Vương Trí Nhàn's Blog, page 67

March 19, 2015

Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

Bài này lần
đầu in trên tạp chí Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số ra tháng 7-2005,
dưới nhan đề Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây
ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
.

 Bản
đăng trên talawas ngày 2-8-2005 có khôi phục lại một số đoạn mà Nghiên
cứu văn học 
tước bỏ, và ghi rõ thời điểm bài viết hoàn thành: 1992.

Sau đó có một
lần nữa chị Thụy Khuê đã giúp đưa lên mạng ở địa chỉ

 vuongtrinhan.free.fr/baiviet/phamquynh.html.






Bài cũng đã được đưa vào cuốn Vương Trí Nhàn Phê  bình & tiểu luận, nxb Hội nhà văn 2009.

Nhưng đây là
lần đầu nó được giới thiệu trên blog của cá nhân tác giả.






I. 




Từ Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Lộ Trạch qua Phan Chu Trinh và các nhà nho hoạt động cho Ðông Kinh Nghĩa
Thục, trong giới trí thức  thường gọi là các sĩ phu  của nước ta cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, thấy nổi lên một loạt người có cách nhìn khác đi so với cách
giải quyết thông thường các vấn đề xã hội.

 Họ cũng yêu nước; trước hoạ diệt
vong, họ cũng muốn nhận lấy trách nhiệm với đất nước. 

Song, xem xét kỹ tình
hình xã hội đương thời, họ cho rằng cứu nước trước tiên không
phải là lập nên lực lượng vũ trang tổ chức kháng Pháp mà cần “cường dân hoá
quốc”, đưa nước ta hưng thịnh theo mẫu hình xã hội phương Tây, sau đó thì
công cuộc cứu nước cực kỳ quan trọng kia mới có cơ thực hiện.




Khi quan niệm như vậy,
một số nhà nho ấy - những người  cho rằng  cái tư tưởng nhật tân, nhật nhật tân, hựu
nhật tân
mới là tinh hoa cao qúy nhất của đạo Nho -- quả đã trải qua một cuộc đột biến trong suy nghĩ.

Song, trong trường hợp
này, sự nhạy cảm đã mách bảo họ khá chính xác, trí tuệ của họ tìm ra một định
hướng hợp lý khiến cho lòng yêu nước có được sức sống, lại mang sắc thái khá
hiện đại.

 Nói gọn lại là họ
đã đúng!


Hãy thử nhìn vào sự
chuyển biến của xã hội Việt Nam trong lịch sử: nếu đem xã hội cuối thế kỷ
XIX và một vài năm đầu tiên của thế kỷ XX  đó, so sánh với chính nó những năm 30-40
(và không quên quy định rõ với nhau rằng chỉ xét sự vật thuần tuý mà không đếm xỉa
đến những nguyên nhân khách quan, chủ quan, các loại tác động bên trong và bên
ngoài v.v...), người ta sẽ ngạc nhiên thấy giữa đôi bên có một khoảng cách xa
thẳm.

Một sự thay đổi ghê gớm
đã đến với xã hội này, chẳng khác chi một con người đổi thịt thay da, hoặc một
cỗ máy được tháo ra và lắp lại theo kiểu khác.

 Từ góc độ của kẻ
đứng ngoài - trong trường hợp này là kẻ cầm đầu cơ quan cai trị - vào năm 1928,
toàn quyền P. Pasquier đã khái quát bằng hình ảnh “Tôi từng biết nước Nam hồi
còn đi võng, nay xem ra như đã muốn lên tàu bay rồi
“ (Nam Phong. Số 127,
1928; tr. 216).

Hơn chục năm sau, tức là
qua năm 1942, trong bài mở đầu cho Thi nhân Việt Nam 1932
41
, với tư cách một người trong cuộc, Hoài Thanh sẽ viết về một nước
Việt Nam kỳ lạ:




Chúng ta ở nhà tây, đội
mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa,
xe đạp (...). Nhưng cuộc Âu hoá không phải chỉ có thế. Nó đã đi qua hai giai
đoạn: hình thức và tư tưởng; nó còn phải đi qua một giai đoạn nữa. Nó đã thay
đổi những tập quán sinh hoạt hàng ngày, nó đã thay đổi cách ta vận động tư
tưởng, tất nó sẽ thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa (...) Phương Tây bây
giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta
“ (Hoài Thanh, tr. 18). [1]




Sự vận động như vậy đã
rõ, phương hướng lại càng rõ. 

Trước khi nhà văn hoạt kê Vũ Trọng Phụng cho Xuân
tóc đỏ mang hai chữ Âu hoá ra đùa giỡn, thì suốt một thời gian dài, nó đã là
điều ám ảnh, tức yếu tố chi phối mọi hành động của bao người.

Sở dĩ nó, cuộc Âu hoá
ấy, có thể diễn ra, và bất chấp mọi giá (ngay trong máu và nước mắt, trong chán
chường và uất hận), vẫn diễn ra, bởi lẽ rộng hơn suy nghĩ của một hai người có
đầu óc sáng suốt, và rộng hơn một phong trào vận động, nó là nhu cầu bức bách của cả xã hội.

Chẳng phải bốc đồng mà
Phan Chu Trinh, trong thư gửi toàn quyền Pháp từng kêu lên về tình trạng suy
đồi của đời sống tinh thần trong dân ta lúc bấy giờ:

 “Giả phỏng chính phủ
cho mượn dăm ngàn khẩu súng cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ
muốn làm gì thì làm, chỉ độ dăm năm, thật là báo thù lẫn nhau cho chết hết mới
thôi, quyết không thể sống nổi trong cái thế giới này, lại còn chống cự được ai
nữa?
“ (Dẫn theo Ðặng Thai Mai tr. 251).

Ý Phan Chu Trinh muốn
bảo, trong hoàn cảnh ấy, không canh tân đất nước đi, thì có độc lập cũng vô
nghĩa.

 Theo lô - gích mà
suy, rõ ràng giữa hai nhiệm vụ là đánh Pháp và mở mang
dân trí
, cái thứ hai nếu không cấp bách hơn thì cũng quan trọng ngang với
cái thứ nhất.




 Có điều, cũng từ
đây, khía cạnh bi đát của lịch sử bắt đầu bộc lộ.

Biết bao người có tâm,
có chí, có hiểu biết song bởi chỗ chỉ chăm chăm lo việc trước mắt, hoá ra manh
động, trước sau không tránh được thất bại. 

Trong cuốn Sự phát triển của
tư tưởng ở Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám 
tập II với
tiêu đề cụ thể Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm
vụ lịch sử
, Trần Văn Giàu xác nhận: 

Những tổ chức cách mạng yêu nước không
hề đặt vấn đề điều hoà văn hoá Ðông phương và Tây phương, chỉ nghĩ rằng đi vào
văn hoá là xa rời yêu nước
” (Trần Văn Giàu, tr. 529).

 Chủ ý của ông là muốn đưa
ra để khen ngợi, song chúng tôi tưởng, nếu đúng như thế, thì đây lại là
lời cắt nghĩa đúng đắn bậc nhất về thất bại của những người yêu nước đương thời
(xin lưu ý tôi nói những người yêu nước đương thời, tức là thời mà xã hội Việt
Nam chưa được nhào nặn lại theo hướng Âu hoá, chứ không phải những người yêu
nước mọi thời khác).




Trong khi ấy, có những
kẻ lâu nay thường được lịch sử ta coi như bọn phản bội, đặt cược cả đời mình
vào việc cộng tác với ngoại bang, tối thiểu cam chịu một bề, đầu hàng hoàn
cảnh, cốt sống và tồn tại, song, suy cho cùng, họ rất gần gũi với cách hiểu của
Phan Chu Trinh nói trên về tình trạng đất nước, cũng như cách vượt ra khỏi tình
trạng tệ hại đó.

Khách quan mà xét họ có
đóng góp vào việc thúc đẩy cho sự nghiệp canh tân.

Việc đánh giá các nhân
vật lịch sử bao giờ cũng phải rất cụ thể. 

Giữa những người cùng làm một việc,
động cơ chi phối chưa chắc đã giống nhau; giữa những người cùng ý nghĩ, có khi
lịch trình hành trạng lại trái ngược và sẽ được thông cảm ở mức độ khác nhau.

Tuy nhiên nếu được phép
quan niệm rằng với xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nhu cầu canh tân
- với tư cách là bước đầu tiên đi đến cứu nước - là một nhu
cầu có thật
, thì người ta sẽ dễ dàng độ lượng và có cái nhìn phải chăng hơn
với nhiều người, trong đó có một nhân vật lịch sử mà lâu nay thường được quy là
đầu sỏ tội trạng, song thực tế lại đã làm được khá nhiều việc có ích trong
nghiên cứu, giới thiệu và dịch thuật văn hoá phương Tây vào Việt Nam, cũng như
trong việc hướng văn hoá Việt Nam hoà nhập vào văn hoá thế giới nói chung. 

Người đó là nhà văn Phạm Quỳnh (1892-1945).







II.

Theo nhà sử học Nhật
Tsubôi thì một trong những đòi hỏi cấp bách nhất đặt ra với nhiều nước ở phương
Ðông hồi cuối thế kỷ XIX là phải “tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một
kiểu tư duy khả dĩ thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành trướng của phương
Tây”.

 Và để đáp ứng đòi
hỏi đó, ở Nhật Bản người ta đã đưa ra khẩu hiệu “Hoà hồn dương tài”, ở Triều
Tiên có “Ðông đạo tây khí”, ở Trung Quốc có “Trung thể tây dụng”. 

Bằng cách
diễn tả khác nhau, các khẩu hiệu đó có phần cốt lõi giống nhau: đó là những cố
gắng của trí thức mỗi nước nhằm tìm cách hoà hợp văn hoá Ðông -Tây và tạo cho
đất nước một sự thích ứng với hoàn cảnh (Tsubôi, tr. 184-185).




Trong khi đó ở Việt Nam
thì sao?

 Một mặt đúng như
nhà sử học Nhật đã nhận xét “do chỗ Việt Nam (...) bảo thủ hơn các nước theo
Nho giáo khác”
, - ở Việt Nam đã không thấy có một khẩu hiệu tương tự. Và đây
chính là một trong những lý do khiến đất nước ta rơi vào tay bọn xâm lược, còn
xã hội thì trượt dài trong một cuộc khủng hoảng tồi tệ.

Mặt khác, nên nhớ rằng
một trong những đặc điểm của văn hoá Việt Nam là thói quen dung hoà,
tức là khả năng chấp nhận những ảnh hưởng xa lạ với mình, thích ứng với hoàn cảnh
mới để tồn tại (Có người đã hỏi giáo sư Hoàng Xuân Hãn “Có thể đó là một
trong những lý do làm nên sự sống còn của Việt Nam?
”, ông đã trả lời “
thể lắm
” - tư liệu do nhà sử học Trần Quốc Vượng cung cấp).




Bởi vậy, tuy không có
những khẩu hiệu rõ ràng tức là không được đưa lên phương diện ý thức, song sự
tiếp nhận văn minh phương Tây vẫn cứ ngấm ngầm xảy ra, dần dà tự phát mà xảy
ra. 

Cái tinh thần thấy ở các khẩu hiệu nói trên ở Nhật Bản, ở Trung Hoa, vẫn là
điều được thực hiện ở Việt Nam. 

Những nỗ lực “tuỳ tâm Âu hoá” khởi đi từ các
nhà nho trong Ðông Kinh Nghĩa Thục và Phan Chu Trinh, đến những năm sau, càng
được nhiều người thấy là phải và thành tâm tin theo.

Nói như Trần Văn Giàu
Tư tưởng về sự điều hoà đạo đức phương Ðông với khoa học phương Tây để tạo cho
Việt Nam một lớp thượng lưu mới, tạo cho Việt Nam điều kiện đi tới phú cường -
tư tưởng đó trong những năm 20 và 30 khá là phổ biến trong các báo chí chứ
không riêng gì trên Nam Phong
“ (Trần Văn Giàu, tr. 526).




Thế chỗ bắt đầu của tâm
thức “kết hợp Ðông- Tây”, “thổ nạp Âu Á” này là gì?




Có một khái niệm cơ bản,
một khi có được nhận thức mới về nó, người ta sẽ hiểu đúng hơn thực chất các
vấn đề xã hội do đó có một phương hướng hành động đúng: Ðó là khái niệm văn
hoá.

Những người có quan tâm
đến lịch sử Việt Nam đều biết rằng ngay từ thế kỷ XV, trong Bình Ngô
đại cáo
, Nguyễn Trãi đã nói đến văn hoá:




Như nước Ðại Việt ta từ
trước


Vốn xưng nền văn hiến đã
lâu


Sơn hà cương vực đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng
khác





Cho đến cuối thế kỷ XIX,
trong đầu óc các nhà nho, văn hoá vẫn được hiểu như vậy. Có cương vực bờ cõi
riêng, phong tục tập quán riêng, tức chúng ta đã có văn hoá riêng. Chắc chắn
không có gì đáng phải phàn nàn về nền văn hoá đó. 

Hơn nữa, nó - nền văn hoá ấy
- đủ mạnh đến mức có thể là yếu tố cố kết mọi người lại, lôi cuốn họ vào cuộc
chiến đấu cứu nước, cho đến khi lấy lại được đất nước.




Tiếc thay, điều đã đúng
trong các thế kỷ trước, đến nay không đúng nữa.




Mặc dù vẫn nhân danh văn
hoá (theo nghĩa rộng), nhân danh hùng khí đất nước để chiến đấu, song các cuộc
khởi nghĩa Cần vương trước sau không tránh được thất bại.




Tại mệnh trời chăng? Lúc
đầu nhiều người chỉ nghĩ có vậy. Song lẻ tẻ, bắt đầu có người ngờ rằng sở dĩ
chúng ta thất bại, vì cuộc sống ở xã hội ta quá trì trệ, dân trí ta thấp, trong
đó có sự hiểu biết của ta về thế giới quanh ta đơn giản nghèo nàn cũ kỹ dẫn đến
tình trạng có sự tách rời giữa nước ta với thế giới. 

Vậy là tại văn hoá .

 Nếu cứ
để như cũ, nền văn hoá đã là lý do của mất nước lại sẽ trở thành vật cản trong
công cuộc cứu nước. Dù sâu cây bén rễ đến đâu, nền văn hoá đó cũng phải được
làm lại. 

Phải nói rằng trước lớp trí thức Tây học khá lâu, các nhà nho đã có
người nghĩ như vậy. 

Song với lớp trí thức trẻ hơn (sản phẩm của quá trình Âu
hoá do sự áp đặt cưỡng bức của thực dân Pháp) thì các ý nghĩ đó mới được đẩy
đến cùng. Ðến lượt mình, Phạm Quỳnh sẽ có dịp nhấn mạnh điều đó thật đầy đủ khi
phác ra bức tranh toàn cảnh của cả khu vực phương Ðông lúc ấy:




Cái nông nỗi mất nước
của ta chính là một tấn kịch nhỏ trong tấn kịch Ðông - Tây xung đột nhau. Tây
phương đem lại cái chủ nghĩa đế quốc, cái dục vọng bá quyền, những tư tưởng phá
hoại những cơ khí tối tân mà tràn ngập sang Ðông phương trong khoảng một thế kỷ
nay, làm cho các dân tộc Ðông phương thất điên bát đảo bảy nổi ba chìm đến nay
hãy còn tê mê chưa tỉnh sự đời. Thành ra cái nông nỗi ấy đối với ta không phải
chỉ là một vấn đề chính trị mà thôi, lại kèm thêm một vấn đề văn hoá nữa, khó
khăn nguy hiểm vô cùng
.”




Phạm Quỳnh đã viết như
vậy trong bài Văn hoá và chính trị in ở tạp chí Nam Phong số
107, năm 1926. 

Và Phạm Quỳnh còn trở đi trở lại với cái ý ấy trong nhiều bài
viết lớn nhỏ khác nữa, bao gồm từ những bài quan trọng, trình bày chính kiến,
hoặc kiểm điểm thành tựu của Nam Phong, cho tới các đoạn văn ngắn,
nhân chuyện thời sự mà bàn thêm việc chung (ông gọi là mục Thời đàm ).

 Trong những phát
biểu như vậy, tác giả đã làm một cuộc đảo lộn trong quan niệm, bởi đã dám trao
cho văn hoá một sứ mệnh lớn, trực tiếp liên quan đến sự sống còn của đất nước. 

Mối phản cảm đã đến rất nhanh với người đương thời. 

Làm sao mà việc mất nước
lại do văn hoá được? Do quen sống trong một hệ giá trị khác, làm sao các nhà
nho khỏi bị sốc khi phải nghe một kiểu ăn nói nghĩ ngợi khác hẳn mình như vậy?! 

Trong cảnh bất lực vì không làm cách gì để đuổi bọn cướp nước đi được, bấy lâu,
điều làm cho họ cảm thấy được an ủi, là thực ra, bọn cướp nước kia là man di
mọi rợ, ta cao hơn chúng, và mặc dù bị thua, song ta vẫn không thèm dùng đồ của
chúng, đi xe của chúng... 

Nay thì tinh thần bài ngoại ấy - một thứ chủ nghĩa
yêu nước thẳng tay từ chối mọi nền văn hoá khác lạ
- hình như không có cơ đứng
vững nữa, làm sao mà họ chịu nổi!



Thế còn đối với các nhà
Tây học, liệu có thể nói quan niệm đó của Phạm Quỳnh về văn hoá, là quan niệm
có tính chất chính thống và phổ biến trong lớp trí thức trẻ đương thời? 

Cũng
không hẳn. 

Trong số những người cộng tác với thực dân Pháp lúc ấy không thiếu
gì kẻ bị ngợp trước nền văn minh mới, hoàn toàn chối bỏ nền văn hoá truyền
thống của dân tộc. Có gì chung với đám người ấy thì chung, riêng chỗ này Phạm
Quỳnh không chịu!

 Khi thuật lại chuyện du lịch ở Paris trước 1.500 người nghe,
ông không khỏi tự hào “báo cáo” với thính giả rằng mình đã dám nói ngay ở
Paris, trước Viện Hàn lâm Pháp:




“Nước Việt Nam là một
nước cổ, vốn đã có một nền văn hoá cũ nhưng văn hoá cũ ấy ngày nay không thích
hợp với thời thế nữa, cần phải thâu thái lấy văn hoá mới đời nay mới có thể
sinh tồn được trong thế giới bây giờ”.





Ông yêu cầu nhà nước bảo
hộ phải có, trên phương diện văn hoá, mà cũng tức là trên phát triển của xã
hội, một chính sách sáng suốt:




“Nếu dân Việt Nam là một
dân tộc còn mộc mạc cổ lỗ, chưa có nền nếp chưa có lịch sử, thì quý quốc cứ
việc hoá theo Tây cả (...) đồng hoá được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay
dân Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là
một tập giấy đã có sẵn từ đời nào đến giờ rồi, nếu bây giờ viết đè một thứ chữ
nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất.”
(Thượng Chi văn tập, tr. II ,
tr. 215)




Với một cách nhìn chi
tiết và cẩn trọng, văn hoá dân tộc với Phạm Quỳnh hiện ra như một cái gì đa dạng. 

Nó là một thực thể có thật, không ai có thể gạt bỏ. 

Nó đã ăn vào máu thịt mỗi
chúng ta, thậm chí là một gánh nặng, mãi mãi chúng ta phải mang. 

Song trong
gánh nặng ấy, lại thấm thía bao nhiêu mồ hôi nước mắt của tiên tổ cha ông, lại
in dấu bao vui buồn của mỗi kiếp người! Bởi vậy, tốt hơn hết là hãy đến với cái
bản chất thứ hai ấy của ta với một thái độ hết sức thân tình, vừa tha thiết,
vừa tỉnh táo, vừa vui với nó bằng lòng với nó, vừa biết rằng ở đó có những chỗ
yếu, những khuyết tật. Tinh thần phê phán - vốn là đặc trưng của văn hoá phương
Tây - có mặt trong từng nhận xét nhỏ nhất của Phạm Quỳnh để rồi giúp ông đi tới
một tinh thần cởi mở và một thái độ chân thành trong tiếp nhận. 

Không chỉ mang
lại cho sự tiếp nhận đó một ý nghĩa một lý do tồn tại, ông còn đề ra cho  những
bước đi và mang lại cho những người làm việc cụ thể một sự động viên, một niềm
an ủi.




Bằng con mắt của con
người Việt Nam ở cuối thế kỷ XX, với mặc cảm tự tôn hình thành và tiếp nối
trong nhiều thế hệ, ngày nay đọc lại Phạm Quỳnh, chúng ta dễ có cảm tưởng trước
người nước ngoài và văn hoá nước ngoài, ông chủ bút Nam Phong có
phần học trò, quá đề cao và tôn sùng một chiều. 

Song, nếu nhớ lại rằng vào thời
của Phạm Quỳnh, nền quốc văn mới - rộng hơn, cả nền văn hoá mới, những nếp sống
mới - còn đang ở dạng sơ khai, thì chúng ta sẽ thông cảm với ông hơn. Hoặc hãy
nhìn sang nước Nhật, cách người Nhật nhìn nhận và cách học của họ trước văn hoá
nước ngoài, chúng ta sẽ thấy trong những gặp gỡ ban đầu, sự trân trọng là cần
thiết đến như thế nào.




Tóm lại, trước khi tiếp
nhận và đồng thời với việc tiếp nhận, Phạm Quỳnh đã giải quyết một số vấn đề
giống như cơ sở lý thuyết.

1.    
Thế nào là văn hoá 

2.    
Thực chất của văn hoá
dân tộc 

3.    
Mối quan hệ giữa văn hoá
và thực trạng đất nước, giữa việc mở mang văn hoá và công cuộc cứu nước. 

4.    
Tính cấp bách và thái độ
cần thiết khi tiếp nhận.




Ðây là những định hướng
quan trọng mà thiếu đi, sự tiếp nhận văn hoá phương Tây không thể thực hiện một
cách tương đối ổn thoả như nó đã được thực hiện. 

Trong sự bình tĩnh của con
người sống ở cuối thế kỷ XX đầu XXI, chúng ta có dịp nhận thấy những thành tựu
của giai đoạn văn hoá tiền chiến, là khá rực rỡ, có lẽ là thuộc loại rực rỡ bậc
nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng tất cả đã được gợi mở từ nhiều năm trước khi
những người như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Tản Ðà... mới đào
móng xây nền.







III.

Chẳng những có phương
hướng đúng đắn, có quan niệm khá chính xác về công việc, Phạm Quỳnh còn bắt tay
vào làm, tức mang đến cho sự tiếp nhận văn hoá phương Tây những đóng góp cụ
thể. 

Trong khi hô hào mọi người nên như thế nọ nên như thế kia, đồng thời Phạm
Quỳnh không quên phần việc của mình. Với sự thông minh hiếm có và thói quen làm
việc siêng năng, ông thật đã hoàn thành một khối lượng công việc khổng lồ mà
người đương thời và các thế hệ sau phải kính phục.




Ðể có một ý niệm sơ bộ
về công việc mà Phạm Quỳnh đã làm, người ta chỉ cần giở qua tạp chí Nam
Phong
, thậm chí một cuốn bản đồ thu nhỏ của nó, như cuốn Mục lục
phân tích tạp chí Nam Phong 1917-1934
 của L. M. Nguyễn Khắc Xuyên in ở
Sài Gòn 1968.

Ở mục Triết học Tây phương, trong vòng 17
năm, Nam Phong in 14 bài thì riêng Phạm Quỳnh đã viết 11
bài. 
Ở mục Xã hội ngoại quốc, hai con số đó là
13 và 9. 
Ở mục Chính trị ngoại quốc: 18 và 15. 
Ở mục Giới thiệu văn học các nước: 15 và
12. 
Ở mục Giới thiệu văn học Pháp: 39 và
34. 
Ở mục Truyện dịch Pháp: 26 và 15.





Với ba bút hiệu khác
nhau (Phạm Quỳnh, Thượng Chi, Hồng Nhân), ông đã “thi công” ngòi bút ở đủ các
thể loại: viết có, dịch có, lược thuật có, khảo cứu có. Chỉ trừ thơ là ông
không dịch (hoặc không định dịch như một nhà thơ), ngoài ra, thấy cái gì hay,
cái gì cần kíp với đời sống trong nước Phạm Quỳnh lập tức tìm cách chuyển nó
sang tiếng Việt nghĩa là khoác cho nó bộ y phục dân tộc. 

Vừa bao quát lịch sử,
ông vừa chú ý các vấn đề đương đại của văn học. 

Vừa làm các việc tương đối lâu
dài theo hệ thống đã định, ông vừa có sự phản ứng linh hoạt, năng nổ thu vén
nhặt nhạnh, không chịu bỏ rơi bỏ sót cái gì.

Có thể là ngòi bút dịch
thuật của Phạm Quỳnh không thật tài hoa, nhưng theo một người thạo tiếng Pháp
và cũng hay bắt bẻ như Vũ Ngọc Phan, thì các đoản thiên tiểu thuyết được ông
chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Việt một cách vừa có duyên vừa sát nghĩa, còn
văn khảo cứu của ông chứng tỏ tác giả là “một người có cái học vừa sâu sắc vừa
quảng bác”. 

Ngày từ 1933, trong Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn đã
ghi công cho Phạm Quỳnh “Những công trình về văn học, triết học của Âu châu và
nhất là của nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng
thật hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả, lại vừa lựa theo cái
giọng điệu của quốc văn” (Thiếu Sơn - tr. 19).




Hơn chục năm sau,
nhóm Thanh Nghị còn đưa ra những nhận xét khái quát hơn. 

Trong
bài viết mang tên Nay và mai in trên Thanh Nghị số Tết 1944,
Ðinh Gia Trinh cho rằng trong sự kết hợp Ðông Tây, chính thái độ Nam
Phong
 là ôn tồn và phải chăng hơn cả.

 Qua thời Tự lực, vẫn
theo Ðinh Gia Trinh, người ta “đột ngột đi tới sự khinh miệt cái di sản tinh
thần của nước nhà sự ca tụng quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại
(thời kỳ Phong hoáNgày nay)”.




Về phần mình nhóm Thanh
Nghị
 không giấu giếm ý đồ “ trở lại sự tôn trọng những di sản của đất
nước, những tinh tuý của văn minh Á Đông trong khi tin tưởng càng mạnh
là ta phải học nhiều ở Tây phương để đi tới sự thành công trong việc
xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng” (VTN nhấn
mạnh) Có thể là Thanh Nghị vẫn không phục gì Phạm Quỳnh (nhất
là lúc này Phạm Quỳnh đã vào triều làm quan); nhưng trong một mục tiêu như thế,
họ đâu có ngờ là họ đã đến rất gần các mục tiêu của Nam Phong.




Ðấy là những cách đánh
giá tích cực.




Về một phía khác, sự phủ
nhận đóng góp của Nam Phong nói chung của Phạm Quỳnh nói riêng
cũng rất quyết liệt. Và trong những năm tháng mà cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc
nổi lên hàng đầu, thì là cả một sự quyết liệt không khoan nhượng. 

Ðáng kể nhất
là trường hợp Ngô Ðức Kế, như lịch sử văn học đã ghi nhận, và gần đây là Ðặng
Thai Mai. 

Trong khi dựng lại bức tranh chung của đời sống văn học đầu thế kỷ,
nhà nghiên cứu họ Đặng không dành cho Nam Phong một ý nghĩa tích cực
nào, kể cả trên lĩnh vực thuần tuý học thuật. 

Những nhận xét chính của Ðặng
Thai Mai đối với vai trò của Phạm Quỳnh trong việc tiếp nhận văn hoá có thể tóm
tắt:

1.    
Lập trường của Phạm
Quỳnh đã hỏng, đã là dơ bẩn, thì “ý kiến của y cũng chỉ có thể có hại cho tinh
thần”. 

2.    
Thực ra Phạm Quỳnh không
ghê gớm như chúng ta tưởng:

o    “Cái mà Phạm Quỳnh giới thiệu trên tờ Nam
Phong
 không hề có một mặt nào có thể nói là có hệ thống”. “Phạm Quỳnh
đã đọc khá nhiều sách, đã viết rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về
một vấn đề gì”.

o    Về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu
của bọn học giả phản động Pháp. Với tư cách “ông tham biện của toà Liêm phóng”,
y đã “chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính sách thực dân và truyền bá
phần lạc hậu nhất (kể cả chính kiến của Charles Maurras) trong tư tưởng nước
Pháp” (Ðặng Thai Mai, tr. 126).




Ở đây, chúng tôi không
có tham vọng giải quyết đầy đủ vấn đề Phạm Quỳnh, cũng không dám đứng ra bàn
lại mọi chuyện. 

Nhưng trước khi đi vào một điểm nhỏ thuần tuý học thuật, chỉ
xin phép nói là ngay với định đề ban đầu (Phạm Quỳnh đã “chọn một chỗ đứng
trong dơ bẩn”), chúng tôi đã thấy nên dè dặt. 

Bởi nếu cho rằng tình cảm yêu
nước có thể được bộc lộ qua nhiều cách khác nhau và công nhận “hễ ai có đóng
góp về vào việc phát triển ngôn ngữ, nói chung là làm lợi cho đất nước về mặt
văn hoá, đều đã coi như có lòng với đất nước, có ý thức dân tộc
”... thì mọi
chuyện có thể được nghĩ khác đi một chút.

Thậm chí, ngay cả khi đã
kết luận hai năm rõ mười rằng một người hỏng về lập trường chính trị, và có
cuộc sống tạm gọi là dơ bẩn theo nghĩa chính trị thì cũng không có nghĩa rằng mọi thứ người đó viết
ra đều là đổ xuống sông xuống bể cả. 

Thái độ của lớp trí thực hiện nay ở Pháp
và Na-uy với di sản của L. F. Céline, K. Hamsun… chứng tỏ rằng ngày nay, hậu
thế vẫn có thể rút ra nhiều điều bổ ích từ trước tác của những kẻ từng đã phản
quốc và cộng tác với bọn phát-xít. 

Xử lý cho thích đáng sự không đồng nhất -
tức cũng có nghĩa là sự độc lập tương đối và tách rời tương đối - giữa lập
trường chính trị và học thuật là khó khăn, nhưng cũng là cần thiết, khi nghiên
cứu, chúng tôi nghĩ vậy.

 Mà trong lịch sử Việt Nam - trước tiên là lịch sử tinh
thần, lịch sử văn hoá - Phạm Quỳnh chính là một ví dụ tốt để thấy rằng muốn
khỏi bỏ sót từng đóng góp nhỏ, một thái độ phân tích cận nhân tình và thấu đáo
là cần thiết như thế nào.




Sau hết, có thực về học
thuật, Phạm Quỳnh cũng rất kém cỏi, một thứ con số không to tướng,
như một số người (chứ không chỉ riêng Ðặng Thai Mai) đã nói chăng?

Ở chỗ này tốt hơn hết,
chúng tôi nghĩ là nên vận dụng triệt để quan điểm lịch sử - một điều giới
nghiên cứu khoa học xã hội ở ta vẫn thường nói và sẵn sàng nói đi nói lại,
nhưng trong lúc làm lại bị nhiều thành kiến vướng víu hạn chế, nên không mấy
khi vận dụng được một cách hợp lý.




Ðúng là Phạm Quỳnh viết
khá tạp. Ông không để lại những công trình dài hơi - chữ của Phạm Thế Ngũ - và thuần
nhất như Trần Trọng Kim hoặc Phan Kế Bính. Nhưng nên nhớ về mặt học thuật căn
bản Phạm Quỳnh là típ người thông tin, loại “thuật nhi bất tác”. Ðặt ông vào
hoàn cảnh nước Việt Nam đầu thế kỷ, người ta thấy ông khá nhạy bén và thực sự
là đã giới thiệu có phân tích có chọn lọc những tri thức phổ thông trong sách
vở phương Tây đương thời và trong không ít trường hợp có liên hệ với thực tế
Việt Nam, thế là được rồi, không nên do ghét ông mà đặt ra những yêu cầu quá
cao như buộc ông đưa ra những luận thuyết, những triết lý lớn rồi chê là ông
không làm nổi.




 Lại như bảo Phạm
Quỳnh chỉ truyền bá phần lạc hậu nhất trong tư tưởng của nước Pháp thì cũng
không hẳn. Chẳng nhẽ do đăng trên Nam Phong và do Phạm Quỳnh
viết mà những bài lược thuật tổng thuật nghiêm túc giới thiệu về Montesquieu,
Rousseau, Voltaire, Baudelaire, Renan, A. France... đều là không đáng đọc, là
có tội?




Chúng tôi ngờ rằng ở
đây, Ðặng Thai Mai đã để ngòi bút của mình cho tình cảm nồng nhiệt chi phối nên
có phần... quá tay. 

Nói riêng về trường hợp Charles Maurras (1868-1952). Ðúng
là trên Nam Phong số 115 ở các trang 218-220 của năm 1927 có
thấy trích đăng một ít suy tưởng của nhà văn này.

 Nhưng chúng tôi tưởng
là Nam Phong đã sòng phẳng khi trong lời dẫn ghi rõ rằng
Maurras là một kẻ đi ngược dòng trong đời sống tư tưởng ở Pháp, giữa thời cộng
hoà mà lại đi đề cao quân chủ, chẳng qua là ông có lối văn rất hay, lập luận
rất khúc chiết, nên cũng cần được biết tới. 

Còn như bảo Nam Phong đăng
Maurras nghĩa là cùng tư tưởng với Maurras, như vậy chúng ta sẽ tính sao khi
thấy trước đó năm 1926 ở số 109, Nam Phong cho in bản dịch bài
viết của một học giả Nhật Bản viết về chủ nghĩa xã hội, nói tới tính chất không
thể tránh được - ngày nay ta gọi là tính tất yếu - của chủ nghĩa xã hội và có
dẫn lời của cả Mã-khắc-tư (Marx) lẫn Ân-cách-nhĩ-thị (Engels)? 

Theo lôgích trên
mà suy, chúng ta sẽ bảo như thế là Phạm Quỳnh cũng góp phần vào việc tuyên
truyền chủ nghĩa xã hội, hoặc là một trong những người đầu tiên cho đăng trên
tờ báo mình, những tài liệu về chủ nghĩa xã hội chăng?

Tôi sợ rằng, nếu được
sống lại, Phạm Quỳnh cũng thấy cái mũ ấy to quá, không hợp!




Tóm lại, nếu được để
phần lập trường chính trị của Phạm Quỳnh sang một bên khi xét phần học thuật,
và nếu chúng ta thực sự sáng mắt sáng lòng, thật sự thanh thoát, công bằng
trong cảm nhận, chúng ta sẽ thấy phải ghi công cho ông nhiều hơn trước khi có
sự định tội cần thiết.

Nên nhớ rằng ngay từ 70
năm trước, chính vào lúc đi trên đất Pháp, Phạm Quỳnh đã nhận ra những chỗ yếu
của văn hoá phương Tây.

 Ông bảo nó là cái
gì ma quái, “làm vạ cho người đời khá nhiều”, và chính người phương Tây cũng
chẳng sung sướng gì”.

Theo ông chúng ta không
nên ngộ hoặc về nó (Pháp du hành trình nhật kýNam
Phong
, số 91, tr.12). 

Ở một người mới 30 tuổi, một cách nhìn một tư thế như
thế là đàng hoàng là chững chạc. Tinh thần phê phán có lẽ là một trong những
nhân tố chính khiến cho ngay trên phương diện chất lượng các công trình tiếp
nhận văn hoá của Phạm Quỳnh vẫn có ít nhiều giá trị.

Còn như về mặt số lượng,
ai cũng biết là vào khoảng những năm hai mươi, khi Phạm Quỳnh đang viết nhiều
viết khoẻ, nền học thuật ở ta còn ở tình trạng rất phôi thai. Ðứng trước ngổn
ngang công việc và mọi khó khăn bày ra phía trước, ông có vai trò thật sự của
một người mở đường. Sự thao túng của ông đối với đời sống văn học công khai là
điều ai cũng phải công nhận kể cả người cho là hay lẫn người cho là dở. Sở dĩ
đây đó một hai người còn gọi ông là một thứ đạo sư của nền văn nghệ đương thời,
là bởi lẽ đó.







IV.

Ðể diễn tả những cuộc
gặp gỡ kỳ lạ mà cũng hứng thú giữa các nền văn hoá khác nhau, ở nhiều nước trên
thế giới, các học giả thường viện dẫn đến khái niệm acculturation.
Trong tiếng Việt, có người dịch thuật ngữ đó là thụ ứng, người dịch
 hấp thụ, gần đây hơn lại thấy đưa ra những hỗn dung,
tiếp biến, đan xen, giao thoa
 v.v...; mấy cách dịch ấy chữ nào cũng có
lý của nó, nên hãy tạm để đấy, điều quan trọng hơn là cách hiểu về khái
niệm. Bách khoa toàn thư Mỹ định nghĩa acculturation “là
hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc trực tiếp
và lâu dài với nhau, gây nên sự biến đổi trong dạng thức văn hoá ban đầu của
một hay cả hai bên
 "(Dẫn theo Hà Văn Tấn, Tạp chí Nghiên cứu nghệ
thuật 
4-1981. Chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi).

Ðối chiếu với một định
nghĩa nghiêm chỉnh như thế, người ta thấy cuộc tiếp xúc giữa văn hoá Việt Nam
với văn hoá phương Tây (trước tiên là văn hoá Pháp) trong một vài thế kỷ gần
đây, nhất là cuối thế kỷ XIX đầu XX, đáng được coi là một hành động acculturation điển
hình.

Trong bài này, sở dĩ
không dùng những giao thoa, đan xen, mà chỉ dùng một chữ khá phổ
biến là chữ tiếp nhận, bởi lẽ, rõ ràng là trong quá trình tiếp xúc mà chúng ta
đang quan sát, sự biến đổi chủ yếu xảy ra với một bên (phía Việt Nam), hơn là
cả hai bên (cả phía Pháp).

 Hơn thế nữa, phải
nhận đó là một sự biến đổi quá lớn, biến đổi hẳn trong dạng thức (pattern); sau
khi tiếp xúc, văn hoá Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn. Nhưng có hề
gì! Theo các nhà lịch sử văn hoá cho biết

  + hoà nhập, vừa là đặc trưng, là tính
nội tại, vừa là điều kiện sống còn của văn hoá
.     + Lịch sử mỗi nền văn hoá không
chỉ là sự phát triển tự thân của nó, mà còn là lịch sử của mối quan hệ giữa nó
với các nền văn hoá khác.

 Riêng ở Việt Nam lịch sử đã hai lần biết tới một sự
cấy ghép văn hoá ngoại lai như vậy, nhưng cả hai lần, văn hoá Việt Nam đều
không mất đi, không bị đồng hoá, trong khi cải biến vẫn giữ được sắc thái của
riêng mình. 

Nếu sau khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa, chúng ta vẫn có những
thời kỳ phát triển độc đáo, như văn hoá Lý- Trần, văn hoá cuối Lê đầu Nguyễn,
thì sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn dưới ảnh hưởng văn hoá Pháp, nền
văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ vẫn đẻ ra được những đứa con bụ bẫm, như nền
tiểu thuyết hiện đại, phong trào Thơ Mới v.v.




Ngày nay, mỗi chúng ta
đều thấy hết sức tự nhiên khi khoác lên người những bộ âu phục với complet,
cravate, chemise... 
Chúng ta tưởng từ lúc khai thiên lập địa, người
Việt đã ăn mặc vậy. Nghe nói tới nỗi băn khoăn của lớp người đầu thế kỷ khi
phải lần đầu cởi bộ khăn đóng áo dài, nhất là cắt cái búi tó sau gáy, chúng ta
hơi ngạc nhiên. Nhưng quả thật là những bước đầu Âu hoá đã xảy ra với muôn vàn
lúng túng. Và những điều ấy cũng đúng với công cuộc biến đổi trong văn hoá tinh
thần, mà xã hội ta ở đầu thế kỷ thể nghiệm.

 Ở khu vực này, trong mỗi con người
thường khi dồn tụ bao nhiêu mặc cảm, sự biến đổi xảy ra gián tiếp chậm chạp, có
khi người này cấy trồng, người kia gặt hái, nhưng như người ta vẫn nói, “
những việc làm thì rất khổ, không làm lại còn khổ hơn
” bởi vậy phải có
người làm thì lịch sử mới tiến lên được.




Theo sự tìm hiểu của
chúng tôi, Phạm Quỳnh đáng được coi là nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp
nhận văn hoá vừa nói ở trên, ít ra là ở giai đoạn đầu của sự tiếp nhận ấy.
Người ta thường chỉ nghĩ đến ông như một trong những người có cơ sở Tây học
vững chắc, song sự thực là trong cái môi trường văn hoá Hán Việt rộng lớn lúc
ấy, Hán học đã thấm vào ông, cả hai nền văn hoá Ðông Tây kết hợp ở ông khá
nhuần nhị. 

Tiếp nối sự nghiệp của những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... ông
thuộc loại xây nền đắp móng cho nền văn hoá mới.

Không hề có sự chuyển
giao chính thức, song ông đã làm những việc cụ thể để biến ước mơ của các nhà
nho đầu thế kỷ, như Phan Chu Trinh và các yếu nhân Ðông Kinh Nghĩa Thục, trở
thành hiện thực. 

Khốn thay những điều tâm huyết ấy lại được Phạm Quỳnh thực
hiện trong vòng tay của kẻ cướp nước, mối quan hệ của ông với nhà nước bảo hộ
quá gần gũi nó là cái điều không thể chấp nhận với hầu hết các nhà trí thức
thuộc thế hệ ông cũng như các thế hệ tiếp.




 Ở trên chúng tôi
đã nói tới cách nhìn sổ tuột của một học giả đáng kính với mọi đóng góp học
thuật của Phạm Quỳnh. Thật ra, thái độ đó của Ðặng Thai Mai được khởi đi từ Ngô
Ðức Kế và còn tiếp nói với nhiều người khác, kể cả Thiếu Sơn, để rồi bao trùm
trong giới nghiên cứu ở Hà Nội và kéo ra đến tận Nguyễn Văn Trung ở Sài Gòn
trước 1975, tóm lại là hầu như suốt cả thế kỷ XX. Trong hoàn cảnh một nước luôn
luôn có những chuyện không ổn trong quan hệ với các quốc gia bên ngoài, một
thái độ như thế là dễ hiểu.

 Trong hàng ngũ trí
thức Việt Nam, còn bao người khác, tuy không nói ra, nhưng sẵn sàng đứng chung
tên với các lối lên án Phạm Quỳnh của Ngô Ðức Kế, và tuy vẫn đọc Nam
Phong
, nhưng không bao giờ tha tội cho chủ bút Nam Phong


điều, đọc kỹ thì cũng thấy là Phạm Quỳnh chưa bao giờ hoàn toàn “mất hết” trong
tâm trí giới nghiên cứu, và những ý đồ nhằm xác định vai trò của ông trong lịch
sử, cũng như đánh giá đúng công lao của ông trong công cuộc xây dựng văn học
vẫn thu hút cố gắng của nhiều người.

Ở Sài Gòn trước 1975,
Linh mục Thanh Lãng đã sớm đứng ra tranh cãi với Nguyễn Văn Trung, còn nhà
nghiên cứu Phạm Thế Ngũ thì dành cho ông rất nhiều cảm tình, trong số các tác
gia được Phạm Thế Ngũ viết thành những chương riêng trong bộ Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên
, Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong được
dành cho một số trang nhiều nhất để nghiên cứu kỹ càng nhất. 

Còn ở Hà Nội,
chúng tôi chưa có dịp tìm hiểu đầy đủ về các công trình nghiên cứu từ 1960 về
trước, song có điều chắc là từ 1961 trở đi, sau câu nói kiểu văn bia của Ðặng
Thai Mai rằng Phạm Quỳnh, đó là một học giả có
đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây và cũng có đủ chữ Tây để loè
người 
An Nam”, thì không thấy ai nói khác. Có điều có thể
không nói ra, mà vẫn nghĩ khác, hoặc lờ mờ cảm thấy cần phải nghĩ khác.



Mở đầu cuốn
sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX ( in lần đầu 1960) có mấy trang
mang tên Cùng các bạn đọc, trong đó, Ðặng Thai Mai trình bày ý
hướng chính của mình trong từng chương sách. 

Ðiều kỳ lạ là với chương VI,
chương dành để viết về văn học công khai, tác giả có một giọng điệu mềm mại
khác hẳn, so với những gì ông viết trong sách:

 “Quyền lãnh đạo văn hoá đã vào
tay bọn thống trị nước ngoài cho nên cái mà người ta gọi là văn học Việt Nam
trên thị trường hồi này chỉ có thể phát triển theo đường lối của chủ nghĩa thực
dân. Do đó mà cái thiện chí của những người muốn xây dựng văn học nước nhà bằng
phương tiện công khai, cũng bị hạn chế”.

Cố nhiên, trung thành
với chính mình, Ðặng Thai Mai không gọi đích danh Phạm Quỳnh. Nhưng “những người
muốn xây dựng văn học nước nhà bằng phương tiện công khai” là ai? Trong thời kỳ
mà Ðặng Thai Mai đem ra phân tích, văn học Việt Nam còn rất phôi thai, bởi vậy
khi đề cập tới những nhân tố đóng vai trò chủ đạo trong dư luận xã hội, người
ta nhất thiết phải kể nhóm Nam Phong và những người chịu ảnh
hưởng của Nam Phong.

Biết đâu là nếu còn sống
đến ngày nay (1992), qua những thăng trầm của chiến tranh và hậu chiến,  Ðặng Thai Mai sẽ cho mang bản án
ra phúc thẩm.




Nhưng thôi, dự đoán vậy
chỉ để cho thêm thấu đáo, sự thực là những ghi nhận tích cực với các đóng góp
của Phạm Quỳnh còn là quá ít. 

Vậy nên dừng lại ở công thức nào bây giờ? 

Chúng
tôi đã băn khoăn nhiều về vấn đề này, để rồi sau hết, trong phạm vi các tài
liệu mà bản thân có dịp đọc, thấy trên nét lớn, nên đồng ý với cách đánh giá
của Nguyễn Trần Huân trong Văn học Việt Nam dẫn luận (Introduction
à la littérature Vietnamienne,
P. 1969) mà Nguyễn Văn Trung đã dẫn lại trong
cuốn Chủ đích Nam Phong (Nam Sơn, Sài gòn, 1975), đoạn dẫn sau
đây liên quan chủ yếu đến tờ tạp chí, nhưng ai cũng biết, nói tới tờ tạp chí ấy
là nói tới chủ nhân kiêm chủ bút của nó.




«Những người Việt Nam
yêu nước đã có thể dùng tạp chí để bênh vực những quyền lợi của văn hoá Việt
Nam và Á Ðông… và sự xoay sở tế nhị của Phạm Quỳnh để dung hoà đôi bên, rút cục
có lợi cho Việt Nam.




… Sinh ra để ca tụng
những ân huệ của nước Pháp và sự cao cả của nó trong thế giới, báo Nam
Phong
 đã vượt mục đích đó, và tất cả hy vọng thầm kín của những cộng
tác viên Việt Nam đã được thoả mãn."







… Không phải là Nguyễn
Trần Huân không biết việc Nam Phong ca tụng Pháp. Nhưng ông
khẳng định dứt khoát: 

" Ðó là một sự xấu xa cần thiết tương đối nhỏ bé, so
với công lao to tát mà tạp chí đã làm cho tiếng Việt.
»

(Dẫn theo Nguyễn Văn
Trung, tr. 37-38, VTN gạch dưới.)




Mấu chốt vấn đề ở đây,
suy cho cùng, vẫn là cách hiểu của mỗi người nghiên cứu về bản chất của văn
hoá, mối quan hệ giữa văn hoá và công cuộc cứu nước.

 Phạm Quỳnh đã nhất quán
với chính mình, hành động của ông là phù hợp với quan niệm của ông về văn hoá,
mà ông đã tiếp nhận được của sách vở phương Tây. 

Còn chúng ta, chúng ta sẽ hiểu
vấn đề như ông, như các nhà nho của phong trào Duy tân đầu thế kỷ, hay trở lại
với cách hiểu của các nhà nho yêu nước như Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Ðình Phùng,
Nguyễn Thượng Hiền v.v…, đó là quyền của chúng ta.




Trở lên, trong khi đáng
lẽ phải nói riêng về Phạm Quỳnh, chúng tôi cố ý nhắc tới các sĩ phu tiên tiến
đầu thế kỷ, trong đó có Phan Chu Trinh và các yếu nhân của Ðông Kinh
Nghĩa Thục


Không phải người viết định nói vơ vào cho nhân vật mang ra bàn
luận, và cố kiếm chác cho ông chút vốn liếng chính trị; chẳng qua, hiện tượng
Phạm Quỳnh cũng như các hiện tượng xã hội khác, bao giờ cũng có tính cách liên
tục về mặt lịch sử.

Là người nhạy cảm với
hoàn cảnh, Phạm Quỳnh chắc không thể bỏ qua không biết tới những kiến giải của
các bậc tiền bối và những người đương thời về các vấn đề quan trọng của xã hội,
rồi sau đó, mới tính chuyện đi tiếp. 

Cho nên, chúng tôi cho rằng nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Trung đã nói đúng sự thực khi viết trong các cuốn Chủ nghĩa
thực dân Pháp ở Việt Nam, huyền thoại và hiện thực và Chủ đích Nam Phong
 rằng,
về mặt văn hoá không thể đi thẳng từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của tới Ðông
Dương tạp chí, Nam Phong
, mà nhất quyết là phải qua Ðông Kinh Nghĩa
Thục
, và nói giản lược thì Nam Phong đó là “một Ðông
Kinh Nghĩa Thục
 do Pháp lập ra”
(Nguyễn Văn Trung, tr. 169).




Không khó khăn gì nếu
muốn thấy giữa hai bên có những chỗ khác: trong khi Ðông Kinh Nghĩa
Thục
 chỉ nói tới phương Tây, thì Phạm Quỳnh nói thẳng ra là Pháp, Ðại
Pháp; trong khi Ðông Kinh Nghĩa Thục muốn đi tới một cái gì
giống như chính thể cộng hoà (“Vua là tượng gỗ dân là thân trâu” - Ðề tỉnh
quốc dân ca
), thì Phạm Quỳnh còn lấn bấn ở chủ nghĩa tôn quân, - khi Nam
Phong
 mới khai trương đã nói tôn quân, mười lăm năm sau, bao nhiêu
nước chảy qua cầu, song có lẽ là cần biện hộ cho việc vào kinh tham chính, lại
nói tôn quân.

Sẽ rất lý thú, nếu so
sánh các tư tưởng của Phạm Quỳnh với tư tưởng Ðông Kinh Nghĩa Thục,
song ngay từ giờ, nếu có một sự so sánh công bình, khoa học, cận nhân tình,
thông cảm nữa, thì, hơn bù kém, sẽ có lợi cho Phạm Quỳnh. Thậm chí chúng tôi
còn muốn nghĩ tới một cái gì mà thật là không quen thật là ngần ngại khi phải
nói ra, nhưng trong thực tế đã vậy: Phạm Quỳnh có yêu nước, và đó là một kiểu
yêu nước ở thời của ông, nó giúp cho ông thấy ý nghĩa của đời sống và thúc đẩy
ông làm việc.




Kết luận khái
quát: Khi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hoá, trở
thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và
sâu sắc với dân tộc, với đất nước. 


Ấy là niềm tin đến với chúng tôi
khi lần giở lại Nam Phong

Nó cũng là nhân tố giúp chúng tôi yên tâm
khi tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh trong sự tiếp nhận văn hoá phương
Tây và góp phần hình thành nền văn hoá mới của dân tộc trong thời hiện đại.




1992





Tài liệu tham khảo chính


Tạp chí Nam Phong
Phạm Quỳnh Thượng chi văn tập tái bản lần thứ nhất - Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962
Ðặng Thai Mai - Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX - bản in lần thứ ba, H. 1974
Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng ở Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám tập II , Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, H. 1975
Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam 1932-1941 bản của nhà xuất bản Văn học, H. 1989
Nguyễn Văn Trung - Chủ đích Nam Phong, Sài Gòn, 1975
Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên t. III, Sài Gòn, 1965
Thiếu Sơn - Phê bình và cảo luận, Hà Nội, 1933
Tsubôi - Nước Ðại Nam đối diện Pháp và Trung Hoa, TP. Hồ Chí Minh, 1990






Những tài liệu tham khảo chính dùng để viết bài này, chúng tôi sẽ nêu ở phần cuối với đầy đủ tên tác giả, tên sách, nơi và năm xuất bản. Sau các đoạn trích, chỉ xin nêu tóm tắt tên tác giả với số trang. Ví dụ ghi Hoài Thanh tr. 18 ở đây, tức là trích ở Thi Nhân Việt Nam 1932--41, bản in ở Hà Nội năm 1989, tr. 18. Các trích dẫn dưới đây, đều theo lệ đó.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 19, 2015 03:00

March 17, 2015

Lễ hội thế nào thì xã hội thế ấy !

Bài báo này được viết dựa trên những dữ kiện của đời sống
dăm bảy năm trước. Song tôi vẫn muốn trình ra với bạn đọc của năm 2015. Bởi  những biến động mà chúng ta quan sát thấy ở các
lễ hội năm nay chẳng qua chỉ là đẩy nhanh hơn quá trình đã diễn ra từ nhiều năm
trước.


Vấn đề không chỉ ở tính bạo lực đã bộc lộ quá rõ rệt.

Chúng ta đang có những lễ hội xấu xí. 

Mà lễ hội chỉ là mô hình thu nhỏ của đời sống.
 





Ở  số báo Người đưa tin
Unesco
số ra tháng hai 1989, với tiêu đề Lễ hội nơi nơi, tôi
đọc được một nhận xét tổng quát : Từ đông sang Tây, gần như ở tất cả các xã
hội đã và vẫn đang còn hội hè đình đám. Tại sao? Bởi thế giới này hỗn độn đến
cùng nên nhất thiết cần trật tự, -- một lễ hội được coi như có lý do tồn tại
khi để lại trong con người tham gia cái dư vị có sức ám ảnh đó
.

     Thế còn ở
ta, ở người Việt ta hôm nay, thì sao?

   Báo Tuổi
trẻ
18-2-2011 chạy trên trang nhất cái tít: Thảm hại lễ hội. Những
chữ được dùng trong các phản hồi: vô văn hóa, cuồng tín, lố bịch, nhảm nhí,
mê muội
.


   Tại sao lại
có tình trạng như vậy?

    Câu trả lời chung
nhất trong trường hợp này chỉ có thể là sự giống nhau giữa nó và đời sống .

    Lễ hội là một thứ
mô hình đời sống thu nhỏ. Chúng ta đến với nó trong cái bối rối của những người
đang đứng trước một tương lai vô định.Trong lúc cuống cuồng vượt lên để theo
đuổi cái ảo ảnh phía trước, ta sẵn sàng chen chúc nhau giẫm đạp lên nhau, lừa
lọc nhau, miễn cảm giác là mình được sống.

   Với những đám đông hỗn
độn, lễ hội là điển hình của tình trạng tự phát bản năng của đời sống người
Việt.

   Lễ hội hôm nay đang mất
thiêng vì bao nhiêu phương diện khác nhau của đời sống đang bị hả hơi
nhiều khi người ta phải tự dối lòng để khỏi kêu thật to khi mỗi ngày một chút,
âm thầm nhận ra sự mất mát lớn lao đó.

   Tại sao, hết hội này đến hội khác, chúng ta đua đả nhau để
đi bằng được? Vì biết bao việc hàng ngày ta làm đâu có hiểu vì sao mà
làm,  đúng ra là chỉ nhắm mắt đưa chân theo nhau mà sống, yên tâm làm vì
có bao nhiêu người đang làm như mình. 

   Tại sao đi hội cứ phải kèm theo mua bán ăn uống hưởng thụ
chơi bời hưởng lạc?

   Trong số  báo Người
đưa tin Unesco
nói trên, một nhà nghiên cứu văn hóa đã lý giải Lễ
hội vừa hoan lạc vừa có tính chất lễ nghi. Lễ hội hòa giải những điều trái
ngược. Lễ hội liên kết những gì mà dòng ngày tháng có xu hướng muốn tách rời—
nghiêm trang và lêu lổng, tôn giáo và phàm tục, tàn phá và phục hồi. Trong khi
đi tìm cái thiêng liêng, nhiều khi lễ hội chẳng khác gì một cuộc truy hoan
phóng đãng.


    Kinh doanh và lễ
hội. Tại sao trên mảnh đất muôn đời nghèo khổ là đồng bằng Bắc bộ này, một
không khí mua bán xoay xỏa kiếm chác cứ len vào làm nên một phần hồn cốt và cái
vẻ hấp dẫn riêng của lễ hội? Không khó khăn gì để trả lời câu hỏi này cả. Khi
đó đã là một thứ khí hậu của đời sống chúng ta thì tránh đâu cho thoát?

     Cái sự buôn
thần bán thánh ở đây chỉ là tiếp tục các vụ mua quan bán chức mua bằng bán học
vị ngoài đời.  Đến các buổi tập thể dục buổi sáng ở các công viên cũng có
chợ nữa là ở đây. Một tờ báo đã khái quát nay là thời toàn dân vào cầu cả nước
đánh quả. Làm sao lễ hội có thể  nằm ngoài cái xu hướng nói chung đó?

     Nhiều khi
chúng ta sống bằng cách khai thác những lầm lạc mê muội của người khác. Với một
bộ phận cư dân các làng nghề, mỗi mùa lễ hội là một vụ làm ăn. Nhiều địa phương
sở dĩ tha thiết với việc xin được cấp trên công nhận di tích địa phương mình vì
có thể vất vả một hai tháng mà sống cả năm.

   Người ta giẫm đạp lên
đồng tiền. Người ta nhét tiền vào bất cứ chỗ nào được cho là thiêng liêng.
Trong thái độ tự khinh rẻ thành quả lao động của mình, người ta đang chứng tỏ
rằng với tư cách là điểm tận cùng của phàm tục, sự hư vô đã bắt đầu xuất hiện.
 

     Những điệu
múa đơn sơ và giống nhau. Những điệu nhạc pha tạp. Những chi tiết trang trí lô
lăng và cẩu thả, những ngôi chùa tối tăm, xấu xí … Lễ hội tố cáo chúng ta có
một cuộc sống nghèo nàn và để che giấu cái sự nghèo đó nhiều người sẵn sàng
nhắc đi nhắc lại đến ngàn lần không chán rằng chúng ta rất giầu có rất hạnh
phúc.

     Tại sao chỗ
nào cũng thấy kêu về những ban tổ chức chỉ có trình độ làng xã, nhưng lại nhất
quyết đứng ra tổ chức cho hàng chục ngàn người trong khi chỉ lo tổ chức một ít
bãi giữ xe và giữ trật tự cũng không xong ? Có gì lạ đâu, có bao nhiêu việc
hàng ngày nhỏ thì như tổ chức giao thông an toàn cấm hút thuốc lá …, lớn lao
hơn thì như kéo con người vào sự học hành tử tế, sản xuất làm ăn hơn là buôn
gian bán lận… các nhà quản lý cần làm mà đâu có làm nổi?

    8000 là con số lễ hội diễn ra cùng lúc trên toàn quốc. Tính
trung bình mỗi ngày có 20 lễ hội. Người đưa ra con số ấy bắt đầu gợi ý chúng
một  sự bùng nổ  trên phạm vi số lượng giống như sự phát phì, sự làm
hàng giả tràn lan trong cái hoạt động tâm linh này.

      Lại
nhớ từ xưa, mà nhất là thời chiến tranh liên miên như thuở Trịnh Nguyễn phân
tranh Đàng Trong Đàng Ngoài, rất nhiều đền chùa mọc lên đến mức sau khi lên
ngôi, Quang Trung đã có lệnh là phải soát xét lại để xóa bỏ các dâm từ.

    Hoặc ngay từ thời
đánh xong quân Minh, Lê Lợi cũng cho kiểm tra lại các chùa nếu chùa nào sư mô
không đủ trình độ thì bắt phải hoàn tục.

    Xô bồ và hỗn loạn
đã bành trướng đến mức là phải gạn lọc, nhiều người gặp nhau trong ý nghĩ đó.
Nhưng lễ hội làm sao có thể thực hiện cái việc mọi lĩnh vực khác bất lực.

    Đã bắt đầu có ý
kiến rằng phải hạn chế lễ hội.

    Nhưng mùa xuân
sang năm tôi đoán là sẽ gặp lại tất cả không khí lễ hội của mùa xuân này với
những lời kêu ca phàn nàn những sự phiền trách và xấu hổ. Cuộc sống đang trên
cái mạch của nó, chưa thấy dấu hiệu gì là nó có thể khác. Nhận thức của chúng
ta chưa có chuyển biến. Ta luôn luôn tự hào chúng ta là văn hóa văn minh. Ta
đang vùi đầu vào việc sùng bái quá khứ. Thì làm sao lễ hội có thể khác?







Đã in trong TBKTSG số ra 24-2-11

Đưa
lại trên blog này ngày 26-2-11
 dưới nhan đề

Lễ hội : mô
hình thu nhỏ của đời sống
.  





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2015 03:11

March 12, 2015

Văn học Việt Nam tìm kiếm bạn đọc trong nước không xong, lại tính chuyện chinh phục thế giới

Trong khi tụt xuống mức thấp nhất của chất lượng thì chúng ta lại mơ
tưởng hão huyền tới những đỉnh cao vinh quang nhất  - đấy là ý nghĩ của tôi, khi nhận ra một hướng vận động của văn học hiện thời.



Để chứng minh cho tình trạng
tồi tệ của đời sống sáng tác, trong phần phụ lục dưới đây, tôi sẽ giới thiệu lại
một bài báo được viết từ hai năm trước trên báo TT & VH mà có lẽ ít ai để
ý.

 Bài viết có cái giọng riêng của mình. Cái giọng ấy có thể
người này thích người kia không chấp nhận, cái đó không sao. Cái chính là bài viết đã nêu gợi ý rằng thơ ca của chúng ta văn
học của chúng ta chỉ đang ở dạng văn hóa dân gian trong một thời điểm suy đồi, tức là một thứ thang bậc thấp của
các nền văn học hiện đại. Và mọi cố gắng tô son điểm phấn cho mình chỉ khiến chúng ta thêm phần nhếch nhác. Sự bế tắc càng thấy rõ hơn ở ngay cái chỗ ta tưởng ta tìm ra lối thoát.
Đáng lẽ phải hiểu ra tình
trạng thực tế của mình, thì hơn bao giờ hết chúng ta lại “mơ theo trăng và vơ vẩn
cùng mây", nằm suông tán phét, mơ màng những chuyện xa vời mà có mọc cánh ta cũng không làm nổi.


Tôi nhớ những cây bút
trong thế hệ của tôi. Năm tháng chiến tranh đã nuôi dưỡng mọi mơ ước của họ. Trở về,
họ muốn làm lại tất cả. Trong cuộc sống riêng, họ sẽ có gia đình có hạnh phúc. Về chuyên môn, họ sẽ trở thành nhà văn lớn, tác phẩm của họ sẽ trở nên sánh ngang vai với các bậc thầy trong quá khứ và nhất là được dịch ra tiếng nước
ngoài…

Lịch sử văn học bốn mươi
năm qua diễn tiến theo một mũi tên đi xuống. Chúng ta không thể làm lại đời mình, khi thiếu những phẩm chất cơ bản
của nghề nghiệp.

Chỉ có mơ ước ở mỗi con người là không chịu chấm dứt và trong khi hiểu rằng nó ngày càng xa vời thì chúng ta, giống như người nông dân tính chuyện ăn đất của Ngô Tất Tố, lại cố tạo ra những gía trị giả để tạm yên lòng.

Tôi muốn nói tới những công việc được gọi là đưa văn học VN ra thế giới được nhiều người lo tính gần đây.

 Trong các cuộc hòa đàm giữa các bên tham gia, nhiều
khi người ta nghe bên A. tố bên B là muốn dùng hội nghị để giành những chiến thắng
không đạt được trên chiến trường.

Nay với các nhà văn cũng
vậy.

Tất cả các số liệu thống
kê đều chỉ ra rằng, nay là lúc nhà văn VN đương thời đang thất bại trong việc tìm kiếm bạn đọc trong nước.

Vậy mà với những thứ ấy,
người ta lại tính chuyện xuất ra thế giới.

Có thể có người sẽ đặt
câu hỏi:

-- Nhỡ tác phẩm của tôi
quá cao, trong nước không có ai hiểu nổi, tôi sẽ ra với thế giới trước rồi quay
về tìm kiếm bạn đọc nội địa sau thì sao?

Tôi biết nhiều người
nói câu này chỉ là trong cơn hăng máu nói bừa và bảo rằng thử cãi cho vui thôi. 

Nhưng
tôi cũng xin trả lời một cách nghiêm chỉnh rằng trình độ văn chương một nước
không bao giờ vượt quá trình độ mọi hoạt
động chính trị kinh tế của nước đó.




Cũng có thể bác bỏ các ảo
tưởng nói trên bằng cách nhìn sang các ngành nghệ thuật khác.




Từ Paris, hoạ sĩ Trần Trọng Vũ có một nhận xét khái quát về tình
trạng của hội hoạ VN . Những nhận xét ấy được hoạ sĩ Trịnh Cung hưởng ứng. Ông
cắt nghĩa tại sao mình lai đồng tình với Trần Trọng Vũ qua bài trả lời phỏng vấn
ngắn in trên
TT&VH số ra 16-5-2003.

 Theo Trần Trọng Vũ và Trịnh
Cung, chưa bao giờ tranh VN có mặt trong hệ thống các gallery chuyên nghiệp; và
người mua tranh VN thường chỉ là khách du lịch.


 Nói gần nói xa chẳng qua
nói thật, cái nhận xét trên chỉ có một nghĩa đơn giản: chúng ta đang có một nền
hội hoạ thuộc loại chầu rìa.


Đại khái cũng giống như trong bóng đá, chỉ khác là trong bóng đá
người ta có hệ thống xếp loại rõ ràng còn trong nghệ thuật thì chưa.





Trên đây là một đoạn
trích trong một bài báo đã cũ của tôi mang tên

Trông người lại nghĩ đến ta http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009...

Nhắc lại nó ở đây, người viết chỉ lưu ý thêm:
sở dĩ các ngành như hội họa và một môn thể thao như bóng đá có thể chấp nhận tình trạng lạc hậu của
mình so với thế giới vì người hoạt động trong các ngành đó có sự cọ xát thường
xuyên và sòng phẳng với thế giới.

Còn bên văn học, người ta
lại hay lòe nhau bằng những cái gọi là tính tư tưởng tính dân tộc nên dễ ảo tưởng.... Sự hiểu biết
của phần đông người viết văn trong nước về văn học thế giới thường đơn giản và sai lệch,
được mấy ông có ngoại ngữ giới thiệu cho cái gì thì biết cái ấy. Mà các ông gọi
là nhà văn biết ngoại ngữ kia, cũng đâu có phải là những trung gian đáng tin cậy.




Tóm lại, đứng ở góc độ
khách quan sẽ thấy những người làm văn
chương chúng ta hiện nay thường hiện ra như những kẻ chẳng tri kỷ tri bỉ, biết mình biết người gì hết. 

Bị hư danh chi phối, ta dễ dàng tìm mọi cách để lừa nhau, người nọ lừa người kia
và mỗi người tự lừa mình.

Tất cả chỉ bắt đầu bằng việc không xác định được
trình độ thực của mình và chỉ thích đo mình bằng thước đo riêng chứ không phải bằng thước
đo của thế giới.





















Trong khi đang mê muội
trong cơn tự nhận thức, lẽ tự nhiên là chúng ta 
bỏ qua mọi ý kiến nhận xét có vẻ trái tai, mà bài viết dưới đây là một
ví dụ.




Phụ lục




Tao
Đàn cóc nhái ngày Xuân


Trần
Hoàng Nhân




Như mọi năm, Xuân đến là vương quốc
Đầm Lầy tổ chức Lễ hội Tao Đàn ở khắp các tỉnh thành. Có một địa phương từ cấp
xã đến cấp tỉnh đều có ngày thơ riêng, đỉnh cao là ngày thơ trong đêm trăng
tròn tháng Giêng trên một đỉnh núi. Câu lạc bộ thơ các cấp đều hồ hởi phấn khởi
trong tháng Giêng này. Một số nhà thơ chạy show đọc thơ mệt nghỉ trong suốt mấy
ngày.

Chất lượng thơ của Lễ hội Tao Đàn
Đầm Lầy chưa biết hay dở thế nào, nhưng chắc chắn là thơ “chuẩn không cần
chỉnh”. 

Ngày trước các cụ thơ rằng: “Con mèo con chuột có lông/Cây tre có mắt
nồi đồng có quai”.

 Ngày nay, một số thi sĩ trong Đầm Lầy có thơ tả cảnh quê
hương, rằng: “Quê tui có một dòng sông/Mùa hè nước cạn mùa đông nước đầy/Cầm
cần câu cá trên tay/Cá bơi dưới nước chim bay trên trời”. Hoặc: “Chị tui lớn
tuổi hơn tui/Mẹ tui còn lớn hơn tui rất nhiều/Ngoài đồng có một cánh diều/Diều
mà có gió thì diều nó bay”…




Năm nay (cũng như các năm nọ), Tao
Đàn Đầm Lầy quyết định ngoài cờ xí trống chiêng còn có các phần trình diễn thơ,
múa thơ, đánh quyền thơ và nhảy hip-hop thơ… cho sinh động để khán giả bớt buồn
ngủ. Cư dân trong Đầm Lầy đa phần là nòng nọc cụt đuôi nên mọi sự diễn ra ở Lễ
hội Tao Đàn đều ngẩn tò te không biết gì. 

Chỉ biết rằng năm nào cũng vậy, bộ
phận truyền thông của lễ hội phát trên đài, trên báo rằng: Tao Đàn năm nay nhất
định thành công tốt lành, rằng bạn bè thế giới tròn xoe mắt mà kính phục chúng
ta, rằng thơ ca đã đu theo các chùm bóng bay lên trời khiến Thượng đế cũng động
lòng mà thương cho giống loài cóc nhái của Đầm Lầy nhà mình.




Nhớ năm ngoái, một vị ếch gần già
(chứ chưa lẩm cẩm) nằm trong Ban tổ chức Lễ hội Tao Đàn tuyên bố sẽ xây dựng
Đầm Lầy thành một cường quốc thơ ca của thế giới! Nghe xong, rất nhiều cư dân
nòng nọc của Đầm Lầy sung sướng như mơ. Bởi các vương quốc khác họ trở thành
cường quốc nhờ dân họ tiền nhiều, nhờ tên lửa hạt nhân, nhờ thủy quân hiện đại…
Đầm Lầy ta không có các phương tiện trên thì ta có thơ thể hiện tâm hồn mơ mộng
và tinh thần yêu chuộng hòa bình. Nếu vương quốc nào trên Trái đất này cũng
chạy đua thành cường quốc thơ thì chiến tranh không thể nào xảy ra, mà nếu có
xảy ra vì chạy đua… thơ thì chắc cũng chẳng có ai bị thương và ngày tận thế
càng không có cơ hội.




Ở Đầm Lầy, gần như ai cũng biết làm
thơ. Chính vì nhà nhà làm thơ, người người mần thơ với một lực lượng hùng hậu
được trang bị “thơ tận răng” như thế, Đầm Lầy xứng đáng là cường quốc thơ chứ
còn gì nữa! Một số vị giáo sư cóc, tiến sĩ nhái, nhà phê bình ễnh ương ăn lương
của quốc vương còn viện dẫn truyền thống thơ ca qua mấy mùa mưa của Đầm Lầy
trong các cuộc hội thảo thơ, hội nghị ca. Dù nước trong đầm lầy lúc đầy lúc cạn
nhưng thơ ở vương quốc này chưa bao giờ vơi. Toàn là những lý do chân chính
đáng để Đầm Lầy trở thành cường quốc thơ ca thế giới.




Một số khác nhờ có đọc báo Tuổi trẻ
Cười, nên ra sức phản đối dự án cường quốc thơ này. Họ phản đối vì mới trước
Tết Quý Tỵ đây thôi, tầng lớp thợ thuyền là nòng cốt làm ra sản phẩm phục vụ
chúng sinh của Đầm Lầy có nơi chỉ được thưởng Tết bằng cân bột ngọt, đường và
tờ lịch treo tường có em gái mặc bikini… dòm cho đỡ tủi. Mới năm ngoái thôi,
kẹt xe vẫn còn là vấn đề nan giải của lãnh đạo các thành phố lớn trong Đầm Lầy,
là hình ảnh kỳ dị trong mắt người nước ngoài có văn minh và là nỗi khốn khổ cho
hàng chục triệu dân đen nòng nọc thành thị. Còn môi trường sống thì ngày càng
tệ, ô nhiễm từ cọng rau muống đến nguồn nước mưa… Vậy thì trở thành cường quốc
thơ để làm gì? Chưa kể, mấy ông bà thi sĩ ễnh ương kêu to nhất trong Đầm Lầy
này xưa nay chỉ có giải “nô-đùa” chứ có cái giải “nô-ben” nào đâu mà dám ngẩng
mặt với các vương quốc khác về tài thơ của mình mà đòi làm cường quốc!




Cuộc tranh cãi ở vương quốc Đầm Lầy
lọt tai một lão người. Lão người này dựng chòi thơ sinh sống lâu năm trên Đầm
Lầy. Lão nhủ thầm trong bụng: “Cái xứ cóc nhái Đầm Lầy chúng mày mà cũng đòi
cường quốc Tao Đàn à. Ở xứ loài người bọn ta, đi đâu cũng thấy “thi phú” (tức
là… thu phí), vậy mà có dám nhận cường quốc thơ ca đâu?

Để khỏi phải nhức lỗ nhĩ vì bọn cóc
nhái cãi nhau, lão người, thay vì quăng một mẻ lưới quét sạch bọn cóc nhái hay
mần thơ trong Đầm Lầy, quyết định thay bằng kế hiểm độc hơn: làm ngay một bài
thơ tên là Tao Đàn cóc nhái rồi thuê bọn người chuyên in lậu photo hàng vạn bản
với giá rẻ hơn tảo độc ném xuống Đầm Lầy. 

Lão cười bí hiểm: Phen này, vương
quốc Đầm Lầy cóc nhái chúng mày sẽ bị ô nhiễm thơ của tao mà tuyệt chủng!

Bài thơ của lão người có gì mà đòi
tiêu diệt cả một giống loài cóc nhái yêu thơ ca? Bài thơ đó của lão người như
thế này, được ghi lại từ một nhà thơ dân gian quá cố tên là Lê Trung Dị – vốn
là cư dân nòng nọc cụt đuôi trong Đầm Lầy – sau cuộc tuyệt diệt của lão người,
Lê Trung Dị thoát kiếp ễnh ương đầu thai thành giống người, chép lại rằng:





Kỳ quá không mưa cóc vẫn ra

Duyên đâu cóc nhái họp chung nhà

Cóc già chễm chệ ngồi chong mắt

Cóc trẻ lăng xăng đọc diễn ca

Cóc thị, cóc quê bò lếch thếch

Cóc sông, cóc núi đứng khề khà

Cùng nhau xướng họa nghe con cót

Cường quốc thơ mơ dữ vậy ta.












Bài viết này vốn in ở Thể thao &
Văn hóa
 cuối tuần số đầu xuân  2013. Nay tôi chỉ tìm được nó trên mạng qua
địa chỉ sau http://lethieunhoncom.blogspot.com/20...











 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 12, 2015 05:21

March 7, 2015

"Dân tộc Việt là cả một khối tự phát khổng lồ !"






Trong quá trình suy nghĩ của tôi về các vấn đề văn hóa xã hội, bài trả lời phỏng vấn với một phóng viên trẻ VietNam Net khoảng đầu
2008 "Dân tộc Việt ..." này là một bước ngoặt. 

Nó mở ra cho tôi một hướng làm việc.

Nhận thấy bài phỏng vấn có thể nhiều phần thích ứng với đời sống hôm nay,
sau khi đã sửa chữa một chút cho rõ ý hơn, tôi muốn giới thiệu lại với bạn đọc. 

Quá trình chuẩn bị bản thảo có
một trắc trở vui vui. Lúc tra gogle không thấy. Không
biết tại tôi vụng tìm hay nó đã bị mạng gốc xóa? May mà có một mạng khác đã lấy
lại ở địa chỉ sau.



Hôm nay giới thiệu nó ở đây, tôi đặc biệt cảm ơn bạn phóng
viên ký tên Hoàng Lê của VNN. Mặc dầu cả những câu trả lời và câu hỏi đã được tôi viết
lại, song tất cả ý tưởng ra đời đều là nhờ cú hích ban đầu của Hoàng Lê. Nhờ sự
gợi ý của bạn, tôi đã buột miệng ra được những ý tưởng mà trước đó tôi chỉ nghĩ
lờ mờ.

Vào thời gian bài trả lời phỏng vấn xuất hiện, bọn viết văn thế hệ trước chúng tôi thường
khá e dè đối với báo mạng. Khi nói với Hoàng Lê, chính tôi cũng không ngờ là
các ý tưởng này được giữ lại toàn vẹn mà không bị làm cho tầm thường đi. Tôi hiểu
là Hoàng Lê đã là người đầu tiên chia sẻ với các ý tưởng này và, cũng như tôi, muốn nó đến với bạn đọc ở cái dạng mà chúng tôi đã nói với nhau.






















(VietNam Net) Soi rọi các hiện tượng xã hội dưới ánh sáng văn hóa
- đó là công việc mà nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn
đang theo đuổi. Dưới đây là những chia sẻ của ông với phóng viên
VietNamNet nhân một câu chuyện thời sự.




Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn xổi

Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung quanh sự kiện một diễn viên trẻ bị
đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một người nghiên cứu văn
hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?




Có hai hiện tượng đáng để nhìn nhận.



Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một
bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt
ra ngoài các lề thói đạo đức thông thường.



Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta
có một đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi
cũng giống như một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan,
Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu ứng lửa rơm sớm nở tối tàn. Lối sống thác loạn
của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa
ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ,
lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và
bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng
nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu
không muốn nói là có hại.



Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung quanh một
chuyện cá nhân là bất thường?



  Không hẳn bất thường. Như người ta vẫn nói, cái nước mình nó thế. Từ thuở
chỉ quanh quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy.
Nó là một đặc điểm của tính cách người Việt.



Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm (nhà nghiên cứu
văn hoá - PV) có nói: Đặc điểm tính cách người Tây là duy lý, người
Tàu là duy ý chí còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của
ông Thêm, là lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.
Căn bản phải xem đó là một ưu điểm, một thế mạnh.



Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.



Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự
phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải
qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh.



Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, bên cạnh phần hay, nó có nhiều phần  dở vì dễ
làm cho người ta thiên vị lầm lạc và không kiểm soát được hành vi của
mình. Căn bản nó cho thấy một trình độ sống còn thấp, ta phải
tính để vượt lên một trình độ sống khác.



Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy tình" có những điểm nào
không đáng để tự hào?



Cả sự kém duy lý (vận dụng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của
tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.



Yếu về  lý tính dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ, kết quả là không biết sống, không tìm ra cách sống tối ưu. Kém ý chí dẫn đến ngắn
hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình ở đây đồng nghĩa với bột phát,
tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng
suốt cùng những quyết sách hợp lý, -- điều tối cần trong xã hội hiện
đại.



Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện
nay cũng sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư
luận cũng tự phát, ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.



Đằng sau nó là những nguyên nhân sâu xa...



Một khối tự phát khổng lồ

Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông muốn
đi tới những khái quát đúng cho cả chiều dài  lịch sử. Liệu có gượng ép quá không?




Tôi không ngại, phải đi tới khái quát, lần này khái quát sai thì lần sau khái quát tiếp, bao giờ cho tới cái đúng thì thôi. Chứ lần mò mãi trong các hiện tượng cụ thể sẽ không bao giờ thay đổi được hiện trạng.



Hơn nữa, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt cách sống của dân mình
quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào là một dân tộc
hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng bền bỉ.




Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve
vuốt mình bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.



Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt,
tôi mạnh dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ".



Nói vậy có thể gây tự ái cho ai đó và có thể gây hiểu lầm. Ngay như
bản thân tôi, cũng đã nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại
tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn chứng phủ định mà có sức thuyết phục.



Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ.
Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý
thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả
nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi
là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.



Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật,
chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không
nghiên cứu gì cả, phần lớn là dịch của nước ngoài, rồi làm cho nó giản lược di, truyền miệng với nhau. Trong tu hành thì chỉ lo "thiền", "ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra
cái gì đấy mà không tính chuyện khổ luyện.



Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi. Từ sự trống vắng, kết quả
thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so
sánh, người Trung Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn
như ông Huyền Trang sang tận Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại
cho đạo Phật một sức sống mới.



Bàn một chút về đặc điểm tính cách dân tộc. Theo ông, có những
nguyên nhân nào tác động đến điều này?




Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người
có ý cho rằng đó là bởi các lý thuyết này khác mà chúng ta theo
đuổi, chẳng hạn lý tưởng cộng sản... . Tôi thì lại thấy những nguyên
nhân sâu xa cơ bản là nằm trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành
trong lịch sử. Chính nó quyết định việc ta đi theo một lý thuyết nào đó, nhất
là có cách  thực hiện lý thuyết ấy theo lối riêng của mình.

Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một
trong những cách để nhận chân lại mình để tìm ra phương hướng  hợp lý cho hành động. Không lo tính phương hướng mà chỉ kêu gào nhau hành động thì cuối cùng vẫn là giẫm chân tại chỗ, nếu không nói là mãi mãi sa lầy vào cái cũ.

Lấy một ví dụ:

Theo thuyết địa lý-
nhân văn, mỗi khu vực địa lý tạo ra một giống người với đặc điểm
riêng của họ. 

Nói một cách thô thiển nhất thì chúng ta là người xứ nóng, một vùng nhiệt đới, được thiên nhiên ưu đãi,
nên dễ sống, nó là hoàn cảnh tạo cho dân ta cái tính dễ dãi, thế nào cũng xong, rồi sinh hỏng việc.




Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. 

Trước đây, thời các cụ,
chẳng cần có quần áo, chỉ có cái khố cũng sống qua ngày được. Ngay trước Cách mạng tháng
Tám, dân chúng ở ta phần lớn còn đi chân đất.

Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải
chuẩn bị cho cuộc sống cẩn thận hơn. Phải có đôi giày để đi. Phải có những ngôi nhà bền chắc. Mọi vật dụng phải
bền chắc hơn, có sức chịu đựng hơn... Tất cả những điều này ảnh hưởng
một cách vô thức đến tính cách dân tộc.



Tự bộc lộ trong chiến tranh

Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển ra sao?



Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không
hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất
nhiều hạn chế. Sự phát triển của trí tuệ Việt bị kìm hãm. Chính nó
khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.



 Sau thời trung đại dùng chữ Hán sau này, đến khi bước vào thế
giới hiện đại ta lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ thích
nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng
thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả
trong nói và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng và xâm nhập vào mọi cách xử lý công việc, kể cả những cái gọi là đại sự.



Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều các cuộc
chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính
cách dân tộc không, theo ông?




Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng
nề và càng không chịu nghĩ kỹ về nó, chúng ta càng bị nó ám.



Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến
tranh là tình trạng ăn xổi, ở thì. Lúc đó, trong khi sống với những
mơ tưởng xa vời, thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của
mình như thế nào.



Cụ thể hơn, hai cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa qua, để
lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?




Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát:
phải nói chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ
ta đã trở nên như thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn
nguyên vẹn, nhưng thực ra mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt
đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con
người ít tham vọng hơn, cẩu thả bừa bãi  với mình hơn mà lại buông thả hơn.



Phải ông đang thiên kiến và liều lĩnh quá ? Có nhiều ý kiến cho rằng,
chính cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế
hệ.




Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng
ta chỉ nói được một mặt của vấn đề. 

Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa
sức với dân tộc ta. 

Còn cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người
vừa lớn lên thì bước vào chiến tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ
đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức lực của cộng đồng. Chiến tranh
ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với một thách thức quá sức.
Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó nó làm ta đau ốm bệnh tật không còn là mình. Tối thiểu là sẽ mệt mỏi, một sự mệt mỏi kéo dài cho
đến hôm nay và chưa biết bao giờ xã hội ta như một cơ thể mới trở lại bình thường.

Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng.
Nhưng nếu trở lại với lịch sử,  đọc kỹ sách vở để  nhìn rõ thực trạng đất nước sau chiến thắng quân Nguyên, quân Minh ...thì sẽ hiểu ngay.



Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi,
khi quá khắt khe khi quá dễ dãi, tức là một đời sống tinh thần sa đọa, -- câu chuyện mà chúng ta nói từ
đầu đến giờ --, cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến đó.



Tóm
lại chính chiến tranh đã thúc đẩy chất tự phát trong sự phát triển của dân tộc suốt từ 1945 tới nay?







Làm sao nghĩ khác cho được! 





Hoàng
Lê (thực hiện)













































 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2015 04:45

March 1, 2015

Chứng rối loạn nhân cách

Những năm trước sau 1970,
tôi mới học tiếng Nga và chưa tiếp xúc nhiều với văn học xô viết.

 Trong khi đó
thì anh Phan Hồng Giang đã học Lomonosov từ đại học và biết rất nhiều chuyện
dân nghiên cứu văn học ở Liên xô bàn tán, nó là những chuyện người ta nói với
nhau  để xả hơi,  khi trong quá trình sống có những điều quan
sát thấy mà không bao giờ được viết trên mặt giấy.

 Hồi đó trong giới nghiên cứu
văn học Nga cũng như VN đang bị thống trị
bởi quan niệm cho rằng văn học phải có nhiệm vụ xây dựng những nhân vật tích cực.
Một trong những mẩu chuyện anh PHGiang kể  có liên quan tới vấn đề trên. Tóm tắt như
sau. 

Nhà nghiên cứu văn học nọ có một người bạn là một bác sĩ tâm lý. 

Khi anh kể
lại những phẩm chất của các nhân vật tích cực mà cấp trên yêu cầu anh ta phải
lý giải  để áp đặt cho các nhà văn, thì
anh bạn bác sĩ kia liền nói: “Đây là  phẩm chất của những thằng điên”.




Tôi chợt nhớ lại mẩu chuyện trên khi đọc trên mạng một
tài liệu của giới y học nói về sự rối loạn nhân cách. Sau đây là mấy thói quen
tâm lý  mà người ta cho là người mắc loại
bệnh này hay mắc phải:

1.   
Tự
cao tự đại về tầm quan trọng của mình (cường điệu các công việc và khả năng của
mình, luôn muốn được xem là bề trên một cách không tương xứng với khả năng bản
thân…)

2.   
Cuốn
hút bởi ảo tưởng về sự thành đạt, quyền lực…

3.   
Tin
tưởng rằng mình là người đặc biệt và duy nhất

4.   
Thèm
muốn mãnh liệt được ngưỡng mộ

5.   
Ý
nghĩ phải được phục vụ một cách đặc biệt và thỏa mãn một cách vô điều kiện các
ước vọng

6.   
Tận
dụng những mối quan hệ để phục vụ các mục tiêu bản thân.

7.   
Thiếu
sự đồng cảm: không nhận thức và chia sẻ tình cảm, nguyện vọng của người khác.

8.   
Luôn
đố kỵ với người khác và tin rằng người khác cũng sẽ đố kỵ mình

9.   

thái độ, hành vi kiêu căng.



Tôi không phải dân chuyên về tâm lý học và y học nên
không dám nói rằng các tiêu chuẩn trở thành kẻ rối loạn tính cách như trên đã đầy
đủ chưa, thậm chí “về căn bản” đã chính xác chưa.

Chỉ thấy nó đúng với nhiều người quanh
mình.

Nó nằm trong tâm trí nhiều người từ chiến
tranh trở về và lao vào cuộc tìm kiếm  một
chỗ đứng vinh quang trong thời hậu chiến. Tức có nghĩa nó là quy tắc sống của các
anh hùng thời đại.  

Nó bộc lộ qua các nhân vật của thứ văn hóa
đại chúng tiêu biểu thời nay là các chương trình TV mà người mình hiện nay coi
như một hiện thực còn thực hơn chính họ.

Và nó được người ta tin tưởng  tới mức thường có mặt trong những lời khuyên
mà các bậc cha mẹ ngầm nói với con cái hàng ngày.




Trên tôi vừa nói đó là những phẩm chất mà
con người từ chiến tranh trở về thường có, vì theo chỗ tôi nhớ, nhiều điều
trong đó là những điều trong chiến tranh chúng tôi ở Hà Nội đã được dạy dỗ. 


dụ với những bài thơ của Tố Hữu của Chế Lan Viên mà không chỉ học trò phải học, dễ thấy là chúng tôi luôn luôn được nhồi vào đầu
những tư tưởng mà các điều 1, 3, 4 trên đây đã mô tả. Về tầm vóc vĩ đại của thời đại mình. Về sứ mệnh vinh quang nhân loại giao phó cho cộng đồng mình vv..

Còn các điều 2 và điều 6 ?  Bạn 
hãy thử quan sát một vài nhân vật gọi là thành đạt trong thời hậu chiến. Đầy ảo tưởng. Tham lam dối trá điên loạn. Dám làm tất cả để phục vụ bản thân... Chắc bạn không phản đối nếu tôi bảo đó là những điều các anh hùng thời nay thường tự nhủ. Những
cái đó làm cho họ trở nên mạnh mẽ, như rượu đã làm cho Chí Phèo trở nên mạnh mẽ.




“Có phải anh định nói rất nhiều người
quanh ta đang trong tình trạng rối loạn nhân cách?”

“Thú thực đúng là tôi nghĩ thế. Tôi muốn
dùng nó để giải thích tình trạng hỗn loạn hiện nay. 

Nhưng trước hết tôi muốn mọi
người cùng ngẫm nghĩ về cái tâm lý hậu chiến chi phối con người 40 năm nay. Tôi
cảm thấy chiến tranh đã làm sai lạc cả bản chất con người VN như chúng ta vốncó trước 1945. Ra khỏi chiến tranh chúng ta chưa tỉnh. Tức là đang có tình trạng người trong cuộc không
nhìn ra bệnh của mình, cứ tưởng mình vẫn đang bình thường như những người khác.”




Khi một căn bệnh đã trở nên bệnh thời đại thì việc gì ta còn phải ngạc nhiên
khi thấy những biểu hiện của nó kể cả những biểu hiện phi nhân bản nhân tính nhất. 

Cái ác hiện nay là tập đại thành của cái ác đã tích lũy trong lịch sử cộng đồng cả mấy trăm năm nay.
Và nó trở nên phổ biến, được phát triển tới quy mô mà các tiền bối của nó trong lịch sử chưa bao
giờ làm nổi.





Mấy ý lạc đề

 Muốn kiểm tra điều tôi nói, [rằng hiện tại chỉ là sự lặp lại quá khứ], hãy đọc lại lịch sử VN thế kỷ XVII-
XVIII, cố nhiên  không phải là các bài sử
đang được dạy ở các nhà trường kể cả trường đại học mà phải là các bộ sử khác. 

Chỉ cần nghiền ngẫm thật kỹ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục -- và nhất là nhìn sử xưa bằng con mắt hiện đại --  là sẽ thấy hết. 

 Ví dụ, một chủ đề mà tôi tin là hấp dẫn và đã tính làm nhưng chưa kịp làm: chứng điên trong các đời vua chúa, và nói chung là bộ phận quan chức thống trị, suốt từ Đinh Lê Lý Trần trở đi.

Những tác phẩm kể trên viết bằng một thứ văn cổ, nên đọc hơi khó.

 Tìm được các bộ sách viết bằng tiếng Anh tiếng Pháp của các học giả phương Tây thì hay nhất. Dễ hơn, xin tìm đọc tài liệu của các giáo sĩ, các thương nhân nước ngoài đến với cả Đàng Trong và Đàng ngoài thời gian  trăm năm nội chiến, một số bản dịch mới được công bố vào dịp kỷ niêm ngàn năm Thăng Long. 

 Cuốn Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Trung quốc Thích Đại Sán mà Viện đại học Huế đã dịch từ khoảng 1960, đi vào một khu vực mới, nay đang là tài liệu hiếm. 

 Mới đây hơn, là các tập Nghiên cứu Huế do nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan chủ trương. Tôi thường rất tiếc là Nghiên cứu Huế ít được cả công chúng lẫn các nhà khoa học ở ta hiện nay biết tới, đến mức đang có ý định là làm các bản tóm tắt cho các tài liệu hay nhất trên tờ tập san đó, rồi đưa lại trên blog của tôi. 




Một đoạn lạc đề khác có liên quan tới định hướng suy nghĩ của tôi về sử:

-- muốn  hiểu được tình hình VN những ngày này, phải trở lại với thời vua Lê chúa Trịnh; 

-- mà muốn hiểu được những bế tắc của việc chúng ta ra với thế giới phải trở lại với thời kỳ đầu thế kỷ XX, nhất là các quá trình tư tưởng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.











 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 01, 2015 22:48

February 24, 2015

Di sản giữa đời thường !

 



Nghề làm tranh dân gian của
làng tôi là một thứ đặc sản của văn hóa Việt Nam mà mức độ độc đáo có thể so với
rối nước, các điệu chầu văn, các làn quan họ. Đấy là điều không chỉ người trong
cả nước biết, mà khách du lịch nước ngoài cũng biết và dân làng tôi lại càng biết.


Mỗi lần về quê, tôi lại
được mấy ông thuộc loại đàn anh trong làng nhắc nhở:

 - Chú phải nhớ rằng tranh của Đông Hồ mình là
có mặt ở những bảo tàng lớn của thế giới kia đấy.

Tôi đi một số nước, chả thấy ở bảo tàng nào có tranh làng mình, nhưng không cãi lại. 

Chỉ tự nhủ có lẽ cái nơi có bày tranh Đông Hồ ấy thì mình lại chưa tới.

Sự hào hứng  cứ coi là có đi, thì cũng chóng tàn.

 Hơn nữa, là dân sở tại, nên
so với các nơi khác, dân làng tôi còn biết thêm một điều nữa có liên quan đến
di sản làng tranh. 

Ấy là mặc dù bàn dân thiên hạ cứ khen như vậy, cứ tự hào hộ
như vậy, và tết đến báo chí cứ viết dài dài về làng tranh xưa, nhưng chả ai mua
tranh mình làm ra cả!

 Cái cảnh tết đến, lái buôn các nơi về tranh
nhau lấy hàng, thuyền đỗ nườm nượp bên sông, và từng bó, từng bó tranh sẽ theo
sông nước tỏa đi khắp chợ cùng quê - cái cảnh ấy chỉ còn là trong tưởng tượng,
và thỉnh thoảng ông già bà cả có kể cho con cháu nghe, thì cũng chẳng khác chi
kể truyện cổ tích.


Thế vào chỗ tranh Đông Hồ
xưa, ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, khắp chợ cùng quê bày bán các loại tranh in,
tranh phổ biến hiện đại, nhất là tranh Tàu.

So với tranh làng tôi làm
ra, thì các loại tranh thời nay giấy trắng hơn, màu đẹp hơn, nhất là nhiều hình ảnh
tân thời, chứ đâu quanh quẩn con lợn, con gà... Thành thử giá có đắt hơn tí
chút, người ta vẫn thích mua.

Rút cục, nghề làm ăn ở
cái làng nổi tiếng là có lịch có lề như làng tôi giờ teo tóp hẳn, chỉ còn một
hai nhà kỳ cạch làm thứ hàng thửa, hàng kỹ cho khách Tây đến xem và bán cho họ
theo giá hàng lưu niệm.

Nhưng không phải như thế
nghĩa là cả làng bó tay cam chịu, mà phần đông đã sớm tìm được chỗ để hướng sự
khéo tay và cái gu tuyệt vời của mình trong mỹ thuật vào cuộc kiếm sống - ấy là
làm hàng mã.

Đại khái sản xuất đủ thứ,
từ voi ngựa, xe máy, xe đạp, tivi, quần áo... tất cả trông cứ như thật, nhưng
thực ra là làm bằng giấy, cốt để các nhà giàu chung quanh Hà Nội mỗi dịp giỗ tết,
đốt cho người nhà của họ đang cư ngụ nơi âm phủ.

Thuyền bè sông nước cũng
không cơ động bằng chiếc xe đạp. Theo dọc sông Đuống, cả đàn bà con gái quê tôi
cũng đạp xe nhoay nhoáy, mang hàng đi phục vụ bà con buôn bán ở Hà Nội và các tỉnh
lân cận. 

Còn cái chuyện tranh gà, tranh chuột, mấy chục năm nay xếp xó, dân
làng cũng không lấy thế làm chán nản, ai hỏi vẫn tự nhận là dân làng Hồ, vẫn tự
hào về truyền thống làm tranh ngày xưa như thường.

Chỉ có những lúc mệt mỏi
quá trong cuộc kiếm sống - sau một chuyến chổng phao câu đạp xe giao hàng chẳng
hạn - những người biết nhìn rộng ra chung quanh mới chép miệng:

-- Chả bù cho làng người
ta! Cũng là di tích di sản mà chẳng phải đi đâu cả, cứ quanh quẩn đầu làng cuối
làng vẫn cơm giò cơm chả.

 Quả có như thế! Các làng chuyên nghề làm ruộng
tị với làng tôi, còn làng tôi thì lại tị với các làng bên huyện gần đấy, tuy
cũng được mang danh là di sản, song dứt khoát không nổi tiếng bằng, ấy vậy mà
dân sống mát mặt hơn hẳn.

 Nói nôm na là làng ấy có một ngôi đền, nếu
không phải DÂM TỪ  [đền thờ mọc lên tự phát] thì cũng chỉ thờ một nhân vật loàng xoàng, và đứng về mặt kiến
trúc, chẳng có gì đặc sắc.





 Có điều, sự đời bây giờ ăn ở cái tiếng: chỉ nhờ
có cái tên gọi liên quan đến sự làm ăn mà cái đền giời ơi đất hỡi ấy tự nhiên
người đến lễ bái nườm nượp. Mới đầu chỉ đông vào tuần rằm mùng một. Sau gần như
ngày nào cũng có người đến lễ. Nhất là vào những tháng trước và sau Tết âm lịch
người đông như hội, người chật như nêm, vào đền rồi, có khi đứng hàng tiếng đồng
hồ hai tay mỏi rời với mâm lễ đang bưng, mà vẫn không lê nổi đôi chân đến bên
bàn thờ.

 Những ai đi lễ mà lắm thế?

 Dân buôn, tất nhiên rồi.

 Nhưng thời buổi này, quốc doanh không chịu kém
tư nhân về làm ăn, thì làm sao lại chịu kém tư nhân về lễ bái - nghe nói ở nhiều
công ty, anh em xúm lại chuẩn bị vàng hương để "sếp" đánh xe đi làm lễ.


Và thế là đền thiêng lại
thêm thiêng và gần như cả làng bên ấy sống về cái di tích văn hóa có khả năng
sinh lời đó.

 Đàn bà đi bán vàng hương, xôi bánh, hoa quả,
các thứ hàng cúng và không quên những thứ làm no bụng người đi thờ cúng.

 Đàn ông đi trông xe, đi giữ trật tự, người nào
có dáng nho nhã và khéo học lỏm một chút còn đi làm đơn, làm sớ.

Việc cho trẻ con cũng
không thiếu.

 Tan buổi học về - đây là nói những đứa chưa tiện
bỏ học - chúng sấp ngửa chạy ra trước cửa đền. Đồ nghề chẳng cần gì, chỉ có cái
miệng khéo nói, với lại đôi tay bưng bê chắc chắn, là tha hồ dắt khách, thu nhập
đằng thằng bằng mấy lương các ông cán bộ huyện!

So với người làng tôi,
thì dân cái làng có đền thờ quý hóa ấy chẳng những thu nhập có phần hơn, mà lại
được cái sướng là hành nghề tại chỗ, bám ngay vào di tích mà kiếm sống, chứ
không phải chạy rông ra mãi Hà Nội, và các tỉnh bạn, bởi vậy người làng tôi -
cái làng tranh nổi tiếng trên đã vào từ điển - mới suy bì tị nạnh:

-- Thế mới là di sản chứ!


Câu nói buột ra tự nhiên
song đằng sau đấy tôi đọc ra cả một quan niệm mà như tôi quan sát, nó đang ngự
trị dài dài trong đầu óc không chỉ người dân làng tôi mà cả vùng tôi và nhiều
vùng đất khác tôi từng có dịp ghé qua.

 Muốn có được định nghĩa rành rọt rằng di sản
là thế này thế nọ, hãy đi tìm các sách nghiên cứu dày cộp, các loại bách khoa đứng
tên toàn những giáo sư với tiến sĩ danh vang thiên hạ.

Người thường chúng tôi
không hiểu được cặn kẽ như vậy.

Thế thì giải thích tại sao cái việc  người dân làng tôi vẫn
thuộc vanh vách cái truyền thống làng tranh của mình?



Đơn giản lắm, chúng tôi đề cao truyền thống làng tranh vì nhờ nó nghề hàng mã ngày một phát đạt.

Làng tôi đã vậy mà các làng khác cũng vậy.  Do sống giữa đời thường nên  trong tâm trí chúng tôi thực ra nằm sẵn  một cách định nghĩa riêng về mọi chuyện. 



 Cái gọi là
di sản ở mỗi địa phương phải nuôi sống được dân sở tại. 

 Di
sản không được phép không sinh lợi!


Lý do khiến cho ở nơi này, di sản được chăm bẵm tươi tốt, nơi kia hoang vắng
điêu tàn, rút cục là ở chỗ ấy. 


Khi một di sản đã sinh lợi, nếu nó không thiêng
chúng tôi biết cách làm cho nó thiêng, không có lịch sử, chúng tôi sẽ làm ra lịch
sử.


Cả
làng cả nước mà đã đồng tình thì đâu có khó!



































































Đã in Nhân nào quả ấy,2002


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2015 21:39

February 19, 2015

Làm sao để tác phẩm viết về chiến tranh còn được đọc lâu dài ?

Nhân đọc Xuân vọng một bài thơ Đỗ Phủ (712-770) viết trong

những năm chiến tranh - loạn An Sử đời Đường



春望

國破山河在,

城春草木深。

感時花濺淚,

恨別鳥驚心。

烽火連三月,

家書抵萬金。

白頭搔更短,

渾欲不勝簪。



Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,

Thành xuân thảo mộc thâm.

Cảm thì hoa tiễn lệ,

Hận biệt điểu kinh tâm.

Phong hoả liên tam nguyệt,

Gia thư để vạn câm (kim).

Bạch đầu tao cánh đoản,

Hồn dục bất thăng trâm.



Trông xuân

hoặc Đối diện mùa xuân-- dịch nghĩa

Núi sông còn mà nước đã mất,

Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.

Cảm thương thời thế, con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ,

Buồn vì ly biệt, nghe tiếng chim hót cũng thấy ghê sợ

Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền [nghĩa là còn đánh nhau nữa].

Thư nhà lúc này ngàn vạn cũng không mua nổi.

Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,

Muốn cài trâm mà chẳng được.





Bản dịch khuyết danh:

Nước mất, còn sông núi

Thành xuân cỏ chất chồng

Hoa thương thời nhỏ lệ

Chim giận biệt đau lòng

Khói lửa liền ba tháng

Thư quê đáng vạn đồng

Bạc đầu cùn mái tóc

Trâm bạc khó cài xong



Bản dịch Khương Hữu Dụng:

Nước mất nhưng núi sông còn,

Thành xuân quạnh quẽ um tùm cỏ gai.

Cảm thời, hoa để lệ rơi,

Biệt ly hoa cũng vì người xót xa.

Tháng ba rồi đến tháng ba,

Thư nhà buổi loạn đúng là vàng muôn.

Gãi đầu tóc bạc thêm cùn,

Búi lên sổ xuống, trâm luồn lại rơi.



Bản dịch Nam Trân tức Tương Như :

Nước mất còn sông núi

Thành xuân cảnh um tùm

Biệt ly lòng chim hãi

Cám cảnh lệ hoa tuôn

Lửa hiệu liền ba tháng

Thư nhà đáng mấy muôn

Gãi hoài cùn tóc bạc

Chừng tuột chiếc trâm luôn



Mấy lời chú giải và bình luận

Tôi đọc bài thơ này lần đầu qua cuốn Thơ Đường tập II (1963), chỉ láng máng cảm thấy thích vì nghe đâu nó được coi là một trong những bài hay nhất của kho tàng thơ đời Đường và đã đưa vào Đường thi tam bách thủ.



Theo Wikipedia tiếng Việt Đường thi tam bách thủ (chữ Hán phồn thể: 唐詩三百首) là một tuyển tập gồm hơn ba trăm bài thơ Đường do học giả Tôn Thù (1722-1778),còn được biết đến là ‘Hành Đường thoái sĩ’, tuyển soạn vào khoảng năm 1763 thời nhà Thanh.



Tới những năm chiến tranh 1964-75, đọc lại mới thấy thấm thía.

Trong cái non nớt của tuổi trẻ, hồi ấy tôi chỉ thích mấy câu ba bốn.

Các bản cũ ở VN thường giải thích hai câu ba bốn này như sau "Cảm thời thế nên hoa đầm nước mắt – Đau biệt ly, chim cũng khắc khoải lòng"(Thơ Đường tập II ).

Từ đó ta hiểu sự buồn bã lan từ khung cảnh văn hóa sang khung cảnh thiên nhiên, và về tu từ tức là một biện pháp nhân cách hóa đã được sử dụng



Ở phần dịch nôm nói trên, sở dĩ tôi ghi Cảm thương thời thế con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ, / Buồn vì ly biệt, nghe tiếng chim hót cũng thấy ghê sợ

là do đọc theo mấy bản Đường thi tam bách thủ do Trung quốc làm mà tôi đang có trong tay như bản của Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1993, bản tân tuyển của Nhân dân văn học xuất bản xã 1998, bản của Thời đại văn nghệ xuất bản xã, 2003…

Bản làm cho thiếu nhi của nhà Bắc Kinh thiếu niên nhi đồng xuất bản xã 1996 thì viết “Hoa [vẫn đẹp thế ] khiến cho con người rơi lệ, chim [vẫn vui thế] làm cho người đau lòng”, cũng gần với các ý trên.



Nhưng hay nhất trong Xuân vọng chính là hai câu đầu và đây là điều mà mãi sau chiến tranh tôi mới hiểu.

Quốc phá sơn hà tại Chỉ có năm chữ mà phác họa ra cả khung cảnh chiến tranh và cái hậu quả tổng quát của nó.

Cái làm ta cám cảnh chính là tình trạng nước đôi, tất cả dường như còn, mà tất cả lại đã mất hết. Cái còn chỉ làm tăng thêm vẻ bi thảm mà cái mất mang lại. Theo cách hiểu này, bài thơ toát ra một tinh thần nhân bản rất hiện đại.



Tất cả dường như còn, mà tất cả lại đã mất . Có lẽ đây cũng là tâm trạng khiến cho một ai đó đã thốt lên rằng, trong chiến tranh không bao giờ có kẻ chiến thắng với nghĩa trọn vẹn của chữ ấy.

Kẻ thù của ta càng dũng mãnh thì chiến thắng của ta càng thêm vẻ vinh quang, cố nhiên rồi. Nhưng để thắng một kẻ thù dũng mãnh như thế, hẳn ta đã trầy da sứt vẩy và trở nên thân tàn ma dại.

Sau chiến tranh, bên thắng cuộc lại thường có tính hiếu thắng tưởng mình làm gì cũng được. Họ sẽ thua trong công cuộc hồi phục là vì vậy.

Hai câu cuối bài thơ nói đến một thứ buồn bã mà con người không sao vượt lên nổi. Con người lúc này đã tiều tụy thân thể hao mòn tinh thần bại hoại, cảm giác cuối cùng còn lại chỉ là sự bất lực.



Thế hệ tôi vừa trên dưới hai mươi thì bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt mà mãi tới 4-1975 mới kết thúc. Một số chúng tôi lại có trong tay ngòi bút, chúng tôi làm thơ làm văn viết sách viết báo. Viết để làm gì? Hồi ấy cả bọn chúng tôi sống theo mệnh lệnh là viết để động viên người lính ở chiến trường. Chúng tôi không có thời gian và cũng được hướng dẫn là không cần biết là người xưa đã viết về chiến tranh như thế nào.

Thơ làm hồi chống Mỹ in ở Hà Nội thường kỵ nói về cảnh tàn phá và lại có một thứ luật lệ cấm tiệt các nhà thơ không được nói đến nỗi buồn.

Ngày nay đọc lại một bài như bài Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật -- bài thơ được đưa vào dạy ở nhà trường -- không những thấy ngớ ngẩn vì câu lý sự cùn Không có kính không phải vì không có kính – Bom giật bom rung kính rụng mất rồi --, mà còn thấy giả tạo thô thiển trong cái câu tả thái độ con người được trưng ra như một niềm tự hào – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.



Trong hoàn cảnh ấy, tôi thường nhớ lại Xuân vọng trên đây của Đỗ Phủ như một sự miêu tả khái quát về chiến tranh.

Dường như bắt đầu bài thơ, Đỗ Phủ đã chìm trong cảm giác buồn bã và ông đã để mặc cho dòng cảm xúc của mình trôi nổi, đến nỗi người ta thường cảm thấy hụt hẫng khi đọc đến những chữ cuối.

Hụt hẫng chốc lát mà bâng khuâng lâu dài.

Nhà thơ không lo lắng xem mình viết thế này đã đúng niêm luật chưa, nhất là không tính viết để làm gì, mình đang thuộc về bên nào, bên thua hay bên thắng. Ông chỉ ghi lại một cảm giác mà con người xưa nay ở địa vị ông thường trải nghiệm. Con người gánh chịu chiến tranh trong các thời đại về sau đều tìm thấy mình qua thơ ông, dù bài thơ được ông viết tính tới nay đã trên ngàn năm.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 19, 2015 23:41

February 17, 2015

Truyện ngắn CHỢ TẾT của Nguyễn Minh Châu

  Sự bế tắc trì trệ
-- đó là cảm tưởng bao trùm  của nhà văn Nguyễn Minh Châu về
xã hội Việt Nam sau chiến tranh và điều đó được khắc họa đậm nét qua
thiên truyện sau đây bạn đọc sẽ đọc.



Sau bài Tiếng
kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu
, khi làm công việc xoát sét
lại bản đánh máy này để giới thiệu với bạn đọc, tôi nhận ra nó có
một sức khái quát lớn.


 Không chỉ cái hồn
cốt bao trùm khung cảnh sự vật mà như từng nhân vật trong truyện cũng
quy tụ về chủ đề  chính.


Hãy chú ý rằng hai lần
tác giả lưu ý sự lặp lại đến không ngờ giữa các thế hệ. Ông lái đò nay làm
người đi xa về tưởng là ông lái đò xưa còn sống, hóa ra chỉ là con trai
ông ta. Mà giữa cô bé bán báo và  mụ Tề bán cá, hai mẹ con tưởng là khác nhau bao
nhiêu,  hóa ra vẫn chung những nét quen thuộc làm nên thân phận người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu.


 Khi bảo rằng thời
gian qua đi mà chẳng để lại dấu vết gì trên bóng dáng con người, tức là trong tâm trí nhà văn đã ấp ủ
một điều không tiện nói ra: chẳng những xã hội ta không vận động đi lên mà còn
đang trong một bước lùi khó gỡ.


Một khía cạnh cũng
khiến người đọc hôm nay có thể bất ngờ là cái yếu tố mà -- trong con
mắt nhân vật Định --, là giải pháp duy nhất khiến cho sự hỗn loạn tan nát này bị tạm thời đẩy lùi, dù sau đó lại chìm sâu vào trì trệ chắc chắn hơn: đấy là bạo lực. Với việc nhắc lại mấy lần chi tiết ngọn roi đuôi cá đuối của lão coi
chợ, và cả cái triết lý cai quản chợ búa của lão nữa,  tác
giả như đã thông qua cái chợ để nói lên  tình hình chung của xã
hội.


Ngoài những tác phẩm
viết trước 1975, Nguyễn Minh Châu còn có những tác phẩm viết sau chiến
tranh được dư luận mấy chục năm nay công nhận và coi như một bước
phát triển mới của ngòi bút.


 Nhưng công nhận là một chuyện còn chỉ ra đúng, đâu là những thay đổi cốt tử ở nhà văn, lại là một chuyện hoàn toàn khác.

 Theo tôi, việc một thiên truyện như Chiếc thuyền ngoài xa được mang ra
giảng dạy ở trường phổ thông nên coi  là chưa xác đáng với nghĩa nó
chưa nói được cái mới mẻ dứt khoát giống như một sự đảo ngược ở  Nguyễn
Minh Châu sau chiến tranh.


 Trước khi  cho
những ý nghĩ trong bài Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn
văn nghệ minh họa  
hiện hình trên mặt giấy 
( báo Văn Nghệ  5/1201987), nhà văn đầy tâm huyết này đã nhủ thầm trông đầu
óc mình nhiều lần và cũng đã có những sáng tác để ghi nhận bước chuyển biến dứt
khoát trong tư tưởng của mình.


Nên có thể nói những tác
phẩm đáng lưu ý của Nguyễn Minh Châu sau 1975 chính ra phải là Khách ở quê ra, Cỏ
lau
, và cũng nên kể cả Chợ Tết  mà do sự xuất hiện lẻ loi, lại chỉ có một số phận rất bạc bẽo.  

 Khoác
ba lô đứng bên chiếc cầu gãy giữa làng mình, Định nhìn thấy một ngọn roi bằng
đuôi cá đuối quật vun vút vào không khí phía trên đầu đám người đang họp chợ.


Cũng
chẳng nhìn rõ mặt mũi một ai, chỉ thấy lố nhố một đám nón, rặt nón mê xỉn một
màu lúi húi cúi xuống những cái mẹt cá.

-
Hai, bốn, sáu,... Quân tuyệt tự tuyệt nọc... tám, mười... -- đám đàn bà kẻ biển
cùng kẻ buôn chẳng kịp ngẩng lên, buông một tiếng rủa giữa lúc mải miết đếm cá.


-
Mày còn chửi cà. Mày là đứa nào? Ngọn roi quất xuống một nhát trên chóp một cái
nón mê đã bật vành. Lập tức một cái mặt đàn bà ngẩng lên, một mớ váy, yếm cũ
rách phấp phới bật vùng dậy giật phắt lấy thanh roi trên tay lão già mặt đỏ gay
mắt trắng dã.

Lão
đàn ông kia đâm quàng bỏ chạy, miệng kêu: "Ả đuổi tui, nó lấy mất hết cá
cà!".

 Bị mụ đàn bà rượt một vòng, nhưng khi chạy qua
trước mặt Định,  lão đàn ông tự nhiên
đứng sững lại.

-
Chao ôi kìa bác Đất - Định la to - em tìm vào nhà thờ họ chẳng thấy anh, phải
ra đây. Mụ đàn bà rượt tới, mớ yếm áo tanh rềnh mùi cá tươi cũng dừng lại, có
vẻ nhận ra Định, vừa ngỡ ngàng mừng rỡ, vừa xấu hổ.

Định
nhìn. Thoạt đầu chẳng nhớ ra ai. Trên mười năm nay Định mới đảo qua làng vài
lần, mà lần nào cũng vội vội vàng vàng y như cái lần cuối năm này. Chỉ láng
máng nhận thấy chắc xưa cũng là một người con gái có sắc ở trong làng.

Mụ
đàn bà mỗi lúc một xấu hổ. Mụ vứt chiếc roi xuống chân người đàn ông rồi y như
người đang đi trốn, cắm đầu chạy.

 Đến lúc bấy giờ Định mới sực nhớ.

Trong
bụng toan chạy theo nhưng lại sợ chỉ làm nguời đàn bà  thêm xấu hổ.

 Từ trong xa xôi, Định nhớ lại một ông chú họ
rất hiền hay mặc chiếc áo lụa mỡ gà thường ngồi sau một hàng ngăn kéo dán những
tờ giấy đỏ viết tên các vị thuốc bắc và tà áo dài trắng của Tề có rây vài vệt
mực tím từ trong dãy phố chợ đi ra giữa hai hàng cây chè tàu. Nhưng quả táo tàu
cất trong cặp sách Tề hay dúi cho Định. Chắc chắn giá không có họ với nhau thì
Định đã lấy Tề.

Lão
Đất cười, há cái miệng đỏ hỏn như miệng trẻ con mới đẻ phả đầy hơi rượu một hồi
lâu sau mới thốt ra được mấy tiếng lắp bắp. "Con Tề. Con Tề con nhà chú
Lưu chả lẽ chú Định không nhớ?", rồi hỏi:

-
Anh em nhà chú ngoài ấy có nhận được cái giấy tôi đánh ra không?

-
Có, Định đáp, vì thế mà áp tết em cũng phải ghé về. Xem ở nhà cần công việc gì.


-
Chú đã đảo qua lên chỗ thằng Khúng chưa?

-
Chưa.

-
Ở nhà anh em vừa bàn kỳ này dựng lại cái nhà thờ họ, lại còn hai cái mả của ông
bà thân sinh chú, hồi này thằng Khúng nó ít về làng quá, tui đã đắp nhiều bận
nhưng trâu bò nó phá tợn lắm.

-
Em ơn anh. Trưa nay em nhờ anh dẫn ra ngoài mộ... Nhà anh bây giờ ở đâu?

-
Đây, đây. Thì tui đang dẫn chú về. Ở nhà tui chơi ra ngoài giêng tế tổ rồi hẵng
đi.

Ông
anh họ cắp ngọn roi cá đuối vào bên nách, cánh tay bên kia quắp lấy cánh tay
Định lôi đi giữa hai hàng nón vẫn cúi gập xuống lúi húi trên những mẹt, những
thúng cá.

"Vào
trong chợ. Vào trong chợ hết không thì chết!" Lão Đất giắt Định len bàn
chân vào được đến đâu lại tiếng quát thét đến đấy.

 Chẳng một ai thèm nhúc nhích.

 Mấy lần đã toan rút thanh roi ra nhưng chắc
hắn ngại có Định bên cạnh nên lão Đất chỉ khuỳnh khuỳnh cánh tay rộng hơn để
thị oai, đi qua mẹt cá nào lão lại lấy bàn chân đá nhẹ một cái, gọi tên từng
người mà bảo: "Vào trong chợ. Vào trong chợ mà họp không thì chết!"

Rồi
bất ngờ lão quay hẳn người về sau, rút chiếc roi kẹp trong nách, quắc mắt dứ dứ
về phía chiếc cầu gỗ dài chưa đầy chục thước đứng cao chênh vênh giữa trời đã
bị tàu bay Mỹ cắt làm đôi, lão lại nhắc lại cái câu ban nãy bằng giọng hăm doạ
tợn tạo hơn.

 Dưới chân cầu toàn cọc sắt lừ đừ.

 Từ bên kia trôi sang một chiếc đò gỗ nêm đến
chật ních người đi chợ bán cá, hai bờ sông nhầy nhụa bùn nước mặn khoảng cách
khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò.

Dòng
sông nước mặn như khúc lòng lợn lượn vòng vèo dưới chân cầu, trịnh trọng chảy
qua một cái bến lát đá Thanh trước cổng ngôi đền làng. Cái "bến đền
làng" nổi tiếng ấy chắc Tề còn nhớ, Định thầm tự hỏi, hai đứa có lần rủ
nhau tụt xuống ngồi tận hàng bậc đá cuối cùng, vừa ăn những quả táo tàu, vừa
nhìn ra những chiếc thuyền chở vôi, chở nước mắm đều gác mái chèo, chỉ chống
sào để khỏi làm kinh động ngôi đền - bây giờ những hàng ván bia gỗ dựng xen với
hàng rào nứa chạy dài ôm bọc suốt cả bốn mặt ngôi đền linh thiêng như những dãy
hàng rào chống thú.

Định
ngơ ngác. Những luỹ cây um tùm đầy huyền bí không còn. Ngôi đền làng không còn.
"Công ty ngoại thương hải sản" chỉ còn mấy chữ treo trên ba lối của
của ngôi cổng đền sụp đổ. Định ngơ ngẩn dừng chân cố tìm hai bức hình đắp nổi
"ông Thiện" và "ông Ác" đứng dựa lưng vào bức tường cổng
đền làng nhìn ra khúc sông, trong khi đọc hàng chữ kẻ nguệch ngoạc trên một tấm
gỗ mộc.

Lão
Đất đưa Định về đến nhà.

Lão
chống thanh roi đứng giữa nhà kiêu hãnh nhìn theo Định đang ngắm ngôi nhà của
mình. Một cái nhà hầm nửa nổi nửa chìm. Nửa nhà ghép bằng những tấm ván tháo
rời từ các hòm chứa đạn pháo cao xạ, một nửa nhà ghép bằng gỗ ván thuyền bị tàu
bay Mỹ bắn cháy dọc các bờ bãi.

 Ở ngoài Hà Nội, từ nhiều năm Định đã biết cái
nhà thờ họ thuộc chi thứ của mình bị trúng bom.

 Lão đất đã cất công khuân về bảo quản ở đây.

 Một đống gỗ, toàn gỗ lim, cái kèo, cái cột,
cái trạm trổ, cái chỉ bào xoi chất một đống áp trước cửa.

Định
nhìn thấy giữa đống gỗ một hai bức ván chạm long, quy hai lớp, và một cây cột
to lại dài như cột đền. Chắc là lão Đất đã lấy của đền cho cái nhà thờ họ sắp
dựng lại.

Bên
trong nhà bày biện y như một viện bảo tàng chiến tranh. Vì đây nguyên là ngôi
nhà sở chỉ huy của một đại đội pháo cao xạ 57 bảo vệ vùng biển. Trên bức vách
gỗ hòm đạn còn lưu lại một hàng tờ giấy to vẽ đường bay của địch từ ngoài biển
lao vào, từ trong Cầu Bùng ra, từ trên rừng lạc xuống.

 Lão Đất quả là một trưởng họ không thể chê vào
đâu được. Những cái gì bài trí trong ngôi nhà thờ họ trước đây còn giữ lại được
sau trận bom đều được lão sắp xếp gọn ghẽ trên một chiếc hương án và một chiếc
án thư kê sau lưng hương án, đúng như sự sắp đặt trong ngôi nhà thờ ngày trước.
Thành thử trên cái nền nhà, chỗ để ở chẳng còn mấy.

Định
ngắm hồi lâu một bức ảnh đóng khung treo giữa bức vách ván truyền, hai bên cắm
hai bông hoa giấy. Mũ bình thiên, quân hàm vai, hai "miếng tiết"tô
phẩm đỏ trên hai ve áo quân phục.

Chủ
nhà vừa chạy ra bên ngoài trở vào, ôm bên nách cái chai, miệng há ra một hồi
mới nghe tiếng hỏi:

-
Chú biết ai đó không?

-
Cháu Đất. Chúng em ở ngoài đó có biết tin buồn cháu Đất hy sinh...

-
Thằng Đất, thằng con đầu của tui nó hy sinh rồi chú Định ạ. Nó mất trong nam.

Định
biết ông anh họ mình có những ba đời vợ, người kẻ ruộng, người kẻ rừng, người
kẻ biển, vì thế mà con cái đông, Định không biết xuể. Định chỉ nhớ mặt hai người
đầu là thằng Đất và con Cát. Còn cả một dây sau lão cứ thứ tự mà đặt tên theo
câu "Non xanh nước biếc". Những đứa sinh sau cùng phần lớn với người
vợ kẻ biển hiện giờ, chắc là về già nguồn thơ văn của lão đã cạn cho nên chúng
mang những cái tên ít hay.

-
Nhà đi đâu hết cả, anh? Định hỏi.

-
Cả nhà tui sáng nay đang mở chiến dịch vây ráp - lão Đất đưa mắt nhìn ra trước
nhà, thở dài hắt ra - đó chú coi, phiên chợ ba mươi Tết, lều quán đã dựng xong,
đàng hoàng to đẹp như vậy mà cả nhà tui toả ra lùa khắp các ngả trong làng như
lùa giặc, chúng nó vẫn không chịu vào họp. Bạ đâu họp đó. Chú Định, chẳng lẽ
chú cũng không còn nhớ cái chợ làng ta chính là ở tại đây hay sao?

Định
leo lên cái gờ đất uốn hình vành khăn, cao như bức thành, chân gờ đất choãi ra
đạp cả vào bức vách gỗ bên hồi nhà.

Đứng
trên bờ thành công sự, khẩu đội pháo bộ đội đã rút đi từ lâu nhìn ra tứ phía,
cái chợ lâu đời ngày xưa bây giờ chỉ thấy hố bom, những đường giao thông hào
nói liền ba ụ pháo cao to sừng sừng như quả núi, một ụ nằm tận sát ngoài bến đò
chợ.

Trên
nền đất lồi lõm, mấp mô mới dựng lên chơ vơ hai chiếc lều bằng nứa lợp phên
tranh.

Mới
thấy dọn trong một ngôi lều là một cái sạp sách của cửa hàng sách quốc doanh,
mặt hàng chủ yếu được bày là những bức tranh cá chép, tranh mâm ngũ quả, cùng
mấy bộ liễn.

Tận
góc khuất một ngôi lều khác là một lão thầy bói mặc chiếc áo Tôn Trung Sơn mầu
xám như một cán bộ thuế vụ, chẳng biết sáng hay đui, mắt kính đen ôm nửa mặt,
hai bàn tay rờ rờ trên mặt chiếc tráp bằng hòm đạn.

Lão
Đất thoắt biến mất rồi lại về nhà với cây roi cầm ngang trên tay, mặt mũi hầm
hầm đầy giận dữ, cùng Định tợp mấy chén rượu nhấp với mực khô. Định cầm chén
rượu ngồi nhìn ra một ngả vào chợ - vẫn là cái lối đi vào chợ ngày trước nhưng
nhà cửa, sân vườn hai bên đều đã hoang tàn. Định đoán mấy chục năm qua ông chủ
cắt thuốc bắc đã mất nhưng vẫn hỏi:

-
Chú Lưu còn sống không anh?

-
Chết từ bao giờ rồi ấy chứ còn hỏi.

Định
vẫn cầm chén rượu, ngó qua ngó lại cố tìm một khoảng vàng óng ánh của mớ dây tơ
hồng leo trùm lên một bờ cây chè tàu xén vuông góc thẳng tắp nhưng Định chỉ
thấy trên lối đó những bức rào nứa đan mắt cáo đổ dúi dụi và phía sau là những
nếp nhà ngói bị tốc mái.

-
Này anh, Định lại hỏi, Tề... có còn ngoài chỗ đầu cầu không?

-
Nó sợ gặp lại chú hay sao ấy, đã bán tháo mớ cá, về nhà rồi.

-
Em xem cô ấy... hình như bây giờ vất vả?

-
Lại còn vất vả? Khổ nhục như con chó, tính nết cũng khác đi. Thằng chồng nó
đánh, mấy lần đã chạy đi trẫm mình.

-
Nhà ở đâu?

-
Bên kia sông. Nhưng con gái nó đang bán sách ngoài lều ngay trước mặt nhà mình
đây này.

Lão
Đất lại đưa mắt nhìn ra cái vùng đất bãi chiến trường trước nhà lão mới lác đã
thêm vài hàng xén, vài hàng cá, một tay có vẻ dân "cà lơ" và một lão
thợ rèn vừa đến đặt lò bệ bên cạnh lão thầy bói.

Một
cái chợ chết đi sáu bảy năm đang sống lại.

Lão
Đất được uỷ thác trọng trách làm công việc này, vì biết chỉ có bàn tay lão mới
làm nổi. Vì sáu bảy năm trước, cùng với ngọn roi bằng đuôi cá đuối ấy lão đã
giải toả được chợ, khi thằng địch leo thang từ trong Cầu Bùng ra.

Xem
trong ý tứ, cả hai lần, giải toả chợ hay nhóm lại chợ, lão Đất đều làm tận tuỵ
và đầy hứng thú. Cũng như suốt đời lão đã làm tộc trưởng chi họ một cách tận
tuỵ và đầy hứng thú.

 Định hiểu kỹ ông anh họ của mình lắm. Đấy là
cái máu mê của bất kỳ một anh nông dân nào. Thích nhoi lên làm người cầm đầu,
thích uy quyền.

Lão
Đất vội vã cắp cây roi vào nách, bảo Định:

-
Hay là chú đi với tui.

-
Đi đâu?

-
Đi đâu thì đi.

Theo
lão đến trước cổng đền, Định lại đưa mắt nhìn ra khúc sông thiêng, nhìn ngọn
roi bằng đuôi cá đuối lởm chởm gai lăm lăm trong tay người anh,

-
Anh lại ra chỗ hàng cá?

-
Đáng lẽ tui đã tập trung xong mấy phiên trước rồi mới phải. Chú có biết ngày
giải tán chợ, tui làm mau hơn bây giờ không?

-
Vì sao?

-
Tại vì có bom thằng Mỹ nó thúc vào mông cho. Cái quân hàng cá làng mình chỉ ưa
nặng.

Nói
rồi lão Đất đi vượt lên. Định đứng lại trước cổng đền nhìn theo, thấy lão leo
lên cái mố cầu đứng nói mấy câu rồi hầm hầm chạy vào giữa đám nón đang nhấp
nhô. Như thế là, lão đã quyết định thay đổi đường lối hoà bình bằng thái độ bạo
lực. Lão không đánh vào không khí mà giang tay quát thực lực vào người ta, tay
đánh chân đá tung những mẹt cá.

Hai
ba mụ đàn bà nhe răng ra, lao vào lão. Còn lại bao nhiêu sợ hết vía, ai cũng
nghĩ phải làm sao giữ được cá, liền ôm lấy những thúng, những mẹt cá chạy rần
rật, cả đám đàn bà kẻ buôn người bán xô nhau chạy một mạch vào trong chợ.

Lão
Đất áo quần tơi tả, đứng cười ngất. Thừa thắng lão vác thanh roi đi giải toả
những cái chợ lẻ khác. Cánh hàng quà, hàng hương, đám người bán hoa giả, hoa
thật cũng chỉ sợ hỏng mất hàng, mới nghe sự kiện xảy ra ở chợ cá đã ngoan ngoãn
gồng gánh vào chợ.

Thật
đơn giản, lại mau lẹ.

*


Quãng
quá trưa, khi định được lão Đất giắt đi dụi mả bố mẹ mình trở về thì cả khu chợ
đã đông nghịt. Nhất là không khí của nó đã ra dáng một phiên chợ Tết.

Trên
mảnh đất bom đạn và chiến tranh đã nhào nặn đến biến dạng, Định có dịp thấy tất
cả những gì quen thuộc với Định từ nhỏ, chính Định cũng đã quen đi, thì nó vẫn
còn đó. Định thích thú ngắm nghía những con lợn đất sơn đỏ, những chiếc kèn
cũng bằng đất vắt hình con gà trống, những nhánh hoa thờ với những bông hoa
bằng giấy kim tuyến lỗ chỗ vết kim châm.

 Chen lấn giữa đám con nít bâu quanh một chiếc
bàn, Định đứng xem một anh chàng đội mũ phớt tàng, mặt rỗ hoa đang vắt con
giống. Từ một hàng những những vắt bột nếp nhuộm màu ngũ sắc với một chiếc que
tre, mười ngón tay cứ thoăn thoắt trong nháy mắt đã làm sống lại những Phàn Lê
Hoa, những Quan Công, v.v..

Bánh
mướt, bánh xèo... Định la cà suốt một dãy bán miếng chín quen thuộc với Định từ
bé. Định đi dưới giao thông hào, leo lên bờ hố bom. Các dãy hàng cá, hàng gạo,
hàng vôi, hàng nồi đất..., lão Đất chỉ có việc dùng roi xô người ta vào, ấy thế
mà đến lạ, thật không thể nào hiểu nổi, ai ngồi đâu lại ngồi đấy, tự sắp xếp
như sáu, bảy năm về trước, y như tự nó cuộc sống đã có một thứ ký ức đầy chuẩn
xác.

 Định buồn rầu nhận thấy chính vì thế, mặc dầu
mặt đất bị xáo trộn nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại.

Một
cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen
thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời, và chả có gì bị phá vỡ đang
phô diễn trong phiên chợ Tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động,
song sau đó hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt, và sợ - Định
tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái
guồng quay đầy luẩn quẩn.

Lão
Đất mặt mũi rạng rỡ, miệng phả ra hơi rượu, hét vang cả chợ trong khi khệnh
khạng đi lại phía Định: "Đó chú coi, tui không ra roi thì làm sao có chợ?
" (Định nghĩ thầm, buồn rầu: Mà lão nói đúng thật!).

Lão
véo má chị bán trầu, cầm một lá, chạy sang anh hàng vôi quẹt một tý, lại sang
bà hàng cau, vốc một nhúm. Lão nhai bỏm bẻm. Rồi dạo qua trước mặt mấy o hàng
xén, lão trút hết nắm cau khô cầm trong tay cho họ, nhặt một vuông khăn mặt
bông vắt lên vai.

Đầy
vẻ phong tình, lão í ới hát:

"Nhớ ai lệ chảy bùi ngùi

"Khăn lau chẳng sạch, áo chùi chẳng khô.

Rồi
lại còn phong tình hơn nhiều nữa, lại lại hát:

"Đêm nằm vuốt bụng thở dài.

"Bụng ơi bụng hỡi vì ai bụng tròn.

Đấy
là mẹo cao của lão. Mấy o hàng xén chưa chồng đỏ mặt lên giật nẩy người xua lão
ùi ùi như đuổi tà. Cầm chiếc khăn mặt bông vắt sang vai bên kia, lão bước đến
trước mặt lão thầy bói.

-
Ông người đâu? Lão Đất hỏi.

-
Tui người trên Nhân Sơn xuống.

-
Cái gì đây? - Lão Đất lôi chiếc khăn mặt bông trên vai xuống.

-
Không thấy. Tôi đui.

-
Nghe tiếng, ông có biết tui là ai không?

-
Tiếng thì không nhưng nghe giọng thì biết.

-
Vậy là ai?

-
Ông chủ tịch xã.

-
Tui còn to gấp mấy chủ tịch xã.

-
Bẩm thưa, chắc ông là chủ tịch huyện? Lão thầy bói sợ hết vía.

-
Tôi còn to gấp mấy ông chủ tịch huyện ông biết không? Vậy thì ông nghe tui nói
nhé. Nghề ông là nghề mê tín dị đoan. Chính phủ cấm. Ông hiểu không?

-
Thưa ông chủ tịch huyện...

-
Lại tự do... cái gì chứ gì? Phải rồi, gọi là tự do tín ngưỡng. Chữ với nghĩa
đếch gì mà như hóc xương cá... Tui là chủ tịch huyện mà ông còn định dạy chính
sách cho tui hử? Chỉ nôm na thế này, tui là quản chợ. Có thêm ông thì chợ Tết
mới ra chợ Tết. Mà vui. Ngày thường cũng vậy. Tui không cấm. Chính phủ cấm
nhưng tui đây không cấm. Tui chỉ bắt ông tuân theo hai việc. Việc thứ nhứt là
đóng thuế lều, lại thuế chợ. Việc thứ hai là ông phải đoán quẻ cho ai nấy đều
vui vẻ cả. Con cái người ta ở ngoài chỗ hòn đạn mũi tên không ai chết. Thuyền
bị giông bão ở ngoài biển không đắm. Nhà tui ở kia kìa. Tui ngồi trong nhà mà nghe
mấy mụ đàn bà khóc bù lu bù loa lên giữa chợ là không được.

Định
đứng dựa cây cột lều chờ nghe lao Đất ban bố chính sách chợ đối với lão thầy
bói xong mới dám đến gần, nắm lấy cánh tay lão lôi đi.

Vốn
là đám mấy anh em Định ở ngoài Hà Nội đều là cán bộ nhà nước cũng tự coi mình
như cánh làm nên trong họ, mà họ hàng ở nhà cũng trọng vọng, lấy đấy làm điều
tự hào.

 Bức thư của lão Đất gửi ra, ông anh đầu của
Định đọc kỹ lắm. Ông anh đầu của Định là một nhà khoa học trong quân đội, đã đi
ra nước ngoài nhiều, khi về hưu đóng đến cấp đại tá.

 Ý kiến của cái ông trưởng ở ngoài ấy là kỳ này
mấy anh em sẽ cúng vào nhà thờ họ một chiếc trống.

 "Chú Định ạ, lần này về, chú hãy cố mua
một chiếc trống, mà phải là một cái trống cái".

 “Cồng kềnh. Hay là em mua một chiếc trống bé ở
đây mang về?"

 "Chú thiển nghĩ lắm. Mà chỉ lười!".

Ngồi
với ông anh một lúc, Định mới kịp nghĩ ra và cười ầm lên. Một nhà khoa học mà
rồi cuối cùng vẫn là một anh nông dân, vẫn mang đầy đầu óc một anh nông dân, mà
cao thâm lắm, cái trống cái do mấy anh em Định cúng vào nhà thờ họ đánh lên
trong ngày Tết nghe oai linh biết bao, mấy anh em Định không có mặt mà cũng như
có mặt.

Lão
Đất và Định đứng dưới mái lều nghe tiếng trống các loại đánh cứ rộn lên ở đâu
đó ngoài khu chợ. Nghe tiếng trống, bao giờ lão Đất cũng thấy trong người không
yên một chút nào, dường như mỗi đường gân, mạch máu, thớ thịt của lão cứ rung
lên, vừa cuồn cuộn trỗi dậy đầy hứng khởi lại vừa bủn rủn, hai chân lão vừa
muốn chạy phóng lên phía trước lại vừa muốn chạy giật lùi về sau.


lẽ từ đời tổ tiên đã để lại trong đáy lòng của lão cùng với tiếng trống là giặc
dã, là giặc lụt, là sự hiện về của ông bà, thần linh.

Lão
Đất không dám ra doi với đám bán trống, kiềng mặt chúng, lẽ vì thế. Sáng nay
sau khi đã dẹp xong hết các nhóm chợ, lão có đến nhắc nhở. Đến bây giờ duy nhất
chỉ đám hàng trống là vẫn đang còn nhởn nhơ ở ngoài, trên mấy miếng ruộng dùng
làm giường mạ sau lưng đền.

Đặt
chân đến đây thái độ lão Đất hoà nhã hẳn.

 Cầm dùi đánh thùng thùng vào mặt lại gõ cách cách
vào tang, thử mãi, lão quyết định mua một chiếc trống cái không lớn nhưng mặt
căng, gỗ tang không hứa hẹn bị mọt.

-
Ông mua cho trường học hay cho việc họ? Kẻ bán trống, một anh dân mạn xã trong
quấn khăn đầu rìu hỏi lão, chẳng biết hỏi thật hay bỡn.

-
Tôi là lão Đất, quản chợ. Tôi mua cho việc họ.

-
Nhốt chúng tôi vào trong chợ thì chỉ điếc tai thiên hạ. Ông cho đám chiêng
trống chúng tôi ở ngoài này là phải. Vậy mà mấy mụ hàng cá đến là hay đơm đặt.
Họ vu cho ông đánh họ phải không? Láo ! Láo!

-
Giá bao nhiêu cái trống?


hàng trống quấn khăn đầu rìu rõ ràng là muốn chọc tức lão Đất chơi, trả thù cho
cánh hàng cá. Hắn gọi một cái giá mà lão Đất biễt là gọi xỏ.

 Lão Đất cũng không nói gì, thậm chí lại còn
chào rồi mới đi.

 Lão tức như bị bò đá nhưng lòng trân trọng đối
với tiếng trống linh thiêng vẫn khiến lão ngậm miệng. "Anh em chú đã có
lòng với họ thì trao tiền cho tui, lão nói bằng giọng buồn bã, ra giêng cha con
tui vào trong Cầu Bùng mua khiêng ra".

Định
an ủi lão nhưng trong lòng rất lấy làm phục gã bán trống.

Đi
sau lưng người anh họ trở về trong chợ, đi qua một cái bờ rào nứa đan mắt cáo
của nhà ai. Định lại nhớ khu vườn xưa với những rặng cây chè tàu, nhìn người
đàn bà nào trong chợ với yếm, váy tơi tả, xơ xác. Định cũng sực nhớ đến Tề cùng
những ngưòi làng vất vả vì miếng ăn, chưa trẻ đã già.

Định
giật mình nhận thấy một điều hiển nhiên là giá anh em Định vẫn cứ quẩn quanh ở
làng thì cũng như họ, cũng hoà nhập vào cái guồng quay số phận ấy. Định, các ông
anh Định lại gióng y hệt như người anh họ, như lão Đất.

*


Lúc
bấy giờ, trong một ngôi lều, cô gái coi sạp hàng sách quốc doanh đang đổ ngả
nửa người xuống giữa mớ tranh tết, hàm răng trắng nõn nhe ra cười, mải nhìn ra
một cái hố bom ngay trước mặt lều, ở đấy cả góc chợ đang nháo loạn lên. Có một
con lợn giống bị sổng rọ, người ta đã lùa được chú lợn xuống đáy hố bom nhưng
không sao bắt được. Cô gái mải xem trò vui, đến lúc quay nhìn sang bên cạnh mới
thấy một ông khách đã có tuổi đứng đó không biết từ bao giờ, đang nhìn mình. Cô
ta vội đứng thẳng dậy.

-
Tranh tết năm nay in đẹp lắm, bác ạ. Bác mua đi. Hay là bác mua đôi câu đối.

Định
cầm lên một bức cá gáy vượt Vũ Môn, ngó qua.

-
Cháu tên là gì?

-
Thưa bác, cháu tên là Kim.

-
Cháu là con thứ mấy của mẹ Tề?


gái tròn mắt:

-
Cháu là thứ tư. Bác biết.. mẹ cháu?

-
Bác là Định, ở ngoài Hà Nội về. Bác cháu mình có họ với nhau đấy.

-
Chắc là họ bên ngoại, bên mẹ cháu. Bác cũng tế tổ ở nhà thờ bác Đất?

-
Phải. Mẹ cháu có khoẻ không?

-
Mẹ cháu khoẻ lắm. Mời bác sang nhà cháu chơi.

-
Cảm ơn cháu. Cháu được học đến lớp mấy.

-
Cháu học được ít lắm. Nói giấu gì bác, nhà cháu vất vả lắm.

-
Bố cháu làm nghề gì?

-
Bố cháu thì cháu... chẳng biết nói ra sao. Mai, mồng một, mời bác sang chơi.
Nhà cháu ở bên kia đò.

Định
mua một đôi câu đối. Định cuộn lại cầm trên tay, lại mua một ít quà bánh ngoài
chợ.

Chiếc
đò chợ lui tới giữa hai bên bờ bằng một khúc dây chão to như con trăn, lúc nào
cũng sũng ướt, đầu bên này buộc vào một chiếc cọc sắt chôn chân bên ụ pháo.
Nhìn người đàn ông kéo đò, Định tưởng thấy thời gian ở đây hàng mấy chục năm
qua như ngưng lại. Vẫn nguời kéo đò ấy, trạc ngoài năm mươi, tiếng nói chỏn
lỏn, mắt lông quặm lúc nào cũng đỏ rựng, một vuông khăn đen của đàn bà chít ôm
sát lông mày nom như hiệp sĩ Tàu. Ngày chưa cắp sách đi học, bám váy mẹ đi chợ
Tết Định đã nhìn thấy ông ta như thế. Quái quỷ, chẳng lẽ người kéo đò không
già, không chết?

Định
hỏi thăm mấy người chung quanh, thì được biết người kéo đò cũ đã chết từ lâu,
và đây là con người kéo đò ngày trước.


bên kia đã là xã khác. Tề đi lấy chồng khác xã ở bên kia làm ăn còn khó khăn
hơn bên này. Định leo lên ụ pháo đứng nhìn sang. Một dải chi chít những mái
tranh nằm kề những nại muối vào mùa đông vắng tanh, và giát những trạt bãi đất
phẳng lỳ mênh mông, không một bóng cây.

Định
biết ở đấy vào vụ hè dưới trời nắng chang chang chỉ có giọt mồ hôi mặn của con
người pha với giọt nước biển mặn để đúc nên hạt muối mặn.

 Định muốn sang nhà gặp Tề nhưng lại sợ Tề càng
xấu hổ vì nhà cửa. Mấy lần ông kéo đò khoát tay giục nhưng Định vẫn đứng đó.

Chợt
Định nhìn thấy một bóng thiếu nữ vừa chớm nhớn vận chiếc áo cánh trắng duyên
dáng chạy vụt xuống bến đò như một làn ánh sáng, khiến Định lầm tưởng cô em họ
ba mươi năm về trước. Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao nếu gắn chặt
với những làng xóm quê nhà yêu dấu?

-
Kim!

-
Bác, sao bác đứng đây? - vẻ vồn vã của Kim sao mà giống Tề ngày trước, đầy vẻ
trẻ con - hay là bác cùng sang với cháu...

-
Rồi bác sang - Định lưỡng lự một chút - hay là cháu về bảo với mẹ cháu là đến
trưa mai, bác còn ở bên này.

Định
trao vào tay Kim gói quà, lại cả đôi câu đối Tết. Định cũng đâm ra nhác đọc, mà
câu đối Tết năm nào chả viết những câu như mọi năm trước?



11-87 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 17, 2015 23:42

February 15, 2015

Một cách "hiểu ngầm" về tết và xuân chỉ riêng con người thời nay mới biết



Bài đã đưa trên FB của tôi 14-2-2015



Có lần tôi đã định soạn một cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HÓA RỞM, nhưng rồi lại không đủ sức đi tiếp. Sau đây là mấy đoạn viết nháp có liên quan đến ngày Tết



TẾT

Những ngày vui đầu năm khiến nhiều người nghĩ tới vừa mừng vừa sợ. Một dịp để người ta tự cho phép có thể sống buông thả, do đó cũng là lý do để khôi phục nhiều hủ tục như chè chén lu bù, rượu chè cờ bạc dông dài. Ca dao cổ : Tháng giêng là tháng ăn chơi -- Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè ...

Một bằng chứng về tình trạng trung cổ của xã hội mà chưa biết bao giờ ta mới vượt qua được

(chữ trung cổ là do tôi mượn của Xuân Diệu.

Xin xem bài viết Đúc tết lại trên blog của tôi


CHÚC TẾT SẾP

Từ mới xuất hiện, thay cho từ cổ lễ tết quan trên hoặc lễ tết thương cấp. Thời điểm lý tưởng để bày tỏ sự biết ơn và đầu óc ăn chia sòng phẳng của một kẻ từng được che chở sau một năm làm ăn vất vả. Cũng là tình huống để kẻ đến biếu chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc đối với cái gu của cấp trên, phát hiện kịp thời những gì mà nhà sếp còn thiếu, hoặc đặc biệt ưa thích -- , và tài lùng sục những của được coi là lạ hiếm.



HÁI LỘC

Tục cổ đúng lúc giao thừa bẻ một nhành cây trong vườn mang vào nhà để mong gặp may mắn, nay đã biến tướng thành ham muốn lén bẻ đại cành lá ở những nơi công cộng, vừa là kiếm thêm ít lộc ngoài đường, vừa thoả mãn ý muốn làm bậy trong những lúc sống giữa đám đông. Nhiều người biết là một thói quan xấu song vẫn thích làm.



MỪNG TUỔI(lì xì)

Trong không khí vui vẻ, tặng cho trẻ ít đồng bạc để chứng tỏ quan hệ hữu hảo với cha mẹ chúng. Một dịp hối lộ có lý do chính đáng

Tại một số dịa phương một số gia đình, đã lan sang cả đối tượng người lớn và trở thành mối quan hệ có đi có lại, tôi mừng tuổi anh thì anh lại mừng tuổi tôi.



LỄ HỘI

Cuộc chạy đua giữa các làng xóm về tính chính danh. Làng nào cũng muốn nhận mình là trung tâm văn hoá của vùng, làng mình có những nét truyền thống độc đáo, để chèo kéo khách phương xa chuộng lạ.

Một hoạt động được các cấp chính quyền cực kỳ tán thành vì coi như một dịp trình diện trước toàn dân thiên hạ tư cách ông chủ của một vùng đất.

Cũng là một dịp để ngành thương nghiệp tống ra các thứ hàng, nhất là hàng hỏng hàng kém phẩm chất. Sự vụ lợi khiến ngành này ủng hộ lễ hội vô điều kiện.



DU XUÂN

Những ngày nghỉ ngoài quy định của nhà nước.Với một số cơ quan xí nghiệp ăn nên làm ra, là một dịp để hợp pháp hoá các khoản chia chác nội bộ.



BÁO TẾT

Một dịp để các ban biên tập bộc lộ khả năng làm dáng cho tờ báo của mình: nó có thể hào nhoáng đến đâu, mỹ miều đến đâu.

Báo thường đẹp theo nghĩa để bày hơn để đọc.

Cũng là một dịp để ban biên tập trình ra đội ngũ cộng tác viên loại xịn và chiêu đãi họ sau một năm làm ăn khó nhọc bằng những khoản nhuận bút hậu hĩnh hơn so với ngày thường.

Tài làm báo tết còn bộc lộ rõ ở tài chạy quảng cáo, và đó là lý do chính khiến người ta vẫn phải lo báo tết bằng được, mặc dù số lượng in của nhiều báo ngày tết thường sút giảm.

Cầm một vài tờ báo tết chạy theo quảng cáo quá mức đến mức lố bịch, tôi nghĩ đây không còn là báo kèm quảng cáo mà là quảng cáo độn thêm báo. Vai trò chính phụ đã bị đảo ngược.
















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2015 06:05

Tiếng kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu

Không có mặt trong cả Bến quê lẫn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Chợ tết lẻ loi đi giữa một số báo đến mức nhiều người không biết có nó.

Ai ngờ thiên truyện ngắn ngủi lại chứa đựng nỗi niềm tâm sự sâu sắc nhất Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc.

Qua một phiên chợ Tết vùng quê xứ Nghệ, nhà văn đã phác họa ra cả tình trạng của xã hội Việt Nam sau chiến tranh: ngưng đọng và luẩn quẩn, cổ lỗ và bất lực, chán chường ngán ngẩm khi nghĩ về quá khứ song lại mơ hồ không biết rồi tương lai mình sẽ đi tới đâu.

Ấn tượng cuối cùng để lại trong đầu óc người đọc chính là câu hỏi thảng thốt khi ông hướng về lớp trẻ:

--“Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?”.

Tác phẩm in ra từ đầu xuân 1988.

Từ đó tới nay, tưởng là có nhiều thay đổi song xã hội Việt nam thật ra vẫn chưa tìm ra lối thoát.

 Tôi nghĩ rằng nhiều người đọc cũng như tôi sau khi đọc lại thiên truyện sẽ thấy mình có chung số phận với cô gái tên Kim ấy.

 Nghĩa là hôm nay đây câu hỏi nêu ra cho Kim cũng vẫn là  đang đặt ra với chính chúng ta.







Có một năm, khoảng đầu 1973-1974 gì đấy, đang giữa tháng chạp âm lịch, Nguyễn Minh Châu bị bệnh, phải đi viện và khi ông ra viện, thì đã xong tết. Mọi người ai cũng tỏ vẻ tiếc cho ông là mất một dịp vui, nhưng tôi nhớ là khi nghe vậy, Nguyễn Minh Châu chỉ cười, cái cười hiền lành tự tin vốn có. Rồi ông bảo:

- Thôi cũng tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên!

Thoạt nghe câu nói có vẻ khinh bạc, nhưng những ai có biết Nguyễn Minh Châu hẳn còn nhớ thường ông sống hơi khó khăn trước những đám đông, cái việc ông ngại tết là có thật, và mỗi lần tết đến thường ông cứ vừa hoan hỉ vừa lúng túng thế nào đó, khiến mọi người có lúc buồn cười song lại nhiều phen thương cảm.

Lại đã có những lần, đúng vào dịp gần tết, Nguyễn Minh Châu về quê. Cái làng chài nơi ông đã lớn lên là thuộc huyện Quỳnh Lưu, cách Hà Nội hơn hai trăm cây số.

 Hồi ấy, bà cụ sinh ra ông còn sống và càng thương mẹ, ông lại càng thương quê, thương cái làng mà có lần ông nói với tôi một cách khái quát rằng, nó còn “thiên nhiên thiên bẩm”, nghĩa là còn hoang dã lắm.

Từ quê trở ra, hầu như bao giờ Nguyễn Minh Châu cũng buồn. Những ngày thường cái buồn đã nặng trĩu tâm hồn ông, huống chi những ngày giáp tết.

 Biết ông vừa đi xa về, nhưng bọn tôi cũng chỉ nói quấy quá ít chuyện vui vẻ mà không dám hỏi sâu thêm.

 Song, càng thấy Nguyễn Minh Châu xúc động, người ta càng tin món nợ viết về làng quê vẫn nung nấu trong ông và chờ ngày có dịp chứng kiến ông viết trực tiếp về quê hương.

Chợ tết là một dịp để Nguyễn Minh Châu trả món nợ đó. Thiên truyện in ra lần đầu trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 2-1988.

Gần một năm sau, Nguyễn Minh Châu qua đời, ngày 27-1-1989.

Một cách ngẫu nhiên, Chợ tết có cái may mắn nằm trong số báo xuân cuối cùng mà Nguyễn Minh Châu tỉnh táo còn được nhìn thấy. Và sự trùng hợp đó càng cho phép tôi tin rằng đây là một thiên truyện được Nguyễn Minh Châu để tâm săn sóc kỹ lưỡng, nó giống như bản di chúc Nguyễn Minh Châu rút ra từ đời văn và đời làm người của mình.

***

Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm cuối đời là Khách ở quê ra.

Để tránh những sự công kích vô lối, có lần nhà văn hay lo xa đã phải tìm cách mang lại cho tác phẩm một nội dung thời sự bằng cách chua thêm vào bên cạnh đầu đề dòng chữ “Vài nét cốt cách của một người sản xuất nhỏ cổ sơ còn lại ở nông thôn phản ứng trước tập quán công nghiệp và đô thị”.

Tuy nhiên, ai cũng biết cảm hứng chi phối Khách ở quê ra  là cái phần bóng tối còn nặng nề, cái phần lạc hậu một thời gian dài còn bao trùm lên con người và cuộc sống nông thôn. Lớn lên trên  mảnh đất đã quá cằn cỗi, con người ta phải như cây rau dền gai thô tháp, chen cạnh, bám chặt vào cuộc sống thì mới sống nổi.

Một ấn tượng tương tự về nông thôn cũng có thể tìm thấy trong Chợ tết.

Nhếch nhác, bẩn thỉu, cái làng biển được nói tới ở đây lúc nào cũng tanh mùi cá, và con người thì quẩn quanh tù túng, lúc nào cũng bận bịu với cuộc mưu sinh, không sao ngẩng mặt lên được.

Đến một chiếc cầu qua chiếc lạch hẹp, “khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò” (lời Nguyễn Minh Châu trong nguyên văn) người ta cũng không bắc nổi, và muốn lên chợ, người ở xã bên cạnh chỉ có cách chen chúc trên một chiếc đò cũ nát, cọc cạch, để sang xã bên này.

Lạ một cái là chỗ nào cũng đầy người, mảnh đất lầy lội vào những ngày phiên chợ càng chạt những người là  người, đám đông vữa ra như một con sứa bầy nhầy nhũn nhẽo khiến cho lão Đất (một thứ cai chợ) muốn lập lại trật tự chỉ có cách dùng đến roi vọt. Chính ở điểm này, chúng ta thấy sự hợp thời của lão Đất cũng như trong Khách ở quê ra, đã thấy sự hợp thời của lão Khúng: nghĩa là càng cổ lỗ, đơn giản, dung tục, thì  càng được việc. Ở đây không có chỗ cho sự tinh tế.




***

Như Nguyễn Minh Châu có lần đã kể, sau khi viết Khách ở quê ra, ông còn chí thú định viết một truyện nữa, có thể tạm gọi là Khách ở tỉnh về.

Khi những mảnh sống tương phản được đặt cạnh nhau – Nguyễn Minh Châu giải thích – chúng làm tôn nhau lên và cho ta thấy rõ điều hàng ngày ta còn chưa thấy.

Tuy không được dày dặn như Khách ở quê ra, song Chợ tết chính là một thứ Khách ở tỉnh về mà Nguyễn Minh Châu đã dự định.

Cái làng biển được tả ở đây, là dưới con mắt Định, một người đang sống ở Hà Nội và có bà con họ hàng với lão Đất nói ở trên.

Mang cốt cách một viên chức, một “cán bộ thoát ly”, đời sống tinh thần của Định khá phong phú. Và cái chính là Định đã biết nhìn làng quê của mình bằng tầm mắt của người đi xa, biết rộng.

Bởi vậy, nét nổi bật của cái làng chài được miêu tả trong Chợ tết lại là vẻ trì trệ cũ kỹ của nó.

Phong cảnh hiện ra như từ muôn đời vẫn vậy, khiến Định luôn luôn ngạc nhiên: “mặc dù mặt đất bị xáo trộn , nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại”.

Thế còn con người trong làng? Một thiếu nữ mới nhớn, giống y như mẹ cô ta, ba mươi năm về trước. Một người kéo đò hơn năm mươi tuổi, cũng giống y như người kéo đò năm xưa, khiến Định ngạc nhiên, tưởng như ông ta không già không chết, sau hỏi ra mới biết đấy là con nối nghiệp bố.

Cho đến cả câu đối tết nữa, Định cũng chả buồn đọc, bởi tin chắc “câu đối tết năm nào chẳng viết những câu như mọi năm trước”.

Có thể là trong những ngày thường sự tù túng tẻ nhạt đã ngự trị, song đến những ngày tết, sự ngưng trệ này mới hiện lên như một ám ảnh.  Tâm trạng Định được phác hoạ như một trạng thái nước đôi, liên tục biến chuyển:

 “Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết, ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động, song sau đó, hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt và sợ. Định tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái guồng quay đầy luẩn quẩn”.




***

Nhà văn hiện đại nổi tiếng Lỗ Tấn là một tài năng kiệt xuất với cái kích thước rộng lớn mà nước Trung Hoa hiện đại mang lại cho ông.

Tôi không có ý muốn đặt tài năng Nguyễn Minh Châu bên cạnh Lỗ Tấn, để làm một cuộc so sánh.

Tuy nhiên, đọc Chợ tết tôi cứ thầm nhớ lại Cố hương của nhà văn Trung Hoa mà sinh thời Nguyễn Minh Châu trong những câu chuyện với chúng tôi, thường tỏ ý khâm phục.

Cũng như trong Cố hương, đọc Chợ tết, ta có dịp sống lại những ý nghĩ của người con đi xa, về thăm quê cũ. Cũng vui buồn lẫn lộn xen lẫn bên nhau, và niềm vui gặp lại dù rộn ràng bao nhiêu cũng không đủ xoá hết ấn tượng về sự nghèo nàn tù túng đang vây bủa quê hương.

Sau hết, sự gần gũi giữa Chợ tết Cố hương là ở cái chất trữ tình như một làn sương mỏng thấp thoáng ẩn hiện sau những dòng chữ.

Nhân vật Nhuận Thổ trong Cố hương sau mấy chục năm gặp lại, cũng già đi, xấu xí tầm thường đi, như người đàn bà tên là Tề, mà Định gặp trong phiên chợ tết. Nhưng người con của Nhuận Thổ là Thuỷ Sinh cũng tươi tắn sinh động, như cô gái tên Kim, con gái mẹ Tề, coi sạp hàng sách quốc doanh hôm nay.

Kết truyện, trong khi Lỗ Tấn thiết tha tự nhủ “Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”, thì Nguyễn Minh Châu, qua nhân vật Định, sau một hồi thảng thốt trước một thực tế luẩn quẩn, cũng gần như kêu lên: “Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?”.



Người ta thường nói nhà văn nên kín đáo giấu mình sau tác phẩm. Nhưng trong thực tế sáng tác, trước những khung cảnh xúc động, các nhà văn thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với người đọc. Lỗ Tấn đã làm như thế, rồi đến lượt Nguyễn Minh Châu, không hẹn mà nên, cũng làm như thế. Và điều nhân vật Định tự nhủ trong đầu cũng là điều chính nhà văn muốn nhắn nhủ với chúng ta qua Chợ tết. Nó là tiếng kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu.









Bài in lần đầu trong Cánh bướm và đóa hướng dương 1999





Biết rằng bạn đọc không dễ tìm lại

thiên truyện này của Nguyễn Minh Châu,

chúng tôi đang nhờ đánh máy



và sẽ giới thiệu lại trên blog vào những ngày tới.











 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2015 00:35

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.