Vương Trí Nhàn's Blog, page 65

June 24, 2015

Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Thạch Lam ( phần II )





Lời dẫn       Sống Hà Nội hôm nay nhớ Hà Nội hôm qua

         Tôi
còn nhớ -- không biết có chính xác?-- đâu khoảng giữa 2012, Phong Điệp, một bạn trẻ viết văn và chủ nhân trang mạng
cùng tên, có viết trên đó  một bài viết mà nội dung có cái  ý tự hỏi :

– ai cũng thấy Hà Nội hôm nay nhếch nhác thật,

-- nhưng
có phải là xưa nay Hà Nội vẫn thế, cái câu Hà Nội thanh lịch chỉ là nỗi ước ao
mà bao thế hệ mong mỏi nhưng không đến được?






Đọc bài viết khi ấy trong tôi đã thầm có một câu trả lời:

          -- Trong bàn tay quản lý của các vị tướng nhà
binh là các  chúa Trịnh, Hà Nội thế kỷ
XVII- XVIII chỉ là một đô thị trung cổ, cách ăn nếp ở sinh hoạt của con người
luộm thuộm nhếch nhác không ai có thể bào chữa. 

       Rồi đến thế kỷ XIX, Hà Nội lại mất vị trí thủ đô
vào tay Huế thì sự hoang tàn càng rõ.

          Đọc những cuốn sách như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ta đã thấy vậy. Nhưng đến các tài liệu của các lái buôn và tu sĩ
phương Tây thì càng rõ. Bởi nhiều khi đó là những tài liệu quá thực nên từ sau 1945 đến nay
chúng bị giấu kín không ai được dịch từ các thầy giáo tới các học sinh không ai
được  biết. Chính tôi không biết các cuốn sách ấy, mãi tới
dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long 2010 mới biết. Tôi đã có lần  tìm đọc một số tư liệu loại đó như bản dịch cuốn Lịch sử tự nhiên
dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài
  Jerome  Richard  --
Paris 1778 và ghi lại một bản tóm tắt đưa trên blog của tôi ngày 22 Tháng giêng 2015

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/01/xa-hoi-ang-ngoai-ky-xvii-xviii-duoi-con.html 




          
-- Nhưng sang thế kỷ XX, thì Hà Nội trong cái thời
mà ngày nay chúng ta cứ muốn quên đi là thời Pháp thuộc,  Hà Nội lại  trở nên một đô thị hiện đại, khách khứa từ
các phương trời khác nhau ghé qua đều yêu mến và thấy rằng nó đã chín trong cái chuẩn mực của nó.

            Tôi không biết tiếng Pháp để tìm đọc các cuốn sách viết về Hà Nội của người Pháp. Ở ta khoa nghiên cứu và mô tả đô thị lại chưa xuất hiện.

           May mà các tác phẩm văn học đã phần nào lấp được chỗ trống.

         Cho đến nay nói về Nguyễn Tuân trước 1945, người ta chỉ nói tới Vang bóng một thờiChùa đàn. Nhưng theo tôi tập tiểu thuyết Thiếu quê hương (1943) và hai tập Tùy bút I (1941) & Tùy bút II (1943) trình ra một phương diện rất đáng kính trọng của ông Nguyễn. Ở đó ông mô tả một Hà Nội trí thức thượng lưu, một Hà Nội tinh hoa vừa đàng điếm vừa cao quý.

          Cùng với Nguyễn Tuân, tôi muốn kể ngay bằng chứng là cuốn Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam in lần đầu từ 1942 và sau này thì tôi cũng rất thích Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng viết trên bán nguyệt san Văn ra ở Sài Gòn 1969 và nay thì đã in đi in lại nhiều lần.




            --
Trở lại câu hỏi của bạn Phong Điệp nêu ở trên, tôi cho rằng chúng ta phải phân
biệt Hà Nội về mặt thời gian. Bạn đã đúng khi nói về Hà Nội trong các thời kỳ  do
người mình tự quản lý lấy và đã sai khi  bỏ qua giai đoạn Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX. 

              

                Theo dự đoán của tôi, Hà Nội băm sáu phố phường là cuốn sách  viết về Hà Nội được đọc nhiều nhất. Vì nó nói về một Hà Nội mà hôm nay chỉ còn vang bóng, mà cũng vì mỏng dễ kiếm dễ đọc, nó được viết một cách tự nhiên nên người ta có thể sẵn sàng mua về rồi đọc đi đọc lại. Sau nữa cũng nên tính tới một yếu tố này. Hà Nội trong tác phẩm của Thạch Lam có cái gì đó gần gũi với mọi người, tác giả yêu Hà Nội song lại không có lối mỹ lệ hóa, nó không viết về nó với những lời bốc đồng giả tạo, như con người thời nay hay viết.




                Hai bài viết dưới đây của tôi về Thạch Lam thuộc hai thể khác nhau. Bài thứ nhất là một thứ sưu tầm bổ sung cho những gì Thạch Lam đã viết về Hà Nội trên Ngày nay mà chưa đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Bài sau là một đoạn trong cuốn Một số nhà văn Việt nam hôm nay và Hà Nội in 1986.





Thêm những tài liệu về  HÀ NỘI BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG




Đến nay, Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam đã in lại
đến bao nhiêu lần, không ai được biết. Lối làm xuất bản luộm thuộm của chúng ta
là nguyên do của thiếu sót đáng tiếc đó. Tuy nhiên có điều chắc là hễ nhắc đến
Thạch Lam thì cùng với nhiều truyện ngắn như Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Sợi
tóc...
 cùng tập tiểu luận Theo
dòng
, người ta phải nhắc ngay tới Hà Nội băm sáu phố phường.

Dưới đây, để giúp bạn đọc hiểu thêm tác phẩm này, chúng tôi xin
lưu ý một số chi tiết có liên quan đến văn bản và tác giả.

1. Trước khi được in thành sách, Hà Nội băm sáu phố phường
đã được in trên báo, như một mục thường xuyên của tờ Ngày Nay (bài đầu
tiên, in trong số 201 năm 1940).




2. Nhưng ban đầu, mục này không phải chỉ riêng có Thạch Lam viết,
mà còn có sự đóng góp của các đồng nghiệp. Ngay số mở đầu nói trên, đoạn từ  "Người
Pháp có Paris,người Anh có London
...” ký tên Thạch Lam, nhưng đoạn Những
biển hàng
(“Đã có nhiều người nhận ra rằng phố Hàng Đào là phố của loài
vật
”) lại ký Thiện Sĩ. 

Ở đây, có thể có giả thiết Thiện Sĩ chính là một
biệt hiệu khác của Thạch Lam, và đó là lý do sau này những đoạn Những biển
hàng
đó cũng được đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường.

Nhưng cũng xin lưu ý, hai chữ Thiện Sĩ còn xuất hiện trên Ngày nay trong nhiều trường hợp khác. Lại có cả một cuốn Sách Hồng (viết
cho thiếu nhi) của nhà Đời nay, mang tên Lên chùa, cũng ký tên
Thiện Sĩ và chúng tôi không dám cả quyết là những bài này, hoặc cuốn sách này,
bao giờ cũng có hơi hướng văn Thạch Lam; đôi khi có phảng phất giọng văn Khái
Hưng.

Vậy chưa thể cả quyết dứt khoát Những biển hàng do Thạch
Lam viết. Xin coi đây là một nghi án, tạm xếp đấy đã.




3. Đến số 203 của năm 1940, thì xảy ra một tình huống rõ ràng hơn.
Số này mục Hà Nội băm sáu phố phường nói riêng về các vườn hoa Hà Nội. Đoạn này
ký tên Khái Hưng và cố nhiên, sau này không thấy có mặt trong Hà Nội băm sáu
phố phường
.




4. Về phần mình, không phải bao nhiêu  bài Thạch Lam 
viết về Hà Nội, đều đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Theo dõi Ngày
Nay
từ 1937 trở đi, chúng tôi còn gặp một vài bài ngắn, Thạch Lam đả động
tới chủ đề này (xem phụ lục đi kèm). Hoặc ngay trong năm 1940, có lần trong mục
Chuyện xa gần, cũng thấy xuất hiện những đoạn văn ngắn về Hà Nội ký tên
Thiện Sĩ (là của Khái Hưng hay Thạch Lam, chưa xác định).

Đến đây chúng ta có lý do để tiếc rằng Hà Nội băm sáu phố phường
là cuốn sách hình thành sau khi tác giả đã qua đời. Nếu nó được chính Thạch Lam
chuẩn bị cho in, hẳn đã có khác chút ít. Biết đâu Thạch Lam chẳng bổ sung thêm
bài này bài nọ.




5. Người có công lớn trong việc tổ chức nên bản thảo Hà Nội băm
sáu phố phường
là Khái Hưng. 

Chúng tôi hình dung đóng góp của tác giả Nửa
chừng xuân
cho cuốn sách này của Thạch Lam trải ra trên hai phương diện: một
bàn bạc  với Thạch Lam về từng bài
cụ thể, đôi khi có thể có sửa chữa thêm bớt, hai là khuyến khích Thạch
Lam theo đuổi đề tài này đến cùng. 

Lưu ý là trong bản in lần đầu của Hà Nội
băm sáu phố phường
ở nhà xuất bản Đời nay, có kèm thêm lời Tựa
Khái Hưng viết cho tập sách, đề ngày 20-VII-1943 . 





Đọc lời tựa này, người ta đọc ra không chỉ tình yêu của Thạch Lam mà cả tình yêu của
Khái Hưng với Hà Nội, và điểm lại hình ảnh Hà Nội trong sáng tác của các nhà
thơ cổ điển, vốn là một mặt mạnh của ngòi bút Khái Hưng (lâu nay, không thấy
các bản Hà Nội băm sáu phố phường có in lời tựa này).



Có điều lối đơn giản hoá công
việc, tước đi khỏi tác phẩm những cái tưởng như râu ria vô bổ song thực ra rất
có giá trị, là lối làm việc phổ biến, người ta đã làm với nhiều cuốn sách khác,
chứ không riêng gì Hà Nội băm sáu phố phường.



Sau đây là một số đoạn Hà Nội băm sáu phố phường  có trên Ngày nay mà không đưa vào sách

CHUNG
QUANH HỒ.

Cốc kem năm

Một năm trước chung quanh Bờ Hồ chúng ta còn thấy bầy các hàng
nước chanh, nước đá. Những tấm vải che đã cũ, những bàn ghế long đinh, cái nụ
cười và tiếng mời chào của các cô hàng.


Một vẻ đẹp và một cái thú riêng của Hà Nội.

Nhưng ở những căn hàng ấy còn có một cái lợi nữa: một người có năm
xu cũng có thẻ ngồi hưởng gió mát và ngắm cảnh được. Thực là một cái thú rẻ
tiền, ai cũng muốn hưởng.


Nhưng bây giờ thành phố đã bắt những hàng ấy phải triệt đi và
cho  làm thay vào cái nhà thuỷ tạ lộng
lẫy để dành riêng cho những người... lắm của. Còn bọn ít tiền, các công chức,
thợ thuyền, bây giờ chỉ còn cách đứng ngoài mà nhìn. ở trong thuỷ tạ, người ta
bán đắt quá: bảy hào một cốc rượu, hai mươi nhăm xu một cốc nước chanh.


Thành phố đáng lẽ phải làm cho người nghèo được hưởng lợi, thì lại
chỉ nghĩ đến cách tiêu khiển cho kẻ giàu. (Mà người giàu thì đã thiếu gì cách
tiêu khiển). Nếu nhà thuỷ tạ nộp môn bài, thì những hàng nước chanh nước đá
trước  kia cũng nộp môn bài.


Nhưng câu chuyện không phải ở chỗ ấy, vì thành phố có phải là một
nhà buôn kiếm lợi đâu.


Chỉ còn cách là nhà thuỷ tạ bán hạ giá. Nhưng nếu bán thế, người
thầu lại sợ lỗ vốn. Chi bằng bây giờ phá quách cái nhà ấy đi, và thành phố lại
cho các hàng bán như trước. Có thế, dân nghèo ở Hà Nội mới được ngồi hưởng cái
gió mát chung của hồ.





Liễu rủ bên hồ

Trong vòng hai năm nay, người ra mới thấy chung quanh hồ bắt đầu
trồng liễu. Bây giờ những cây liễu đã nhớn, buông tơ rủ xuốn mặt nước rất đẹp.
Thành phố đã làm một việc tốt để tăng thêm vẻ đẹp của hồ Hoàn Kiếm.


Nhưng sao trước kia không ai nghĩ đến trồng liễu? Chỉ thấy trồng
những cây hoa thấp lè tè, và những cây gồi cao lênh thênh.


Tôi hiểu tại sao người Pháp lại thích cây gồi: vì cây đó gợi trong
trí họ cái cảnh rực rỡ ánh sáng ở Phi Châu, hay ở ven biển Méditerrannée (Côte
d
azur); mà người Pháp ở xứ lạnh thì ao ước ánh sáng mặt trời
lắm.


Nhưng đối với người ta, cây gồi chỉ gợi đến cái cảnh nóng bức khó
chịu của mùa hạ. Vả lại, nó không có bóng mát. Khí hậu bên ra chỉ cần một cái
vườn râm mắt như vườn kiểu Anh thôi. Còn những thảm hoa kiểu Pháp, phải ở nơi
thời tiết đầm ấm mới thích hợp.





Lễ phép không ngại gì

 Một vài người cảnh sát của
thành phố
- cố nhiên không phải là tất cả - không có lễ phép trong khi
làm phận sự mình. Họ chỉ quen mắng, quát người ta mà thôi.


Buổi chiều, dân thành phố ra Bờ Hồ hóng mát rất đông. Có hai vợ
chồng người thợ vô ý ngồi lên bãi cỏ. Một thầy cảnh sát đến. Thấy người ta ngồi
vào bãi cỏ cấm, đáng lẽ người cảnh sát ôn tồn bảo cho người ta biết thì phải.
Đằng này không, người cảnh sát đến đằng sau hai người kia, nói một câu thô tục:


- Này, ngồi thế đã mát... chưa?




Thái độ lạ

Hôm gánh hát Phước Cương diễn ở Nhà Hát tây cũng có nhiều cảnh sát
giữ trật tự. Nhưng xe cộ phải đi đến Hát Tây theo một đường.


Anh phu xe kéo tôi ngu đần quá, không biết lệ luật. Anh ta, cứ kéo
ngay vào lối các xe đi ra. Có một thầy cảnh sát đứng đấy. Nhưng đáng lẽ bảo
ngay cho anh phu xe biết, thầy lại đợi cho anh xe kéo vào quá xa, rồi mới quát:


- Ứ ừ, mù! Đi thế kia à?

Tôi vẫn biết không phải tất cả những người giữ trật tự trong thành
phố đều như thế cả. Tôi cũng biết rằng nhiều người mình nói ngọt không chịu
nghe, chỉ ưa mắng.


Nhưng đó không phải là một lẽ để người ta bỏ quách lịch sự. Sự lễ
phép chỉ tôn người ta lên mà thôi, không làm mất giá trị người ta bao giờ cả.





Vấn đề nhà ở

Kỳ hội đồng thành phố vừa rồi, các ông đại biểu dân đã bàn định
lập ra những nhà để cho các viên chức thuê. Số tiền thuê mỗi tháng từ 15 đến 18
đồng; mỗi cái nhà làm mất ít ra là 5.000đ.


Như vậy, chỉ các viên chức nào lương khá mới hòng thuê được mà
thôi. Còn các viên chức lương nhỏ
- số rất ít - và các thợ
thuyền trong thành phố vẫn phải chui rúc vào những căn nhà tối tăm và bẩn thỉu
như hang chuột.


Ở bên Pháp vừa rồi, người ta mới dặt ra một tuần lễ gọi là tuần
lễ xã giao
hay tuần lễ lễ phép (semaine dubanité).
Trong tuần lễ ấy mọi người phải theo đúng cách lịch sự, lễ phép trong bất cứ
trường hợp nào và bất cứ ở đâu.


Người mình chưa mấy ai biết phép xã giao, giá có một tuần lễ như
thế cũng hay. Nhưng tôi tưởng một tuần lễ không đủ, phải đặt ra
một
năm xã giao
mới đủ.



Thạch Lam

Ngày Nay, số 65 ra ngày 27/6/1937.









THẠCH
LAM VÀ HÀ NỘI 








  Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm. 

Trong văn chương,  không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm.

 Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa. 

Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo.

 Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ. 

 Có điều trong văn Thạch Lam,
khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo la hng (tập Gió
đ
u mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược...” .

 Và quan trọng nhất là cái cốt cách ta cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dẽ dàng, sang
trọng. 

    

     Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao
cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Đọc văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ.

    Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người. 

    Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.







     Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt,
th
lĩnh ca đám phàm ăn, O. de
Balzac từng nêu một nhận xét,

    "Ở Paris có những đường phố đáng xấu hổ như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. Ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo... những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố  lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Pa-ri có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.

     Ý nhà văn Pháp ở đây muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Paris
là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy.

      Qua văn Nguyễn Công Hoan,
chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xoả, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hoá sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên. 

     Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy. 

    Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Mt cơn gin, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng,
v.v... tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động. 

      Qua Mt cơn gin, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn
vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.

     

    Nét đặc biệt của Hà Nội thời Thạch Lam trở về trước: thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung
quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ.     

    Một trong những  mô-tip thấy trở đi trở lại vài lần trong
truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình. 

    Trong Tr v là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là
thế. Rồi Nhng ngày mi lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn. 

     Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Tr v thấy chán ngán, ngại ngùng (anh
ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. 

     Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong
Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống, ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong
lành nhất của nó. 

     Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta
trong trong tập Hà Ni ba mươi sáu ph phường cũng như trong hàng loạt truyện ngắn khác.























































       Sở dĩ so với  nhiều nhà văn khác, Thạch Lam giữ được cái phần mức độ trong việc miêu tả Hà Nội, nhất là khi ông xem xét mối quan hệ giữa quá khứ và tương lai của thành phố, lý do chính vì ông có cái nhìn của một con người hiểu biết về lịch sử hình thành các đô thị hiện đại. Những độc đáo riêng của đô thị ở VN hay bị chúng ta cường điệu thật ra cũng không ra ngoài các quy luật của văn hóa đô thị trên thế giới.


















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2015 18:05

Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Thạch Lam (phần I)

                

 Thạch Lam sinh 7-7-1910 mất 28--6 - 1942. Vậy đầu tháng 7 này là dịp kỷ niệm 105 năm ngày sinh của ông.  Hai tiểu luận của tôi về Thạch Lam 

 Thạch Lam: Cốt cách một trí thức mới

 Thạch Lam : Tìm vào nội tâm tìm vào cảm giác

đã in trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa, 2006

Ngoài ra, trong những năm qua tôi còn một số bài ngắn viết về con người và tác phẩm của Thạch Lam, in lẫn vào các tập chân dung và phiếm luận, nhân dịp này xin được đưa lại trên mạng, sau khi đã có sửa chữa hiệu chỉnh so với bản in trên giấy các năm trước.






                              VỀ VỚI CỘI NGUỒN TỪ VĂN HÓA 




Hình như chỉ
ngày hôm nay, những trang viết gắn liền với đời sống thanh bình của Thạch Lam
mới hiện ra với đầy đủ ý nghĩa của nó





Một trong những đoạn văn hay nhất của Thạch Lam là
đoạn viết về cốm, in trong Hà Nội băm sáu phố phường.

…”Cơn gió mùa hè lướt qua vùng sen trên hồ nhuần
thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và
tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp
đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa
non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương
vị ngàn hoa cỏ
.

Điều kỳ lạ của mấy câu văn ấy là ở cái không khí mà
chúng tạo ra, mỗi lần đọc lại, một cảm xúc thanh sạch được khơi dậy. Ta mang
máng nhận ra ở đó, có những liên tưởng tốt đẹp với nhân dân, xứ sở, đến mức, đến
mức… ta quên mất rằng, thực ra chúng được viết bằng một thứ ngữ pháp không thật
thuần Việt, sản phẩm của một người đọc nhiều sách vở Pháp và có thể nghĩ bằng
tiếng Pháp. 

Nhưng rồi nhiều người vẫn đối xử với đoạn văn viết về cốm ấy với
nhiều ưu ái, thông cảm. 

Ấy cũng là cái thái độ mà người ta dành cho toàn bộ sản
phẩm của Thạch Lam, bởi lẽ biết rằng ở thời của mình, đó là một ngòi bút có sự
kết hợp nhuần nhị cả tinh hoa của văn hóa Đông-Tây và luôn luôn mang lại cho sự
sáng tác một vẻ đẹp cao quý.




Từ  tây sang
đông, tìm về truyền thống, tìm về dân tộc


Tuy chính thức có chân trong Tự Lực văn đoàn, nhưng sự
xuất hiện của Thạch Lam, có phần muộn mằn hơn so với mấy người cùng nhóm. Mãi
1937, Gió đầu mùa, tập truyện 
ngắn đầu tay của ông mới ra đời. Với tư cách là tác giả của những Hồn
bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân,
bấy giờ, cả Nhất
Linh lẫn Khái Hưng đều đã tìm được chỗ đứng của mình trên văn đàn. 



-- “Làm cho người
ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” 

– “Đem phương pháp khoa học áp dụng
vào văn chương Việt Nam”

 – “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và
tin ở sự tiến bộ’ 

là những điều chính ghi trong tôn chỉ của nhóm Tự Lực. 


điều phải nhận trong khi thực thi công việc… mấy yếu nhân của nhóm đôi khi cũng
làm nhiều chuyện quá ồn. Đọc một vài ý kiến cực đoan xuất hiện trên Phong hóa, Ngày nay, sau cái mừng vì người mình
có thể bắt kịp thời đại, sống và cảm nhận hết những khía cạnh tốt đẹp của văn
hóa phương Tây, nhiều người đương thời thuộc loại ưu thời mẫn thế không khỏi
phấp phỏng lo ngại, không khéo cứ cái đà ấy mà kéo rồi xã hội ta đánh mất luôn
chính mình, và trở thành bản sao của nền văn hóa phương Tây, dẫu sao cũng còn
xa lạ.




Đặt vào hoàn cảnh ấy, mới thấy Thạch Lam xuất hiện như
một nối tiếp hợp lý. Ông đã kịp đến để gặt hái những gì những người đi trước
gieo cấy.

Về nhiều phương diện, ngòi bút viết nên những Gió
đầu mùa, Sợi tóc…
vẫn là đi từ văn hóa phương Tây mà trưởng thành lên. 

Người ta bắt gặp điều ấy qua những chi tiết làm nên tiểu sử đời ông, nền giáo
dục mà ông chịu ơn, những câu văn còn phảng phất hơi Tây mà ông sẽ viết, những
quyển sách, tờ báo đương thời từ bên Pháp gửi sang, mà ông thường nhắc tới, khi
viết các bài báo nhỏ cho tờ Ngày nay. 

Nhưng sâu sắc hơn thế, Thạch Lam
vừa tiếp nhận cái sáng sủa mạch lạc rất tiêu biểu cho văn chương Pháp, vừa thấm
nhuần chất duy lý trong triết học Pháp. 

Óc phê phán thường trực nơi ông, nó có
mặt cả trong sáng tác lẫn những bài viết về nghề văn, sau này tập hợp lại trong
tập Theo dòng.



Người ta thường chỉ bảo nhau Thạch Lam là một ngòi bút
tinh tế, mà quên rằng trong các tiểu luận, ông thường cũng hiện ra như một ngòi
bút có những kiến giải như tổng hợp được từ bao hiểu biết sách vở, chẳng qua vì chúng được nói lên một cách dễ đàng nên ta tưởng mọi thứ đã sẵn như vậy.

Những nhận xét của ông (đại
loại: “chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và bạc nhược”, “Những
phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung: là nông nổi,
chỉ hời hợt bên ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sâu sắc”…
) đối với tương
lai, vẫn có ý nghĩa một sự cảnh tỉnh.



Có điều, không chỉ so với các nhà văn thuộc Tự lực văn
đoàn, mà trong cả “dàn nhạc” tiền chiến, Thạch Lam vẫn là người có khuôn mặt
phương Đông rõ ràng và khả ái hơn cả. 

Trong cái thủ thỉ thân tình của giọng
điệu, cái đạm bạc đơn sơ của đường nét, chất liệu làm nên tác phẩm, những ngụ ý
theo kiểu “ý tại ngôn ngoại” bàng bạc khắp nơi, Thạch Lam tự trình diện với một
phong thái giàu chất hàm súc, kín đáo, mà ở phía trời Tây, các nhà văn thường
ao ước. 

Trên con đường tìm lại ảnh hưởng của thơ Đường, của ca dao, trong việc
bấu víu vào những chất liệu thuần Việt, kiểu như Hoa bưởi thơm rồi đêm đã
khuya
(Xuân Diệu), Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp (Huy Cận),
các nhà Thơ mới thấy ở Thạch Lam một người đồng hành đáng tin cậy, mà cũng đầy
thách thức. 



Với Thạch Lam, hình như lẽ sống của văn chương không gì khác hơn
những quan tâm đến cuộc sống quanh mình, những băn khoăn về bản sắc dân tộc, mà
tự mình đặt ra, rồi lại tự mình tìm cách giải đáp. 

Từ Nhà mẹ Lê tới Hai
đứa trẻ,
từ Gió lạnh đầu mùa qua Cô hàng xén, một mô-típ được
ông trở đi trở lại, là cái chất mòn mỏi, bình lặng ở cuộc sống đương thời.
Trong khi nắm bắt cái hồn của thực tại chung quanh, ông không quên mang lại cho
nó một chiều dày lịch sử, biết nhận ra từ đức hy sinh, vẻ tận tụy trong cuộc
sống hôm nay cái hương vị của ngàn xưa. 



Rút cục thì với những người như Thạch
Lam, văn hóa Tây phương không phải là cái đích. 

Từ những bậc thầy của văn hóa
Tây phương ông sớm nhận ra những cái gật đầu đồng tình, khuyến khích: 

Các anh
phải giữ lấy chất phương Đông của các anh! 

Các anh phải đến với chính dân tộc,
với mảnh đất dưới chân các anh! 

Đó mới là công việc phải làm của người trí thức
chân chính! 

Thạch Lam là một trong những ngòi bút tiên khu trong cái tiến trình
văn hóa mà sau này một ngòi bút của nhóm Thanh Nghị là Đinh Gia Trinh sẽ tổng kết: 

Cuộc phục
hưng ở xứ ta khởi đầu bằng một sự lựa chọn ôn tồn ở hai nền văn minh Á đông
truyền thống và văn minh Tây phương với nhập tịch (thời kỳ báo
Nam Phong) rồi
nó đã đột ngột tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần của nước nhà, sự ca tụng
quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời kỳ
Phong hóa, Ngày
nay). Nay thái độ bồng bột ấy thay đổi và bọn trí thức đã trở lại tôn trọng
những di sản của đất nước, những tinh túy của văn minh Á đông, trong khi tin
tưởng càng mạnh là phải học nhiều của Tây phương để đi tới sự thành công trong
việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng
”.(trong bài Địa vị văn hóa Âu Tây trong văn hóa Việt Nam , trong Thanh Nghị một số đầu 1945)




Ý niệm về kẻ khác.

Trong số vài chục thiên truyện Thạch Lam đã viết, có
một tác phẩm đứng riêng ra một góc, đó là trường hợp truyện ngắn Người đầm, 
đấy nhà văn kể chuyên một người đàn bà Pháp vào rạp chiếu bóng để ngồi vào ghế
hạng nhì như một người Việt Nam bình thường. 

Trong cái nhìn của nhân vật xưng
tôi trong truyện, người đàn bà ấy cũng buồn, cũng lặng lẽ, trầm mặc, và rất cô
đơn giữa mọi người. 

Và phản ứng chi phối bà lúc ấy là cách phản ứng thường thấy
ở nhân vật Thạch Lam: cố thu mình lại, âm thầm chịu đựng, gắng gỏi làm tròn
công việc của mình, và cũng không bao giờ quên thông cảm thương xót với kẻ khác
(nỗi ái ngại chân thành  mà bà dành cho
đứa bé bán kẹo, khi ra khỏi rạp).

Thông thường người ta xem Người đầm là một cái
gì lạc lõng so với mọi thứ được viết dưới tay Thạch Lam.

 Bị những ám ảnh thời
sự chi phối, lại có người cho rằng đấy là một trong số ít ỏi những trường hợp
nhà văn bộc lộ lòng căm ghét thực dân và chứng tỏ vai trò chủ nhân của mình. 

Song, có lẽ là hợp lý hơn, nếu đặt Người đầm vào cái mạch hòa nhập văn
hóa Đông Tây mà chúng ta đang nói. 

Cuộc gặp gỡ bi thảm giữa hai dân tộc Pháp –
Việt đã dẫn đến chế độ thực dân được xác lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX để rồi
trở nên nguồn gốc những ác cảm khôn nguôi mà mỗi người chúng ta chôn chặt trong
lòng, khi nghĩ về người Pháp. 

Nhưng bên cạnh chính trị, giữa các dân tộc còn có mối
quan hệ văn hóa, ở đó hai bên xâm nhập vào nhau và để lại những hệ lụy kỳ lạ
trong cả cộng đồng lẫn trong mỗi cá nhân. 

Những điều mà giờ đây, những bộ phim
Pháp như Người tình, Điện Biên Phủ, Đông Dương đề cập tới là điều mà một
trí thức như Thạch Lam đã thấp thoáng cảm thấy. 

Sự chín chắn về văn hóa (như
được phác họa trong các phần trên) đã mang lại cho ông cái nhìn chừng mực trước
mọi chuyện, và lòng dũng cảm vượt qua mọi mặc cảm cố hữu kể cả những mặc cảm
khó vượt nhất. 

Đến lượt mình, sự chín chắn này lại đánh dấu một sự trưởng thành
chung của cả xã hội thời ông sống. Về phương diện triết học mà xét, người ta bảo một chủ thể
chỉ được coi là trưởng thành khi có được ý niệm chính xác về kẻ khác, và trước
tiên là thấy trong kẻ khác đó những nét tương đồng với hình ảnh phóng chiếu của
chính mình.




In lần đầu trong Những kiếp hoa dại 1993 và một lần đưa lên mạng

ở địa chỉ vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/thch...







  BÓNG HOÀNG LAN MÁT RƯỢI




Một trong những dấu hiệu của một tác giả
lớn là người ta luôn muốn đọc lại tác phẩm của nhà văn ấy và mỗi thời đại lại
có thể tìm thấy ở tác phẩm của ông một ý vị mới.


Không biết chữ lớn có hợp với Thạch Lam không
(ông vốn không thích những gì đồ sộ, to tát), song tìm ra những ý vị mới ở tác
phẩm của ông thì là điều luôn luôn có thể làm được, nếu người ta muốn
.




So với các nhà văn tiền
chiến Nhất Linh và Khái Hưng, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và
Nguyễn Tuân thì Thạch Lam thuộc loại viết ít. Từ Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn
(1938), Ngày mới (1939) qua Theo dòng (1942),
Nội băm sáu phố phường
(1943)... tổng cộng tất cả những gì ông viết ra đâu
chỉ khoảng một ngàn trang sách.

 Tại sao lại có tình trạng ít ỏi như vậy? 

Vì ông
mất sớm, khi mới 32 tuổi, ấy là một lẽ. Song lý do chính, phải nói là vì ông
thuộc loại kỹ tính. Bản thân những điều ông 
thường đề cập trong tác phẩm (tính cách cố hữu đời của dan tộc, những
giá trị cao quý được tích tụ qua lịch sử, cái phần tốt dẹp không bị thời gian,
không bị cuộc đời cơ cực làm phai nhạt..) đã đòi hỏi phải được đối xử một cách
thận trọng chừng mực. Và cái giọng ôn tồn thường thấy ở Thạch Lam có lẽ lá
thích hợp nhất để diễn tả những điều một người chín chắn như ông từng ấp ủ.



Đặt vào hoàn cảnh sống hiện
thời, đôi khi người đọc hôm nay không khỏi cảm thấy văn phẩm của Thạch Lam có
một chút gì như là lạc lõng. Ông nhất quyết không chịu chia sẻ cảm giác tốc độ
mà con người hiện nay thường xuyên thể nghiệm. 

Trong khi chúng ta sống trong
vội vã chụp giật, thì ông từ tốn, ý nhị. 

Trong khi con người hôm nay quay cuồng
chạy theo lợi lộc trước mắt, viện đủ mọi lý do biện minh cho mình thì các nhân
vật của ông đề cao đức hy sinh, thói quen sống chừng mực, gần như khổ hạnh, và
không ngại nói đi nói lại rằng chỉ có một thứ mong manh mơ hồ, nhưng lại đáng
ngưỡng mộ, đó là vẻ đẹp. 

Nay đang là thời nhiều người ngại ngùng trước mọi sự
tinh tế. Người ta bảo nhau: “Cả trong đời sống lẫn trong sáng tác, phong cách
cao quý, giọng văn thống thiết càng ngày càng bị quên lãng và thường khi bị
đồng nhất với sự tô vẽ, giả dối
”. 

Thật ra trong một khái quát như thế, không
phải là không có rất nhiều sự thực. Đó là đúng với nhiều người. Nhưng vẫn phải
trừ Thạch Lam. Người ta dễ nhớ đến ông, và dù không tạo ra “những đợt sóng ồ
ạt”, vẫn đọc lại ông đều đều.

 Đọc để hiểu thời ông sống, cái đó chỉ là một
phần. 

Song quan trọng hơn, đọc để hiểu rằng bao giờ cũng vậy, bên cạnh cuộc
sống trần trần trước mắt, con người ta phải biết nghĩ tới một cuộc sống khác.

 Trong mối quan hệ từ tốn với bạn đọc, văn phẩm của Thạch Lam dường như luôn
thầm thì với chúng ta một điều gì đấy. 

Lúc này, đọc sách không chỉ có nghĩa là
tìm cái giống mình trong văn chương, mà đọc sách đôi khi lại là cách tốt nhất
để tìm tới những gì mình không có hoặc hình như có, nhưng để đâu không biết,
không khéo thì đã đánh mất từ lúc nào
.

 Buộc người đọc phải nghĩ lại như thế,
thực không phải dễ dàng.

 Song nó cũng là một việc cần thiết mà văn học phải đảm
nhiệm, nhất là khi người ta còn muốn tìm tới cái cơ may mà mọi người cầm bút
thường vẫn ao ước, là tạo ra sự trường tồn cho trang viết.

In lần đầu trong Chuyện cũ văn chương 2001


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2015 04:25

June 23, 2015

Nhật ký văn nghệ 1990 (phần cuối)

 25/9


Minh Khuê kể: Ngọc Tú bảo là Như Trang đang đứng ra lập ban liên lạc các nhà
văn nữ, nhưng Khuê đã trả lời:

-
Em không tham gia đâu, chị không biết chị Trang là dân thương nghiệp à.

Cách
đây ít lâu Như Trang đã có một bài điểm qua lực lượng sáng tác nữ, trong đó tự
khen mình không tiếc lời.


vẻ như trong xã hội bây giờ, ai thích trình bày ra ban bệ nọ kia, ấy là người
có thể dùng cái tổ chức ấy làm một việc gì đấy.


 Bà
Bảo ở văn phòng Hội bảo sao vợ chồng ông Hữu Mai thì được cả hai, cái gì cũng
giỏi, ông Hữu Mai quen từ người thợ chữa ống nước, người bán bia ở ngoài cổng
Hội.

Còn
vợ chồng ông Nguyên Ngọc thì chả biết gì cả, chồng đi đâu đó, mang về được sau
trăm ngàn, vợ ra chợ bị móc túi mất ba trăm.

Tôi
chợt nghĩ loại như Hữu Mai có cái chất của cường hào, các ông chủ thực sự ở
nông thôn. Lý trưởng chánh tổng trương tuần gì cũng nằm trong tay các ông ấy cả.

Ân
kể ông Vũ Tú Nam có bài trên tạp chí Cộng Sản rất xấu, cho là văn nghệ
bây giờ chửi công nông là không được.




Hồi
 tháng trước Vũ Tú Nam có bài chê Phạm
Thị Hoài là không biết tiếng Việt, đáng nhẽ hậu thế, thì lại viết hậu
bối
, Phạm Thị Hoài cứ thắc mắc mãi, không hiểu sao chú Nam lạ thế.




Một
bữa, chính Dương Tường đưa tôi xem bài viết của Phạm Thị Hoài, nhắc lại ý ông
Nguyễn Đình Thi nói ở báo Nhân Dân - bây giờ anh em trẻ buồn cười lắm,
toàn nói Kant thành Níetzsche. Hoài cãi lại :

1.
Nếu chúng tôi dốt, đó là lỗi tại các anh

2.
Vả chăng chắc đâu chúng tôi đã dốt. Nhỡ các anh chỉ chép sách của Tây ra thì
sao. Những cuốn mà người ta gọi là sách triết học của anh viết trước 1945 là
thuộc loại nào?

Các
anh bảo chúng tôi không phân biệt Kant với Níetzsche. Nhưng tôi chỉ sợ các anh
không phân biệt nổi Mác với Lênin.

Bài
đã gửi đến báo Văn nghệ. Dĩ nhiên là không đăng. Nhưng xem ra cũng có
cái vui.




Báo
Nhân Dân liên tiếp đăng nhiều bài truy lùng đổi mới.

-
Bài Hoàng Nhân (số ra 23/9) chửi Sông Hương là tại sao kỷ  niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch mà lại đăng Nguyễn
Huy Thiệp viết về Nguyễn Thái Học.

-
Bài Trần Thanh Đạm (số 30/9) chê Nguyên Ngọc là viết không ai hiểu gì cả và cho
rằng Nguyên Ngọc không làm lý luận được.

Cái
lối chĩa mãi vào Nguyên Ngọc như vậy hình như đã quá lộ liễu, nhưng đấy là sự
quyết liệt của Nguyễn Đình Thi.




Đọc
những tài liệu liên quan đến tạp chí Novyi
mir
của A.Tvardovski. Tình cảnh y như bên mình. Ông này cũng bị một lũ quan
chức đồng nghiệp – các Ủy viên Ban chấp hành và Tổng biên tập mấy tờ tạp chí
khác, cùng ký vào đơn gửi lên trên đòi cách chức Novyi mir mà A.T. đang phụ trách. 
Mất tự do đến mức trắng trợn.  Dốt
nát. Cuộc sống đảo lộn hết cả.

Bao
giờ các bên  đấu đá cũng nhân danh cách
mạng.

Đất
Quảng

số 5-6/1990 có bài của Lữ Phương nói rất hay về cái chủ nghĩa xã hội tưởng
tượng của chúng ta.




30/9


Báo
Văn nghệ đăng bài Phương Lựu, chưa chi đã lấy Trung quốc để doạ Việt
Nam, đe nẹt Việt Nam (trong khi đó, những đổi mới của Trung quốc sau 1976 thì
hồi đó ta không hề giới thiệu và bây giờ, Trần Đình Sử giới thiệu thì Phương
Lựu bảo là cũ rồi).

Nhớ
Sử có lần nói về Phương Lựu như sau: Phương Lựu đọc ông A, bảo ông A được cái
này hỏng cái này. Rồi đọc ông B, bảo ông B được cái kia và hỏng cái kia. Kết
hợp cả hai cái được của A và B lại, thì  thành ra Phương Lựu.




4/10

 Nghe nói tờ Tác phẩm mới của Hội mỗi
tháng lỗ khoảng một triệu. Vậy mà người ta vẫn cứ nhơn nhơn ra cả một  lượt, từ Vũ Tú Nam tới Ngọc Tú.

Vấn
đề ở đây là gì? Là có một sự cách biệt giữa cái mà nhà nước đưa ra, và cái yêu
cầu của dân bây giờ.

Một
lý do báo ế. Đội ngũ làm báo -- nhất là của miền Bắc-- quá bệt, không có nghề,
thấy dân Sài Gòn nó nhoai ra cũng muốn nhoai, nhưng không biết làm sao được.

Nhớ
nhận xét của anh dân du lịch nước ngoài đến Hà Nội: Những người phục vụ khách
sạn ở đây đã thay đổi, họ muốn làm vui lòng khách lắm, nhưng lại không biết
cách.

Cả
cái nước  này hôm nay không biết cách
sống, cách làm việc.

Giữa
trình độ sống thấp và định hướng sai, có một mối tương quan. Phương Tây trình
độ nó đã khá, mà định hướng sai còn chết. Huống chi là ở đây trình độ sống
thấp, rất thấp nữa. Cả hai phối hợp sẽ kéo người ta lại. Có lẽ chỉ ở văn học VN
mới có tình trạng chưa kịp đổi mới thì đã chửi bới đổi mới và nói rằng hôm qua
mới thế đủ rồi. Và không phải riêng một bộ phận nào mới quay lại cái cũ mà toàn
xã hội, từ trên xuống dưới, từ kẻ có quyền lợi, đến người dân thường, họ quen
bị lừa dối, và cũng quen lười biếng.




19/10

A.Môravia chết,  một tờ báo nào đó viết ông rất giỏi trong
việc diễn tả sự suy sụp tinh thần của con người trong thiên kỉ này.

Câu nói hay quá. Giá được nói leo, tôi sẽ bảo mình muốn viết về cái hoang
tàn của đời sống tinh thần con người hiện nay.

Trước cách mạng dân trí cũng nghèo hèn, cái “chất” chính của xứ này là một
cái gì yếu đuối lả lượt kiểu đàn bà.

Rồi cách mạng không ngờ thắng lợi, cách mạng như một sự dậy non. Cách mạng mang lại
cho sự tàn ác sự phá phách một ý nghĩa. Cách mạng kích thích sự thù oán. Cách mạng
vỗ về nâng đỡ cái tầm thường kém cỏi. Và bây giờ cách mạng hứa hẹn một lối sống
trưởng giả được tô vẽ, được hợp thức hóa.




Nghe nói Nguyễn Thụy Kha có một bài
viết khá hay về Nguyễn Khải, ai  đó bảo
đọc thấy Nguyễn Khải lon ton trong mắt tác giả. Tôi tự nhiên nao lòng, tự nhủ
sẽ viết về một Nguyễn Khải của mình, qua Nguyễn Khải thấy chân dung tinh thần
của con người hiện nay.




Anh Ngọc nhà thơ khái quát: Hậu Thủy hử có cái hay là nói rằng bọn
làm loạn thật ra thằng nào cũng  chỉ thèm
được quy hàng.

Đấy chính là tình trạng của đám đổi
mới bất đắc dĩ, đổi mới theo đuôi ở mình bây giờ.




        12/10

        Gặp Nguyễn Đăng Mạnh.

--
Anh có đọc cái gì mới?

--
Không đọc mấy. Trừ Cỏ lau là tập truyện mới thoát ra thành tiếng nói
nghệ thuật, còn nói chung những cái khác vẫn là kêu gào, kể cả Đám cưới
không có giấy giá thú
cũng kêu gào.

-
Bọn Thỉnh chắc phải van vỉ nhờ lắm thì anh mới viết cho bài Nguyễn Tuân.

-
Thì vào tận đây đề nghị. Ngay bây giờ, mụ Thiếu Mai vẫn nhắn ra gặp mụ luôn.

-
Nhưng nó lại cho anh một vố khi đăng bài 
về chương trình cải cách giáo dục.

-
Đúng, cái này thì rất mất dạy. Lâu nay, mình cứ tưởng là khu vực giáo dục yên.
Thế mà chúng nó vẫn chọc vào. Chúng nó còn viết thư lên cấp trên nữa. Bọn mình
phải họp để đối phó. Được cái ông Hoàng Tuệ cũng vững. Sau khi bài đăng ra,
Nguyễn Khắc Phi đã có bài trả lời rất hay, nhưng Hữu Thỉnh nhất định không
đăng.




Nhân
có vợ ông Mạnh vào, kể chuyện là dạo này ở trường dạy, chị cũng không chơi với
vợ Duật nữa, và nhiều giáo viên cũng ghét Duật.

Nhàn:
Kỳ này tôi mất bạn nhiều lắm.

Mạnh:
Đúng thế, bây giờ thật ngại phải bắt tay những người mà xưa kia mình kính trọng
và giá kể được họ tặng sách thì thú vị lắm. Như Huy Cận chẳng hạn. Hay như Bùi
Hiển.


lần Nguyễn Đăng Mạnh dự đoán nếu Nguyễn Tuân còn sống, chắc sẽ ủng hộ cái mới;
còn nếu Xuân Diệu sống ông lại ngồi mà bám lấy chút uy danh cũ.

Nhân
đó Mạnh khái quát:

-
Văn nghệ sĩ là cái anh nhạy cảm nhất, tinh vi nhất nhưng khi giở mặt cũng là
cái anh đểu giả, mất dạy, bảo thủ nhất.

--Anh
sẽ viết lại lịch sử văn học 30-45?

-
Viết chứ. Sẽ nêu bật ý nghĩ của mình trong quá trình hiện đại hoá văn học, và
sự hình thành một lớp trí thức theo kiểu phương Tây.

-
Trước cách mạng, người ta có trọng văn nghệ sĩ 
lắm không?

-
Thời ấy ai có bằng cấp là được trọng. Văn nghệ sĩ như Tự lực văn đoàn được
trọng. Nguyễn Tuân cũng được trọng, vì ông có học thực sự, biết sự thực. Còn
cánh Tân Dân không ai coi ra gì. Nên
họ mới tức. Đám ma Vũ Trọng Phụng phải làm to thế cốt cũng để cho đỡ tức. Hay
như đám Tô Hoài, Nam Cao, sở dĩ họ rất khoái cách mạng, vì cách mạng mang lại
cho họ cái địa vị mà họ chưa có.

 Nguyễn Đăng Mạnh nói về tình hình văn học bây
giờ.

-
Dạo này các ông ấy cố tìm cách hạ bệ một vài người uy thế văn học, uy thế khoa học
như hồi đấu tranh Nhân văn Giai phẩm, nhắc đi nhắc lại một vài lỗi nhỏ về tiếng
Pháp của Trương Tửu để bảo rằng Trương Tửu dốt.

-
Các ông ấy đang khép lại.

-
Chẳng những khép lại, mà còn muốn chặt chẽ hơn hôm qua. Bố bây giờ cố ý quát to
hơn, nghiêm hơn. Nhưng con cái nó đâu có nghe.

Trần
Đình Sử nhận xét, bọn Văn nghệ bây
giờ dưới sự lãnh đạo của Hữu Thỉnh còn kém cỏi và vô trách nhiệm hơn báo Văn
nghệ
hồi Đào Vũ nữa. Nhưng bọn nó không biết sợ. Nhìn sang thấy Nhân Dân
chủ nhật còn đi xa hơn nó nhiều.

Tôi
thì tôi nghĩ:

-
Qua đợt đổi mới này, lại thấy thực tế là không thể đổi mới  được và 
sẽ không có đổi mới  gì cả.
Bóng tối còn đầy, người của hôm qua còn đầy, tự bọn họ làm nên đời sống văn học,
bọn họ tự bít đường thay đổi, chứ chưa nói đến cấp trên và Nomenklaktura – bọn thư lại mới.

Chợt nhớ cái bài của tôi in trên Văn Nghệ 
hai năm trước  Bước đi không thể đảo ngược. Hồi ấy tôi còn
ngây thơ quá và đến nay vẫn ngây thơ tiếp.




Một
bài có tính tổng hợp cao trên Nhân Dân ngày 10/10:

-
Có những kẻ hồi trước theo cách mạng, nay xu thời cãi lại.

-
Những thày dùi về kinh tế đã bớt đi, nay toàn thày dùi về văn hoá nhằm kích
động mọi người và mua chút uy tín còm.

-
Trí thức ta, nhờ cách mạng mà mở mày mở mặt ra được, nay lại giở giọng.

-
Kẻ sĩ không có lối kêu khổ. Mà phải gắn với nhân dân, vì một tương lai xa.

-
Không được đổ lỗi cho cách mạng, không được trút tất cả những nóng lạnh trong
thói đời lên đầu chính quyền.

-
Không học lại tư sản.




Tôi
có thể cãi lại từng điểm.

-
Cách mạng ngày hôm nay đâu có phải là cách mạng hôm qua. Thành ra trách người
không bằng trách mình. Đúng là hôm qua người ta đã tự nguyện, nhưng trong đời
sống phải cho người ta cái quyền nghĩ lại cả. Nhớ có lần chính Nguyễn Tuân cũng
đã nói với tôi rằng ngay từ đầu mà cách mạng đã thế này thì làm gì có ai theo.
Thành ra với việc anh cố gò người ta vào cái cũ hóa ra một sự áp đặt, một sự
lừa dối.

 Về lớp trí thức cũ. Hỏng đi nhiều lắm. Rất
nhiều tính cách cao quý cũ nay hèn hạ đi, trở thành ăn bám. Tên tuổi rạng rỡ hơn,
nhưng thực chất là  hèn hạ đi. Mà càng
tầm thường càng được các ông ấy đưa lên. Vì người có lỗi rất sợ không được dùng
nữa. Bây giờ bảo nói gì họ cũng nói mà.

Với
những người thuộc thế hệ bọn tôi. Tôi không tin rằng chúng tôi chỉ có thế này.
Trong một nền giáo dục khác, hẳn chúng tôi nên người hơn nhiều.

Còn
họ kể công là bao nhiêu con em dân ăn mày dân móc cống thành trí thức ư? Liệu
có thể nói đám mới được đào tạo đó là trí thức thực sự?

Lại
như việc họ dạy chúng tôi là phải tử vì đạo. Nhưng họ có đứng đắn đâu. Họ đầu
têu việc phá rào làm bậy. Họ tha hồ đục khoét. Và cái dốt lên ngôi,  cái dốt chi phối xã hội.

Thời
nào thói đời cũng đen bạc. Nhưng chỉ thời này, mới đen bạc  trắng trợn như vậy. Con người mất hết chỗ để
hy vọng. Con người không còn tin tưởng gì ở nhân quần và chính mình. Tất cả
nhắm mắt nói theo yêu cầu, nói một đằng làm một nẻo.

Đến
bây giờ nước mình vẫn theo chủ nghĩa biệt lập, vẫn muốn tách mình ra khỏi thế
giới chung, những kẻ chưa bao giờ đọc Níetzsche và Camus một dòng vẫn to mồm
chửi các triết gia ấy là thế nọ thế kia.

Đấy
là tình cảnh  của đời sống tinh thần của
nước tôi lúc này.


ảo tưởng lắm, thì mới hy vọng sẽ có thay đổi .

Điều
làm tôi chạnh lòng là thật ra, những ý nghĩ mà bài báo trên nói, cũng đã được
một người mà trước đây tôi rất kính trọng như Nguyễn Khải  tin tưởng và tự hào là đã nói ra, chẳng qua Nguyễn
Khải nói ra một cách khéo léo khôn ngoan hơn nên lọt tai mọi người thôi.

 Về căn bản Nguyễn Khải không nghĩ khác họ.

Nguyễn
Khải thường tâm sự rằng đã rất khôn ngoan, khi không cho in các bài viết phê
bình của mình thành một tập riêng.

Tôi
không tin một nhà văn có quyền viết phê bình một cách vô trách nhiệm, viết phê
bình chỉ để che giấu ý nghĩ thực của mình.

Chính
trong sáng tác của Nguyễn Khải, những tư tưởng xấu xa (hãnh tiến xu thời tự coi
mình là tất cả v.v.) cũng nhuấn thấm vào từng câu từng chữ.





mấy tin buồn.

Tờ
Cửa biển của Hải Phòng bị cảnh cáo và doạ dẫm vì cho in những bài viết
không đúng với chức năng đã đăng ký.

Tờ
Đất Quảng bị Tỉnh uỷ làm phiền đủ thứ. Có một số báo, ngoài bìa vẽ hình
con trâu đi, cạnh đó là một em bé đang thổi sáo. Thế là tỉnh uỷ đập bàn.  Các anh thâm lắm. Các anh bảo đảng là con
trâu già, còn văn nghệ các anh như thằng bé thổi sáo, đàn gẩy tai trâu, phí cả
công.

Thanh
Quế và Thái Bá Lợi phải bảo nhau. Thế thì báo chỉ nên in ảnh các vị trong tỉnh
uỷ và… tiểu thuyết Lê Khâm, thơ Triều Dương, lý luận Hồ Hoàng Thanh v.v..

Cuối
năm ngoái, cuốn Miền hoang tưởng của Xuân Khánh được in ra, với một bút
danh khác.

Nghe
nói, báo Công an Quảng Nam Đà Nẵng có bài chửi bới quyển sách rất dữ;
biên tập viên bị khai trừ khỏi đảng, giám đốc xuất bản bị mất chức.

Lại
Nguyên Ân có một bài viết mang tên Phê bình độc thoại và những nạn nhân của
.  Không biết đọc ở đâu hay chỉ
nghe hóng mà Bùi Việt Sĩ  lại  bảo những bài kiểu này chỉ có thể gửi sang
Paris in ở báo của Việt kiều.

Nghe
Hách nói, đài Tiếng nói Hoa Kỳ  bắt đầu có mục văn nghệ chống đối ở Hà Nội.
Một tay tiến sĩ nào đó  đi Nam Tư về, nói
rằng ở bên này, họ hỏi thăm nhiều về Dương Thu Hương. Các anh phải ủng hộ lãnh
tụ tinh thần của các anh chứ, họ nói vậy.




25/10


Nghe  Ý Nhi kể, Trà ra cuốn Lý luận và văn học,
bán khá chạy. Trong không khí lộn xộn của ngày hôm nay, Trà trở thành tượng
trưng của một sự phải chăng mà người ta chấp nhận được. Trà có cái vị trí riêng
của mình. Ân không hiểu điều đó, nên nghe nói là sách của Trà ra, bán được,
liền doạ "để mình in của mình xem ra sao". Tôi thì tôi nghĩ rằng vai
của Trà khác, vai của tôi khác.




Đỗ
Chu đi Đông Âu về (đi thăm con). Nghe nói Chu có viết một báo cáo lên cấp trên,
nói rằng không nên đi vào con đường như Đông Âu, nếu vạn nhất xảy ra cái đó,
thì dân thương sẽ treo cổ những người cộng sản hết thôi.

Báo
cáo dày 200 trang và được gửi lên Ban Bí thư.

Hách
bình luận: Chu lại muốn làm chính trị đây mà.

Ngô
Thảo đã cãi nhau với Đỗ Chu hôm đám ma ông Bùi Huy Phồn




8/11

 Một người như ông Hữu Mai, hẹn tôi đúng 8h30,
không tới, lúc gần 9 giờ mới tới, lại ráo hoảnh:

-
Không, mình đúng giờ lắm, hẹn Nhàn đúng 9 giờ mà!

Lại
nhớ câu chuyện của Phạm Thị Hoài. Hoài nói với nhiều người, và viết cả trên báo
rằng ở Hữu Mai hứa danh dự là bận sau sẽ đưa Hoài vào danh sách kết nạp Hội.

Bây
giờ ông Hữu Mai đi đâu cũng cãi lại:

-
Làm gì có chuyện hứa danh dự ấy.

Ông
Mai tự nhận ông viết như người vẽ tranh có mẫu và truyện ông không lẫn với
người khác. Tôi đã nói câu đó vào phỏng vấn, sau ông ta lại xoá đi. Lúc nào ông
cũng nói nhân hậu, và khoe rằng nhìn ra được cái nhân hậu ở người khác. Một cây
bút tiêu biểu cho kiểu nhà văn chiến sĩ: công thức, nhạt nhẽo mà lại quan trọng
hoá, tự đặt mình vào vĩnh viễn, tự cho mình là hơn đời. Sản phẩm của chất tuyên
huấn, chất dạy đời,  tin rằng mình đáng
làm mẫu cho người khác.

Nhưng
ông Vũ Tú Nam thì có khác gì mấy?

Nghe
nói Ma Văn Kháng được mời đi Pháp vì bên ấy nó dịch Mưa mùa hạ của ông
(?). Cũng không biết đâu mà kiểm tra loại tin này bây giờ.

Phạm
Thị Hoài đã chạy được đi Pháp. Từ lâu tôi đã dự đoán Hoài nhập cuộc một cách
đầy ý thức.




Tên
một cuốn sách mới in ở Madrit:

Sự
đầu hàng cái chết của người trí thức: trường hợp Iu. Olesa


Ôlesa
là một nhà văn có tài, sau đầu hàng. Nhưng ông chỉ viết những bài tự phê phán,
chứ không viết nữa. Cuối đời ông quay ra chuyển thể  Dostoievski cho các nhà hát, sống trong trầm
lặng, niềm vui hàng ngày là ngồi ghi lại những chiêm nghiệm về nghề văn qua
cuốn Không ngày nào không viết mấy dòng.

Đối
với tôi, điều thú vị và sẽ là món nợ phải trả, là viết về mối quan hệ đó - quan
hệ với cách mạng - của hàng loạt nhà văn Việt Nam.

Nguyễn
Tuân hay là cuộc đi tìm chỗ đứng. Tô Hoài hay là sự lươn khươn lúc đi với văn
học nói mình là cách mạng, lúc đi với cách mạng nói mình là nhà văn. Xuân Diệu
- người vợ lẽ chịu nép một bề, cốt để tồn tại. Nguyễn Đình Thi - hay là chuyện quan
trường văn nghệ; ông quan giết chết dần người nghệ sĩ trong cái xác người sinh
viên muốn lập thân. Tế Hanh - một thứ dây leo, Nguyễn Xuân Sanh ăn bám. Bùi
Hiển – tiến trình đi ngược chiều lịch sử, sự trở lại của cái địa phương ngớ
ngẩn. Hữu Mai, Hồ Phương - những cán bộ tuyên huấn tưởng có thể đẻ ra một thứ
văn chương mới.

Riêng
trường hợp Nguyễn Khải cách tồn tại của Nguyễn Khải: bắt đầu bằng sự căm giận
cá nhân; luôn luôn sắc sảo, chạm vào khuôn khổ mà không bao giờ mắc nạn vì
không bao giờ ra ngoài khuôn khổ; viết cho mọi người chứ không phải cho chính
mình; rất phù hợp với cách mạng trong cái vẻ ngoài thích tìm tòi thích đặt vấn
đề. Công thức tóm tắt là một ngòi bút phức tạp trong cái giới hạn của sự đơn
giản.




9/11


Chu
thấy tôi ở Hội Nhà văn liền gọi vào đây mày, nhưng tôi cười rồi lảng.

Bằng
Việt ngơ ngác. Dạo này ông có đi đâu không hay vẫn ở đấy? Nghe như Bằng Việt
hỏi về chỗ ở, và lúc về, tôi mới nhớ ra là Bằng Việt hỏi về cơ quan.

Không
muốn sang chơi với Phương Lựu nữa, nhất là sau những bài  ông ấy phát biểu ở báo Nhân Dân, nói
rằng nay có một bộ phận đáng gọi là văn nghệ lật đổ. Nói về nhau như thế thì
còn sống với nhau thế nào được nữa.

Nghĩ
đi nghĩ lại, vẫn chỉ thấy có một con đường đi để tồn tại: sự đơn độc. Đơn độc
để có thể nghĩ về mọi việc theo kiểu của mình.

Đơn
độc nghĩa là chịu ngồi đọc, đọc lại sách cổ đọc lại những cuốn sách khó gậm.
Đơn độc để thêm cho cuộc sống một ít trí tuệ, vốn là cái hôm qua tôi đã cố,
nhưng bao nhiêu cũng là không đủ. Càng trí tuệ sẽ càng dễ sống hơn, tôi tin thế.

Đơn
độc nghĩa là dám yêu cầu cao với mình, cố viết ra những điều mình cảm thấy vừa
lòng, chứ không phải chạy theo những thứ danh lợi mà chính mình xa lạ.




6/12

 Về sự gian dối của con người, Nguyên Ngọc kể:

-
Lúc say thì lão Kim Lân, lão ấy mới nói thật. Lão ấy bảo tất cả cái hỏng của
nền văn nghệ này là do Trường Chinh cả. 
Kim Lân  biết Trường Chinh từ hồi
văn hóa cứu quốc mà.

-
Còn thằng Chu, ở ngoài nó nói với mình  chủ nghĩa xã hội hỏng hết rồi. Lúc họp thì nó
lại tố Nguyên Ngọc thế nọ thế kia.




Nhàn:
Hữu Mai, Huy Phương không đáng nói, chính trường hợp Nguyễn Khải mới đáng để
suy nghĩ.

Nguyên
Ngọc:  Khải nó biết hết, nhưng nó không
vượt được. Nó chỉ quen làm việc với chính quyền mà không biết được nhân dân.

 Nhưng trường hợp mà tôi lạ nhất trong chấp
hành Hội nhà văn khoá này là  Vũ Tú Nam.
Mình tưởng ông Nam khá hơn kia đấy.




20/12


Một
dấu hiệu của thời nay là các tổ chức nước ngoài 
trực tiếp đưa ra lờì  mới với  các nhà văn mà họ cho là đáng chú ý.

Nhưng
họ cũng không thể lờ ngay giới quan chức đi được. Suốt thời chiến tranh giới
quan chức tranh chấp nhau nhiều khi cũng chỉ vì những quyền lợi từ nước ngoài
mang lại. Nay miếng bánh đã to hơn, họ quyết không để lọt vào tay những kẻ dưới
quyền họ.




Bên
Pháp họ mời một danh sách 8 người lãnh đạo của Hội Nhà văn và 4 người họ gọi
đích danh: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Hoàng Phủ Ngọc
Tường.

Phía
lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam định hoãn, chỉ xin đi 6 ngươì (Vũ Tú Nam, Hữu
Mai, Ngọc Tú gì đấy) và cho hai người ngoài 
quan chức là  Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Phạm Thị Hoài.

Nhưng
cấp trên (Ban bí thư) không chịu. Đâu cuối cùng chỉ còn có   Vũ Tú
Nam.

Nhìn
vào nhân vật tạm thời là số một của Hội hôm nay, thấy văn học đã thay đổi bản
chất từ 45. Trước đây, và xưa nay, văn học là bùng nổ, là khao khát, là đi
ngược lại quyền lực, đi ngược đám đông để tìm một cõi đơn độc, mà hóa ra lại là
nơi gặp gỡ của lòng người. Bây giờ văn học là che giấu, xoa dịu; là một đám ồn
ào, kém cỏi, nói leo, và cứ nhơn nhơn  tự
đắc.




      
Ân kể với tôi  rằng ông Hạnh rất
kêu một bài của Ngô Thảo trên tạp chí Tư tưởng và văn hoá và bảo đó là
một sự đầu hàng. Tôi tìm đọc và cũng thấy thế. Mà đó lại là một con người luôn
luôn chê chúng tôi là hèn!


một cách nói, người ở phía bên này hay nói. Nói rằng là cần miêu tả sự thật
nhưng sự thật nào kia. Theo họ có sự thật riêng của các giai cấp, cũng
như có đạo đức riêng, đạo đức XHCN, nó khác đạo đức tư bản. Cách đặt vấn đề như
thế là nguồn gốc của mọi tùy tiện…

Trong
bài viết của mình Ngô Thảo cũng lại nói tới cái sự thật nào kia kỳ cục đó!




25/12

Một số nhận xét của Nguyễn Quân về
văn nghệ hiện thời:

- Báo chí đang ở thời kỳ sau văn
hóa thể thao
, thời kỳ văn hóa cắt dán cứ bê nguyên của nước ngoài vào nước
mình là thành.

- Sự chú ý của người ta tới các tổ
chức văn nghệ nhà nước ngày càng ít đi.



 Tôi muốn bổ sung một khía cạnh khác. Bây giờ
chẳng ai bàn tán về Ban văn hóa văn nghệ của ông Trần Trọng Tân như trước đây,
người ta đã bàn về Ban thời ông Xuân Trường nữa. Bây giờ khác. Các ông to khi
cần cho người của mình xộc thẳng xuống Hội. Mà ý đồ của trên thì đã được chính
các tổ chức của nhà văn là Hội  “quán
triệt sâu sắc” lắm rồi. Cấp trung gian không quan trọng như hôm qua nữa. 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 23, 2015 03:19

June 21, 2015

Khái Hưng- Mấy bài tạp văn viết trên Ngày nay 1938-1940




             

Khái Hưng là loại nhà văn viết khá dễ dàng – dễ dàng
chứ không phải dễ dãi. Tôi cứ hình dung  giá kể có ai đó muốn  ông viết dăm giòng về bất cứ vấn đề gì, ông cũng
viết được. Đọc các bài tạp văn của Khái Hưng, tôi hiểu tài làm báo cũng tức là tài
quan sát và khả năng ứng biến của ông trước các hiện tượng nẩy sinh trong đời
sống hàng ngày.


Có điều lạ là bài đầu tiên giới thiệu dưới đây lại có
giọng khác hẳn. 


Ở đó ông bàn về các vấn đề đến nay vẫn là thời sự. 

+Một chút
siêu hình cần thiết trong việc nhìn nhận bản chất con người.


 +Vai trò của giới
thượng lưu trí thức trong sự hình thành cái khí hậu đạo đức của cả xã hội. 


– vai trò khai hóa của người Pháp, nó
là cú hích căn bản để đưa nước VN trung cổ vào thế giới hiện đại. 


Nhiều ý tưởng
ngắn gọn trong bài chạm tới những vấn đề lớn mà  con người đầu thế kỷ XXI chúng ta cũng đang
quan tâm.


Sau cùng một vấn đề lớn của lịch sử cận đại VN , vấn đề mà Phạm Quỳnh đã nêu: Có đồng đẳng mới bình đẳng. Không phải cứ lớn tiếng mình thế nọ thế kia là được. Một cuộc cách mạng chi có ý nghĩa khi nó làm thay đổi cả những con người.



Lúc này đây, trong khi nghĩ rằng luôn luôn có thể đọc lại nhiều nhà
văn tiền chiến như Khái Hưng để tìm câu trả lời cho các vấn đề hôm nay, thì
trong tôi nảy ra cái ao ước đơn sơ, giá kể thời của chúng ta cũng có những nhà
văn như thế. Không, thời nay, chúng ta chỉ có những nhà văn mang đậm cốt cách chiến sĩ trong khi
phẩm chất cơ bản của nghề văn phải là tính nhân bản.




Cuộc đời mới (*)                                      

                                              TINH THẦN
MỚI

      Tinh thần mới trong cuộc đời trước tiên là
một vấn đề luân lý.

      Vì ở gốc của mọi sự đổi mới  phải có một số huấn tắc tối thiểu làm phương
châm cho hành vi về đủ các mặt trí thức và hình thức. Đấy có thể là những yếu tố
của một lý tưởng  một chủ nghĩa sẽ phát
trương rõ rệt về sau này, để đưa cá nhân và một xã hội nhất định đến một trạng
thái nhất định.

     Cái sức mạnh của lý tưởng  dường như thuộc về thần bí , và người ta, một
con vật thần bí – dù những đồ đệ Karl Marx dễ quên điều đó—không phải chỉ để
cho ‘kỹ thuật” đưa dắt.

*

      Nên trước khi nói đến một phong trào tân
sinh hoạt để đưa chúng ta đến một cảnh đời tốt hơn  dù về mặt nào, cá nhân và xã hội, vật chất
hay tinh thần, tôi muốn nhắc tới cái quan hệ cốt yếu của cái phần tử luân lý và
tín ngưỡng. Chỉ việc đổi hình thể mà cho là mình đã đổi mới thì thật là chẳng dễ
làm! Ta phải đổi tận gốc, từ phía trong ta. Sự đổi bên ngoài  chỉ có cái giá trị biểu hiện. Cần nhưng chưa
đủ.

*

     Tôi muốn cho chúng ta sâu sắc hơn chút nữa
nhiệt tâm hơn chút nữa và cần nhất là “muốn” được đến tới, được hơn vì nếu ta đã mất đến cả cái lòng muốn thì
còn nói chuyện gì được nữa !

   Cười cợt là một lợi khí của kẻ yếu một cách
trả thù kẻ hơn mình và số phận. Nó tỏ một người có “trí” nhưng không phải một
người có “dũng”. Nó có cái năng lực phá hoại rất hay. Nhưng đến cái thời kỳ kiến
thiết ta phải tập có những đức tính tích cực hơn. Thắng được số phận, ta không
cần phải nghĩ cách trả thù nó nữa.

    Ta có mong thời kỳ đó mau tới hay tưởng nó đã
tới rồi và ta cũng đổi yếu làm mạnh không chịu an phận nữa, thì hãy tin tưởng đi,
hãy “muốn”!

*

    Hãy “muốn”
bỏ cái tâm lý đê hạ đi, nó đã đè trĩu chúng ta từ ngàn xưa tăm tối ! Có đồng đẳng
mới bình đẳng. Tôi muốn hiểu chữ đồng đẳng về nghĩa luân lý hơn là trí thức. Về  sự giỏi giang, nhiều đồng bào ta có thể sánh
với bậc “chủ”, nhưng về tâm tính cử chỉ họ vẫn là “tôi tớ”. Cái giỏi của họ không
nâng cao họ và nước họ lên tí nào. Và họ vẫn tự nhận ( ôi mỉa mai! ) là thượng
lưu.

*

     Xứ ta cần có một thượng lưu khác cao thượng
và tiết tháo, biết tự trọng và yêu tự do. Một tâm lý “ làm chủ’ không phải là một
tâm lý “làm tôi” .

  “ Hỡi 
Nathaniel! Ta sẽ dạy người cái thiết tha, cái tâm thành” (**)

    Nhưng
chúng ta còn cần một thứ nữa: cái tự trọng! Một thứ nhỏ mọn nhất mà ta vẫn thiếu,
mặc dù mười mấy năm mài đũng quần từ trên ghế sơ học cho tới đại học!

*

  Cái mỉa mai đau đớn là khi tôi đọc chương trình
khoa luân lý  ở ban cao đẳng tiểu học Pháp
-Việt là thấy có chua trong khoản” Những điều mà người Nam chịu ơn giáo hoá của
người Pháp” điều này: “phẩm cách” 

  Nghĩa là bản tính của ta là không có phẩm cách.
Chỉ có thế. Và đúng.

 Ký bút danh Du Lang

(*) Tên một tiểu
mục

(**) Trích từ một
tác phẩm của A. Gide

                                             

                                             XUÔI GIÒNG

Thói
quen là một kết quả của sự lười biếng. Muốn làm khác, nghĩ khác đi, khác mọi
người trước mình, khác mình, nhất là khác mình thì bao giờ mình cũng phải suy
xét, tìm tòi và mạnh bạo quả quyết.

*

Trong
cao lâu Đông Hưng Viên thời nay người ta vẫn còn dùng như thời Xuân Thu, Chiến
Quốc cái bát nắp để pha trà và cái chén không quai để uống nước. Kể ở vùng Sơn Đông,
Trực Lệ, giữa mùa mưa tuyết, gió lạnh, khi những người qua đường rét run lẩy
bẩy, giấu kỹ hai bàn tay trong ống tay áo dầy và rộng, mà ở trong nhà mình dùng
bát nắp kia, chén không quai kia uống nước trà thơm nóng thì hợp thời lắm, vừa
ấm bụng, vừa ấm tay. Và bao giờ cũng hợp thời, dù ở thế kỷ thứ năm trước kỷ
nguyên hay ở thế kỷ thứ ba mươi sau kỷ nguyên.

Nhưng
đem cái bát nắp ấy, cái chén không quai ấy sang xứ nóng này để dùng vào mùa
viêm nhiệt thì thực là một sự lạ lùng của thói quen Á đông. Họ đã dùng, ông cha
họ đã dùng, dùng vì tiện lợi, thì họ cứ dùng theo, dù không tiện lợi. Người Âu
tây cho đó là một biểu thị lòng bài ngoại. Không, đó chỉ là biểu thị sự lười
biếng của trí suy xét.

*

Theo
thói quen, ta cho là tốt, là phải, những cái gì đã có danh là tốt, là phải. Ta
lười biếng không chịu lý luận. Mà ta lười biếng như thế cũng chỉ vì thói quen.
Thói quen luyện tư tưởng ta như luyện cái tay đánh đàn thạo của một ngưòi mù.

*

Nghe
nói người kia có tính vị tha, người này có tính ích kỷ, ta yên trí ngay rằng
người thứ nhất tốt, người thứ hai xấu. Trong đầu ta đã sẵn sàng có một bản
thông kê khai rõ các việc tốt, xấu của loài người, và bản ấy ta đã học thuộc
lòng, nên khi nghe đọc đến một tên, ta bình phẩm ngay được: tốt hay xấu. Còn
suy xét, nghĩ ngợi mà làm gì cho nhọc trí.

*

Vậy
nếu có người bảo ta: ích kỷ là một nết tốt, ta cho ngay rằng người ấy nguỵ biện
mà không thèm chú ý nghe lời bàn cãi của người ta.

Nhưng
ích kỷ vị tất đã không là một nết tốt, hợp nhân đạo.

Nếu
ai cũng ích kỷ, cũng chỉ nghĩ đến mình thì chắc không còn ai phiền nhiễu ai.
Mình không muốn người khác phiền nhiễu mình tức mình cũng không muốn phiền
nhiễu người khác. Mình không làm hại người khác không phải vì mình yêu người ta
mà chỉ vì muốn người ta không làm hại mình. Đó chỉ là lòng ích kỷ.

Bàn
rộng ra, nếu người cha ích kỷ chỉ nghĩ đến mình, thì người con sẽ chóng biết tự
lập. Nếu người con chỉ nghĩ đến mình mà không phụng dưỡng cha mẹ (vả cha mẹ cần
gì con phụng dưỡng vì đã biết ích kỷ để dành tiền dưỡng lão) thì sẽ có đủ thời
giờ để làm được nhiều việc có ích cho xã hội (Tự nhiên việc làm của mình có ích
chứ không phải mình muốn hay định có ích, vì làm một việc có ích cho xã hội,
mình chỉ cốt có cái thú làm việc ấy, nghĩa là mình chỉ ích kỷ, nghĩ đến mình.)



Ngày
nay

số 105,  1938




                KHÔNG BIẾT TẾT TRUNG THU

        ĐÃ THÀNH TẾT
CỦA TRẺ CON TỪ BAO GIỜ?




Kỳ
thuỷ nó là một tết của thi sĩ, của bọn thi sĩ Minh Hoàng, Lý Bạch đời Đường.

Bọn
ấy, gặp tiết thu êm mát, uống rượu, làm thơ, múa hát, vui thú, say sưa với
tình. Được thế, họ chưa xem là thoả mãn, họ chưa cho là thần tiên. Họ còn ao
ước lên chơi cung trăng, vì thấy trăng sáng và tươi, lẳng lơ và thân mật, trăng
nơi cung quê của ả Hằng mà họ đoán chừng đẹp lắm, đẹp hơn hết cả những gái đẹp
mà họ đã yêu một cách dễ dàng ở trên dương thế.

Nếu
họ sống với thời khoa học toàn thịnh ngày nay, thì họ sẽ mơ ước dùng máy bay,
dùng đạn trái phá, để lên tới cung trăng.

Nhưng
họ sống vào thời văn thơ toàn thịnh đời Đường, nên họ đã tới đích của họ một
cách dễ dàng và giản dị hơn: họ đã cưỡi mộng mà bay lên trời.


khi về họ đã tả hết các thứ con giống mà họ trông thấy, trông thấy trong mộng.

Ngày
nay người ta cũng tả các thứ mà người ta trông thấy trên cung trăng, nhưng  người ta tả theo mắt viễn kính.

Viễn
kính hay mộng dễ đã khác gì nhau! Vì chắc đâu viễn kính lại không sai lầm. Các
nhà khoa học liệu có tin những điều tưởng trông thấy trên cung trăng không? Nếu
tin, sao còn mơ màng bắn người lên trên ấy? Vì cứ theo những cuộc nghiên cứu
khoa học thì nhiệt độ ban ngày và ban đêm trên mặt trăng cách xa nhau tới 160
độ (+ 100 và - 60). Đã biết thế, đã  biết
trong hoàn cảnh ấy con người không thể sống được, sao còn tìm lên, tìm đưa
người lên cung trăng? Lên để làm gì? Để chết cháy ở trên ấy?

Hoạ
chăng các nhà khoa học không tin những điều mà khoa học đã tưởng tìm thấy.

Vậy
thì Wells và Godart, Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi cũng chỉ là một giống:
giống mơ mộng đa tình. Thi sĩ và nhà khoa học có khác nhau đâu!

*

Nhưng
sao người ta lại lấy cái đêm lên chơi cung trăng của bọn Đường Minh Hoàng làm
một đêm nô đùa cho con trẻ?

Trẻ
con biết thưởng thức gì trăng thu?

Phải
chăng một nhà trào phúng nào đã làm cái việc mỉa mai ấy? Người ấy cho những
mộng đẹp của bọn thi sĩ cao quí trẻ con quá. Và trong cái đêm bọn kia mơ màng
những thú huyền ảo trên tiên, người ấy thì dìm hồn họ xuống đất bằng những
tiếng trống ầm ĩ của lũ trẻ con ồn ào.

Người
ấy có ý bảo bọn thi sĩ cao quý và ích kỷ: Đừng mơ mộng! Đừng tìm  cách rời xa mặt đất. Hãy sống trong loài
người, hãy sống với loài người. Hãy hát những nỗi vui- buồn, những tình đau
khổ, những cảnh sung sướng của loài người. Hãy tả túp lều tranh của người đánh
cá còn hơn tả nơi cung quảng của chị Hằng Nga. Hãy ngắm, hãy yêu con trâu, con
bò của người làm ruộng còn hơn là đi tán tụng con thỏ ngọc, con cóc thuỷ tinh
không dính dáng tới đời sống của loài người.

Nhà
trào phúng nghĩ thế và đã làm theo được ý muốn.

Nên
từ đó Trung Thu đã thành một Tết trẻ con dành riêng cho trẻ con.

     Ngày nay số 181.
30-9-1939







Vấn đề dùng đại
danh từ


"CHÀNG" VÀ "NÀNG"

Hiện
giờ, để thuật truyện, chép truyện, phần nhiều các văn sĩ, các nhà tiểu thuyết
vẫn dùng hai chữ đại danh từ "chàng" và "nàng", tuy trong
khi chuyện trò họ không nói tới hai tiếng ấy.


người cho chàngnàng không thiết thực và không thành thực nữa.
Họ nhất định tránh hai chữ ấy. Vì thế trong văn của họ, (theo ý tôi) lủng củng,
lòng thòng những "anh ấy", "chị ấy", "ông ấy",
"bà ấy", "ông ta, bà ta", "người ấy",...

Khoảng
ba, bốn tháng trước khi từ trần, Tản Đà, trong câu chuyện văn chương, có ngỏ
với tôi rằng "chàng" với "nàng" làm cho tiểu thuyết của tôi
có giọng hơi quê. Tôi cảm lòng thẳng thắn của thi sĩ và cùng bạn để cố tìm một
chữ bớt quê thay vào. Rút cục, chúng tôi đều cười xoà.

Sự
thực, trong tản văn của Tản Đà, ta rất ít gặp hai chữ "chàng, nàng";
mà “anh ấy, chị ấy, ông ta, bà ta" ta cũng ít thấy dùng. Thành thử văn tối
nghĩa và khó hiểu quá. Ai đã đọc những truyện Liêu trai do Tản Đà dịch
ra quốc văn chắc phải nhận rõ điều này.

Vả,
chẳng một Tản Đà bỏ đại danh từ. Phần nhiều các văn sĩ trong phái nho học cổ
điển đều có cái lối văn quá vắn tắt, quá gọn gàng y như văn Luận ngữ
vậy. Cứ mở quyển Nam hải dị nhân của
Phan Kế Bính ra đọc, ta sẽ thấy lối văn không đại danh từ nhan nhản khắp các
trang. Đây, không cần lựa chọn, một đoạn kiểu mẫu trích trong truyện Trần 
Bình Trọng
:

"Năm
Cảnh Hưng thứ nhất (1740), được cử làm giám sát ngự sử, một khi ở kinh về, ngủ
trọ làng Hoàng Xá, huyện Kim Thành, trông thấy một người nằm núp trong đống
củi, bắt ra tra hỏi, thì là tướng giặc tên là quận Gió...
"

Không
còn thể khô khan hơn được nữa.

*

Ta
thử kể ra đây tất cả những đại danh từ mới, cũ 
"đứng vào hàng thứ ba" theo như văn Pháp các nước bên Âu châu,
xem trong văn chương chữ nào có thể thay cho chữ "chàng" được.

Trước
hết ta hẳn phải nghĩ đến chữ dùng trong khắp nước Nam và trong khắp
các giai cấp ta thấy ngay rằng đó là một tiếng mà người trên dùng để trỏ
người dưới
. Cái nghĩa thấp kém của tiếng "nó" khiến tôi ngờ rằng
chữ ấy cỗi rễ ở chữ "nô" (nô lệ, nô tì). Ngày nay người ta nói:
"Thưa ông, thằng ở bỏ nhà đi rồi." Và ngày trước có lẽ người ta nói:
"Nô bỏ nhà đi rồi."

Dần
dần "nô" đã trở nên "nó" và thành một danh từ.

Vậy
nhiên "Nó" khong thể thay "chàng , nàng" được.

Chữ
"Hắn" đã bớt làm hèn kẻ bị nói đến, nhưng vẫn còn có nghĩa khinh miệt.
Ta không thể viết: "Hôm qua tôi gặp thầy giáo cũ của tôi, hắn bảo tôi
rằng..."

Biết
đâu thủa xưa, về đời Hồng Bàng chẳng hạn, "hắn" lại không chỉ là
tiếng đại danh từ thường dùng, như "il, elle, lui" trong Pháp văn, và
"ta, pei" (tha, bỉ) trong văn Trung Hoa. Nhưng từ ngày một người kiểu
cách, hay nịnh hót bày đặt phân biệt gọi "cụ lớn ấy, quan lớn ấy, cụ ấy,
ông ấy, anh ấy, chị ấy, thằng ấy, con ấy," từ ngày mình bắt đầu theo tôn
ty trật tự cả ở cách xưng hô, cả ở trong lời nói, thì nghĩa chữ "hắn"
tự nhiên và dần dần bị hạ thấp mãi xuống cho tới cái nghĩa "khinh
miệt" ngày nay.


trong Trung (nhất là vùng Thanh Hoá) tiếng "hắn -- tuy không hẳn được đứng
ngang hàng với tiếng il, lui, nhưng người ta dùng đã rộng và bạo hơn ở
ngoài Bắc. Vào Sầm Sơn nghỉ mát, ai không được nghe những câu tương tự như câu
này của chị hàng cá: "Hắn còn ngáp thế mà ông bảo hắn ươn!" Hay câu
này của người coi trại: "Cây này à, trồng hắn rất dễ, hắn mọc đầy ở các bờ
giậu."

Đó
có lẽ là một dấu vết xưa còn lại, và có thể chứng rằng tiếng "hắn"
nguyên trước là một đại danh từ dùng để thay chung người và vật như hệt những
chữ il, elle, lui trong Pháp văn.

Trong
đời Lê, người ta dùng chữ "Nghỉ". Không hiểu sao chữ ấy lại bị
xoá bỏ hẳn, không ai nói và viết nữa. Và nếu không có câu Kiều "Gia tư
nghỉ cũng thường trường bậc trung
" thì có lẽ chữ ấy, không còn vết
tích gì trong quốc văn đối với phần đông văn sĩ hiện thời. Và chữ
"nghỉ" trong câu Kiều, người ta cũng vẫn thường đọc là
"nghĩ" mà thôi.

Thiết
tưởng nếu bây giờ chúng ta liều và bạo, thì chúng ta có thể dùng chữ
"nghỉ" ấy thay cho chữ "chàng"  và chữ "nàng" được. Vì lâu ngày
không dùng đến, ta không còn biết rằng chữ "nghỉ" có hay không có cái
nghĩa thấp hèn, khinh miệt như chữ "nó" và chữ "hắn". Vậy
ta có thể cứ gán cho nó một nghĩa chung không công không phạt như những chữ il,
elle, lui
.


ta sẽ viết những câu văn rất gọng gàng đại khái như thế này:

"Một
ông cụ già chống gậy đi đến. Nghỉ dừng lại ngắm nghía cảnh sông. Bỗng nghỉ thở
dài... Giữa lúc ấy, một chiếc ô tô lộng lẫy đỗ lại bên đường. Từ trên xe một bà
bước xuống; nghỉ đến gần ông lão...
"

Thực
là giản tiện cho quốc văn nếu chúng ta bằng lòng dùng chung một chữ ấy để trỏ
già, trẻ, sang, hèn, đàn bà, đàn ông. Nhưng dùng một tiếng, một chữ không còn
có trong tập quán, không phải là việc dễ. Đến những tiếng, những chữ lâu ngày
sai lạc nghĩa đi và đã nhập tịch trong quốc văn với nghĩa sai lạc ấy, người ta
cũng đành chịu nhận và dùng theo những nghĩa sai lạc mà thôi, dù có những nhà
"thông thái" khó tính như ông Nguyễn Triệu Luật muốn sửa chữa lại.
Tập quán, đó là một nhà thông thái trong ngôn ngữ một nước, nhiều khi nhất định
đòi thông thái hơn các nhà ngôn ngữ học. Đấy, tôi đố ông Nguyễn Triệu Luật cãi
được rằng "tử tế" và "lịch sự" không có nghĩa "tử
tế" và "lịch sự" trong văn chương bình dân! Và  tôi nói nhỏ với ông Luật câu này: Cũng như
tôi, ông vẫn dùng chữ "tử tế" và chữ "lịch sự" theo nghĩa
tục.

Như
thế đủ tỏ cái sức mạnh của tập quán trong văn chương. Và, với những tập quán,
phong tục phiền phức của ta, khó lòng sau đây chúng ta có thể dùng được một
tiếng, một chữ đại danh từ rộng nghĩa như chữ "il" của người Pháp.

Nói
rằng nước Pháp là một nước dân chủ, bình đẳng, nên cách xưng hô của người Pháp
bình đẳng hơn cách xưng hô của người mình, thì sao ở thế kỷ mười sáu, mười bảy,
dưới quyền độc đoán của vua chúa, những tiếng đại danh từ kia đã có rồi, và vẫn
không bị tiêu diệt dù người ta dùng chung nó để thay ông vua cũng như để thay
một anh tiều phu nghèo hèn hay một cái bút chì, một tờ giấy.

Vậy
thì một ý "tôn ti trật tự" không đủ giảng nghĩa sự khiếm khuyết của
văn chương ta. Tôi chắc chỉ tại thời trước ta chưa có một nền văn chương. Các
cụ ta viết văn Tàu, thì còn cần gì lưu tâm đến sự thiếu đại danh từ trong quốc
văn, một thứ văn bá láp của dân gian. Nếu các cụ cũng băn khoăn, khó chịu, cũng
tìm tòi như chúng ta ngày nay, thì chắc hẳn chữ đại danh từ chung kia chúng ta
đã có rồi.

Vậy
tiếng gì, chữ gì đã có, và đã dùng rộng trong khắp dân gian, không một sức mạnh
nào có thể xoá bỏ hẳn đi được. Và nếu ta không có một đại danh từ trong văn
chương vào loại những chữ il, elle, he, shi, tha, bỉ, chỉ tại ta chưa có
bao giờ. Vì thế tôi ngờ rằng chữ "nghỉ" chỉ là một thổ ngữ dùng riêng
ở một địa phương. Nếu không, sao lại chóng bị người ta quên lãng được!




*

Một
tiếng đại danh từ nữa không bị quên lãng hẳn nhưng không thành được một tiếng
phổ thông. Đó là tiếng "y"

Y
là một chữ Tàu nhập tịch quốc văn đã lâu năm, song vẫn thấy ít dùng, hay chỉ
thấy dùng trong các bản công văn, án văn, dù chữ ấy rất giản dị, và ngắn nhất
trong lối chua bằng quốc ngữ của ta. Có sự đáng tiếc này là bởi ngày xưa các
nhà học thức chỉ dùng tiếng "y" trong câu chuyện văn chương phong nhã
với nhau mà thôi, còn khi nói với bọn vô học, khi nói với đàn bà, tôi tớ lại
vẫn dùng những tiếng "nó" hay "hắn". Vì vậy, tiếng
"y" đã không đựoc phổ thông trong dân gian.

Đó
lại thêm một chứng cớ để tỏ rõ sức mạnh của tập quán trong văn chương.

Hiện
nay đã có nhà văn dùng chữ "y" thay cho chữ "chàng" và cả
chữ "nàng" nữa, nhưng dùng một cách rụt rè, e ngại. Rồi không thấy ai
dùng theo mình, nhà văn lại bỏ "y" mà quay về anh ấy, chị ấy, ông ấy,
bà ấy, nếu không trở lại với chàng và nàng.

"Người  ấy", "anh ấy", "chị
ấy", "ông ấy", "bà ấy", không phải là đại danh từ,
cũng như "Cet homme là" , "cette femme là" không phải là
đại danh từ trong Pháp văn. Ta không thể tưởng tượng một trang Pháp văn đầy
những chữ nặng nề "cette femme là, celui là, celle là." Những chữ
"anh ta", "ông ấy", "người ấy", bác ta" cũng
vậy, chỉ làm cho văn Annam thêm nặng nề, trong khi mình đã có sẵn những đại
danh từ rất nhẹ nhàng thanh thoát mà mình không chịu dùng.

Chưa
kể chữ "nghỉ" và chữ "y" mà chúng ta ước sao sẽ được phổ
thông, hiện ta đương sẵn có chữ "chàng" và chữ "nàng", sao
ta không dùng? Nói rằng "chàng" và "nàng" người ta chỉ viết
mà không nói! Nhưng chắc chắn đã có một thời người nói "chàng" và
"nàng" như người ta nói "anh ấy, chị ấy". Ở Mường, một dân
tộc Annam cổ, chữ "nường" hay "nàng" còn dùng trong ngôn
ngữ, điều này đủ chứng thực rằng hai người mình vẫn nói "chàng,
nàng," nói đã từ đời thượng cổ.


biết đâu, ít lâu nữa nếu ta muốn, tiếng "chàng" và tiếng
"nàng" lại không nghe thấy trong câu chuyện.


sao hai chữ "chàng, nàng" rất giản dị và rất hay ấy lại mất trong
ngôn ngữ của ta? Và mất từ bao giờ? Phải chăng từ thời ta bị Tàu đô hộ và chữ
"nô" tàu biến đổi thành chữ "nó" annam? Hay từ ngày các cụ
đạo mạo thấy chữ "chàng và chữ "nàng" có vẻ lẳng lơ nên không
dùng nữa và cấm cả con gái dùng trong ngôn ngữ? Sự thực thì hai chữ
"chàng" và "nàng" cũng có âu yếm, nhất trong những thơ lục
bát của ta. Nhưng âu yếm không phải là một tội để đến nỗi bị ruồng bỏ. Vả âu
yếm là vì lời văn êm dịu của các  thi
nhân, hơn là vì cái nghĩa nội dung, cái giá trị chân thực của hai đại danh từ.

"Chàng"
và "Nàng" chỉ còn một điều bất tiện, là trẻ quá. Nói đến một ông cụ
bảy mươi, ta không thể viết "chàng già yếu" được. Ta vẫn phải dùng
chữ "ông lão" hay "cụ già".

Bởi
lẽ đó, tuy hiện nay phải tạm dùng "chàng, nàng" tôi vẫn ao ước rằng
một ngày kia chữ "y" hay chữ "nghỉ" (có lẽ chữ này hơn vì
chưa có nghĩa khinh miệt) sẽ được kế chân, trong ngôn ngữ và văn chương.

 Ngày
nay
số 187, 11-11-1939

                      188, 18-11-1939




HÀ NỘI... 36 PHỐ
PHƯỜNG





Nội nổi tiếng là một thành phố đẹp, là một viên ngọc quí của Đông Dương. Sự
thực thì chùa Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm quả là một viên kim cương nạm trong ngọc
bích, đặt trên một cái đệm nhung, nhiều màu rực rỡ- tức là những vườn hoa viền
quanh hồ.

Những
vườn hoa của thành phố bao giờ cũng là những kỳ công của các ông đốc lý nối
tiếp nhau đến cai trị các thành phố xinh đẹp này. Mỗi cái một vẻ: vườn hoa bên
đền Quan Thánh sạch sẽ, kháu khỉnh, tô điểm như một cô gái tân thời. Vườn hoa
Robin đài các, sang trọng như một bà hoàng, vườn hoa Paul Bert nền nếp như một
cô đứng tuổi nhưng vẫn còn đỏm dáng...

Riêng
vườn hoa Hàng Than là như một cô xấu số bị bỏ lay bỏ lắt chẳng được thành phố
ngó tới.

Ngày
xưa cô ta già lắm. Mà cũng chẳng ra một cái vườn hoa nữa. Đó là thường chỉ là
nơi tụ họp của các trò vui, những ngày hội Chính trung. Người ta leo cột mỡ ở
đấy. Người ta bịt mắt bắt vịt, bắt dê ở đấy. Người ta chọc thùng, nhảy bị ở
đấy. Sau những ngày hội nô đùa, cái vườn hoa đã cằn cỗi càng răn reo rúm ró
thêm.

Nhưng
một hôm, vào cuối xuân năm ngoái, bỗng người ta để ý săn sóc đến cô gái nạ
dòng. Hằng ngày có tới vài chục phu, vừa đàn ông vừa đàn bà đến cuốc, xới, nạo
bớt đất đi cho vườn hoa đỡ cao, đỡ gù, đỡ lọm khọm.

Rồi
khi đất đã san bằng phẳng, người ta xe những xe cỏ đến để trồng. Người ta chăm
chỉ, cần cù trồng từng cây cỏ một, thứ cỏ mà người ta đã chọn lọc kỹ càng, không
để lẫn vào những loài cỏ xấu.

Tôi
thường đi qua đó và tôi phải cảm động dừng lại ngắm nghía những người đàn bà,
những cô con gái, thong thả, khoan thai giấu gốc cỏ nọ sau gốc cỏ kia xuống một
thứ đất nhỏ và mịn như bột rây. Và bất giác tôi 
nghĩ tới hai câu thơ của thi sĩ Yên Đổ:

Trong
nhà ông bày rặt chai,


Ngoài
sân ông trồng toàn cỏ.


Thì
ra trồng cỏ cũng là một việc khó khăn lắm vậy.

Sau
một tuần, cỏ cấy đã kín, chỉ trừ ra những lối đi ngoắt ngéo trong vườn, và các
đầu luống có giáp với đường: ở đấy, người ta trồng những cây xương rồng hoa đỏ,
mục đích cốt để xiên gai vào chân những người qua lại hay vô ý xéo lên cỏ, vô ý
một cách lười viếng, cố nhiên.

Người
ta chỉ còn việc tưới cỏ. Ngày ngày hai buổi người ta cho vòi cao su, phun nước
như mưa bay. Và không cần suy nghĩ cũng đoán được rằng chẳng bao lâu cỏ sẽ tốt
hơn lúa ở ruộng bón phân.

Một
tấm thảm xanh rờn.

Bao
công phu mới có một cảnh êm đềm đẹp đẽ như thế.

Nhưng
lại một hôm người ta vác cuốc, vác xẻng đến, người ta huỳnh huỵch đào những
rãnh theo đường chữ chi chạy qua tấm thảm xanh rờn.


từ đó, để tránh khỏi phải nhảy qua rãnh, người dân thường đi lên cỏ vừa êm, vừa
mát chân, nhất khi lại đi chân không.

Bây
giờ thì chỉ còn những gò đống và những hầm hố. Cỏ bị giày xéo đã chết từng đám,
từng khoảng rộng, thứ cỏ mà người ta đã chọn lọc, mà người ta đã thong thả
khoan thai trồng từng cây một.

"Chiến
tranh!" ý nghĩ ấy không sao không lọt vào đầu óc chúng ta mỗi khi chúng ta
qua nơi vườn hoa bị xẻ.

Chiến
tranh chỉ có một mục đích tàn phá. Và thành phố Hà Nội ta mới theo đuổi công
cuộc phòng thủ, cái cảnh tàn phá - tuy là tàn phá trong hoà bình- đã hiện ra
trước mắt rồi.



 Ngày nay số 203, 16-3-1940





   Chuyện
xa gần


                              CÓ NƠI TRÚ ẨN

Hiện
giờ ở các phố Hà Nội, ta thấy nhan nhản treo những tấm biển có vẽ cái tên chỉ
và bốn chữ "Có nơi trú ẩn". Nghĩa là trong lúc biến động dân thành
phố chỉ có việc cứ theo những biển đó, vững chãi mà đi thôi: đến nơi khắc có
chỗ ẩn thân, không lo ngại gì nữa.

Thật
nhà nước rất là chu đáo. Chẳng có gì là bỏ sót, là khuyết điểm nữa. Cái gì cũng
đã bố trí sẵn sàng, xếp đặt cẩn thận, như vậy đỡ cho người ta phải nghĩ ngợi,
mà ai cũng biết rằng nghĩ ngợi rất là mệt nhọc.

Ngày
xưa Kim Trọng tìm chỗ trọ, mừng rỡ đã được một chỗ:

Có cây có lá sẵn
sàng


Có hiên Lãm Thuý
nét vàng chưa phai...


Để
kiếm nơi tình tự với cô Kiều. Bây giờ, cậu Kim Trọng tân thời chắc phải lấy làm
sung sướng khi thấy một toà nhà:

... Có bao có cát
sẵn sàng


"Có nơi trú
ẩn" vững vàng khỏi lo...


Còn
cô Kiều tân thời thì phải đợi lúc cùng đi ẩn dưới đường hầm: con đường đào thì
hẹp, mà lại khuất khúc chữ chi, lại kín đáo bốn bề, thì sự tình tự lại càng dễ
thân mật và gần gụi nữa.




Ký bút danh Thiện
Sĩ, một bút danh của Thạch Lam

Theo người sưu tầm bài này có vẻ của Khái Hưng  hơn

Ngày nay số 215 6-7-1940




                                 SẦM SƠN NĂM
NAY

Sầm
Sơn năm nay rất đông, nhưng rất buồn, bãi biển thường lưa thưa người tắm. Những
người đi nghỉ mát mọi năm, năm nay vắng mặt nhiều, vì không sao thuê tranh được
nhà với các ông bá, ông hàn xứ quê, và nhất là các ông cự phú Hà thành. Các ông
ấy ném tiền ra thuê lấy một biệt thự bất cứ nóng hay mát, quý hồ rộng để có thể
chứa chật ních được cả một đại gia đình.

Đường
phố vắng, bãi biển thường vắng. Trái lại, sở bưu chánh thì bao giờ cũng đông
nghịt những người nói và chờ nói điện thoại: họ dò ý kiến ở nhà, họ nhận ý kiến
ở nhà, họ phàn nàn điều này điều khác, họ hỏi thăm tin tức Hà thành. Hình như
họ cần phải một ngày vài lần nói điện thoại về mới có thể sống yên lành được.
"Có sự gì lạ không? - Không à? Ở đây cũng thế...".

       Không, ở đây có nhiều sự lắm chứ. Ta thử
ra ngoài bãi biển mà xem: kìa, ba cô Hà thành không xấu, trái lại thế, nhưng
vẫn làm sao ấy, ngồi tắm ở ngay ven làn nước để té lên mình làn bọt vàng bám
vào cát. Đứng trên bờ, cách đó vài ba bước, hai bà lão cầm áo bông cho con
cháu, luôn miệng kêu gào hổn hển: "Đừng ra nữa, tắm ở đấy thôi!" Kìa,
mấy cô khách lai và khách không lai để nguyên cả quần áo lót xuống bì bõm dưới
nước mặn. Lại kia, năm, sáu cô trùm kín trong áo bông dài như rét mướt lắm, rón
rén đến bên làn nước nhìn trước nhìn sau như sợ người ta trông trộm tấm thân
ngọc ngà, rồi khi thấy vắng người qua lại, vứt áo bông xuống cát, chạy vội náu
mình xuống nước biển. Những hạng tắm biển ấy mọi năm không có. Nhưng năm nay
nghỉ mát và tắm biển là việc phụ. Việc chính chỉ là việc đến Sầm Sơn.

Ngày nay số 215, 6-7-1940

                            

                              ĐI ĐÂU MÀ VỘI?

Người
Hà Nội,  thế mà lại dễ tin,  dễ sợ mà cũng vội vàng hấp tấp quá. Những
phương pháp của nhà nước chỉ là những phương pháp đề phòng, - nhà cầm quyền bao
giờ cũng phải liệu trước -- thế mà lòng dân đã nhốn nháo. Người ta nghiêng tai
nghe những tin đồn đại dị kỳ ở đâu đâu, không căn cứ, ấy thế là hốt hoảng và lo
sợ. Thôi thì nhà nào nhà ấy dọn đi hết về quê, mang cả những thứ hết sức cồng
kềnh: nào sập gụ, tủ chè, án thư, trưòng kỷ, bình hương, ống phóng. Chừng ấy
thứ áp tải trên đường nhựa, trên xe hoả, ô tô. Người đi gặp người đến, ai nấy
trông khổ sở và lo âu. Để làm gì? Để rồi mấy hôm nay lại lục tục khuân ra, cũng
khó nhọc và khổ sở như thế.

Mấy
hôm phiên chợ Đồng Xuân đều rất đông người: người ta tranh nhau mua để trữ. Có
người mua hai trăm bạc gạo tám, có người mua ngót một chục bạc tương. Gạo,
muối, và vừng một ngày ba bốn giá. Thế rồi mấy hôm sau chợ vắng ngắt, họp chưa
đến 3 giờ chiều đã tan. Người nhà quê không dám đem các thực phẩm ra bán nữa.

Tình
thế ấy chỉ làm tăng các giá hàng, và chỉ khổ cho những nhà nghèo, vừa sốt ruột
chạy tiền vừa chịu mua giá đắt. Nhất là nhà nào đông con, thì sự lo lắng lại
càng tăng nữa. Sữa đắt lên tới chín hào, một đồng một hộp, gạo nhiều lúc không
có mà mua. Nhưng cái bà có hai trăm bạc gạo tám kia, tưởng có thể đủ nuôi sống
được mình trong thời loạn lạc ư? Một kết quả chắc chắn hơn hết, - và cũng đáng
buồn cười - là số gạo ấy chẳng bao lâu đã thành ra mốc, chỉ còn có cách là đổ
đi.

Rút
lại, chỉ có những người nghèo là vẫn vững tâm; họ bình thản và ung dung lắm; họ
không sợ thua thiệt hay mất mát cái gì, vì lẽ rất giản dị rằng họ chẳng có gì
để mà mất.




                        BÁN HÀNG TĂNG GIÁ

Hàng
ngày, trên các báo, vẫn thấy đăng tin nhiều nhà buôn bán hàng tăng quá cái giá
nhà nước đã định, bị phạt tiền. Sự trừng phạt ấy là cần và đích đáng để trừ khử
bớt các bọn đầu cơ, lợi dụng thời thế và sự họ có tiền, để bắt chẹt những người
mua, phần đông là những người nghèo khó, hoặc những người mà số lương có hạn.

Tuy
vậy, chúng ta vẫn thấy nhiều nhà hàng bán quá giá. Nếu người mua chỉ trả bằng
giá đã định, thì họ không bán. Ở một vài nơi ít hàng, chẳng lẽ lại vì một vài
xu phải tìm kiếm mua ở chỗ xa khác, hoặc vì cần dùng phải mua ngay. Đối với
những nhà buôn ấy, chỉ có sự bắt phạt luôn luôn là có thể khiến cho họ đổi ý.
Chúng tôi mong nhà chức trách sẽ chú ý và làm việc ráo riết hơn nữa, hoặc khiến
cho mọi người biết rằng bổn phận của người mua gặp giá hàng cao là phải trình
báo ngay các nhà chức trách để truy tố.

T.S.



Ngày nay số 216, 13-7-1940



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 21, 2015 15:57

June 18, 2015

Khái Hưng - các bài phê bình điểm sách xem kịch, in trên Ngày nay 1937-1940, Chủ nhật 1940




                       Giờ đây các báo Phong hóa Ngày nay bản điện tử đã được đưa rộng rãi trên các trang mạng nổi tiếng. Nhưng tôi thiết nghĩ  vẫn cần có những người trích ra từ các trang báo đó những bài được coi là có giá trị của riêng tác giả nào đó hoặc xếp theo chủ đề nào đó. Chúng tôi giới thiệu dưới đây mấy bài  của Khái Hưng mà chúng tôi chụp được ở các Thư viện mấy chục năm về trước. Mong sẽ có ích cho các bạn có nhu cầu nghiên cứu.



     Không chỉ là cây bút chuyên về
tiểu thuyết, và truyện ngắn Khái Hưng còn là một nhà báo  có nghề, một nhà hoạt động văn học đầy tâm
huyết.

                                                                                          

Diễn
kịch

(*)

I.Không một tiếng
vang
 

Tôi
đã ví ông Đoàn Phú Tứ với Musset, kịch sĩ, chẳng lẽ tôi lại không ví ông Vũ
Trọng Phụng, kịch sĩ, với ai?

Tôi
toan ví ông ấy với Henry Becque, song lại sợ ông ấy giận, vì Đàn quạ (Les corbeaux) của Henry Becque
tuy cũng tả một cảnh gia đình sa sút, bị bóc lột sau khi người cha qua đời,
nhưng trong vở kịch Pháp không có những đoạn văn diễn thuyết dài dằng dặc để
chửi đời chơi, chửi luật pháp chơi như trong vở Annam. Lại nữa, vở kịch của ông
Phụng thê thảm (và nhất là thảm) hơn nhiều, u ám hơn nhiều, lụi xụi hơn
nhiều...



Vậy
tôi chỉ có thể ví ông Vũ Trọng Phụng kịch sĩ với ông Vũ Trọng Phụng phóng sự
gia và tiểu thuyết gia mà thôi. Ông Phụng đã giữ được "duy nhất"
trong cái trọng lượng văn chương của ông.

Thực
vậy, khi vào trại con gái lính tây, khi vào đám bài bạc, khi len lỏi vào nhà
lục xì, khi đi theo Thị Mịch, khi đứng ngắm bà "Đoan" cũng như khi
lẻn vào gia đình ông lão loà, ông Vũ Trọng Phụng vẫn chỉ nhìn thấy những cái mà
ông tha thiết muốn nhìn, thấy những cái khốn nạn, đê hèn, bẩn thỉu của người
đời. Rồi ông tức tối, rồi ông lên tiếng nguyền rủa, nhiếc móc. Những lúc đó,
ông Phụng chẳng khác gì một người đàn bà mất gà đứng réo tam, tứ đại những kẻ
cắp vô danh trong xã hội.

Về
văn pháp thì ông Vũ Trọng Phụng kịch sĩ... cổ điển lắm, nghĩa là theo rất đúng
luật tam nhất của kịch cổ điển. Kể cũng đã công phu. Trong ba cái đồng sự, đồng thời, đồng địa, có lẽ cái đồng
địa
của ông đáng khen hơn cả: cái cảnh độc nhất của vở kịch đã tôn vở kịch
lên, tôn phần thê thảm, và cũng tôn cả phần buồn tẻ. Nhất là cái chõng với
người ốm nằm khạc nhổ nôn oẹ trong suốt ba hồi, làm cho thính giả cứ rờn rợn,
ghê sợ và ghê tởm nữa.

II.
Mua dây mà buộc lấy mình


Không một tiếng vang thê thảm bao
nhiêu, thì Mua dây mà buộc lấy mình
vui vẻ bấy nhiêu.

Vở
hoạt kê đoản kịch ấy khiến tôi nhớ tới vở Les
fourberies de Scapin
của Molière. Nhưng nó annam biết bao! Phải, bắt chước thì cứ bắt chước, quí hồ giữ toàn
vẹn tính cách annam.

Hồi
thứ nhất lý thú quá, mà diễn khéo quá. Hồi thứ ba làm cho thính giả tức cười vỡ
bụng. Giá hồi thứ hai đừng bị bác thầy bói kéo dài một cách... lạc đầu đề thì
vở kịch Mua giây mà buộc lấy mình sẽ
rất đáng là "một tiếng vang" (hay tiếng cười vang cũng thế) sau Không một tiếng vang của ông Vũ Trọng
Phụng.

Vở
kịch đã khá, người diễn lại cũng ra vẻ có tài, nhất là vai ông bạn già và vai
cô Thoa. Còn cái vai thầy tướng, thầy bói kể riêng ra thì cũng không xoàng,
nhưng đã làm ngang mất câu truyện có duyên.

Ngày
nay

số 54, 13-4-1937

(*)Diễn kịch là tên
mục đặt ở đầu trang báo, ở đây có nghĩa một loại bình luận sân khấu  (tất cả 
chú thích có dấu * là của VTN )                       

                  

                      TIỂU
THUYẾT THỨ MẤY?

Tiểu
thuyết thứ hai, tiểu thuyết thứ ba, tiểu thuyết thứ tư, tiểu thuyết thứ năm,
tiểu thuyết thứ sáu, tiểu thuyết thứ bảy, tiểu thuyết chủ nhật, v.v.

Nếu
một tuần lễ có mười ngày thì thế nào cũng đã có tiểu thuyết thứ tám, thứ chín,
thứ mười rồi.

Đó
là một kết quả của chế độ báo chí xứ này: ra báo phải xin phép.

Nếu
ông muốn chắc chắn xin được phép làm chủ một tờ báo, không những ông cần phải
là người trung thành với chính phủ, mà mục đích tôn chỉ tờ báo của ông cũng cần
phải rõ rệt là một tờ báo... hiền lành.


còn gì hiền lành cho bằng một tờ báo chuyên dùng tiểu thuyết?

Chắc
ông Vũ Đình Long nghĩ thế khi ông ta xin phép ra "tiểu thuyết thứ
bảy".


lẽ ông ta còn nghĩ khác nữa: chẳng hạn ông ta biết người mình ham đọc tiểu
thuyết.

Với
lại ông ta làm việc nhà nước, và bận quá không trông nom chu đáo được toà soạn.
Ra một tờ báo tôn chỉ rắc rối, nhỡ các ông bỉnh bút hăng hái quá thì có khi
nguy hiểm đến chức nghiệp của ông ta, chứ đừng nói nguy hiểm đến túi tiền vội.

Ông
Vũ Đình Long có lẽ nghĩ thế. Song những người theo gương ông thì hẳn không nghĩ
thế. Họ chỉ cốt ra báo, ra làm chủ một tờ báo.

Họ
liền lấy ngay cái tên giản dị "Tiểu thuyết... chủ nhật". Chẳng lẽ
chính phủ đã cho phép Tiểu Thuyết thứ bảy, lại không cho phép Tiểu Thuyết chủ
nhật?

Y
như rằng thế. Họ được phép.

Rồi
ông hay bà thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu v.v... cứ theo mãi cái mưa hay ho
ấy: xin ra báo tiểu thuyết.

Những
người chậm chạp thấy hết "thứ" rồi đành chịu... không được làm chủ
một tờ báo tiểu thuyết nữa.

Nhưng
nay thử có người mạnh bạo xin phép xuất bản tờ báo "Tiểu thuyết xanh"
xem. Nếu được phép mà sẽ được phép -- thì chỉ 
tháng sau sẽ có báo tiểu thuyết đủ các màu ra đời: tiểu thuyết vàng,
tiểu thuyết đỏ, tiểu thuyết tím, tiểu thuyết đen, tiểu thuyết xám, tiểu thuyết
nâu, tiểu thuyết trắng...

Tôi
lại xin mách các ông muốn làm chủ báo thứ tiểu thuyết lấy tên hoa. Thí dụ: tiểu
thuyết hồng, tiểu thuyết cúc... tiểu thuyết sen, tiểu thuyết bìm bìm.

Rồi
khi nào các báo chánh trị, xã hội theo nhau bị đóng cửa ráo, nước ta sẽ còn
toàn báo tiểu thuyết. Vì thiết tưởng chả ai đóng cửa báo tiểu thuyết làm gì.

Nhưng
khi nào báo chí được tự do, thì các báo tiểu thuyết kia lại bị đóng cửa lấy, vì
sẽ chẳng có ai đọc.

Nhưng
báo chí tự do bao giờ mới có, cho nước mình thoát cái nạn có toàn những tờ báo
không tôn chỉ rõ rệt?

Nhị Linh

Ngày nay 9-5-1937









                    MỘT
THI SĨ CHÀM - CHẾ LAN VIÊN




Một
hôm tôi đọc trong báo Tràng An một
bài phê bình thơ Chế Lan Viên với những đoạn thơ của tác giả trích ở tập Điêu tàn.

Tôi
rùng mình, và cảm động vì tôi thấy ở trong thơ hết cả cái đau đớn, cái thảm
sầu, cái ghê sợ của một nòi giống sắp tuyệt diệt, và tự biết mình sắp tuyệt
diệt: giống Chiêm Thành.

Tôi
tưởng ngay tới vua Chế Bồng Nga, một vua Chàm oanh liệt thời xưa: Hẳn ông Chế
Lan Viên  thuộc dòng dõi vua ấy.

Những
bài thơ sau đây, ông Chế Lan Viên gửi cho tôi từ lâu, nhưng tôi tưởng đã in
thành sách, nên không đăng. Mãi sau này nhận được thư tác giả mới biết rằng thơ
ấy trích ở tập Điêu tàn mà thi sĩ mới
sắp xuất bản thôi.

Nước
xưa, ngày nay còn sót một nhà thi sĩ có tài để khóc những hồn chôn vùi trong
đêm tối. Ta hãy lắng tai, ta hãy lắng cả tinh thần mà nghe. Ta hãy cố quên tính
tự kiêu, lòng tàn ác của tiền nhân. Ta hãy rỏ một giọt lên lên trái tim khô,
dịu tay xoa cái đầu lâu trắng mà nghĩ đến... Tương Lai"...(*)

*Sau  chapeau trên , báo đăng một số bài thơ của
CLV



     
Ngày nay

số  75, 5-9-1937







Diễn
kịch


Kim tiền

Kịch một khai từ và bốn hồi của Vi Huyền
Đắc, diễn tối 19-2  tại nhà hát thành phố
Hải Phòng.

Trong
bài tuyên bố kết quả các giải thưởng Tự lực văn đoàn, chúng tôi đã có nói tới
những cái hay và những khuyết điểm của kịch Kim
Tiền.


Đây
tôi chỉ ghi chép những cảm tưởng riêng của tôi về vở kịch, đem phô diễn trên
sân khấu.

Trên
sân khấu, điều tôi nhận thấy rõ rệt hơn khi đọc là kịch Kim Tiền bắt đầu bằng một tiếng sét, và kết liễu bằng một tiếng
sét. Giữa hai tiếng sét ấy có ba tiếng sấm, hay 
đúng hơn, một tràng sấm kéo dài âm ỷ, đều đều, thỉnh thoảng lại định
vang lên.

Ông
đồ Trần Thiết Chung, mê mải theo nghề văn không biết từ năm nào, từ thời nào.
Bạn ông đồ, vợ ông đồ bắt đầu khuyên can ông cũng không biết từ năm nào, từ
thời nào. Chỉ biết sau một tiếng khóc của vợ, ông đồ quyết chí làm giàu: Mấy
phút trước, ông ta vẫn còn quả quyết sống trong cảnh nghèo, bỏ ngoài tai những
lời thuyết lý của ông bạn Cự Lợi, và quả quyết châm đóm đốt cái ngân phiếu ba
nghìn bạc của ông  này nữa. Thế mà bà đồ
chỉ khóc một tiếng đủ khiến ông đồ thay đổi hẳn tâm tính. Tiếng khóc ấy thực là
một tiếng sét dữ dội.

Thế
rồi mười lăm sau, ông đồ trở nên nhà triệu phú Trần Thiết Chung. Điều đó chẳng
có chi lạ, vì sau hồi khai từ, khán giả đã đoán biết rồi.

Trong
ba hồi nhất, nhì, ba, tác giả "tả" cái sức mạnh của kim tiền. Mà vì
nghĩ đến nó quá, "thuyết lý" nó nhiều quá  nên tác giả quên bẵng đi rằng mình ở sân
khấu, và khiến kịch đi chậm lại, uể oải nữa, để chở bùng mạnh lên một tiếng ở
hồi chót.

*

Tác
giả có thể tự bênh vực rằng chủ ý mình trong kịch Kim Tiền là nêu cái sức mạnh của kim tiền. Tác giả đã làm xong việc
ấy, thì vở kịch không có gì đáng chê.

Thực
vậy, kim tiền mạnh lắm. Nó muốn gì được nấy. Nó đổi được cả tính tình con
người. Vì một người ghét nó như ông đồ Thiết Chung, sau có một thời gian ngắn
ngủi đã trở nên yêu mến nó, đem thân và hồn ra tận tuỵ hầu hạ, vâng theo nó. Có
lẽ trước kia ông ta cũng chỉ vì tức mà định làm giầu, chỉ cốt làm giàu để tỏ
cho mọi người biết rằng làm giàu dễ hơn viết văn. Thế thôi. Nhưng một khi ông
ta đã lọt vào trong bàn tay sắt của "kim tiền" rồi, thì ông thấy khó
lòng cựa cậy để tìm thoát ra ngoài được. Đến nỗi vì nó mà ông ta khổ sở, vì nó
mà vợ ông ta khổ sở, vì nó mà con ông ta khổ sở, rồi vì nó mà ông ta bị giết.

Tác
giả quả đã tới mục đích của mình. Mà được thế là vì ông Vi Huyền Đắc có tài về
cách mô tả nhân vật. Những vai kịch của ông rất hoạt động và thực nữa, nhất là các
vai chính, vai Trần Thiết Chung, vai bà Ba, vai bà Cả.

Đã
thế, ông lại không bị những người đóng trò làm giảm giá trị vở kịch. Điều đó, -
một điều hiếm có trong làng kịch Annam, - 
là nhờ ở nghệ thuật và thông minh của các ông Lê Đại Thanh (Thiết Chung),
Lê Văn Hoan (Cự Lợi) và các cô Minh Tâm (bà Cả), An Bình (bà Ba), và nhất là
nhờ về con mắt mực thước của nhà dàn kịch Thế Lữ.

Ông
Lê Đại Thanh có cái dáng điệu bình tĩnh, quả quyết của người tay trắng trở nên
giàu có. Trong khi mắng con, gắt vợ, ông vẫn bình tĩnh mà bầy hết lý thuyết của
ông ra, cũng như trong khi bàn việc làm ăn với bà Ba. Ở hồi cuối, ông đã tỏ
được hết cái can đảm của Thiết Chung: Thợ làm reo đốt, phá, bà Ba cuống quít sợ
hãi mà ông vẫn không vội vàng, không rối trí, đứng yên lặng tra đạn vào súng
lục sau khi đã gọi điện thoại báo cho ông đồn biết việc làm loạn của thợ mỏ.


An Bình đã lột được hết cái khéo léo, thớ lợ sâu cay của một người vợ lẽ gian
giảo. Lại được cái giọng của cô (chẳng hiểu trời cho cô cái giọng ấy hay là cô
đã tự tạo nó ra), sao mà nó tự nhiên thế! Có người chê nó the thé, nhưng nếu nó
không the thé thì nó đã chẳng tự nhiên. Trong hồi cuối, cô An Bình hơi kém sút,
mà kém sút là vì bị vai Thiết Chung trội quá lấn át đi.

 Ngày nay 27-2-1938




                                  

       
Phê bình văn chương

Một mình trong đêm
tối


                                                              
Tiểu
thuyết của Vũ Bằng

Tôi
sung sướng mỗi khi được đọc một tác phẩm lọt ra ngoài khuôn sáo. Cố nhiên tôi
nói văn chương Annam hiện thời.

"Thà
dở. Nhưng đừng tầm thường, đừng sáo!"

Tôi
vẫn tự nhủ thế.


tôi chắc ông Vũ Bằng cũng đã tự nhủ thế, khi ông viết cuốn tiểu thuyết Một
mình trong đêm tối
.

Một
mình trong đêm tối

có nhiều đoạn rất dở, nhưng tầm thường thì nó không phải là một tác phẩm tầm
thường. Thực cũng là một sự an ủi cho làng văn chúng ta đương bị những sự nhạt
nhẽo, kiểu cách, vô vị, lấn sâu mãi.

Kể
về cốt truyện thì Một mình trong đêm tối rất tầm thường. Nhưng cái tầm
thường khó chịu không bao giờ ở cốt truyện. Nó chỉ ở tư tưởng, ở cách viết, ở
nghệ thuật.

Phải,
còn gì tầm thường bằng chuyện một thầy ký mê gái rồi "thụt két", rồi
sống cái đời buồn tẻ với người vợ phải lòng trai.

Trong
câu chuyện tầm thường như thế, ông Vũ Bằng đã cho ta biết một tâm hồn chán nản,
ốm yếu, nhu nhược, dâm đãng, ngây thơ, ngộ nghĩnh. Và bên cạnh tâm hồn ấy, một
tâm hồn trái ngược, vui vẻ, yêu vật chất, khao khát dục tình, thèm muốn hư danh
cũng ngộ nghĩnh chẳng kém.

Hai
vai chính ấy hoạt động trong một xã hội phóng lãng, giả dối, một xã hội mà ông
Vũ Bằng khinh bỉ, thù ghét.


đối với cả loài người, ông Vũ Bằng cũng không có một chút cảm tình gì.  Ông cho con người chỉ là một con vật dâm dật,
đê tiện. Mục đích của nó ở đời là tìm cách được sống thoả mãn. Vì thế trong cái
xã hội ông tả ra không một người nào bình thường hết. Bà tham, bà phán, bà đốc,
bà huyện, bà phủ, cô đỡ, ông chỉ họp những nhân vật ấy của ông lại để họ nói
chuyện tình, những chuyện tục tĩu, bẩn thỉu, để họ kể xấu những thằng chồng
"bất lực về đủ các phương diện", để họ chơi bời cơ bạc với
"những thằng đàn ông, những thằng tình nhân khoẻ mạnh và thô bỉ”.

Cái
xã hội ấy ông Vũ Bằng đã nhận xét thực sự mà tả ra hay ông chỉ tả theo sức
tưởng tượng của một khối óc ghét nhân loại. Muốn trả lời câu hỏi ấy, ta chớ nên
căn cứ vào câu đề tựa của tác giả: "cuốn sách này, nếu có nghệ thuật
thì nghệ thuật ấy cũng do ở sự thực mà ra vậy
". Vì dẫu tác giả thành
thực khi viết câu này, sự thành thực cũng không thể là sự thực được.

Câu
ấy nếu đúng thì có lẽ chỉ đúng hai phần ba, đúng ở đoạn đầu khi tác giả vạch
cái tâm trạng một thầy ký nhà buôn biển thủ tiền quỹ, và ở đoạn cuối khi tác
giả vẽ cái cảnh gia đình bất hoà, chồng nghiện thuốc phiện, vợ ham mê cờ bạc và
phải lòng trai.

Còn
ở đoạn giữa, ở đoạn tả cái xã hội trưởng giả, thì tôi thấy ông Vũ Bằng ngây thơ
qua, và vì thế, tôi không tin rằng đó là tất cả 
sự thực như lời ông đã công bố.

Thực
sao được cái bức tranh một cuộc mạt chược của tác giả. Vì, chơi mạt chược, ông
Vũ Bằng ạ, người ta "không quăng giấy bạc vào chỗ nào mà người canh
ti  chỉ" (ông án và Trâm canh ti)

Lại
điều này nữa càng không thực: Trâm vào buồng ngủ cụ tổng đốc họ Hồ để lo cho
Phượng, người tình của nàng, một chức tri châu. Nhưng khốn nỗi ông tổng đốc họ
Hồ làm thế nào mà cất nhắc Phượng một viên thư ký nhà buôn, lên chức tri châu
được? Tôi vẫn yên trí rằng Trâm đã hy sinh uổng mất ít trinh tiết cho cụ tổng
đốc già hom hem kia. Nhưng không, Phượng được bổ tri châu thực, thế mới chết
chứ, và thế mới vô lý chứ!

Đã
hết vô lý đâu: Hải "thụt két" để chơi cá ngựa. May sao chàng được
nghìn bạc. Chàng liền trả ông chủ đâu chừng ba trăm, rồi bỏ việc về ở với Trâm.
Nhưng hãy hỏi: Hải nghèo, tiền công tháng tháng hơn ba chục chỉ đủ ăn tiêu. Thế
thì nay với bảy trăm được cá ngựa, chàng làm thế nào mà sống với người yêu một
đời trưởng giả? Chàng làm thế nào mà mỗi lúc đưa được cho người yêu những món
tiền hai, ba trăm để đua chơi cờ bạc với các bà tham, bà phán, bà đốc, bà phủ,
bà huyện?

Thật
ông Vũ Bằng ngây thơ quá. Và tôi chắc ông còn ít tuổi lắm. Ông chưa từng trải
cuộc đời, mà lại cứ muốn tả những cảnh đời khe khắt, gay go thì tránh sao được
những khuyết điểm trong sự nhận xét hồ đồ.(1)

Giá
ông chỉ tả những điều ông biết, những cái ông trông thấy! Đấy! Ông coi, cái
cảnh đua ngựa, đánh cá ngựa của ông hoạt động biết bao! Mà thực biết bao!

Vậy
tôi khuyên ông nên đọc lại bài tựa của ông:

"
Tôi muốn nó (văn) thành thực... Tôi muốn nó là cái gương chiếu sự thực và chỉ
toàn sự thực".


ước ao rằng ông đã muốn thì rồi sẽ được, thì rồi phải được.




[1] Còn Chuyện cái va ly rất hay, tôi đã được đọc
một lần ở một tiểu thuyết Pháp văn. Nay tôi lại được đọc ở Một mình trong
đêm tối
. Tôi mong rằng sự gặp gỡ ấy là một sự ngẫu nhiên. Nếu quả thực thấy
một câu chuyện hay ông muốn viết lại thì đó là một điều nhà văn nên tránh: Một
cái hay lỏi của người không bao giờ làm tăng đựơc giá trị tác phẩm của mình lên



       Ngày nay số 100, 6-3-1938




CÁC BÁO PHÊ BÌNH ĐỢI
CHỜ
(*)*) 

Đợi chờ là tên một tập truyện ngắn của Khái Hưng, NXB Đời nay, 1939 .  Đây là bài viết về Khái Hưng mà chúng tôi cho là  giúp hiểu thêm Khái Hưng trong đời sống văn học đương thời




. Trong Điếu thuốc lá tác giả sợ con mắt mù, đeo
cặp kính đen của ông  Cửu Thầy là phải
lắm, vì tác giả đã phạm cái tội để ngược điếu thuốc lá cho ông Cửu Thầy bỏng
môi. Cái tội ấy tuy không nặng bằng tội của Cain, nhưng cũng như Cain, tác giả
đã tưởng con mắt ông Cửu Thầy đuổi theo mình. Đó là hết cả sự rùng rợn và ngây
thơ của truyện: tác giả hồi đó còn là một cậu bé con, một cậu bé dí dỏm, xét
cuộc đời một cách thật thà và tưởng tượng theo lối trẻ.

Rồi đến Đồng xu, một cảnh của Gavroche! Tất cả
tài sản của mình chỉ có một đồng xu mà đi ném phăng vào một nhà giầu, cái ấy
mới ngông! Cái ngông của kẻ cơ nhỡ mà ít khi người ta để ý tới, nên người ta dễ
làm cho họ tủi nhục. Còn cái việc lại trèo vào nhặt chỉ là một sự phản động
thôi, một sự phản động bị dạ dày xui khiến, một hiện tượng về sinh lý học!
Thật  là một truyện rất an ủi cho những
người túng thiếu, vì cái ý nghĩa sâu xa về đường xã hội của nó.

... Đọc những
truyện ngắn của Khái Hưng tôi nhận thấy sự quan sát của ông bây giờ đã rất chu
đáo; người đọc có thể tưởng những người và việc dưới ngòi bút ông đều là thật
cả. Thật thế, khi một nhà văn đã cảm cuộc đời một cách sâu sắc rồi mới tưởng
tượng, những điều tưởng tượng của nhà văn ấy bao giờ cũng thiết thực và thiết
tha. Anatole France đã nói: "tất cả các ý kiến, chúng ta đều nhờ giác quan
mà có, nên tưởng tượng không phải là sáng tạo mà là thu thập các ý kiến
lại..." Vậy quan sát cho được chắc chắn không phải dễ. Có nhiều nhà văn đã
nổi tiếng mà vẫn không thoát được sự khuyết điểm về đường quan sát...

                                            (Revue
Franco - Annamite


                                           In
lại ở Ngày nay số 156 ra 8-4-1939     






                                         CÂU CHUYỆN HÀNG TUẦN

Tôi đã đọc Người mẹ của Pearl Buck.

Tiểu thuyết ấy nếu dịch ra quốc văn sẽ có ảnh hưởng, tôi chưa nói về xã hội, nhưng về văn chương hiện tại của ta nhiều lắm.

Đại ý cuốn tiểu thuyết tóm tắt:

Người Mẹ ấy là một người nhà quê Tầu khoẻ mạnh, hiền lành ở trong một túp nhà với một người chồng cũng khoẻ mạnh, thật thà nhưng nhẹ dạ và thích chơi bời hơn làm việc, tuy chàng vẫn cùng vợ làm việc rất chăm chỉ. Vợ chồng lấy nhau trong ba năm sinh được ba đứa con: một trai, một gái, rồi một trai út. Người mẹ yêu hồn nhiên, và thụ thai dễ dàng như loài vật, mỗi lần xuân tới. Và cũng như loài vật người mẹ mến con, bênh vực con. Phải thêm vào cái gia đình ấy một bà mẹ loà, bà mẹ chồng mà nàng dâu săn sóc một cách siêng năng và chu đáo, và một con trâu cái mà mỗi tối sợ mất trộm, người mẹ dắt buộc vào chân giường cùng với những lợn, gà vịt, ngỗng.

Gia đình ấy ở vào một xóm lơ thơ, trong một thung lũng nhỏ hẹp. Người trong xóm đều có họ với nhau hoặc xa hoặc gần. Láng giềng người mẹ là vợ chồng người anh họ, tính tình chất phác, và có lòng tốt thích giúp đỡ bà con.

Ta nhận thấy điều này: trong truyện không có một tên riêng nào. Tác giả chỉ gọi trống không "người mẹ, người mẹ già, người chồng, người anh họ, người chị họ, thằng con cả, đứa con gái" cho chí "ả đàn bà goá" lắm mồm lắm miệng, "anh thu thóc thuế" trai lơ của ông chủ ruộng.

Gia đình người mẹ đang sống yên lành thì một hôm xảy ra một việc phi thường: người chống bắt vợ lấy hết tiền để dành may cho mình bằng được một cái áo màu xanh da trời rồi bỏ nhà đi thẳng.

Người mẹ dằn lòng chờ đợi, lập mưu vờ nhận được thư và tiền của chồng gửi về để che mắt người hàng xóm. Nhưng đợi mãi, một năm, hai, ba, bốn, năm năm vẫn bặt tin chồng. Mà bẩm sinh đa dục, đa dục một cách hồn nhiên như các loài lành mạnh, nàng đã qua biết bao ngày khổ sở mỗi khi mùa xuân tới, mùa xuân ấm áp mang đầy nhựa đến cho các búp cây và đầy nhiệt tình đến cho người vật. Nhưng nàng vẫn làm việc, làm việc bằng hai người, vì con nàng còn nhỏ giúp nàng chẳng được như chồng. Nàng làm việc để nuôi gia đình và nhất là để cố quên ngọn lửa trong tim đương bùng cháy.

Trong khi ấy thì anh chàng thu thóc thuế biết tình cảnh cô đơn của nàng, giở hết khôn khéo để cám dỗ nàng.

Và hai năm sau nàng xiêu lòng. Rồi thụ thai, rồi đoạ thai. Biết bao ngày khổ sở hối hận. Từ đó những sự chẳng lành xảy ra cho gia đình nàng, nàng đều tin là quả báo.

Nhưng người mẹ vẫn can đảm sống, tha thiết yêu các con và hết lòng chăm nom mẹ chồng.

Rồi nàng làm ma cho mẹ chồng, cưới vợ cho con lớn, một người vợ tính tình khác hẳn nàng, vì "có máu lạnh như loài rắn" -- lời nàng phàn nàn, khi nhận thấy con dâu cưới về năm năm vẫn không thụ thai.

Người con gái thứ hai của nàng mù, mà mù là tội ở nàng, nàng tin thế. Người ấy bị anh và chị dâu ghét nên người mẹ tìm gả chồng, vì sợ sau khi mình chết không còn ai bênh vực. Nhưng quá hấp tấp -- bao giờ nàng cũng hấp tấp và muốn cái gì là đùng đùng làm ngay- nàng gả con vào nơi khốn khó, đần độn và tàn ác. Hôm nàng cùng con trai út đến thăm con gái thì vừa gặp lúc con từ trần vì không chịu được nặng nhọc.

Còn người trai út? Nó giống hệt chồng nàng, cũng đẹp trai và thích chơi bời. Người con ấy ra tỉnh kiếm ăn rồi theo vào đảng cộng sản. – “một thứ ăn cướp tối tân", lời bọn dân quê chất phác, sợ hãi.

Người ấy bị bắt quả tang đi phát truyền đơn và bị kết án tử hình cùng với một sóc hai mươi người.

Người mẹ định bỏ hết tiền bán hết ruộng chạy chọt cho con thoát chết nhưng, lời viên cai ngục, nếu giầu sang người ta mới bõ cứu, chứ nghèo khó thì ai dại gì mà dính đáng vào. Thế là người con út chết.

Người mẹ về xóm ngồi phủ phục xuống một cái mả bên đường mà khóc, khóc thê thảm, khóc mãi tới tốt mịt cho nước mắt trào ra hết, khóc đến nghẹn ngực nàng làm cho uất ức không thở được.

Nhưng lúc đó người con đến báo tin vợ đẻ con trai. Người mẹ quên cả khổ chạy thẳng về nhà bế cháu giơ lên sung sướng cười bảo chị họ:

" Vậy thì tội tôi cũng không đến nỗi nào vì tôi có cháu trai rồi đây này."

Tiểu thuyết giản dị như một đời sống của một người nhà quê Á đông.

Mà không có chuyện nữa. Cái đời một người mẹ Tàu chỉ từ từ lần ra trước mắt ta.

Đó là tất cả một quan niệm về tiểu thuyết.

Tiểu thuyết phải gần đời, phải là đời với những lúc sướng lúc khổ, phải có những cái nhỏ nhen, tầm thường, cao thượng của đời, phải có những cái đáng thương, những cái buồn cười, những cái bực tức.

Nếu phải một nhà văn "xã hội" Annam mình viết truyện "người mẹ" thì hẳn đã đổ hết lên đầu người đàn bà những cái nhục nhã, khốn nạn mà tác giả có thể tưởng tượng ra được. Nào bị hiếp, bị tù, chồng bị quan đánh, cường hào ức hiếp, mẹ bị đuổi, con bị bán, không còn một thứ tội ác nào của nhân loại mà tác giả có thể quên thuật ra, tả ra, tả ra với những màu hết sức đen xạm.

Có biết đâu rằng vì thế mà nhân vật trong tiểu thuyết của họ sẽ trở nên những kẻ can đảm bị ngược đãi, những kẻ hy sinh cho một lý tưởng, một tôn giáo (des martyrs) và sẽ không gợi lòng trắc ẩn của ta nữa. Ta thấy họ giống như những nhân vật kỳ dị trong các kịch cổ.

Mà tiểu thuyết thì không phải là bi kịch, cũng không phải là hài bi kịch.

Tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, chỉ là đời.

    Ngày nay số 180 23-9-1939




Diễn kịch

Ông Ký Cóp

                                                          
Hài
kịch ba hồi diễn tại Nhà Hát Lớn

                                                                              
 Hà Nội, tối 19-11-1939

Tôi
quen nhiều ông ký Cóp. Và, xin thú thực, một lần tôi đã vô tình đóng vai ông ký
Cóp, đóng vai ấy trên sân khấu đời chứ không phải trên sân khấu nhà hát như Thế
Lữ. Tôi cũng không biết rằng làm thế là đã đóng vai ông ký Cóp trước khi
"ông ký Cóp" của ông Vi Huyền Đắc ra đời.

Đây,
câu chuyện của tôi:

Tôi
có một người bạn thích ả đào, mê ả đào, hơn nữa, có một cô tình nhân ả đào.
Nhưng vợ bạn tôi ghen lạ lùng và dữ lạ lùng. Thành thử chàng Thúc không năng
được lui tới chốn bình khang để tình tự với ả Thuý Kiều.

Một
hôm tôi nhận được thư của bạn, một bức thư vắn tắt: "Anh làm ơn thân đến
mời tôi đi ăn cơm chiều nay."

Tôi
làm theo bạn. Quả nhiên, vợ bạn tôi vui vẻ để chồng đi với tôi, lại kèm thêm
một câu rất làm hân hạnh cho tôi: "Đi với ông thì tha hồ!"

Sau
tôi mới vỡ lẽ: Thấy vợ thường khen tôi đứng đắn và không chơi bời, ông bạn tôi
liền lợi dụng cái đứng đắn của tôi để đến với tình nhân. Từ đó, thỉnh thoảng
tôi lại phải mời bạn đi ăn, đi chơi hay đi bắn.

Hạng
ông ký Cóp như thế, ở nước nào cũng có.

Những
"ông ký Cóp" của Vi Huyền Đắc thì thực annam. Cái tính vị tha "lạ lùng" của "ông ký
Cóp" chỉ người Annam mới có. Ông làm tiêu biểu cho hạng người mà câu
phương ngôn "Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng" đã tả được rõ
rệt.

Việc
nhà, ông ký Cóp nhác đến nỗi biết tin vợ ba buồn tình bỏ đi lấy một người cảnh
sát, ông ta không những dửng dưng mà còn mừng rằng: "Nghe đâu nhờ trời
cũng khá". Còn số con hiện có bao nhiêu ông cũng chẳng nhớ nữa. Mà nhớ làm
gì, chúng nó có thân thì chúng nó lo.

Nhưng
việc người, việc nhà bạn, ông ta nghĩ đến chu đáo quá. Ông ta ra Hòn Gai ở nhà
bạn luôn hai tháng để trang trải công việc gia đình cho bạn, xong xuôi êm ả rồi
mới về.

Nhận
được điện tín của "bác phán", ông ta tất tả đến ngay. Gia đình "bác
phán" thực là rắc rối. Bác có vợ lẽ giấu một nơi; con trai bác mê một cô
gái, và con gái bác yêu một văn sĩ. Nhưng bà phán lại không muốn có dâu làm cô
giáo, có rể làm văn sĩ và nhất là không muốn chồng có vợ lẽ. Ông ký Cóp sẽ đem
tài ra mà thu xếp mọi việc đâu vào đấy.

Cốt
truyện là thế. Cốt truyện chỉ có thế... Và ta có thể nói vở kịch là một tấn,
một trò hoạt kê (une farce). Nhưng tâm lý các vai, thực biết bao, sâu sắc biết
bao, annam biết bao, đã nâng vở hoạt
kê lên hàng những vở kịch tả phong tục và tính nết.

Vở
kịch có giá trị ấy lại được một ban tài tử thận trọng nghề kịch, hiểu thấu thẩm
mỹ thuật đem ra diễn. Tôi nghe thấy một người khen ban kịch Thế Lữ:

- Bà
phán rõ ra bà phán, ông phán già rõ ra ông phán già, ông ký Cóp rõ ra ông ky
Cóp.

Lời
khen hơi thực thà, nhưng chả còn bài bình phẩm nào đúng hơn.

Nhưng
cũng nên bàn tiếp một điều này: người mình hiểu kịch một cách sơ sài, thường
cho kịch với đời là một, và bắt ở trên sân khấu, các vai phải cử động, ăn nói
như ở thực tế. Đến nỗi có người chê trên mâm cơm của gia đình ông phán không có
cơm thực và thức ăn thực.

Không,
kịch không phải là đời. Hay phải là đời phóng to ra, làm rõ hơn ra theo khoa mỹ
thuật, để khán giả dễ nhận thấy. Nếu kịch là đời thì chỉ việc cho một ông Lý
Toét lên sân khấu đóng vai Lý Toét là vở kịch hoàn toàn. Nhưng không. Một ông
Lý Toét thục thụ lên sân khấu không bao giờ lý toét bằng một nghệ sĩ thông minh
đóng vai Lý Toét.

Tôi
xin thuật lại một đoạn trong truyện Comédiene
của Somerset Maugham:

Một
nữ tài tử nổi danh đóng một vai ghen, vì tình nhân tệ bạc. Chính lúc ấy nữ tài
tử đương ở vào cùng một tình cảnh, nên chẳng cần "đóng", vai của mình
cũng thực rồi. Vì thế mà lúc khóc, nữ tài tử khóc thực, lúc cấu xé đập phá cũng
cấu xé đập phá thực. Và vì thế nàng được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh.

Chồng
nàng là chủ rạp hát và cũng là một tài tử chính trong ban kịch. Sau buổi diễn
lại lần thứ ba, chàng bảo vợ:

-
Mình cần phải nghỉ ít lâu, vì không bao giờ tôi thấy mình dở như mấy buổi diễn
gần đây. Thế không phải là đóng kịch, thế là mình sống cái đời thường với những
tính tình thực của mình chứ không phải mình đóng kịch. Đóng kịch là phải tự
kiềm chế được mình, để chỉ là một nghệ sĩ.

Câu
chuyện trên đây tặng cô Song Kim, ông Linh Tâm và nhất là Thế Lữ, mà tôi thấy
lúc nào cũng biết tự kiềm chế mình.

T.B- Buổi diễn kịch
có giá trị ấy, ngoài công giới thiệu tác phẩm mới của một soạn giả có tài, còn
cho ta được thưởng thức những bài hát êm ái của ông Lê Thương nhưng điều cảm
động vì diễn tả một chứ văn chương ly tao nhất của tâm hồn.

Giọng
hát mềm mại của ông Lê Thương được một tay danh cầm hoạ đàn theo. Ông Trần Đình
Khuê một nhạc sư ai cũng yêu tài, đã làm nổi tình cảm của ông Lê Thương trong những
ngón đàn ý tứ và đằm thắm.



       Ngày nay số 138, 26-11-1939.




                               ĐƯỜNG THI




TỨ
DẠ THU CA

Tràng An
nhất phiến nguyệt.

Vạn hộ
đảo y thanh.

Thu
phong xuy bất tận.

Tổng thị
Ngọc quan tình.

Hà nhật
bình Hồ lỗ,

Lương
nhân bãi vĩễn chinh

Bạch
Cư Dị*


Diễn
nôm:

Mảnh
trăng soi xuống Tràng An:


Nhà
ai đập áo tiếng ran trong ngoài.


Gió
thu hiu hắt thổi hoài,


Nhớ
ai, ai nhớ con người Ngọc quan.


Bao
giờ lửa tắt giặc tan,


Cho
chồng tôi khỏi dậm ngàn xa xôi.


*Thật ra đây là thơ
của Lý Bạch. Có thể hiểu là thời Khái Hưng dịch bài này, sách TQ sang VN chưa nhiều, và sang theo lối ngẫu nhiên có ai qua bên ấy mua về, tác giả  dịch theo trí nhớ hoặc một bản chép tay nào đó.




ẢI
NGOẠI KHÚC

Ẩm mã độ
thu thuỷ,

Thuỷ hàn
phong tự dao.

Bình sa
nhật vi một,

                Ảm
ảm kiến Lâm Thao.

Tích
nhật Tràng thành chiến.

Hàm ngôn
ý khí cao,

Hoàng
trần túc kim cổ,

Bạch cốt
loạn bồng cao.

Vương
Xương Linh


Diễn
nôm:

Dòng
thu, vó ngựa bơi qua


Nước
đương giá lạnh, gió là mũi dao.


Cát
vàng dưới mặt trời cao,


Nhìn
ra đã thấy Lâm Thao mờ mờ .


Tràng
thành trận đánh ngày xưa,


Kể
trong ý khí ai thua ai nào!


Nhưng
nay dưới cỏ bồng cao,


Cát
vùi xương trắng, ai nào còn đâu.





 Ký bút danh Trần Lang ( dịch

Ngày nay
số 214, 29-6-40

    







Nhìn
qua văn chương Việt Nam


Thời
Hồng Bàng và Thục, chắc chắn nước ta chưa có văn chương. Hoặc giả chỉ có những
câu ca, câu vè mà người ta truyền khẩu cho nhau như ngày nay trong dân Mèo, dân
Mán: Người mình chưa có những dấu hiệu, chưa có một thứ chữ riêng để ghi chép
lời nói mà giữ lại về sau.


Đến
thời nhà Triệu, nghĩa là gần như một thời Bắc thuộc, vì Triệu Đà là một người
Tàu, thì có lẽ đã có người Annam viết văn, văn Tàu, nhưng chắc còn viết dở lắm,
chẳng hạn như khi người Pháp mới sang đây, những người mình tấp tểnh viết văn
Pháp vậy. Trong thời Bắc thuộc thứ nhất cũng vậy. Sang thời Bắc thuộc thứ hai
và thứ ba, trong khoảng gần nghìn năm đô hộ tất phải có nhiều người viết thạo
Hán văn, tỷ như Lý Cầm và Lý Tiến, hai nhà văn Việt Nam mà người Tàu đã nói đến
trong sử ký văn chương của họ. Song thiết tưởng hai người này viết văn Tàu cũng
không hơn gì hai ông Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Duy Khiêm viết văn Pháp ngày nay.
Và không thể vì thế mà bảo rằng nước mình thời ấy đã có văn chương được.


Ba
triều Đinh, Lê (tiền Lê), Lý mới dựng nước, chỉ đủ sức chống với Tàu ở phía
Bắc, với Chiêm Thành ở phía Nam, để cố giữ vững nền độc lập. Còn thì giờ đâu mà
nghĩ tới văn chương.


Dưới
triều Trần, một triều đã mãnh liệt đánh lui quân Mông Cổ sang xâm lược, những
người cầm đầu việc nước
- Thủ Độ là một - cho rằng muốn độc lập mãi
mãi thì không những phải thoát ly cái ách đô hộ vật chất của Tàu, mà còn phải
thoát ly cả cái ách đô hộ tinh thần của họ nữa. Vì thế mà Thủ Độ tổ chức lại
làng Việt Nam theo ý riêng một người Việt Nam, chứ không theo cách tổ chức của
người Tàu mà các triều trước vẫn giữ nguyên như cũ. Và vì thế, Hàn Thuyên (thế
kỷ thứ XIII) sáng tác ra một thứ chữ Việt Nam, chữ nôm, để ghi lấy tiếng mẹ đẻ,
để chép những câu ca dao rất phong phú trong dân gian. Từ đó mới thực nhóm lên
một nền văn chương Việt Nam và các nhà văn trong nước mới bắt đầu viết quốc
văn, trong những giờ nhàn rỗi.


Thực
vậy, sau Hàn Thuyên, ta thấy xuất hiện ngay Nguyễn Sĩ Cố, Mạc Đĩnh Chi, Trương
Hán Siêu (cũng dưới triều vua Trần Anh Tôn, cuối thế kỷ XIII). Các nhà văn ấy
đều có viết chơi văn nôm, tuy vẫn dùng văn Hán trong những công việc quan
trọng. Mà điều đó là lỗi tại nhà Trần: đã dám mạnh bạo cải cách mọi việc trong
nước thì sao không dám mạnh bạo hơn chút nữa, mà bắt dân gian dùng toàn chữ nôm
như sáu trăm năm sau vua Quang Trung Nguyễn Huệ? Nhưng thiết tưởng, thời bấy
giờ dân gian còn đương thích, đương sính văn Tàu đã dùng trong hơn một nghìn
năm,  thì cũng khó lòng bắt ngay được họ
theo dùng hẳn văn nôm.


Dẫu
sao bắt đầu từ nhà Trần, văn chương trong nước đã có hẳn hai dòng, song song
chảy ngang nhau chứ không phải mỗi dòng chảy một phía trái ngược: dòng bình dân
với văn nôm và dòng cao quý với văn Hán. Nhiều khi hai dòng trộn nước, vì các
nhà giỏi Hán văn đều có tài văn nôm.


Sang
triều Lê thì văn nôm đã được nâng cao. Vì một bậc khai quốc công thần (Nguyễn
Trãi) đã dùng chữ nôm để viết hẳn một tập thơ dài, tập
Gia Huấn ca; và
một vị hoàng đế đã lưu lại cho chúng ta nhiều bài thơ nôm có giá trị. Hơn thế,
vị hoàng đế ấy (vua Lê Thánh Tôn) lại còn lập nên một tao đàn, họp với những
nhà văn hào trong nước để cùng nhau làm văn nôm chơi. Một thế kỷ sau, một ông
trạng (Nguyễn Bỉnh Khiêm) chỉ dùng chữ Hán để đỗ trạng nguyên, còn văn thơ thì
viết hầu toàn bằng văn nôm. Có lẽ trạng là bậc tiên tri, biết sau này người
Việt sẽ không viết văn Hán nữa chăng? Nhờ thế mà trạng để lại cho chúng ta một
tài sản văn chương bất hủ (
Bạch vân thi tập).

Nhưng
phải chờ đến cuối triều Lê và sang đầu triều Nguyễn, nghĩa là một trăm năm sau
nữa nước ta mới thấy xuất hiện các nhà văn trứ danh, với những văn phẩm kiệt
tác.


Cuối
thế kỷ thứ XVIII, bà Đoàn Thị Điểm dịch tập thơ chữ Há
n Chinh Phụ Ngâm
của Đặng Trần Côn sang quốc văn. Tác phẩm của bà nổi tiếng ngay trong dân gian.
Và cái tên Đặng Trần Côn nay còn được chúng ta nhắc nhỏm là nhờ về tập thơ dịch
trác tuyệt của bà.


Cùng
thời với bà Đoàn Thị Điểm có cô Hồ Xuân Hương (Thời ấy, trong văn giới có lẽ âm
thịnh chăng?) Thơ bảy chữ tám câu thì đến Xuân Hương là tuyệt đích. Người ta có
cảm tưởng đó là ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn Việt Nam, không một ai sau này sẽ có thể
trèo tới được. Cả các danh nho của ta cũng công nhận thế. Tôi nhớ ngày tôi còn
đi học, ông nghè Nghiêm Xuân Quảng có bảo tôi:
Về thơ tám câu
bảy chữ của ta thì Xuân Hương chiếm bậc nhất. Bậc nhì không có ai, bậc ba không
có ai, bậc tư mới đến Yên Đổ
.

Trong
thời ấy còn phải kể tên hai thi sĩ nữa: Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều và Chiêu Lỳ
Phạm Thái.


Ôn
Như Hầu viết văn Hán rất nhiều. Nhưng nay người ta chỉ còn nói đến một tác phẩm
văn nôm
-
tập
Cung Oán Ngâm Khúc - một tập thơ ai oán và sâu sắc: chỉ tiếc
còn dùng nhiều chữ nho quá.


Phạm
Thái tức Phạm Phụng (1757-1793) mà người ta thường gọi ông là Chiêu Lỳ, lưu lại
tập

kính tân trang và nhiều văn thơ có giá trị. Đó là thi sĩ lãng mạn thứ nhất
của ta, nếu ta có thể đem chữ lãng mạn gán cho nhà sư cách mệnh trẻ tuổi hay
uống rượu làm thơ tình ấy.


Thế
kỷ thứ XIX của ta, thế kỷ lãng mạn trong văn chương Âu châu, bắt đầu bằng một
kiệt tác, có thể nói một tác phẩm có giá trị nhất của nước ta. Đó là quyển
Kim Vân Kiều
dài hơn ba nghìn câu thơ điêu luyện, mà ngày nay vẫn có người dám ngờ là một
tập thơ dịch ở chữ Hán. Không, đó là một sáng tác dựa vào một đoản thiên tầm
thường của người Tàu mà viết ra. Mãi sau này người Tàu thấy quyển
Kiều
hay mới đem dịch lại sang chữ Hán, dịch một cách vụng về, thiếu nghệ thuật.


Thế
kỷ này có thể gọi được là thế kỷ phục hưng của văn chương Việt Nam. Sau Nguyễn
Du, các nhà văn trong nước đều đua nhau dùng chữ Việt vì thấy đó là một thứ chứ
phong phú chẳng kém chữ nho.



thế những văn hào Việt Nam ngày một nhiều, mà dưới đây tôi chỉ xin ghi tên để
một lần sau, sẽ có dịp nói riêng đến từng người: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,
Nguyễn Văn Siêu, Tuy Lý Vương, Ngô Điền, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Đình Tân, bà Thanh Quan, Dương Khuê, Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh, Trần Tế
Xương, v.v...




   
Báo Chủ nhật 19-10-1940



Kỳ tới - mấy bài tạp văn Khái Hưng viết trên Ngày nay















 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 18, 2015 20:03

June 14, 2015

Nhật ký văn nghệ 1990 (phần II)

Lời dẫn



 Tình hình Hội nhà văn  1976 - 1990 gắn liền với các hoạt động khôn
ngoan đi kèm với sự hiểu biết xác đáng về thực trạng xã hội VN hậu chiến của người Tổng thư ký Hội từ 1958 – Nguyễn Đình Thi:



-- 1976, theo chỉ thị của trên, Nguyễn Đình Thi phải bàn giao vai trò số một ở Hội cho Nguyên Ngọc
lúc này được cử làm Bí thư Đảng Đoàn kiêm Phó Tổng thư ký thường trực.




-- Từ Hội
nghị Đảng viên 1979, được sự bảo trợ của Tố Hữu, tác giả Vỡ bờ từng bước tiến hành dành lại quyền lực. Đây là cả một một
“trận đánh lớn” mà Nguyễn Đình Thi đóng vai một người chỉ huy nhẫn nhục và đầy
mưu mẹo. Sự tinh thông của ông về nghệ thuật chính trị trong hoàn cảnh xã hội
VN hiện đại khiến tất cả những người chung quanh ngả mũ kính phục.




---  Tại Đại
hội nhà văn lần thứ ba 1983, Nguyễn Đình Thi tiếp tục được bầu làm  tổng thư ký. Nguyên
Ngọc không còn nhận nhiệm vụ gì.




---  Dấu hiệu
rõ rệt của cuộc đổi mới khởi đi từ 1986 là việc Nguyên Ngọc được cử làm Tổng
biên tập báo Văn nghệ, mà dấu hiệu
của việc quay ngoắt trở lại là việc Nguyên Ngọc bị buộc phải từ chức “để phụ
trách công tác khác” – chỉ là một thành viên trong ban chuẩn bị Đại hội lần thứ
tư, phụ trách về cơm áo gạo tiền, chứ không được tham gia vào các vấn đề nội
dung. Tất cả đều trong sự tính toán sắp đặt của người chủ cũ của Hội.



  ---  Đại hội
nhà văn VN cuối 1989 đánh dấu một bước ngoặt trong đời hoạt động của Nguyễn
Đình Thi. Dù rất muốn, ông không thể cố đấm ăn xôi tại chức mãi  mà  buộc phải chính thức chuyển giao vai trò lãnh đạo Hội cho một nhóm trẻ hơn thuộc
thế hệ kế cận. Nhưng, đó không phải là thất bại. Sau Đại hội, với kinh nghiệm
của một nhà chính trị chuyên nghiệp, rất dân tộc mà cũng rất hiện đại, ông vẫn
tiếp tục thao túng ban lãnh đạo Hội, tận diệt những ảnh hưởng có thể có của
Nguyên Ngọc, vì biết rằng nếu tinh thần Nguyên Ngọc thắng nghĩa là quá khứ của
mình sẽ bị mang ra xét đoán lại. Qua hàng chục năm chuẩn bị, cuối cùng, tương
tự như Eltsin tìm được Putin, ông chủ cũ của Hội  tìm được người thế tử nối ngôi tin cậy, trung
thành với ông, nghĩa là duy trì đường lối chỉ đạo của ông, gìn giữ và phát huy
ảnh hưởng to lớn của ông trong các Đại Hội năm, sáu, bảy tiếp theo.  Chiến công chói sáng này khiến cho từ sau
1990, tuy tuổi xấp xỉ 70 mà còn phải bước vào cuộc chinh phục mới (tới 1995,
vào vai Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam), Nguyễn Đình Thi vẫn vĩnh
viễn là người lãnh tụ tinh thần của Hội nhà văn VN, trong lịch sử Hội ông có một vai trò "sáng nghiệp sử" mà không ai
có thể so sánh.






 31/7

Báo
Văn nghệ số cuối tháng 7 có bài Duật nhận định tình hình, lại chửi bới
ra rả (tháng 6, Duật đã có bài ở mục Văn nghệ và bạn đọc với ý tương tự).

Nguyễn
Văn Lưu có bài chửi những người ăn vạ  --
ý Lưu nói ở đây, là Dương Thu Hương.

Trước
đó, Lưu đã có bài công kích Đỗ Đức Hiểu và Dương Thu Hương trên Nhân Dân
chủ nhật, ký Chu Giang .


Huế, báo Thừa Thiên Huế cho mọi
người “thảo  luận” về Sông Hương. Nghe nói lôi cả chị em ở chợ
Đông Ba vào cuộc. Chị em cũng theo sự đạo diễn của tuyên huấn, chửi bới rất ác.

Mình
nghĩ đến tiến sĩ thời nay còn ăn cắp tranh và nói xưng xưng về chuyện nhân nghĩa, thì chị em tiểu thương vào
cuộc, cũng là lẽ bình thường.




Báo chí nhìn đâu cũng thấy bài phê phán. Tôi ghi lại lộn xộn và chưa kiểm tra lại.

Tháng
4-5 gì đó, có bài Trần Hữu Tòng.

Bài
Mai Ngữ trên Nhân Dân thứ bảy (khoảng 
16/6) châm ngòi cho hội thảo Hãy gọi sự thật bằng cái tên của nó.

Bài
Lê Ngọc Vân về tình hình chung trên Nhân Dân thứ bảy (sau Mai Ngữ một tuần
23/6)

Bài
Nguyễn Văn Lưu trên Nhân dân chủ nhật

Bài
Bùi Công Hùng trên Nhân dân chủ nhật

Truyện
ngắn Mai Ngữ số 26

Bài
Bùi Công Hùng trên Hà Nội mới chủ nhật đánh chung

Bài
Bùi Công Hùng đọc một số  tiểu thuyết gần
đây

Bài
Bùi Công Hùng về thơ.




6/7


Nghe
kể về họp cộng tác viên phần phê bình 
báo Nhân Dân

Danh
sách

Nguyễn
Đình Thi, Bùi Hiển, Tô Hoài, Phương Lựu, Bùi Công Hùng, Thành Duy, Mai Ngữ, Đào
Vũ, Phạm Tiến Duật, Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Lữ Huy Nguyên, Đinh Xuân Dũng,
Ngô Vĩnh Bình, Hồng Diệu, Tạ Ngọc Liễn, Nguyễn Văn Lưu, Lê Thành Nghị, Trần Bảo
Hưng, Nguyên An, Trần Hữu Tòng.




Nhân
Dân
chủ
nhật 29/7 có bài Mai Quốc Liên về Nguyễn Duy

số
32 bài Đỗ Văn Khang  về Hoàng Ngọc Hiến và cái ý bước qua lời nguyền

Cũng Nhân Dân
chủ nhật số 32 bài Trần Thanh Đạm phê Nguyên Ngọc nhân bài của Nguyên Ngọc “lời
từ giã cuối cùng”

 Tạp chí
Cộng Sản số 8 bài Nguyễn Văn Lưu, bài Vũ Tú Nam.

Quân
đội nhân dân

16/8 thảo luận về Những mảnh đời đen trắng




 Tôi chợt nhận ra một cái khác của đợt đấu
tranh này so với hồi chiến tranh. Mọi năm, 
chỉ đánh  trong mùa hè. Đến 2/9 là
mọi chuyện vui vẻ.

Bùi
Việt Sĩ  bảo không năm nay còn đánh tiếp,
bởi lẽ, phải thống nhất tư tưởng. Sẽ đánh cho đến đại hội Đảng.




Phương
Lựu kể: Tôi sẽ nói nhà văn tự kể trong Ly thân là hạng ruồi, với 2 đặc điểm:

-
suốt đời chỉ là gia vị

-
suốt đời lừa (lừa em ruồi là đỗ đen)




Nhưng một chút tỉnh ngộ của nhân vật đó, đấy mới là cái quan trọng
nhất, thì ông Phương Lựu lại không thấy.




2/8


Nghe
 nói là có cuộc trao đổi về Ly thân
bên báo Văn nghệ.

Tôi
không đi vì nghĩ ở đây, không thể có bàn cãi được. Họp chỉ để  thực hiện ý cấp trên là đánh cuốn sách đó. Vậy có mặt làm gì?

Liệu
một người như tôi có khả năng đứng ngoài quan sát?




Phương
Quỳnh cũng nói rất hay nhưng là một khía cạnh khác:

-
Bọn Nguyễn Văn Lưu, Bùi Công Hùng, tởm thật.

Nhưng
thử nghĩ xem, phía bên này ra sao, những ông như ông Hoàng Minh Chính rất cổ
lỗ, ông Nguyễn Kiên Giang không hề biết mình là loại người gì.

Ông
Dương Tường, ông Trần Dần bây giờ còn được vinh thăng trong thơ phú nhảm nhí
thì ai mà chịu được.

Cả
cái Hương nữa.

Tôi
đã bảo với nó rằng bị đánh là lợi cho
mày đấy. Chứ viết, mày hết cái viết rồi, mà diễn thuyết nữa, thì mày diễn
thuyết cái gì.

PQuỳnh
nói thêm.  Tôi nói với tư cách một đứa
chịu trận với nó một đứa đã đi suốt với nó một chặng đường dài. Từ lúc ở Sài
Gòn ra, nó có bị an ninh  làm phiền đâu, chứ tôi bị bao lần rồi?




Những
hiện tượng của ngày hôm nay, trên đại thể là xuất phát giống nhau và từ một căn
bản văn hoá như nhau (cả ông Nguyên Ngọc cũng vậy thôi), cho nên xu hướng có
khác nhau, mà chắc là chẳng mang lại được điều gì mới. 

Trong
nhận định của Ban chấp hành Hội Nhà văn (Ân đoán là do Nguyên Ngọc viết) có lời
kêu gọi: Nhà văn phải là người trong cuộc.

Riêng
một điều đó thôi, theo tôi là không đủ, nếu nghĩ kỹ còn là sai tận gốc. Thế trong
cuộc
phải phối hợp với thế ngoài cuộc thì mới giải quyết được điều
người ta muốn làm là nhận thức đời sống. Cứ đóng cửa lại mà nghĩ bằng tiêu chuẩn
của nước mình thì không bao giờ ra khỏi cơn khủng hoảng này cả. Bakhtin cần phải
có mặt.




Ông  Chương Thâu kể:

--
Vũ Khiêu toàn nhận định nhăng nhít. Phan Huy Lê ba mươi năm nay không viết gì (đúng
là con nhà Phan Huy Ích, cơ hội qua ngày). Hà Văn Tấn như con mọt sách, cũng
không được việc gì hết.

Ôi,
cái giới trí thức nước mình, hình như không sao khá lên được!




Bùi
Việt Sĩ kể: ngày 23 /7 Nxb Thanh Niên
họp nhau để khen nhau. Mỗi báo cáo 30 ngàn, ăn trưa 10 ngàn (loại như báo cáo
của Hồng Diệu, tức Song Nga - khen Vòng tròn bội bạc, hoặc Đoàn Hương
khen Trần Thị Trường).

Duật
cũng lên phát biểu. Và phát biểu rất lạ.

Duật
bảo thơ in NXB Thanh Niên hỏng rồi, thơ bây giờ chẳng ra sao.

Nhưng,
vẫn theo Duật, Nxb Thanh Niên còn được. Chứ cứ như báo Tiền Phong, đăng
bài đòi đối trọng với bài về đa nguyên thì không được.





Quang Dự bí thư Trung ương Đoàn có mặt ở buổi họp phải đứng lên nói.

--
 Sau bài anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, đã có
bài anh Nguyễn Văn Lưu bác lại.

Anh
Lưu cũng ngồi đây, tôi xin cám ơn, và như vậy là xong.

Còn
bài đa nguyên, lúc đó đồng chí Trần Xuân Bách là Bộ Chính trị, là Ban Bí thư.
Đồng chí gửi bài nào, báo ấy chỉ là nạn nhân.

Vậy
thì không thể nói Tiền Phong vậy được. Tôi là người chịu trách nhiệm về Tiền Phong,
tôi không đồng tình với nhà thơ vừa phát biểu (nhà thơ thôi, Dự nói vậy, chứ
không nói là Phạm Tiến Duật.)




 Ông Nguyễn Đình Thi có bài thơ trên Văn nghệ số 31, cho rằng có  bọn ném đá
dấu tay. Nên hiểu việc đó như thế nào?




Duật bị người ta chửi là điếm là gắp lửa bỏ tay người. Đầu cơ chính trị thượng
hạng. Duật cãi lại: chính nhận xét của Ban chấp hành là hữu khuynh. Duật không
đồng ý.




Ông
Nguyễn Dăng Mạnh bắt đầu phản ứng bằng cách không dự cuộc họp hội đồng phê bình
– một cuộc họp mở rộng.

Theo
lời Thiếu Mai kể, Nguyễn Văn Hạnh nói rõ là Nguyễn Đăng Mạnh bất bình vì
vấn đề kết nạp hội viên. Ông cho rằng một 
Đinh Xuân Dũng như thế mà được kết nạp thì còn ra cái lý gì nữa. Thế thì
Ban chấp hành đừng đặt vấn đề  hội đồng
giới thiệu nữa có hơn không.

Rồi
cái thông báo láo lếu của Ban chấp hành, trong đó nói  Hội đồng phê bình không ra gì, và đe nẹt là
sẽ bổ sung nữa.




Nghĩ
thật khốn nạn cái lối khinh bỉ phê bình của giới nhà văn ở nước mình. Nguyễn Đăng Mạnh có lần nói với
bọn tôi, giá kể bảo nhau mà ra khỏi hội là tốt nhất.

Bởi
vậy, Nguyễn Văn Hạnh nói, cũng có chỗ đáng thông cảm cho Nguyễn Đăng Mạnh. Chứ
bận gì mà không đi họp được một buổi.




Người
đắc ý nhât trong buổi họp phê bình ấy, tất nhiên là Phương Lựu.

 Phương Lựu tỏ ra có vẻ tâm đắc với Hội, hiểu
Hội, như là người của Hội từ lâu lắm. Về xem lại tư liệu, tôi thấy đến Đại hội nhà văn 1983, Phương Lựu vẫn chưa
phải hội viên. Người này mới lập thân từ bàn tay của Nguyễn Đình Thi, Hữu
Thỉnh.




Nhưng
ông Mạnh cũng đã thoả hiệp với báo Văn nghệ.

Số
báo Văn nghệ ra 11/8 có bài Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyễn Tuân. Lại có
cả thư chúc mừng nhân dịp Nguyễn Tuân 80 tuổi của Hội nhà văn Liên Xô. Tôi đoán, nhờ có cái thư ấy, mà bọn Văn nghệ mới nhớ ra là có chuyện ông
Tuân 80, mới chạy đi đặt bài.

Phen
này ông Mạnh chắc phải được trả trên 100 ngàn.

  Văn nghệ vẫn có biệt nhãn với Ng Đ Mạnh. Tạp chí Tác phẩm mới
có lần định mời ông Mạnh ra làm Phó tổng biên tập.





một vấn đề đặt ra: thấy bọn đang thắng ra trò vậy, phải cãi làm sao.

Với
cái bi quan cố hữu của mình, tôi định không tham gia gì cả. Tranh luận nghĩa là
chưa biết chân lý thuộc về ai. Còn khi đã có chân lý rồi (chân lý được nói
trong cái nghị quyết) thì việc gì phải cãi nhau nữa. Mọi cuộc đối thoại bây giờ là một thứ đối thoại giả tạo.




Nhưng
có nhiều người  không nghĩ thế. Loại
như  Phong Lê vẫn muốn tử vì đạo, muốn
cãi lại. 

Phong Lê đã viết xong một bài giáng trả lại Đỗ Văn Khang, sau khi Đỗ
Văn Khang lôi câu của Phong Lê "tất cả đã tốt rồi, thì việc gì phải đổi
mới" để đả.

Đỗ
Văn Khang trong dịp này, chỉ đánh hôi cho Bùi Công Hùng. Hùng cần phải bảo vệ chức
vụ Phó Tổng biên tập ở Viện.

Những
người như Phong Lê - tôi nghĩ - bây giờ mới hiểu rõ là trên đời này bao nhiêu
điều oan uổng khốn nạn, chứ không phải như họ xưa nay vốn quan niệm.

Những
gì mà Phong Lê cãi lại, chỉ tuyệt vọng thôi, chả ai theo đâu. Dẫu sao, cứ cho
lão cãi đi, điều đó chỉ có lợi cho tình hình chung.




13/8.

Sử
kể một đoạn đối thoại với Hữu Thọ, phó tổng biên tập báo Nhân Dân

-
Sao các anh đánh dữ thế, tôi nghe nói bọn chúng nó (Phong Lê) đang chuẩn bị cãi
lại.

-
Bọn này mong bên kia cãi lại để còn có cớ mà đánh tiếp tục.

-
Làm gì mà tàn bạo thế?

-
Lê nin nói rằng làm cách mạng cứ có 51% ủng hộ là ổn rồi. Đằng này chúng tớ
được ủng hộ hơn thế nhiều. Hàng ngày, báo Nhân Dân nhận được hàng chồng
thư ủng hộ của các cụ về hưu, các cán bộ tuyên huấn và nói chung là cán bộ
chính trị ở các cơ sở. - thứ ủng hộ chiến dịch phê phán hiện nay. Còn thư phản
đối rất ít. Làm báo mà được sự ủng hộ như thế, thì không có gì phải phân vân
cả.




14/8

 Nguyễn Quang Lập vừa ở Quảng Trị ra.

-
Cửa Việt vẫn có giấy phép ra tiếp. Số 3 chỉ phải cắt bớt bài Dương Thu
Hương mấy câu ở một truyện dịch.

-
Sông Hương thì gay go hơn. Đài truyền hình phát băng hình ghi lại mấy
cuộc hội thảo của các cụ về hưu cụ nào cũng quyết tâm không thể để thế được.
Không thể để thế được.



Ngoài
Hà Nội có mấy chỉ thị:

a.
bắt Sông Hương số 4 cắt mấy câu trong bài Phong Lê (Đảng và trí thức)
và bài Phạm Thị Hoài (câu chuyện Hoài không vào Hội)

b.
Phải thay tổng biên tập. Tổng biên tập cũ Tô Nhuận Vỹ đã làm kiểm điểm. Nghe
đồn là là Vĩ sám hối ghê lắm. Nhưng vẫn không thể không bị đánh đổ, vì phen này
cứ ai dính dáng đến Việt kiều là bị trị. Mà Sông Hương dính với Việt
kiều đã quá rõ. Hình như người ta còn xác định có những việc Sông Hương
làm theo yêu cầu của Việt kiều nữa.

Cái
này thì từ lâu đã có tin đồn, đến mức Tô Nhuận Vỹ phải thanh minh để ý
xem, ai chiều chuộng Việt kiều, bám Việt kiều nhất, Sông Hương hay những
người chửi Sông Hương.




Nhưng
bây giờ thử tính ai sẽ thay Tô Nhuận Vỹ. Người ta nêu tên 4 người: Nguyễn
Khoa Điềm, Hồng Nhu, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Đắc Xuân. Nhưng cả bốn đều từ
chối.

-
Điềm nói là Điềm không thể vừa đá bóng, vừa thổi còi

-
Phê nói là già rồi, muốn sáng tác, không nhận làm gì

-
Hồng Nhu nói là làm bên Hội (Phó Tổng thư ký) đủ rồi

-
Nguyễn Đắc Xuân nói là đã thắp hương, thề không dính tới Sông Hương.

Hiện
nay, Sông Hương "nằm viện" không  ra tiếp. Chờ đến đại hội văn học nghệ thuật
tỉnh sẽ hay.




Ngoài
Hà Nội, có thêm một số tin mới:

-
Sau bài bảo Dương Thu Hương nằm vạ, Nguyễn Văn Lưu bị chửi rất ghê, có người
kéo đến nhà chửi, có người đến báo chửi (thậm chí Thỉnh phải nhận là bài đó có
thái độ không đúng và có tin Thỉnh sẽ đăng bài phê phán).

Nhưng
Vũ Quần Phương kể là ở cơ quan NXB Văn
học
,  Nguyễn Văn Lưu chìa ra một lá
thư, trong đó Bộ Nội vụ khen Lưu đã tích cực đóng góp vào cuộc đấu tranh tư
tưởng trong văn học. Lưu đã tìm ra vai của mình.




-
Bằng Việt vừa triệu tập một cuộc trao đổi ở báo Người Hà Nội, trong đó
thành phần tham dự gồm có Vũ Quần Phương, Ma Văn Kháng (Kháng không dự), Văn
Tâm, Nguyễn Văn Hạnh, Phương Lựu.

Xu
hướng chung của "hội thảo" là uốn nắn lại đợt súng phê phán vừa rồi
(nếu mình nghe không nhầm thì là như vậy).

Người
Hà Nội

dự định sẽ đăng tải các bài phát biểu đó dần dần trên mặt báo.




-
Giải thưởng của Hội Nhà văn (phần văn xuôi), nghe đồn là Cỏ lau, Ông cố vấn
truyện Khôi Vũ.

Còn
thơ là Văn Cao và Xuân Quỳnh.

Chủ
tịch hội đồng giải thưởng là Vũ Tú Nam, phó (kiêm thường trực) là Xuân Thiều. Nguyễn
Văn Hạnh, trong buổi họp phê bình vừa rồi, cũng kêu chuyện này.




 Hữu Mai khá đắc ý. Trong Đảng bộ, ông được bầu là bí thư.

Còn
về sự tín nhiệm của cấp trên. Nghe nói nếu có Đảng đoàn thì Anh Đức làm bí thư,
còn cũng Hữu Mai làm phó.

 Vậy là tác giả Ông cố vấn thành công cả trong
chuyên môn lẫn trong chính trị . Ngọc Trai bảo ông ta có hy vọng kỳ tới làm
Tổng thư ký, nên đang lấy lòng mọi người và làm việc quyết liệt lắm.




Một
việc khác, cũng do Ngọc Trai kể.

Số
là Hội nhà văn vừa làm tổng kết 6 tháng đầu năm, Xuân Thiều đọc bản tổng kết
nêu rõ: tình hình mất đoàn kết hiện nay là do quan điểm một phần, nhưng phần
khác là những mưu đồ công danh, khiến cho người nọ người kia kèn cựa nhau, bô
báo về nhau.

Ngọc
Trai bảo nghe đúng quá chứ còn gì. Thế mà bọn Đào Vũ cũng phản đối.




24/8

 Vẫn Ngọc
Trai kể:

Bên
chi bộ Hội nhà văn, họp kiểm tra Đảng. Riêng phần Nguyên Ngọc làm hai ngày.

Những
người nói nhiều nhất là Kim Lân, Đào Vũ, Thợ Rèn, và Bùi Hiển (Nguyễn Đình Thi
và Đỗ Chu đi vắng).

Họ
bêu Nguyên Ngọc đủ điều, trong đó có cả cái điều tệ hại nhất mà chính trị cấm
tiệt. Đó là bè phái về tổ chức,  định đưa
Trần Độ lên làm Tổng Bí thư, lúc đó Nguyên Ngọc sẽ làm Trưởng ban văn hoá, sẽ
là uỷ viên Trung ương v.v…




Nghe
nói Kim Lân đòi phải có kỷ luật với Nguyên Ngọc. Nhưng làm gì có bằng cớ để có
một kỷ luật như vậy.

Đâu
chỉ có Nguyễn Văn Bổng còn dám bênh Nguyên Ngọc ít chút.


Tú Nam cũng bị phê bình là nhu nhược, để Nguyên Ngọc khuynh loát tất cả.

Theo
Ngọc Trai dự đoán, phen này Nguyên Ngọc sẽ chán nản bỏ đi sáng tác, không làm
trưởng ban của Hội nữa, và Xuân Thiều sẽ nắm.

Hình
như việc này có sự chỉ đạo của trên Ban tư tưởng văn hoá.




Cả
Ngô Văn Phú, và  Bùi Hoà cùng kể, chính
tôi – VTN -, cũng bị họ lưu ý chi bộ là xem xem có vấn đề gì không, đặc biệt
qua hai việc 1/ cho rằng  Nguyễn Huy
Thiệp đáng tặng ngòi bút vàng và  2/ theo
đuôi các việc do Nguyên Ngọc khởi xướng.

Hoà
và Phú than thở hộ tôi: họ nhìn vấn đề bằng con mắt hành chính, họ không hiểu.




Nghe
nói Trung ương họp, có bao vấn đề kinh tế, xã hội bê bối đang đặt ra. Đại hội Đảng
tháng 7-1990 coi như đã phá huỷ xong vô hiệu hoá xong ĐCS Liên Xô. Ông Linh có
vẻ nghiêng về Trung quốc, và muốn đi với Trung quốc càng nhanh càng tốt. Có
phương án sẽ đưa Hoàng Văn Hoan về, nhận cho làm một chức vụ gì đó của nhà
nước.


Nghĩ ra mà sợ cho nước mình, xoay như chong chóng không ra cái lý cố gì cả.




 13/8

 Thư viện Quân đội có hội thảo về cuốn Những
mảnh đời đen trắng
của Nguyễn Quang Lập.

Ngày
16/8, báo Quân đội nhân dân đăng văn bản cuộc thảo luận, do Đỗ Trung Lai
chấp bút, trong đó, hết sức trân trọng
các ý kiến  của nhà phê bình văn học Nguyễn
Văn Lưu, và nhà văn lão thành Trần Cư – cả hai đều phê phán NMĐĐT.

 Tới chủ nhật 26/8 thì trên TV mới bày ra cảnh
họ hội thảo với nhau.

  Một Thu Hương nữa, hình như là của Văn công Phòng
không không quân,  thét lên, cho….là …
là… những tác giả phản động đó phải đáng treo cổ.

Thành
luỹ của bọn bảo thủ ở nước nào cũng giống nhau.




 27/8

  Gặp Nguyễn Văn Bổng. Ông lắc đầu kể rằng cuộc kiểm điểm ở  chi bộ Hội nhà văn là kinh khủng. 

  Mới đầu Vũ
Tú Nam, rồi Chính Hữu, Hữu Mai, Ngọc Tú… chỉ có khen.

   Đến Nguyên Ngọc thì tất cả xô vào đánh. Kim Lân đòi kỷ luật Nguyên Ngọc,
nhắc đi nhắc lại rằng cần kết luận chính thức. 

Đào Vũ cũng mấy lần nêu ra câu
hỏi. Tại sao anh lại có tên trong danh sách "Anh hùng Việt tộc"
(Trước đó Nguyên Ngọc đã nói ở đâu đó: Người nào nêu ra câu hỏi loại đó, tức
một là ngu ngốc, không biết gì, hai là đầy ác ý)




  Nguyễn
Văn Bổng kể là Bổng phải đứng ra bảo đảm là Ngọc không phải là người của địch,
không có vấn đề tổ chức ở đây.

 Nhưng mà lại làm sao với họ được, Bổng nói
thêm.




 Tôi hỏi ông Bổng:

--
Anh thấy có nên tham gia vào một cuộc cãi lại mọi chuyện đang ầm ĩ này không.
Nếu Tạp chí Văn học mời anh,
anh có tham gia không?

--
(tỏ ý ngần ngừ) Bây giờ làm sao mà cãi lại được.

-- Thế anh thấy có ai đáng làm việc này? Thường khi có vấn đề gì của
Hội, anh nói với ai?

 -- Không nói với ai cả. Bây giờ không có ai để
nói.




Sau
khi gặp Bổng, về thư viện, tôi nói với cô Hà:

-
Như ông Bổng còn khá.

Hà:


-
Có khá khối! Cũng ghê lắm.

Trước
đó, khi bàn về chương trình TV phê phán Những mảnh đời đen trắng, Hà đã
nhận xét rất hay:

-
Chỉ thiếu có anh Phú. Trong những cuộc như thế này anh Phú cũng là một mũi sắc
bén.




Tối
thứ bảy 25/8, gặp Phong Lê.

Phong
Lê kể cho biết đúng Sông Hương số 4 bị cấm vì trong đó có bài Đảng và
trí thức
. Nhưng bài đó chính là bài đọc trước ông Linh ở một cuộc hội nghị
bên UB khoa học xã hội và đã đăng ở Văn nghệ.

 Trên Sông Hương, bài này chỉ thêm một
vài đoạn trích dẫn mà ở bản báo cáo Văn nghệ đã bị lược bỏ.




Phong
Lê còn nhớ rất rõ hôm ấy ông Linh phản ứng nhanh nhạy lắm. Thấy Phạm Đức Dương
Viện trưởng Viện Đông Nam Á nói rằng chúng ta xây dựng CNXH trong một hoàn cảnh
không bình thường, thế là ông nổi cáu, nói không bình thường tức nói xây dựng
CNXH không thể thành công à (khốn khổ cho Ph Đức Dương cũng loại chúa nịnh,
nhưng lần này nịnh không phải lối nên đến nỗi thế).




Còn
bản tham luận của Phong Lê nói rằng chúng ta không làm công tác vận động trí
thức gì cả, thì được hoan nghênh lắm.

 Vậy mà bây giờ lại bị các ông ở Ban Tư tưởng
văn hoá bắt tội, thật không ra sao cả.




Tôi
muốn nhìn lại mọi phía cái con người đang nói chuyện với tôi.

-
PhLê có tên trong cái danh sách Anh hùng Việt tộc khỉ gió nào đó.

-
Vậy thì cần đánh là đánh loại "bị nước ngoài lôi kéo" đó, chứ có căn
cứ phải trái gì đâu.

Càng
nghĩ càng thấy đáng lẽ vào những lúc  bị
đòn này, một người loại cốt cán như Phong Lê mới hiểu cái điều hắn đã tin xưa
nay là xằng xịt đến mức nào.




Bùi
Việt Sĩ kể rằng báo Nhân Dân hơi phiền lòng, vì tờ Quân đội nhân dân anh
em lại đăng bài của Ngô Thảo phản bác lại mình. Nhưng trong tâm lý, báo Nhân
Dân
hẳn cũng sung sướng, như vậy cũng có cớ để bọn họ tiếp tục lên tiếng
trước các vấn đề của giới văn nghệ hiện nay. 

Không có họ thì hỏng hết còn gì!




Trúc
Thông kể là Mai Thúc Long phó tổng biên tập Đài TNVN  trực tiếp chỉ đạo cho bọn Trần Nhật Lam ở Ban
Văn Nghệ là phải đọc những bài “đánh đấm” trên báo Nhân Dân (mục phát
thanh giành cho Việt kiều ở nước ngoài . Còn nhớ đọc cả loại bài như Nằm vạ
của Nguyễn Văn Lưu nữa, cán bộ nhiều người thích lắm).

Mai
Thúc Long giảng giải:

-
Báo Nhân Dân đã mất bao nhiêu công đi đặt bài, đặt loại I không được,
đặt loại II, không được, cuối cùng phải có những cộng tác viên (hay bài) loại
III như vậy, tại sao lại không ủng hộ mà đọc lên để khuếch trương ảnh hưởng.




Từ
6-1979, từ Hội nghị Đảng viên trở về, bất chợt Ng Khải nói với tôi một câu an
ủi:

--
Chán thì có chán thật, nhưng mấy ngày tới còn được ở nhà. Thằng Ngọc mà thắng
là thả nào nó cũng lùa anh em đi thực tế một chuyến bây giờ.

 Sau Đại hội ba 1983, tức là sáu bảy năm trước,
có một cuộc họp Ban chấp hành khóa ba ở Đà Nẵng. Hồi ấy, chuyện vào các tỉnh
miền trung mà đi máy bay còn là chuyện xa xỉ. Vậy mà các thành viên Ban chấp
hành ở Hà Nội được Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi giải quyết cho đi máy bay hết.  Xuân Quỳnh họp về đến cơ quan kể với tôi một
chuyện tạt ngang:

--
Lúc tán phét, lão Nguyễn Khải bảo là nếu thời Nguyên Ngọc thì đừng có hòng. Lão
sẽ cho đi tầu hỏa hết. Mà chính Nguyên Ngọc cũng ngồi tầu hỏa để làm gương
không biết chừng.




Từ
những chuyện tương tự, tôi muốn đọc ra một ý tưởng liên tục của Nguyễn Khải trong gần hai chục năm qua:


Chính ra Nguyên Ngọc lại là người chăm chú thực hiện đường lối văn nghệ vốn có
sau khi tân trang chút ít. Cái mới của ông là ở sự kiên cường nghiêm túc
của người ở chiến trường về, sự nghiêm túc này ở Hội nhà văn VN của Thi đã mất
hẳn sau những năm chiến tranh mệt mỏi.

Chẳng
qua cánh cũ bị mất quyền lợi nên phen này họ phản ứng dữ dội với Ngọc. Mà cái
việc họ đánh vào nhân cách Ngọc thì quá bỉ ổi nên ta lại càng dễ cảm tình
với  Ngọc. Chứ trong tư tưởng con người
đã vào chiến trường cả chục năm đâu đã vượt lên khỏi tình trạng tư tưởng lúc
này của xã hội? Chiến tranh đâu có phải là môi trường chuẩn bị cho cái mới?




Rồi
tôi lại nghĩ, Nguyễn Khải nói thế, chắc để bao che cho thói cơ hội và sự trở
mặt trắng trợn của mình?

Nhưng gạt đi câu chuyện nhân cách Khải, bản thân cái điều ông nói ra tại sao cứ bám vào đầu tôi. Tôi chỉ biết phân vân
và nghe ngóng.  Tôi không thể tìm ra lý
do để nhập cuộc.







29/8

 Đọc Nỗi buồn chiến tranh và lại cảm
thấy nôn nao cả người. Cái chất hình tượng trang viết nắm bắt cuộc đời, cái đó
nó chỉ thấy ở Nguyên Hồng ở Nguyễn Minh Châu, nay lại hiện ra đàng hoàng sang
trọng hơn. Lối chẻ chữ ra ngâm nga như của Nguyễn Tuân cũng không đáng sợ bằng.

... Khi viết những dòng này về
chiến tranh, Bảo Ninh như muốn tự chứng tỏ rằng trên đời  này, chỉ có mình là lính. Xúc cảm kiểu lính,
ăn kiểu lính nghĩ kiểu lính. Và đặc biệt hai cái phần mà lâu nay văn học mình
vẫn lẩn tránh:

- giết người kiểu lính

- làm tình kiểu lính.

Trong cách hiểu thông thường, cuộc sống lính tráng chỉ được tả đơn giản, dễ
hiểu, có thể hình dung ra được. Với Bảo Ninh, cuộc sống hiện ra cứ như một cái
gì ma quái người ta không nắm nổi không chộp bắt nổi, nó cứ chập chờn trước mắt
người ta mà chịu.

Bắt chước cái giọng của Nguyễn Minh
Châu, tôi muốn kêu to lên lúc này: Những kiểu phân tích rành rọt của Nguyễn
Khải, những kiểu bông phèng của Hồ Phương, mức độ của Xuân Thiều, công chức của
Hữu Mai, các anh cứ gọi là vứt đi hết - chả có gì là văn học hết. Bảo Ninh này
nó mới là văn học thật sự. Mỗi thứ văn học rõ rệt, nó đều hàm chút trong nó một sự phủ nhận những phong
cách khác trước nó.




Bức tranh văn học thời này đại khái
là:

1. Khu vực tiểu thuyết, gần như
hoàn toàn là thương mại. Sự tìm tòi may lắm chỉ ở truyện ngắn. Lý do thật đơn
giản. Người ta thường phải viết ngắn hơn, không đủ sức tìm tòi cái gì thật chắc
chắn.

2. Các nhà văn chuyên nghiệp còn
lúng túng. Chỉ có các cây bút trẻ là còn sự trong sáng trong tìm tòi, cái trong
sáng đồng nghĩa với liều lĩnh.

3. Có sự so le quá đáng giữa như
cầu kiếm sống và như cầu làm văn học thực sự. Lý do: xã hội không đánh giá nổi
những tìm tòi văn học, không đủ sức bao dung đủ sức bảo trợ sự tìm tòi ấy. Người nào
chưa lo kiếm sống hôm nay thì mai sẽ phải lo.

Nhưng việc đó lại không được nói
ra. Trên báo chí, tất cả lại phải tự tin xông lên, lại phải nói rằng những tìm
tòi được đánh giá đúng.

Rút lại nhìn từ xa, thấy bao trùm
trong văn học là bóng tối. Trong bóng tối đó bao nhiêu bất công. Trong
bóng tối đó, cái xấu tha hồ lộng hành.

4. Khi bóng tối đã bao trùm cũng lúc quá trình mòn rỉ, mốc meo, thoái hóa xảy ra rất nhanh.

Con người - ở đây là người viết văn
- cảm thấy cô đơn. Và những kẻ xấu trở nên hung hãn.




1/9

 Báo Người Hà Nội số 2/9 đăng bài của
Bằng Việt. BV đối lập văn nghệ sĩ ta và họ (mấy người có thể bị bắt), xem họ
chỉ là lạc điệu; những ai coi những con chiên ghẻ  đó 
biểu hiện một xu thế  xã hội chỉ
là dựng chuyện.

 BV cũng không hề nói gì tới không khí căng
thẳng nặng nề bao trùm trong giới. Người viết tỏ ý như ta rất vững vàng và xem
chuyện rối rít tít mù chung quanh chả là chuyện gì cả.

Cảm thấy BV hiểu mình hoàn toàn đứng cao hơn thiên hạ một cái đầu và tỏ ý thương hại những ai
không biết nghĩ như mình.

 Lối nói bề trên mang lại cho hình ảnh tác giả hiện
lên sau bài viết một vẻ sang trọng giả tạo.





điều vui là trong lúc đó tất cả đều đồn là Bằng Việt mất đất ở Hà Nội sắp phải
chuyển về Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật. 

Người Hà Nội số này đăng hồi
ký Huy Cận, thơ Xuân Thiêm. Sẵn sàng làm tất cả những gì dơ bẩn nhất đó là bản
chất con người được tiếng sạch sẽ này.




Ân
kể về mối quan hệ giữa nhà xuất bản chúng tôi và Hội.

Bùi
Văn Hoà thay mặt chi uỷ Nhà xuất bản lên trình bày với Đảng uỷ về kết quả đợt
học tập chính trị vừa qua. Trong cuộc họp đó, Đảng ủy viên Ngọc Tú hỏi:

-
Nghe nói là anh Kiên có cùng với anh Ngọc, đi vào tổ chức để bè cánh trước Đại
hội.

Hoà
phải nói ngay:

-
Ai nói điều đó? Đâu là bằng chứng?


phải lảng ngay.

-
Đấy là có tin đồn như vậy, đề nghị kiểm tra.

Hoà
sở dĩ có thể kêu to tiếng không như thế, là do ông Kiên đã dặn cu cậu từ trước.
Kiên cũng hiểu rằng mình bị mắc kê, nên lẩn 
giỏi.




Trong các buổi họp của Hội nhà văn, thấy có tin đồn dai
dẳng nói là ông Vũ Tú Nam, tổng thư ký, đang xin từ chức.

Tin
đồn chắc hẳn là có ác ý, là muốn đánh vào 
ông Nam. Nghe nói lời đồn lan rộng đến mức trong một buổi họp người ta
phải nêu ra và bảo nhau rằng đừng co góp phần lan truyền tin đồn đó nữa.

Phản
ứng của Vũ Tú Nam về chuyện này? Chắc chắn là ông rất buồn. Một người lõi đời
về tổ chức như ông Nam hiểu rằng như thế là người ta không ủng hộ ông nữa. Thế
nhưng ai mà thương ông được. Một sự bảo thủ dịu dàng - trong những ngày qua,
trước đại hội, ông ta có một lập trường như vậy. Trong sự thản nhiên của ông,
có một chút gì như là cơ hội nữa: cho mọi người dánh nhau, ta ở giữa có lợi.


ông có lợi được đôn lên Tổng thư ký. Một người như Nguyễn Sinh nói với tôi:
tình hình bình thường thì làm sao mặt ông Nam trở thành Tổng thư ký được.

Chắc
ông chưa từng nghĩ rằng thứ "trung dung" ấy, có lúc sẽ phản ông. Sau
đại hội, ông tiếp tục "trung dung". Ai làm gì cứ làm, miễn không
thiệt đến ông là được. Ngày trước Nhị Ca đã gọi ông là ông phán cách mạng.
Ngờ đâu, sau khi thịt Nguyên Ngọc rồi bọn nó thịt đến ông.Đấy
là nguyên tắc.

Trong
chính trị, không có chỗ cho kẻ trung dung.

Nhưng
sách lược mà ông Nam áp dụng hồi ông ở nhà xuất bản bây giờ không đứng được
nữa.




 Ân nhận xét ông Nam từ Tác phẩm mới mà lên nhưng
có bao giờ ông ủng hộ nơi công tác cũ cái gì đâu. Người ông cũng không dùng, hồi ấy, bọn tôi đã tính kế cho ông, là nếu khôn, ông nên kéo Ngô Văn Phú lên làm chánh văn
phòng cho mình vì Phú là người của ông. 

Và đáng lẽ ông phải có ý kiến của mình
trong nhân sự ở Văn nghệ, ở Tác phẩm mới.

 Đằng này ông mặc kệ,
ông chia khoảnh ra cho người khác ai làm gì ai cứ  việc làm.

Ân
kể lại một chuyện mà chính tôi đã quên: sau khi bầu xong Ban chấp hành, tôi+
Xuân Sách+ Anh Ngọc đứng với nhau. Và bọn tôi đều nhất trí: nhân vật thao túng
BCH thời gian tới sẽ là Hữu Mai. Bây giờ  thấy đoán như thế là đúng.




 5/9

 Chi ủy viên Hoà trình bày rõ hơn về việc họp ở trên Đảng
uỷ Hội nhà văn mà trên kia Ân đã kể.

Các
ông ấy kêu lên là nhiều chi bộ đấu tranh gì mà ở đâu vẫn ở đó, sao mà nhẹ nhàng
thế, trong khi đáng ra đợt sinh hoạt này là hết sức quyết liệt, có nơi 25% đảng
viên bị đưa ra khỏi Đảng cơ mà.

Hoà
phải nói ngay: Có lẽ các đồng chí định ám chỉ chi bộ tôi, nhưng sự thực là chúng
tôi đã làm rất tốt.

Khi
nói về ông Kiên, câu hỏi ông Mai gợi ý là người ta nói ông Nguyên Ngọc, ông
Kiên và bà Lê Minh đã liên kết với nhau để làm những việc mà họ gọi là mưu mô.


việc  này anh Nguyên Ngọc không cải
chính, ông Mai cuời nhấn mạnh thêm.

Ông
Mai cắt nghĩa:

-
Cần phải bảo vệ anh Kiên, nhỡ ra anh Kiên có điều gì đó thì Đảng uỷ cũng rất
phải suy nghĩ.

Câu
hỏi của Ngọc Tú về ông Kiên là:

-
Tại sao nguời ta vẫn nói anh Kiên là cái bóng của anh Ngọc?

Sau
Hoà hỏi lại ở đâu ra, thì Tú mới lảng.




Về
Vương Trí Nhàn, bà Tú cũng thắc mắc về chuyện ông Châu, anh Nhàn nói đám ma anh
Châu là đám ma kẻ khó, vậy phủ nhận hết công lao của chúng tôi à?




 Rõ ràng, trong các đảng uỷ này, chứa đựng một
lòng căm giận. Họ ra cái điều là họ đã làm cho Hội bao nhiêu như thế mà Hội đâu
có biết ơn họ. Thực chất là họ quật lại những lao đao cay đắng mà họ phải gánh
chịu khi đại hội nhà văn đang tiến hành và tình hình một vài tháng sau đại hội,
mà họ phải nín lặng.

Nhìn
chung, trong phạm vi cả xã hội, quyền lực lên ngôi độc tôn, không chịu sự kiểm
soát của bất cứ cái gì. Mà đó là cái chính quyền của những kẻ ở bên lề,
không có nghề ngỗng, như Phạm Mạnh Hùng đã nói.

Còn
trong văn học, có cảm giác rằng một cũng đang có một hệ thống quyền lực kiểu ấy
tồn tại, nó ngày càng mạnh, văn học đang
giống với đời sống.




Báo
Nhân Dân, số 9/9, đăng bài Mai Quốc Liên tranh cãi với báo Đại đoàn
kết
của Việt kiều ở Pháp chung quanh tin về đại hội lần thứ 4 của Hội Nhà
văn Việt Nam. Bài trên báo Việt kiều có những đoạn nói về Mai Ngữ, rất cụ thể.
Người ta bảo Mai Ngữ là mật thám Pháp và Mai Quốc Liên cãi rằng Mai Ngữ là đại
tá, đã đi kháng chiến và bây giờ không thể hỏng được.




Lê Minh Khuê kể rằng Thanh Nhàn bảo Bằng Việt:

 -- Ông viết thì dân văn nghệ nó càng ghét ông.

BV
trả đũa ngay:

-
Cho nó ghét một thể.




 Ông Chương Thâu kể năm nay kỷ niệm 50 ngày
mất của Phan Bội Châu nhưng người ta cố tình quên, người ta không muốn làm to -
ở Nghệ An, người ta chỉ giao cho huyện
Nam Đàn làm.

Người
ta chỉ sợ làm loãng cái không khí 100 năm sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.







11/9

 Ngô Thảo nói rằng Thu Bồn, Ngô Thảo, Ngô Thế
Oanh sẽ gửi thư đến báo Nhân Dân, cãi lại những thông tin của Mai Quốc
Liên về đại hội nhà văn. Nếu báo Nhân Dân không đăng, thì sẽ đến tất cả
các báo trong cả nước để thông báo cho họ biết.

Báo
Nhân Dân chủ nhật số 15/9 có bài của Phan Cự Đệ chửi bới Trần Độ về định
hướng rộng, chửi luôn cả Nguyễn Duy, Nguyễn Huy Thiệp và cả Phong Lê - Phong Lê
đã đăng bài của một nhà học giả Úc về tình hình hiện thời.




19/9

 Đọc lại Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần
Đình Sử.

Sử
không đặt con người trong thơ Tố Hữu trước lịch sử đời sống trưởng thành Việt
Nam, không thấy rằng trước đó, đã có những con người hiện đại như trong thơ
Xuân Diệu, tùy bút Nguyễn Tuân, truyện ngắn Nam Cao, và như vậy, con người
trong Tố Hữu là một bước lùi.

Không
thấy rằng so với thế giới, chúng ta rất lạc hậu. 

Con người thế giới hiện nay là
con người dằng xé, bị đánh phá, con người không tính cách  ( tên một tác phẩm của R . Musil), con người
cảm thấy không xa nổi cộng đồng, tuy không làm sao hoà nổi vào cộng đồng v.v…

Tố
Hữu ca ngợi một con người ngược lại, mông muội, cổ lỗ chân thành, nhưng giọng
điệu càng ngày càng gượng gạo.




Về
thời gian
 Tố Hữu cũng chỉ đưa ra một
ý niệm về thời gian lịch sử, một thời gian đều đều kèm theo một ảo tưởng rằng
thời gian ủng hộ chúng ta.

Không
có khả năng hiểu về thời gian hiện đại. Không có cảm tưởng chính xác về nó
không diễn tả đúng về nó.




Tất
cả những cái này, là có ở Tố Hữu, nhưng Trần Đình Sử không có ý thức rằng Tố
Hữu lạc hậu. Nhà phê bình chỉ dừng lại ở Tố Hữu,  nhìn Tố Hữu bằng chính  con mắt Tố Hữu, không đối chiếu Tố Hữu với
cái hiện đại. Trần Đình Sử do đó, không thể đối thoại Tố Hữu, mà chỉ là người
diễn giảng Tố Hữu, truyền đạo cho Tố Hữu.




18/9

 Có tin ông VNG Giáp sang Bắc Kinh dự Á vận
hội. Đỗ Trung Lai ở báo Quân đội nhân dân thì thào: Trước đó ông Linh
cũng đã sang Thành  Đô gặp Giang Trạch
Dân. Mọi chuyện xong xuôi rồi, nay mai cha con tha hồ mà sang Bắc Kinh triều
cống.

 Tôi ghi lại điều đó ở đây vì chắc chắn công
tác tư tưởng trong xã hội lại sắp được lên dây cót, sẽ xảy ra cái hiện tượng
đang ở Đông Nam Á: nghiêm khắc chặt chẽ giáo điều trong đầu óc, rộng rãi trong
làm kinh tế.




 19/9

Đọc Bến không chồng

1. Nông thôn lạc hậu, mà ra khỏi
chiến tranh 46-54, chưa có gì mới, thì lại lao vào chiến tranh sau đó.

Mặc bao đổi thay nông thôn ấy không
có gì xao động lên, không có gì gọi là yếu tố mới. Nông thôn ấy giãy dụa vì
những thành kiến cũ và nền văn hóa cũ.

Ở nông thôn ấylại như có gì thoái
hóa. Rút lại là chuyện của những con sống con mái, mà người ta cũng làm tất cả
trong đau đớn, dày vò, tự xấu hổ và không dám nhìn thẳng vào mặt mình.

Dương Thu Hương còn có chút gì tươi
sáng (chứ đùng nói bọn Đỗ Chu) Dương Thu Hương còn gán cho các nhân vật  của mình cái ý nghĩa nào đó ( loại nhân vật có
tâm có chí).

Với Dương Hướng, nông thôn là xã
hội của súc vật, con người sống theo kiểu bày đàn, cái gọi là văn hóa thực chất
chỉ là một ít thành kiến cổ lỗ về dòng họ và một ít mơ mộng hão huyền theo kiểu
huyền thoại (lập nghiệp, thành danh, làm vẻ vang gia đình làng xóm...).

 Bên cạnh cái nông thôn ấy, có thấy thấp thoáng
một ít bóng dáng thành thị, nhưng cũng là thành thị quê mùa, kiểu phố huyện. Có
thấy cả bóng dáng của đất nước, đất nước ấy còn chinh chiến nữa, nhưng cuộc chiến
tranh chỉ là cái vực thẳm lôi người ta xuống, và đất nước chả mang lại cho
người ta cái gì, hoặc có cái gì đó, thì lại chìm mãi vào chốn xa xăm (cái gọi
là tư bản) chẳng có gì liên quan đến làng quê cả.




Nói chung, hiện đang có hai thứ văn
học:

 1/ một thứ văn học thương mại, chủ yếu diễn tả
cuộc sống thành thị, ở đó con người kiếm tiền, hành lạc, làm đủ điều bậy bạ.

Thứ này viết để bán cho thị dân
trong đó chủ yếu là thị dân mới, các cán bộ

2/ một thứ văn học nông thôn, viết
một cách tự phát, viết không phải cho thị dân và chắc cũng chả phải viết cho
nông thôn, chẳng qua không thể không viết thì phải viết. Loại văn học này, có
vẻ là một loại văn học thứ thiệt, song thô sơ, còm cõi,  không bao giờ trở thành hàng hóa , mà cũng
không bao giờ đủ sức vượt lên để thành một thứ văn học thượng đẳng. Nhìn vào nó
cũng thấy đủ thứ tật bệnh cũng học đòi cũng không thuần nhất, không hoàn
chỉnh... Trong sự quê mùa của  nó, nó
không ăn nhập gì với thế giới này, nó không thành trào lưu, trường phải. Nó ghẻ
lở, mốc thếch.




Trong Dương Hướng có những trang vớ
vẩn về mối tình của Thủy- Nghĩa, nhưng lại có cái bi tráng của cuộc làm tình giữa Hạnh
và chú Vạn, rồi sau đó, là việc Nghĩa bỏ Thủy về quê …thực tế là một sự đầu
hàng, một sự trở về với cát bụi.

Cuối truyện Hạnh mang đứa con trở
về. Sự sinh đẻ và cái chết đi liền nhau. Có một ngày mai đang tới (đứa trẻ).
Ngày mai ấy là vớ vẩn là kết quả của tật bệnh. Nhưng vẫn là một ngay mai thật
sự. Bao nhiêu nát tan ( Hiệp, anh của Hạnh và bố Hạnh chết), bao nhiêu vớ vẩn,
để sinh ra một đứa con không có gì là bình thường.




Lại sắp tới kỷ niệm một năm ngày
Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ tư. Giá ở nước ngoài, người ta dễ có một bài
viết kiểu như Văn học Việt Nam một năm sau đại hội.

Giải thưởng văn học trước dự định
vào trước 2/9, nay đã muộn quá, phải làm vào 29/9. Chậm chỉ có một
tháng, gần một tháng.

Bùi Việt Sĩ bảo: Hay nhất là hai
người được nêu lên đầu tiên trong giải thơ và giải văn là Xuân Quỳnh và Nguyễn
Minh Châu đều đã chết.




Dạo này trên báo chí, người ta hay
nói tới Bước qua lời nguyền của Tạ
Duy Anh (từ đó, là ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến về sự phá bỏ thành kiến)



Thật ít có truyện ngắn có khả năng
tạo ra được một dư luận rộng đến vậy.





(Còn
tiếp phần cuối )








 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 14, 2015 21:56

June 11, 2015

Nhật ký văn nghệ 1990

7/1


Tình hình Hội nhà văn
sau đại hội ? Một thể bùng nhùng. Con người thường mong thay đổi. Nhưng có thay
đổi được không nếu cái hôm qua đã là bản chất của họ!

Nhìn vào trường hợp ông
Vũ Tú Nam. Ông vào văn học từ những ngày kháng chiến hỗn mang. Bây giờ đã là
một giá trị chưa ? Bảo là đã cũng đúng, bảo là chưa cũng đúng. Có lúc hình như
ông muốn đổi mới (thời ông Ngọc), lúc ông ta không muốn đổi mới (thời ông Thi).
Và chính cái thế phất phơ ấy làm cho ông có thế mạnh. Vào Ban chấp hành, rồi
lại trở thành Tổng Thư ký không ai ngờ.

Hàng ngày ông Tổng thư
ký phát biểu trước vua quan trong nước và khách nước ngoài, như một đại diện
của nền văn học. Báo Văn Nghệ  đã nịnh Vũ Tú Nam ra mặt. Mục
sổ tay người yêu thơ mang bài Cơ nhỡ ra bình. Nhất là tuần nào
cũng yêu cầu Vũ Tú Nam viết bài thời sự. Còn gì nhạt hơn !


 Nguyên Ngọc bảo Ân:

- Vừa rồi, ông Nam trả
lời các báo có nhiều điểm phải nói lại. Đấu tranh với nhau không phải dễ.

 Ngọc kể về cuộc
họp Ban chấp hành. Chính  Nguyễn Quang Sáng cho là báo Văn nghệ đang
chống lại Đại hội.

Ban chấp hành phê bình
báo Văn nghệ vì sự xuống cấp của nó, và tự phê bình về việc
chỉ đạo tờ báo. Chỉ thị là sắp tới báo sẽ họp anh em viết văn, và ban chấp hành
sẽ dự.

 Ngọc cũng nói là
thể nào cũng phải lấy lại tờ Tác phẩm Văn học của ông Thi.

 Ngọc có vẻ náo nức
lắm, náo nức với sinh hoạt của Ban sáng tác mà ông là trưởng ban, Nguyễn Khải
và Xuân Thiều làm phó ban. Náo nức với tờ tạp chí mà người ta định giao cho
ông. Sẽ làm những số chuyên đề. Những số bàn sâu về lý luận…

       ...Nhưng sau khi nghe kỹ
về tình hình thì thấy cũng chẳng có gì đáng phấn khởi.

Muốn hay không muốn thì
bây giờ Ng Ngọc đã thành người một bộ máy  chứ không phải một mình một cõi
như hồi làm báo.




Có cái lạ, lúc này
Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải vẫn làm việc được với nhau. Nguyên Ngọc giải thích
căn bản là Nguyễn Khải quá nhạy với các tai vạ.

Nguyên Ngọc bảo với tôi,
tại sao trước khi họp Đại hội Nguyễn Khải lại viết cái bài chửi ông Độ và cánh
đổi mới nhảm nhí vậy ? Vì ở Sài Gòn, lúc ấy người ta lo lắm. Người ta nghĩ rằng
phen này đại hội hỏng hết rồi.

Ý Nguyên Ngọc muốn nói nếu
có một người vững vàng bên cạnh thì Nguyễn Khải vẫn là người có thể dùng được.




         23/1

       Nguyên Ngọc bảo
tôi, báo Văn nghệ coi như là bỏ. Thỉnh  nó yếu quá, chả
vực lên nổi đâu.




       Tạp chí Tác phẩm
mới
 (do Tác phẩm văn học chuyển thành) thì sẽ gồm có
Vũ Tú Nam làm Tổng biên tập, Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải làm phó tổng biên tập.




Chuyện các hội đồng – cụ
thể hội đồng lý luận phê bình.

        Ban chấp hành mới đã chỉ
định các thành viên Hội  đồng phê bình gồm  Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn
Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Hồng Giang, và Nguyễn Khải.




   
 Nguyên tắc cấu tạo là tạo ra đối trọng. Dĩ nhiên trước tiên phải có Hà
Minh Đức là loại “chung chung gian gian”. Rồi lấy Ng Đăng mạnh để cân đối với
Hà Mình Đức. Rồi để thêm bảo thủ, phải có Phan Hồng Giang (có vẻ biết điều hơn,
và chắc chắn là khôn ngoan hơn, so với loại cấp tiến như Lại Nguyên Ân). Phải
cân nhắc nhiều, là Nguyễn Văn Hạnh. Có đáng ngại không? Đáng ngại đấy! Thế là
Nguyễn Khải xung phong vào, để tôi vào, tôi đối trọng với ông Hạnh, ông Nguyễn
Khải nói.

     Nghe
tin có Nguyễn Khải trong Hội đồng phê bình, Ngô Thảo chửi um cả lên. Việc gì
lão cũng dây phần thế này, không để chỗ cho ai cả.

   
 Còn tôi, tôi thấy việc đưa PHG  vào là vô lý, vì mươi năm nay, PHG
không viết phê bình gì hết. Vì mải đi dịch cũng có, mà vì khiếp nhược cũng có,
ấy là không kể thực chất PHG luôn luôn chạy theo quan chức.

    Ai đó
kể với tôi  rằng lúc họp Ban chấp hành Hữu Thỉnh đề nghị Phương Lựu nhưng
bị bác đi. Thảo nào mà kỳ này, Ph Lựu cũng chửi Hội đông phê bình rất ác.




      29/1

      Báo Tiền Phong có
bài Trần Xuân Bách nói có vẻ rất rộng rãi mới mẻ.

Đài đọc, TV đọc. Tôi bảo
sao báo Văn nghệ  không đăng đi? Đăng lên trang nhất cơ,
rồi tổ chức thảo luận xem?

      Không.

      Tôi nghĩ đến một tâm lý
văn nghệ, nó đã thành căn bệnh của một thời.

     Khi nào trên chửi mắng,
đánh đập, là ngay lập tức, tát nhau, đánh vào mặt nhau.

     Ngược lại, khi trên mở
rộng cửa, thì tất cả đều ngập ngừng. Cũng muốn ra, nhưng lại sợ những kẻ khác
ra trước mình, nên chành choẹ nhau ngăn cản nhau hơn là lo nhảy ra bàn việc.

     Sáng tai họ, điếc tai
cày
, tâm lý ấy thành bệnh
rồi, trong cái bọn gọi là trí thức văn nghệ.







9/4

Hôm nọ, liếc mắt nhìn
lên Tác phẩm văn học, thấy chỉ có ông Thi ngồi một mình. Trong
cơn thất thế cụ đã chạy đôn chạy đáo, mà vẫn chẳng thấy chỗ nào gọi đi làm
việc. Đâu xin cả làm đại sứ ở Pháp, nhưng không được.

Mẹo của Thi xưa nay, vẫn
là khi thất thế, thì về cố thủ một tờ báo, từ đó mà dấy nghiệp. Nhưng lần này
thì nghe chừng ngón võ đó không ăn nữa rồi. Thi xin làm thêm mấy số Tác
phẩm văn học
 - bây giờ gọi là Tác phẩm mới, nhưng chả thấy tờ
báo nổi lên được . Ông Nguyễn Vĩnh ở tổ dịch báo văn nghệ bảo: đấy là kiểu làm
báo của TLVĐ, cổ rồi.




       Không biết phen này
Nguyên Ngọc có nắm được Tác phẩm Văn học hay không đây.

       Ngọc Trai cho biết bọn
Hữu Mai đang tung tin khắp nơi là Ngọc sẽ không phải phó mà là phó chính - của Tác
phẩm Văn học
 đâu.

         Ân cũng bảo bọn
Xuân Thiều, Ngọc Tú muốn báo về tay họ.

Ý của Ngọc Trai là muốn
bảo tôi nên nói điều này với ông Ngọc.

Tôi nghĩ chả dại
 dây vào làm gì!

Ngọc Trai kể:

a/ Cánh bên kia cho
Triều Dương tiếp tục đánh Ngọc vu cho Ngọc là hối lộ lão Khải từ Sài Gòn ra
họp, lấy tiền Văn Nghệ mua vé cho Khải (sự thực là Ngọc làm
theo chỉ thị của Hội. Lại vu cho Ngọc lấy tiền Văn nghệ chữa
nhà.)

b/ Hữu Mai phá hội nghị
phê bình của Hội. Chính ban thư ký ký điện buộc hoãn.

Đúng là không chơi với
cánh quan chức được. Quan chức số một như ông Nam cuối cùng cũng chả được việc
gì, nhìn người chả ai ra ai cả.







       Để có một ý niệm chung
về Hội nhà văn hãy xem việc sau đây.

      Trước khi có Nghị
quyết 8, các nơi phải góp ý kiến với Đảng. Ý kiến khá sắc sảo. Nhiều người bảo
rằng phải viết lại đề cương đi, ai lại viết thế, cổ lỗ như hồi kháng chiến.

Nhưng ông Bùi Hiển thì
trên báo Văn nghệ  trong một số tháng 3/89 phát biểu rằng bản
đề cương này hay lắm rồi, có giá trị lắm rồi, như cương lĩnh vậy.




Vũ Tú Nam và
Nguyên Ngọc vào công tác ở Sài Gòn.  Ý Nhi  kể ông Nam chả dám đi
đâu, chỉ ru rú ở trụ sở TPM. Đi đâu cùng Ngọc, được hoan nghênh, Vũ Tú Nam hiểu
ngay là người ta hoan hộ Ngọc chư không phải hoan hô mình.

Ở Hậu Giang, sau khi
tiếp Vũ Tú Nam một tỉnh uỷ viên bảo với Dạ Ngân: Bọn tao cho mày tiền đi Đại
hội  nhà văn để bầu ra một lão như thế à. Thật phí cả tiền.

Có tin ở Sài Gòn, Nguyễn
Mạnh Tuấn xin ra hội, Vũ Hạnh xin ra hội, và ở ngoài này, V Đ Liên cũng xin ra
hội.

Đúng là phải thế thôi,
người ta biết hy vọng gì ở các cái hội như thế này!

Đâu cả Mai Ngữ cũng xin
ra Hội nữa. Sau khi chửi Nguyễn Huy Thiệp thế, mà người ta vẫn cho Nguyễn Huy
Thiệp vào hội, nên M N cảm thấy bị xúc phạm và đã xin ra hội. Nếu thế thì lại
là tốt.




5/5

Từ tháng 2, Hội đồng phê
bình báo là sẽ có hội nghị phê bình vào cuối tháng 4 và làm ở cả miền Nam nữa.
Ở Đà Lạt.

Rồi thay Đà Lạt bằng Sài
Gòn. Đầu tháng 3, bọn tôi còn nhận được 30 ngàn, do ở trong Sài Gòn gửi ra, để
gửi bài vào.

 Rồi cả Thành phố
Hồ Chí Minh và hội nghị ngoài này cũng hoãn nốt. Ông Trần Trọng Tân điện xuống,
bảo rằng để anh em học Nghị quyết 8 đã, rồi hãy họp.




Trên xiết lại nhiều
việc.

 Trong khi trên thế
giới, người ta ra lệnh cấm nhân viên phát thanh truyền hình, nói chung là các
phương tiện thông tin đại chúng, không được ở trong bất cứ một tổ chức nào, thì
ở Việt Nam, người ta quyết định lập lại Đảng đoàn Hội nhà văn, cùng lúc với
việc lập lại hệ thống chính uỷ trong quân đội, và khôi phục phòng chính trị ở
các trường Đại học.

Một thứ chủ nghĩa Lôi
Phong mà không có Lôi Phong ở đây.

Nghe nói Đảng đoàn mới
được dự kiến sẽ có Anh Đức, Bằng Việt. Họ còn to hơn các uỷ viên ban chấp hành,
dù họ không được bầu vào ban chấp hành.

Có tin trên (?) đã dự
kiến một danh sách các cuốn sách cần phải đánh trong đó đứng hành đầu phải là Ly
thân
 của Trần Mạnh Hảo có thế là cả Những mảnh đời đen trắng của
Nguyễn Quang Lập, cả Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn
Kháng.

Đánh đấm thời nay không
thể hiệu quả như cũ.




Một ngày thứ 7 trong
tháng 4 báo Nhân Dân đăng một bài của Trần Hữu Tòng đại ý “đổi
mới không phải là  để chửi những người đương thời.”

Báo Công an nhân
dân
 có bài của  Đỗ Văn Khang, nhằm tố cáo những Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu Hương, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo là lợi dụng dân chủ.

Nhân ngày 30/4, nghe có
tin Việt kiều ở Mỹ biểu tình trước sứ quán Việt Nam, chửi bới các ông già ù lì,
cố đấm ăn xôi.

Mỹ muốn viện trợ, nhưng
là viện trợ cho nhân dân Việt Nam, chứ không phải cho chính phủ Việt Nam.

Đài Hoa Kỳ, đài BBC nhắc
tới Ly thân của Trần Mạnh Hảo, bênh vực việc nói về cái xấu
trong xã hội. Tôi cho là chất lượng văn học của Ly thân không
tốt lắm, nhưng thôi, cũng được.

        Cuộc đấu tranh sẽ quyết
liệt đến cùng. Trên phải ra tay thôi. Còn như bên này thì cũng không thể quay
lại nữa rồi.




Tạp chí Khoa học
và đời sống
 số 3 có bài của Quang Đạm, chửi Thép Mới, bốc thơm Lê Duẩn
(trong hồi ký cuộc đời) tấn công cả Lê Đức Thọ  (thực chất là quảng cáo
rùm beng cho nhau), nhắc lại rằng trong lịch sử Đảng, còn nhiều điểm bất minh,
như cách viết về vụ chỉnh Đảng trong cuốn lịch sử 50 năm hoạt động của Đảng.

Ở Hội Nhà văn, mọi
chuyện cứ lẳng lặng chả hiểu ra sao cả. Ông Nam trông thấy tôi lờ lờ không nói
gì. Tôi cũng không nói gì.

Trước đây, ông Ngọc nói
là sẽ về tờ Tạp chí Tác phẩm mới. Ngọc còn kể sáng thứ hai
23/4,  Vũ Tú Nam đã gọi Bùi Bình Thi đến, tuyên bố là từ nay, Ngọc nắm.
 

Nay mới biết  trong
khi Ngọc đi Sài Gòn, thì ở ngoài này, bọn nó đảo chính.

Nguyễn Đình Thi bàn giao
cho Ngọc Tú chứ không phải cho Ngọc.  




Có tin là hội đã có trụ
sở mới ở 9 Nguyễn Bỉnh Khiêm

Hôm nay 5/5, Ân có nói
hai câu hóm hỉnh.

 Một là nhân chuyện
Nguyễn Đình Thi được dựng lại vở Con nai đen, Ân buột miệng Con
nai
 bây giờ mới thật đen.

Hai là nghe Ân kể Hội
nhà văn có một trụ sở mới ở 9 Nguyễn Bỉnh Khiêm, cơ quan chưa dọn về, người còn
vắng.

 Một lần Ân đi qua,
thấy có ai viết phấn ở cổng bán xi măng. Về bảo với bà Phương ở văn
phòng, bà Phương giậm chân:

--Thôi chết, hôm qua đã
xoá đi rồi cơ mà. Hôm nay thằng nào nó lại viết lên đấy.

Mình thầm nghĩ, biết đâu
người viết chả dùng mẫy chứ đó để ngầm nói rằng Hội nhà văn là một thứ thành
luỹ của bảo thủ.




17/5

Cuộc học tập Nghị quyết
8 (ra khoảng tháng 4/90) đâu đã bắt đầu từ cuối tháng 4. Ở Hội nhà văn, có 2
người đi họp là Vũ Tú Nam và Hữu Thỉnh. Nghe nói có hai Nghị quyết. Một 8a về
tình hình quốc tế, có cả việc phê phán Liên Xô và Trung Quốc. Một 8b, sự liên
hệ với quần chúng.

Có tin là các tổng biên
tập báo được một mật lệnh. Sẽ không đăng các bài viết của Dương Thu Hương và về
Dương Thu Hương.

Ở Cửa Việt số
2 ông Trần Độ có bài kiên trì trình bày quan niệm của mình về định
hướng rộng
. Lúc này ông vẫn bảo vệ ý kiến ấy. Ông cho rằng việc đọc lá thư
của ông ở Đại hội nhà văn lần thứ tư chả có gì là sai cả.




Nhưng, có tin đồn, rồi
có chuyện xảy ra thật. Ông Nguyễn Văn Hạnh mất chức phó ban văn hoá, trở về làm
chuyên viên nghiên cứu ở Viện Văn học, kiểu như Đỗ Đức Dục trước đây 30 năm.

Còn nhớ hồi ở Liên Xô,
cậu Ph. đã nói bây giờ bọn nó hay dựa vào cái tâm như nước kia dựa vào lập
trường tư tưởng vậy.

Ở Sài Gòn, in ra nhiều
sách cũ trước 1975 và cũng đã có trường hợp bị coi là đi quá đà, ví dụ in Khung
rêu
 của Thuỵ Vũ.




Nhà xuất bản Hội nhà văn
định in lại Túy Hồng (cuốn Bướm khuya) nhưng hỏi CA,  họ bảo
bà này đang ở Mỹ, chửi mình lắm đấy, thông tin vậy đấy, các anh có in thì in.
Thế là thôi.

        Vào lúc này đây, các Nhà
xuất bản đang giành nhau xin in lại Quỳnh Dao. Nhưng chưa Nhà Xuất bản nào được
giấy phép. Có lẽ bọn Bộ Thông tin còn chờ tính xem con mồi nào mập nhất chăng ?

Ân đã nói trong một buổi
họp LLPB:

-- Sách thương mại chính
là đồng minh của sự trì trệ chính trị.

Nhưng mấy thằng bảo thủ
thì lại bảo ngược lại. Không, nó là kết quả của đổi mới đấy, cụ thể là đổi mới
sai, đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ không có chỗ cho loại đó.




      Hôm nay, 11/6 báo 
Nội mới
 có bài phê văn nghệ sĩ là đòi đa nguyên, đòi đánh giá lại
quá  khứ.

      Báo Nhân Dân chủ
nhật ra 10/6 đã có bài Bùi Công Hùng, tấn công vào Trần Độ, vào cái mà họ gọi
là văn chương mạt sát, văn học phá bĩnh.

     Lời lẽ trong đó toàn là
có tính chất dí điện. Đục ngầu những mưu đồ, những ám chỉ. 







     16/6

      Ngày hôm nay, thứ
bảy, báo Nhân Dân có bài của Mai Ngữ trong đó  có cái ý
nói rằng  phê bình văn học ở ta thật nhảm nhí. Hôm qua chỉ một chiều, hôm
nay lại một chiều ngược lại.

     MNgữ nói tiếp phê
bình hôm nay không lừa được ai nữa, cả bạn đọc lẫn các nhà văn, và hôm nay họ
đã trưởng thành. Trong sáng tác, có 2 loại, sáng tác ngược hôm qua và 
sáng tác lâm ly rẻ tiền. Ban chấp hành Hội Nhà văn có bao nhiêu việc phải làm,
tại sao lúc nào cũng đi tổ chức hội thảo.




    Tôi không dễ dàng dứt
khỏi ý nghĩ về con người Mai Ngữ.

    Có phải là khi trong
thiên nhiên mãi mãi tồn tại con gián, con chuột, thì trong loài người – và cả
trong mỗi chúng ta nữa -- cũng có tình trạng như thế. Không hy vọng gì có thể
làm sạch thế giới này hết.




   Báo Nhân Dân 16/6
còn đăng bài phê phán Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn
Quang Lập. Nhân Dân chủ nhật ngày 17/6 có truyện
ngắn Sơn Ca của Mai Ngữ chửi Dương Thu Hương. Lại có bài Phạm
Tường Hạnh tranh cãi với một bài của Thanh Thảo trên Tuổi trẻ chủ
nhật
. Những nhận xét về thời sự văn học của Mai Quốc Liên thì được đăng
trên Văn nghệ.

    Nghĩ lại cũng thấy cám
cảnh: loanh quanh mấy bộ mặt đó. Phạm Tường Hạnh, Mai Quốc Liên, Mai Ngữ, Đỗ
Văn Khang... Chỉ còn Phương Lựu là chưa xuất hiện.

    Bởi vậy, cấp trên
có vẻ vẫn chưa bằng lòng với tình hình phê phán hiện nay. Còn đang muốn tuyển
thêm lính.

      Một người như Trần Bảo Hưng kể:

       -- Một tờ báo lớn đặt tôi đả Đám cưới không có giấy giá thú.
 Nhưng tôi vừa viết bài khen. Vậy thì tôi không thể chê nó
ngay được. Hãy chờ xem đã.



       21/6

     Bùi Việt Sĩ kể,
Nghiêm Thanh ở báo Nhân Dân nói rằng đi đặt người viết về Ly
thân
 của Trần Mạnh Hảo mà mười ngày nay, chưa đặt nổi. Trên Bộ biên
tập doạ: nếu không lấy người khác về làm biên tập vậy. Thế là phải cố đi đặt
nữa.

      Vẫn theo Nghiêm Thanh,
phải trị bằng được cái tam giác quỷ Đám cưới không có giấy giá thú - Những
thiên đường mù - Ly thân
.




    Chi bộ Hội Điện ảnh chưa
họp để kiểm điểm Dương Thu Hương được. Hương chần chừ, mà những người kiểm điểm
cũng không muốn.

    Ở Sài Gòn, chi bộ
của ông Nguyễn Quang Sáng cũng có lệnh phải kiểm điểm Trần Mạnh Hảo, rồi tìm
cách khai trừ Hảo ra. Ông Sáng trả lời công an là chi bộ toàn những bà đánh
máy, nấu cơm, vậy thì khai trừ nhà văn sao được. Theo tôi, các ông cứ lấy gái
mà bẫy nó. Thằng Hảo này cũng hám gái lắm, rồi ra khai trừ nó được ngay.

    Lại có tin có một cuộc
họp ở Hội nhà văn thành phố (hoặc phân hội Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh)
thảo luận chuyện của Hảo. Nguyễn Quang Sáng chủ trì. Mời cả Anh Đức, Nguyễn
Khải, và nhiều người khác. 

    Nhưng Hảo khôn lắm,  lên nó chửi phủ đầu tuốt (kể
cả chửi Anh Đức, nói rằng trong Hòn đất có chi tiết này chi
tiết kia không chịu được). Thế là trong buổi họp Anh Đức im. Chỉ có Khải lên
nói. Khải bảo sách đọc không được, tôi đọc 70 trang phải bỏ (trước đó, hồi đại
hội nhà văn, Khải bảo quyển này chống cộng bằng mấy Dương Thu Hương và Nguyễn
Huy Thiệp). 

    Hảo phản công luôn: Anh không đọc thì anh không có quyền phê
phán. 

   Thế là Khải im. Nguyễn Lộc, Lê Đình Kỵ, theo Mai Liên kể -- lại khen Ly
thân


   Sau việc này Khải có vẻ
buồn.




   3/7

    Đại hội Đảng bộ
Hội Nhà văn.

   Trương Vĩnh Tuấn: anh
Nguyên Ngọc, tại sao lại được như thế? Đảng uỷ phải điều tra.

   Nguyễn Đình Thi: Trước
đại hội nhà văn, và phải kể là từ 1987 Ban văn hoá văn nghệ nêu định
hướng rộng là chỉ đạo sai. Ban can thiệp quá sâu vào Hội. Sử dụng báo, sử dụng
cốt cán, sử dụng quần chúng như hồng vệ binh. Từ lúc ấy, đã lấy Đông Âu làm
mẫu.

    Sau đại hội:

a/ lập đủ thứ hội đồng.
Hội đồng lập ra theo định hướng cũ của Ban văn hoá văn nghệ mà không lấy nhiều
hướng. Nhất là không kiên quyết đưa hội đồng vào định hướng mới.

b/ báo Văn nghệ đăng
những tin có tư tưởng như anh em văn nghệ  phải đùm bọc lẫn nhau.( Chỗ này
ý ông Thi muốn nói tới vụ mấy anh em  chúng tôi định làm một Ban bảo trợ
di sản văn học của Nguyễn Minh Châu – chú thích 11-6-2015).

c/  cũng Văn
nghệ  
có những bài có tranh luận không hay, không cần.

Anh em không tín nhiệm
tờ báo của Hội nữa (dẫn ý anh Mạc Phi).

Ban chấp hành có vẻ đoàn
kết một chiều.  Có những người họp ở chỗ này không nói, nhưng lại đi làm
những việc khác. Bây giờ có hiện tượng không nói gì hết, nhưng lại cứ đi hoạt
động ngược lại.

     Cuộc hội thảo ở thành
phố Hồ Chí Minh không làm là đúng. Cái đáng ngại là người ta lợi dụng.

      

      Một số ý kiến khác.

      Xuân Thiều cho là Nguyên
Ngọc gần với anh em. 

      Đào Vũ:

     -- Nói hội thảo nói
Nguyên Ngọc; nói rao giảng nói Nguyên Ngọc.

     -- Cử Nguyên Ngọc phụ
trách Ban sáng tác - cơ quan đầu não là không nên. Vì Nguyên Ngọc xa 
quan niệm của Đảng.

     Không tán thành việc Ban
kiểm tra của Hội kết luận về Bùi Minh Quốc (có công trong kháng chiến, có công
trong đổi mới, hoạt động của Bùi Minh Quốc là xứng đáng đi họp đại hội) để
chọi lại tỉnh uỷ Lâm Đồng sau đó, chọi lại Đảng.

     Tại sao BCH lại thông qua
việc đó (báo cáo của Xuân Cang).




    Đào Vũ nhấn mạnh không
được  đơn giản việc Nguyên Ngọc.

    Ngoài ra còn tố thêm.

   --Việc Bùi Minh Quốc
không công nhận BCH Hội nhà văn và đề nghị các hội địa phương lập ban
trù bị.


Bùi Minh Quốc đấu tranh
cho dân chủ ngoài tổ chức của Đảng, lấy đủ các loại ý kiến, rồi dùng làm áp
lực.

Tổ chức phải có Đảng
lãnh đạo. Đảng lãnh đạo thì dân chủ.

     -- Ngoài đại hội có vận
động sinh viên, kéo sinh viên đến đại hội.

Việt kiều hỏi Văn nghệ
sĩ có sẵn sàng trở thành lực lượng chống bảo thủ? Có dám dùng phương thức đấu tranh
chính trị tạo ra một số thế lực chống đối?



      Đào Vũ  cũng phê
phán tình trạng họp hành hồi trước. Đảng uỷ tổ chức họp cho anh em nói, rồi mặc
kệ Ban thư ký. Như thế là dân chủ không có lãnh đạo.




     Kim Lân:

    1. Trong chi bộ trong
đảng bộ, anh Ngọc không nghiêm túc. Đến họp chỉ  nghe qua quýt rồi bỏ đi
làm việc. Đại hội hôm nay không đến.

Đây không phải nói về
nhà văn mà đây nói những gì ngoài nhà văn.

Thí dụ việc chuyển thư
của Pháp cho anh Thiệp. Nay mai kiểm điểm sao?

     2. Nhiều  ý của Ng
Ngọc chống lại đường lối của Đảng đánh vào tổ chức liên tục. Không được keo này
bày keo khác. Đứng trước anh em ngồi yên, anh em quay đi lại tiếp tục.



     Trong khi đó, BCH lo
đoàn kết, lo cứng rắn, lo làm thế mất dân chủ... không dám đấu Ngọc.

      Đáng lẽ phải dứt khoát.

    Cái đa nguyên đa đảng
hiện nay đánh vào Đảng mạnh nhất.

    Trong Đảng này nay không
có kỷ luật. Liên tục có những chuyện chống Đảng. Những anh đã đa nguyên đa đảng
thì phải xét lại tư cách Đảng viên.

Những người ở chỗ nào
cũng chửi tại sao ta không làm nghiêm?




      Đào Vũ nói thêm về tổ
chức. Có phải Đảng đoàn là hầu hết lấy từ Ban Chấp hành (cả 9 người), vậy 6
đồng chí BCH quan niệm sao về Đảng đoàn.

Các đảng viên trong BCH
đã vững vàng cả chăng?

     

    Vương Linh: 

     Tôi không
thể chịu được việc Nguyên Ngọc ôm hôn Nguyễn Đình Thi.

12 tên chống BCH lúc ấy
có bàn tay Nguyên Ngọc.

Trong các buổi họp ở chi
bộ hội, anh em rất kêu Nguyên Ngọc.

Hồi chống Mỹ Nguyên Ngọc
đã vừa ôm hôn vừa đâm dao găm vào ta.




      10/7

     Có thêm những tin tức
sau:

    * VNQĐ họp cộng tác
viên. Ông Thi thoạt đầu lên dạy dỗ là phải tin vào mình, phải lấy tình cảm, con
tim của mình làm thước đo chính… Đừng có tin vào ông ốp ép nào cả.

    Nghe nói, Trần Đình Sử
lên bác lại, Sử bảo thời này không thể nói như vậy được.

    Thế là ông Thi lại đứng
lên bào chữa, lại xoay ra chửi Ban văn hoá văn nghệ cũ.

    Lúc bấy giờ, ông không
có vai nhà văn hoá nữa, mà lại tỏ ra là một cán bộ cách mạng từng trải, có kinh
nghiệm.




    * Lại có một cuộc họp
nữa, cuộc họp ở báo Nhân Dân, để báo động về tình hình hiện nay và
động viên mọi người lên tiếng đấu tranh.

     Cái giống nhau của
những  hội nghị này là có chung một số cốt cán: Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn
Lưu, Mai Ngữ v.v..

    Chẳng thấy có thêm ai
gia nhập vào đám ấy nữa.

    Nhưng như thế, cánh cốt
cán ấy tha hồ viết.

    Ví như Bùi Công Hùng,
Hùng viết ở Hà Nội mới (chửi cả Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy), cả Lao
động
, cả Nhân Dân chủ nhật.

   Ví như Nguyễn Văn Lưu.
Lưu có bài chửi âm tính dương tính ở Văn nghệ phụ
san, có bài khen Nam Hà và nhân đó, chửi Nguyễn Huy Thiệp. Nghe nói Lưu còn có
bài bác lại Đỗ Đức Hiểu.




     Có tin Sông
Huơng, Cửa Việt
 bị phê phán dữ, các nơi đó (Tỉnh uỷ Thừa Thiên,
 tỉnh ủy Quảng Trị họp vài ngày liền về các tạp chí đó).

Sử đưa tin là Cửa
Việt
 số 3 đã in xong. Nhưng do cánh Hoàng Phủ Ngọc Tường làm kiểm điểm
chưa tốt, nên chưa được phát hành. Phải kiểm điểm nữa.

     

      Ma Văn Kháng kể với
Nguyễn Phan Hách. Có tin đồn là quyển Đám cưới không có giấy giá thú của
ông ta bị trên truy lắm. Nhưng toàn nhắn nhe, còn chưa ai
chính thức nói với Kháng điều gì cả.

     

      Cái chết của bọn nhà xuất
bản  của Kháng là lúc này họ vừa in cuốn Ác mộng của Ngô
Ngọc Bội. Cuốn sách viết về cải cách ruộng đất, viết "phi nhân" rõ
ràng. Để nguyên cho sách nó ra không sao. Ông Bội lại mang nó, đi in trên Văn
nghệ
, trên Đất Quảng, để thiên hạ đồn ầm cả lên rằng sách lôi
thôi về chính trị đấy.

     Thành thử NXB của Kháng
ở vào thế tiến thoái lưỡng nan: bây giờ mà phát hành ra thì sợ mà không phát
hành thì tiếc. Nhờ trên ban Văn hoá tư tưởng đọc hộ họ đâu có đọc, họ bảo không
biết, thế mới ngán.



     - Dạo này báo chí (cả Nhân
Dân
, cả Quân đội nhân dân) đều có bài chửi Hà Sĩ Phu với bài
 Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ (hình như
đăng ở Sông Hương số 1, bộ mới).

     Trong các bài phê,
người ta không dám đề rõ bài Hà Sĩ Phu đăng ở đâu nữa, vì nói ra lại sợ dân đổ
xô đi đọc, còn đánh thì vẫn cứ đánh. Mỗi bài đánh là một bài đọc thuộc lòng,
nhắc lại kiến thức mà người ta đã dạy nhau ở truờng tuyên huấn.

     Lâu này, cứ tưởng những
đợt đánh phá này chỉ là do bọn thư ký các ông to gây ra.

    Nay không phải như vậy.
Chính các ông to nói rõ tên từng nhà văn ra một, yêu cầu đánh.




     22/7

     Sau cuộc Hội thảo
về phê bình ở Hà Nội, báo Văn nghệ số 29, đăng thông báo của
Ban chấp hành Hội nhà văn điểm tình hình trong đó nhận định rằng: Hội thảo LLPB
có vấn đề.

     Hội thảo bộc lộ hai
khuynh hướng ngược nhau

- đổi mới trên cơ sở nền
văn học cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

- đổi mới trên cơ sở đòi
dân chủ hoá tuyệt đối văn học

mà không thấy chỉ đạo để
phê phán cái sai vốn đã kéo dài lâu nay.




    Báo Nhân Dân cũng
có bài của Lê Xuân Vũ công kích một số luận điểm của cuộc hội thảo về LLPB (Văn
nghệ sau cách mạng chỉ là nối tiếp dòng văn học cách mạng trước 45, là văn học
minh hoạ…)




    Ân kể rằng ông Nguyễn
Kiên nói với Ân.

   - Bây giờ ông Mai nắm
tất cả. Với mấy đồng bạc ở Ban công tác hội viên ông mang chia tiền cho mấy ông
già, thế là tha hồ được các ông già khen.

Với trẻ thì ông ta cho
họ vào Hội, thế là đủ để định nghĩa ông ta tức là Hội rồi. 

    Ngọc Trai còn bảo bây
giờ, Hữu Mai đang lấy lòng mọi người để lúc nào đó, trở thành Tổng thư ký.




    - Việc tặng giải thưởng.
Như ở Hội đồng văn xuôi chẳng hạn, thì Hội đồng đã thử phác ra một danh sách.
Nhưng vừa phác ra với nhau thì đã có người phản đối. Sao lại không có Ông
cố vấn
, sao không có Xuân Thiều, không có Khuất Quang Thuỵ. Rút lại, toàn
thấy kiểu ý kiến giống nhau của một phe nhóm.

    Thế là danh sách đáng
tặng bây giờ lên tới hàng chục.

   Ông Kiên bảo: Nếu loạn
quá, cuối cùng tôi sẽ thôi, không ủng hộ cái gì nữa,  ngoài cuốn Cỏ
lau
.




     Theo cách nói của
 Bùi Việt Sĩ báo Lao Động thì cấp trên cảm thấy có một
tam giác quỷ, mỗi cái thâm độc một đường, phải đánh bằng được.

Ly thân đánh
ta về tư tưởng

Những thiên
đường mù
 đánh ta về lý tưởng

- Đám cưới không có giấy
giá thú
 đánh ta về tổ chức

   Bùi Việt Sĩ nói có một
bài báo rất dài từ trên gửi xuống chửi Đám cưới không có giấy giá thú thậm
tệ, và báo Nhân Dân nhất định sẽ đăng. Sở dĩ người ta căm ghét
Ma Văn Kháng vậy, vì Ma Văn Kháng chửi cán bộ ta là toàn loại mõ, loại ăn mày
cả.




    Tôi nói với Ân:

    Nếu ông Vũ Tú Nam có
lương tri, tự trọng thì không bao giờ thông qua cái bài viết của Hội ở báo Văn
nghệ
 vừa rồi, hoặc sau khi thấy báo đăng ra, phải cải chính.

    Còn nếu ông ấy cũng
 nhận thức như thế, hoặc thấy người ta viết thế cũng phải, thì việc quái
gì chúng mình phải đi báo động thêm cho mệt.

    Ân: việc này chỉ gây
thêm hận thù, chia rẽ.



   Trần Bảo Hưng kể: Các
ông không được nghe ông Thi nói ở Văn nghệ quân đội. Nghĩa là ông ấy ỏn thót:
chúng ta kêu gọi những anh em có sai lầm quay trở về với đường lối của Đảng,
chúng ta hoan nghênh sự nhận thức lại vậy.

    Cứ y như lời lẽ của một
gã kêu gọi chiêu hồi vậy (xúi bỏ người ta từ bỏ chính mình để trở về với những
nguỵ tín)




   Cũng qua cách cắt nghĩa
của Nguyễn Đình Thi, thì dường như đang có một nhóm chống Đảng, nhóm đó do Trần
Độ cầm đầu.


( còn tiếp)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 11, 2015 02:35

June 9, 2015

Nhật ký văn nghệ 1989

Trong hai
năm qua, tôi đã trình ra với bạn đọc những trang ghi chép về đời sống văn nghệ
1987 - 1989. các bạn có thể tìm lạitrên blog này 

    http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013...

   http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013/08/chuyen-van-nghe-ha-noi-nghe-o-moskva_22.html

   http://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/09/buoc-re-ngoat-cua-oi-moi-van-nghe-hai.html

   http://vuongtrinhan.blogspot.com/2014...




         Dưới đây tôi chỉ mạn phép giới thiệu lại
những trang ghi chép 1989, có liên quan đến Đại hội nhà văn VN lần thứ tư. 

         Đời
sống văn nghệ thì phức tạp bản thân tôi chỉ nghe được một ít chuyện, từ nghe
đến ghi còn nhiều rơi vãi. 

        Mặc dù vậy,
tôi cứ trình ra ở đây với hy vọng là thúc
đẩy một tinh thần hồi cố thật tỉ mỉ thật rộng rãi. Xét ở góc độ lịch sử, những
người cầm bút thế hệ tôi trở về trước còn nợ các bạn trẻ hôm nay rất nhiều,
chúng ta cần phải trở đi trở lại với quá khứ thì mới giúp nhau có được cái nhìn sáng rõ
về các sự kiện trước mắt.


  Moskva đầu
1989


   

20/1

Ph,
một nghiên cứu sinh ở “Đôm 5” bảo báo Văn nghệ sở dĩ bây giờ vẫn còn đọc
được, đó là do sự mở ra của Nguyên Ngọc. Nên việc cách chức ông ta vẫn đánh
mạnh vào xu thế dân chủ.

Ph.
vẫn không thích những người hăng hái hôm qua, bây giờ lập tức cộng tác với báo Văn
nghệ
.


dụ ngay lúc này Nguyễn Đăng Mạnh đã cho in ngay bài về Xuân Diệu là không nên.

Cố
nhiên, vẫn Ph. nói, báo Văn nghệ cũng còn đọc được. Có ông Duật làm báo,
thì nó mềm mại hơn ông Phạm Đình Ân hồi trước. Nhưng đúng là phần phê bình đang
trở lại tình hình vớ vẩn, cũ kỹ, bài ông Trần Bạch Đằng, ông Mai Liên chẳng
hạn.




 Báo
Văn nghệ chán đi nhiều. Nhất là phần phê bình. Nhưng bài báo  của
Lê Đình Kỵ Trần Thanh Đạm không ra sao. Phạm Tiến Duật khống chế hậu trường.

 Vậy
mà Ban phụ trách mới vẫn có bài tự khen, tuyên bố báo vẫn chiếm được cảm tình
của đông đảo bạn đọc.




Nghe
nói một tờ báo Sài Gòn điểm lại tình hình năm vừa qua, kể rằng  đây là năm
một số người sống, một số người chết; và có một người dở sống dở chết,
đó là Nguyên Ngọc.

Nguyễn
Khải, hai năm qua (từ Cái thời lãng mạn), không viết được gì. Lại chưa
bao giờ bị chửi bới như lúc này.







 Cuộc
sống ở trong dạng cũ. Người nọ trị người kia. Cánh bảo thủ thắng cánh muốn thay
đổi.

Nhiều
người ra sức bảo vệ ngày hôm qua, vì cho rằng văn học là chuyện riêng của họ,
không ai được ngó tới.

Nguyễn
Duy kêu lên: ối nước Nga ơi!

Nhân
đây nghĩ về đổi mới ở Việt Nam và ở Liên xô. Bên kia còn có những trí thức nổi
lên, và người ta nghĩ đến các tầng lớp trí thức như một chỗ dựa chắc chắn. Còn
ở Việt Nam, chưa có báo chí, và cũng chưa có trí thức.




22/2


 
những nỗi buồn cao đẹp, và những niềm vui đê tiện
-- Ph. nhắc lại một câu
của Nguyễn Đình Thi. Những người như Nguyễn Đình Thi và Chế Lan Viên, Anh Đức
và Đào Vũ, Phan Cự Đệ và Hà Xuân Trường, Bằng Việt và Trần Ninh Hồ, Phạm Tiến
Duật và Đỗ Chu… đang có những niềm vui của họ.  Loại niềm vui nào? Biết
trông đợi vào cái gì bây giờ? Trông đợi có thể hóa giải ở họ chăng, không được.




11/3

  Ông
Linh răn đe báo chí, nói là đang có việc lợi dụng báo chí để chống lại chủ
nghĩa xã hội.




3/4

Bằng
Việt ném ra một câu khinh bạc, ỡm ờ “Bây giờ chỉ ông Ngọc muốn đại hội thôi chứ
chả ai thiết cả”.

      
 Nguyễn Đình Thi khinh người lắm, mới lấy Bùi Bình Thi làm thư ký toà soạn
cho tờ Tác phẩm văn học.




15/4


Đọc
một bài của Bùi Hiển thấy  ông già lẩm cẩm quá. Ngay đến bài của Đỗ Văn
Khang cũng khen. Trong bài, nhiều câu sai ngữ pháp, nhiều chữ vốn là dành riêng
cho chính trị, và khi cần định nghĩa về nghịch lý, thì định nghĩa cũng sai. Khi
người ta phải viết những điều người ta không tin thì sinh ra thế chăng.




1/5

 Trong
Giấc mộng đêm xuân của Mai Ngữ một khao khát chân thành như khao khát
đổi mới bị mang ra xỉ vả, bôi nhọ. Tôi nghĩ đến tâm lý của Mai Ngữ.  Có lẽ
là vì lão tiếc đời. Đời lão cũng khôn ngoan thế, mà vẫn chẳng nên cơm nên cháo
gì, vẫn bị xã hội này cầm tù và làm hỏng, cho nên bây giờ lão tiếc, lão cay cú,
lão muốn cho thối mãi đi, thối nữa đi, không ai ngóc đầu lên được.


thể có một lý do nữa là sau mấy chục năm đi với cách mạng, ở Mai Ngữ cũng lây
lan cái cách nhìn của cách mạng hiện nay, vẫn có một chút tuyên huấn trong
người cho nên, khi thấy cái đó là có lợi cho mình, thì con người cán bộ ấy lại
xuất hiện.

      Sau
hết, chắc chắn, ở Mai Ngữ, con người cơ hội vẫn còn, nên được dịp xổ ra. Đây
đúng là một dịp tái sinh, một dịp cựa quậy cuối cùng, và sự thật là con người
ta bản chất như thế nào thì cái lần cháy lên cuối cùng này hiện ra thành người
như vậy.

Trong
một bài chân dung văn học đăng ở VNQĐ, tôi đã từng nói tới khuôn mặt không hề
thay đổi của Mai Ngữ.  Thời gian không làm cho khuôn mặt ấy già đi nhưng
quả thật, nó đã già đã hỏng từ đầu, không thể hỏng hơn.




18/5

 Định
xin phép sứ quán về Hà Nội dự Đại Hội nhà văn, rồi lại không xin nữa. Lúc đau
quá, tôi nghĩ cái Hội nhà văn ấy, bây giờ gợi ra hình ảnh một đống đổ nát, ở
đó, có những thứ người ta đáng còn dùng được mà đã vứt đi, và toàn bộ thì không
ra hình thù gì nữa.

Đọc
thư Nguyễn Khải gửi Ban chấp hành Hội nhà văn càng thấy như vậy. Khải nhìn mọi
vấn đề chung từ góc độ quyền lợi riêng. Cái chất quan chức nó thấm vào tận
xương tủy. Nũng nịu, điệu bộ đòi người khác phải đặc cách kính trọng mình, khỏi
để mình bị tai vạ.

Khải
không phải người sáng suốt, đến nay nhận định của Khải về Nhân văn Giai phẩm
vẫn là hàm hồ. Và nhiều sự kiện lịch sử từ trước tới nay vẫn được Khải nhìn
nhận dưới con mắt giai cấp. Có lẽ không bao giờ Nguyễn Khải trở nên một nhà văn
có con mắt nhân bản chăng?

...
Hình như xã hội đã làm hỏng các nhà văn, không chừa ai cả, và không một nhà văn
nào hiểu cái cơ chế này đã nhào nặn họ như thế nào.





một số cây bút mới được kết nạp vào Hội. Người được kết nạp cố nhiên là ủng hộ,
cái sự ngăn chặn đổi mới mà họ vu cho là đổ máu rồi. Khái niệm nhà văn trở nên
rẻ rúng. Không bao giờ  lại hình dung những người như mấy ông như X. Y .Z.
cũng là nhà văn.




Dương
Thu Hương đưa ra một nhận định khái quát (trong một lá thư gửi một cậu Đặng
Việt Bảo nào đó):

 -
Đa số anh em ở nhà đều hoang mang

-
Mong rằng thế hệ sau sẽ khá hơn thế hệ này.

Nghe
tin Đại hội mỹ thuật mất một ngày bầu chủ tịch đoàn. Chỉ bầu được có 4  ủy
viên chấp hành. Quân mất chức đâu chỉ vì cái câu chó cứ sủa đoàn người cứ
tiến
(ý muốn nói giữ nguyên cách điều khiển Hội như cũ ). Sau khi họp xong,
Quân đi viện.




1/7

 Thanh
Quế kể (Trần Đình Nam thuật lại):

-- Ở
Hà Nội bây giờ đến Hội Nhà văn, thằng nào cũng sẵn sàng mời mình chén trà, chén
cà phê, để nói xấu những thằng khác.

--
Làm báo như Hoàng Minh Châu thực khổ. Cái gì thằng Thỉnh nó cũng có ý kiến. Nó
là Phái viên của Ban chấp hành cơ mà. Ông Thi đã khéo chọn được người của mình.
Ấy, nó chỉ đạo mọi thứ thế, nhưng ký thì Hoàng Minh Châu phải ký, tức phải chịu
trách nhiệm.

 Cả
ông Thi, ông Chính Hữu phải lo làm báo. Chỉ có tờ báo là chỗ tranh luận. 
Duật, Hồ đang là 2 con ngựa khỏe. Đâu NgĐThi định đưa Duật lên làm Phó tổng
biên tập, nhưng Hồ phản đối. Bên Tác phẩm văn học, Bùi Bình Thi cũng có
thể lên phó tổng biên tập nữa.




Cảm
tưởng của tôi về xã hội, về văn học: một cái gì  yếu ớt, nhạt nhẽo, mà bên
ngoài dơ dáy, nhếch nhác.

Người
nói lên tiếng nói cộng đồng trong lúc này là ai? Là Nguyễn Huy Thiệp, một thứ
con hoang, dị dạng. Nhưng còn là chính lão Đỗ Văn Khang, bạ cái gì cũng dở
giọng bàn góp lý sự cùn, nói lấy được. Văn học là ông Khải muốn thay đổi mà lại
muốn giữ nguyên các giá trị như ngày hôm qua. Là ông Lê Lựu viết những quyển
sách rất hay, bằng thứ văn rất dở, như cho người ta ăn thứ cơm tám thơm đầy
sạn, mà bát đũa thì nhơ nhớp.




12/8

Tôi
đọc một vài bài tiểu luận về tình hình văn học gần đây, và thử hình dung ra
khuôn mặt một số người.

-
 Vũ Tú Nam, một thứ chủ nghĩa bảo thủ dịu dàng, chừng mực, nhưng bảo thủ
tận trong xương tủy. Ta đã XHCN sẵn rồi, chỉ cần thêm XHCN  chút nữa mà
thôi. Ta kết hợp cả hôm qua và hôm nay. Ta có nhân dân, có đất nước. Làm như ông,
chỉ đẻ ra một nền văn chương nhạt nhẽo.

-
Ngô Văn Phú với bài Sự nghiệp văn chương trên báo Nhân Dân rõ ra
vẻ một ông nông dân, luôn luôn tự hào, ta chẳng đổi thay gì, xưa nay, ta vẫn là
ta, chớ có suy nghĩ gì, làm là được. Chúng tôi là những người lao động, tôi nắm
chân lý. Một thứ hãnh tiến của một đầu óc cấp huyện!

-
 Nguyễn Kiên, có vẻ nhìn xa hơn một chút và hiểu rằng , có những cái mới,
nhưng cũng không đủ sức thay đổi.

- Ma
Văn Kháng, trải đời rồi, hết hy vọng rồi, chỉ còn tin vào chính mình. Và một
câu thầm reo trong lòng rồi hoàn cảnh nào, ta cũng sống được.




Hà Nội cuối
1989





16/10

 Chuẩn bị đại hội. Còn có việc
gì quan trọng hơn thế nữa , lúc này?

LN Ân không biết lấy ở đâu ra một
danh sách.

Những người không nên đưa vào ban thư ký (Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm);

        
những người không nên đưa vào ban chấp hành mới
(Nguyễn Kiên, Giang Nam....);

       
những người nên đưa vào, họ lại đều là Ban chấp hành cũ ( PCĐệ, Xuân
Trường.,..)




Trần Đăng Khoa, từ lúc ở Moskva, đã
kể với tôi về 3 loại người không được đưa vào Ban chấp hành: loại phủ nhận,
loại công nhận có 2 thứ bá quyền, loại gây mất đoàn kết.

 Ai đã đưa ra những tin đồn
này? Có khi là cấp trên không biết chừng.




17/10

Thay đổi lớn nhất ở Hà Nội mà ở
Moskva tôi không biết —  đã có một Nghị quyết mới về Văn nghệ lật ngược
tình thế. Gọi là Nghị quyết 7.




Chiến tuyến  tập trung cả  ở báo Văn Nghệ.

Báo đăng bài tường thuật cuộc họp
mặt ở Sài Gòn trước đây ít ngày, nhằm tuyên truyền cho Đại Hội theo hướng BCH
hiện nay. Bàì viết đơn giản hơn nhiều so với thực tế. Nghe nói Triều Dương được
giao sứ mệnh vào tổ chức.

Nguyễn Duy là chi nhánh trưởng của
báo ở Sài Gòn, nhưng không được biết gì cả. Bọn Nguyễn Quang Sáng, Lý Văn Sâm,
Vũ Hạnh, Sơn Nam không dự (được giới thiệu là bận công tác không đến được).

         Nghe Trần Hữu Tá viết thư ra cho Ng Đ
Mạnh nói rằng người ta, -- những người đứng đắn ở trong đó, dân Sài Gòn cũ, -
cũng thấy kinh hãi về các trí thức xã hội chủ nghĩa, M Liên, Tr Th Đạm v.v..

       Lê Trí Viễn gọi đó là văn chương chỉ
điểm. “ Đội hành quyết” thì  gồm có Anh Đức, Phạm Tường Hạnh v.v..

Lúc đó Nguyễn Khải đang ở Sài Gòn.
Trong buổi họp đó, Khải dự nửa chừng rồi bỏ về.

Nhưng báo Văn nghệ số 40,
đăng một bài phát biểu của Nguyễn Khải, có mấy ý quan trọng:

--mọi tội là của lãnh đạo (Nh: ý nói
ông Trần Độ).

--Văn học không thể làm mất lòng tin
của con người. Đổi mới phải từ từ.

-- Nhà văn không ai bị thiệt trong
đổi mới, nên có ai bảo thủ đâu... Không nên chê các bậc đàn anh. Các anh ấy đã
rất vất vả trong việc xây dựng Hội. Có ai được hưởng quyền lợi gì lắm. Cho nên
đừng có tấn công họ.

Ai có thể tưởng tượng đến lúc này,
Nguyễn Khải còn nói như vậy.




Hôm nay thấy Nguyễn Khải đang đi xe
đạp trên đường Lý Nam Đế, dáng béo phị, khệnh khạng, tôi cúi mặt không dám chào
ông nữa. Có cảm tưởng là mất thật rồi, cái con người mà mình xưa nay kính
trọng, yêu mến, đôi khi thần tượng hóa nữa. Nay thì tình yêu đó đã hết, tôi chẳng còn gì để nói với Nguyễn Khải
nữa, ngoài sự chán ngán mà tôi phải giấu kín không thể hiện.




 Võ Văn Trực sang nhà tôi chơi,
kể chuyện. Chán báo Văn Nghệ lắm. Bọn Duật thao túng tờ báo, số nào Duật
cũng có bài. Vì Duật lại phụ trách phần lý luận và thời sự, tức là điểm mũi
nhọn của báo (ở Moskva, Nguyễn Kiên kể rằng bây giờ, bị người ta ghét nhất, có
lẽ là Phạm Tiến Duật).

Một lần Duật làm một trò rất nhọ.
Họp công tác viên, để “quán triệt Nghị quyết 7”. Mời đâu 30, mà chỉ có 13 người
đi; toà soạn phải huy động ngồi vào đấy cho đủ chỗ. Lần sau, mời 20, đi có 4,
rồi xuống nhà thấy có 2 người nữa là 6.

Chả mấy ai nói chuyện gì tử tế cả.

Nhưng cũng có người như Phong Lê,
rất căng. Các anh đừng có áp đặt chúng tôi về người nọ người kia...

 Nguyễn Đăng Mạnh bảo vào tai
tôi, Phong Lê còn đang múa máy đấy thôi. Nhưng trên cho người của nó đến, nó
bảo mấy câu là lại co vòi ngay.

 Có một bài viết giọng chỉ đạo
ký Tr P Lộc .Tôi hỏi Võ Văn Trực,  Tr PLộc là ai ? Trực bảo không biết. Cả
báo Văn nghệ chỉ có ba người biết là Hữu Thỉnh, Hoàng Minh Châu và Duật.
Và 3 người đó giữ được bí mật.




Trực kêu không hiểu sao ông Thi ông
ấy lại đi dùng những Duật, Bùi Bình Thi.




Ân nói về bài Khải (Văn nghệ
số 41), không hiểu sao, Khải bây giờ còn cần gì nữa, mà vẫn muốn lấy lòng bọn
Nguyễn Đình Thi. Tôi nghĩ Khải là vậy, phù thịnh, ai lên thì theo. Vì biết rằng
phe của Thi sẽ toàn thắng, nên chịu thua ngay từ bây giờ là xong.

Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về
Thi.

-- Về học vấn, kiến thức, có thể chê
điều nọ điều kia. Chứ về ứng xử trong chính trị thì tuyệt. Với văn nghệ, đó là
một đao phủ thủ có bàn tay nhung.




Đại hội nhà báo, bầu ra một ban thư
ký mới, trong đó có Kim Hạnh. Cô Hà thư viện bảo, Hội nhà văn nghe tin này
chẳng thú vị gì. Đến cả ông Phạm Hổ cũng khó chịu.




22/10

 Hình như thực chất của Đại hội
là cấp trên thì muốn xiết văn nghệ lại và ở dưới thì  bên cạnh một bọn
hoan hô việc riết lại đó để kiếm chác, một bọn muốn tiếp tục giẫy ra như năm
ngoái năm kia.

Nhưng cấp trên là ai ?

Nghe dân Văn nghệ quân đội
 kể, trong cuộc họp về Nghị quyết 7, ông Nguyễn Nam Khánh chửi bới Nguyễn
Khắc Viện ghê gớm. Đó là con một viên thượng thư từng đàn áp Xô viết Nghệ
Tĩnh đã sang học bên Pháp, nay lại trở về, dạy không chúng ta về Xã hội chủ
nghĩa.


(Nói chung, các nhà lãnh đạo cỡ này,
giọng lưỡi có khác nhau mấy tý).




Nhưng ông Nam Khánh chẳng qua nói
lại lời ông Linh.

Lại nhớ cái lần ông Khải bảo chúng
ta có một ông Tổng bí thư tuyệt với, một Tổng bí thư không nói chuyện cao siêu
mà toàn bàn chuyện cụ thể.

Lại nhớ cái lần Ân viết ngay trong
thư riêng (tức là những ý nghĩ tự nguyện của Ân) Văn nghệ đang đi ngược
lại tinh thần Nghị quyết Đại hội VI...

Chúng ta chưa hiểu cấp trên, cái đó
một phần. Nhưng đáng sợ là cấp trên hay thay đổi.

Nguyễn Đăng Mạnh diễn tả khá hay về
chuyện này:

- Lúc đầu mình tưởng bản chất của
chủ nghĩa xã hội là dân chủ, và làm như vừa rồi là sai, nên mới đề nghị thay
đổi. Còn nay, thì đã hiểu. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ rồi,
còn gì phải nói nữa.




Nhưng bên chính trị cũng có những
chuyện phức tạp của nó. Có một nhân vật mới nổi là Trần Xuân Bách. Trước kia
chửi NVL (Đổi mới là gì, là NVL cộng với mười nhà báo), nay lại cười
giễu việc Việt Nam lo lắng về Ba Lan. Và cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có 2 khả
năng, một là mở rộng dân chủ như Đông Âu, hai là đàn áp như Trung Quốc. Nghe
nói bên trên có một cánh muốn đi với Mỹ, một cánh muốn kiên trì kiểu cũ, hai
bên xung đột với nhau.

Thế thì còn biết đằng mù nào mà lần!

Trở lại chuyện Đại hội. Phe Nguyễn
Đình Thi làm việc ráo riết. Mai Liên ở Sài Gòn ra bảo đã chuẩn bị rồi, loại như
Ngô Thảo mà lên diễn đàn, thì sẽ có ai đáp lại.

Ân đưa tin là không biết chừng, Xuân
Trường lại muốn làm Tổng thư ký hội, và trên lại sẵn sàng giới thiệu (cũng như
Hồng Chương cuối đời về làm báo. H X Trường đã 66 rồi, còn việc gì sang trọng
hơn về nắm Hội nữa).

Rồi Ân kể rằng nghe tin này, Ma Văn
Kháng bảo không thể thế được, phải xáp vô.




 28/10

Chuẩn bị Đại hội Nhà văn, ngày 23 và
24 học Nghị quyết.

Ngày 25 và nửa ngày 26 nghe ông Hai
Tân nói chuyện. Thấy mừng vì Trưởng ban mới không ra mặt áp đặt lắm. Ông kể là
ta không muốn mà phải rút quân Campuchia. Vậy Đảng ta sẽ chấp nhận mọi diễn
biến thực tế.

Bắt đầu có những ý kiến đề xuất việc
này việc nọ. Cao Tiến Lê đề nghị Ban chấp hành có kiểm điểm. Trần Mạnh Hảo than
thở, thân phận văn nghệ bị nghi ngờ quá. Thùy Mai đọc thư đề nghị xét lại
trường hợp Bùi Minh Quốc.




Ngày 26, thảo luận quy chế đại hội,
bầu chủ tịch đoàn. Tô Hoài lai rai, đòi ở chủ tịch đoàn bị Phan Hồng Giang tố
cáo là sắp đi Le Caire, đừng có đòi chủ tịch  đoàn nữa.

 Gạt được Tô Hoài, Phan Tứ đưa
được Lê Minh, Ý Nhi, Cao Tiến Lê vào (một chỗ của Lê Giang).

Bắt đầu những chất vấn ở đại hội.
Phạm Tường Hạnh chất vấn Sông Hương, Tô Nhuận Vỹ trả lời v.v..

Thái Bá Lợi chất vấn báo Văn Nghệ
Trần Phú Lộc là ai, là Trần Trọng Tân hay sao v.v..

Ngày 27, bắt đầu đề cử người vào
chấp hành. Sau đó cãi nhau tiếp. Nhiều người bênh Bùi Minh Quốc.

Sự kiện quan trọng buổi chiều 27:
đọc thư của Trần Độ, đánh giá công tác của ban Văn hoá văn nghệ tham gia vừa
qua.

 Đại ý sau Đại hội 6, tôi (Trần
Độ ) đã mang suy nghĩ nhiều về Văn hoá, thấy văn hoá là quan trọng đã suy nghĩ
về trí thức, chắc rõ ta có trí thức tốt, phải giúp họ phát huy sức mạnh giúp
Đảng đưa xã hội tiến lên.Thấy rõ ngoài phần chung của Đảng, của nhà nước, có
phần riêng của mỗi người. Lãnh đạo chỉ nên định hướng rộng, và để nhân dân tự
do chọn món ăn.

Trần Độ tự nhận mình là nông dân là
tiểu trí thức nông thôn, phải học hỏi thêm. Trong thái độ với trí thức, mình có
lúc có thô bạo, nhưng tấm lòng thì vẫn là kính trọng.

... Lá thư 21 trang của Trần Độ được
Nguyễn Văn Hạnh đọc rất đĩnh đạc. Nhiều đoạn vỗ tay. Và sau cùng, vỗ tay kéo
dài. Tôi nói với Nguyễn Đăng Mạnh, ông Độ có tư tưởng độc lập, tuy vẫn là người
cộng sản chân thành.

(Trần Độ có nói “những ý tưởng của
tôi còn đang là thiểu số nhưng ta sẽ chiến thắng”).

Mạnh bảo ông Độ chịu đọc lắm nên
đáng trọng lắm.

Sau khi đọc lá thư, Nguyễn Văn Hạnh bốc
lên, nói rằng mình chia sẻ với mọi tư tưởng của Trần Độ. Rằng những ý tưởng của
Trần Độ cần được suy nghĩ. Nguyễn Văn  Hạnh tỏ ý tin tưởng ở đổi mới, ở
đại hội nhà văn lần này. Ông còn nói qua mấy ngày chuẩn bị đại hội, thấy rất
đáng mừng. Đây là sự thức tỉnh của lương tri dân tộc.




Gặp nhau sáng 26, 27,  nhiều
người đã rất mừng, rõ ràng đại hội kỳ này dân chủ phe cấp tiến thăng phe bảo
thủ.Thanh Thảo bảo quân ta đã đến Phan Rang rồi. Phải cẩn thận, nhưng nghe đâu,
phe địch đã được lệnh tuỳ nghi di tản.

Tối 26, có buổi nói chuyện về Nguyễn
Huy Thiệp ở Thư viện Hà Nội. Phe cấp tiến nhiều nhà văn tới dự. Ý Nhi loan báo
đại hội rất đáng mừng, rằng chúng tôi sẽ tính lại chuyện anh Nguyên Ngọc,
chuyện Bùi Minh Quốc v.v..

...Nhưng đến sáng 28/10, đúng ngày
Đại Hội khai mạc thì tình hình lại ra chiều ngược lại.

 Đầu tiên là nghe nói đêm hôm
trước có buổi hợp Ban bí thư với các đảng viên trong chủ tịch đoàn + các đảng
viên trong Ban chấp hành khoá cũ.

Đến trưa thì nghe Hữu Thỉnh nói là
sẽ có Hội nghị Đảng viên vào ngày

29/10.




[4/11]

Thì ra tình hình thế này:

Từ mấy hôm trước, bọn Duật, Đỗ Chu,
Đào Vũ... đã lên trên kêu là Đại hội hỏng rồi.

Ban bí thư gặp Ban chấp hành và Chủ
tịch Đoàn (chỉ ai là Đảng viên), ở đó mẹ Tú và mẹ Thường kêu la đủ chuyện.

Thậm chí ông Tân (đúng không?) phê
phán Nguyễn Khoa Điềm. Tại sao ở Hội nghị Ban chấp hành đã đồng ý theo thể thức
Đại hội bầu ban chấp hành, rồi chấp hành bầu Tổng thư ký, đến Đại hội
này lại theo ý kiến anh em, bầu Tổng thư ký trực tiếp.

Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc phải
bênh, không, ra hội nghị thấy anh em nói có lý, nên mới làm như vậy.

 Nhưng điều quan trọng nhất, là
lá thư ông Độ đã truyền bá một quan niệm khác quan niệm của Nghị quyết 7, cho
nên các ông rất không bằng lòng.

Trong số những người đến dự khai
mạc, có ông Sáu Thọ. Nghe nói ông quát hỏi Nguyễn Văn Hạnh.

 “Tại sao anh đọc thư Trần Độ”

 “ Có nhiều người đề
nghị......”

“Tại sao lại bầu Tổng thư ký trực
tiếp”

 “ Anh nên tin ở anh em”.

Hội nghị đảng viên sáng 29/10 là để
đối phó lại với lá thư ông Trần Độ là chính. Ông ĐDTùng phân tích là lá thư đó
đã hình thành ra sao, ông Độ chỗ nào được, chỗ nào chưa được v.v..

Giá kể hồi trước, có cáo già Tố Hữu
thì tình hình đã quay ngoắt lại ngay. Nhưng nay là các ông chính trị chay, nên
họ cũng e dè hơn. Họ chỉ sợ giới  nhà văn nghe ông Độ hơn nghe các đại
diện chính thức của Đảng.

Trên nói ra miệng là không áp đặt
gì. Những người thuộc giới văn nghệ phát biểu cũng không muốn trên áp đặt.

Huy Phương nói rằng mất đoàn kết là
ở Ban chấp hành cũ. Là do bộ máy lãnh đạo cũ tha hoá, trở thành trung gian
không đáng tin cậy.

 Phong Lê – người xưa nay vốn
rất cứng  -- lại lên tiếng tố cáo bài viết của Anh Đức trên báo Nhân
Dân
và một số bài của những người khác, trên báo Văn Nghệ, là có ác
ý, báo động giả.

        Nông Quốc Chấn thì cho là...không
bình thường và hình như Đại hội được tiến hành để tấn công Ban Chấp hành cũ.

 Nguyễn Đình Thi muốn đẩy quả
bóng lên trên, xin Ban Bí thư có gợi ý. Ông bảo nói như anh Hạnh là không được,
phải nói toàn diện, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thức tỉnh.

Ông Bổng xin lên phát biểu cuối
cùng. Ông bảo Đảng có thể yên tâm vì đây là anh em chiến đấu về cả. Đảng hay
nói anh em là tốt, nhưng đừng bao giờ để anh em lại hiểu rằng nói vậy thôi, còn
bên trong, Đảng vẫn nghĩ khác.

Không, anh em tốt thật, nếu anh em
có chút băn khoăn về Chủ nghĩa xã hội băn khoăn về Đảng, thì đấy cũng là chuyện
bình thường.

Hình như các đồng chí quá lo về
chuyện bầu Tổng thư ký. Nhưng Tổng thư ký bầu ra có sai nữa, thì còn có chi bộ
Hội nhà văn, còn có Đảng bộ, còn có khối Tư Tưởng Văn hóa, còn có Thành uỷ, còn
có Ban chấp hành TW… Có gì mà các đồng chí phải ngại.

Ông Bổng nói rất hay và anh em hoan
nghênh.




Sau đó, Đại hội lại diễn ra bình
thường.

Kể từ ngày trù bị, cho tới ngày Đại
hội, có thể chia làm 2 phái. Phái diều hâu, mà hàng đầu là Anh Đức, Phạm Tường
Hạnh, MQLiên, và số đông anh em VNQĐ, được Nguyễn Đình Thi ủng hộ. Lập luận của
họ là vừa rồi ta đã sai, đã làm bậy nhiều. Phải trở về với Nghị quyết 7 ngay
lập tức. “Đấy là cái đang cần cho chúng ta”.

Phạm Tường Hạnh chửi Trần Độ, tố cáo
Sông Hương (bảo là Sông Hương không có bài về Sinh nhật HCT, về
Chế Lan Viên...)

Một chi tiết bất ngờ. Người ta nói
rằng nhờ có Phạm Tường Hạnh khiêu khích thế mà bức thư ông Độ mới được công bố.




Mai Ngữ hiện ra thật kinh khủng. Ông
ta vào chuyện: Người ta nói tới chuyện vụ án. Tôi biết có những vụ án kinh
khủng hơn.

 Năm 76, Hội đang hoạt động
bình thường tự nhiên lập ra Đảng Đoàn, với ông bí thư hách dịch chỉ thích đi
nước ngoài. Từ đó, Tổng thư ký cũ chỉ còn là cái bóng thui thủi...

Rồi đến vụ báo Văn Nghệ, vẫn
con ngựa ấy với người đánh xe ấy. (Trần Độ và Nguyên Ngọc).

Rồi những ngày vừa rồi. Ban Văn hóa
văn nghệ tập hợp tuy - ô của mình, đi gặp đồng chí Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh. Ban văn hoá văn nghệ  đưa ra Ban trù bị, định vô hiệu hoá Ban
chấp hành cũ.

Nhưng tất cả lại đầy tội lỗi, lại
tan nát.

Nghe anh em nói, lúc Mai Ngữ đọc, đã
có nhiều tiếng ở dưới hội trường vọng lên: Đồ chỉ điểm...Đồ chống Đảng. Đọc
xong ông ta đờ đẫn đứng bên cạnh mi - crô, không biết đi về đâu. Nghe
tiếng hét của mọi người, mặt mũi ông ta xám ngoét đi. Ai đó nói rằng bấy giờ
ông ta giống như một tên chiêu hồi, sau khi khai báo xong, tự nhiên sinh ra sợ
hãi thất thần.




Nguyễn Văn Bổng bình luận: Ai nói
những điều xấu xa thì tự người đó xấu thôi.

Sự phản công lại của phái nghịch
cũng không lấy gì làm đẹp lắm. Thu Bồn, Nguyễn Duy nói dông dài không vào vấn
đề. Dương Thu Hương quá cảm động (hay bản chất Hương là vậy), nên nói không
hay. Và chẳng những vậy, vấn đề Hương bàn cũng quá rộng không thích hợp với
không khí đang giằng co nhau.

Có nhiều sự ngẫu nhiên. Hoàng Quốc
Hải nói gãy gọn về một số yêu cầu pháp luật. Mã A Lềnh đề nghị biểu quyết về
quyết nghị của Ban chấp hành cũ.

Có lúc tôi nghĩ thật tự hào về anh
em mình.

Nhưng đấy là những khi nghe phát
biểu.

Đến lúc đi vào công tác tổ chức thì
các lực lượng cấp tiến rời rã thất bại.

Nghị quyết cũ về Báo Văn nghệ
không bị bác, người ta đã mệt không ai muốn tranh cãi nữa.

 Bầu cử.

Ngay từ đầu, Hữu Thỉnh đã trúng số
phiếu cao (dù rất nhiều ý kiến phê phán báo Văn nghệ và Thỉnh ngậm miệng
ăn tiền, nhất định không thò ra nhận lỗi).

 Ông Chính Hữu bảo rút không
rút.

Nhất là Nguyễn Khải lì lợm, đợi đến
vòng 2 cũng đợi, không chịu rút. Ai đó bảo mồm Nguyễn Khải bây giờ như đít vịt
ấy mà...

Sở dĩ vậy, vì Nguyễn Khải mấy lần
nói với chung quanh là nhất định phen này lão sẽ rút.

Cuộc đời có gì phiền muộn hơn mình
nghĩ. Cuộc đời có gì thật vớ vẩn. Mà cũng đúng thôi! Lúc đổi mới là như vậy.

Rút cục, ai muốn cái gì được cái ấy.

Phe cũ được quyền lực.  

 Phe mới được nói.

Sau đại hội, nhiều người vẫn có thể
ngẩng mặt lên mà chửi bọn cơ hội, thế là được lắm rồi. Họ đâu biết rằng ngày
mai sẽ khác.




11/11

Đến cơ quan, nghe được một vài mẩu
chuyện người ta nói chung quanh Đại Hội mà mình không biết.

 Vũ Bảo nhớ lại Đại hội 1983
thật là mất dân chủ. Chúng tôi muốn họp đại hội toàn thể. Anh Hoàng Tùng mắng
chúng tôi nhà văn không thể nói ngược. Tôi đáp lại không, chúng tôi nói xuôi,
viết xuôi. Chúng tôi không phải là người ca Liên Xô rồi chửi Liên Xô, ca Trung
Quốc rồi lại chửi Trung Quốc...May mà Đại hội này đã khác.




Cuộc đổi mới, bắt đầu từ lúc bầu Chủ
tịch Đoàn. Cao Tiến Lê bảo nếu có thời gian có thể viết được quyển sách 200
trang về Chủ tịch Đoàn. Mụ Lê Minh và mụ Ý Nhi cái gì cũng có ý kiến, cái gì
không thích thì bỏ ra, nghe được thằng nào xui mấy câu, lại vào lại đòi. Lê
Minh dám gọi mấy ông Trung Ương là thằng, còn sợ ai nữa.

Ý Nhi kể, lúc bàn để thông qua Nghị
quyết về việc mỗi ứng viên ban chấp hành chỉ được 2 khoá, Nguyễn Đình Thi bảo:

-- Nhỡ có những nhà văn làm vinh
dự  cho uy tín dân tộc

Ý Nhi :

-- Không, hãy ra cái đã. Bây giờ
chưa có nhà văn loại đó đâu, mà chỉ có những nhà văn làm ô nhục cho uy tín dân
tộc thôi.

Ông Thi im.

Lại như khi bàn về bản tuyên bố cuối
cùng của Đại hội, trong đó có việc đánh giá Bản báo cáo của Ban chấp hành. Lê
Minh nói rằng bản báo cáo là không chính xác, và Ý Nhi bảo là không trung thực.
Nguyễn Đình Thi đỏ mặt lên vì làm vậy là xúc phạm đến ông ta, xúc phạm tài năng
của một người có tiếng là viết báo cáo giỏi từ xưa tới nay.




Ông Trần Bạch Đằng có lần ra mặt đàn
anh. Anh Thi phải bình tĩnh mới được. Anh có thể ra ngoài 5 phút để nghĩ. Mỗi
người trong chủ tịch đoàn có thể đề nghị một phương án của mình nên có một
tuyên bố như thế nào.

 Rõ ra Trần Bạch Đằng tỏ ý xoa
đầu Nguyễn Đình Thi.

Đỗ Chu đi khắp nơi xin phiếu. Anh
cho em một phiếu. Này, nhớ thêm cho thằng này một phiếu nhé. Chu lại còn đi viết
hộ các cụ và cứ thế, để lại tên mình, tất nhiên.

Đỗ Chu lúc nào cũng tất bật xông ra
với mọi người, muốn hô hoán một điều gì đó với mọi người.

Năm ngoái, Chu từ Bắc Ninh ra ở ngay
trong cơ quan Văn nghệ quân đội, đi tham gia vào vụ đánh dẹp
Nguyên Ngọc, nói Nguyên Ngọc không ra gì.

Năm nay, sau khi Đại hội bầu ra Ban
chấp hành mới, cùng với việc Triều Dương đến chúc mừng Nguyên Ngọc, lại thấy Đỗ
Chu mời Nguyên Ngọc uống bia.




Nghe người ta kể trước lúc ra họp,
Anh Đức đã chuẩn bị làm Tổng thư ký. Đã có diễn văn nhậm chức. Trong khi 
Trần Mạnh Hảo chuẩn bị quần áo để đi tù (vì quyển Ly thân), thì Anh Đức
chuẩn bị quần áo để nhậm chức Tổng thư ký và sẽ ở lại Hà Nội sắp xếp công việc.

Trước khi ra Bắc họp Anh Đức mở tiệc
khao quân ở nhà mình. Trên máy bay, Anh Đức còn hỏi Nguyễn Khải:

-- Ông thấy tôi nên chọn ai làm phó,
Vũ Tú Nam hay Bằng Việt?

Xuân Tùng cung cấp một chi tiết:
Trong thời gian họp, Anh Đức viết cho Ngọc Tú (trong Ban Tổ chức Đại hội) mảnh
giấy, chị sắp xếp cho tôi, anh Bảo Định Giang, anh Phạm Tường Hạnh, Mai
 Liên chúng tôi phải ngồi cạnh nhau để tiện sắp xếp công việc.

Rồi Anh Đức thực hiện đúng như vậy.
Cánh Anh Đức luôn tách ra, ngay khi cả vào nhà ăn. Nhưng anh em họ cũng cho đám
thầy trò này những vố khá đau. Có trưa, thấy mâm Anh Đức còn thiếu người,
 anh em họ vẫn lảng, họ không đến gần. Nhà ăn khá đông, vậy mà thày trò cứ
ngồi trơ ra đấy, chờ người cho đủ mâm. Mấy bữa sau, một người trong bọn phải
báo cháo.
















Ai đó kể, Anh Đức với mấy người cùng
đám lên gặp ông Linh. Ông Linh (hay bọn giúp việc) không cho gặp. Anh Đức cằn
nhằn rằng ở Sài Gòn tôi muốn gặp ai, muốn lúc nào cũng được.

Lại lên gặp ông Phạm Văn Đồng. Nhưng
đang đi bộ trong trong vườn, thấy bọn Anh Đức từ xa, ông Đồng đã xua,ý bảo về
mà giải quyết việc với nhau.

Có bao giờ những điều trong hậu
trường này được viết ra?

Dạo này anh em hay kể về nhật ký
Nguyễn Huy Tưởng. Ở một Đại hội nào đó, ông Tưởng đã ghi “Cụ Hồ đến, Công an
nhan nhản” “ Cụ Hồ lại đọc một bài thơ nhạt thếch! “

Trong Đại hội lần này, anh em kể
dưới gầm bàn chủ tịch đoàn có đặt máy thu. Phòng họp chủ tịch đoàn cũng có máy
thu, Chủ tịch Đoàn nói gì thu vào đấy hết.

Vậy mà có nhiều chuyện rất liều. Cao
Tiến Lê kể Ý Nhi  dám cãi nhau tay đôi với Lê Đức Thọ. Ông kia bảo ”Tại
sao lại bầu Tổng Thư ký. Như thế là không được ?“.”Nhưng anh em thấy được bác
ạ!” Ông Thọ chịu.

Ngô Thế Oanh kể, văn phòng ông Thọ
gửi thư đến, bảo Đại hội nên mời Lê Đức Thọ nói chuyện. Chủ tịch đoàn có bàn
chuyện này. Nguyễn Đình Thi không có mặt hay sao đó. Và Trần Bạch Đằng gợi ý
trả lời:

1/ Có nói thì cũng không làm đảo lộn
chương trình nghị sự, vì chương trình đã bố trí chặt.

2/ Chỉ nói trong 10 phút.

Ông Đằng cay vì chuyện chính trị nên
chơi ngang vậy (với Nguyễn Đình Thì, Trần Bạch Đằng căm từ hồi lâu, năm 1974
Nguyễn Đình Thì vào R, Trần Bạch Đằng không tiếp mà đẩy đi mặt trận ngay).

         
Sau việc này, không thấy văn phòng Lê Đức Thọ nói gì nữa.




2/12

 Đại
hội nhà văn qua đi. Được cái gì ? Hình như không được cái gì. Tôi thấy hụt
hẫng.

Tại
sao những Hữu Thỉnh Ngọc Tú Hữu Mai lại được bầu vào Ban Chấp hành. Tại vì họ
đã được ông Thi chọn. Nghĩa là được bộ máy chọn. Bộ máy ấy đã làm việc để nâng
cao uy tín của chính những người đứng máy. Chỉ có tiêu chuẩn cánh vế chính trị
chứ không có tiêu chuẩn chuyên môn chất lượng sáng tác.

Một
lý do sâu sắc nữa - ấy là sự ngớ ngẩn của đám đông - cái đám đông mà tôi đã
miêu tả - họ chẳng khác những con cừu.

Những
điều này có liên quan đến sự định hướng hoạt động của tôi thời gian tới.

Nói
chung, cách đi ẩn giữa đời vẫn là sự lựa chọn tốt nhất.

Dương
Thu Hương lên tiếng bảo những Trần Đại Nghĩa, Kim Ngọc từng kêu gọi Đảng phải
biết ơn nhân dân chứ không phải chỉ có nhân dân biết ơn đảng. Đọc vào tôi đã
thầm nghĩ, thật  ngây thơ quá, nói những sự đơn giản ấy làm gì. Nhưng cùng
lúc tôi lại nghĩ, dẫu sao Dương Thu Hương cũng tốt hơn mình, dũng cảm hơn mình,
không có những run rẩy sợ hãi, khi nói về chuyện đó. Lúc nghe cũng vừa sướng
vừa sợ. Tôi ấy!

Lại
như khi thấy bọn Lý luận phê bình bây giờ tranh luận. Trần Hữu Tá lấy nghị
quyết 5 ra chống lại Nghị quyết trung ương 7, Phạm Tường Hạnh lấy cớ nghị quyết
7 ra sau để cãi lại v.v.

Tôi
muốn nói một câu đơn giản trước tiên không được chơi trò này nữa.




21/12

 Trên
Bản tin tham khảo có một bài phân tích Các hội chứng của Chủ nghĩa xã
hội hành chính
ở Đức:

-
Tập trung quyền lực trong một nhà độc tài kiêu ngạo. Điều khiển kinh tế thông
qua một trung tâm chỉ huy thiếu hiểu biết.

-
Quy chế hoá và tập trung hoá quan liêu nền văn hoá. Khoa học và giáo dục đều đã
xua đuổi nhiều bộ óc có tính chất phê phán ra khỏi đất nước.

- Áp
chế chính trị với công dân, buộc tội người khác chính kiến.

- Biến
cảnh quan thông tin đại chúng thành một sa mạc thông tin ảm đạm, thành một hệ
thống đưa tin cung đình ghê sợ
.






-
Gạt bỏ cơ sở Đảng ra khỏi mọi quá trình bàn bạc...
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 09, 2015 21:51

June 8, 2015

Thế Lữ người mở đường táo bạo và dừng lại đúng lúc







Vài nét tiểu
sử
 

Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ - 

Ngày
sinh 10-6-1907 (một số sách viết nhầm 6-10). 

Ngày mất 3-6-1989. 

Từng được coi là nhân vật chủ chốt trong Tự Lực văn đoàn, viết nhiều trên các báo Phong hóa, Ngày nay.  

Sau chuyển sang hoạt động sân khấu và từ 1945, chỉ làm sân khấu. 

Tác phẩm chính: Mấy vần thơ
(thơ, 1935), Vàng và máu
(truyện, 1934), Trại Bồ Tùng Linh
(truyện, 1941) v.v...




Trong một bài thơ mang
tên Lời mỉa mai Thế
Lữ viết:

Tôi dấn bước đầu trong cảnh trần gian

Ông cũng là tác giả của
hai câu thơ mà Xuân Diệu thích nhắc lại:

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Ngàn năm chưa dễ đã ai quên

Nên hiểu cái ấn tượng về
sự mở đầu này như thế nào? 


 Lý do cụ thể, tức là cái cớ xui người ta cứ phải nhắc lại những phút khởi phát,bừng ngộ ấy có thể rất giản
dị  -- một kỷ niệm của tình yêu, tình bạn; một chuyến đi; một lần gặp gỡ. 

Nhưng
theo tôi, nên hiểu nó theo nghĩa rộng.

Đặt vào hoàn cảnh sinh hoạt văn nghệ thời tiền chiến và tiểu sử nghề nghiệp của
tác giả, người ta vẫn cảm thấy điều xúc động ở đây như có mối liên hệ xa gần với cái bước đi ban
đầu của những người viết văn làm thơ xứ này, khoảng những năm 30.

Đó là khi các
nhà văn nghệ chính thức từ giã cái mẫu hình văn học trung cổ và dần dà làm cuộc
khai phá để gây dựng nền văn học hiện đại. 

Bởi vì ở thơ, sự bắt đầu này quá rõ,
và lại nảy sinh ồ ạt, nên có cả một phong trào, gọi là Thơ mới, 
đối lập hẳn với thơ cũ. 

Song nhìn rộng ra, phải thấy cuộc biến động xảy ra ở cả
văn xuôi, ở kịch, bao nhiêu thay đổi đã đến với người ta trong cách làm, cách
hiểu về văn học.

 Là một người có mặt rất sớm, hơn nữa, có công dựng tạo nên và
thúc đẩy sự thay đổi, thì trước thời buổi này làm sao Thế Lữ không xốn xang cảm
động cho được?



Trong một truyện ngắn
mang tên Trăng ngàn, Thế Lữ viết về nhân vật Tuấn. 

"Anh
thấy mình vẫn sáng suốt để nhận thấy sự rung động của tâm hồn. Anh phân tích
hoài, ngẫm nghĩ hoài. Người trong cuộc luôn luôn đứng ra ngoài để nhìn trở vào.
Nhà tài tử đang lúc phô diễn tự thả cho tâm trí lùi xa và tự ngắm dáng điệu
mình trong sân khấu. Tuấn thuộc vào hạng nghệ sĩ giàu tình tứ và cảm giác muốn
tận hưởng các trạng huống của tâm trí cũng như muốn thưởng thức hết các vẻ đẹp
của phong cảnh trần gian
". 

Khi dẫn lại đoạn văn này, trong cuốn Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên, 
một nhà nghiên cứu ở Sài Gòn trước
đây là Phạm Thế Ngũ đã lưu ý:

 "Tuấn đây hẳn là một hình ảnh của Thế Lữ.
Cái khuynh hướng phân thân và tự quan sát ở đây đã tạo ra một con người tài tử
về cảm giác, lãng mạn một cách thức tỉnh, không chịu để cho một cảm giác nào
lọt vào ý thức mà không đưa qua cái lọc phân tích trước".




Về phần mình, chúng tôi
muốn nhấn mạnh thêm là trong cái thói quen làm gì, rung cảm gì cũng có sự tự ý
thức rành mạch, vừa xúc động, vừa biết ghi nhận sự xúc động ấy, và trong chừng
mực nhất định, chủ động hướng dẫn nó
, Thế Lữ đã hiện ra như một nhà nghệ sĩ
kiểu mới, khác biệt rất nhiều so với các bậc tiền bối, từ Tản Đà trở về trước.




Cái cảm giác thuở ban
đầu, bước đầu 
mà Thế Lữ hay nói trong thơ nảy sinh từ nhận thức về sự
khác biệt đó. 

Hướng cả đời mình vào một sinh hoạt văn học còn đang mới mẻ, cuộc
phiêu lưu tự dò dẫm, tự tìm đường của ông diễn ra trên hầu như tất cả các
phương diện của nghề nghiệp. 

Và nó cũng được khởi động ngay trong cái khu vực
tưởng ổn định nhất, và khó thay đổi nhất, là hình thức thể loại, bao gồm cả thơ
lẫn truyện.

Nếu có dịp đọc lại Mấy
vần thơ 
người ta sẽ không khỏi ngạc nhiên khi thấy sự tồn tại đồng
thời ở đây cả những bài thơ giàu nhạc điệu, lẫn những đoạn quá đậm chất văn
xuôi.

Bên cạnh những:

- Tiếng ve ran trong bóng cây rậm mát

Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời

Gió nồng reo trên hồ sen dào dạt

Mùa xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!




- Mây hồng ngừng lại sau đèo

Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi

Trời cao xanh ngắt - Ô kìa

Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.




Là những:

- Tiếng pháo rắc trong thành phố vắng

Mưa phùn rây cùng ánh đèn
yên lặng


Gợi lên mặt đường đen,
loáng và xa


Hai dãy nhà kín cửa đứng
chơ vơ


Điềm nhiên mặc kệ con người
vơ vẩn





- Thế Lữ nghĩ ba hôm mới
nói


"Ô phải đây". Rồi ở ngay Hà Nội

Anh ta vừa hoạt động vừa mơ
màng


Lúng túng như anh mán học
làm sang


Trong một bộ áo quần rất
lịch sự.






thể cắt nghĩa: đây là do bước đầu thơ mới còn vụng dại, nên mới lúng túng như
thế! 

Nhưng theo chúng tôi có thể nghĩ khác: đấy là những cố ý của Thế Lữ. 

Cố ý làm ra vẻ văn xuôi để đi ngược lại cách
hiểu thông thường về thơ. 

Cứ làm sao khác thơ cũ đã, rồi mọi chuyện điều chỉnh
sau.




Hoặc như trong thể
truyện, một người lịch lãm như Thế Lữ hẳn thừa biết rằng ở phương Tây cũng như
phương Đông, loại truyện kinh dị, nhất là truyện trinh thám, luôn luôn bị người
ta coi thường, chỉ xếp vào thứ văn học hạng hai, hạng ba. 

Song chính vì thế,
ông bắt tay viết, viết cho thiên hạ thấy rằng những thói quen cũ cần phải thay
đổi, và mọi chuyện cần được nghĩ lại. 

Sự khai phá mở đường thường khi đồng thời
là một sự thách thức. Nhưng có hề gì với con người có một ý chí vững chắc như
tác giả Mấy vần thơ, mà như Hoài Thanh, tác giả Thi
nhân Việt Nam 
nhận xét, là trong cuộc đấu khẩu giữa Thơ mới - Thơ cũ
thời ấy, chỉ bằng những vần thơ của mình, Thế Lữ đã mang lại chiến thắng cho
Thơ mới mà không cần tranh biện.

 Quả thật, không có một chút quá đáng nào trong
lời ông tâm sự với Xuân Diệu: cái ý phá vỡ những lề lối trói buộc là nhất quán
trong tôi.

Liên tục vượt qua thói
quen cổ hủ, cảm giác mở đầu có đến với tâm trí Thế Lữ một cách thường trực thì
cũng là điều dễ hiểu.

Nhưng nhu cầu hoạt động
thì nhiều, mà sức lực mỗi người chỉ có hạn.

 Luôn luôn mở đầu tức đồng thời cũng
có nghĩa là phải luôn luôn dừng lại, hơn thế nữa, luôn luôn từ bỏ những con
đường vừa khai phá.

Cái luật đời thông
thường đó cũng xảy ra với Thế Lữ, và chỗ hơn người của ông, là ông rất chủ động
trong cái việc dừng lại ấy.







Mặc dù là một trong
những người mở đường cho thơ Việt Nam hiện đại, song trước sau, Thế Lữ chỉ là
tác giả một tập thơ duy nhất.

So với Thế Lữ, Xuân Diệu
đến với thơ có chậm hơn vài năm, song trên đại thể, có thể bảo họ là cùng trang
lứa. 

Ấy vậy mà một bên đời thơ của Xuân Diệu kéo dài tới hơn 50 năm, trong khi
ấy bên kia, đời thơ của Thế Lữ chỉ khoảng 5 năm, nghĩa là mười lần ít hơn, sự
khác biệt thật là khủng khiếp.






Ở đây, chúng tôi không
có ý định so sánh xem đóng góp về văn học ai lớn hơn ai. 

Đứng về tâm lý của
người sáng tác văn chương, chỉ xin nêu lên một nhận xét: nếu như ở phương Tây,
người ta thường được chứng kiến hiện tượng một vận động viên, một cầu thủ, một
diễn viên sân khấu hay một nhạc công tuyên bố giã từ đấu trường, chia tay với
sàn diễn đúng vào lúc tài nghệ lên đến đỉnh cao, thì hầu như điều đó, không có
ở Việt Nam. 

Nói hẹp trong phạm vi nghề văn, trừ phi trời bắt tội không viết
được nữa không kể, còn thông thường ai đã làm nghề này thường cứ thế làm mãi và
rất thích được khen rằng càng già càng dẻo càng dai (mặc dù nhiều khi chung
quanh chỉ nói vậy cho phải phép). 

Nghĩa là những người biết tự hạn chế và chủ động đặt dấu chấm hết cho một phần sự nghiệp của mình, loại đó quá hiếm. 




Đặt vào hoàn
cảnh ấy mới thấy cái hiện tượng Thế Lữ ngay từ 1936-1937 đã nồng nhiệt giới
thiệu Xuân Diệu và như các nhà văn học sử thường viết, tự nguyện nhường ngôi bá
chủ thi đàn cho Xuân Diệu, để rồi dứt khoát không làm thơ nữa.
.. 

cái hiện tượng
ấy quả là bất thường, độc đáo. 




Kể ra, cách tồn tại trong văn chương là muôn
hình muôn vẻ, không ai giống ai, mà trong việc dùi gắng nhẫn nhịn bám trụ lấy
nghề, "một tấc không đi một ly không rời", nhiều cây bút ở ta cũng cố
tự khai thác, tự làm giàu mình thêm và có những đóng góp cho văn học. 

Tuy
nhiên, cũng đã đến lúc nên nói là ở đây, không khỏi có những trường hợp, sự dùi
gắng đồng nghĩa với sự ham hố quá đáng, không tự biết mình, và cái sự kéo dài
gắng gượng và tùy tiện này làm cho một số tác giả trong một số trường hợp, hiện
ra cũ mòn, nghèo nàn cằn cỗi, mình lặp lại mình không xong, nên đánh mất luôn
cả tình cảm sẵn có nơi bạn đọc. 

Trở lại với trường hợp Thế Lữ, bởi lẽ trước sau
ông vẫn có một vị trí danh dự trên thi đàn, nên sự dừng lại của ông càng đáng
khâm phục. 

Nếu lại lưu ý thêm là về sau, ông cũng bỏ luôn cả truyện kinh dị,
truyện đường rừng để chuyên chú vào sân khấu, thì người ta càng có lý để khái
quát: đây không chỉ là một nghệ sĩ biết khai phá mở đường, mà còn là một người
luôn luôn biết dừng lại đúng lúc.

 Đó là một khía cạnh trong con người nghệ sĩ
nơi ông, một phương diện của tài năng vốn có nơi ông và phải nhận đó là việc
làm táo bạo, đi ngược thói thường, nên trên cái nền chung của thời gian lịch
sử, lại càng hiện ra chói sáng; riêng đối với  mẫu người ham hố cố đấm ăn xôi kiếm chác... đầy rẫy thời nay, là cả một lời cảnh cáo.




Đã in trong  Cánh bướm và đóa hướng dương, 1999










 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 08, 2015 19:48

May 28, 2015

Cuộc khủng hoảng của nhà Trần sau khi đánh thắng quân Nguyên

Tiếp tục câu chuyện về Trần Khánh Dư: Vừa
là  người anh hùng có công vừa là viên
quan cai trị có tội  đưa trên blog này ngày 1-10-2013 

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013...




Trên con đường lấy lịch sử để giải
thích hiện tại, có một việc tôi đang muốn dành thời gian để  làm là đọc lại sử nước mình những năm sau chiến
tranh – ta hay gọi là hậu chiến.


 Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên,
xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.





Dưới con mắt Đào Duy Anh 

 
   Trong cuốn Lịch
sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX

Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân
Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong
nước.

     
Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để
tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”

   
Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều
việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.

    
“Ngay năm 1290, sử đã chép có nạn đói lớn [....] Sau khi
đã ra sức tham gia kháng chiến trong quân đội hay trong dân quân, người nông
dân thấy đời họ không được cải thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy
làm bất bình mà đã rục rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng
bố, Trần Khâm ( tức Nhân Tông—VTN ) lại
nghĩ ngay đến việc dụng binh đối với các nước nhỏ láng giềng  để đánh lạc hướng bất bình của nhân dân” (Sđd,
bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002,
tr. 258-259) 




Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và
Nguyễn Đức Nghinh


 Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn  sử của Đào Duy Anh.

 Khốn thay là từ 1958 tới
1980, Đào Duy Anh bị vướng vào vụ Nhân văn 
nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên, không được in lại. Tuy một số
phương diện tư tưởng của ông có được các học trò xuất sắc ở thế hệ sau ... tiếp
tục, nhưng thực tế là người ta càng ngày càng xa rời cái chiều hướng mà Đào Duy
Anh theo đuổi để đi vào một thứ sử học đơn giản và vụ lợi, cốt phục vụ các mục
đích chính trị trước mắt.

Cũng may mà những năm trước 1975,
tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.

Theo dư luận chung, một trong những cuốn
xuất sắc nhất thời ấy là  Lịch sử
chế độ phong kiến VN
của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I
sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.































 Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ
đành dựa vào bộ Lịch sử Việt Nam quyển
I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư
phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970. 








 







 Ở 
cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi
người cùng biết.


Sau chương V nói về cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông
, chương VII cuốn sử do Trương
Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.

Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác
giả viết:

 “…ba năm chiến tranh ác liệt chống chọi với kẻ
địch nổi tiếng về tính chất cướp bóc và phá hoại đã để lại những hậu quả quan
trọng cho sản xuất và đời sống nông dân. Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là
những năm đói lớn, một thăng gạo trị giá một quan tiền, nhiều người dân phải
bán ruộng đất và con trai con gái để lấy lương ăn.”(tr 258)

Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn
không ai lạ gì. Các nhà sử học tôi muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn
các nhà sử khác là không lảng tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải miêu tả.

 Trong sự hạn chế của một nền sử học viết trong
hoàn cảnh 30 năm chiến tranh, họ dường như muốn cảnh báo trước về những khó
khăn mà con người hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu đựng.




Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người
ta được biết những năm đó, nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của quân
Nguyên vẫn chưa hết.

 Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng tôi hết
sức ngỡ ngàng, đó là chỉ hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà Trần đã phát
động cuộc chiến tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam, tức Ai Lao và Chiêm Thành.

Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai
Lao thời ấy kéo dài hàng nửa thế kỷ ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm
Thành lại còn dây dưa lâu hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần tiến hành
ở Chiêm Thành là vào 1396 (tr.263).

 Các bộ lịch sử VN viết trong những năm chiến
tranh có thói quen ca tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông cha ta đã tiến
hành trong quá khứ.

 
Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc
chiến tranh sang đánh Ai Lao của Trần Nhân Tôn 
năm 1290 và 1294, các tác giả của Khoa Sử trường Đại học Sư phạm đã vượt
ra ngoài thói quen đó.

 Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.(
Tr 259)

Nhìn lại cả  một thế kỷ chiến tranh ở mặt trận Tây – Nam,
các tác giả bảo rằng nó đã huy động “những khả năng lớn lao của dân tộc” chỉ
“để thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế và quyền lực” của vua chúa thời
ấy mà thôi( sđ d tr 263).




Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn
mà vua chúa thời ấy mắc phải,  các tác
giả  Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức
Nghinh lại còn ghi lại một cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý do giả tạo mà ông vua vừa chiến
thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi người làm theo ý mình.

Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy
tôi có người can ngăn rằng giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây việc binh đao, thì vua trả lời đại ý rằng “sau khi giặc
rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi mệt, có ý coi thường,
cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác”.

Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm
Thành,  các tác giả cho biết:

 “ từ 1361, quân nhà Trần lui dần vào thế phòng
ngự, chuyển cuộc  chiến tranh ở đất nước
người về đất nước mình, nhân dân lao động phải gánh chịu những thảm họa của
chiến tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”

 “…sức sản xuất bị đình trệ  và có lúc bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn đói
lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379 đã có 13 lần đói trầm trọng…(tr. 265)

 Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay
nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.

        Thăng bình là từ cũ nay ít dùng.
Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975) lý giải là "lên cõi bình trị trên toàn đất nước", tiếp đó ghi
lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ "Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo” làm dẫn chứng . 




Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang
nói, tình trạng thăng bình -- và nghĩa giản dị hơn là một cuộc sống yên ổn -- không đến
với dân chúng.

Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân Đại Việt muốn sau những năm
chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm thấy được trong cả thời gian rất
dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr. 264).

Tại sao vậy? Tạm nêu  lý do:

a/ Bao trùm trong những người quản lý
quốc gia là  tâm lý đắc thắng kiêu ngạo “ bụi Hồ
không dám động”.

b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác
về thời cuộc, tầng lớp quí tộc cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho phép
mình rơi vào ăn chơi sa đọa.

 Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà
Trần thời hậu chiến  là vô cùng bỉ ổi,
bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi. 

Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách
có ý thức. 

Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc
chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa
” – trong một bải thơ  vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).




Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến. 

Đây là
thời Dụ Tông.

Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340),
vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.

 Lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi viết ở bên Pháp từ
1950 và mới được dịch ở ta 2014, trong 
chưa đầy hai trang ngắn ngủi nói về sự suy tàn của nhà Trần ( tr
225-227), cũng phải đề cập tới Trần Dụ Tông.

 Ông vua này được miêu tả là người “chỉ
nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”




Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử
ĐHSP, thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào
hồ lớn ở vừờn ngự,  chất đá thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông vào để làm
chỗ vui chơi. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về
chứa vào hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).

Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những
kẻ bất tài khéo nịnh được thăng quan tiến chức, viên chính chưởng phụng ngự Bùi
Khoang giả vờ uống hết 100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr 264)




Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì


Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ
các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.

Khi nói về các bộ cổ sử, người ta
phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư
của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám
cương mục
của Quốc sử quán triều Nguyễn.

Nhưng thời gian gần đây, các nhà
nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh
mới.




Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã mang
lại cho cổ sử những ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi không rõ, và nhất là những bình luận độc đáo, mang
dấu ấn một tư duy sử học gần với con người hiện đại.

 Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang nói,
đọc vào cuốn của Ngô Thì Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn, nên trong
bài này tôi muốn cùng bạn đọc lần vào các trang 
sử của người thân sinh Ngô Thì Nhậm, với sự lưu ý trước rằng, nhiều chi tiết có thể đã thấy ở
cuốn Toàn thư, cũng như ở  Cương mục.




 Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của
Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.




Xin phép bắt đầu bằng cách  nói tạt ngang về một chuyện
có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.

Gần đây báo chí nói nhiều tới việc
Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.

Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn,
anh Trần Đĩnh --  bằng sự lịch lãm của
một người đã qua sống qua ba chục năm chiến tranh và hết sức thông thạo mọi
đường ngang ngõ tắt của các trung tâm quyền lực – đã giải thích với tôi, chắc
là Nhân Tông thấy chiến tranh khủng khiếp quá, nên tìm cách tách mình ra khỏi
thời sự mà suy nghĩ đấy thôi.

 Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!

 Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ lại bắt gặp một
ý tưởng tương đồng. 

Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả
ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu
này vài ý nghĩa tiêu cực.

 Ngô Thì Sĩ viết “Vua Nhân Tông tinh thông kinh điển, vốn có giác ngộ, trong
thiên hạ không vật gì đáng bận tâm. Nhưng đường đường là đấng thiên tử mà ẩn
náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm hôm cùng một hai nhà sư trên núi không có hám của
cải,  sống trong cảnh thái bình cho đến
hết đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu, đưa cả thiên hạ vào giáo
lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394 sđd) 










 





 





Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ
XIV. 

Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ
có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và
 thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong
lịch sử nước ta.

Sau khi Nhân Tôn bỏ việc đi tu, người
kế tục ông là Anh Tôn đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng. 

Các sách sử cũ đều viết
và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi
Thượng hoàng Nhân Tôn từ Thiên Trường về
Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say,
Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.

Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu
tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban
đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy
mới về cung” (Tr 394 sđd )




Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách
là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ
Tông. 

Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu
cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.

Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ  có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tông tinh còn mà thần
mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.

Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An
dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ  lại viết thêm: 

"Cho dù Chu Văn
Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)




 Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính
chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh
hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.

 Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.

 Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn
toàn hư hỏng.

Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một
sự so sánh:

+năm 1296, một viên quan thượng phẩm
là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).

+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại
gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt
là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi".

 Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu
đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm
tiền. 

Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).




Theo cách miêu tả của  Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện
đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.

ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra
từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm
được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy
vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em,
Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách  ra
lệnh tịch thu toàn bộ của cải.




Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi
vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất
rõ:

+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng
trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ. 

+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở
trong vườn. 

+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba
ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.




Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,-- nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử
Trung Quốc -- cũng không tìm được niềm vui tương tự.

 Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có
thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp  “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người
lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.

 Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử
chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong”
(tr 456).

 Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi
của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích
rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này
chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).







Về đức hạnh của các quan đầu triều đương
thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.

Ông này thường “cùng với học sĩ
Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo,
không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở
tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có
món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd
tr. 431).




Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354
có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại
của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam
Sách.

 Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?




Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành,
các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp
phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân
Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.

Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị
người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất
bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.

 Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các
quốc gia  không được phép.




Nhìn chung về đội ngũ quan chức của
nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc
Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan
nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có
người hiểu biết mà cố vấn cho vua.




Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:

“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6
lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy
từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là
không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng,
thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên
không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc,
coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.
(
VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc
giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà
Trần suýt di chuyển về họ Dương" ( tr 448).




Mấy điều tổng kết tạm thời:




I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ
được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu
chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị
lảng tránh.

Điều đó có thể  giải thích như sau:

n    Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực
sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội
sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.

n     Đối với các sử gia đương đại, nó càng
chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản
cũ, cách làm cũ.  Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.




II/Khi miêu tả các cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm, các nhà sử học hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất
mát đau thương mà chiến tranh mang lại. 

Mà mất mát đau thương nhất của chiến
tranh ở VN là gì? 

Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức
là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi  không thể cứu vãn.

Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực
của quan chức trong thời chiến. 

Cái đó thì đáng trọng thật. 

Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà
không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội. 

Được làm vua thua làm
giặc
, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản
lí đất nước. 

Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.

Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học
lỏm về một số phương diện văn hóa; còn  chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần
văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.







III/Một thực tế của các vương triều
hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi
bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý
xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là
những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là
thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn
hèn kém bấy nhiêu.



















































































































Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở
Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa.
Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và
tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là  bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các
sử gia Hà Nội trong 70 năm qua,  thì triều
Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 28, 2015 08:00

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.