Vương Trí Nhàn's Blog, page 4
March 29, 2025
Quan niệm về con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp -- bài của Hồ Tấn Nguyên Minh –
NguyễnHuy Thiệp sinh 29-4-50 và mất 20-3-2021. Hướng tới 75 năm sinh nhật ông, chúng tôi muốn thử làm một sưutập các bài viết về ông.
Bàiđưa dưới đây trích từ nguồn
-----------
“ Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm làcon người”. Nhận xét trên của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói lênđược sứ mệnh cao cả của văn chương là phản ánh một cách sinh động và trung thựcvề con người.
Ngay từ những năm kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu đã ghivào nhật kí: “ Hôm nay chúng ta chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc,nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng conngười… Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài”. Dự cảm sáng suốt của ông đãđược minh chứng khi văn học có một sự chuyển mình mạnh mẽ từ quỹ đạo chiếntranh sang quỹ đạo hòa bình sau năm 1975. Các nhà văn dành tất cả tâm lực củamình cho một cuộc đổi mới toàn diện văn chương. Đổi mới quan niệm về nhà văn,đổi mới cách viết, đổi mới đề tài… và đặc biệt nhất là đổi mới quan niệm nghệthuật về con người với nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc. Từ năm 1945 đếnnăm 1975, phát triển trong điều kiện chiến tranh, văn học nhìn con người bằngcái nhìn lý tưởng, “ lấy lịch sử làm điểm quy chiếu con người”[1].Cho nên conngười xuất hiện trong giai đoạn văn học này chủ yếu là con người cộng đồng, conngười giai cấp, con người dân tộc. Những con người đơn giản, dễ hiểu được xâydựng theo những công thức nhất định. Nhưng từ sau năm 1975, yêu cầu đổi mới vănhọc đòi hỏi nhà văn phải nhìn con người trong những mối quan hệ đời thường đađoan và phức tạp, khám phá con người ở khía cạnh đời tư bằng cặp mắt nhiềuchiều và bằng cách viết đa thanh.
Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc, nửa sauthập kỉ 80 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của một hiệntượng văn học lạ, độc đáo và gây nhiều tranh cãi: HIỆN TƯỢNG NGUYỄN HUY THIỆP.Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, có thể nhìn thấy một “cõi người ta” xù xì, gânguốc, góc cạnh lẫn lộn giữa tốt và xấu, thật và giả, đen và trắng, cao thượngvà thấp hèn với những con người có suy nghĩ, hành động và đời sống nội tâm vôcùng bí ẩn. Cái thế giới ấy thể hiện một cách nhìn rất thật và sâu sắc của nhàvăn về con người.
Bài viết này khảo sát một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, khaithác hình ảnh con người trong tác phẩm của ông với mục đích “đi tìm NguyễnHuy Thiệp”[2], hiểu quan niệm và suy tư củaông về con người.
.
1. Con người đê tiện, thực dụng trong thế giới “ không có vua”và “ biển không có thủy thần”
Có người gọi Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của “ những cái trớ trêu”. Với sự mẫncảm đặc biệt của một nhà văn có thực tài, ông đã thoát ra ngoài những chuẩn mựcđạo đức, luân lý thông thường để xác định diện mạo thật của cuộc sống. Cuộcsống đâu chỉ có cái đẹp, cái cao cả như một thời văn học ta ngợi ca. Cuộc sốngcòn là một cõi tục hoang sơ, trì đọng, một thế giới hỗn tạp xô bồ “đất khôngcó vua và biển không có thủy thần”[3]. Ở đó có những con người bạcác, đểu cáng. Ở đó có những con người vụ lợi, dối trá. Nguyễn Huy Thiệp dùngphần lớn dung lượng tác phẩm của mình để viết về kiểu người đê tiện, thực dụng.Đây là kiểu nhân vật bị thoái hóa về nhân cách, bị vấy bẩn về tâm hồn, sống độcác và tàn nhẫn. Họ lấy đồng tiền, lấy quan hệ vật chất làm thước đo cho mọi giátrị. Họ tham lam, ích kỉ, thực dụng một cách tỉnh táo và vụ lợi một cách bỉ ổi.Gia đình lão Kiền trong “Không có vua” là một thế giới thu nhỏ, một cõinhân gian không còn trật tự tôn ti. Mọi chuẩn mực truyền thống của một gia đìnhViệt dường như bị triệt tiêu hoàn toàn khi lão Kiền – bố chồng bắt ghế lén xemcon dâu tắm, lại hoàn toàn thản nhiên trước mâu thuẫn của các con “Chúng màygiết nhau đi, ông càng mừng”, khi Đoài – em chồng chòng ghẹo, đòi ngủ vớichị dâu, ghen cả với bố. Người đọc cứ rờn rợn trước cái lối biểu quyết bố chếtcủa Đoài: “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé”. Sự sa đọa vềphẩm chất đã đẩy con người đến chỗ đốn mạt. “Không có vua” như một tiếng chuôngcảnh tỉnh cho sự xuống cấp trầm trọng của đạo đức con người.
Nhìn thẳng vào sự thật, Nguyễn Huy Thiệp vạch trần tâm lý thực dụng, vụ lợi mộtcách trắng trợn của con người. Nhân vật Hạnh trong “ Huyền thoại phốphường” để tạo được sự tin cậy của gia đình bà Thiều đã không ngần ngại“ xắn tay áo rồi đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn, lõng bõng nướcbẩn, thậm chí còn có cả cục phân người”. Ông Bổng trong “Tướng về hưu” ởđám tang chị dâu tỏ vẻ tiếc rẻ “ Mất mẹ bộ xa lông. Ai lại đi đóng quantài bằng gỗ dổi bao giờ. Bao giờ bốc mộ cho chú bộ ván”. Đặc biệt hơn cả,sự trục lợi tỉnh táo đến mức kinh tởm ở nhân vật Thủy trong “Tướng về hưu”:“ Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hằng ngày các rauthai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn…Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi béxíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc…Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: Sao không cho vàomáy xát? Sao để ông biết?”. Banzắc từng nói “ Khi túi tiền phình ra thì tráitim bị teo lại”. Chính tâm lý vụ lợi, thực dụng đã khiến con người đánh mấtlương tri. Viết về kiểu người này, Nguyễn Huy Thiệp đã “ lột truồng conngười ra và phơi bày toàn bộ sự đớn hèn của nó”[4].
Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện hàng loạt những nghịch lý : Ở hiền thì gặpchuyện bất trắc. Đi tìm cái đẹp thì gặp cái xấu xa, bỉ ổi. Đi tìm điều thiệnthì gặp điều độc ác. Những kẻ trí thức có học thì dâm ô, dối trá, bịp bợm…Nhữngnghịch lý ấy là sự thật về cái phi lý của cuộc sống và con người. Cuộc sốngkhông đơn giản mà vô cùng phức tạp. Con người không dễ hiểu mà vô cùng rắc rối.Khám phá con người bằng cặp mắt nhiều chiều, xoáy sâu vào đời sống nội tâmchằng chịt của con người, nhà văn đã góp được một tiếng nói thành thật về conngười mà suốt mấy mươi năm chiến tranh, vì nhiều lý do, văn học buộc phải giấukín trong vỏ bọc chính trị, đạo đức, văn hóa. Cất lên tiếng nói thành thật ấy,Nguyễn Huy Thiệp từng bị chỉ trích một cách gay gắt. Biết làm sao được. Sự thậtđôi lúc rất tàn nhẫn. Nhưng tàn nhẫn đến mấy cũng phải phơi bày nó ra để cảnhtính con người, hướng con người về chân – thiện – mĩ. Nguyễn Huy Thiệp với tácphẩm của mình đã “ lôi tuột chúng ta từ khoảng trống lơ lửng giữa trời và đất,buộc ta phải đối mặt với mình, với một thế giới không có vua, dạy chúng tanhững bài học nông thôn, bắt chúng ta hiểu rằng trước khi muốn nhìn lên bầutrời thì phải nhìn mặt đất đã.”[5]
2. Con người cô độc, lạc lõng giữa mênh mông cõi người
Kiểu người cô độc, lạc lõng xuất hiện trong văn học nhân loại trước Nguyễn HuyThiệp rất lâu. Những thập niên 50, 60 của thế kỉ XX, kiểu người này trở nên phổbiến trong văn học phi lý Tây Âu với những kiệt tác như : “ Người xa lạ”, “Huyền thoại Sisyphe” của A. Camus; “Hóa thân”, “ Vụ án” của F.Kapka; “ Buồnnôn” của J.P. Sartre… Đó là những con người thuộc “ thế hệ bỏ đi”[6], bị ném vào lò lửa của haicuộc thế chiến trở ra là những con người lầm lầm, lì lì, sống không hy vọng,không niềm tin và trở nên xa lạ với tất cả. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khaithác nhiều về kiểu người này để phản ánh một sự thật rằng khi kinh tế thịtrường, văn minh công nghiệp mở ra, lối sống thực dụng như một cơn gió lốc trànvào từng ngóc ngách của cuộc sống. Con người trở nên bơ vơ, lạc loài vì khôngthể thích ứng được với nó.
“ Sao tôi cứ mãi lạc loài”. Đó là sự trăn trở, day dứt trong tâmhồn ông Thuần – vị tướng về hưu trong kiệt tác cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp.Ông từng là một người lính, một vị chỉ huy mẫu mực, một tấm gương sáng trongmắt mọi người: “ Ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh củaniềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng đượcmọi người ngưỡng vọng”. Rèn luyện trong quân đội, ông có một lối sống trongsạch, ngay thẳng, không vụ lợi. Thế nhưng khi giã từ con đường binh nghiệp đểtrở về cuộc sống đời thường, ông phải đối mặt với bao nhiêu bộn bề, ngang trái.Ông không hòa hợp được với cái lạnh lùng của lối sống thực dụng. Cuộc sốngkhông còn chỗ cho ông, ông trở thành người thừa, xa lạ với chính những người thântrong gia đình. Một khối cô đơn khổng lồ đè nặng lên tâm hồn vị tướng của mộtthời lửa đạn. Ông khóc khi chứng kiến các rau thai nhi trong nồi cám “ Khốnnạn, tao không cần sự giàu có này”. Ông luống cuống khổ sở trong một đámcưới ngoại ô lố lăng và dung tục. Ông ngán ngẩm trước việc đứa con dâu ngoạitình. Ông nhận ra một sự thật cay đắng rằng “ Đàn ông thằng nào có tâm thìnhục… tâm càng lớn càng nhục”. Sự cô đơn, lạc lõng của ông Thuần xuất phát từsự mâu thuẫn của lý tưởng cao đẹp một thời và sự thật trần trụi của một thờikhác. Một người như ông, từng được đặt trong “bầu không khí vô trùng” của thờitrước chắc chắn không đủ sức đề kháng để đối chọi với sự thật của thời này.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có cái cô đơn của những con người mải mê đi tìmđiều thiện, đi tìm cái cao đẹp của cuộc đời. Điều thiện ở đâu? Cái đẹp ở phươngnào? Sao mong manh xa vời vậy? Thế giới “không có vua” và “biển không có thủythần”. Con người lại chìm vào bi kịch cô đơn. Chương trong “ Con gái thủy thần”suốt đời bị ám ảnh bởi huyền thoại về mẹ Cả - kiểu nhân vật thường cứu nhân độthế như Đức Mẹ trong Thiên Chúa giáo hay Phật Bà Quan Âm trong Phật giáo. Nhưngtrên hành trình đi ra biển, anh chỉ thấy “những ngộ nhận giới tính và thói đạođức giả giết chết vẻ diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ” để rồi nhận ra rằngthiên thần chỉ là trò phịa, thượng đế đã chết ở trần gian. Nhân vật chính trong“ Chảy đi sông ơi” ngây thơ đi tìm huyền thoại về con trâu đen nhưng chỉ chứngkiến được sự lạnh lùng và tàn nhẫn. “Hành trình tìm điều thiện lặng lẽ và côđơn như con dã tràng xe cát”[7]. Con đường đến với cái đẹpquá gian nan. Con người mãi đi để rồi mãi mãi bơ vơ, lạc lõng: “Trước mắt tôi dòng sông đang thao thiếtchảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển mà tôi đã sốngnửa cuộc đời rồi đấy… Tôi đứng lên đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoàibiển không có thủy thần”( “Con gái thủy thần”)
3. Vẻ đẹp tâm hồn người – nhân vật nữ và nhân vật thiểu năng
Nhìn thẳng vào sự thật, viết về “cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, màu đỏ với màuđen đầy rẫy những biến động bất ngờ”[8], truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệpphát hiện ra rất nhiều những con người bẩn thỉu, ti tiện trong một mảnh đất cằnngột ngạt, tù đọng. Thế giới mà ông dựng lên là một thế giới “lắm ngườinhiều ma”[9], “ ma quỷ nằm ngaytrong lòng người” [10]. Nói như môt nhân vật trong“Chảy đi sông ơi”: “Con người ta tăm tốilắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường”.
Tuy nhiên cần thấy rằng, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ có cái ác,cái xấu, cái ti tiện. Bức tranh nhân thế trong tác phẩm của ông không chỉ toànmàu đen. Nhà văn còn phát hiện ra những nhân cách rất đẹp, những tâm hồn thánhthiện và sáng trong như suối tự nguồn. “ Trong bức màn tối, ông nhìn thấy vàchăm chút cho những mầm thiện nhỏ bé, những đốm lửa kì diệu của thiên lương,những thứ ông tin rằng sẽ có đủ sức mạnh cần thiết để đương đầu với bóng tốiđang ngự trị trên thế giới, cải tạo và làm trong sáng cuộc sống con người”[11]
Vẻ đẹp của thiên lương con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như tậptrung ở hai kiểu người: nhân vật thiểu năng và nhân vật nữ. Người thiểu năng làngười không bình thường, khuyết tật về thể chất hay hạn chế về trí tuệ. Thóiđời xưa nay vẫn nhìn kiểu người này bằng cặp mắt hoặc thương hại hoặc khinhkhi. Nguyễn Huy Thiệp thì khác, đối với bọn “dốt nát có học” hay “bọn Nho giảtập tọng văn chương” ông tỏ ra coi thường nhưng lại dành cho những người khôngmay này một sự cảm thông vô hạn. Quan trọng hơn, ông nhìn thấy ở họ vẻ đẹp sángngời của nhân cách con người. Cô Lài trong “Tướng về hưu” dù gàn dở, ngờ nghệchnhưng tình cảm đối với mọi người, hành động trong cuộc sống lại hết sức trongsáng và chân thực. Trong thế giới “ Không có vua” của gia đình lão Kiền, giữalúc mọi giá trị bị lật nhào, mọi tôn ti sụp đổ, người ta nhìn thấy ở bé Tốn –đứa trẻ thiểu năng một tâm hồn thánh thiện. Chỉ có Tốn là đối xử với Sinh bằnglòng tốt vô bờ bến và cũng chỉ có nó là không chịu được bẩn, lúc nào cũng lausàn hay là lau đi cái bạc ác của thế gian.
Dường như trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp dành tình cảm đặc biệt chonhững nhân vật nữ. Trừ nhân vật Thủy trong “Tướng về hưu” còn lại phần lớnnhững nhân vật nữ khác đều nhân hậu và cao thượng. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiếngọi đó “nguyên tắc tính nữ hoặc thiên tính nữ”. Chị Thắm trong “ Chảy đi sôngơi” cứu không biết bao nhiêu người chết đuối, khi nghe chú bé trách bọn đánh cá đêm độc ác, chị nói với em: “Đừng trách họthế… Có ai thương họ đâu”. Đó là tấm lòng bao dung sẵn sàng mở ra thông cảmvới mọi người, kể cả kẻ ác. Đọc “ Không có vua” ai không ngán ngẩm cho cái bệrạc, đen tối của gia đình lão Kiền. Nhưng một phút nào đó , hãy lắng lòng lạiđể nghe Sinh nói: “ Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn vừa chua xót nhưng thươnglắm”. Ba chữ “nhưng thương lắm” thổi vào mảnh đất cằn cỗi nhà lão Kiềnlàn gió mát rượi của sự yêu thương.
Có thể nói, những tấm lòng cao thượng, những nhân cách cao đẹptrong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mở ra niềm tin mãnh liệt rằng cuộc đời dẫucòn nhiều đắng cay ngang trái nhưng có thể cải tạo được. Con đường mà chúng tađi trong tương lai chắc chắn sẽ là con đường sáng. Không phải ngẫu nhiên mà nhàvăn để cho một nhân vật của mình nói rằng: “ Nghĩa tình lại chuộc nghĩatình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợkhông xứng là người” ( “Những người thợ xẻ”)..
4. Nhân vật lưỡng diện – sự phức tạp bên trong con người
Trên kia đã nói, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dựng lên một cõingười đa dạng, có người tốt kẻ xấu, có người cao thượng kẻ đê hèn. Lại có kẻsuốt đời mang trong mình nỗi cô độc khủng khiếp. Tuy nhiên bản thân mỗi conngười không hề đơn giản một chiều mà sâu kín, rối rắm, nhiều chiều kích. MilanKundra nói: “ Con người là hiển minh của lưỡng lự”. Bên trong mỗi bản thể nhỏnhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện – ác, cao cả -thấp hèn, trong sáng – tăm tối, hạnh phúc – khổ đau… Con người có lúc là thầnthánh song cũng có lúc là quỷ dữ. Ai dám bảo một người lương thiện không có lúcsuy nghĩ đê tiện? Ai dám bảo một người độc ác lại không có lúc lấp lánh trongtâm hồn ánh sáng của thiên lương. Cho nên “ không nên chỉ đơn giản phânloại con người theo hai khu vực rạch ròi: tốt và xấu”[12]. Kiểu nhân vật đan xen giữa trắngvà đen, thật và giả ấy văn học gọi là nhân vật lưỡng diện..
Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra là người rất thành công trong việc xây dựng con ngườilưỡng diện. Ông len lỏi vào những nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật, nhìnthấy những biểu hiện dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ. Ông Bổng trong “Tướng về hưu” lỗ mãng, táo tợn là vậy mà bật khóc vì được gọi là người: “ Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọiem là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ cóchị gọi em là người”. Lão Kiền trong “ Không có vua” đốn mạt đến chứng nàokhi rình xem con dâu tắm, nhưng khi lão đánh bài ngửa “ Tao chẳng cần. Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì con buồi” thì ta hoàntoàn có thể thông cảm và thấy lão đáng thương hơn đáng ghét. Nhân vật Bườngtrong “Những người thợ xẻ” điêu trá, thủ đoạn đúng như lời mai mỉa dân gian “kéo cưa lừa xẻ”. hắn hiếp dâm con gái lão Thuyết, bị Ngọc phát hiện lại trơtrẽn mở mồm triết luận: “ Mày chẳng hiểu gì. Ai lại đi tính tuổi bướm bao giờ”.Vậy mà có lúc chính hắn lại nói những câu đầy nhân tính: “ Bà chị không coi chúng em là súc vật! Chúng em phận hèn của cải chẳngcó. Chúng em mắc nợ nghĩa tình thì khốn nạn lắm”.
.
Ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp không dừng lại ở đó. Ông nhìn các danh nhân lịch sửmà xưa nay văn học đưa lên bệ để thờ, để xưng tụng ở khía cạnh đời tư phàm tục.Trong chùm truyện “ lịch sử giả”[13]gồm: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩmtiết, người ta nhìn thấy vua Quang Trung, người anh hùng áo vải cờ đào cũng cólúc có những cảm xúc rất người trước sắc đẹp của cô Vinh Hoa: “ Nhà vuathấy Vinh Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay ”( Phẩm tiết). Nhà văn đã để cho vua Gia Long bộc lộ một cảm xúc rất thật:“ Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn, chỉ được quyền cao cả,không được quyền đê tiện” ( Phẩm tiết). Cách viết, cách nhìn của Nguyễn HuyThiệp có lúc chịu sự phê phán gay gắt từ dư luận. Nhưng phải nhận thấy rằng,xây dựng thành công kiểu người lưỡng diện, Nguyễn Huy Thiệp đã chạm được đếnchỗ trung thực nhất trong bản chất con người. Đã khám phá được con người ởchiều sâu nhân bản nhất.
Cho đến tận hôm nay, cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp vẫnchưa kết thúc. Có người ca ngợi ông như một nhà văn đại tài, đề nghị tặng giảiNôben cho ông. Nhưng cũng có người đòi bỏ tù ông vì đã bôi nhọa cuộc sống, “ hạbệ thần tượng”. Thái độ phê phán đối với Nguyễn Huy Thiệp không có gì khó hiểu.Đó là do “lối viết đa âm đụng phải lối đọc thánh thư”[14]. Mặc cho người đời khen haychê, ca ngợi hay nguyền rủa, Nguyễn Huy Thiệp vẫn tỏa sáng trên văn đàn ViệtNam như một tên tuổi lớn, như một nhà văn có chân tài. Điều đáng quý ở NguyễnHuy Thiệp là lòng dũng cảm. Dũng cảm nhìn vào sự thật để trình bày hiện thựcđúng theo những gì mình thấy, những gì mình nghĩ. Tác phẩm của ông đã dạy chúngta rằng “Cuộc sống như một dòng sông, có cả sự trong veo tinh khiết đến ngỡngàng của nước, có cả rác rưởi đang trôi”. Từ đó “ông giúp chúng ta hiểuhơn về nước, về rác bằng một cái nhìn tỉnh táo và sâu sắc. Từ đó ông thức tỉnhmột khao khát, bỏ rác đi ta sẽ gặp sự trong trẻo của dòng sông”[15]. Những trăn trở của nhà vănvề con người, những suy tư của ông về thiện và ác, sáng và tối, cao thượng vàthấp hèn, người và quỷ… bên trong con người khiến chúng ta có thể kết luận rằngNguyễn Huy Thiệp đã viết được những áng văn “ giản dị và trung thực vềcon người”[16].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Anh Đào. Tài năng và người thưởng thức. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1994
2. Đặng Anh Đào. Biển không có thủy thần. Báo Văn nghệ, số 35 –36,20/8/1988.
3. Nguyễn Đăng Điệp. Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp. Tạpchí Văn học ngày 18/5/2009.
4. T.N. Filimonova. Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp. Ngân Xuyêndịch.
5. Nguyễn Văn Long. Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXBGD,Hà Nội, 2001
6. Phạm Xuân Nguyên ( sưu tầm và biện soạn). Đi tìm Nguyễn HuyThiệp. NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2001.
7. Văn Tâm. Đọc Nguyễn Huy Thiệp. Báo Văn nghệ, số 48,26/11/1988
8. Nguyễn Huy Thiệp. Tập truyện ngắn. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,2005.
9. Nguyễn Thị Hải Vân. Những đổi mới của văn học Việt Nam saunăm 1975. ĐH Quy Nhơn, 2006.
10. Nhiều tác giả. Nguyễn Huy Thiệp tác phẩm và dư luận. NXBTrẻ,1989
Chú thích
[1]Nguyễn Thị Hải Vân. Những đổimới của văn học Việt Nam sau năm 1975. ĐH Quy Nhơn, 2006.
[2] Tựa bài viết của GS Đỗ Đức Hiểu
[3]Chữ dùng của Nguyễn Huy Thiệp.
[4] Hoàng Ngọc Hiến. Tôikhông chúc bạn thuận buồm xuôi gió. Hà Nội, tháng 9 năm 1987
[5]Nguyễn Thanh Sơn. Truyện ngắnNguyễn Huy Thiệp. Hà Nội, 27/6/1995.
[6] Chữ dùng của E.Hemingway.
[7] Nguyễn Thanh Sơn. Truyệnngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hà Nội, 27/6/1995.
[8] Phát biểu của nhà vănNguyễn Khải
[9] Chữ dùng của nhà vănNguyễn Khắc Trường
[10] Chữ dùng của J.P.Satre
[11] Nguyễn Thanh Sơn. Truyệnngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hà Nội, 27/6/1995.
[12]Nguyễn Thị Hải Vân. Những đổimới của văn học Việt Nam sau năm 1975. ĐH Quy Nhơn, 2006.
[13]Chữ dùng của GS Đặng Anh Đào
[14]Nhận xét của GS Đặng Anh Đào
[15] Nguyễn Đăng Điệp. Cuốntheo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học ngày 18/5/2009
[16] Chữ dùng của E.Hemingway.
March 7, 2025
Chân Dung Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương bỏng cháy - bài trên báo Le Monde (2005) Nguyễn Quốc Trụ dịch,
Nguồn: http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/vet_thuong.html
Theo sự chỉ dẫn của tiếnsĩ Mai Anh Tuấn trong một bài viết trước, tôi tìm thấy tài liệu này xin chia sẻcùng các bạn.
------------------------
Nhà văn, họa sĩ, giáo viên sử, nhà làm gốm, chủ tiệm ăn: tất cả những cuộc đờinhư thế đó, của NHT, tạo nên một tiếng thét, một phản đối bỏng cháy, đối vớinhững cuộc chiến mà xứ sở của ông, Việt Nam, phải chịu đựng.
Ông sinh ra giữa cuộc chiến Đông Dương: “Tôi sinh ra chỉ vài ngày là mẹ tôiphải bỏ tôi vào một cái gùi, và địu trên lưng bà, để trốn chạy bom đạn củangười Pháp.” Ông có bằng tú tài trong cuộc chiến Việt Nam.
Sau những năm tranh chấp này, xã hội Việt Nam tiếp tục tự xâu xé. Bây giờ, theoNHT, nó làm bại hoại tuổi trẻ của chính nó, bị xiết cổ do thiếu vắng viễntượng, nếu có chăng, thì đó là cổ tại [lắm tiền lắm bạc] hoặc mánh mung. Mộtthế hệ lao vào ma túy; đánh quả, thật máu, thật bạo; và buôn lậu.
Cuộc tranh chấp âm ỉ giữa đám trẻ hư hỏng và bố mẹ, những con người oằn ngườivì mưu sinh, là nội dung cuốn tiểu thuyết đầu tay của Thiệp, Tuổi Hai Mươi YêuDấu, [A nos vingt ans, nhà xb Aube, dịch giả Sean James Rose, 222 trang, 18,88euros]. “Tôi là Khuê. Năm nay tôi 20 tuổi.Tôi muốn nói với các người rằng chẳngai hiểu cóc khô gì. Ví dụ như gia đình tôi. Tôi có bố mẹ và một thằng anh traingu hết chỗ nói.”
Cậu con trai, người kể chuyện bắt đầu câu chuyện kể của cậu ta như thế đó, bằngcách khạc nhổ ra cơn căm giận, sự nổi loạn của cậu, bằng một ngôn ngữ cộc cằn,như có điện ở trong đó. Cậu ghét đám đại biểu quốc hội của xứ sở của cậu, “mộtđám đần độn xông mùi hôi thối”. Cậu làm quen Zip Fashion, một tiệm bán quần áocũ nhưng có giá tại chỗ, với “những bộ đồ có tên là Sida, kiểu ăn vận vào giaiđoạn hấp hối” (1). Cậu kính nể một cô bạn gái vốn rất rành về Web. “Cô có mộtđịa chỉ email riêng, không phải thứ địa chỉ @ yahoo, tớ nghèo lắm, nhưng đâycho không!” Nói ngắn gọn, liên minh giữa giáo điều xã hội chủ nghĩa và kinh tếthị trường làm cậu tởm đến buồn nôn.
Ẩn dụ về hoàn cảnh xứ sở, cuộc chiến, une guerre, mà nhân vật chính lao vào,cuối cùng dẫn tới suy sụp, tới ma tuý, tới những ảo tưởng đã mất, đây cũng làcuộc “nội chiến”, un combat intime, của tác giả. “Tôi viết cuốn tiểu thuyết nàyđể kể câu chuyện thực của đứa con trai thứ của tôi, đã có thời gian, bị vướngvào bạch phiến. Hoàn cảnh này, thì cũng là tầm thường, ở đám học sinh, sinhviên. Họ bơi giữa hai dòng nước, và không thể nắm bắt được những thay đổi củaxã hội”.
Nhưng chính thế hệ của ông, thế hệ đã sống sót những cuộc chiến chống chế độthực dân và chủ nghĩa toàn trị, cũng thấy khó mà ngoi lên được. Chính là nhờchuyện viết mà Thiệp tìm ra lối thoát. Những bản văn đầu tay của ông khởi sựvào những năm giữa thập niên 1980. Trước đó, tốt nghiệp môn sử, còn trẻ, ôngđược bổ nhiệm làm giáo viên tại một trường nhà binh, ẩn khuất giữa một vùngcách Hà Nội 400 cây số về phiá bắc, thời gian từ 1970 tới 1980. “Vào giữa tuổihai mươi và ba mươi của cuộc đời của mình, tôi sống một cuộc sống ẩn dật. Tôichẳng có một liên lạc nào với thế giới bên ngoài.” Công việc, ở nơi chốn khuấtchìm như thế, thì thật là bạc bẽo. Hạnh phúc thay, một thư viện thật đầy đủ,bien fournie, đã đem đến cho ông, cõi mơ. Trong, có phần của thư viện.
Rừng, bạt ngàn, nhìn đâu cũng thấy rừng. Ông vô rừng đẵn cây, lấy củi, đem vềđun nấu, sưởi ấm. Nhưng hơn thế nữa, nhờ rừng ông khám phá ra sức mạnh củathiên nhiên, điều này ánh men lên trong tất cả tác phẩm của ông.
Vào năm 1980, ông trở lại Hà Nội. “Như tất cả mọi người, tôi phải xoay sở đủthứ nghề, để sống.” Trong mười năm, ông giảng dậy, làm và bán đồ gốm, đi đây,đi đó, thăm các miền đất nước. “Tôi nhìn thấy nhiều, quan sát nhiều, tôi đođạc, cắng đắng nỗi đau, sự khốn cùng. Đụng vào cái thực, tôi thấy tất cả nhữngtrang sách chính thức mà tôi đọc trước đó, bay tơi tả. Tôi bắt đầu viết về xãhội này, cái xã hội đóng chặt, kín mít, không không gian, không cửa mở, khônglối thoát.”
Khi Đảng Cộng Sản đưa ra nghị quyết đổi mới, vào năm 1986, nhà văn bắt đầu choin những tác phẩm của mình. Tập truyện ngắn đầu tay của ông, Tướng Về Hưu [bảntiếng Pháp Un géneral à la retraite, nhà xb L’Aube-Poche], vừa ra mắt là đãđược sốt sắng đón nhận, và là một thành công đối với công chúng.
Về phía chính quyền, ngưòi ta coi ông là một tay “ly khai”. Trong những năm1990, sự mở cửa về kinh tế như giậm chân tại chỗ, những nhà đầu tư tư nhânngoại quốc rút ra. Để qua cơn khủng hoảng, Thiệp mở một quán ăn.
Đối với một tác giả muốn cắm mình vào trong thực tại xã hội, quán ăn đúng làmột cái mỏ, của những câu chuyện. Liền tức khắc, khách ùa tới, không chỉ vì lốinấu nướng địa phương, “những thực đơn gia đình”, giản dị là vậy, nhưng mà cònlà để tâm sự với chủ quán, về những âu lo, những trắc trở trong cuộc sống và hyvọng ở nhà văn, một kẻ sĩ, một lời khuyên.
“Ở Việt Nam, có những quán ăn người ta tới để tìm gái đi theo. Ở đây, người tatới, là để cận kề Thiệp”, ông châm biếm.
Bây giờ, nhà văn bỏ mấy cái lò nấu nướng rồi. Bản dịch những tác phẩm của ôngra nhiều ngôn ngữ (tiếng Pháp, Nga, Đức, Nam Dương, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc,Thái…), đã cho phép ông dành hết thời giờ cho việc viết - những truyện ngắn,tiểu thuyết, kịch, và tiểu luận văn học.
Với kiểm duyệt, ông tưng tửng. “Tôi là hội viên của Hội Nhà Văn. Tôi đâu phảilà một tác giả bị cản [prohibé]. Những tác phẩm của tôi không bị cấm[interdit], liền tức khắc Nhưng những nhà xuất bản, thì tất cả đều là của nhànước, đôi khi tôi phải chơi cái trò cho sách xuất bản ở nước ngoài, như đặt nhànước vào một chuyện đã rồi, khiến họ phải quyết định làm giống như thế, nếukhông muốn bị mất mặt. Thỉnh thoảng, họ đề nghị tôi bỏ một đoạn vì những lý dochính trị.” Ba cuốn phim, chuyển thể từ những truyện ngắn được nhiều người biếtcủa ông, đã được rất nhiều người coi ở Việt Nam, nhất là phim Thương Nhớ ĐồngQuê, của nhà đạo diễn Đặng Nhật Minh. Phim này, giới phê bình ở Pháp rất khenngợi.
Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu, viết năm 2003, đã không được xuất bản ở Việt Nam. Và chỉcó ở trên lưới toàn cầu. Đây là một mưu mẹo được những nhà văn [ở trong nước]sử dụng. Những người khác sử dụng những bút hiệu khác đi, hay là tuồn vào trongnhững cuốn đã được kiểm duyệt và đã xuất bản, những cái mới viết, trong lần táixuất bản.
Tám kịch bản của Nguyễn Huy Thiệp chẳng được in mà cũng chẳng được dàn dựng, đểđem ra trình diễn. “Chỉ những học sinh, sinh viên ngành kịch nghệ là chơichúng, trong khi học, để nghiên cứu, và để tìm ra những cách viết đương đại”.(2)
Cuốn tiểu thuyết thứ nhì của ông, chưa được in ở Pháp, là dựa vào một câuchuyện thực, về một ông thứ trưởng, sau khi biển thủ 65 ngàn đô la, để “trảtiền mua trinh tiết của một em bé gái mười ba tuổi”, đã bị bắt đưa ra tòa và bịkết án. "Tôi thật muốn in nó ở Việt Nam, nhưng làm vậy, là phải phịa ramột cái tên dởm", ông nói.
--
(1) Zip Fashion là một tiệm quần áo cũ mà dân Hà Nội vẫn gọi là hàng Sida. Ở đó treo đầy những bộ đầm, áo phông và áo sơmi được lấy ra từ những thùng quần áo cũ gửi từ Đông Âu về.
[Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu, chương 14]
(2) Bẩy vở kịch của NHT đã được xuất bản ở hải ngoại, nhà xb Thời Mới, doNguyễn Tiến Văn chủ trương, dưới nhan đề: Hoa Sen Nở Trong Ngày 29 Tháng Tư.
February 28, 2025
. Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn như cũ”.
Tên đầy đủ của văn bản:
Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn như cũ”, trò chuyện văn chương với Jean Lacouture tại Paris (Pháp), Kim Lefèvre chuyển ngữ. Bản điện tử do Thuận thực hiện.
Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1291&rb=0102
------------
Trong chuyến đi thăm và làm việc tại Pháp do nhà xuất bản Editions de l´Aube tổ chức vào mùa xuân năm nay, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gặp gỡ công chúng văn học tại hiệu sách Phénix, Paris, ngày 10 tháng 4 năm 2002. Người dẫn chương trình là ông Jean Lacouture, người phiên dịch là bà Kim Lefèvre. Sau đây là bản ghi lại từ băng vidéo quay buổi gặp gỡ đó, do Thuận (Paris) gửi cho Talawas. Đầu đề do Talawas đặt.Jean Lacouture: Ngày nay, bằng cách nào một nhà văn người Việt có thể rời khỏi Việt Nam để đến một nước khác? Ðâu là những thuận lợi và khó khăn so với những năm trước? Ðây có thể là một câu hỏi hơi tầm thường nhưng chắc chắn nó có ích cho những người cầm bút ở Việt Nam.
Nguyễn Huy Thiệp: Trước hết tôi xin gửi lời chào đến tất cả các quí vị và các bạn đọc yêu quí của tôi. Ðây là lần thứ hai tôi đến Paris và đây cũng là một điều may mắn cho số phận của tôi. Hình như là hình ảnh Việt Nam trong mắt các bạn Pháp ... tôi thấy ... các bạn Pháp chưa nắm được tình hình Việt Nam những ngày này. Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Việc các nhà văn Việt Nam đi ra nước ngoài đă là một việc tự nhiên, có nhiều dễ dàng, không còn gặp các trở ngại như trước nữa. Tôi không biết ai đã nói, tự do của văn nghệ sĩ như thước đo của một nền dân chủ. Xét về một khía cạnh nào đó thì việc tôi có mặt ở Paris cũng như việc các văn nghệ sĩ khác đi ra thế giới là một dấu hiệu của sự cởi mở dân chủ ở Việt Nam.
Jean Lacouture: Trong chuyến đi Ðức cách đây hai năm ông có sang cả Pháp, chuyến đi này có được nhà cầm quyền Việt Nam cho phép không, hay ông tự động sang?
Nguyễn Huy Thiệp: Cách đây hai năm tôi có làm một chuyến đi Ðức. Tới Ðức tôi cũng mua vé tàu sang Paris. Trước khi đi khỏi Việt Nam tôi cũng, nói theo kiểu Việt Nam, báo cáo với chính quyền và sau đó cũng đã trở về một cách bình thường, tốt đẹp. Nhưng thực ra chuyến đi Pháp cách đây hai năm là một chuyến đi không chính thức, còn chuyến đi này là một chuyến đi chính thức được Trung tâm Văn hoá và Hợp tác của đại sứ quán Pháp ở Hà Nội và nhà xuất bản Editions de l'Aube tổ chức.
Jean Lacouture: Thế có nghĩa là ông không gặp gì rắc rối với chính quyền về chuyến đi này? Ông sang Pháp một cách công khai?
Nguyễn Huy Thiệp: Vâng.
Jean Lacouture: Ông đã đi Pháp hai lần trong hai năm. Ông có thấy sự tiến triển nào so với cách đây hai năm? Ông có thấy sự mới mẻ nào cần quan sát? Có nhiều sự khác nhau không?
Nguyễn Huy Thiệp: Nhìn chung tôi không đi nhiều nên cũng khó trả lời câu hỏi này. Nhưng tôi cảm thấy nước Pháp gần gũi với Việt Nam hơn phần nào, ít nhất là ở đồng Ơ-rô. ở Hà Nội người ta cũng tiêu được đồng Ơ-rô. Lần trước tôi phải đổi đồng Phơ-răng ra Đô-la mới tiêu được ở Hà Nội, còn bây giờ tiền Ơ-rô không phải đổi nữa. Người Việt Nam có câu ngạn ngữ "Ðồng tiền liền khúc ruột". Ðồng tiền trở thành thân thiết. Ở nhà quê các bà giữ tiền ở quanh bụng.
Jean Lacouture: Người ta có thể nói việc kiểm duyệt ở Việt Nam đã giảm bớt. Nhà văn Việt Nam có thể viết dễ dàng hơn?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ là nhà văn thì ở đâu viết cũng khó khăn.
Jean Lacouture: Nói chung ở Việt Nam chính sách Ðổi Mới vẫn tiếp tục trên tinh thần tự do dân chủ chứ?
Nguyễn Huy Thiệp: Có chứ, có. Tôi nghĩ là Việt Nam ngày càng đổi mới, nhưng quá trình đổi mới cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm khác nhau. Nhưng phải nói Việt Nam bây giờ gần gũi hòa nhập với thế giới hơn, không bế quan toả cảng như trước nữa.
Jean Lacouture: Quan hệ của ông với chính quyền có đúng đắn không?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi không giao thiệp với chính phủ. Tôi cũng chỉ là dân đen.
Jean Lacouture: Cách đây hai năm tôi có hỏi ông là người Việt Nam có đòi hỏi tự do nhiều hơn không, và ông đã cho tôi một câu trả lời đầy ngạc nhiên là "ngừơi Việt Nam cũng thích một hình thức quyền lực nào đấy và không đòi hỏi nhiều tự do như các ông". Ông vẫn giữ nguyên ý kiến cũ, hay đấy chỉ là một câu trả lời mang tính chính trị và thận trọng?
Nguyễn Huy Thiệp: Tự do là một khái niệm mới mẻ, không quen thuộc với người Việt Nam. Ngay bản thân tôi là một nhà văn, thú thực tôi cũng chưa bao giờ nghĩ nhiều đến khái niệm tự do. Rất nhiều người Việt Nam nghĩ đến chữ miếng ăn và áo ấm hơn là chữ tự do. Tôi nghĩ là trong cách sáng tạo từ ngữ của con người, bao giờ người ta cũng nghĩ đến hai chữ cơm no áo ấm sau đó đến một lúc nào đấy người ta mới nghĩ đến chữ tự do. Hay dân chủ.
Jean Lacouture: Nhìn từ những thành công của ông, với tư cách là một nhà văn lớn của Việt Nam, ông có cảm thấy mình là người đứng đầu một trường phái văn học không? Ông có thấy ảnh hưởng của mình đến các nhà văn khác không? Ông có những người đồng minh, những bạn đường trên con đường đi tìm tự do dân chủ?
Nguyễn Huy Thiệp: Ở Việt Nam chỉ có một trường phái văn học, đó là văn học xã hội chủ nghĩa. Tôi cũng không dám nói là tôi có một trường phái văn học khác, nhưng tôi cũng thấy là nhiều nhà văn trẻ cũng viết theo lối của tôi gần đây.
Jean Lacouture: Tôi thấy trong tác phẩm gần đây của ông có chiều hướng chuyển từ chủ nghĩa hiện thực sang hướng tưởng tượng, thần tiên, tự do hơn và mang nhiều chất thơ hơn.
Nguyễn Huy Thiệp: Trong văn của tôi chẳng có gì là thơ mộng. Bao giờ tôi cũng chỉ là một nhà văn hiện thực dù có viết về lịch sử hay những chuyện trên trời dưới biển thì tôi vẫn là một nhà văn hiện thực. Hiện thực thì cũng có nhiều cái. Có cái đau khổ, cũng có nên thơ của nó, có thể trong tác phẩm của tôi nó cũng có cái đó.
Jean Lacouture: Trong các tác phẩm trước của ông, người ta thấy các nhân vật mang tính chất lịch sử của dân tộc Việt Nam, tướng về hưu chẳng hạn, còn bây giờ ông cho xuất hiện những ông vua, những triều đại cổ... Ðó có phải là một ý muốn tách khỏi hiện thực hay đơn giản chỉ là thế?
Nguyễn Huy Thiệp: Gần đây tôi quay trở lại với các đề tài hiện đại và nó cũng có nhiều nụ cười.
Jean Lacouture: Ông có bao giờ bị chính quyền và dư luận lên án là đã đưa ra một cái nhìn có tính chất xét lại đối với những người anh hùng từng được lịch sử tôn trọng, và ngược lại, đã phục hồi danh dự cho những người khác, chẳng hạn như Gia Long, từng bị phản đối bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc và những nhà cách mạng từ 50 năm nay?
Nguyễn Huy Thiệp: Cách đây 10 năm tôi cũng có viết một số truyện lịch sử và nó cũng gây ra những cuộc tranh luận văn học khá sôi nổi trong vòng ba năm. Có nhiều người tham gia cuộc tranh luận và sau khi đã đọc tất cả những bài tranh luận ấy thì tôi cảm thấy chẳng ai biết gì về lịch sử cả, vì bản thân những câu chuyện mà tôi viết ra thì cũng là những sáng tác của tôi, những câu chuyện mà tôi bịa đặt thôi.
Jean Lacouture: Ông đã dạy học ở vùng các dân tộc thiểu số. Phải nói là tôi cũng đã đến thăm các dân tộc này trong vòng hai tuần tháng 11 năm ngoái. Ông có nghĩ là các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam ngày nay trở nên hoà nhập hơn không? Họ ít đứng ngoài rìa Việt Nam hơn ngày xưa không?
Nguyễn Huy Thiệp: Các dân tộc thiểu số cuộc sống có thay đổi hơn, nhiều vùng đã có điện. Những nơi có đời sống cao không thể hiểu đuợc giá trị của điện và nước. Ở những vùng lạc hậu thì điện và nước sạch thực sự là mơ ước, là hạnh phúc đối với những vùng hẻo lánh ở Việt Nam.
Jean Lacouture: Tôi có thể có được câu trả lời mà tôi chưa thực nắm được không: có phải ở những làng này giáo dục miễn phí?
Nguyễn Huy Thiệp: Nhiều nơi cũng phải trả tiền.
Jean Lacouture: Việc tổng bí thư đảng cộng sản mới là người Thái có phải là một dấu hiệu rằng người thiểu số được tôn trọng hơn, đã hoà nhập hơn không?
Nguyễn Huy Thiệp: Xét về một khía cạnh nào đấy, đấy cũng là một hình ảnh tượng trưng nào đấy.
Jean Lacouture: Tờ báo đã xuất bản những tác phẩm đầu tiên của ông đã bị cấm. Bây giờ nó đã mở lại chưa?
Nguyễn Huy Thiệp: Tờ báo Văn Nghệ thì nó vẫn còn, chỉ có ông tổng biên tập thì không còn là tổng biên tập của tờ báo nữa. Một phần vì ông ấy cũng già rồi.
Jean Lacouture: Ông ấy có được tự do không?
Nguyễn Huy Thiệp: Ông ấy được tự do, ở Việt Nam có câu già rồi thì không mắc tội gì nữa, tức là già rồi thì có làm gì đi nữa người ta cũng tha cho. Ðó cũng là một tập quán của nông thôn Việt Nam, người ta không xét đoán, không chấp những người già. Tôi cũng già rồi.
Jean Lacouture: Ở đây không như thế, nhưng có thể về sau cũng như thế. Tôi muốn hỏi ông, trong các nhà văn Pháp hiện đại ông có tìm thấy những kĩ thuật có ích, những mẫu hay cảm hứng cho bản thân?
Nguyễn Huy Thiệp: Việc giới thiệu các nhà văn hiện đại thế giới ở Việt Nam rất hạn chế vì mắc việc dịch thuật. Công tác dịch thuật ở Việt Nam tôi cảm thấy rất hạn chế, hầu như các tác giả nổi tiếng ít được giới thiệu ở Việt Nam.
Jean Lacouture: Trong tác phẩm của ông có ảnh hưởng nước ngoài nào: châu Âu, Trung Hoa, Nga, Gorki chẳng hạn hay Tam Quốc Chí?
Nguyễn Huy Thiệp: Những sách văn học cổ điển được dịch khá đầy đủ ở Việt Nam, Pháp, Nga, Trung Quốc. Thế hệ của chúng tôi chỉ tiếp xúc nhiều với văn học cổ điển. Chứ văn học hiện đại rất hạn chế.
Jean Lacouture: Trong những bài phê bình viết bởi giới cầm quyền, có một bài nói ông viết giống Sartre. Ðấy có phải là sự ngẫu nhiên hoàn toàn, hay trên thực tế ông biết ông ta và thấy mình gần với Sartre?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi cũng gần như chưa đọc gì tác phẩm của J.P.Sartre, tôi chỉ biết một chút tiểu sử và cuộc đời tình ái của ông ta mà thôi.
Jean Lacouture: Tôi muốn biết ông có lo lắng về vấn đề Mỹ hoá toàn cầu ngày hôm nay?
Nguyễn Huy Thiệp: Thực ra ở Việt Nam người ta ít nghĩ đến chuyện Mỹ hóa mà nghĩ đến chuyện Trung Quốc hóa nhiều hơn, tức là hàng hóa và ảnh hưởng của Trung Quốc đến Việt Nam thì mạnh hơn tất cả những nước khác.
Jean Lacouture: Tôi muốn hỏi ông câu hỏi cuối cùng trước khi nhường lời cho bạn bè và độc giả của ông. Một người Việt Nam có thể hạnh phúc ở Paris được không?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ là có thể, nếu anh ta có gia đình và một người yêu.
Jean Lacouture: Tôi hy vọng đó là trường hợp của ông.
Một độc giả: Lúc nãy ông nói Việt Nam từ hai năm lại đây có nhiều cởi mở. Bây giờ muốn hỏi ông, có gì chưa đổi mới, chưa cởi mở?
Nguyễn Huy Thiệp: Câu hỏi của ông thật là khó. Xét về một khía cạnh nào đó, ở Việt Nam Tháp Rùa vẫn như cũ, đồng tiền vẫn như cũ, hay có những đường phố vẫn giữ được vẻ như xưa.
Một độc giả: Tôi đi Việt Nam năm 1996, có gặp một đạo diễn truyền hình nói với tôi rằng, ở Việt Nam có thể nói bất kì điều gì trừ chính trị, tình dục, bạo lực. Sáu năm sau điều này vẫn đúng?
Nguyễn Huy Thiệp: Ở Việt Nam ai cũng nói về chính trị, thanh niên nói nhiều về tình dục. Chắc là cái ông đạo diễn điện ảnh kia cũng chỉ nhìn ở một khía cạnh nào đấy. Tất nhiên là tôi cũng chỉ nhìn ở một khía cạnh nào đấy. Theo quan sát của tôi thì không có nước nào bàn nhiều về chính trị như Việt Nam, ở thành phố cũng như nông thôn, người ta rất quan tâm đến chính trị.
Một độc giả: Người ta nói ở Việt Nam chỉ có văn nghệ sĩ và trí thức mới bị bắt nạt?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ là trí thức và văn nghệ sĩ là những người khó bắt nạt nhất.
Một độc giả: Anh vừa trình bày một vấn đề rất tế nhị là vấn đề hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Với tư cách một nhà văn, một nhân chứng, hy vọng là người đọc sẽ được đọc một truyện của anh có tính chất viễn kiến, những cái nhìn từ xa không cảm thấy Việt Nam trở thành một thị trường ảo tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc.
Nguyễn Huy Thiệp: Số phận Việt Nam gắn chặt với số phận Trung Hoa từ mấy ngàn năm lịch sử rồi. Và dù thế nào đi nữa, Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, Việt Nam vẫn là Việt Nam. Ðương nhiên là hai bên có ảnh hưởng lẫn nhau. Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt Nam không những trên lĩnh vực kinh tế mà còn chính trị và văn hóa và rất nhiều phương diện khác nữa. Tất nhiên là có cái ảnh hưởng như thế nó mới là Việt Nam.
Một độc giả: Tôi muốn anh trả lời câu hỏi mà tôi chưa được thỏa mãn. Anh nói trí thức văn nghệ sĩ khó bị bắt nạt. Tôi xin đưa một ví dụ như anh Phù Thăng, tác phẩm của anh ấy cất trong vại trong chum, không được xuất bản, như thế anh ấy có phải là một nhà văn không?
Nguyễn Huy Thiệp: Phù Thăng là một nhà văn quân đội ở Việt Nam và năm nay chắc cũng gần 80 tuổi rồi. Khi Phù Thăng viết sôi nổi thì đó cũng là giai đoạn Việt Nam còn chiến tranh và chưa mở cửa. Nhân đây tôi cũng bày tỏ nỗi buồn của tôi về việc nhà xuất bản dịch sách tôi sang tiếng Pháp hơi bị lộn xộn. "Trái tim hổ" là một trong 10 truyện, nếu tách 1 truyện ra thì nó sẽ mất đi 9 truyện khác. Truyện "Vàng lửa" là 1 trong 3 truyện mà nếu xếp theo thứ tự thì nó xếp thứ 2, trong khi cấu tạo cuốn sách ở đây lại xếp nó lên thứ nhất, tức là trật tự bị đảo lộn, truyện "Vàng lửa" là khúc giữa của một câu chuyện có 3 phần: đầu, thân và đuôi. Truyện mà tôi viết cách đây 10 năm thì bây giờ mới được in. Thế nhưng tôi nghĩ tất cả những chuyện đó không sao cả. Cũng may tôi cũng là một nhà văn đa dạng, tức là tôi viết rất nhiều kiểu viết khác nhau. Nguyễn Du thì tác phẩm "Truyện Kiều" người dân có thể đọc xuôi từ đầu đến cuối, cũng có thể đọc từ cuối lên đầu. Tôi rất mong là nhà xuất bản Editions de l'Aube và bà Marion sẽ cho dịch lại và in lại thành một cái tuyển tập đầy đủ.
© Talawas 2002
February 27, 2025
Nguyễn Huy Thiệp, bởi những trải nghiệm riêng khác - bài của Mai Anh Tuấn
Nguồn https://maianhtuan.wordpress.com/2016...
Khi đưa lại bài viết này tôi đã mạn phép tác giả tách thành nhiều tác giả, mong được tác gỉa lượng thứ - VTN
------------------ Sinh ở nông thônSinh năm 1950 tại Thái Nguyên nhưng tuổi thơ Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với nhiều làng quê khác nhau ở miền Bắc, trong thời điểm cuộc chiến chống Pháp chưa kết thúc. “Tôi sinh ra chỉ vài ngày – Nguyễn Huy Thiệp kể trên báo Le Monde, là mẹ tôi phải bỏ tôi vào một cái gùi, và địu trên lưng bà, để trốn chạy bom đạn của người Pháp”. Nhưng kí ức cuộc chiến hoàn toàn mờ nhạt so với kí ức nông thôn. Tỉnh lị Vĩnh Phúc, đặc biệt là vùng Kim Anh nằm cạnh sông Cà Lồ để lại dấu ấn sâu đậm trong những tiếp xúc đầu đời của Nguyễn Huy Thiệp với thế giới bên ngoài.
Bến Cốc, tên bến sông nơi gia đình ông tạm trú, chỉ chưa đến 30 nóc nhà nhưng lại có nhiều người theo đạo Thiên chúa. Cậu bé Thiệp ở với mẹ và ông bà ngoại, không có nhiều bạn bè cùng lứa, cảm giác “cô đơn”, thứ cảm giác đã được diễn tả rất tinh tế trong Tâm hồn mẹ (1982), lúc đó cứ trải theo những bờ tường đá ong, những cánh đồng đầy dế. “Nỗi cô đơn ở trẻ nhỏ là chỗ đất tốt cho những tâm hồn mơ mộng”.
Ông ngoại là người mở mắt mở lòng cho nhà văn tương lai bằng những bài thơ Đường, phong dao tục ngữ và những nét Hán tự không quá bài bản. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp còn được học với cha xứ, vị này mỗi tháng một lần về nhà thờ ở bến Cốc, “chiều xuống, tiếng chuông nhờ thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang mang vô tận” (Chảy đi sông ơi).
Giữa thập niên 1950 ấy, ta biết rằng, chính phủ kháng chiến, chịu ảnh hưởng của Maoist, đã tiến hành cải cách ruộng đất và gây ra không ít bất ổn, xáo trộn ở nông thôn. Tuy vậy, đúng như Greg Lockhart nhận định: “cảm quan Thiên chúa giáo ở một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp, như Chảy đi sông ơi, Giọt máu, Con gái thủy thần lại nổi bật”.
Dường như những vùng thôn quê biến động không làm ảnh hưởng đến cậu bé Thiệp thường đến nhà thờ, tìm đọc Kinh Thánh cho đến trước khi lên mười. Dĩ nhiên, ảnh hưởng Ki-tô giáo như một nguồn tư tưởng phương Tây thì phải thấm hơn về sau, còn lúc đó, trong cái viết đầu tay, Nguyễn Huy Thiệp lại làm thơ. Thơ phú, trong con mắt gia đình ông, đồng nghĩa với làm loạn và sẽ được ông nhắc lại nhiều lần như một ám ảnh: “danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu lỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực” (Giọt máu).
Ông ngoại, hẳn vì kinh nghiệm không mấy ngọt ngào của một nhà nho thất thế, đã hết sức ngăn cấm đứa cháu đang theo đuổi làm thơ – “thứ tài năng tầm thường nhất” (Mưa). Nguyễn Huy Thiệp nghe theo, liền viết những mẩu truyện nhỏ, học theo lối ngữ pháp đơn giản, với những câu văn ngắn như cách nói thường ngày. Đấy hẳn là mầm mống để lối hành văn theo phong cách tối giản (minimalism) trở thành điểm độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp.
Trải nghiệm nông thôn làng xã Bắc bộ, đương nhiên không phải của riêng Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng như sẽ thấy, ông không tái hiện nông thôn trong mối liên quan với các sự kiện mang tính chính trị – xã hội, như về phong trào hợp tác xã, về cải cách ruộng đất vốn vẫn được các nhà văn Đổi mới nhắc lại. Những mô tả nông thôn, nông dân của Nguyễn Huy Thiệp gần gũi với các mô tả dân tộc chí, với mối bận tâm về các tính chất, đặc trưng truyền thống của làng xã.
Trên thực tế, mặc dù nông thôn Bắc bộ đã biến đổi rất nhiều kể từ sau 1945, nhưng Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn kể về nó như là không gian lưu giữ các sinh hoạt và thiết chế đã từng vững chắc, từ gia đình, quan hệ họ hàng, thân tộc,… đến các tập tục, tín ngưỡng và tâm linh cộng đồng. Các tác động của bối cảnh Đổi mới đến làng quê, đặc biệt là sự có mặt của kinh tế thị trường dẫn đến sự gia tăng thiếu kiểm soát của các nghi thức cưới xin, ma chay, cỗ bàn…, cũng sẽ được ông đề cập với giọng điệu vừa ưu tư vừa đùa giễu.
Từ cuối thập niên 1980, Nguyễn Huy Thiệp dành mối bận tâm lớn về nông thôn và tuy ít nhận được những phản ứng từ độc giả so với loạt truyện giả lịch sử, nhưng nó thực sự quan trọng trong mảng văn xuôi viết về nông thôn đương thời. Con gái thủy thần (vào các năm 1988, 1989, 1998), Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992), Chăn trâu cắt cỏ (1996), Chú Hoạt tôi (2001), Cánh buồm nâu thuở ấy (2004)…, lần lượt làm rõ hơn quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp: “mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn.”
Vượt xa vị trí đề từ cho một truyện ngắn, quan điểm này gợi nhắc sự cần thiết phải nhìn lại gốc gác, căn cước mỗi cá nhân, trong đó có người dân châu thổ Bắc bộ. Nếu coi vùng địa lí này là cái nôi của văn minh Việt Nam, nếu thừa nhận “tính độc đáo của châu thổ Bắc kỳ trên bán đảo Đông Dương là rất rõ” với tất cả các biểu hiện đặc thù về môi trường vật chất lẫn các phương tiện sống, thì việc trở lại dò thấu nó, sau nhiều gián cách và hời hợt nhất định, là một nhu cầu tất yếu.
Khi đó, nhà văn hoàn toàn có cơ hội để nhận thức lại “con người làng xã”, nhân vật trung tâm chưa bao giờ cạn nghĩa, bởi đây là “con người phổ quát của xã hội Việt, là cái phần phổ quát trong mỗi người Việt”. Cần thấy rằng, cuối thập niên 1980 cũng là giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ của những nghiên cứu dân tộc học, nhân học làng xã Bắc bộ.
Sẽ có nhiều hữu ích và lí thú nếu đọc những truyện kể nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp, không những từ đối sánh với các tác phẩm cùng đề tài, mà còn từ vốn nhân học làng xã Bắc bộ bởi mức độ tương đồng về tính “hiện thực” giữa chúng hoàn toàn có thể được đối chứng trên văn bản.
Đương nhiên, ta không hề quên rằng Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn và quyền hư cấu, bịa đặt trên trang viết ở ông rất lớn. Tuy vậy, ngay cả khi có độ vênh trong cách đọc này thì dấu ấn của cái nhìn dân tộc chí Nguyễn Huy Thiệp trong quan sát, tái hiện đời sống làng quê vẫn là một sự tiếp nối lối viết, từ Ngô Tất Tố với Việc làng (1940), Trọng Lang với Làm dân (1940) và Thi vị đồng ruộng (1944), đến Sơn Nam với Hương rừng Cà Mau (1962), Bình Nguyên Lộc với Cuống rún chưa lìa (1969)…

Một số bài viết tiếng Anh giới thiệu NHT còn gọi ông là “họa sĩ”.
Tiếp nhận văn học cổ điển
Năm 1960, Nguyễn Huy Thiệp quay về Hà Nội, vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ hiện hình rõ rệt ở miền Bắc. Mười năm tiếp theo, đặc biệt là quãng thời gian vào học Đại học Sư phạm, Nguyễn Huy Thiệp có dịp tiến sâu hơn vào tri thức sách vở, khi ông lần lượt tìm đọc các trước tác của các triết gia Trung Hoa cổ đại, Sử kí Tư Mã Thiên, và, như hầu hết các sinh viên miền Bắc lúc đó, ông đọc các tiểu thuyết Nga thế kỉ XIX được dịch sang tiếng Việt. Sự định hình không gian hiểu biết của Nguyễn Huy Thiệp, ngay từ đầu, đã bị đặt trong những đường biên văn cảnh mà bản thân ông không ý thức rằng đó là giới hạn.
Nhìn vào những gì ông trích dẫn, đưa vào tác phẩm cụ thể cũng như các tiểu luận được đăng từ cuối 1980 thì diện tham bác chủ yếu là các gia lớn của văn học trung đại Việt Nam và các nhà văn-triết gia châu Âu thế kỉ XVIII, XIX. Nói chuyện với độc giả ở Paris, ông thành thực: “Thế hệ của chúng tôi chỉ tiếp xúc nhiều với văn học cổ điển. Chứ văn học hiện đại rất hạn chế”. Peter Zinoman đã coi thực tế này như một trở lực, ngăn Nguyễn Huy Thiệp đến với các xu hướng văn chương phương Tây tiền phong.
Tình thế bị hạn định đó dẫn ông đến lợi thế của một độc giả say mê kiểu tự sự truyền thống trong văn học cổ Việt Nam, Trung Hoa. Lối viết “lạnh băng” của sử kí Tư Mã Thiên hay tâm thế một người học lịch sử, rõ ràng, đã đẩy ông vào thói quen chi tiết hóa cả ngày tháng, địa danh và hành trạng nhân vật lịch sử trong các truyện giả lịch sử gây sóng gió của mình. Ông cũng không ngần ngại đuổi theo mô hình các truyện kể danh nhân (nhân vật chí) như đã rất rõ nét trong loạt truyện về Tú Xương (Thương cho cả đời bạc, 1996), Nguyễn Bính (Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, 1997), Đề Thám (Mưa Nhã Nam, 1992)…
Trong khi, như Lại Nguyên Ân nhận định, “không gian văn học miền Bắc những năm 1950-70 có thể là điển hình cho không gian đơn ngữ, độc ngữ; toàn xã hội chỉ nói chỉ đọc tiếng Việt chữ Việt (họa báo Liên Xô, sách ngữ lục Trung Quốc cũng đến đây dưới dạng chữ Việt) và chỉ được biết mọi loại thông tin qua tiếng Việt chữ Việt” thì Nguyễn Huy Thiệp đã dựa vào chất nền văn học cổ điển nội địa để xoay chuyển những điểm bất lợi khi viết văn, nhất là vào thời điểm ông xuất hiện đã cận kề với giai đoạn tái hội nhập phương Tây, báo hiệu sự ưu thắng của những kĩ thuật viết mới lạ.
Càng về sau, Nguyễn Huy Thiệp càng chứng tỏ mình ưa cải dạng các thể loại văn học cổ (tiểu thuyết võ hiệp, chèo, truyện thơ) nhằm gây chú ý ở những tìm tòi nghệ thuật tưởng là quen thuộc, thông thường nhất. Một số cách đọc Nguyễn Huy Thiệp từ lí thuyết hậu hiện đại đã không thật để tâm đến sự tái sinh các phương thức tự sự truyền thống trong tác phẩm của ông. Hướng vào các thủ pháp được cho là hậu hiện đại, theo Peter Zinoman, “có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ”.
Một thập niên “úp mặt vào núi”
Một sự kiện bước ngoặt là thay vì vào chiến trường, Nguyễn Huy Thiệp tuân theo phong trào “thanh niên 3 sẵn sàng” để, trong gần mười năm (1970-1980), dạy học ở Sơn La. Một thập niên “úp mặt vào núi” đem đến cho ông hai trong số các cảm hứng chính yếu của mình: dạy học hay rộng hơn, giáo dục, và núi rừng, thiên nhiên.
Những hồi quang phong phú từ nơi rừng thiêng nước độc, “khỉ ho cò gáy” cách thủ đô vài trăm cây số quyết định gần như tuyệt đối xu hướng tự thuật trong nhiều trang văn giàu hồi ức của Nguyễn Huy Thiệp. “Nhưng hơn thế nữa – báo Le Monde nhận định, nhờ rừng ông khám phá ra sức mạnh của thiên nhiên, điều này ánh men lên trong tất cả tác phẩm của ông”. Thứ sức mạnh tự nhiên mà chàng trai “20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ” (Những người muôn năm cũ) chứng kiến sẽ được cụ thể hóa bằng những nhận xét mang dáng dấp “thiên nhiên tâm luận” trải khắp đời cầm bút của nhà văn: Từ 1986, với Muối của rừng; 1992 với Mưa Nhã Nam; 1994 với Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; 2005 với Tuổi 20 yêu dấu…
Có thể nói, Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát (1987), Những người thợ xẻ (1988), Truyện tình kể trong đêm mưa, Sống dễ lắm, Thổ cẩm đã góp phần làm thức dậy “đề tài rừng núi” dường như, theo Philippe Papin, vắng bóng trong văn hóa ở một xứ rừng bao phủ hơn phân nửa diện tích. “Với Việt Nam – Papin nhìn nhận, những vùng cao là một thực tại mới mẻ, một ý niệm của thế kỉ XX mà họ vẫn chưa thấu rõ hết nội dung. Phải biết rằng cho tới ngày nay các cô giáo bị thuyên chuyển lên cao nguyên vẫn hoang mang dường nào: đó là biệt xứ, là bứng gốc, là sự đột nhập tàn nhẫn của cái lạ thường”.
Sự đối đầu giữa núi rừng và thành thị, giữa thế giới tự nhiên và xã hội văn minh, nhìn chung, cũng sẽ trở thành trọng âm của nhà văn nhằm điều chỉnh những tiếng nói sai lệch, nhầm lẫn trong các diễn ngôn từng có về vùng cao, tộc người thiểu số và những gì vẫn được cho là hoang dã, lạc hậu.
Không có mặt và ít bị tác động trực tiếp từ bom đạn chiến trường khiến Nguyễn Huy Thiệp đứng ngoài một trong những cuộc viết dai dẳng nhất – viết về cuộc chiến và người lính, của những nhà văn cùng thế hệ. Chẳng những rời xa đề tài từng đem lại vinh dự lẫn khổ tâm cho bao người này, Nguyễn Huy Thiệp còn dứt khoát kết thúc một mẫu hình nhân vật – người lính, mà văn học giai đoạn Đổi mới vẫn chưa hết say mê. Tướng về hưu (1987) là tác phẩm duy nhất nhắc đến người lính nhưng đó là một kiểu người lính hưu tàn, thất bại và chết bất đắc kì tử trong thời bình.
Ẩn dụ về cuộc chiến có chăng chỉ hiện lên trong những mô tả thực tại xã hội nghèo đói, bệnh tật, mất an toàn sinh kế và suy thoái đạo đức. Chấn thương chiến tranh nếu trở nên trầm trọng với những nhà văn từng mặc áo lính, từng là bộ đội thì nó, day dứt không kém, ngấm sâu ở cái nhìn về chủ nghĩa anh hùng, về giá trị chiến thắng, vinh quang, về mô hình quyền bính lí tưởng của Nguyễn Huy Thiệp. Cần nhấn mạnh điểm riêng này để có thêm cơ sở cho sự hình dung về con đường đi tới kiểu nhà văn tự ý thức trong giai đoạn các điều kiện của xã hội dân sự bắt đầu ló dạng.
Trở lại tự nhiên
Sau mười năm “hãy đi xa hơn nữa” nơi núi rừng, Nguyễn Huy Thiệp quay lại Hà Nội, làm một “nhân viên quèn” ở nhiều cơ quan khác nhau, khi ở nhà xuất bản Giáo dục, khi tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ. Một cách thầm lặng, ông đọc N.G. Chernyshevsky (Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực), A.G Tseitlin (Lao động nhà văn), G. Plekhanov (Bàn về nghệ thuật) và nghiên cứu tâm lí độc giả, đúng hơn là “nghiên cứu tâm lí dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài”.
Trên cơ sở đó, ông bắt đầu “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại”. Tháng 5/1986, Nguyễn Huy Thiệp cho đăng hai truyện ngắn đầu tiên trên báo Văn nghệ: Nàng Sinh và Cô Mỵ. Đến tháng 9 có thêm Vết trượt. Nhưng tất cả mọi sự chú ý, dư luận và là nguyên cớ của “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” phải đến khi Tướng về hưu xuất hiện cũng trên Văn nghệ vào tháng 6/1987 – thời điểm có “một chiều kích chính trị quan trọng” như G. Lockhart cảm nhận.
Từ đây đến 1992, năm Nguyễn Huy Thiệp tuyên bố “rửa tay gác kiếm”, không viết văn nữa, là giai đoạn “cập thời vũ” nhất nhưng cũng “tâm tuyệt, khí tuyệt…” nhất của ông. Mọi tán dương lẫn bài xích cũng theo đó mà phủ ập xuống.
Tháng 3/1992, ông tự nguyện xin thôi việc ở cơ quan nhà nước, chuyển sang kinh doanh nhà hàng. Cao trào Đổi mới văn học cũng dần lắng lại. Nhưng tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu được chuyển ngữ và xuất hiện ở nhiều không gian đọc khác nhau, ở Pháp, Mĩ, Ý, Thụy Điển… Đáng nói hơn, đây cũng là lúc ông công bố những tiểu luận văn chương chứa đựng phần lớn kinh nghiệm, quan điểm sáng tạo của cá nhân mà mức độ nói thẳng, nói thật, nhìn ngược vấn đề trong đó đã gây nhiều phản ứng trái chiều.
Trên Con đường văn học (1992), ông ngậm ngùi và kiêu hãnh nhận ra “xác chết của các nhà văn đã chất thành núi trên thế gian này. Người ta vẫn bới tìm ở đấy những mẩu vụn của con người, về con người”. Ông quay về triết lí nhẹ nhàng với cảm quan Phật giáo trong Hoa sen nở ngày 29 tháng 4 (1994), bao dung Thương cho cả đời bạc (1996), đề cao Bài học tiếng Việt (1999) và sau cùng, khi đã vỡ lẽ “lẽ thường, lẽ vô thường”, “sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến dịch” (Con gái thủy thần, 1998), ông khẳng định Sống dễ lắm và Cười lên đi (2000).
Tiếng cười ý vị, quả thật, đã làm ông khỏe khoắn và tinh quái lần nữa trong những câu chuyện thoạt tiên tưởng để “mua vui”, Chuyện ông Móng (2001), Những tiếng lòng líu la líu lo, Chuyện bà Móng (2004)… Cũng đã có lúc, ông Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (2004) để rồi hứng chịu hàng loạt phản bác dữ dội. Càng bị căm tức ở Việt Nam, ông càng được vinh danh ở nước ngoài, với Huân chương Văn học nghệ thuật của chính phủ Pháp (2007) và giải thưởng Nonino Risit d’Âur của Ý (2008).

Đôi khi ông ăn vận khá ổn. Nhưng thường xuyên là đơn giản, bình dân.
Có thể nói, sau cao trào Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp lựa chọn thái độ “trở lại tự nhiên”. Bởi theo ông, “một xã hội dân chủ, tự do cũng sẽ là một xã hội tôn trọng tự nhiên, gần gũi với tự nhiên, vừa đồng hóa, vừa dị hóa, tiêu hóa nữa”.
Thái độ đó chi phối cách viết và thể loại của ông. Nhưng hơn hết, tư tưởng Nam tông theo giáo lí đốn ngộ, lẽ biến dịch của Lão Trang và sự tinh giản của tích trò dân gian Việt mới thực sự phóng chiếu sâu đậm trong trang viết của ông giai đoạn này. Không mấy nhà văn cùng thế hệ có những biểu hiện như thế. Một lần nữa, ông vẫn riêng khác trong những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới.
—
[Báo] Le Monde (2005), “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Nguyễn Quốc Trụ dịch, Nguồn: http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/vet_thuong.html
Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim, NXB Thanh Niên, H., tr.13.
Lời kể trong truyện Chảy đi sông ơi. Những trích dẫn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở bài viết này, nếu không có chú thích gì khác, lấy từ: Nguyễn Huy Thiệp (2007), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Với minh họa của các họa sĩ), NXB Văn hóa Sài Gòn & Đông A.
Greg Lockhart (1992), “Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietnamese Literature” in Nguyen Huy Thiep, The General Reties and Other Stories, Oxford University Press, p.1.
Pierre Gourou (2015), Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nhiều người dịch, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.12.
Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, H., tr73-74.
Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn nhu cũ”, trò chuyện văn chương với Jean Lacouture tại Paris (Pháp), Kim Lefèvre chuyển ngữ. Bản điện tử do Thuận thực hiện. Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1291&rb=0102
Peter Zinoman (1994), “Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Positions:East Asia Cultures Critique 2: 2 (Fall), p.301.
Lại Nguyên Ân (2014), “Hình thành, định hình, trưởng thành, phân hóa (Mấy nét về lớp nhà thơ xuất hiện ở miền Bắc những năm 1960-1970)”, Nguồn: http://www.viet-studies.info/LaiNguyenAn_ThoMienBac.htm
Peter Zinoman (1994), “Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Tlđd, p. 298.
[Báo] Le Monde (2005), “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Tlđd.
Philippe Papin (2011), Việt Nam hành trình một dân tộc, Nguyễn Khánh Long dịch, NXB Giấy vụn, TP Hồ Chí Minh, tr.33.
Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.31
Greg Lockhart (1992), Tlđd, tr.2.
Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.55
Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.291.
-------------------------------------------------------------------------
Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp ( theo WIKIPEDIA)
Quan niệm[sửa | sửa mã nguồn]"...Nhìn vào danh sách 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều..."vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả... "Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, Tạp chí Ngày Nay (ngày 15 tháng 3 năm 2004), Nguyễn Huy Thiệp"Tôi đã sống như một con thú" Trả lời phỏng vấn báo Libération"Ở Việt Nam người ta phải có khả năng chờ đợi. Đôi khi, guồng máy chính trị mở ra, rồi lại đóng kín lại. Khi mình bắt được cơ hội đúng lúc - và việc này tôi rất khá - thì nhiều việc không thể ngờ nhưng cũng có thể xảy ra ở nước tôi" “Katharina Borchardt - Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp”.VTN bổ sungFebruary 23, 2025
Machiavelli và Nguyễn Huy Thiệp - bài của Mai Anh Tuấn - 2016
Nguồn
https://maianhtuan.wordpress.com/2016...
N. Machiavelli (1462-1527) khét tiếng vì đã biến hình ảnh người lãnh đạo quốc gia cùng năng lực, phẩm chất và hành động của công việc này trở thành thứ cực kì đặc biệt, hấp dẫn và mạo hiểm, thích thú và tởm lợm, vinh quang và nhục nhã, cáo và sư tử. Ngoại trừ những chiến công vĩ đại, không có gì để phải phán xét về một bậc Quân vương, ngay cả khí hắn ta xảo quyệt, mưu mô, thủ đoạn và tàn bạo.
Những diễn giải hay luận bàn khái niệm, lý luận đều “mất thì giờ bỏ mẹ”. N. Machiavelli cứ bày mưu hiến kế dựa trên những gì quan sát thấy, những gương điển hình trong lịch sử. Thứ chính trị thực dụng của ông không thấy cái đuôi đạo đức/đạo lí (trước tiên là trong Kito) ngo ngoe mà chỉ thấy chình ình một thứ đạo lí cầm quyền khôn ngoan, ma mãnh và rất hiệu quả. Nếu không nhìn thấu tâm can con người, bản tính con người đương nhiên lúc nào cũng vị kỉ, vừa ngu dốt, a dua nhưng lại lắm mơ mộng hão huyền, có lẽ Machiavelli khó mà cung cấp thứ tài tiệu trị nước khó ngửi với các nhà nhân văn chủ nghĩa đến như vậy.
Chân dung Nguyễn Ánh-Gia Long được Nguyễn Huy Thiệp đẩy đến cùng để lộ ra chân tướng quân vương. Ở đó, như để họa lại lịch sử một giai đoạn biến động, một cá nhân đặt mốc khai triều, “sự bắt đầu lịch sử của quốc gia người Việt”, Nguyễn Huy Thiệp cùng lúc nhận ra những chiều kích trái ngược nơi nhà vua: “một khối cô đơn khổng lồ”, “biết rõ quốc gia mình nghèo đói”, “hiểu bản chất đời sống cộng sinh”, “không thèm đại diện cho ai”, “dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt, phục vụ cho chính bản thân mình”, “đa mưu, túc kế, tính kiên trì, không tin ai […] không coi nhân, nghĩa, trí, tín ra gì”. Nhưng cũng chính con người đó, “xuất quỷ nhập thần”, “diều gặp gió”, “thống nhất giang sơn”, “có cách nhìn thực tiễn với chính từng khắc tồn tại của bản thân mình”, “hiểu sự bất lực của ông đối với đời sống nghèo khó và những trì trệ của dân tộc ông”, “có gan chịu đựng sự va xiết trong quan hệ với cộng đồng nhân loại”… Đặc biệt, Nguyễn Ánh-Gia Long “trải đời ghê gớm” ấy hiểu rằng “đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu […] bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp”, coi nó là “nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng” chứ không phải một ai khác, càng không phải là “bọn chữ nghĩa”. Vấn đề tùy thuộc vào “sức đẩy của ông ta” với khối cộng đồng đó.
Gần với Machiavelli, Nguyễn Huy Thiệp không chọn khuôn đạo đức thông thường để chồng lên quyền bính. Nguyễn Huy Thiệp cũng tin rằng “ở bậc cao nhân làm gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo” nên mới có một Nguyễn Ánh “vĩ đại nhưng cũng đê tiện cũng khủng khiếp”. Sự mới mẻ và khác biệt trong kiểu người anh hùng này, về cơ bản, nằm ở điều mà nhà văn từng để nhân vật Nguyễn Thái Học nhấn mạnh: “gạt khái niệm lành mạnh và không lành mạnh ra khỏi phạm trù chính trị. Chính trị đứng cao hơn đạo đức, thậm chí bất chấp đạo đức” (Còn lại tình yêu).
Bọn chữ nghĩa vì nuốt nhiều lí luận với khái niệm cùng món nộm lí tưởng nên nồng độ đạo đức lúc nào cũng vượt ngưỡng. Người mới tiếp xúc có thể ngất tại chỗ vì khó hiểu. Mà khó hiểu bậc nhất hẳn là lí luận văn chương. Vừa rồi, trong Hội nghị viết văn trẻ, dù nhoáng qua nhưng tôi kịp thấy rất nhiều khuôn mặt văn nhân bơ phờ hốc hác, hoặc có lẽ bấn loạn ngơ ngác sau khi được tiếp xúc trực tiếp với nhiều nhà lí luận phê bình. Tác phẩm mình viết ra chỉ để kiếm ăn vặt lấy danh hão mà mấy kễnh lí luận cứ thòng hết Đề-rích-đa, Phu-cu, Da-cốp-xơn, Bát-tin, đến Hê-ghen, Căng, Phóc-mu-sa với dấn thân, khoan dung văn hóa gì đó nữa. Thật không khác điểm danh cá chết, mè, trắm, trôi, rô phi ở Hồ Tây vậy. Có nhà lí luận trẻ thương tình bảo tôi cố gắng nói những điều đơn giản, dễ hiểu, không trích dẫn ai về văn học ngôn tình vậy mà nhiều người ở dưới vẫn loay hoay tìm khẩu trang chấm mắt. Hóa ra đêm trước anh đã lim dim tím lịm đọc thơ, một bài thơ nói về đạo đức công chính.
Kể ra có bá đạo hay vương đạo thì kiếp người vẫn cứ già đi và ngỏm rất đúng qui trình. Một vài nhà văn lắm ưu thời mẫn thế thì thêm chút đau ở giữa qui trình đó. Để nói hết chút đau này, anh ta rất nên bịt các huyệt nhạy cảm trước khi bị người đời gán cho mọi điều tiếng tệ hại.
Nguyễn Huy Thiệp cũng chờ đợi và hi vọng về nền chính trị vương đạo. Ở đó, bản tính con người sẽ phát triển hết lòng chẳng nỡ và tính vị tha. Nhưng cho đến khi có thực tế này, trong Suối nhỏ êm dịu, ông hình dung rằng dường như tất cả đang muốn sự trở lại của nền chính trị quân chủ độc tài. Một ông vua/quân vương/hiền minh thì vẫn dễ dẫn dắt đúng đường hơn là giáo dục cả đa số? Cho dù tỉnh táo để đứng cách các nhà chính trị một quăng dao, nhà văn, nếu đúng còn chút đau nhỏ nhoi, thường sẽ bi quan. Trong khi, các nhà lí luận, do được rèn giũa trong nghề, thường dài tay và khỏe giọng, tức là vui nhộn hơn rất nhiều. Tất nhiên là họ hay muốn chui nách các nhà chính trị.
Xin lưu ý, Nguyễn Huy Thiệp từng nhắc đến Machiavelli.
February 22, 2025
Hậu chiến và và những đề nghị tư duy lại về đất nước của Trần Nguyên Đán theo cách hiểu của nhà nghiên cứu Lê Tư
Nguyên là bài
Nhà Trần thời hậu chiến (bài tiếp)
https://vuongtrinhan.blogspot.com/201...
----
Sự tiếp tục các phương hướng vốn có trong chiến tranh là đường hướngchính của việc quản trị đất nước của các vua Trần, đó là điều tôi đã nói trongbài trong bài Nhà Trần thời hậu chiến .
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015...
Bên cạnh cái mạch chính ấy, để được thấu đáo chúng ta có thể đặtmột câu hỏi: thế có ai đương thời nghĩ ra một phương hướng khác?
Khi viết về Trần Nguyên Đán ngòi bútnghiên cứu lịch sử của Lê Tư đã trả lời cho câu hỏi đó. Toàn bài từng đượctrang mạng Nghiên cứu lịch sử đưa lại, nay có thể tìm ở đường link
https://nghiencuulichsu.com/2017/02/1...
Đọc qua tôi thấy đây là bài viết có sự tham bác hiếm có bao gồm cảsách vở chữ Hán, cả những tài liệu mới công bố ở báo chí Hà Nội trước và sau1975. Đó là cách viết của những người thâm hậu Hán học quen xem văn chương như một phương tiện phát biểu về lịch sử.
Với tiêu đề Trần Nguyên Đán đại thần nho sĩ nhà thiên văn kiêm đạo gia bài viết nói về con người đa dạng và các lĩnh vực hoạt động của TrầnNguyên Đán và trong mức độ nào đó là một thứ chân dung nhiều mặt của nhà thơđược mang ra làm đối tượng phân tích.
Nhìn vào cách triển khai thì đúng như tác giảđã xác định từ đầu tức là bám sát vào thơ của nhân vật lịch sử được nghiêncứu. Trong nguyên bản vấn đề mà bài này gợi ra quá rộng, rộng hơn tiêu đềđã nêu.
Dưới đây, khi trích lại một số ý trong bài này, tôi chỉ dừng lại ở mộtkhía cạnh là “các đề nghị của Trần Nguyên Đán về phương hướng giảiquyết việc trị nước “ đã được Lê Tư trình bày gồm nhữngđiểm gì và chúng ta nên tiếp nhận như thế nào. Tất cả các ý tưởng cho tớicác con số các chi tiết trích dẫn đều lấy từ Lê Tư, tất nhiêntrong đó có những đoạn tôi cho phép mình diễn đạt lại chút ítxuất phát từ sự hiểu của tôi.
--------------
Tóm tắt tiểu sử nhân vật được nói tới:
Trần Nguyên Đán (1325-1390) là hậu duệ đời thứ 4 của Trần Quang Khải (1241 –1294), vị Thượng tướng em ruột vua Trần Thánh Tông.
Ông từng giữ chức Ngự sử Đại phu thời Trần Dụ tông ( ông này làm vua từ1341 – 1369).
Khi Nhật Lễ nối ngôi, chính sự rối ren, ông dâng thư can gián không được nên bỏchức mà về. Khi Trần Phủ phế truất Nhật Lễ, lên ngôi Minh Tông (1370 –1372) phong Nguyên Đán chức Tư đồ, giao quản lĩnh xứ Lạng Châu (một phần cáctỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng nay).
Năm 1374, ông chủ trì kỳ thi tiến sĩ tổ chức tại ThiênTrường. Năm 1375, ông được giao việc quân trấn Quảng Oai (một phần thuộc HòaBình, một phần thuộc Hà Tây cũ). Tuy nhiên, do sở hữu phủ đệ tại Thăng Long, tahiểu rằng Nguyên Đán kiêm quản công việc từ kinh đô, chỉ xuống địa phương khicần thiết.
Năm 1385, ông về trí sĩ ở Côn Sơn cho đến khi tạ thế vào năm 1390. Chức vụ caonhất của ông là Nhập nội Kiểm hiệu Tư đồ Bình chương sự, tước Quốc thượng hầu.
Nguyên Đán trưởng thành, làm quan suốt thời suy tàn của nền văn minh Lý-Trần.
Tóm tắt hoàn cảnh
Thực ra chính quyền hồi ấy rất yếu. Điều này tôi đã nói rõ trong bài NhàTrần thời hậu chiến mà tên nguyên văn là Cuộc khủng hoảng của nhà Trầnsau khi đánh thắng quân Nguyên đây chỉ dẫn lại Lê Tư để nói thêm.
“Qua lời các nhà thơ đời Trần, chúng ta biết những địa điểm như Chi Lăng(Lạng Sơn), Chân Đăng (Phú Thọ), Trường châu (Ninh Bình), núi Phả Lại (HảiDương) bị coi như vùng biên viễn, bên ngoài là không gian mường mán. Quyền lựctriều đình chỉ nằm gọn trong đồng bằng sông Hồng, cộng thêm vùng duyên hải trảidài từ châu Ái đến biên giới Chăm. Không gian chật hẹp này loang lổ những tháiấp, điền trang, đất thế tập của thổ hào hoặc tài sản tôn giáo, những tiểu vùngmà quyền lực triều đình khó lòng chạm đến.
Phan Phu Tiên, sử gia đời Lê sơ có nhắc lại lời tâu lên Minh tông bởi kẻ sĩđương thời về hệ thống quản lý thiếu chặt chẽ như sau:
Trong dân gian có nhiều người du thủ du thực, đến già vẫn không có hộ tịch,thuế má không nộp, sai dịch không theo.
Thời tiết thất thường trên môi trường thoái hóa tại châu thổ sông Hồngvào nửa sau thế kỷ XIV là nguyên nhân quan trọng khác tạo nên biến loạn xã hội.
Theo Lê Tư, “hoàn cảnh thúc bách từ cả hai phía trong-ngoài đòi hỏi tầnglớp cai trị phải thể nghiệm biện pháp khả thi nhằm thay đổi tình thế vì hiệuquả của cơ cấu chính quyền dựa trên lý thuyết tam giáo đồng nguyên nhưng đậmchất bản địa đã chạm điểm tới hạn.
Theo tôi, do biểu hiện dưới hình thức thơ tâm sự, các ý tưởng TrầnNguyên Đán có cái của những lời tự nóivới mình nhưng lại cũng khá rõ ràng. Nó gồm mấy ý:
-- có phải nguyên nhân tình trạng suy thoái là một lối cai trị thiếu tríthức
-- và điều này không chỉ là trái với những nguyên tắc của Nho giáo mà làtrái với lẽ phải thông thường.
-- đừng vì muốn làm khác Trung Hoa mà đi vào con đường sai lầm.
Đến đây tôi nương theo Lê Tư để tóm tắt hai loại phản ứng của nhà cầmquyền trước tình hình trên và bề sâu của các loại phản ưng đó.
Dụ tông thường chỉ được diễn tả như ông vua chơi bời hưởng lạc. Nhưngkhách quan mà thấy ông đã có thay đổi dù sự thay đổi này chỉ là nghe theo kẻkhác.
Toát lên ở các phát biểu của ông vua đáng chê này một lời khẳng định: chúng tatan vỡ tại vì chúng ta không dùng trí thức.
Và ông đã được các trí thức đương thời ủng hộ
Đoạn trên vừa dẫn Phan Phu Tiên, ông này mệnh danh “kẻ sĩ”, thuộcnhóm trí thức mới chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Tống nho như Phạm Sư Mạnh,Lê Quát, Trần Nguyên Đán. Các nhà nho thuộc trường phái Chu Văn An này đưa ralời kêu gọi cải cách mạnh mẽ nhất là phải xây dựng hệ thống hành chánhthư lại kiểu nho giáo, lấy phương Bắc làm mẫu mực.
Nhưng dù đã được Dụ Tông đỡ đầu, tư tưởng của nhóm này vẫnkhông được các vị vua tiếp theo loại như Nghệ Tông tiếp nhận . Ngược lại trướccác rối ren đa số trong giới quý tộc cầm quyền đổ lỗi cho chính các nhànho mặt trắng.
Đứng ở góc độ con người cuối thế kỷ XX đầu XXI mà dự đoán, tình hìnhchắc còn phức tạp hơn nhiều, nhưng đây đã là cái mạch đi chính của tư tưởngthời đại mà Trần Nguyên Đán trở nên nhân vật ngược dòng
--
So với các vị tôn thất đầy uy quyền của nhà Trân bấy giờ, Trần NguyênĐán có cách nghĩ khác.
Là một vị tướng oai danh hiển hách, nhưng trong nhiều trường hợp TrầnNguyên Đán lại có tâm trạng ngược hẳn với những cùng vai vế với mình hoặc nóicách khác là các đồng nghiệp, những người làm nên chiến công hiển hách để đời .
Hai bài thơ sau cùng diễn tả tâm trạng Trần Nguyên Đán khi dẫn binh línhđi tuần ở các địa phương xa kinh đô. (chúng tôi chỉ dẫn bản dịch còn nguyên vănchữ Hán, mời các bạn đọc lại Lê Tư )
Cả hai cũng cho thấy chiến chinh là gánh nặng trong tâm vị tướng họ Trần và ôngcó cái tâm sự chẳng tiêu biểu cho người anh hùng chút nào: ông chán việc binhđao lắm rồi và chỉ muốn về nhà .
bài một
Sáng tác khi ở trong quân (Quân trung tác)
Chức Chấp kim ngô chẳng là nguyện ước bình sinh,
Cười nói dưới cờ lọng quang dầu đâu phải kế lâu dài !
Chốn nào còn cảnh tượng đẹp mắt ?
Một đời không dám mang lòng dối trời !
Cuối mùa xuân, tiếng quyên kêu ai oán ngưng bặt,
Từ muôn dặm, lòng muốn về đối diện bóng trăng lẻ loi.
Ngồi chờ binh lính ca khúc khải hoàn,
Tựa gối ngọc trên chiếu trúc nơi cửa sổ phía nam.
Đây không phải cuộc hành quân hướng về đối thủ Chiêm Thành, kẻ địch khóchịu mà khi nhắc đến vua tôi Trần phải sa nước mắt. Lúc này Nguyên Đánđang lo dẹp giặc cỏ nổi lên vì đói kém. Giết chóc hay bắt bớ dân đen dĩ nhiênchẳng mang lại hứng thú nào. Ông không dối lòng khi khẳng định chỉ muốn về nhà.
bài hai,
Cảm xúc khi ở trong quân ( Quân trung hữu cảm)
Mang thương, cầm bút, thân nhẹ như mây,
Nhẫm tính… rời nhà vừa đúng mười tuần,
Báo bình minh, gà vàng gáy kinh động giấc mộng đất khách,
Giục trở về, tiếng chim đỗ vũ đưa tiễn xuân tàn.
Đường đời còn dài, công danh chưa muộn.
Bèo nước gặp được nhau, cố nhân lại mãi nơi nào !
Chỉ nhàn tản giữa biển rộng trời cao,
(Như) chim âu trắng hiền lành nơi sông im sóng lặng.
Hãy thử so sánh với một quab chức khác Phạm Sư Mạnh, ông này đượclệnh tảo thanh hoặc thanh tra khu vực rừng núi Đông Bắc-Tây Bắc, còn Nguyên Đánđi tuần khu vực duyên hải. Trong khi Phạm Sư Mạnh rất hãnh diện và nhớ ơn vuakhi được chỉ huy quân đội, Trần Nguyên Đán buồn bã, cô đơn khi sống trong môitrường “kém thanh lịch” (chữ của Lê Tư). Ông chẳng màng đến mệnh vua khi xôngpha bên ngoài.
Thế đâu là nhân tố chi phối Trần Nguyên Đán trong những năm này? Ngượclại với tâm lý say sưa vì chiến chinh, lòng ông hướng cả về sự phát triển của xã hội mà công việc cụ thể là hướng về việc đàotạo các phần tử trí thức để dựa vào đó có thể cai trị một cách sáng suốt
Họa vần bài thơ xướng hoạ của các thí sinh trường thi
Hán, Đường, hai Tống, đến Nguyên, Minh,
(Đã có) Lệ đặt khoa từ chương để chọn người tài tuấn.
Sao giống cách cầu thực học của thánh triều !
Nên biết (cách tuyển này khiến) muôn đời sau dứt hẳn tiếng bình phẩm.
Xem sách xong lúc canh hai, cung điện thâm u,
Mưa vừa tạnh khi gió thu nổi, vầng trăng tròn đầy.
(Thắp) nén nhang ngự, hương bay thông đến cửa khuyết,
Mong nghe tên vị Trạng nguyên trung, hiếu.
Trong một dịp khác, ông có bài thơ sau , khái quát cả xuhướng trọng văn khinh võ ở cơ tầng sâu xa nhất
Tặng Mẫn Túc
Suốt đời chịu làm việc chế tác trống, tù và hay sao ?
Cười chết được bọn mặc áo cừu, hăm hở phóng ngựa.
(Họ sẽ) Thẹn thùng vì không có tiếng tốt lưu lại đời sau,
Bài hát cuồng loạn chỉ vọng lại âm hưởng thâm u.
Ai bảo vật này là vật phi thường !
Tự biết ta hôm nay cũng là ta lúc trước.
Khuyên ngươi hãy chuyên cần học theo Chu, Khổng,
Khoe lạ, đua khéo có cũng như không.
Lê Tư dẫn giải:
Mẫn Túc hẳn mang vật lạ đến cho Nguyên Đán xem. Theo lời lẽ, cả Mẫn Túc lẫn“phi phàm vật” đều liên quan đến quân đội. Nhiều khả năng đó là chiếc trống haycái tù và. Nguyên Đán không đánh giá cao món quân dụng tinh xảo, mà lại khuyênchàng trai trẻ theo nghiệp Tống Nho. Trần Nguyên Đán làm trong đàiNgự sử hoặc giữ chức Tư đồ, ngạch văn chức. Tuy nhiên, ông cũng kiêm coi việcquân ở Lạng châu, Quảng Oai. Câu “Tự giác kim ngô diệc cố ngô” (Tự biết ta hômnay cũng là ta lúc trước VTN chú ) rất thú vị: ông tướng bảo viên võ quancấp dưới rằng ta vẫn là một văn nhân. Có nghĩa ông tự hào với một chữ văn -theo nghĩa rộng của thời trung thế kỷ tức chính trị tư tưởng....
Từ đây có thể dự đoán là khi bắt gặp những ý tưởng muốn dự vào đạo KhổngMạnh mà trước tiên là dựa vào các trí thức mà đám Phan PhuTiên nói trên đã bộc lộ, Trần Nguyên Đán ngầm tán thành. Với việc TrầnNguyên Đán đã từng là ngự sử dưới thời Dụ Tông, lại có thể nói khôngchừng ông tướng họ Trần thích văn này là một trong những tác giả của những đềnghị đó.
---
Thơ văn đời Trần thường được miêu tả như những chứng tích của chiếnthắng. Trong cái mạch ấy, những bài thơ của Trần Nguyên Đán mà Lê Tư dẫnra như lạc sang một cái mạch khác.
Bây giờ chúng ta thử cắt nghĩa hai câu hỏi tại sao lại có tâm trạng nhưvậy.
Trước hết là những quan sát của Trần Nguyên Đán về tình hình xã hội đươngthời
Thơ làm trong thuyền về ban đêm
Dân chúng khắp nơi như cá trong đỉnh nước sôi,
Đất Yên phía bắc, đất Biện phía đông đã thành gò đống.
Trên thuyền về, không dỗ được giấc mộng nơi sông hồ,
Mượn ánh đèn chài đọc quyển sách xưa.
Kèm theo những thể nghiệm trên, là những trải nghiệm của vị ngự sửnày về giới quan chức
Nhưng cả hai cái đó chưa đủ, nếu ở những nhân vật tầm cỡ quốc gia như TrầnNguyên Đán thiếu đi học vấn.
Đến đây có một khó khăn là chúng ta không có tài liệu nào để hiểuvề trình độ của giới quý tộc đời Trần.
Trong quá nửa phần cuối bài của mình, Lê Tư đã hướng tới một chủ đề khác.
Ông nói về những ảnh hưởng Trung Hoa – cụ thể là Nho học - với giới quýtộc đương thời.
Phần này gồm có mấy ý
1/ ảnh hưởng của Trung Hoa có từ thời đầu nhà Trần. Chính Chu Văn An là ngườiđã mang lại cả các lý thuyết nho học lẫn cái sinh khí mạnh mẽ của đámngười di dân
2/ ở phần ngược lại, giới quý tộc Trần khồng thể tiếp thu nho giáo trọn vẹn vìhọ muốn làm khác phương Bắc.
Mấy ý rất quan trọng này của Lê Tư, trong trường hợp có thể chúng tôi sẽtrở lại vào một dịp khác.
Ở đây, tôi chỉ chép lại một đoạn nguyên văn của tác giả mà tôi nghĩ là đãgói ghém nhiều ý khác nhau:
Theo Toàn Thư, Tiều Ẩn Chu Văn An người huyện Thanh Đàm (nay thuộc HàNội), được Trần Minh tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Tháitử. Qua lời ca ngợi bên trên, chúng ta thấy Văn Trinh thuộc dạng cư Nho mộ Lão.
Cái mới mẻ trong phép tắc và học thuật của Văn Trinh đến từ nguồn nào ?
Nhà sử học nổi tiếng ở Hà Nội Trần Quốc Vượng (1934 – 2005), người từngcùng Vũ Tuân Sán đến Thanh Liệt tìm hiểu sự tích liên quan đến Văn An đã pháthiện gia phả họ Chu, theo đó, cha ông là một người Phúc Kiến tên Chu Văn Hưng.Thanh Liệt chỉ là quê mẹ. Khi tổ tiên Ông đến biển Nam hẳn đã mang theo kiếnthức mới lạ, vốn là thành tựu của văn hóa rực rỡ đời Tống. So với tiền triềuLý, văn thơ Trần dưới ảnh hưởng di dân có sức bật lớn, phồn tạp hơn về đề tài,đầy đặn hơn về số lượng, phong nhã hơn về câu cú. Nhà nho Đại Việt đã được (haybị) Hán hóa mức độ cao hơn trước nhiều.
Nguyên Đán tin rằng quốc gia sẽ được ổn định nếu nhà cầm quyền sử dụng nho sĩtrong quản trị xã hội. Ý tưởng này vào thời điểm đó không hoàn toàn trùng hợpvới đường lối trị nước của hoàng tộc Trần. Minh tông và Nghệ tông, mặc dù traoquyền cho nho thần một cách rộng rãi, vẫn phê phán ý tưởng cải cách điển chếquá triệt để của bọn “học trò mặt trắng”.
Bài viết của Lê Tư còn nói về phương diện đạo gia và nhà thiên văn ở TrầnNguyên Đán, nhưng tôi cho là mấy ý trên là thiết cốt nhất, nên tạm tóm tắt nhưtrên.
Lê Tư còn là tác giả một bài viết nữa trên Nghiên cứu lịch sử mang tên NgườiViệt hợp tác với giặc Minh:
https://nghiencuulichsu.com/2017/06/1...
tên đề lấy ở ĐVSKTT
Toàn Thư: “京路多從賊以叛Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản”
(Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.)
bài sau này tôi cũng rất muốn tóm tắt vì nói về một khía cạnhbản chất của người Việt vốn hình thành từ nhiều thế kỷ trước. Nhưng xin để dịpkhác.
February 2, 2025
Sử học và đại chúng -- theo cách nhìn của Vũ Đức Liêm
Nguồn Sửhọc và đại chúng: Không nhất thiết tạo ra sự đối lập giữa hàn lâm và đại chúng
https://tiasang.com.vn/van-hoa/su-hoc...
Thảoluận vấn đề này với nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Đức Liêm, ĐH Sư phạm Hà Nội vềmối quan hệ của đại chúng với sử học và có lối thoát nào cho sự chênh lệch nhậnthức hay không?
Anh nhận xétthế nào về mối quan hệ giữa nhà sử học với đại chúng tại Việt Nam hiện nay?Hướng đi nào cho các nhà sử học để các công trình sử học đến gần hơn với đạichúng?
Lịch sử có nhiềuchức năng, tốt có, xấu có tùy vào mục tiêu của người sử dụng (cũng như các côngcụ hằng ngày chúng ta vẫn dùng, từ con dao, cái búa...). Khác với nhiều khoahọc, nghiên cứu lịch sử không phải là độc quyền của một nhóm người chuyên sâu(gọi là sử gia). Một bác cựu chiến binh, nhân lúc về hưu nhàn rỗi ít có khảnăng mua sách toán về để bắt đầu nghiên cứu toán học, nhưng rất nhiều bác đãmua các bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục... và bắt đầu nghiêncứu lịch sử. Thậm chí nhiều bác xuất bản đều đặn, có ảnh hưởng hơn các sử giachuyên nghiệp. Là một người tìm hiểu và dạy sử, tôi thấy điều đó là tín hiệutốt cho việc tạo dựng truyền thống, giữ gìn bản sắc, nâng cao tri thức xã hội.
Tuy nhiên, ở mộtkhía cạnh khác, sự ‘’bùng nổ’’ của nền sử học - tạm gọi là phi quan phương nàycũng phản ánh những nhu cầu mới của sự thực hành tri thức lịch sử trong xã hộiViệt Nam đương đại, nơi mà dường như vẫn còn một bức tường giữa các giảng đườngđại học và nhu cầu tri thức lịch sử có tính ứng dụng của xã hội.
Nhiều người chorằng khoảng cách giữa hai thế giới này phản ánh sự ‘’khủng hoảng’’ hay yếu kémcủa các sử gia. Tôi không nghĩ như thế. Nếu các bạn có dịp đọc một cách nghiêmtúc các công trình sử học chuyên nghiệp, sẽ thấy có rất nhiều thành tựu mới,nhiều nghiên cứu công phu, bài bản. Thành tựu của các thế hệ đi trước giờ đangđược tiếp nối bởi các nhà nghiên cứu trẻ, đào tạo tốt, chuẩn bị kỹ lưỡng và cónhiều ý tưởng.
Vậy vấn đề ởđây là gì?
Có lẽ nằm ở cáchtiếp cận, cách thể hiện, và cách truyền đạt tri thức nghiên cứu. Các truyềnthống viết sử của Việt Nam không hướng đến công chúng vì đó là sử cung đình,dành cho vương triều và một nhóm nhỏ những người thực hành chính trị. Sử học vìthế được sử dụng như một phần của các dự án chính trị của giới tinh hoa nhiềuhơn là để truyền bá tri thức, hướng tới quần chúng...
Phải tới thời hiệnđại, đặc biệt trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX, lịch sửmới được sử dụng như một cách thức tập hợp dân chúng, xây dựng bản sắc ở tầmrộng chứ không phải dành cho nhóm đặc quyền.
Sẽ mất thời gianđể các sử gia thay đổi cách tiếp cận, tìm kiếm các hệ hình và cách biểu đạtmới, cũng như xác lập vai trò nghề nghiệp mới thông qua việc đưa sản phẩm củamình tới công chúng, hướng tới nhu cầu của công chúng.
Sự chuyển dịch củaxã hội Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua đa dạng hóa thị trường “của lịch sửvà các sử gia đúng là đang loay hoay để tìm cách thích ứng với “nền kinh tế thịtrường” của tri thức này.
Trong nỗ lựcrút ngắn khoảng cách giữa giới hàn lâm với đại chúng, các nhà sử học có ưu điểmvà hạn chế nào?
Có lẽ không nêntiếp cận từ góc độ ưu điểm hay hạn chế, cũng không nhất thiết tạo ra một sự đốilập giữa giới hàn lâm và đại chúng. Không có một ranh giới cụ thể nào phân chiatri thức này thuộc về hàn lâm, tri thức kia thuộc về đại chúng.
Trước hết phải xácđịnh rõ rằng dù là tri thức của ai đi nữa, để được gọi là ‘công trình nghiêncứu lịch sử’, chúng cần tuân theo các nguyên tắc của nghiên cứu khoa học. Trậnđấu bóng đá, dù là giải nghiệp dư hay giải chuyên nghiệp đều theo các luật chơichung.
Các nỗ lực đưa trithức ra đại chúng thực ra không phụ thuộc vào hàn lâm/ chuyên nghiệp hay khôngchuyên mà yếu tố cốt lõi là tìm kiếm cách thức và phương tiện phù hợp để côngchúng có thể tiếp nhận, để những người không chuyên sử tìm thấy sự ‘’liênquan’’ của những câu chuyện quá khứ đối với cuộc sống của họ. Con người quantâm đến quá khứ không phải vì tò mò. Họ tìm kiếm sự hấp dẫn của sử không phảitừ những khái niệm hay lí thuyết tiếp cận phức tạp. Họ tìm kiếm những câuchuyện về số phận con người, về cách thức thế hệ trước đã thành công hay gụcngã ra sao trước thách thức của thời đại mình. Đây chính là cách ngắn nhất đểkết nối quá khứ với trái tim của người đọc.
Một điểm khá thúvị hiện nay là sự thay đổi của công nghệ số làm thay đổi nhanh chóng cách thứccông chúng thưởng thức lịch sử. Chúng tạo ra nhiều kênh khác nhau để tri thứcvề quá khứ lan vào cuộc sống. Về điểm này thì những người ‘’hàn lâm’’dường nhưhơi ‘’chậm chân’’ so với những người bên ngoài. Họ làm truyền thông tốt, ngônngữ đơn giản, hiện đại, sống động và nắm bắt các “thị hiếu tiêu dùng lịch sử”của khách hàng. Vì thế, trong nhiều trường hợp, sử của họ ‘’đắt hàng hơn’’ củagiới hàn lâm.
Thực tiễn trởnên phong phú khi có nhiều người trẻ mong muốn đưa tri thức lịch sử mang hơithở của cuộc sống đương đại. Qua nhiều dự án, họ đã cố gắng phục cổ, thậm chílàm mới, làm mềm hóa tri thức lịch sử. Tuy nhiên dường như chúng ta vẫn thấythiếu vắng của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu trong những dự án như thếnày. Anh cho rằng vai trò hay chỗ đứng của giới chuyên môn, hàn lâm nên đượcđịnh hình ra sao trong làn sóng biến đổi này?
Đây là một vấn đềthú vị và tôi nghĩ có nhiều lí do để giải thích. Hơi lạc đề một chút, có vẻ như(có vẻ thôi nhé) truyền thống về các trí thức công, các chuyên gia, về vai tròcủa tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam khá mờ nhạt. Cái này chỉ là cảmnhận cá nhân. Và điều này, tôi nghĩ ảnh hưởng đến văn hóa ‘’hành đạo’’ của cáctrí thức, và chuyên gia ở Việt Nam chăng.
Điểm thứ hai làkhoa học: từ lí thuyết đến ứng dụng có độ trễ về mặt thời gian, ngay cả khoahọc tự nhiên cũng thế, chứ đừng nói đến khoa học xã hội. Để ‘’ứng dụng’’ đượcmột tri thức/ vấn đề lịch sử (khoa học xã hội) còn là một câu chuyện khác nữa.
Tuy nhiên, mọi thứđang thay đổi rất nhanh chóng, và chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của nhiềutrí thức trẻ, có uy tín và bản lĩnh, ‘’dấn thân’’ theo đúng nghĩa của từ này đểtrở thành những người truyền bá tri thức cho công chúng theo nhiều cách thứckhác nhau, nhiều kênh khác nhau, không chỉ là con đường học thuật. Các nhà kinhtế, nhà nghiên cứu luật, Hán Nôm, lịch sử, chính trị học, xã hội học, giáo dụchọc... Trong làn sóng đó, chắc chắn sẽ có các chuyên gia sử học với mong muốnđưa tri thức lịch sử và ứng dụng của chúng vào các vấn đề của xã hội đương đại.Đây sẽ là quá trình lâu dài nhưng xu thế của nó là không đảo ngược. Ở đó, luôncó chỗ đứng của giới chuyên môn.
Cảm ơn anhvề cuộc trao đổi!
Tuấn Quang thực hiện
Thử nghĩ khác đi về sự một số vấn đề trong lịch sử dân tộc
Nhiều nhận thức khoa học được hình thành trong lịch sử thườngchỉ đúng với một giai đoạn nào đó, sau đó người ta sẽ tìm cách vượt qua. Tuynhiên trong giai đoạn đương thời ít nhất là nhận thức đó đã giúp người ta giảithích nhiều sự kiện có liên quan.
Tôi đã phân vân rất nhiều khi tìm lại cổ sử Việt Nam và tìm thấynhiều điều khác những điều tôi đã được dạy từ hồi tiểu học, cũng khác với sửhọc đương thời. Oái oăm ở chỗ mặc dầu đãcố từ chối cuối cùng tôi vẫn phải nhận đấy là những tài liệu có giá trị khoa học và có thể tinđược. Trước thời Bắc thuộc, chưa có dân tộc Việt Nam lại càng chưa có nướcViệt. Và chính những người Hán có mặt trên phần lãnh thổ này từ nhiều nguồnkhác nhau vị trí khác nhau đã là những nhân vật chính trong lịch sử của mảnhđất này. Nói như ông Nguyễn Gia Kiểng trong bài “Việt Nam đã hình thành như thếnào?” đã nói: “điều mà chúng ta thường gọi là lịch sử dựng nước thực ra chỉ làsự hình thành chậm chạp của một quyền lực thống trị địa phương trong tay mộtthiểu số rất nhỏ gồm những người từ phương Bắc tới và những người địa phương đãhấp thụ văn hóa Hán.” (mời xem lại Fb của tôi ngày 3-7-2022)
Sở dĩ tôi tin những lời đó vì nó đúng, với nghĩa vì nó giúp tôigiải thích nhiều vấn đề lớn trong lịch sử Việt Nam. Ví dụ như câu chuyện vănhóa Việt Nam thường được miêu tả như một thứ second-hand của văn hóa Trung Hoa.Lại như những ví dụ về những xung đột vùng miền của người Việt, một điều nhà sửhọc Mỹ K.W.Taylor đã khẳng định mà chúng ta thì rất phản đối. Đơn giản lắm, vìngười Hán cai trị nước ta đâu có như một địa phương thống nhất mà họ ít nhấtchia làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam; mỗi quận này do một viên TháiThú hoặc Thứ sử hoặc Tiết Độ Sứ cầm đầu, các viên quan cai trị này không chịutrách nhiệm gì với nhau mà chỉ chịu trách nhiệm với triều đình tại Bắc Kinh vàsự thực là họ luôn luôn mâu thuẫn lẫn nhau, họ huy động các thuộc hạ và dân địaphương dưới quyền thôn tính lẫn nhau. Cũng một sự thực là trình độ phát triểnmỗi quận mỗi vùng một khác, mỗi khu vực gần như có một kiểu văn hóa riêng, kiểucư trú riêng, kiểu sinh hoạt riêng và trước tiên là có một bộ phận người Hánmới du nhập; những người Hán này từ những địa phương khác nhau ở Trung Quốc, họcó mưu đồ lập ra một xứ sở có màu sắc riêng. Âý là không kể một quận như quậnNhật Nam luôn luôn ở trong tình thế biến đổi và sau này đã du nhập thêm vùngđất của người Chăm và người Khơ-me trở thành vùng Nam Trung Bộ và miền Nam Bộngày nay.
----------------
PHỤ LỤC I
--
Để nói về những xung đột vùng miền và những con người hoặc nóikhác đi là sự khó hòa hợp giữa người Việt với nhau – tình trạng này có một phầndo sự chín không đều ở đủ các dạng thức --, xin thêm hai tài liệu
1/Tài liệu thứ nhất
-- Đọc “Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia”, thấy lời tâucủa quan chức lo quan hệ với nhà Mạc là Mao Bá Ôn tâu lên vua Minh như sau:
Hạ thần xét về nước Nam, từ thời Hán thời Tấn đến nay, tuy xưnglà nội phụ, nhưng vì thói tục di liêu khí độc lam chướng không thích nghi vớiTrung quốc.
Vả lại nước ấy cứ vài năm một lần loạn lạc, mà đã loạn lạc thìkéo bè kết đảng, đánh giết lẫn nhau, phải qua mấy năm mới yên.
Ngày trước Trương Phụ dùng hơn mười vạn quân đánh dẹp mà cũngchỉ đặt được quận huyện trong mấy năm. Sau đó chúng liên tiếp làm phản và rútcuộc lại trở về man di. Đó là một chứng nghiệm rất rõ ràng.
Nay cân nhắc sự lợi hại thiệt hơn thời trước, thấy không gì bằngcứ để nước ấy là ngoại bang mà không nhập vào Trung quốc và chỉ nên dùng ngườidi trị người di.
Thế mới ổn thỏa và tiện lợi (sđd , tr 58 ).
*
2/Tài liệu thứ hai là một văn bản hiện đại hơn - đoạn trích cuộc phỏng vấn giữa tạp chí Đức Việt và đạo diễn TrầnVăn Thủy: "Cái cảm giác đè nặng bên trong tôi là vô vọng về dân tộcViệt". Bài đăng trên báo Đoàn Kết (của Việt kiều tại Pháp) số 10-90.
HỎI
Anh đi khắp nơi như vậy, chứng kiến cuộc sống của người Đức,Pháp, Bỉ hoặc Anh, ý..., điều gì làm anh xao động nhất?
TRẢ LỜI
-Cái cảm giác đè nặng bên trong tôi là vô vọng về dân tộc Việt.Tôi nói điều này thì cũng không đúng lắm, có thể là thất lễ và mất lòng nhiềungười, nhưng nó là sự thật.
Tôi xin nói, thật lòng như thế này: Khi còn ở trong nước, tôi cứnghĩ các khuyết tật mà xã hội Việt Nam có, thí dụ quan liêu, cửa quyền, bắtngười khác giống mình, áp đặt ý kiến, là do cơ chế của một thứ "chủ nghĩaXã Hội".
Sau này ra ngoài, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, nhất là những báochí của phe chống cộng đủ thứ, tôi thấy không ít chuyện kinh hoàng. Ai mà khônggiống mình thì dằn mặt, đánh hoặc bắn.
Thế tôi mới ngỡ rằng cái bệnh hiếp đáp nhau, dẫm đạp lên nhau,bắt người khác phải phục tùng mình, phải chăng là chứng bệnh của dân tộc ViệtNam.
Nếu như đó là bệnh của một chế độ chính trị thì có thể sửa được.Khi nó không còn hiện diện hoặc thay đổi thì những điều xấu ấy mất đi.
Nhưng nếu đó là những khuyết tật của dân tộc thì thật là điềuđau đớn vô cùng.
Nếu chỉ tính từ thế kỷ XV với sự xuất hiện của nhân vật NguyễnTrãi, đến nay có thể nói qua gần năm thế kỷ, có nhiều chuyện gần như ta phảilàm lại từ đầu.
Đè nặng lên tôi nhất vẫn là cái cảm giác dân tộc mình khó mà khálên được, khó lòng đuổi kịp các nước, dù là những nước trung bình trên thếgiới. Đó là sự thật, ai càng yêu nước càng buồn nhiều.
***
Còn có thể dẫn ra nhiều ý tương tự những điều vừa dẫn ở trên. Chúngta rất khó quen với ý tưởng xứ sở ta tuy liền lặn nhưng lại bao gồm những mảnhghép của những nhóm dân cư khác nhau và trong gần ngàn năm trên đường tiến hóalại chín không đều. Nhưng đó đang được nhiều người tìm cách chứng minh là mộtsự thực
…………….
PHỤ LỤC II
Còn sau đây là một mấy đoạn suy nghĩ của tôi nhằm giải thích tại sao lịch sử VNcận đại đã chứng kiến nhiều thay đổi nhưng ta vẫn là một xứ sở chậm tiến.
SỰ TỪ CHỐI LIÊN TỤC
VỚI MỌI TƯ TƯỞNGPHƯƠNG TÂY
--
Trong vụ GS Chu Hảo,nhiều người thắc mắc tại sao cấp trên lại phê phán ông về hoạt động của nhàxuất bản Tri Thức.
Là một người đã làmcông tác xuất bản và ít nhiều có hoạt động trong lĩnh vực sách vở khoa học xãhội, tôi không lấy làm lạ. Câu chuyện từ chối các tài liệu nghiên cứu từ phươngtây vốn có từ lâu lắm.
Sinh thời nhà thơ TốHữu từng cho rằng về khoa học tự nhiên ta có thể kém chứ khoa học xã hội thì takhông chịu một ai. Thậm chí theo cách nói của Tố Hữu ta còn có thể đi dạy chocác nước khác nữa.
Trong giới khoa họcxã hội nhiều người lứa tuổi tôi hẳn biết nhà dân tộc học Từ Chi từng mang vạ vìở nơi sơ tán mà để hết tâm trí ngồi đọc Nhiệt Đới Buồn của ClaudeLévi-Strauss.. Có lần một phó ban tuyên giáo hình như là ông Hà Huy Giáp đếnthăm nơi sơ tán của cơ quan phát hiện ra việc này của Từ Chi. Sau đó ông liềnbị chi bộ quần cho một trận. Kinh nghiệm của Từ Chi là không nên làm việc ở cơquan mình có chuyên môn mà nên làm ở một nơi chung chung khác, sẽ dễ ẩn mình đểtự do nghiên cứu hơn.
Trước đó thời Liên Xôtheo chúng ta là sa vào chủ nghĩa xét lại, sách vở khoa học xã hội cũng bị cấmđoán như vậy. Cũng may là các sinh viên Việt Nam sang Liên Xô học thường cũngkhông biết rộng ra ngoài phạm vi nhà trường dạy mình, mà chỉ tiếp thu cái phầnbảo thủ trong các tài liệu của Xô Viết, nên ở đây không xảy ra những bi kịchđáng kể lắm. Chỉ có một lần nhà nghiên cứu điện ảnh Mai Luân nhắc lại một luậnđiểm của ông thầy Nga về khả năng ‘phá vỡ logic cuộc sống’ thì lập tức bị nhàmác – xít cổ điển Trường Chinh phê phán cho một trận, thế là cạch hẳn.
PGS Đặng Anh Đào tôiquen vốn làm công việc nghiên cứu văn học phương Tây, nhưng rất am hiểu văn họcViệt Nam từ những năm tám mươi có chuyển sang viết về văn học đương thời, sauđã trở thành một thành viên Hội nhà văn. Chị Đào có lần nhận xét về ông HữuThỉnh phụ trách Hội nhà văn chúng tôi, sao ông này có quan điểm rất lạ, ngườiPháp người ta cho sách thì chỉ nhận sách cổ điển, còn sách hiện đại thế kỷ XX thìnhất định không nhận. Tôi phải nói ngay với chị Đào rằng cái lối này đã có từthời của nhà văn kiêm nhà trí thức số một của giới văn nghệ thời ta là ôngNguyễn Đình Thi. Hồi chống Mỹ, Pháp họ vẫn cho Hội nhà văn sách rất đều. ÔngThi nhận nhưng giao cho bà Huệ giữ thư viện – cũng tức là vợ nhà văn Bùi Hiển-- cất kín trên gác, chỉ khi có lệnh của ông Thi bà Huệ mới được phép cho mượn.Nói tóm lại, cái xu hướng tự cách ly hẳn với thiên hạ, cái đó vốn là chủ trươngcủa những người phụ trách mãi bên trên, và đã kéo dài lâu quá, gây nên baonhiêu tật bệnh.
Từ sau 1986, sự tiếpnhận tư tưởng khoa học xã hội phương tây được sự tiếp nhận kinh tế hỗ trợ nênkhộng khỏi tạo áp lực khiến cấp trên có phần bắt buộc phải có cái nhìn cởi mởhơn. Nhiều quyển sách quan trọng của khoa học xã hội Mỹ Anh Pháp Đức...đượcgiới thiệu để dịch ở ngay cơ quan xuất bản chính thức của nhà nước. Bộ phậnquản lý không dễ từ chối, nhưng vẫn tìm ra cách đối phó riêng. Chỉ cho in ranhững gì ta đã phần nào kiểm soát được. Thông thường chỉ cho in với số lượngrất ít và có khi in xong không giới thiệu rộng rãi cất ngay vào kho để hạn chếphổ biến. Các tác phẩm động chạm đến các vấn đề cụ thể của Việt nam càng đượcsoi xét kĩ lưỡng, có nhiều quyển, những đoạn quan trọng thì bị đục bỏ hoặc bịgiải thích lại theo ý muốn chủ quan của cơ quan xuất bản Việt Nam.
Mặc dầu vậy, ở các cơsở xuất bản của các nganh nghề và các địa phương, những người làm công việcgiới thiệu các tài liệu khoa học xã hội nước ngoài vào Việt Nam vẫn tìm cáchlen lỏi để có thể đưa được những tác phẩm mà họ thấy là cần thiết cho đất nướctrên con đường gia nhập vào thế giới hiện đại. Việc này hết sức khó khăn và dễgây ra tai vạ, phải mưu mẹo lắm mới có thể đưa ra được những gì mình muốn.
Trong tình hình ấy,việc nhà xuất bản Tri Thức in ra được hàng loạt sách khoa học xã hội có giá trịcổ điển, hoặc cập nhật những tài liệu mới nhất gây ra tranh cãi ở nước ngoài,nhất là cho dịch được những tác phẩm sát sao với tình hình Việt Nam, với nhucầu đổi mới của Việt Nam - phải nói là một hiện tượng hiếm hoi.
Chúng ta cần ghi nhậnở đây, những cởi mở và quả quyết của GS Chu Hảo được sự đồng tình ủng hộ củatri thức trong và ngoài nước, nên mới đạt nhiều thành tựu như vậy.
Cái tinh thần sángtạo của nhà xuất bản Tri Thức sẽ được bộ phận tinh hoa trong trí thức cả nướctiếp tục, và dù bất cứ hoàn cảnh nào thì nó cũng không thể bị đảo ngược.
January 22, 2025
Trần Mạnh Hảo ((2014) Nhân chuyện người lính buồn trong thơ Văn Lê
Trước và sau tiểu thuyếtnổi tiếng : “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh, văn học dòng chínhthống của chế độ đương thời, chừng như chưa có tác phẩm nào dám dựng chân dungbuồn đau tới tận cùng của người lính chiến?
“Đườngra trận mùa này đẹp lắm”,câu thơ của Phạm Tiến Duật có thể đại diện cho hình ảnh người lính chiến đi vàochỗ chết trong văn học mà vui như tết, mà vỗ tay vỗ chân hát hò mê sảng hơntrúng số ! Rất lạ, năm 2013, nhàxuất bản Quân Đội Nhân Dân đã cho xuất bản tập thơ “ Vé trở về” của nhà thơ,nhà văn, nhà biên kịch điện ảnh, đạo diễn Văn Lê với hình ảnh người lính buồntừ A tới Z.
Người lính của thơ VănLê khác một trời một vực với người lính của Phạm Tiến Duật, khi anh được giấygọi đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu:“Anhnhìn con dấu đỏ tươi trên lệnh động binh
Lòng trống vắng như vòm trời không đáy
Cánh đồng ngơ ngẩn buồn
Anh cũng ngơ ngẩn buồn trong váng nắng chiều sót lại”
Quê hương người línhkhông phải là thiên đường xã hội chủ nghĩa như tuyên truyền, mà là một cảnhloạn lạc, bi ai, tráo trở, buồn thương của đám tang cha mẹ:“Rắnrết trong hang bò ra đầy ngõ
Náo loạn làng quê chó sủa
Náo loạn bầu trời vẩn vũ chim bay
Cuộc trở mình của tự nhiên diễn ra giữa ban ngày
Mọi trật tự bỗng nhiên gãy đổ
Sông suối thay lòng đổi dạ
Cuộc đưa ma tại làng quê nhức nhối tiếng gọi hồn”
Người lính trong thơ VănLê ra trận trong nỗi buồn sầu thảm :“Đồngchiều ngơ ngẩn buồn
Anh ngơ ngẩn buồn bước về quá khứ
Ở đâu đó giữa hoang vu chợt cất lên tiếng thánh ca âm u khổ sở
Âm u khổ sở tiếng thánh ca của muôn loài sinh vật tiễn đưa anh”
Hãy nhìn hình ảnh ngườiem gái cô đơn tiễn anh ra trận:‘Emgái anh
Dáng như bà già
Khoác chiếc áo tơi mỏng manh như món đồ dễ vỡ
Nó đứng chờ anh ở ngay đầu ngõ
Miệng cười lóe vệt trăng non”
Và người lính ấy mangnỗi buồn vô tận vào cuộc chiến để chết buồn như chiếc lá :“Câuchuyện về người lính hy sinh buồn như lá thu bay”
Các anh đã chết cho cáigì vậy :“Nhữngnăm chiến tranh đất nước gieo neo
Giấy báo tử về làng như lá rụng
Khủng khiếp nhất là phải làm người sống
Sáng mở mắt ra đã nơm nớp trong lòng”
Hãy đọc tiếp niềm đaubuồn của thơ Văn Lê khi anh tả nỗi buồn cô đơn của cô em gái –người thân duynhất còn sót lại của người tử sĩ buồn:“Ngàyanh trai hi sinh bến nước bơ vơ
Cô chẳng còn ai mà chờ đợi nữa
Mọi trật tự trong cô sụp đổ
Cô lang thang cuối đất cùng trời
Xác xơ như bà lão ăn mày
Vô cảm như người điên ngoài chợ”
Cô gái đi tìm người anhđã chết trận như một người điên, trên quê hương điên, với những lý tưởng viểnvông điên dại ai mang đến lừa mị quê hương :“Nhữnghi vọng tìm anh sau chiến tranh
Tràn ngập trong cô như nước mùa tháng tám
Xé lòng cô như cánh đồng gặp hạn
Ăn mòn cô như nắng lột da người”Những người lính sinhBắc tử Nam , chiến đấu để giải phóng nhân dân, để xây thiên đường xã hội chủnghĩa ư ? Hãy nhìn đáp số cuộc chiến tranh chết hàng chục triệu người qua những dòng thơ Văn Lê viết về nỗi buồn lính :“Quêanh bây giờ lôm nhôm lam nham
Anh ngắm nhìn mà thương con mắt
Những bức tường đá xanh biến mất
Nhường chỗ cho những ngôi nhà mái bằng nép sát vào nhau
Cao thấp nhấp nhô như người bị chắt đầu
Chẳng tìm đâu ra những mái nhà đội nón
Cuộc sống dường như đảo lộn
Chẳng còn ai vướng bận đến quá khứ xa xưa
Có lẽ vậy nên làng anh bây giờ
Cuộc sống mất đi cái hồn cái vía…”Chao ôi, hàng triệungười lính đã chết trận để sau ngót bốn mươi năm, quê hương ta chỉ còn là cáixác không hồn? Những câu thơ Văn Lê bình dị, lắng đọng, sâu xa mà như một lờilên án bọn đầu nậu chiến tranh đã dùng máu mấy triệu người để làm cuộc buôn lớncó tên là cách mạng. Hãy nhìn xã hội tham nhũng vô phương cứu chữa, kẻ cầmquyền giàu có hóa thành tư bản để vô sản hóa nhân dân, tiếp tục cho nhân dân ănbả lừa thiên đường thiên điếc. Nhà thơ quân đội, nhà văn cách mạng, nhà biênkịch đạo diễn có hạng Văn Lê đã vượt lên trước đội hình nhà văn lề phải để lýgiải, để thúc giục nhân dân tỉnh ra sau khi bị ăn bả cách mạng thành ngớ ngẩn,thành mất trí :“LÀNGQUÊ U U MÊ MÊ
NGƯỜI TA NHƯ ĂN CHÁO LÚ”Cám ơn thi sĩ Văn Lê đãgọi sự vật bằng tên của nó, khi ông đanh thép tố cáo “trò lừa lý tưởng” cho dânăn cháo lú của những ông lú cầm quyền :“ Họ ( nhân dân –chúcủa TMH) lao ra bến sông bãi chợ
Giành giật miếng ăn của nhau
Chợ quê tràn ngập đồ Tàu
Chẳng thiếu thứ gì, ngoại trừ đồ thật !”Thật đau thương cho mộtnhân dân sau khi đã cống hiến hàng triệu con em làm vật hiến tế hi sinh cho cáccuộc chiến vì lợi ích ngoại bang như lời cố tổng bí thư Lê Duẩn từng nói : “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”, như lời thơ Tố Hữu : “Ta vìta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”…lại được trả công bằnghàng giả cả từ tinh thần đến vật chất thế này ư ?
Văn Lê lý giải hiệntượng làng anh tha hóa, mất hết hồn dân tộc, đang tan tác như đám gà gặp cáochỉ vì thờ sai thần, vào nhầm miếu:“CÓNGƯỜI BẢO DÂN LÀNG ANH NHƯ THẾ
ĐÃ VÀO NHẦM MIẾU LẠI CÚNG NHẦM THẦN”
Đọc đến đây, ai là ngườicòn tấm lòng với đất nước đều hiểu nhà thơ Văn Lê không chỉ nói làng anh, mànói dân tộc anh đã thờ nhầm thần Marx –Lenin, đã vào nhầm miếu cộng sản nên đấtnước mới thành ra tan nát thế!
Sau khi thống nhất đấtnước, Văn Lê rủ chúng tôi từ Sài Gòn ra Bắc về thăm quê hương (Hà Nam Ninh) saungót mười năm xa vắng. Chia tay ở thị xãNinh Bình cuối năm 1975, hai đứa chúng tôi vào một quán phở mậu dịch. Bát phở được bưng ra, chúng tôi cầm thìa lênmúc phở nhưng thìa chảy hết nước ra ngoài, không thể ăn được. Mọi người bảo haichú bộ đội từ chiến trường ra à, rằng thìa ở đây đã được cấp ủy duyệt cho cửahàng phở lấy đinh đục nát thìa ra lỗ chỗ như hố bom để cho nhân dân chúng nókhông còn ăn cắp thìa mang về nhà làm của riêng được nữa. Văn Lê ngồi khóc.
SàiGòn ngày 30 tháng tư năm 2014
January 13, 2025
Đào Duy Anh trong cảm nhận của Hà Văn Tấn (viết sau khi cụ Đào qua đời)
Nguồn
http://xuandienhannom.blogspot.com/20...
Các học trò quây quần bên Ông Bà Đào Duy Anh - Trần Thị Như Mân. Trong hình có các Giáo sư: Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Đinh Xuân Lâm, Lê Văn Lan.Trước mắt chúng tôi, những người học trò của ông, ông giống như một lâu đài đồ sộ mà mỗi chúng tôi chỉ nhìn thấy một phần trang trí nội thất qua một cánh cửa sổ. Cánh cửa đó, đối với tôi, là sử học.
Không! Ông không chỉ là nhà sử học. Chúng ta đã mất đi một nhà bách khoa, một nhà văn hóa lớn. Đóng góp của ông cho văn hóa dân tộc thật là lớn lao.
Những quyển Hán - Việt từ điển, Pháp - Việt từ điển của ông đã được thế hệ trước chúng tôi coi là những công cụ văn hóa thiết yếu đến kịp thời và được các nhà ngôn ngữ học hiện nay đánh giá là những đóng góp lớn vào việc xây dựng tiếng Việt hiện đại.
Và còn biết bao công trình khác về văn hóa và văn học từ những quyển sách trong Quan Hải tùng thư những năm 20 cho đến Việt Nam văn hóa sử cương, Khổng giáo phê bình tiểu luận, Khảo luận về Kim Vân Kiều… và gần đây hơn Sở từ, Khóa hư lục, Ức Trai thi tập, Từ điển Truyện Kiều… Trước mắt chúng tôi, những người học trò của ông, ông giống như một lâu đài đồ sộ mà mỗi chúng tôi chỉ nhìn thấy một phần trang trí nội thất qua một cánh cửa sổ. Cánh cửa đó, đối với tôi, là sử học.
Tôi đến với thầy Đào và sử học rất muộn. Mãi đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, hòa bình lập lại, năm 1955, tôi mới được làm sinh viên của ông, mới được nghe những bài giảng của ông ở giảng đường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được giữ lại làm tập sự trợ lý của ông, cùng với một số anh em khác. Được làm học trò của ông là một điểm may mắn trong đời chúng tôi. Những tác phẩm sử học của ông viết trước Cách mạng tháng Tám sau này chúng tôi mới có dịp đọc. Nhưng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, những quyển sử của ông in trên giấy đen, như Việt Nam lịch sử giáo trình (Phòng chính trị Liên khu IV xuất bản), đã đến tay chúng tôi. Có thể nói, ông đã gieo cho chúng tôi niềm say mê sử học từ ngày đó.
Trong các sách ông viết trong thời kháng chiến chống Pháp, có một cuốn mỏng, có tên là Muốn hiểu sử học, in ở Thái Bình năm 1950. Quyển sách có ba phần: 1 - Đối tượng và công dụng của sử học; 2 - Quan niệm lịch sử và 3 - Phương pháp của sử học. Chỉ vẻn vẹn có 38 trang, thế mà trong đó ông đã trình bày khá đầy đủ học thuyết Mác về lịch sử.
Ông đã viết: “Thuyết duy vật sử quan là thuyết duy vật biện chứng của Các Mác áp dụng vào địa hạt lịch sử… Khác với quan niệm duy tâm cho rằng lịch sử là sự nghiệp các bậc vĩ nhân anh hùng hoạt động theo ý chí riêng của mình, quan niệm duy vật cho lịch sử là sự nghiệp của con người trong tập đoàn, do điều kiện sinh hoạt trong tập đoàn hạn định.
Các Mác nói: “Chính con người làm nên lịch sử của mình nhưng không phải làm một cách độc đoán mà phải tùy thuộc những điều kiện đã định và thừa hưởng ở quá khứ…”
Quyển sách còn dành nhiều trang cho phương pháp sử học, mà ông chia ra các bước như sưu tầm sử liệu, giám định sử liệu, trần thuật và thuyết minh sử tự. Ở đây, ông đã tiếp thu có phê phán phương pháp của các nhà sử học Lăng - gloa và Xen - nhô - bốt mà ông cho rằng “phải bổ khuyết bằng phương pháp lịch sử duy vật”. Ông rất chú ý đến lịch sử kinh tế và đặc biệt là lịch sử văn hóa. Quyển Việt Nam văn hóa sử cương viết năm 1938 là bộ sử toàn diện đầu tiên về văn hóa Việt Nam. Đáng tiếc là cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một quyển lịch sử văn hóa Việt Nam khác: do vậy, công trình của ông vẫn là độc nhất. Ông không chỉ là người có công tham gia mở đầu cho nền sử học mới mà còn là người vun đắp, xây dựng không biết mệt mỏi cho nó. Sau ngày hòa bình lập lại, ông đã viết Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XIX), hai tập Cổ sử Việt Nam, Lịch sử cổ đại Việt Nam (bốn tập).
Sách của ông đã được dịch ở Liên Xô và Trung Quốc. Đồng thời ông chú tâm đến việc công bố các sử liệu Việt Nam quan trọng. Ông đã để công hiệu đính bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Phủ biên tạp lục… Mặt khác, ông đã góp phần to lớn vào việc đào tạo đội ngũ các nhà nghiên cứu sử học hiện nay. Ông dạy chúng tôi bằng tấm gương lao động nghiêm túc của ông. Vì ông là một bác học, ông muốn chúng tôi cũng hiểu biết thật nhiều.
Và do đó, ông buộc chúng tôi phải học rất nhiều. Ông là người đã khuyên chúng tôi học tiếng Nga và các cổ ngữ Phương Đông. Ông đã nói: “Không thể hiểu văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, anh không thể nào hiểu đầy đủ văn hóa Việt Nam!”.
Ông thường đặt yêu cầu rất cao đối với các học trò của mình. Khi bắt đầu làm trợ lý cho ông, tôi mới 20 tuổi, ông đã giao cho công việc chú thích Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Tôi đã hoàn thành công trình này nhờ sự chỉ bảo ân cần của ông.
Tri thức về địa lý lịch sử của ông thật uyên bác. Chúng ta đều biết đến các tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời của ông. Trong công tác sử học, ông đặc biệt chú trọng việc giám định sử liệu. Cũng nhờ ông mà tôi hiểu biết chút ít về sử liệu học, văn bản học.
Trong khi nghiên cứu lịch sử cổ trung đại Việt Nam, ông đã kết hợp chặt chẽ nguồn sử liệu chữ viết với nguồn sử liệu khảo cổ. Ông đã viết về văn hóa Đông Sơn, đã nghiên cứu trống đồng. Ông là người mở đường cho chúng tôi đến với khảo cổ học. Tất nhiên là ông không dừng lại ở các sử liệu và các sự kiện.
Ngay trong Muốn hiểu sử học, ông đã viết: “Sử học không phải chỉ là hồi phục những sự trạng đã qua để cho người ta thấy được các trạng thái sinh hoạt của người xưa, mà còn phải xét rõ ngọn gốc bày rõ lai lịch và tìm hiểu đường lối tiến triển của các sự trạng, để cuối cùng tìm ra những quy luật đã chi phối sự biến thiên của các sự trạng, tức sự diễn tiến của các quá trình lịch sử”.
Ông luôn luôn nhắc nhở chúng tôi tìm mối liên hệ giữa các sự kiện trong nghiên cứu khoa học. Đó là bài học quý báu mà chúng tôi nhận được từ ông. Mấy hôm nay, tôi đang viết một tài liệu về Phật giáo thời Lý Trần. Trước mặt tôi luôn luôn có tập Khóa hư lục mà ông đã dịch. Tôi đã đọc đi đọc lại câu thơ của Tuệ Trung luận về sự sống chết của con người, mà ông dịch là: Người ngu đảo ngược sợ sống chết, Người trí nhìn thấu xem thoải mái, Ấy thế mà vẫn vô cùng đau đớn khi nghe tin thầy Đào ra đi, dẫu biết rằng, sự nghiệp văn hóa của thầy là bất tử.
GS. Hà Văn Tấn
Nguồn: Bee.
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
