nội của tôi vốn mang dáng dấp một phố chợ phóng to. Khác với vẻ đẹp của tranh tre nứa lá các làng quê, đây là vẻ đẹp của phố phường gạch ngói hẳn hoi. Một vẻ đẹp cũ càng nghèo khổ, -- của một loại đô thị dang dở chưa thành hình thì đã già, tất nhiên rồi --, nhưng vẫn là cái héo hon tàn tạ của một thành phố, thứ xưa nay hiếm trên đất Việt.
Cuộc phiêu lưu của tôi sáng nay bắt đầu từ khu vực chung quanh chợ Đồng Xuân. Mấy phố lâu nay người ta quanh năm tràn ra đường để buôn bán, nay trước mắt tôi, không gian công cộng mới được trả lại vẻ mặt thật của nó. Các vỉa hè có được cái đặc tính mà ta tưởng từ lâu đã đánh mất, một vẻ rộng rãi đến thoáng đãng. Lại có cả những căn nhà vắng vẻ nữa, toàn những thứ không thể tưởng là lại có ở thành phố thời hậu chiến.
Lâu nay tôi vẫn bị ám ảnh bởi ý nghĩ giờ đây với những người như mình, Hà Nội đã bị đánh mất, cảm giác bắt nguồn từ chỗ phố xá lúc nào cũng xúm xít những người là người, người che mất nhà, người che mất tường, người che mất cửa...
Nay tất cả còn đủ. Hóa ra có một Hàng Khoai Hàng Chiếu Hàng Mã Hàng Cân Hàng Bồ Hàng Thíếc thật, chứ không phải những con phố ồn ào mà mọi khi tôi chỉ tìm cách, nếu có thể, thì lướt xe vượt qua thật nhanh.
Phố xá lúc này là nhà và cửa. Những cái nhà ken chặt cạnh nhau. Tôi ước ao có ai làm một bộ ảnh về những khung cửa Hà Nội hiện nay. Lác đác vẫn còn một vài nhà có cửa bức bàn, kiểu cửa gồm nhiều tấm gỗ dài xếp nối tiếp. Các loại cửa sắt thì nhiều hơn mặc dù thật ra gồm đủ các loại, giống nhau ở lớp sơn tróc màu trắng màu nâu nhòe nhoẹt.
Cũng như con người, nhà trên phố Hà Nội chỉ thỉnh thoảng lắm mới nhận được hai cái giống nhau, còn phần lớn mỗi nhà mỗi kiểu, chỗ chung của chúng là cái vẻ loang lổ của tường, cái cũ kỹ và chắp vá của vật liệu.
Những ngày thường đi lại trên phố, người ta chỉ cắm mặt xuống đất. Chỉ trong một ngày Hà Nội vắng như hôm nay , tôi mới có dịp nhìn lên phần Hà Nội trên cao, nơi có khi là ngói, có khi là tôn, có khi là ni-lông vải bạt, nhưng gọi chung là mái.
Bên cạnh những căn nhà phong sương, những mái phố tạm bợ, so với Hà Nội trong trí nhớ của tôi, thì Hà Nội hôm nay hơn hẳn ở số lượng kha khá những khách sạn mi-ni, kiểu khách sạn gia đình, vừa mới xây. Trước một khách sạn như thế, một người đàn bà ngoại quốc ngồi cạnh đứa con, vẻ mặt đứa bé lộ vẻ ngơ ngác. Ở một căn nhà sáng sủa khác, mấy người đàn ông da trắng đang chuyện trò rôm rả trước quầy tiếp tân.
Có cảm tưởng họ yêu Hà Nội hơn cả nhiều người chúng ta, họ biết đây là lúc Hà Nội đẹp nhất, họ đã đi hàng vạn cây số để tới chiêm ngưỡng nó trong lúc này. Trước một Hà Nội yên lặng run rẩy trong bộ khung nhà già lão, như không thể già thêm được nữa, họ hiểu đang được ngắm chân bản diện mục của thành phố .
Hơn ba chục năm nay, tôi mới có dịp sống lại cái cảm giác của Hà Nội những năm sơ tán. Trên cái xe đạp cà khổ, tôi đạp thật chậm mà không cảm thấy làm phiền mọi người. Trước một ngôi nhà hay một dãy phố vừa phát hiện, tôi tha hồ nhìn ngang nhìn ngửa, có lúc đi đến đầu phố lại quay ngoắt về đi dọc phố một lần nữa.
Lượn đi lượn lại mấy đoạn Bát Đàn, Lãn Ông, Thuốc Bắc, Hàng Phèn, tôi nhận ra rằng mạn mấy phố này có rất nhiều cây si hay cây đa trổ rễ lùm lòa. Có lúc đang đi ngước đầu lên khoảng không trước mặt, tôi gặp hai thân bàng bên đường xòe ra giao nhau.
Nhiều lần tôi dừng lại bên một cây lạ bên đường mà đến bây giờ vẫn không biết cây gì, chỉ biết nhìn mãi không chán. Ngày thường khuất lấp giữa người, nay cả cây với nhà mới hiện ra trong cái thế tôn nhau để cùng làm nên một vẻ đẹp.
Có cảm tưởng cái còn lại ở Hà Nội hôm nay luôn luôn là những gì vượt qua thách thức, tự mình biết mình, tự vui với mình, bất chấp mọi sự vô cảm của hoàn cảnh và bởi thế mà đẹp .
Dẫu sao cũng phải dành một ít phút cho Bờ Hồ. Từ trên phố xá tôi đã gặp nhiều phóng viên đi chụp hình, đến đây họ càng đông. Nơi tập trung nhiều tay săn ảnh nhất phải kể là bên cây lộc vừng.
Một người đi qua, may quá lại là một ông già áo ba-đờ-suy tầu tầu cu cũ. Như là từ ngóc ngách một căn nhà tối tăm nào bước thẳng ra đây, ông cụ trở thành khách mời hợp thời nhất, để thêm phần hồn cốt cho những bức ảnh về Hà Nội đang được hoài thai.
Chỉ tiếc cái ô ông cụ cầm là một cái ô vải ca-rô đỏ. Nhưng lấy đâu ra một cái ô đen kiểu của các ông lý ông xã bây giờ?
Sáng mùng một. Những luống hoa hoang dã mà cọc cạch, những giá đặt chậu hoa đơn sơ xấu xí và cả bãi cỏ chỗ gần Tháp Bút bị xéo nát, dư âm của buổi tối giao thừa hôm trước, vẫn bầy cả ra đấy… Tuy nhiên tất cả những cái đó không làm cho người ta hết nao lòng khi dạo qua trên con đường ven hồ.
Đi vào mấy phố Cầu Gỗ, ngược lên Hàng Bạc Đào Duy Từ, cảm tưởng rõ nhất của tôi là không thấy có cây cối nữa, chỉ có nhà cửa và những cách tổ chức không gian sống mang dư vị phong cách người Hoa, từ các sạp hàng tới các ngôi đền ngôi chùa lắt nhắt chật hẹp. Kỷ niệm về những rạp hát, Kim Chung Kim Phụng Lạc Việt, cùng với hình ảnh phố xá của những cuộc chơi đêm trở dậy. Bao giờ nơi đây buổi sáng chẳng bắt đầu muộn, cứ gì buổi sớm đầu năm.
Mưa bụi vẫn đang rắc đều trên phố xá. Nhiều nhà cửa giả còn đóng im ỉm. Loáng thoáng vẫn cảm thấy dấu vết cảnh chen chúc của giao thừa đêm trước. Nếu ở trên cầu Long Biên, đó là mấy mẩu chai vỡ, dấu vết của một đám say, thì ở đây, đầu một ngã tư, một quầy hàng ăn hôm trước bán muộn, đến giờ, trên mấy tấm ghế ghép tạm, chủ quán còn cuộn tròn trong chăn.
Không gì cần mẫn bằng việc dân mình lo ăn. Thay thế cho ca đêm là ca sáng. Ngay lúc vắng vẻ nhất này, các loại hàng ăn bún riêu bún ốc đã bắt đầu nổi lửa, hứa hẹn tạo nên sự nhộn nhịp ở một vài ngã tư.
Cửa chùa Cầu Đông 38 hàng Đường rộng mở, trong số mấy người đi lễ chùa sớm, tôi nhận ra có cả những thanh niên mười tám đôi mươi.
Khi nào thì Hà Nội trở thành mình nhất ? Theo tôi hiểu, đó là những khi Hà Nội đồng nghĩa với phố với cây với nhà, tự phố tự cây đã có linh hồn, còn những con người thật chỉ đóng vai trò điểm xuyết, như trong các bức tranh của Bùi Xuân Phái.
Buổi sáng mùng một vắng vẻ hôm nay, tôi đã bắt gặp một thành phố như thế.
14-2-10

Published on January 31, 2014 05:56
January 30, 2014
Đi tìm những độc đáo cá nhân trong ngày tết
Nguyễn Tuân có lần kể lại trong một thiên tuỳ bút in ra từ trước 1945:
“Ngày trước thầy tôi không mấy khi ăn tết ở nhà (...). Trong những ngày đó, thầy tôi làm gì? Thầy tôi đi chơi chợ trời vùng Hoà Bình, ngâm vịnh trong những lúc nhàn tản ở vùng Chợ Cột, Đông Triều, vào trong Quảng Nam chơi chùa Non Nước, đề đá núi Ngũ Hành. Có lần thầy tôi nặng tình với bạn, đã coi nhẹ lòng quê, và trong một ngày mồng một tết kia, lang thang với cái tiểu sành đựng hài cốt ông thân sinh ra ông bạn”.
Nhà văn này đã nổi tiếng với những hành động, cử chỉ bị mọi người coi là “ngông nghênh”, “ngang ngược”, song một đoạn văn như thế, kể lại những ứng xử kỳ cục như thế, lại hai lần độc đáo, vì nó ghi nhận và ca tụng cái ý muốn phá cách ngay trong một dịp được coi là rất thiêng liêng, ở đây là những ngày tết Nguyên đán với những nghi thức vốn rất nghiêm ngặt. Nói đúng ra, đọc cho vui thôi, chứ trên đời này đã mấy ai dám làm theo những gợi ý của tác giả Tuỳ bút. Vậy mà tôi vẫn muốn tin rằng nhiều người thấy thích đoạn văn ấy, vì nó nói hộ chúng ta một nhu cầu có thật: nhu cầu tìm tới sự độc đáo trong mọi ứng xử và dù hoàn cảnh bó buộc bao nhiêu thì cái khao khát kia vẫn không bao giờ vơi cạn.
qui tắc vàng
Đồng thời với việc khẳng định tính thiêng liêng của những ngày tết, các tài liệu nghiên cứu về phong tục thường không quên nói ngay tới những đặc điểm khác như niềm mong ước đoàn tụ gia đình và không khí đầm ấm, hoà hợp mà chỉ những ngày đầu năm mới có. Theo Nguyễn Văn Huyên, Tết “là một ngày lễ mà mọi người đều cử hành vô cùng trọng thể với một sự nhất trí đáng cảm động”. Từ điển lễ tục mới in ra gần đây cũng viết: “Để tiễn năm cũ, đón năm mới đến, mọi người lấy đơn vị từng gia đình và toàn xã hội để tổ chức”. Trên nguyên tắc, có thể bảo “đặc trưng văn hoá của tết Nguyên đán là nếp sống cộng đồng”. Thật ra, không cần đọc bất cứ tài liệu khoa học nào, mọi người Việt Nam cũng đã thầm biết cái “qui tắc vàng” ấy của lễ đón năm mới. Nó đi vào tâm thức ta, qua dòng sữa mẹ. Lúc nhỏ, ở với gia đình, chỉ cần nhìn qua nét mặt, cử chỉ của người thân là mỗi chúng ta hiểu ngay cái cảm giác thiêng liêng mà chỉ tết mới có. Và ta cũng biết ngay là vào những ngày ấy, phải sống trong sự đồng điệu với mọi người, phải tự hạn chế mọi ý thích cá nhân ra sao.
Thế nhưng, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội học đã nhấn mạnh, những chuẩn mực xã hội chỉ thực sự tồn tại thông qua việc “chiếm lĩnh” và “đồng hoá” của mỗi cá nhân. Mà nhu cầu khẳng định cá nhân là một nhu cầu thường trực và ngày càng rõ rệt hơn trong xã hội hiện đại. Trong khi chấp nhận những nghi thức của ngày tết, ta tưởng như cái cá nhân trong ta đã hoàn toàn bị dồn ép và đẩy lùi, song không hẳn như vậy. Bình tĩnh mà xét, người ta vẫn bắt gặp trong mình và những người quen mình rất nhiều nỗi niềm riêng tư, và nếu lưu ý sẽ thấy từng thế hệ nọ sang thế hệ kia, niềm thao thức ngấm ngầm ấy ngày một mãnh liệt.
hai con đường tìm tới sự độc đáo
Có thể quan sát thấy nhu cầu khẳng định cá nhân trong những ngày tết vẫn được bộc lộ theo hai hướng chính:
Một là, cũng làm mọi việc như mọi người, nhưng làm theo cái cách riêng của mình, để vào đó dấu ấn của cá tính.
Hai là, trong phạm vi có thể thử làm những “cú đột phá”, ngược lại các nghi thức vốn được cộng đồng xem trọng.
Những người ở Hà Nội lâu năm đều biết thói quen của dân cựu trào ở thủ đô là rất kỹ càng trong việc chọn cành đào ngày tết. Người nhiều tiền và ít thì giờ chỉ cần chọn cành nào thật tròn, thật đẹp là đủ. Một số người khác không thế. Trong khi mọi người chơi đào tròn, họ chơi đào thế. Đào thắm nhìn mãi cũng chán, âu là ta đổi sang đào phai, và nếu như ngay giữa chợ mà chọn được một cành đào dại ngẩn ngơ thì người ta càng ngấm ngầm tự hào một cách chính đáng.
Từ chuyện chọn dào đến chuyện gói bánh chưng, mua ít gói mứt, rồi sắp đặt bàn thờ, rồi ăn mặc, mừng tuổi, chào hỏi, đón khách..., bất cứ việc gì làm được khác mọi người một chút, người ta vẫn thích. Có thể bảo như thế là cầu kỳ, lập dị chăng? Không sao, ở đời ai chẳng thích độc đáo, chẳng qua có người nói ra lộ liễu, người lặng lẽ làm theo ý riêng mà thôi. Trên con đường khẳng định cá nhân, rồi có những lúc vô tình hay cố ý, người ta có thể trút bỏ hẳn các nghi thức như trường hợp mà Nguyễn Tuân đã tả ở trên, kể cũng không phải chuyện lạ.
trẻ già đồng thuận
Suy cho cùng thì câu chuyện đi tìm sự độc đáo cá nhân trong những ngày tết còn liên quan đến một chuyện lớn lao vẫn đang chi phối cuộc sống mọi người. Ấy là nên quan niệm các nghi thức cổ truyền ra sao, chúng là nhất thành bất biến hay có thể thay đổi? Liệu chúng ta sẽ phải mãi mãi tuân thủ những qui tắc do ông cha truyền lại, hay có thể đón tết với những nghi thức ít nhiều khác đi mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc và tìm được cảm giác thiêng liêng như cũ? Một câu hỏi như thế có quyền đặt ra và để ngỏ, mời mọi người cùng suy nghĩ tiếp.
Chính ở chỗ này, thấy nổi lên vai trò của những người trẻ tuổi. Những “bứt phá” nho nhỏ của họ đã và đang lẻ tẻ bắt đầu trong các gia đình. Và đấy là điều cũng đã được các nhà văn ghi nhận.
Trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu có một thiên truyện mang trên Giao thừa.
Nhân vật chính trong truyện là một ông già sống theo nguyên tắc cứng rắn, tối ba mươi bao giờ cũng bắt con cái ở nhà quây quần bên bàn thờ gia tiên, không đứa nào được đi chơi đâu hết.
Thế nhưng đến một năm nọ, lũ con không chịu được nữa, xong việc chuẩn bị tết là lấy xe ra đường, tìm cách đón nhận giờ phút thiêng liêng theo ý riêng của mình.
Ban đầu ông già cũng làm mặt nghiêm (và lấy cả xe điếu doạ), nhưng sau khi giảng giải đủ điều con cái vẫn không nghe, ông chỉ có cách lặng lẽ cho qua, bởi trong thâm tâm ông thừa biết con cái không thể hư được, chẳng qua chúng muốn sống khác đi chút ít trong những ngày tết, và rồi ông cũng phải nhận đó là một nhu cầu hợp lý.
Các nghi thức, dẫu sao, cũng chỉ có tính cách tương đối. Được sự thúc đẩy của cái khao khát chính đáng mà ở trên chúng ta vừa nói - khao khát khẳng định bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân - rồi các nghi thức mới sẽ xuất hiện. Và sẽ là một điều vô cùng tốt đẹp nếu trong việc này, có sự đồng thuận của cả lớp trẻ lẫn lớp già. Bấy giờ, xã hội sẽ hình thành nên những tập tục mới.
In báo 1994
In lại trong Nhân nào quả ấy 2003
Viết thêm 30-1-2014 (30 tết Giáp Ngọ)
Không biết có phải nhân cuốn tiểu thuyết Sau hai mươi năm ( 1845) của Dumas cha (1802-1870) mà người ta thường lấy cái mốc hai mươi năm để chỉ tính về sự thay thế một thế hệ mới đối với thế hệ cũ.
Từ khi tôi viết bài viết trên đến nay đã hai mươi năm. Ngày nay đọc lại bản thân cũng cảm thấy ngay được vẻ cũ càng trong cảm xúc và chất liệu đưa vào trong bài về tết của mình. Hồi ấy đối với bây giờ sao mà đã quá xa lạ.
Hai mươi năm trước tôi còn cảm thấy có quyền nói lên mơ ước về sự hài hòa của thời gian, nhất là về sự hài hòa của con người.
Sự hài hòa này bao gồm cả sự độc đáo chính đáng của cá nhân lẫn sự cảm thống giữa các thế hệ.
Ngày nay thì mọi chuyện đã khác đi nhiều lắm. Cộng đồng chúng ta – cho phép tôi nói một cảm giác mơ hồ của mình -- đang đứng trước một sự rạn vỡ và con người đang ở trong một tình trạng hỗn loạn mà con người ở các thời đại trước không hề biết tới.
Trong hoàn cảnh ấy, bên cạnh việc trực tiếp xông vào gỡ rối, mỗi người cũng cần đến cả việc như là lùi xa ra một chút để ghi nhận những bước đi của thời gian và của lòng người.
Khi so sánh những gì đã qua với hôm nay ta sẽ biết là những gi đã bị đánh mất và cần tìm lại…
“Ngày trước thầy tôi không mấy khi ăn tết ở nhà (...). Trong những ngày đó, thầy tôi làm gì? Thầy tôi đi chơi chợ trời vùng Hoà Bình, ngâm vịnh trong những lúc nhàn tản ở vùng Chợ Cột, Đông Triều, vào trong Quảng Nam chơi chùa Non Nước, đề đá núi Ngũ Hành. Có lần thầy tôi nặng tình với bạn, đã coi nhẹ lòng quê, và trong một ngày mồng một tết kia, lang thang với cái tiểu sành đựng hài cốt ông thân sinh ra ông bạn”.
Nhà văn này đã nổi tiếng với những hành động, cử chỉ bị mọi người coi là “ngông nghênh”, “ngang ngược”, song một đoạn văn như thế, kể lại những ứng xử kỳ cục như thế, lại hai lần độc đáo, vì nó ghi nhận và ca tụng cái ý muốn phá cách ngay trong một dịp được coi là rất thiêng liêng, ở đây là những ngày tết Nguyên đán với những nghi thức vốn rất nghiêm ngặt. Nói đúng ra, đọc cho vui thôi, chứ trên đời này đã mấy ai dám làm theo những gợi ý của tác giả Tuỳ bút. Vậy mà tôi vẫn muốn tin rằng nhiều người thấy thích đoạn văn ấy, vì nó nói hộ chúng ta một nhu cầu có thật: nhu cầu tìm tới sự độc đáo trong mọi ứng xử và dù hoàn cảnh bó buộc bao nhiêu thì cái khao khát kia vẫn không bao giờ vơi cạn.
qui tắc vàng
Đồng thời với việc khẳng định tính thiêng liêng của những ngày tết, các tài liệu nghiên cứu về phong tục thường không quên nói ngay tới những đặc điểm khác như niềm mong ước đoàn tụ gia đình và không khí đầm ấm, hoà hợp mà chỉ những ngày đầu năm mới có. Theo Nguyễn Văn Huyên, Tết “là một ngày lễ mà mọi người đều cử hành vô cùng trọng thể với một sự nhất trí đáng cảm động”. Từ điển lễ tục mới in ra gần đây cũng viết: “Để tiễn năm cũ, đón năm mới đến, mọi người lấy đơn vị từng gia đình và toàn xã hội để tổ chức”. Trên nguyên tắc, có thể bảo “đặc trưng văn hoá của tết Nguyên đán là nếp sống cộng đồng”. Thật ra, không cần đọc bất cứ tài liệu khoa học nào, mọi người Việt Nam cũng đã thầm biết cái “qui tắc vàng” ấy của lễ đón năm mới. Nó đi vào tâm thức ta, qua dòng sữa mẹ. Lúc nhỏ, ở với gia đình, chỉ cần nhìn qua nét mặt, cử chỉ của người thân là mỗi chúng ta hiểu ngay cái cảm giác thiêng liêng mà chỉ tết mới có. Và ta cũng biết ngay là vào những ngày ấy, phải sống trong sự đồng điệu với mọi người, phải tự hạn chế mọi ý thích cá nhân ra sao.
Thế nhưng, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội học đã nhấn mạnh, những chuẩn mực xã hội chỉ thực sự tồn tại thông qua việc “chiếm lĩnh” và “đồng hoá” của mỗi cá nhân. Mà nhu cầu khẳng định cá nhân là một nhu cầu thường trực và ngày càng rõ rệt hơn trong xã hội hiện đại. Trong khi chấp nhận những nghi thức của ngày tết, ta tưởng như cái cá nhân trong ta đã hoàn toàn bị dồn ép và đẩy lùi, song không hẳn như vậy. Bình tĩnh mà xét, người ta vẫn bắt gặp trong mình và những người quen mình rất nhiều nỗi niềm riêng tư, và nếu lưu ý sẽ thấy từng thế hệ nọ sang thế hệ kia, niềm thao thức ngấm ngầm ấy ngày một mãnh liệt.
hai con đường tìm tới sự độc đáo
Có thể quan sát thấy nhu cầu khẳng định cá nhân trong những ngày tết vẫn được bộc lộ theo hai hướng chính:
Một là, cũng làm mọi việc như mọi người, nhưng làm theo cái cách riêng của mình, để vào đó dấu ấn của cá tính.
Hai là, trong phạm vi có thể thử làm những “cú đột phá”, ngược lại các nghi thức vốn được cộng đồng xem trọng.
Những người ở Hà Nội lâu năm đều biết thói quen của dân cựu trào ở thủ đô là rất kỹ càng trong việc chọn cành đào ngày tết. Người nhiều tiền và ít thì giờ chỉ cần chọn cành nào thật tròn, thật đẹp là đủ. Một số người khác không thế. Trong khi mọi người chơi đào tròn, họ chơi đào thế. Đào thắm nhìn mãi cũng chán, âu là ta đổi sang đào phai, và nếu như ngay giữa chợ mà chọn được một cành đào dại ngẩn ngơ thì người ta càng ngấm ngầm tự hào một cách chính đáng.
Từ chuyện chọn dào đến chuyện gói bánh chưng, mua ít gói mứt, rồi sắp đặt bàn thờ, rồi ăn mặc, mừng tuổi, chào hỏi, đón khách..., bất cứ việc gì làm được khác mọi người một chút, người ta vẫn thích. Có thể bảo như thế là cầu kỳ, lập dị chăng? Không sao, ở đời ai chẳng thích độc đáo, chẳng qua có người nói ra lộ liễu, người lặng lẽ làm theo ý riêng mà thôi. Trên con đường khẳng định cá nhân, rồi có những lúc vô tình hay cố ý, người ta có thể trút bỏ hẳn các nghi thức như trường hợp mà Nguyễn Tuân đã tả ở trên, kể cũng không phải chuyện lạ.
trẻ già đồng thuận
Suy cho cùng thì câu chuyện đi tìm sự độc đáo cá nhân trong những ngày tết còn liên quan đến một chuyện lớn lao vẫn đang chi phối cuộc sống mọi người. Ấy là nên quan niệm các nghi thức cổ truyền ra sao, chúng là nhất thành bất biến hay có thể thay đổi? Liệu chúng ta sẽ phải mãi mãi tuân thủ những qui tắc do ông cha truyền lại, hay có thể đón tết với những nghi thức ít nhiều khác đi mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc và tìm được cảm giác thiêng liêng như cũ? Một câu hỏi như thế có quyền đặt ra và để ngỏ, mời mọi người cùng suy nghĩ tiếp.
Chính ở chỗ này, thấy nổi lên vai trò của những người trẻ tuổi. Những “bứt phá” nho nhỏ của họ đã và đang lẻ tẻ bắt đầu trong các gia đình. Và đấy là điều cũng đã được các nhà văn ghi nhận.
Trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu có một thiên truyện mang trên Giao thừa.
Nhân vật chính trong truyện là một ông già sống theo nguyên tắc cứng rắn, tối ba mươi bao giờ cũng bắt con cái ở nhà quây quần bên bàn thờ gia tiên, không đứa nào được đi chơi đâu hết.
Thế nhưng đến một năm nọ, lũ con không chịu được nữa, xong việc chuẩn bị tết là lấy xe ra đường, tìm cách đón nhận giờ phút thiêng liêng theo ý riêng của mình.
Ban đầu ông già cũng làm mặt nghiêm (và lấy cả xe điếu doạ), nhưng sau khi giảng giải đủ điều con cái vẫn không nghe, ông chỉ có cách lặng lẽ cho qua, bởi trong thâm tâm ông thừa biết con cái không thể hư được, chẳng qua chúng muốn sống khác đi chút ít trong những ngày tết, và rồi ông cũng phải nhận đó là một nhu cầu hợp lý.
Các nghi thức, dẫu sao, cũng chỉ có tính cách tương đối. Được sự thúc đẩy của cái khao khát chính đáng mà ở trên chúng ta vừa nói - khao khát khẳng định bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân - rồi các nghi thức mới sẽ xuất hiện. Và sẽ là một điều vô cùng tốt đẹp nếu trong việc này, có sự đồng thuận của cả lớp trẻ lẫn lớp già. Bấy giờ, xã hội sẽ hình thành nên những tập tục mới.
In báo 1994
In lại trong Nhân nào quả ấy 2003
Viết thêm 30-1-2014 (30 tết Giáp Ngọ)
Không biết có phải nhân cuốn tiểu thuyết Sau hai mươi năm ( 1845) của Dumas cha (1802-1870) mà người ta thường lấy cái mốc hai mươi năm để chỉ tính về sự thay thế một thế hệ mới đối với thế hệ cũ.
Từ khi tôi viết bài viết trên đến nay đã hai mươi năm. Ngày nay đọc lại bản thân cũng cảm thấy ngay được vẻ cũ càng trong cảm xúc và chất liệu đưa vào trong bài về tết của mình. Hồi ấy đối với bây giờ sao mà đã quá xa lạ.
Hai mươi năm trước tôi còn cảm thấy có quyền nói lên mơ ước về sự hài hòa của thời gian, nhất là về sự hài hòa của con người.
Sự hài hòa này bao gồm cả sự độc đáo chính đáng của cá nhân lẫn sự cảm thống giữa các thế hệ.
Ngày nay thì mọi chuyện đã khác đi nhiều lắm. Cộng đồng chúng ta – cho phép tôi nói một cảm giác mơ hồ của mình -- đang đứng trước một sự rạn vỡ và con người đang ở trong một tình trạng hỗn loạn mà con người ở các thời đại trước không hề biết tới.
Trong hoàn cảnh ấy, bên cạnh việc trực tiếp xông vào gỡ rối, mỗi người cũng cần đến cả việc như là lùi xa ra một chút để ghi nhận những bước đi của thời gian và của lòng người.
Khi so sánh những gì đã qua với hôm nay ta sẽ biết là những gi đã bị đánh mất và cần tìm lại…
Published on January 30, 2014 03:10
January 28, 2014
Hiện tượng “lại gạo” trong niềm tin trong cách sống
Trên báo Văn Nghệ, có lần, tôi đã được đọc một truyện ngắn, trong đó kể
chuyện hai vị cán bộ về hưu, tranh nhau chức chủ tế, trong một dịp làng mở hội.
Còn đây trước mắt tôi, bài tạp văn Chiến
binh khi đã về già của Nguyễn Khải dựng lại cả một quá trình thay đổi:
Khoảng 1948, thị xã Hưng
Yên, theo trí nhớ của tác giả, bước vào kháng chiến chống Pháp bằng một cuộc từ bỏ lớn. Đó là từ bỏ mọi
thói mê tín vốn đã thâm căn cố đế:
"Bói
bụt ở chùa Chuông, bỏ.
"Xin thẻ ở đền Mẫu, cũng bỏ.
"Rước Niềm, rước Du của hội
Mẫu vào tháng ba ta cũng bỏ luôn.
"Hình như mọi người không ai bảo ai đều muốn
sống theo lề luật mới (...)".
Năm chục năm sau, có hiện tượng ngược
lại. Người ta đua nhau lễ bái. Và lạ nhất là mấy ông cán bộ cũ nhà mình cũng
tham gia vào việc tế lễ một cách hào hứng.
Một người trong số đó kể với tác giả:
"Ông nói ngày
nhỏ có người xem lá số của ông, bảo ông có số thờ. Một đời trong quân ngũ, có
lúc nào nghĩ tới cúng bái, đã tưởng lá số lấy sai; nào ngờ lúc về già, lại được
làm tôi tớ của Mẫu, cả ngày quanh quẩn nơi thờ tự của ngài, chả còn thiết gì
đến con cháu.
Có một sự ăn nhập tuyệt vời giữa ông ta với đám đông chung quanh.
"Các bà đi
lễ chắp tay đồng thanh nói: Lạy Mẫu mớ bái, Mẫu đã chọn làm ghế làm đệm của Mẫu
làm sao mà trốn được. Ông kia lại nói, tiếng bổng tiếng trầm, lời lẽ cứ trôi ra
tuồn tuột như một anh thầy cúng rất thạo nghề, rằng từ ngày được hầu hạ Mẫu, vợ
chồng ông rất khỏe mạnh, con cái đều ăn nên làm ra, tức là ngài đã xá u xá mê xá
nhầm xá lỗi cho ông vì ông đã biết quay đầu trở lại. Các bà tín nữ lại đồng
thanh kêu tiếp: Lạy Mẫu mớ bái, ngài giơ cao đánh khẽ".
Điều thú vị nhất là ở đoạn về sau, tác giả chợt phát hiện cái ông già hoan hỉ
được hầu hạ Mẫu ấy, gần năm chục năm trước, là một chiến sĩ: "dáng vóc cao lớn, đội mũ sắt, khoác xà cột
da, ngang lưng đeo một khẩu súng ngắn và hai trái lựu đạn", từng đã
đứng ra diễn thuyết về kháng chiến, và trong tâm trí tác giả, là "cái chân dung hào hùng và lãng mạn của một
chàng trai Việt Nam buớc vào chiến trận".
Theo Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê, chữ lại khi
đặt trước một từ khác, là để chỉ một quá trình đảo ngược:
Như lại bữa là ăn trả bữa;
lại
gạo là chỉ bánh đã nấu, mà trở lại khô
cứng, như khi chưa nấu;
hoặc lại giống là sự xuất hiện một vài yếu tố của tổ tiên xưa như người
có lông, người có đuôi...
Trường hợp mà Nguyễn Khải vừa miêu tả ở trên (cũng như nhiều chuyện tương tự đã
được nhắc tới đây đó trên mặt báo) đúng là một sự lại gạo ở cấp tinh vi hơn: lại gạo trong cách sống, trong niềm tin.
Người ta quay trở lại với những gì
từng lên án và xem là cổ hủ, lạc hậu. Hơn thế nữa, đó là một sự trở lại thành
tâm, tự nguyện, khiến cho con người trở lại kia thấy sung sướng đến nở lòng nở
ruột.
Cuối cùng, chỉ có cách kết luận:
trong khi tham gia vào cuộc vận động cách mạng hôm qua, những người ấy chưa có
sự nhận thức tự giác, chẳng qua hùa theo đám đông, thấy xung quanh làm thì cũng chạy theo.
Có nhận thức sâu sắc thì trong khi
hoạt động, đồng thời làm công việc tự cải tạo, làm thay đổi hẳn con người của
mình.
Còn như hùa theo mọi người thì không
trước thì sau, sẽ trở lại với cái lai do
bản mệnh.
Và bởi mấy ông cán bộ nói trong bài
tạp văn Chiến binh khi đã về già,
chẳng qua cũng là nông dân, cởi áo cán bộ ra là nhập ngay được với bà con làng
xóm, cho nên, vấn đề nhà văn Nguyễn Khải nêu lên ở đây cũng là vấn đề nhức nhối
của nông thôn ta hiện nay,
--sự trở lại của những tập quán mê tín dị đoan, mà có một thời chúng ta
tưởng đã tuyệt diệt
--
sự trở lại của nông thôn cũ trong lòng cái thực thể nông thôn mà ta cứ ngỡ là
mới.
Trong khi suy nghĩ về hiện tượng
này, và những hiện tượng lại gạo tương tự, có người chỉ đổ thừa cho những biến đổi xã hội thường được mệnh danh là kinh tế thị
trường.
Nhưng xem xét kỹ thì thấy cái gọi là kinh tế thị trường hiện nay cũng quá cũ kỹ như đời sống chúng ta nói chung.
Nó chưa đủ sức trở thành một yếu tố đầu tầu làm thay đổi đời sống một cách căn bản mà chỉ giúp cho cái nếp sống cũ có những biến thể sặc sỡ, giúp chúng ta yên tâm tự dối mình là mọi chuyện đang thay đổi , đang tiến hóa.
Đến đây, có thể có người sẽ lý sự:
- Sao anh làm gì mà nghiệt ngã thế? Cái chuyện
hôm qua tôi bỏ lễ, bỏ bái là sai, giờ tôi có quyền sửa! Chính nhờ cách mạng rồi
tôi mới hiểu ra các giá trị văn hóa dân tộc, nên tôi tính chuyện trở lại, có gì
là lạ?
Một cách lập luận hiện rất phổ biến và nghe ra cũng có lý.
Chỉ
hiềm có phải là đúng như thế không, thì cần xem kỹ một chút.
Bên cạnh Chiến binh khi đã về già , trong thời gian này (những năm 1990s) Nguyễn Khải còn có một truyện ngắn mang tên Một
thời gió bụi kể về một sự việc xảy
ra theo hướng hoàn toàn ngược lại.
Thiên truyện cho biết tại một làng
nọ, có một bọn cả gan đập phá một ngôi mộ cổ. Đó là một bà thứ phi từ đời chúa
Trịnh. Mộ bị bật tung, cái xác chôn đã mấy trăm năm (song được chèn quanh bởi
những túi gạo rang và lụa là gấm vóc nên thân người con nguyên) nay bị lấy cắp
mất cái đầu, chắc để tìm vàng. Cảnh tượng thật thê thảm hết chỗ nói.
Đặt hai hiện tượng cạnh nhau.
Một bên mê mẩn với thần thánh và lao vào hầu hạ thần thánh.
Một bên làm chuyện bạo thiên nghịch địa báng
bổ tổ tiên.
Sao ở xã hội cùng lúc lại có hai
hiện tượng trái ngược nhau đến vậy?
Truy tìm nguồn gốc cả hai hiện tượng đó, Nguyễn Khải đã lật ra chung một nguyên nhân. Chẳng qua đó chỉ là hai mặt của một quá trình -
quá trình tính vụ lợi lên ngôi và trở thành nhân tố chủ đạo chi phối mọi hành
động của con người hậu chiến.
Hóa ra chẳng ai thực sự vô thần mà
cũng chẳng ai có được một lòng tin cho vô tư, cho sâu sắc. Cứ thấy lợi thì làm.
Có lợi, thì việc càn rỡ, việc xấu, xúc phạm tới mọi điều cao cả thiêng liêng
cũng chẳng từ. Rồi nếu nhắm thấy có lợi, thì sẵn sàng cầu cúng đền này miếu nọ,
và đứng ra lo việc cầu cúng, tức là tổ chức nên sự mê tín cho mọi người.
Ở cuối bài tạp văn Chiến binh khi đã về già, nhà văn không quên bỏ nhỏ một chi tiết:
Trong
khi cái con người từng cả đời trong quân ngũ nhưng lại có "số thờ"
kia, đang mải miết trò chuyện về sự linh ứng của Mẫu, thì bên chính điện bà
đồng đền ngồi nhăn nhó bực bội.
Hóa
ra có sự ăn chia nào đó không sòng phẳng giữa các bên có liên quan xung quanh
những đồng tiền công đức cúng vào đền.
Đấy,
lý do khiến cho người ta từ chỗ không tin đến chỗ đi thuyết minh về đức tin, thật
ra là ở chỗ ấy!
Câu chuyện Nguyễn Khải kể ở đây xảy ra ở Hưng Yên nhưng cũng có thể xảy ra ở
Hải Dương, ở Bắc Ninh, ở nhiều tỉnh khác.
Sự vụ lợi, suy cho cùng đâu cũng có,
thời nào cũng có, và nếu như bảo rằng nó là động cơ sâu xa chi phối mọi hành động
của một số người thì cũng là lẽ thường tình.
Thử hình dung ra quá trình đảo ngược của những người lại gạo.
Những năm tháng hoạt động
cách mạng chưa hết dấu vết nơi họ, và trong thâm tâm, họ cũng có chút xấu hổ.
Thế nhưng sau khi thấy cả đời mình
thua thiệt và chả còn biết nương tựa vào đâu, họ không còn cách nào khác là lần
mò kiếm chút lợi lộc, dù có mang tiếng cũng đành chịu.
Và để tự biện hộ, họ phải khoác cho
hành động của mình những ý nghĩa lớn lao. Bởi vậy mới có những lời rao giảng
thật to, rằng mình làm thế tức là tôn trọng truyền thống ông cha, là trở về cội
nguồn, và tất nhiên là có ý nghĩa bảo tồn và giữ gìn di sản văn hóa dân tộc.
Đây chính là nét đặc trưng mà chỉ sự
mê tín thời nay mới có, nó khiến cho thật giả khó lường và có những chuyện buồn
cười mọi người trông thấy nhỡn tiền và ai cũng biết là không ra làm sao, mà
không dễ gì thay đổi.
Đã in trong Nhân
nào quả ấy, 2003
Viết
thêm 27-1-2014
Sự
tha hóa của loại nhân vật cán bộ dày dạn kinh nghiệm đấu tranh cách mạng là một chủ đề liên tục được
bộc lộ trong các tác phẩm Nguyễn Khải từ những ngày kết thúc chiến tranh và
sang thời kỳ kinh tế thị trường.
Bài Chiến binh nay đã về già dẫn ra ở trên
chỉ nói về sự đổ vỡ niềm tin. Song nó gợi cho ta liên hệ tới hàng loạt sự giật lùi khác trong
cách sống của lớp người từng là cốt cán góp phần tạo nên mọi biến động lịch sử
mấy chục năm qua:
--Từ chỗ hào hứng tự tin đến chỗ bất lực sợ hãi trước
tương lai.
--Từ chỗ sống thanh cao và đầy lý tưởng nay chỉ lo
hưởng thụ vật chất. Từ chỗ nhân danh vô sản phê phán bừa bãi địa chủ tư sản đến chỗ bò xuống học đòi bắt chước những thói xấu mà những người ưu tú trong giới thượng lưu đã từ bỏ.
-- Từ chỗ đặt mục đích đời mình là xả thân vì nghĩa
lớn, nay cậy có công trong chiến tranh, tự cho phép tha hồ khai thác tình trạng
lạc hậu xã hội, cảnh cùng cực của dân đen để kiếm chác.
...
Bởi lớp người như ông chiến binh nói ở đây là cốt cán của xã hội ta hôm nay và tư tưởng của họ vẫn đóng vai trò chi phối xã hội, nên có thể suy ra, mấy chục năm qua, xã hội ta cũng đang có sự quay đầu trở về thời tiền hiện đại. Đây là điều tôi đã thử dự đoán qua một vài bài phiếm luận trước và đang suy nghĩ tiếp.
Nguyên nhân ở đâu?
Việc tiêu hủy sức lực và tinh thần ý chí của con người trong
chiến tranh có lỗi một phần.
Nhưng cái chính là ngay từ thuở ban đầu, cộng đồng chúng ta đã không nhận thức được mình là ai, mình sẽ làm được những gì. Những khẩu hiệu chính trị mà chúng ta mới nhập khẩu từ nước ngoài và đã có tác dụng lớn trong việc hướng dẫn hành động, thật ra, chưa bao giờ được ta tiêu hóa và từ đó đề ra cho mình một định hướng phát triển chính xác. Kết
cục đang đến với chúng ta hôm nay là một cái gì tự nhiên. Chúng ta vốn là thế thì phải hiện ra như thế, thay đổi
như thế và chấp nhận những kết cục như
thế.
Published on January 28, 2014 21:34
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
