Vương Trí Nhàn's Blog, page 61
January 11, 2016
Mấy nhà văn hậu chiến , bài II: Dương Thu Hương
Khi nói tới các nhà văn hậu chiến, chủ ý của tôi là muốn xét tới các nhà văn, bất kỳ lứa tuổi nào vào và xuất hiện vào thời điểm nào, song đều lấy việc viết về con người hậu chiến xã hội hậu chiến làm mục đích.
Trong cả đời văn, các nhà văn này có thể còn mở rộng ra để viết về các mảng đề tài khác bao quát nhiều sự kiện khác, nhưng ít ra là trong một giai đoạn nào đấy, đề tài này đã được họ dốc toàn sức lực để thể hiện và ở đó, họ cho thấy cái xu hướng chính trong sáng tác mà suốt đời họ theo đuổi.
Do đặt bài viết cũ trong bối cảnh mới, tôi lại mạn phép một lần nữa đặt tên lại cho bài viết.
NHỮNG NGƯỜI TRỞ VỀ LÒNG ĐẦY CAY ĐẮNG
Sáng tác của Dương Thu Hương qua các tập truyện
Những
bông bần ly, Một bờ cây đỏ thắm
và Ban mai yên ả 1981, 1982 và 1985
Cơn lốc rực rỡ
Được
viết ra liên tục trong khoảng mươi năm gần đây, các truyện ngắn của Dương Thu
Hương thường miêu tả đời sống qua trường hợp của những con người ở lứa tuổi
khoảng 30 - 40.
Thời
thanh niên sôi nổi của họ đã trôi qua trong chiến tranh.
Từ các
đơn vị quân đội thanh niên xung phong chiến đấu ở chiến trường trở về (hoặc
không đi đâu xa, nhưng nếm trải mọi vất vả ngay trên quê hương hậu phương), họ
có nhiều chỗ giống nhau, chẳng hạn bề ngoài không còn cái vẻ trẻ trung mau mắn
như trước nữa.
"Làn
da mầu hồng tươi tắn xưa kia đã sạm lại, xanh mét. Cặp môi đỏ mọng cũng nhợt
nhạt khô đi. Mái tóc dày đen nhánh giờ thưa hẳn...". Nhân vật chính trong Một
bờ cây đỏ thắm như vậy, mà nhiều nhân vật khác cũng vậy.
Chỉ
riêng có những ao ước, những hy vọng ở họ là vẫn còn, nếu không nói là có phần
mãnh liệt hơn bao giờ hết!
Sự đi rộng biết nhiều lại giúp cho họ hiểu
rằng lẽ ra, họ có thể rất sung sướng. Có điều thực tế cuộc sống không một chiều
thuận lợi như trong mộng tưởng. Trước mặt họ bao nhiêu vấn đề phải nhận thức
lại. Khi căm ghét, khi hờn dỗi, khi tê tái vì những mất mát đã qua, khi hào hứng
lấy lại cái hãnh diện chính đáng trước quãng đời trước đây của mình -- những
tình cảm ấy nối tiếp nhau mà đều ở sắc độ gay gắt.
Ta
cũng không nên quên rằng Dương Thu Hương là một cây bút phụ nữ.
Ở một
số tác giả nào đó, chất phụ nữ thường bộc lộ ở vẻ dịu dàng đôn hậu trong con mắt
nhìn đời, những kín đáo ý nhị trong cách biểu hiện. Dương Thu Hương trình diện
với một mỹ cảm hoàn toàn khác.
Mở đầu thiên truyện Một bờ cây đỏ thắm là
hình ảnh một cô gái đang chạy. "Bao giờ nó cũng chạy từ đỉnh con dốc xuống
phố. Nó chạy như một mũi tên bay. Quần áo gió bạt ngược về phía sau, mái tóc
gió đánh tung như đám cỏ rối, chiếc khăn màu lơ quàng cổ phất phới bay... Màu
hoa phượng rung rinh trên bầu trời. Nó giống như một cơn lốc rực rỡ".
Mười
hai năm sau, cô gái được mệnh danh là đồ quỷ đó vẫn giữ được "tiếng cười
như tiếng chuông... lanh lảnh, giòn giã, chói chang".
Nhân
vật nữ ấy thật đã mang đủ cốt cách văn chương của Dương Thu Hương. Lấy ham hố
quyết liệt làm động lực, trong quá đáng tìm thấy sự quân bình, -- văn Dương Thu
Hương hiện nay có những đoạn sắc sảo đến tàn nhẫn, nhưng cũng nhiều ý tưởng tha
thiết khiến người dửng dưng cũng phải nao lòng.
Ưu thế của một cây bút phụ nữ sử dụng đến đâu
thì vừa, đến đâu là lạm dụng - câu hỏi ấy có lúc người đọc thấy phải đặt ra. Bởi
lẽ ở đây, biết bao ẩn ức chôn chặt đáy lòng, biết bao dồn nén, người khác không
dám nói ra, tác giả đã nói ra bằng hết.
Điều
có phần chắc chắn hơn là dù không hoàn toàn tán thành cách nhìn đời sống của
Dương Thu Hương, người ta vẫn muốn đọc văn Dương Thu Hương.
Sự
nồng nhiệt trong say mê yêu ghét và những nhạy cảm trong quan sát đã giúp cho
ngòi bút đi đến cùng trong phạm vi mà tác giả muốn biểu hiện.
"Tài
năng là một sự ám ảnh, là ngọn sóng điên cuồng cũng như cơn gió định mệnh nó
cuốn ta đến một mục tiêu nhất định... Mỗi nhà văn là một con bệnh, một con bệnh
trầm trọng." Đấy là cách mô tả của L. Leonov về một loại người viết
văn hiện đại (cố nhiên không phải ai cũng vậy). Trong chừng mực nào đó, Dương
Thu Hương chính là kiểu người cầm bút vừa khít với nhận xét ấy của nhà văn
Xô-viết.
Đời sống tinh thần con người hậu chiến
Những
bông bần ly, một trong
những thiên truyện được viết sớm nhất và thuộc loại hay nhất của Dương Thu
Hương có một cốt truyện khá đơn giản.
Men theo những vui buồn chợt đến trong lòng
nhân vật Ngân qua chuyến đi từ một tỉnh miền Bắc vào Tây Nguyên bốc mộ cho
người em trai và một người bạn, tác giả khéo léo giới thiệu cảnh ngộ éo le của
Ngân, tình yêu nồng nàn của chị hôm qua với một chiến sĩ và cuộc sống khó chịu
bên người chồng lãnh đạm và vô vị của chị hôm nay.
Chuyến
đi do vậy đóng vai trò một thứ nhân tố khẳng định thêm những nhận thức nẩy nở
dần trong tâm trí Ngân.
Sau
chiến tranh, mỗi chúng ta đã giàu có thêm lên nhưng cũng đã mất mát bao nhiêu
trong tình cảm. Có cả những sai lầm nó sẽ đeo đẳng theo mãi chúng ta và không
bao giờ ta gỡ ra nổi. Cuộc sống mơ mộng chấm dứt, nhưng biết làm sao, đôi lúc
chỉ còn an ủi là những người đã nằm xuống sẽ có lúc trở về, nâng đỡ chúng ta
trong những đoạn đường sắp tới.
Cùng
mạch cảm hứng với Những bông bần ly trong những năm khoảng từ 1975 đến
1980, Dương Thu Hương còn viết nhiều truyện ngắn mà dấu vết của một cuộc sống
từ chiến tranh chuyển sang hoà bình in khá đậm.
Miền cỏ tơ phác ra cảnh nương tựa vào
nhau hàn gắn lại hạnh phúc giữa những con người cùng có những thất thiệt sau
cuộc chiến.
Loài
hoa biến sắc giống như một sự tự xác định. Phải qua việc tiếp xúc thực sự
với một cô gái ở cái tình thế sống nhờ vào túi tiền người khác, một cô gái từng
là thanh niên xung phong mới thoát ra khỏi cảm giác tự ti và những thèm muốn
dậy lên trong lòng khi trở về thành phố.
Trong Ban
mai yên ả (sang tập Chân dung người hàng xóm in ở Nxb Văn học
được đổi thành Buổi sáng yên tĩnh), nhân vật chính còn tìm cách trở về
với xã hội bằng cách bắt tay cụ thể hơn vào công việc hoà nhập với đời sống
bình thường ở hậu phương hôm qua. Nhưng trước mắt anh bao nhiêu là khốn khó.
Lối sống tỉnh lẻ tuỳ tiện, lười biếng, thái độ dửng dưng vô trách nhiệm đã ăn
thành nếp ở một vài người có chức có quyền, những cái đó như một thứ keo đặc
vây bủa lấy anh, khiến những ý định tốt lành sẵn có ở anh khi trở về không sao
có thể thực hiện. Chỉ muốn sống cho lương thiện thôi, anh đã buộc phải làm
phiền bao nhiêu người và thái độ bướng bỉnh của anh gây cho họ nhiều bực bội.
Đến
đây, câu chuyện đã vượt qua phạm vi những người trở về để đứng ra nhìn thẳng
vào đời sống của cả xã hội hậu chiến.
Hướng
khai thác thường thấy ở Dương Thu Hương là tìm cách xé tuột cái vẻ bề ngoài nếu
không dễ thương thì cũng coi được, để khơi thẳng vào những gì thuộc về thực
chất của các hiện tượng cũng như các mối quan hệ.
Trong thiên truyện vừa dẫn (Ban mai yên ả),
nhân vật hoạ sĩ Đàm Tiến tưởng là tốt bụng, thậm chí là một nghệ sĩ có tài nữa,
hoá ra là một kẻ sống cẩu thả, lười biếng, thờ ơ với mọi người chung quanh, gọi
là ăn bám cũng không có gì quá đáng.
Cả Loài
hoa biến sắc lẫn Ngôi nhà trên cát, Chuyện nghe thấy mà không nhìn thấy lẫn
Một khúc ca buồn đều có những cảnh sống bề ngoài tưởng là đầm ấm dễ chịu,
mà thực ra, đủ vẻ nhếch nhác khốn nạn.
Khi cần khai thác một đề tài thời sự như trong
Chân dung người hàng xóm, Dương Thu Hương cũng vẫn trung thành với cách
viết của mình; toàn bộ thiên truyện giống như một động tác lật tẩy: Đấy!
Con người ta hôm nay mới thế mà mai đã như thế, như thế...
Một
mô-típ thường được tác giả láy đi láy lại: giữa ước ao của con người thời trẻ
và thực tế cuộc sống người ta phải sống thường là cả một khoảng cách xa vời,
không sao lấp đầy nổi. Mà tai vạ không phải ai đâu mang lại, ma đưa lối quỷ
đưa đường, tai hoạ thường do ta tự chuốc lấy, mọi tai ương đều do chính ta
lựa chọn, không thể trách ai khác (Ngôi nhà trên cát, Chuyện một nữ diễn
viên).
Một mô-típ nữa cũng được tác giả ưa thích: Nhu
cầu thường xuyên về hạnh phúc của con người và những đau đớn ê chề người ta
thường gặp trong công cuộc truy tìm hạnh phúc.
Trong
nhiều thiên truyện, qua miệng mọi người, cả đàn ông cũng như đàn bà, luôn luôn
thấy vang lên cái câu hỏi nhức nhối: hạnh phúc là gì? Tai ương và hạnh phúc,
làm sao để biết chính xác cái gì sẽ đến với mình?
Ở
truyện này người chồng biết điều, đứng dắn, lấy phải người vợ tham lam, học
đòi. Ở truyện kia, người đàn bà nhạy cảm tinh tế phải sống suốt đời với hạng
đàn ông tầm thường, đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hoặc tàn ác, vụ lợi. Ở một
thiên truyện khác, đứa con khôn lớn, gặp lúc bố mẹ đổ đốn.
Mà ở
thời này, những bộ mặt xấu xa ấy có nhợt nhạt để cho người ta bỏ qua đâu, luôn
luôn nó hiện ra quá quắt, quái gở đến phát sợ!
Có thể
rất lâu, ngươì ta vẫn sống yên ổn bên nó, song, chớ vội mừng. Khi đã phát hiện
ra nó một lần rồi thì cay đắng, ngán ngẩm vô cùng, tưởng không sức đâu mà chịu đựng nữa!
Theo cách miêu tả của Dương Thu Hương, có
những người càng giàu có lên và đắp điếm thêm ít tri thức vào đầu, càng tầm
thường hơn trong nhân cách. Dù có lừa được hết cả thiên hạ, họ cũng không lừa
nổi những người thân trong gia đình. Hoá ra hạnh phúc không phải ở tất cả những
tiện nghi người ta bon chen để có bằng được, hạnh phúc là ở sự tương hợp giữa
người với người, giữa con người và hoàn cảnh, và -- trên một phương diện khác
-- ở tầm sâu của nhận thức và tầm cao
của nhân cách.
Nhưng
đã mấy người có được cả những phẩm chất tuyệt vời lẫn những may mắn hiếm có ấy.
Biết
bao người trong khi ráng sức đắp xây cho hạnh phúc, thực ra lại củng cố cái nhà
ngục của đời mình và khi nghĩ lại, đã quá muộn.
Trong
sự nhạy cảm với bất hạnh, toàn bộ sức mạnh trong ngòi bút phụ nữ ở Dương Thu
Hương được dịp bộc lộ và người ta có cảm tưởng ít khi trong văn học ta, nhu
cầu hạnh phúc được diễn tả một cách ráo riết đến thế.
Một điều cũng thấy rất rõ là mặc dù trước sau,
vẫn một chủ đề ấy, song, mỗi khi chạm tới người và việc, Dương Thu Hương đều có
được sự say mê và truyền được nỗi say mê ấy sang người đọc. Dù đã nhiều lần
khắc hoạ những bộ mặt khác nhau của bất hạnh song tác giả đã tìm ra cách để có
thể nói mãi và chúng ta còn muốn nghe chị nói thêm.
Tại
sao? Người bất hạnh chung quanh ta còn nhiều? Có thể.
Nhưng
có lẽ cái chính là ước ao hạnh phúc trong tác giả, trong các nhân vật trong
chính chúng ta, nỗi ao ước đó thật khôn cùng.
Nghĩ
tới nó, lòng ta đã thổn thức!
Mặc dù
bao lần thất bại đi nữa, song ý muốn vươn tới hạnh phúc ở mỗi chúng ta làm sao
có thể nguôi giảm!
Phá cách, lật tẩy,
cay đắng, tàn nhẫn
Cùng
bắt rễ vào thực tại, song mỗi nhân cách sáng tạo vẫn là một cá tính độc đáo , giống
như một thứ cây mang lại cho đời một thứ quả riêng, không giống mọi loại cây
khác.
Đào
sâu vào mình, trung thành với mình vừa là nhu cầu tồn tại, vừa là niềm vui.
Từ tác
phẩm này sang tác phẩm khác, người ta cứ thế đi mãi theo phương hướng đã lựa
chọn, ở đó cái hay cái dở cài lẫn vào nhau, tự mình cũng đã nhận ra, nhưng muốn
khác đi, đâu có khác nổi.
Những
yếu tố đầu tiên liên quan đến sự hình thành bút pháp Dương Thu Hương có lẽ là
gắn liền với quá trình vào nghề cụ thể của tác giả. Cây bút này bắt đầu viết
hơi muộn; trước 30 tuổi mới rụt rè gửi những bài thơ của mình từ một tỉnh miền
Trung về Hà Nội và chỉ ngoài 30, mới bắt tay vào cái mạch chính của mình là
viết truyện.
Liệu tình yêu văn học của người con gái Kinh
Bắc cũ này có gì giống với trạng thái tâm lý mà Sô-lô-khốp đã mô tả "Khi
tình yêu đến muộn màng với một người đàn bà thì nó không nở ra thành một đoá
uất kim hương ngoài đồng nội, mà nở thành một thứ hoa dại mọc ở lề đường, có
mùi hương ngây ngất, ma quái?"
Chỉ
biết quả thật đó là một thứ tình yêu khác thường. Chất hoa dại mọc lề đường
ở văn xuôi Dương Thu Hương thể hiện ra đủ vẻ.
Đó là
một thứ văn khá sặc sỡ, tình ý đôi khi ngả mầu cải lương, câu chữ nhiều chỗ
khoa trương bóng lọng (một nhà thơ nhận xét:”nhiều những chữ có lẽ chỉ thơ ca
mới dùng, mà cũng chỉ dùng có mức độ, ở đây Dương Thu Hương cân tất “), song nhờ vào những rung cảm
thực của tác giả nên các truyện vẫn có khả năng lôi cuốn bạn đọc.
Một
trái trăng thu chín mõm mòm - Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom. Trong thơ Hồ Xuân Hương xưa đã có lối
diễn tả gắt, đậm, lối viết gần như bóp méo hình tượng và tạo ra những vẻ đẹp
khác đời, nếu không muốn nói là thô kệch vậy.
So với tì vị chúng ta, chúng quá
"nặng" và chỉ dần dần, ta mới quen nổi.
Trên
phương diện tạo hình và rộng hơn, trong mỹ cảm, ở văn xuôi Dương Thu Hương hôm
nay, chúng ta cũng bắt gặp những quá đáng tương tự.
Mầu
sắc rực rỡ, toàn loại mầu nóng.
Âm
thanh thì chói chát, khó quen với lỗ tai.
Trời
đất lúc nào cũng lộng gió và như cháy lên với những cánh hoa kim phượng trưa
hè.
Còn
con người thì nôn nao những khao khát dự định, dù cố ghìm lại, song không ghìm
nổi, họ cứ phải kêu to lên những ý nghĩ của mình và chỉ sợ không làm ngay, tất
cả sẽ trôi tuột đi mất.
Niềm say mê đô thị mà tác giả có lần
lưu ý ta, khi tả tính cách một nhân vật (cô gái xưng tôi trong Những cánh
buồm trong thành phố, tập Ban mai yên ả) có lẽ cũng là niềm cảm hứng
chính chi phối văn xuôi Dương Thu Hương và bởi lẽ niềm say mê ấy đến với tác
giả muộn màng, nên có lúc nó có gây ra những choáng ngợp.
Trên nét lớn, thế giới nghệ thuật ở Dương Thu
Hương hiện nay có sự phân cực rõ rệt.
Một
đằng là những kỷ niệm thời thơ ấu, một thứ bản giao hưởng đồng quê đầy
thi vị, nào những ban mai đánh trâu ra đồng, nào những lần vùi khoai, nướng cá,
ăn ngay ngoài bãi cỏ, thiên nhiên con người sống hoà hợp với nhau, đường nét
tinh tế như văn Đỗ Chu hồi trước.
Một
đằng là sinh hoạt thành phố, những quán ăn đông người, những tiện nghi hiện đại,
mốt quần áo, và các bản nhạc mới nhập từ nước ngoài về, tóm lại là cảnh sống
gấp gáp, chộn rộn, con người ai cũng nói nhiều, bao nhiêu tiếng nói cùng cất
lên thành một mớ âm thanh hỗn độn.
Trước những bất hạnh gặp trên đường đời, các
nhân vật của Dương Thu Hương -- những nhà báo, nhà thơ, diễn viên, hoạ sĩ (đúng
là Dương Thu Hương rất thích tuyển chọn nhân vật từ những người trong cái thế
giới nghệ thuật đa dạng này!)...-- thường nhớ tới những phương trời mơ ước thuở
nhỏ, bãi cát ven sông, làn nước mát lạnh, những cảm giác trong sáng hồn nhiên.
Song muốn hay không muốn, tất cả họ - và trước
tiên là người đã sáng tạo nên họ, trước tiên là tác giả - đâu có thoát nổi đô
thị, càng giãy giụa thì họ càng chìm sâu vào cuộc sống nơi đây, tâm trí họ như
mê đi, chân họ bước mãi về phía của tiếng ồn của ánh sáng.
Phải
công nhận là niềm say mê đô thị ở Dương Thu Hương quá mức mạnh mẽ. Chỉ quy về cảm
hứng đô thị, chúng ta mới hiểu tại sao nhà văn này thường có lối viết rất
thô, lối miêu tả đôi khi khá trâng tráo -- từ nỗi ghen tị day dứt trong lòng
một người con gái trước những người con gái khác xinh đẹp hơn mình, cho đến cảm
giác "những bông lúa vàng ướt át và sắc cạnh cọ vào da thịt".
Chỉ
quy về cảm hứng đô thị đó, chúng ta cũng mới hiểu tại sao tác giả không
ngại trình bày mình qua các trang viết như là một người soi mói không thương
tiếc vào những chuyện xấu xa chung quanh, hoặc để cho các nhân vật sẵn sàng
sừng sộ với nhau, xỉ vả nhau là "cứt nát hết cả rồi", là "bốc
lên mùi cóc chết", và không khí chung quanh đôi khi toàn những khai lợm,
tanh tưởi...
Giả sử
mọi nhà văn đều viết như thế, có lẽ người đọc sẽ phát rồ.
May thay trong thực tế lại không có cái việc
giả sử đó. Trong văn học ta sau 1945 đây là một trong những trường hợp đầu
tiên.
Và ta có
thể an ủi sở dĩ nảy sinh văn xuôi Dương Thu Hương, đó là do tác giả muốn tạo
nên một thứ đối trọng bên cạnh bao nhiêu ngòi bút đôn hậu khoẻ khoắn nhưng cũng
lắm khi nhạt nhẽo khác.
Sau khi đọc những Ban mai yên ả, Chân dung
người hàng xóm rồi, bạn đọc có muốn trở về những cây bút mực thước ấy thì
vẫn còn kịp.
Đỉnh
cao của lối nhìn, lối viết đầy thách thức trên đây của Dương Thu Hương là hai
truyện ngắnThợ làm móng tay và Sói
con.
Giữa
nhân vật Sáng thuở nhỏ thủ dao cùn trong túi và lén tập võ để lo có ngày trả
thù cho cha bị Tây giết với chú Sáng hôm nay quỳ mọp bên chân các bà các cô
nhiều tiền, cốt kiếm miếng ăn qua ngày (Thợ làm móng tay), quả thật, có
cả một trời xa cách.
Đọc
xong truyện này, người ta không khỏi xót xa khi nghĩ rằng sao mà trường đời xô
đẩy con người theo những nẻo lối đến là trớ trêu, và trong muôn thứ nghề nghiệp
của con người, sao lại có những nghề kỳ cục vậy.
Nhưng
đến Sói con, người ta còn được chứng kiến một trường hợp vừa thương tâm
vừa ghê tởm hơn nữa.
Trong Sói
con, sự sụp đổ của mơ ước, sự vô nghĩa của kiếp người hiện ra rõ rệt trong
thân hình tàn tạ của một phụ nữ, một cô me Mỹ mới mười bảy tuổi nhưng đã trải
qua mọi thứ khoái lạc trong đời để rồi trở về nằm liệt trong một ngõ vắng thân
hình loã lồ ruồi bâu gián bò không đủ sức
đuổi.
Có thể
trong đời sống cũng có một chuyện như thế, nhưng ngòi bút của tác giả ở đây
thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả, và nhiều người đọc đã
nhận xét là tác giả có phần ác quá.
Có điều, phải nhận, những truyện trên đã bộc
lộ đầy đủ cái chất riêng của bút pháp Dương Thu Hương. Ta đã chấp nhận phong
cách này, thì hãy để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa
vời.
It ra
thì ở Dương Thu Hương cũng khộng có cái lối xuê xoa, thoả hiệp của những cây
bút khéo tay.
Còn
nếu sau khi đọc xong những Thợ làm móng tay, Sói con, người đọc có thấy
ghê sợ hơn trước những cạm bẫy đang mở ra trước cuộc đời mình để lo sống cho
tỉnh táo hơn, mực thước hơn, thì đấy cũng đã là một thành tựu mà không phải tác
phẩm văn học nào cũng có thể làm được.
Viết như một sự vượt thóat
Mặc dù
còn gặp nhiều khó khăn về giấy mực, in ấn, nhưng đời sống văn học mươi năm gần
đây vẫn có sự phát triển vượt bậc về số lượng. Ngoảnh đi ngoảnh lại mới độ vài
năm, nhiều cây bút trẻ đã cho in ra đến dăm bảy cuốn sách. Chỉ hiềm một nỗi
chất lượng không phải bao giờ cũng đi liền với số lượng. Sách ra, trong sự hờ
hững của đời sống. Lại có không ít trường hợp sự hoan nghênh kia chỉ là tạm
thời giả tạo, sớm nở tối tàn, vì tuy có chiều lòng được một lớp công chúng nào
đó, nhưng nhìn cho kỹ vẫn không phải là những giá trị chân chính.
Đặt
trong hoàn cảnh ấy, mới thấy những thành tựu Dương Thu Hương gặt hái được là
đáng quý. Ngòi bút này đang độ viết khoẻ và viết khá đều tay. Bên cạnh những
tập truyện ngắn đã in, chị còn là tác giả của tập tiểu thuyết Hành trình
ngày thơ ấu kể lại cuộc phiêu lưu của một cô bé mười hai tuổi, vừa ngỗ
ngược, vừa tốt bụng, được các bọn đọc nhỏ tuổi rất thú.
Bạn đọc cũng như các đồng nghiệp trong giới
viết văn, kể cả những người khó tính bậc nhất đều chú ý và đánh giá khá cao
sáng tác của Dương Thu Hương.
Đây có lẽ là tác giả trẻ nhất cùng lúc có mặt
trong các tuyển tập truyện ngắn do các nhà xuất bản Văn học, Giáo dục, Tác phẩm mới in ra trong năm 1985. Và nếu tính
riêng trong lớp các nhà văn mới xuất hiện mươi năm gần đây, là tác giả duy nhất.
Tại
sao dư luận lại đặc biệt chú ý tới Dương Thu Hương như vậy, dù nhiều người cũng
biết là thế giới trong văn xuôi tác giả này có phần chật hẹp, và ngòi bút của
tác giả còn chông chênh, lắm khi tác phẩm như được viết trong cơn sốt, diễn
biến thất thường, kết cấu không thật chặt chẽ, chi tiết sai lầm chắp vá?
Theo
tôi hiểu, ở đây có mấy lý do. Phần thì do Dương Thu Hương đã chạm đến cái khu
vực nhạy cảm trong mỗi chúng ta là câu chuyện gia đình, những ước ao hạnh phúc.
Quan trọng hơn, là lối viết "hết mình" của tác giả.
Về cơ bản đây là một ngòi bút chân thành, thái
độ yêu ghét rõ ràng, và luôn luôn cùng vui cùng buồn với mọi sự kiện nói tới
trong tác phẩm.
Viết,
đối với chị, nhiều khi là một sự giải thoát.
Chúng ta nhớ đoạn mở đầu Sói con:
"Đó là một kỷ niệm khó quên. Bởi nó giống như sự ám ảnh của ngục tù. Đã có
những tháng ngày dài, tôi không nhớ tới, nhưng rồi bất chợt, nó lại hiện lên rõ
ràng, như vừa mới gặp chiều hôm trước. Và như thế, tim tôi lại quặn thắt lên
bởi những nỗi đau lạ lùng. Cuối cùng, tôi viết ra để trốn thoát những dày vò,
day dứt..."
Đoạn
văn có cái giọng của một thứ tự thú, không những đúng với Sói con mà con
đúng với nhiều thiên truyện khác của cùng tác giả. Tâm trạng của một người buộc
phải đi đến cùng trong sự lựa chọn của mình ở đây là điều dễ tạo ra sự thông
cảm. Chừng nào còn giữ được cái chân thành của những điều nhất thiết phải nói
ra, tác phẩm của Dương Thu Hương còn được nhiều người tìm đọc.
Trong cả đời văn, các nhà văn này có thể còn mở rộng ra để viết về các mảng đề tài khác bao quát nhiều sự kiện khác, nhưng ít ra là trong một giai đoạn nào đấy, đề tài này đã được họ dốc toàn sức lực để thể hiện và ở đó, họ cho thấy cái xu hướng chính trong sáng tác mà suốt đời họ theo đuổi.
Do đặt bài viết cũ trong bối cảnh mới, tôi lại mạn phép một lần nữa đặt tên lại cho bài viết.
NHỮNG NGƯỜI TRỞ VỀ LÒNG ĐẦY CAY ĐẮNG
Sáng tác của Dương Thu Hương qua các tập truyện
Những
bông bần ly, Một bờ cây đỏ thắm
và Ban mai yên ả 1981, 1982 và 1985
Cơn lốc rực rỡ
Được
viết ra liên tục trong khoảng mươi năm gần đây, các truyện ngắn của Dương Thu
Hương thường miêu tả đời sống qua trường hợp của những con người ở lứa tuổi
khoảng 30 - 40.
Thời
thanh niên sôi nổi của họ đã trôi qua trong chiến tranh.
Từ các
đơn vị quân đội thanh niên xung phong chiến đấu ở chiến trường trở về (hoặc
không đi đâu xa, nhưng nếm trải mọi vất vả ngay trên quê hương hậu phương), họ
có nhiều chỗ giống nhau, chẳng hạn bề ngoài không còn cái vẻ trẻ trung mau mắn
như trước nữa.
"Làn
da mầu hồng tươi tắn xưa kia đã sạm lại, xanh mét. Cặp môi đỏ mọng cũng nhợt
nhạt khô đi. Mái tóc dày đen nhánh giờ thưa hẳn...". Nhân vật chính trong Một
bờ cây đỏ thắm như vậy, mà nhiều nhân vật khác cũng vậy.
Chỉ
riêng có những ao ước, những hy vọng ở họ là vẫn còn, nếu không nói là có phần
mãnh liệt hơn bao giờ hết!
Sự đi rộng biết nhiều lại giúp cho họ hiểu
rằng lẽ ra, họ có thể rất sung sướng. Có điều thực tế cuộc sống không một chiều
thuận lợi như trong mộng tưởng. Trước mặt họ bao nhiêu vấn đề phải nhận thức
lại. Khi căm ghét, khi hờn dỗi, khi tê tái vì những mất mát đã qua, khi hào hứng
lấy lại cái hãnh diện chính đáng trước quãng đời trước đây của mình -- những
tình cảm ấy nối tiếp nhau mà đều ở sắc độ gay gắt.
Ta
cũng không nên quên rằng Dương Thu Hương là một cây bút phụ nữ.
Ở một
số tác giả nào đó, chất phụ nữ thường bộc lộ ở vẻ dịu dàng đôn hậu trong con mắt
nhìn đời, những kín đáo ý nhị trong cách biểu hiện. Dương Thu Hương trình diện
với một mỹ cảm hoàn toàn khác.
Mở đầu thiên truyện Một bờ cây đỏ thắm là
hình ảnh một cô gái đang chạy. "Bao giờ nó cũng chạy từ đỉnh con dốc xuống
phố. Nó chạy như một mũi tên bay. Quần áo gió bạt ngược về phía sau, mái tóc
gió đánh tung như đám cỏ rối, chiếc khăn màu lơ quàng cổ phất phới bay... Màu
hoa phượng rung rinh trên bầu trời. Nó giống như một cơn lốc rực rỡ".
Mười
hai năm sau, cô gái được mệnh danh là đồ quỷ đó vẫn giữ được "tiếng cười
như tiếng chuông... lanh lảnh, giòn giã, chói chang".
Nhân
vật nữ ấy thật đã mang đủ cốt cách văn chương của Dương Thu Hương. Lấy ham hố
quyết liệt làm động lực, trong quá đáng tìm thấy sự quân bình, -- văn Dương Thu
Hương hiện nay có những đoạn sắc sảo đến tàn nhẫn, nhưng cũng nhiều ý tưởng tha
thiết khiến người dửng dưng cũng phải nao lòng.
Ưu thế của một cây bút phụ nữ sử dụng đến đâu
thì vừa, đến đâu là lạm dụng - câu hỏi ấy có lúc người đọc thấy phải đặt ra. Bởi
lẽ ở đây, biết bao ẩn ức chôn chặt đáy lòng, biết bao dồn nén, người khác không
dám nói ra, tác giả đã nói ra bằng hết.
Điều
có phần chắc chắn hơn là dù không hoàn toàn tán thành cách nhìn đời sống của
Dương Thu Hương, người ta vẫn muốn đọc văn Dương Thu Hương.
Sự
nồng nhiệt trong say mê yêu ghét và những nhạy cảm trong quan sát đã giúp cho
ngòi bút đi đến cùng trong phạm vi mà tác giả muốn biểu hiện.
"Tài
năng là một sự ám ảnh, là ngọn sóng điên cuồng cũng như cơn gió định mệnh nó
cuốn ta đến một mục tiêu nhất định... Mỗi nhà văn là một con bệnh, một con bệnh
trầm trọng." Đấy là cách mô tả của L. Leonov về một loại người viết
văn hiện đại (cố nhiên không phải ai cũng vậy). Trong chừng mực nào đó, Dương
Thu Hương chính là kiểu người cầm bút vừa khít với nhận xét ấy của nhà văn
Xô-viết.
Đời sống tinh thần con người hậu chiến
Những
bông bần ly, một trong
những thiên truyện được viết sớm nhất và thuộc loại hay nhất của Dương Thu
Hương có một cốt truyện khá đơn giản.
Men theo những vui buồn chợt đến trong lòng
nhân vật Ngân qua chuyến đi từ một tỉnh miền Bắc vào Tây Nguyên bốc mộ cho
người em trai và một người bạn, tác giả khéo léo giới thiệu cảnh ngộ éo le của
Ngân, tình yêu nồng nàn của chị hôm qua với một chiến sĩ và cuộc sống khó chịu
bên người chồng lãnh đạm và vô vị của chị hôm nay.
Chuyến
đi do vậy đóng vai trò một thứ nhân tố khẳng định thêm những nhận thức nẩy nở
dần trong tâm trí Ngân.
Sau
chiến tranh, mỗi chúng ta đã giàu có thêm lên nhưng cũng đã mất mát bao nhiêu
trong tình cảm. Có cả những sai lầm nó sẽ đeo đẳng theo mãi chúng ta và không
bao giờ ta gỡ ra nổi. Cuộc sống mơ mộng chấm dứt, nhưng biết làm sao, đôi lúc
chỉ còn an ủi là những người đã nằm xuống sẽ có lúc trở về, nâng đỡ chúng ta
trong những đoạn đường sắp tới.
Cùng
mạch cảm hứng với Những bông bần ly trong những năm khoảng từ 1975 đến
1980, Dương Thu Hương còn viết nhiều truyện ngắn mà dấu vết của một cuộc sống
từ chiến tranh chuyển sang hoà bình in khá đậm.
Miền cỏ tơ phác ra cảnh nương tựa vào
nhau hàn gắn lại hạnh phúc giữa những con người cùng có những thất thiệt sau
cuộc chiến.
Loài
hoa biến sắc giống như một sự tự xác định. Phải qua việc tiếp xúc thực sự
với một cô gái ở cái tình thế sống nhờ vào túi tiền người khác, một cô gái từng
là thanh niên xung phong mới thoát ra khỏi cảm giác tự ti và những thèm muốn
dậy lên trong lòng khi trở về thành phố.
Trong Ban
mai yên ả (sang tập Chân dung người hàng xóm in ở Nxb Văn học
được đổi thành Buổi sáng yên tĩnh), nhân vật chính còn tìm cách trở về
với xã hội bằng cách bắt tay cụ thể hơn vào công việc hoà nhập với đời sống
bình thường ở hậu phương hôm qua. Nhưng trước mắt anh bao nhiêu là khốn khó.
Lối sống tỉnh lẻ tuỳ tiện, lười biếng, thái độ dửng dưng vô trách nhiệm đã ăn
thành nếp ở một vài người có chức có quyền, những cái đó như một thứ keo đặc
vây bủa lấy anh, khiến những ý định tốt lành sẵn có ở anh khi trở về không sao
có thể thực hiện. Chỉ muốn sống cho lương thiện thôi, anh đã buộc phải làm
phiền bao nhiêu người và thái độ bướng bỉnh của anh gây cho họ nhiều bực bội.
Đến
đây, câu chuyện đã vượt qua phạm vi những người trở về để đứng ra nhìn thẳng
vào đời sống của cả xã hội hậu chiến.
Hướng
khai thác thường thấy ở Dương Thu Hương là tìm cách xé tuột cái vẻ bề ngoài nếu
không dễ thương thì cũng coi được, để khơi thẳng vào những gì thuộc về thực
chất của các hiện tượng cũng như các mối quan hệ.
Trong thiên truyện vừa dẫn (Ban mai yên ả),
nhân vật hoạ sĩ Đàm Tiến tưởng là tốt bụng, thậm chí là một nghệ sĩ có tài nữa,
hoá ra là một kẻ sống cẩu thả, lười biếng, thờ ơ với mọi người chung quanh, gọi
là ăn bám cũng không có gì quá đáng.
Cả Loài
hoa biến sắc lẫn Ngôi nhà trên cát, Chuyện nghe thấy mà không nhìn thấy lẫn
Một khúc ca buồn đều có những cảnh sống bề ngoài tưởng là đầm ấm dễ chịu,
mà thực ra, đủ vẻ nhếch nhác khốn nạn.
Khi cần khai thác một đề tài thời sự như trong
Chân dung người hàng xóm, Dương Thu Hương cũng vẫn trung thành với cách
viết của mình; toàn bộ thiên truyện giống như một động tác lật tẩy: Đấy!
Con người ta hôm nay mới thế mà mai đã như thế, như thế...
Một
mô-típ thường được tác giả láy đi láy lại: giữa ước ao của con người thời trẻ
và thực tế cuộc sống người ta phải sống thường là cả một khoảng cách xa vời,
không sao lấp đầy nổi. Mà tai vạ không phải ai đâu mang lại, ma đưa lối quỷ
đưa đường, tai hoạ thường do ta tự chuốc lấy, mọi tai ương đều do chính ta
lựa chọn, không thể trách ai khác (Ngôi nhà trên cát, Chuyện một nữ diễn
viên).
Một mô-típ nữa cũng được tác giả ưa thích: Nhu
cầu thường xuyên về hạnh phúc của con người và những đau đớn ê chề người ta
thường gặp trong công cuộc truy tìm hạnh phúc.
Trong
nhiều thiên truyện, qua miệng mọi người, cả đàn ông cũng như đàn bà, luôn luôn
thấy vang lên cái câu hỏi nhức nhối: hạnh phúc là gì? Tai ương và hạnh phúc,
làm sao để biết chính xác cái gì sẽ đến với mình?
Ở
truyện này người chồng biết điều, đứng dắn, lấy phải người vợ tham lam, học
đòi. Ở truyện kia, người đàn bà nhạy cảm tinh tế phải sống suốt đời với hạng
đàn ông tầm thường, đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hoặc tàn ác, vụ lợi. Ở một
thiên truyện khác, đứa con khôn lớn, gặp lúc bố mẹ đổ đốn.
Mà ở
thời này, những bộ mặt xấu xa ấy có nhợt nhạt để cho người ta bỏ qua đâu, luôn
luôn nó hiện ra quá quắt, quái gở đến phát sợ!
Có thể
rất lâu, ngươì ta vẫn sống yên ổn bên nó, song, chớ vội mừng. Khi đã phát hiện
ra nó một lần rồi thì cay đắng, ngán ngẩm vô cùng, tưởng không sức đâu mà chịu đựng nữa!
Theo cách miêu tả của Dương Thu Hương, có
những người càng giàu có lên và đắp điếm thêm ít tri thức vào đầu, càng tầm
thường hơn trong nhân cách. Dù có lừa được hết cả thiên hạ, họ cũng không lừa
nổi những người thân trong gia đình. Hoá ra hạnh phúc không phải ở tất cả những
tiện nghi người ta bon chen để có bằng được, hạnh phúc là ở sự tương hợp giữa
người với người, giữa con người và hoàn cảnh, và -- trên một phương diện khác
-- ở tầm sâu của nhận thức và tầm cao
của nhân cách.
Nhưng
đã mấy người có được cả những phẩm chất tuyệt vời lẫn những may mắn hiếm có ấy.
Biết
bao người trong khi ráng sức đắp xây cho hạnh phúc, thực ra lại củng cố cái nhà
ngục của đời mình và khi nghĩ lại, đã quá muộn.
Trong
sự nhạy cảm với bất hạnh, toàn bộ sức mạnh trong ngòi bút phụ nữ ở Dương Thu
Hương được dịp bộc lộ và người ta có cảm tưởng ít khi trong văn học ta, nhu
cầu hạnh phúc được diễn tả một cách ráo riết đến thế.
Một điều cũng thấy rất rõ là mặc dù trước sau,
vẫn một chủ đề ấy, song, mỗi khi chạm tới người và việc, Dương Thu Hương đều có
được sự say mê và truyền được nỗi say mê ấy sang người đọc. Dù đã nhiều lần
khắc hoạ những bộ mặt khác nhau của bất hạnh song tác giả đã tìm ra cách để có
thể nói mãi và chúng ta còn muốn nghe chị nói thêm.
Tại
sao? Người bất hạnh chung quanh ta còn nhiều? Có thể.
Nhưng
có lẽ cái chính là ước ao hạnh phúc trong tác giả, trong các nhân vật trong
chính chúng ta, nỗi ao ước đó thật khôn cùng.
Nghĩ
tới nó, lòng ta đã thổn thức!
Mặc dù
bao lần thất bại đi nữa, song ý muốn vươn tới hạnh phúc ở mỗi chúng ta làm sao
có thể nguôi giảm!
Phá cách, lật tẩy,
cay đắng, tàn nhẫn
Cùng
bắt rễ vào thực tại, song mỗi nhân cách sáng tạo vẫn là một cá tính độc đáo , giống
như một thứ cây mang lại cho đời một thứ quả riêng, không giống mọi loại cây
khác.
Đào
sâu vào mình, trung thành với mình vừa là nhu cầu tồn tại, vừa là niềm vui.
Từ tác
phẩm này sang tác phẩm khác, người ta cứ thế đi mãi theo phương hướng đã lựa
chọn, ở đó cái hay cái dở cài lẫn vào nhau, tự mình cũng đã nhận ra, nhưng muốn
khác đi, đâu có khác nổi.
Những
yếu tố đầu tiên liên quan đến sự hình thành bút pháp Dương Thu Hương có lẽ là
gắn liền với quá trình vào nghề cụ thể của tác giả. Cây bút này bắt đầu viết
hơi muộn; trước 30 tuổi mới rụt rè gửi những bài thơ của mình từ một tỉnh miền
Trung về Hà Nội và chỉ ngoài 30, mới bắt tay vào cái mạch chính của mình là
viết truyện.
Liệu tình yêu văn học của người con gái Kinh
Bắc cũ này có gì giống với trạng thái tâm lý mà Sô-lô-khốp đã mô tả "Khi
tình yêu đến muộn màng với một người đàn bà thì nó không nở ra thành một đoá
uất kim hương ngoài đồng nội, mà nở thành một thứ hoa dại mọc ở lề đường, có
mùi hương ngây ngất, ma quái?"
Chỉ
biết quả thật đó là một thứ tình yêu khác thường. Chất hoa dại mọc lề đường
ở văn xuôi Dương Thu Hương thể hiện ra đủ vẻ.
Đó là
một thứ văn khá sặc sỡ, tình ý đôi khi ngả mầu cải lương, câu chữ nhiều chỗ
khoa trương bóng lọng (một nhà thơ nhận xét:”nhiều những chữ có lẽ chỉ thơ ca
mới dùng, mà cũng chỉ dùng có mức độ, ở đây Dương Thu Hương cân tất “), song nhờ vào những rung cảm
thực của tác giả nên các truyện vẫn có khả năng lôi cuốn bạn đọc.
Một
trái trăng thu chín mõm mòm - Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom. Trong thơ Hồ Xuân Hương xưa đã có lối
diễn tả gắt, đậm, lối viết gần như bóp méo hình tượng và tạo ra những vẻ đẹp
khác đời, nếu không muốn nói là thô kệch vậy.
So với tì vị chúng ta, chúng quá
"nặng" và chỉ dần dần, ta mới quen nổi.
Trên
phương diện tạo hình và rộng hơn, trong mỹ cảm, ở văn xuôi Dương Thu Hương hôm
nay, chúng ta cũng bắt gặp những quá đáng tương tự.
Mầu
sắc rực rỡ, toàn loại mầu nóng.
Âm
thanh thì chói chát, khó quen với lỗ tai.
Trời
đất lúc nào cũng lộng gió và như cháy lên với những cánh hoa kim phượng trưa
hè.
Còn
con người thì nôn nao những khao khát dự định, dù cố ghìm lại, song không ghìm
nổi, họ cứ phải kêu to lên những ý nghĩ của mình và chỉ sợ không làm ngay, tất
cả sẽ trôi tuột đi mất.
Niềm say mê đô thị mà tác giả có lần
lưu ý ta, khi tả tính cách một nhân vật (cô gái xưng tôi trong Những cánh
buồm trong thành phố, tập Ban mai yên ả) có lẽ cũng là niềm cảm hứng
chính chi phối văn xuôi Dương Thu Hương và bởi lẽ niềm say mê ấy đến với tác
giả muộn màng, nên có lúc nó có gây ra những choáng ngợp.
Trên nét lớn, thế giới nghệ thuật ở Dương Thu
Hương hiện nay có sự phân cực rõ rệt.
Một
đằng là những kỷ niệm thời thơ ấu, một thứ bản giao hưởng đồng quê đầy
thi vị, nào những ban mai đánh trâu ra đồng, nào những lần vùi khoai, nướng cá,
ăn ngay ngoài bãi cỏ, thiên nhiên con người sống hoà hợp với nhau, đường nét
tinh tế như văn Đỗ Chu hồi trước.
Một
đằng là sinh hoạt thành phố, những quán ăn đông người, những tiện nghi hiện đại,
mốt quần áo, và các bản nhạc mới nhập từ nước ngoài về, tóm lại là cảnh sống
gấp gáp, chộn rộn, con người ai cũng nói nhiều, bao nhiêu tiếng nói cùng cất
lên thành một mớ âm thanh hỗn độn.
Trước những bất hạnh gặp trên đường đời, các
nhân vật của Dương Thu Hương -- những nhà báo, nhà thơ, diễn viên, hoạ sĩ (đúng
là Dương Thu Hương rất thích tuyển chọn nhân vật từ những người trong cái thế
giới nghệ thuật đa dạng này!)...-- thường nhớ tới những phương trời mơ ước thuở
nhỏ, bãi cát ven sông, làn nước mát lạnh, những cảm giác trong sáng hồn nhiên.
Song muốn hay không muốn, tất cả họ - và trước
tiên là người đã sáng tạo nên họ, trước tiên là tác giả - đâu có thoát nổi đô
thị, càng giãy giụa thì họ càng chìm sâu vào cuộc sống nơi đây, tâm trí họ như
mê đi, chân họ bước mãi về phía của tiếng ồn của ánh sáng.
Phải
công nhận là niềm say mê đô thị ở Dương Thu Hương quá mức mạnh mẽ. Chỉ quy về cảm
hứng đô thị, chúng ta mới hiểu tại sao nhà văn này thường có lối viết rất
thô, lối miêu tả đôi khi khá trâng tráo -- từ nỗi ghen tị day dứt trong lòng
một người con gái trước những người con gái khác xinh đẹp hơn mình, cho đến cảm
giác "những bông lúa vàng ướt át và sắc cạnh cọ vào da thịt".
Chỉ
quy về cảm hứng đô thị đó, chúng ta cũng mới hiểu tại sao tác giả không
ngại trình bày mình qua các trang viết như là một người soi mói không thương
tiếc vào những chuyện xấu xa chung quanh, hoặc để cho các nhân vật sẵn sàng
sừng sộ với nhau, xỉ vả nhau là "cứt nát hết cả rồi", là "bốc
lên mùi cóc chết", và không khí chung quanh đôi khi toàn những khai lợm,
tanh tưởi...
Giả sử
mọi nhà văn đều viết như thế, có lẽ người đọc sẽ phát rồ.
May thay trong thực tế lại không có cái việc
giả sử đó. Trong văn học ta sau 1945 đây là một trong những trường hợp đầu
tiên.
Và ta có
thể an ủi sở dĩ nảy sinh văn xuôi Dương Thu Hương, đó là do tác giả muốn tạo
nên một thứ đối trọng bên cạnh bao nhiêu ngòi bút đôn hậu khoẻ khoắn nhưng cũng
lắm khi nhạt nhẽo khác.
Sau khi đọc những Ban mai yên ả, Chân dung
người hàng xóm rồi, bạn đọc có muốn trở về những cây bút mực thước ấy thì
vẫn còn kịp.
Đỉnh
cao của lối nhìn, lối viết đầy thách thức trên đây của Dương Thu Hương là hai
truyện ngắnThợ làm móng tay và Sói
con.
Giữa
nhân vật Sáng thuở nhỏ thủ dao cùn trong túi và lén tập võ để lo có ngày trả
thù cho cha bị Tây giết với chú Sáng hôm nay quỳ mọp bên chân các bà các cô
nhiều tiền, cốt kiếm miếng ăn qua ngày (Thợ làm móng tay), quả thật, có
cả một trời xa cách.
Đọc
xong truyện này, người ta không khỏi xót xa khi nghĩ rằng sao mà trường đời xô
đẩy con người theo những nẻo lối đến là trớ trêu, và trong muôn thứ nghề nghiệp
của con người, sao lại có những nghề kỳ cục vậy.
Nhưng
đến Sói con, người ta còn được chứng kiến một trường hợp vừa thương tâm
vừa ghê tởm hơn nữa.
Trong Sói
con, sự sụp đổ của mơ ước, sự vô nghĩa của kiếp người hiện ra rõ rệt trong
thân hình tàn tạ của một phụ nữ, một cô me Mỹ mới mười bảy tuổi nhưng đã trải
qua mọi thứ khoái lạc trong đời để rồi trở về nằm liệt trong một ngõ vắng thân
hình loã lồ ruồi bâu gián bò không đủ sức
đuổi.
Có thể
trong đời sống cũng có một chuyện như thế, nhưng ngòi bút của tác giả ở đây
thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả, và nhiều người đọc đã
nhận xét là tác giả có phần ác quá.
Có điều, phải nhận, những truyện trên đã bộc
lộ đầy đủ cái chất riêng của bút pháp Dương Thu Hương. Ta đã chấp nhận phong
cách này, thì hãy để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa
vời.
It ra
thì ở Dương Thu Hương cũng khộng có cái lối xuê xoa, thoả hiệp của những cây
bút khéo tay.
Còn
nếu sau khi đọc xong những Thợ làm móng tay, Sói con, người đọc có thấy
ghê sợ hơn trước những cạm bẫy đang mở ra trước cuộc đời mình để lo sống cho
tỉnh táo hơn, mực thước hơn, thì đấy cũng đã là một thành tựu mà không phải tác
phẩm văn học nào cũng có thể làm được.
Viết như một sự vượt thóat
Mặc dù
còn gặp nhiều khó khăn về giấy mực, in ấn, nhưng đời sống văn học mươi năm gần
đây vẫn có sự phát triển vượt bậc về số lượng. Ngoảnh đi ngoảnh lại mới độ vài
năm, nhiều cây bút trẻ đã cho in ra đến dăm bảy cuốn sách. Chỉ hiềm một nỗi
chất lượng không phải bao giờ cũng đi liền với số lượng. Sách ra, trong sự hờ
hững của đời sống. Lại có không ít trường hợp sự hoan nghênh kia chỉ là tạm
thời giả tạo, sớm nở tối tàn, vì tuy có chiều lòng được một lớp công chúng nào
đó, nhưng nhìn cho kỹ vẫn không phải là những giá trị chân chính.
Đặt
trong hoàn cảnh ấy, mới thấy những thành tựu Dương Thu Hương gặt hái được là
đáng quý. Ngòi bút này đang độ viết khoẻ và viết khá đều tay. Bên cạnh những
tập truyện ngắn đã in, chị còn là tác giả của tập tiểu thuyết Hành trình
ngày thơ ấu kể lại cuộc phiêu lưu của một cô bé mười hai tuổi, vừa ngỗ
ngược, vừa tốt bụng, được các bọn đọc nhỏ tuổi rất thú.
Bạn đọc cũng như các đồng nghiệp trong giới
viết văn, kể cả những người khó tính bậc nhất đều chú ý và đánh giá khá cao
sáng tác của Dương Thu Hương.
Đây có lẽ là tác giả trẻ nhất cùng lúc có mặt
trong các tuyển tập truyện ngắn do các nhà xuất bản Văn học, Giáo dục, Tác phẩm mới in ra trong năm 1985. Và nếu tính
riêng trong lớp các nhà văn mới xuất hiện mươi năm gần đây, là tác giả duy nhất.
Tại
sao dư luận lại đặc biệt chú ý tới Dương Thu Hương như vậy, dù nhiều người cũng
biết là thế giới trong văn xuôi tác giả này có phần chật hẹp, và ngòi bút của
tác giả còn chông chênh, lắm khi tác phẩm như được viết trong cơn sốt, diễn
biến thất thường, kết cấu không thật chặt chẽ, chi tiết sai lầm chắp vá?
Theo
tôi hiểu, ở đây có mấy lý do. Phần thì do Dương Thu Hương đã chạm đến cái khu
vực nhạy cảm trong mỗi chúng ta là câu chuyện gia đình, những ước ao hạnh phúc.
Quan trọng hơn, là lối viết "hết mình" của tác giả.
Về cơ bản đây là một ngòi bút chân thành, thái
độ yêu ghét rõ ràng, và luôn luôn cùng vui cùng buồn với mọi sự kiện nói tới
trong tác phẩm.
Viết,
đối với chị, nhiều khi là một sự giải thoát.
Chúng ta nhớ đoạn mở đầu Sói con:
"Đó là một kỷ niệm khó quên. Bởi nó giống như sự ám ảnh của ngục tù. Đã có
những tháng ngày dài, tôi không nhớ tới, nhưng rồi bất chợt, nó lại hiện lên rõ
ràng, như vừa mới gặp chiều hôm trước. Và như thế, tim tôi lại quặn thắt lên
bởi những nỗi đau lạ lùng. Cuối cùng, tôi viết ra để trốn thoát những dày vò,
day dứt..."
Đoạn
văn có cái giọng của một thứ tự thú, không những đúng với Sói con mà con
đúng với nhiều thiên truyện khác của cùng tác giả. Tâm trạng của một người buộc
phải đi đến cùng trong sự lựa chọn của mình ở đây là điều dễ tạo ra sự thông
cảm. Chừng nào còn giữ được cái chân thành của những điều nhất thiết phải nói
ra, tác phẩm của Dương Thu Hương còn được nhiều người tìm đọc.
Published on January 11, 2016 20:17
January 6, 2016
Mấy nhà văn hậu chiến. Bài I: Lê Lựu
Lời dẫn
Mỗi khi có
dịp nói về văn học từ 4-1975 đến nay, báo chí chỉ hay nói tới thời kỳ từ
1986 và gọi nó là văn học đổi mới. Nhưng
với tôi, nên nhìn nhận giai đoạn này suốt
40 năm liền với cái đặc điểm chủ yếu về mặt xã hội của nó: một nền văn học hậu
chiến.
Trong thời
gian qua, ngoài các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh tôi cũng đã đề cập
tới mấy nhà văn khác. Các bài này tuy chưa tập trung đi vào mối quan hệ giữa nhà văn và cái “thời gian lớn” mà sáng tác của họ ra
đời, nhưng đều có manh nha gợi ý ít nhiều. Vậy xin được tự tái bản sau khi đã
có một chút điều chỉnh và bổ sungcho rõ ý hơn.
NHẬN DIỆN CON NGƯỜI HẬU CHIẾN
TRONG THỜI
XA VẮNG
“Có những cuốn sách làm cho người đọc căm ghét cuộc sống; có những cuốn
sách làm cho người đọc thêm yêu đời nhiều hơn. Còn qua những trường hợp như Thời
xa vắng của Lê Lựu, đọc xong, tự nhiên tôi cứ thấy tiếc đời. Có lẽ không
chỉ nhân vật trong truyện mà không thiếu người trong chúng ta cũng có một đời
sống trớ trêu vô lý thế chăng ? Vậy phải sống thế nào bây giờ để khỏi xót xa,
ân hận?”
Một người cũng trạc tuổi như nhân vật Sài, sau khi gặp Sài qua những
trang sách của Lê Lựu, tâm sự như vậy. Mà không chỉ riêng anh. Ở nhiều người, ý
hướng thiết tha nhìn lại đời mình cứ thấy rộn lên, sau khi đọc Thời xa vắng,
người ta lấy Sài ra để soi vào đời mình, vận vào mình. Đó là một thứ may mắn mà
chỉ rất ít tác phẩm đạt tới.
Cắn răng lập nghiệp
Hai mô-típ thường thấy trong văn học
xưa nay là việc lập nghiệp của người ta trong cuộc đời và việc mưu cầu hạnh
phúc ở tuổi thanh niên, nhiều khi hai việc ấy chi phối toàn bộ đời sống con
người, nó là động lực để nhiều cá nhân trở lên hết sức năng động và có dịp bộc
lộ hết mình. Có lẽ vì thế mà nhiều tiểu thuyết xưa nay hưóng vào miêu tả hai
việc đó, để trình bày "bức tranh thế sự". Những tác giả lớn cũng là
những người mà qua việc miêu tả sự lập nghiệp, và mưu cầu hạnh phúc của con
người, biết chỉ ra rằng: điều quan trọng ở đây là nhận thức ngày một sâu sắc
hơn về đời sống và bản lĩnh của nhân cách - đấy mới là những nhân tố cơ bản để
có thể có được sự nghiệp và hạnh phúc chânchính.
Như Lê Lựu đã bộc bạch (Văn nghệ
số 12,1986) khi miêu tả lại quãng đời Sài, anh không chủ tâm kể về công việc cụ
thể mà chủ yếu đi vào tính cách nhân vật. Thành thử câu chuyện lập nghiệp của
Sài nói chung cũng không được trình bày với tất cả sự mạch lạc cần thiết của
nó. Nó chỉ được lồng vào chuyện hôn nhân của nhân vật lúc ban đầu.
Song không phải vì thế mà phương diện này ở con người Sài không rõ. Sài
đi bộ đội để được xa người vợ tảo hôn và có dịp tự do nghĩ ngợi hơn về một cô
gái mà anh yêu và cũng được anh yêu lại. Nhưng chỉ có thế! Do yêu cầu của sự
phấn đấu trong bộ đội, anh không dám tiến xa hơn một bước trong mối tình chân
chính của mình; rồi trong một lần về phép, anh lại cầm lòng chung đụng với
người vợ tảo hôn cũ để vừa lòng mọi người - cả hai việc đều cùng một mục đích
là cốt giành ưu thế trong phấn đấu về mặt chính trị.
Khi thuật lại chuyện này, Lê Lựu đã cực tả cái
cay đắng trong tâm lý người thanh niên và những trang trình bày lại lối áp đặt
vưà thân ái vừa thô bạo của chung quanh đối với Sài là những trang thuộc loại
hay nhất của tác phẩm.
Theo cách diễn tả của Lê Lựu, Sài chỉ bề ngoài
làm theo ý muốn của mọi người, còn trong bụng, anh rất đau khổ, thậm chí thấy
ghê tởm.
Từ đây bắt đầu một định hướng lớn trong cuộc đời Sài. Vui buồn cá nhân
không là gì cả, tiếng gọi của lý trí và khao khát lập nghiệp mới là động cơ
thúc đẩy hành động. Vì nhiều lý do ở hậu phương tạm thời chưa đạt được mục đích
ư? Sài lại sẵn sàng đi xa hơn, ra tận
mặt trận. Không phải vì nước vì dân gì cả. Mà chỉ để lập công, cái nhân tố
chính sẽ quyết định tương lai mỗi cá nhân.
Không mấy khi văn học chúng ta miêu tả
một nhân vật "ra đi" theo kiểu này.
Song không phải vì thế mà Sài xa lạ với đông
đảo bạn đọc.
Phần lớn người ở vào cái tuổi như Sài, lớn lên
trong những năm như Sài, đều sống, hành động như Sài và họ cũng đã thành công
như Sài của Lê Lựu.
Cái chung của họ là ý thức lập nghiệp chưa đi
đôi với nhu cầu nhận thức về đời sống và cũng chưa tạo nên một sự trưởng thành
trong nhân cách. Cũng vì thế mà sau khi yêu cầu lập nghiệp tạm gọi là
xong, Sài lao vào việc mưu cầu hạnh
phúc, thì lập tức thất bại.
Và cũng cắn răng mưu cầu hạnh phúc
Ra khỏi cuộc chiến đấu, Sài có cái may
là được ly hôn, dứt hẳn quan hệ với người vợ cũ. Và anh ở vào tâm trạng kẻ bị
giam hãm giờ được tháo cũi sổ lồng, kẻ bấy lâu thiệt thòi giờ có cơ đòi nợ. Anh
không nhìn thấy gì khác ngoài những bất hạnh của bản thân. Quá cay cú vì chưa
được nếm mùi sung sướng của mọi lạc thú trần gian, anh chạy thục mạng cốt săn
tìm cho được chút hạnh phúc mà anh tưởng trừ mình còn ai cũng có.
Con cá quả đói đớp mồi thế nào thì lúc
tìm vợ Sài cùng bộp chộp như vậy! Đứng ngoài nhìn, dễ thấy sao mà Sài cả tin,
nông nổi, khinh suất, giản đơn! Thậm chí, phải nói anh có những khía cạnh ích
kỷ nữa!
Nhưng kệ!
Với Sài, trước mắt chỉ có mỗi một việc
là truy lĩnh lại tuổi thanh xuân, bù đắp lại chỗ thiệt thòi mình đã phải chịu.
Thêm nữa, có một lý do để Sài càng "thục mạng" trong việc mưu cầu
hạnh phúc: anh đang là người thành đạt. Anh quá tự tin, thậm chí mê đi, tưởng mình là thần là thánh.
Ở anh không phải chỉ có cái hèn như
trước đó tác giả phân tích, mà còn có chút hợm. Hợm hĩnh, kiêu căng, hoắng lên
vì khả năng của mình, cho rằng mình đi đánh nhau còn được, thì bây giờ làm gì
cũng được.
Về sống ở thành thị, nhưng Sài không
hỏi thành thị là gì, mình cần làm gì để phù hợp với đời sống nơi đó. Bước vào
xây dựng gia đình lần thứ hai, nhưng anh không bao giờ ngẫm nghi xem mình sẽ có
một gia đình như thế nào, hạnh phúc của mình sẽ ở dạng như thế nào, trong thời
buổi này thế nào thì là một thứ hạnh phúc vừa phải mà loại người như mình có
thể có được.
Lý tưởng sống của Sài đơn giản, nếu
không muốn nói là tầm thường.
Thế thì làm sao mà anh không thất bại
được? Suốt phần hai của cuốn sách, chỉ thấy nhân vật Sài miên man trong hành động,
hết cuống lên vì yêu lại cấp tốc cưới vợ, rồi lo vợ đẻ, rồi cãi nhau với vợ,
rồi trông con ốm v.v...
Tất cả những trang này đã được tác giả dựng lại tỉ mỉ
nhưng chỉ là tả Sài trong hành động; đâu có lúc nào Lê Lựu cho nhân vật rỗi rãi
để ngẩng đầu lên mà nghĩ rộng ra về sự đời một chút. Thế thì làm sao có được sự định hướng chính xác tới các khát vọng cao cả!
Chỗ bi đát của Sài hình như là chỗ bi
đát của nhiều người chúng ta: tham bát bỏ mâm; mải làm việc vặt mà quên cái đại
thể.
Sau một thời gian khổ hạnh nay ai cũng
sống chết lo làm một việc gì đó kiếm lợi thêm cho gia đình và yên chí rằng thế là
hạnh phúc.
Còn hạnh phúc thật sự mặt ngang mũi dọc
là như thế nào thì không ai biết và hình như cũng không cần biết nữa!
Mục đích thực dụng liền đẻ ra cách nhìn
thiển cận.
Đời sống là gì, ý nghĩa của đời sống là gì,
những câu hỏi ấy chúng ta thường lảng tránh, ta bảo nó là siêu hình, trừu
tượng, nghĩ về nó là mất thì giờ, vô bổ, ai băn khoăn về nó là những kẻ ấm đầu
dại dột. Ta cứ nhắm mắt bước liều, để rồi đến lúc thấy thua thiệt, thấy lỗi lầm
thì đã muộn, và không hiểu sao cả, ta lại hoặc kêu trời hoặc đổ cho số phận.
Tóm lại, nói sống vụng còn là nhẹ, hình
như ta không biết sống, đấy mới là điều đau hơn, đáng tiếc hơn.
Và toàn bộ Thời
xa vắng là tiếng kêu của cả một lớp người cho tuổi trẻ của mình, cuộc đời
mình; ngay khi thành đạt trong lập nghiệp nữa, họ vẫn bất hạnh, vì không biết
sống.
Có thể bản thân Lê Lựu chưa có ý thức về
điều này và một người như nhân vật Sài càng không bao giờ nhận ra điều này.
Nhưng chính nó mới là cảm tưởng
mà một người đọc như tôi thu nhận được qua sự miêu tả của Lê Lựu trong Thời
xa vắng.
Một cách lặng lẽ, tác phẩm gợi lên ở nhiều người chút động lòng và sự nuối
tiếc, như từ đầu chúng tôi đã nói. Sự nuối tiếc ở đây là cái hích đầu tiên, để
người ta nghĩ tiếp và tìm ra cho mình cách sống xác đáng. Song nghĩ rộng hơn
một chút, phải thấy nếu như có cách nào
đó để làm cho những người như Sài kia tỉnh táo sớm hơn, nhận ra tình cảm của
mình nhanh chóng hơn và có cách sống hợp lý hơn, sự hỗ trợ của xã hội cho cá
nhân như thế mới gọi là hoàn toàn.
Ảo tưởng một lần ảo tưởng vĩnh viễn
Có một khía cạnh nữa của cuốn sách
người ta cũng hay bàn là đoạn kết, khi Lê Lựu cho nhân vật về nông thôn lo việc
hợp tác xã.
Đối chiếu với xu hướng chính của tác
phẩm là ca ngợi sự trở về mình, thì đoạn kết đó là có lý. Hôm qua Sài không dám
lấy Hương mà bấm bụng chịu thiệt, chẳng qua là " không dám là mình
",rồi lúc lấy Châu nữa, anh lại bất hạnh vì không biết mình là ai, vơ
quàng vơ xiên, chạy theo những cái mình không có. Đi theo đường hướng như thế,
cả hai phần đầu cuốn sách dường như đã chuẩn bị sẵn để mở ra cách giải quyết mà
Lê Lựu viết trong đoạn cuối.
Nhưng đó mới là cách hiểu, cách cắt nghĩa
của chính người viết. Với tôi, khi đọc sách để
tính chuyện qua trường hợp của Sài rút ra những bài học cho mình, thì
đoạn cuối ấy lại chưa chắc đã là hợp lý.
Thật vậy, như trên vừa nói, sở dĩ Sài
thất bại trong việc mưu cầu hạnh phúc với Châu vì ở anh không có sự “tiêu hóa”
cần thiết về đời sống của mình, không có sự tự ý thức cần thiết. Tình yêu là
lĩnh vực không thể dối trá. Và Sài cũng không dối trá. Ấy vậy mà trong khi yêu
người vợ mới say đắm và sẵn sàng tha thứ cho Châu tất cả thì Sài vẫn bất hạnh,
sự yêu chiều của anh là một cái cớ để Châu coi thường anh, sự nép mình chịu
đựng là một thứ lửa đổ thêm dầu phá vỡ hạnh phúc gia đình anh.
Một động cơ tốt có thể đẻ ra một kết
quả tồi tệ không mang lại lợi lộc cho ai; tác giả đã tỏ ra rất thấu hiểu tình
đời khi làm toát ra từ nhiều tình tiết trong truyện một kết luận như thế.
Nhưng
thử hỏi ở phần cuối Lê Lựu cho Sài về nông thôn với cái gì? Không gì khác, cũng
lại rất nhiều ảo tưởng về sự chân thành của mình, một cái gọi là thuộc
"đồng đất con người quê hương" và những thói quen cố hữu của người
nông dân mà hôm nay anh vẫn giữ được. Rồi trong không khí vội vã của đoạn kết,
nhà văn cho biết là Sài đạt nhiều kết quả, trong ba năm anh đã làm thay đổi bộ
mặt làng Hạ Vị và chính anh cũng trở lên khoẻ khoắn hơn, sôi nổi hơn.
Đọc đoạn này, chắc bạn đọc không nhận
ra ngòi bút Lê Lựu như phần trước nữa. Vâng nghĩ lại thì thấy nông thôn mà Sài
trở về đó tưởng là nơi nào khác chứ không phải là làng quê rất đáng yêu, nhưng
cũng rất lạc hậu, con người bị cầm tù trong tư tưởng làm thuê và lối sống cổ hủ
như nhà văn đã tả.
Hình như Sài đã quên. Chính trong vòng tay của
những người thân yêu đó, mà Sài bị ép lấy vợ tảo hôn và chịu nhiều đau khổ
khác. Sao khi nhìn nông thôn thông hôm qua, Lê Lựu sâu sắc thấu đáo, mà nhìn
hôm nay, ngòi bút của nhà văn lại dễ dãi thế!
Ấn
tượng lớn nhất khi đọc đoạn cuối tác phẩm là thấy không thể tin được. Sao trong quan hệ vợ chồng Sài ngớ ngẩn vụng dại vậy
mà bây giờ, Sài tự nhiên anh ta như có phép tiên, nghĩa là nhìn mọi vấn đề ở
quê hương rất sáng tỏ, làm đâu trúng đấy. Thành công của anh không hề dựa trên
một chuyển biến nhận thức nào, như thế
thì làm sao mà bạn đọc tin được?
Người đọc dễ đoán ra rằng cũng là hình thành
lên trong cơn say (lần này là say sưa "trở lại chính mình"), chắc gì
"mối tình" của Sài với làng quê khác mối tình của anh với Châu, nghĩa
là mới thoạt đầu thì rất yên ấm, nhưng sau đầy rẫy lôi thôi, khốn khó!
Mặc dù Sài đã lớn tiếng tuyên bố "đến
bây giờ mới biết là mình như thế nào..." (Thời xa vắng tr
319), nhưng chúng ta cứ cảm thấy nhân vật này chưa tiêu hoá hết những đau khổ
trong việc lập nghiệp và mưu cầu hạnh phúc hôm qua, chưa rút đúc nó thành kinh
nghiệm sống chắc chắn.
Bởi ở Sài ảo tưởng còn nặng nề, nên
những đau khổ vẫn còn chờ ở phía trước, dù anh quay về nông thôn hay ở lại
thành thị cũng vậy.
Viết về quá trình tự nhận thức của con người,
cách tốt nhất để văn học tham gia vào các vấn đề thời sự
Xét bề ngoài, phải nhận tập tiểu thuyết
này của Lê Lựu là một sách yếu về tay nghề: câu chuyện nhiều chỗ không mạch
lạc, tác phẩm thiếu sự cân xứng tối thiểu, hình như lúc viết, tác giả chỉ cắm
cúi dồn hết ý mình có lên trang giấy, nên chữ nghĩa lủng củng, câu cú rối rắm,
ý nọ nhằng sang ý kia rất khó theo dõi. Song tại sao Thời xa vắng vẫn có
sức cuốn hút ? Lý do có lẽ ở cái chất sống tươi ròng nơi tác phẩm. Cách viết
cách trình bày hết mình của tác giả khiến cho người ta có cảm tưởng rằng có lẽ
đúng là có một anh Sài như thế với câu chuyện như thế -- trong văn học, đấy là
đầu mối làm nên sức hấp dẫn. Khi ta nhận ra ở Sài có rất nhiều nhược điểm của
con người hôm nay (chẳng hạn "duy ý chí ", "quá nhiều tham vọng",
"thiển cận,thiếu sự hỗ trợ cần thiết của văn hoá.." ) cũng là lúc ta
cảm thấy rất gần với nhân vật này. Từ ấy, sự đọc sách có được sự hào hứng, y
như được nhìn vào kiếp sống của một người khác rồi rút kinh nghiệm cho chính
mình. Khi nhà văn đã đủ sức làm cho bạn đọc tin, thì mọi biện pháp kỹ thuật
nghề nghiệp có yếu một chút, cũng sẽ được bỏ qua. "Câu chữ là quan trọng,
nhưng trong văn học, yếu tố hàng đầu vẫn là tâm huyết "- lại một lần
nữa,chân lý nghệ thuật đó được khẳng định.
Bằng cách đi sâu vào cuộc đời một cá
nhân, Thời xa vắng đồng thời là một tác phẩm có tính thời sự rõ rệt. Để
tạo ra hiệu quả thời sự cho những trang sách của mình, lâu nay ở một vài tác
giả thường thấy có lối viết đi vào các vấn đề xã hội - kinh tế cấp thiết, nhờ
đó gợi được sự chú ý của một lớp bạn đọc nào đó. Lê Lựu không làm thế, Lê Lựu
chỉ nói riêng về con người, những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề
muôn thuở, mà cũng là vấn đề chúng ta đã nói đi nói lại rất nhiều. Đúng thế.
Nhưng chẳng phải là vào những ngày này, sau khi nhận ra không biết bao nhiêu
chuyện thiết yếu và đòi hỏi được giải quyết cấp bách, thì chúng ta đều nhận
thấy vấn đề khái quát này lại càng nổi lên hàng đầu, nó là mẫu số chung của
hàng loạt hiện tượng, nó là khâu cơ bản từ đó đóng góp phần gỡ dần ra các khâu
khác. Trong việc miêu tả, nhận diện con người, nghĩa là nhìn con người trong
biến chuyển của thời gian văn học có những ưu thế lớn lao. Làm thế nào để giúp
con người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn, từ đó tìm được cách sống hợp lý
hơn, đấy vẫn là một nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay
muốn đảm nhận.
Có thể là tác giả không có ý thức đầy đủ, nhưng xét trên hiệu
quả khách quan, Thời xa vắng đã ít nhiều làm được điều đó, nó
chính là lý do khiến cho người ta nếu có dịp đọc lại tác phẩm, vẫn rút ra được những thu hoạch bổ ích trên phương diện tìm tòi phương cách làm người của mình, tức phương diện nhân bản.
1986
Đã in trong Vương Trí Nhàn Phê bình &Tiểu luận, 2008
Mỗi khi có
dịp nói về văn học từ 4-1975 đến nay, báo chí chỉ hay nói tới thời kỳ từ
1986 và gọi nó là văn học đổi mới. Nhưng
với tôi, nên nhìn nhận giai đoạn này suốt
40 năm liền với cái đặc điểm chủ yếu về mặt xã hội của nó: một nền văn học hậu
chiến.
Trong thời
gian qua, ngoài các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh tôi cũng đã đề cập
tới mấy nhà văn khác. Các bài này tuy chưa tập trung đi vào mối quan hệ giữa nhà văn và cái “thời gian lớn” mà sáng tác của họ ra
đời, nhưng đều có manh nha gợi ý ít nhiều. Vậy xin được tự tái bản sau khi đã
có một chút điều chỉnh và bổ sungcho rõ ý hơn.
NHẬN DIỆN CON NGƯỜI HẬU CHIẾN
TRONG THỜI
XA VẮNG
“Có những cuốn sách làm cho người đọc căm ghét cuộc sống; có những cuốn
sách làm cho người đọc thêm yêu đời nhiều hơn. Còn qua những trường hợp như Thời
xa vắng của Lê Lựu, đọc xong, tự nhiên tôi cứ thấy tiếc đời. Có lẽ không
chỉ nhân vật trong truyện mà không thiếu người trong chúng ta cũng có một đời
sống trớ trêu vô lý thế chăng ? Vậy phải sống thế nào bây giờ để khỏi xót xa,
ân hận?”
Một người cũng trạc tuổi như nhân vật Sài, sau khi gặp Sài qua những
trang sách của Lê Lựu, tâm sự như vậy. Mà không chỉ riêng anh. Ở nhiều người, ý
hướng thiết tha nhìn lại đời mình cứ thấy rộn lên, sau khi đọc Thời xa vắng,
người ta lấy Sài ra để soi vào đời mình, vận vào mình. Đó là một thứ may mắn mà
chỉ rất ít tác phẩm đạt tới.
Cắn răng lập nghiệp
Hai mô-típ thường thấy trong văn học
xưa nay là việc lập nghiệp của người ta trong cuộc đời và việc mưu cầu hạnh
phúc ở tuổi thanh niên, nhiều khi hai việc ấy chi phối toàn bộ đời sống con
người, nó là động lực để nhiều cá nhân trở lên hết sức năng động và có dịp bộc
lộ hết mình. Có lẽ vì thế mà nhiều tiểu thuyết xưa nay hưóng vào miêu tả hai
việc đó, để trình bày "bức tranh thế sự". Những tác giả lớn cũng là
những người mà qua việc miêu tả sự lập nghiệp, và mưu cầu hạnh phúc của con
người, biết chỉ ra rằng: điều quan trọng ở đây là nhận thức ngày một sâu sắc
hơn về đời sống và bản lĩnh của nhân cách - đấy mới là những nhân tố cơ bản để
có thể có được sự nghiệp và hạnh phúc chânchính.
Như Lê Lựu đã bộc bạch (Văn nghệ
số 12,1986) khi miêu tả lại quãng đời Sài, anh không chủ tâm kể về công việc cụ
thể mà chủ yếu đi vào tính cách nhân vật. Thành thử câu chuyện lập nghiệp của
Sài nói chung cũng không được trình bày với tất cả sự mạch lạc cần thiết của
nó. Nó chỉ được lồng vào chuyện hôn nhân của nhân vật lúc ban đầu.
Song không phải vì thế mà phương diện này ở con người Sài không rõ. Sài
đi bộ đội để được xa người vợ tảo hôn và có dịp tự do nghĩ ngợi hơn về một cô
gái mà anh yêu và cũng được anh yêu lại. Nhưng chỉ có thế! Do yêu cầu của sự
phấn đấu trong bộ đội, anh không dám tiến xa hơn một bước trong mối tình chân
chính của mình; rồi trong một lần về phép, anh lại cầm lòng chung đụng với
người vợ tảo hôn cũ để vừa lòng mọi người - cả hai việc đều cùng một mục đích
là cốt giành ưu thế trong phấn đấu về mặt chính trị.
Khi thuật lại chuyện này, Lê Lựu đã cực tả cái
cay đắng trong tâm lý người thanh niên và những trang trình bày lại lối áp đặt
vưà thân ái vừa thô bạo của chung quanh đối với Sài là những trang thuộc loại
hay nhất của tác phẩm.
Theo cách diễn tả của Lê Lựu, Sài chỉ bề ngoài
làm theo ý muốn của mọi người, còn trong bụng, anh rất đau khổ, thậm chí thấy
ghê tởm.
Từ đây bắt đầu một định hướng lớn trong cuộc đời Sài. Vui buồn cá nhân
không là gì cả, tiếng gọi của lý trí và khao khát lập nghiệp mới là động cơ
thúc đẩy hành động. Vì nhiều lý do ở hậu phương tạm thời chưa đạt được mục đích
ư? Sài lại sẵn sàng đi xa hơn, ra tận
mặt trận. Không phải vì nước vì dân gì cả. Mà chỉ để lập công, cái nhân tố
chính sẽ quyết định tương lai mỗi cá nhân.
Không mấy khi văn học chúng ta miêu tả
một nhân vật "ra đi" theo kiểu này.
Song không phải vì thế mà Sài xa lạ với đông
đảo bạn đọc.
Phần lớn người ở vào cái tuổi như Sài, lớn lên
trong những năm như Sài, đều sống, hành động như Sài và họ cũng đã thành công
như Sài của Lê Lựu.
Cái chung của họ là ý thức lập nghiệp chưa đi
đôi với nhu cầu nhận thức về đời sống và cũng chưa tạo nên một sự trưởng thành
trong nhân cách. Cũng vì thế mà sau khi yêu cầu lập nghiệp tạm gọi là
xong, Sài lao vào việc mưu cầu hạnh
phúc, thì lập tức thất bại.
Và cũng cắn răng mưu cầu hạnh phúc
Ra khỏi cuộc chiến đấu, Sài có cái may
là được ly hôn, dứt hẳn quan hệ với người vợ cũ. Và anh ở vào tâm trạng kẻ bị
giam hãm giờ được tháo cũi sổ lồng, kẻ bấy lâu thiệt thòi giờ có cơ đòi nợ. Anh
không nhìn thấy gì khác ngoài những bất hạnh của bản thân. Quá cay cú vì chưa
được nếm mùi sung sướng của mọi lạc thú trần gian, anh chạy thục mạng cốt săn
tìm cho được chút hạnh phúc mà anh tưởng trừ mình còn ai cũng có.
Con cá quả đói đớp mồi thế nào thì lúc
tìm vợ Sài cùng bộp chộp như vậy! Đứng ngoài nhìn, dễ thấy sao mà Sài cả tin,
nông nổi, khinh suất, giản đơn! Thậm chí, phải nói anh có những khía cạnh ích
kỷ nữa!
Nhưng kệ!
Với Sài, trước mắt chỉ có mỗi một việc
là truy lĩnh lại tuổi thanh xuân, bù đắp lại chỗ thiệt thòi mình đã phải chịu.
Thêm nữa, có một lý do để Sài càng "thục mạng" trong việc mưu cầu
hạnh phúc: anh đang là người thành đạt. Anh quá tự tin, thậm chí mê đi, tưởng mình là thần là thánh.
Ở anh không phải chỉ có cái hèn như
trước đó tác giả phân tích, mà còn có chút hợm. Hợm hĩnh, kiêu căng, hoắng lên
vì khả năng của mình, cho rằng mình đi đánh nhau còn được, thì bây giờ làm gì
cũng được.
Về sống ở thành thị, nhưng Sài không
hỏi thành thị là gì, mình cần làm gì để phù hợp với đời sống nơi đó. Bước vào
xây dựng gia đình lần thứ hai, nhưng anh không bao giờ ngẫm nghi xem mình sẽ có
một gia đình như thế nào, hạnh phúc của mình sẽ ở dạng như thế nào, trong thời
buổi này thế nào thì là một thứ hạnh phúc vừa phải mà loại người như mình có
thể có được.
Lý tưởng sống của Sài đơn giản, nếu
không muốn nói là tầm thường.
Thế thì làm sao mà anh không thất bại
được? Suốt phần hai của cuốn sách, chỉ thấy nhân vật Sài miên man trong hành động,
hết cuống lên vì yêu lại cấp tốc cưới vợ, rồi lo vợ đẻ, rồi cãi nhau với vợ,
rồi trông con ốm v.v...
Tất cả những trang này đã được tác giả dựng lại tỉ mỉ
nhưng chỉ là tả Sài trong hành động; đâu có lúc nào Lê Lựu cho nhân vật rỗi rãi
để ngẩng đầu lên mà nghĩ rộng ra về sự đời một chút. Thế thì làm sao có được sự định hướng chính xác tới các khát vọng cao cả!
Chỗ bi đát của Sài hình như là chỗ bi
đát của nhiều người chúng ta: tham bát bỏ mâm; mải làm việc vặt mà quên cái đại
thể.
Sau một thời gian khổ hạnh nay ai cũng
sống chết lo làm một việc gì đó kiếm lợi thêm cho gia đình và yên chí rằng thế là
hạnh phúc.
Còn hạnh phúc thật sự mặt ngang mũi dọc
là như thế nào thì không ai biết và hình như cũng không cần biết nữa!
Mục đích thực dụng liền đẻ ra cách nhìn
thiển cận.
Đời sống là gì, ý nghĩa của đời sống là gì,
những câu hỏi ấy chúng ta thường lảng tránh, ta bảo nó là siêu hình, trừu
tượng, nghĩ về nó là mất thì giờ, vô bổ, ai băn khoăn về nó là những kẻ ấm đầu
dại dột. Ta cứ nhắm mắt bước liều, để rồi đến lúc thấy thua thiệt, thấy lỗi lầm
thì đã muộn, và không hiểu sao cả, ta lại hoặc kêu trời hoặc đổ cho số phận.
Tóm lại, nói sống vụng còn là nhẹ, hình
như ta không biết sống, đấy mới là điều đau hơn, đáng tiếc hơn.
Và toàn bộ Thời
xa vắng là tiếng kêu của cả một lớp người cho tuổi trẻ của mình, cuộc đời
mình; ngay khi thành đạt trong lập nghiệp nữa, họ vẫn bất hạnh, vì không biết
sống.
Có thể bản thân Lê Lựu chưa có ý thức về
điều này và một người như nhân vật Sài càng không bao giờ nhận ra điều này.
Nhưng chính nó mới là cảm tưởng
mà một người đọc như tôi thu nhận được qua sự miêu tả của Lê Lựu trong Thời
xa vắng.
Một cách lặng lẽ, tác phẩm gợi lên ở nhiều người chút động lòng và sự nuối
tiếc, như từ đầu chúng tôi đã nói. Sự nuối tiếc ở đây là cái hích đầu tiên, để
người ta nghĩ tiếp và tìm ra cho mình cách sống xác đáng. Song nghĩ rộng hơn
một chút, phải thấy nếu như có cách nào
đó để làm cho những người như Sài kia tỉnh táo sớm hơn, nhận ra tình cảm của
mình nhanh chóng hơn và có cách sống hợp lý hơn, sự hỗ trợ của xã hội cho cá
nhân như thế mới gọi là hoàn toàn.
Ảo tưởng một lần ảo tưởng vĩnh viễn
Có một khía cạnh nữa của cuốn sách
người ta cũng hay bàn là đoạn kết, khi Lê Lựu cho nhân vật về nông thôn lo việc
hợp tác xã.
Đối chiếu với xu hướng chính của tác
phẩm là ca ngợi sự trở về mình, thì đoạn kết đó là có lý. Hôm qua Sài không dám
lấy Hương mà bấm bụng chịu thiệt, chẳng qua là " không dám là mình
",rồi lúc lấy Châu nữa, anh lại bất hạnh vì không biết mình là ai, vơ
quàng vơ xiên, chạy theo những cái mình không có. Đi theo đường hướng như thế,
cả hai phần đầu cuốn sách dường như đã chuẩn bị sẵn để mở ra cách giải quyết mà
Lê Lựu viết trong đoạn cuối.
Nhưng đó mới là cách hiểu, cách cắt nghĩa
của chính người viết. Với tôi, khi đọc sách để
tính chuyện qua trường hợp của Sài rút ra những bài học cho mình, thì
đoạn cuối ấy lại chưa chắc đã là hợp lý.
Thật vậy, như trên vừa nói, sở dĩ Sài
thất bại trong việc mưu cầu hạnh phúc với Châu vì ở anh không có sự “tiêu hóa”
cần thiết về đời sống của mình, không có sự tự ý thức cần thiết. Tình yêu là
lĩnh vực không thể dối trá. Và Sài cũng không dối trá. Ấy vậy mà trong khi yêu
người vợ mới say đắm và sẵn sàng tha thứ cho Châu tất cả thì Sài vẫn bất hạnh,
sự yêu chiều của anh là một cái cớ để Châu coi thường anh, sự nép mình chịu
đựng là một thứ lửa đổ thêm dầu phá vỡ hạnh phúc gia đình anh.
Một động cơ tốt có thể đẻ ra một kết
quả tồi tệ không mang lại lợi lộc cho ai; tác giả đã tỏ ra rất thấu hiểu tình
đời khi làm toát ra từ nhiều tình tiết trong truyện một kết luận như thế.
Nhưng
thử hỏi ở phần cuối Lê Lựu cho Sài về nông thôn với cái gì? Không gì khác, cũng
lại rất nhiều ảo tưởng về sự chân thành của mình, một cái gọi là thuộc
"đồng đất con người quê hương" và những thói quen cố hữu của người
nông dân mà hôm nay anh vẫn giữ được. Rồi trong không khí vội vã của đoạn kết,
nhà văn cho biết là Sài đạt nhiều kết quả, trong ba năm anh đã làm thay đổi bộ
mặt làng Hạ Vị và chính anh cũng trở lên khoẻ khoắn hơn, sôi nổi hơn.
Đọc đoạn này, chắc bạn đọc không nhận
ra ngòi bút Lê Lựu như phần trước nữa. Vâng nghĩ lại thì thấy nông thôn mà Sài
trở về đó tưởng là nơi nào khác chứ không phải là làng quê rất đáng yêu, nhưng
cũng rất lạc hậu, con người bị cầm tù trong tư tưởng làm thuê và lối sống cổ hủ
như nhà văn đã tả.
Hình như Sài đã quên. Chính trong vòng tay của
những người thân yêu đó, mà Sài bị ép lấy vợ tảo hôn và chịu nhiều đau khổ
khác. Sao khi nhìn nông thôn thông hôm qua, Lê Lựu sâu sắc thấu đáo, mà nhìn
hôm nay, ngòi bút của nhà văn lại dễ dãi thế!
Ấn
tượng lớn nhất khi đọc đoạn cuối tác phẩm là thấy không thể tin được. Sao trong quan hệ vợ chồng Sài ngớ ngẩn vụng dại vậy
mà bây giờ, Sài tự nhiên anh ta như có phép tiên, nghĩa là nhìn mọi vấn đề ở
quê hương rất sáng tỏ, làm đâu trúng đấy. Thành công của anh không hề dựa trên
một chuyển biến nhận thức nào, như thế
thì làm sao mà bạn đọc tin được?
Người đọc dễ đoán ra rằng cũng là hình thành
lên trong cơn say (lần này là say sưa "trở lại chính mình"), chắc gì
"mối tình" của Sài với làng quê khác mối tình của anh với Châu, nghĩa
là mới thoạt đầu thì rất yên ấm, nhưng sau đầy rẫy lôi thôi, khốn khó!
Mặc dù Sài đã lớn tiếng tuyên bố "đến
bây giờ mới biết là mình như thế nào..." (Thời xa vắng tr
319), nhưng chúng ta cứ cảm thấy nhân vật này chưa tiêu hoá hết những đau khổ
trong việc lập nghiệp và mưu cầu hạnh phúc hôm qua, chưa rút đúc nó thành kinh
nghiệm sống chắc chắn.
Bởi ở Sài ảo tưởng còn nặng nề, nên
những đau khổ vẫn còn chờ ở phía trước, dù anh quay về nông thôn hay ở lại
thành thị cũng vậy.
Viết về quá trình tự nhận thức của con người,
cách tốt nhất để văn học tham gia vào các vấn đề thời sự
Xét bề ngoài, phải nhận tập tiểu thuyết
này của Lê Lựu là một sách yếu về tay nghề: câu chuyện nhiều chỗ không mạch
lạc, tác phẩm thiếu sự cân xứng tối thiểu, hình như lúc viết, tác giả chỉ cắm
cúi dồn hết ý mình có lên trang giấy, nên chữ nghĩa lủng củng, câu cú rối rắm,
ý nọ nhằng sang ý kia rất khó theo dõi. Song tại sao Thời xa vắng vẫn có
sức cuốn hút ? Lý do có lẽ ở cái chất sống tươi ròng nơi tác phẩm. Cách viết
cách trình bày hết mình của tác giả khiến cho người ta có cảm tưởng rằng có lẽ
đúng là có một anh Sài như thế với câu chuyện như thế -- trong văn học, đấy là
đầu mối làm nên sức hấp dẫn. Khi ta nhận ra ở Sài có rất nhiều nhược điểm của
con người hôm nay (chẳng hạn "duy ý chí ", "quá nhiều tham vọng",
"thiển cận,thiếu sự hỗ trợ cần thiết của văn hoá.." ) cũng là lúc ta
cảm thấy rất gần với nhân vật này. Từ ấy, sự đọc sách có được sự hào hứng, y
như được nhìn vào kiếp sống của một người khác rồi rút kinh nghiệm cho chính
mình. Khi nhà văn đã đủ sức làm cho bạn đọc tin, thì mọi biện pháp kỹ thuật
nghề nghiệp có yếu một chút, cũng sẽ được bỏ qua. "Câu chữ là quan trọng,
nhưng trong văn học, yếu tố hàng đầu vẫn là tâm huyết "- lại một lần
nữa,chân lý nghệ thuật đó được khẳng định.
Bằng cách đi sâu vào cuộc đời một cá
nhân, Thời xa vắng đồng thời là một tác phẩm có tính thời sự rõ rệt. Để
tạo ra hiệu quả thời sự cho những trang sách của mình, lâu nay ở một vài tác
giả thường thấy có lối viết đi vào các vấn đề xã hội - kinh tế cấp thiết, nhờ
đó gợi được sự chú ý của một lớp bạn đọc nào đó. Lê Lựu không làm thế, Lê Lựu
chỉ nói riêng về con người, những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề
muôn thuở, mà cũng là vấn đề chúng ta đã nói đi nói lại rất nhiều. Đúng thế.
Nhưng chẳng phải là vào những ngày này, sau khi nhận ra không biết bao nhiêu
chuyện thiết yếu và đòi hỏi được giải quyết cấp bách, thì chúng ta đều nhận
thấy vấn đề khái quát này lại càng nổi lên hàng đầu, nó là mẫu số chung của
hàng loạt hiện tượng, nó là khâu cơ bản từ đó đóng góp phần gỡ dần ra các khâu
khác. Trong việc miêu tả, nhận diện con người, nghĩa là nhìn con người trong
biến chuyển của thời gian văn học có những ưu thế lớn lao. Làm thế nào để giúp
con người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn, từ đó tìm được cách sống hợp lý
hơn, đấy vẫn là một nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay
muốn đảm nhận.
Có thể là tác giả không có ý thức đầy đủ, nhưng xét trên hiệu
quả khách quan, Thời xa vắng đã ít nhiều làm được điều đó, nó
chính là lý do khiến cho người ta nếu có dịp đọc lại tác phẩm, vẫn rút ra được những thu hoạch bổ ích trên phương diện tìm tòi phương cách làm người của mình, tức phương diện nhân bản.
1986
Đã in trong Vương Trí Nhàn Phê bình &Tiểu luận, 2008
Published on January 06, 2016 18:59
December 31, 2015
Nguyễn Minh Châu 1968-1973 (IV)
Ghi chú 31-12-2015
Trước khi mời các bạn đọc tiếp phần ghi chép về Nguyễn Minh Châu hơn 40 năm trước xin có mấy lời tâm sự.
Các đoạn ghi chép trên đây đã được đưa lên blog của tôi từ 12-2011. So với các đoạn sổ tay các đoạn đưa lên lúc ấy đã bị rút gọn đi nhiều. Lần này, tôi khôi phục cho đầy đủ hơn, bởi tin rằng nếu bạn đọc nào muốn tìm hiểu suy nghĩ của các nhà văn VN trong chiến tranh, khoảng cách giữa những cái mà họ viết ra và cái nung nấu trong đầu họ -- thì các trang ghi chép này có thể có ích. Chính tôi đã tin như thế. Khi đọc lại những trang ghi chép trên đây, tôi như nhớ lại cả không khí văn học những năm chiến tranh và thầm nhủ nếu có thời gian tôi có thể giải thích thêm nhiều điều chung quanh các ý tưởng của anh Châu cũng như của bọn tôi lúc ấy. Trong lúc chưa làm được cái việc bổ sung đó, tôi tạm chỉnh lý như trên, với niềm tin rằng có một số bạn đọc nào đó cần biết.
Tôi không rõ phản ứng của bạn đọc với các đoạn ghi chép trên thế nào, chỉ có một lần đọc được đoạn phản hồi sau đây, xin chép ra để ghi nhớ rằng đã có những bạn đọc đã đồng cảm với mình.
Nói thế này có thể là “hơi buồn” và không “phải đạo” lắm.
Lính chiến trường đi qua Đường 9 thì quên đi “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải. Nếu đi đến được cánh rừng cao su Tây ninh thì cũng không còn nhớ “Dấu chân người lính” nữa. Đến với “Đất trắng” thì khóc cho Nguyễn Trọng Oánh ra đi sớm quá. Rùng mình và chắp tay kính cẩn với Chu Lai, Bảo Ninh mà thốt lên “Mấy cha này là người hay là ma? Nếu là người thì có phúc to bằng cái đình”. Lính chiến trường mấy thằng qua nổi dăm bẩy trận mà còn gáo lành lặn trở về.(Lại còn viết tiểu thuyết nữa chứ.)
Sau cuộc chiến khốc liệt nhất, dài nhất lịch sử ấy, CÒN GÌ? – Cục đất thì nhiều lắm, còn hòn vàng thì quá ít, lại sứt sẹo, méo mó, mòn mỏi, lạc lõng …. và đâu còn sức để học mà viết. Bởi vậy, thật khó mong có được vài cuốn như “Nỗi buồn chiến tranh” và cũng dễ hiểu vì sao thiên hạ cứ nghĩ nhà văn mình kém, trí thức mình hèn.
Buồn và ngán ngẩm quá anh Nhàn ạ.
Phản hồi bởi Nguyen Thanh Van — 07.12.2009 @
Nhớ lại thời gian viết Dấu chân người lính
Hồi ấy, tôi tách hẳn mọi người ra. Ngồi ở cái tầng cuối của một ngôi nhà. Chung quanh đấy, nào là chuồng lợn, chuồng gà, ống nước chảy, bẩn thỉu, tối om ra. Ngồi như thế mà viết, một là anh cũng dễ ấm đầu, hai là anh sẽ viết đuợc một cái gì rất là ghê gớm. Như là ngồi ở dưới cái đáy một cái giếng.
Tôi đi chữa răng về, vừa đi vừa nghĩ được khối thứ. Thời buổi này, đánh nhau không xong, thì lại khổ nhất là thằng văn nghệ.Thắng xem, viết tha hồ tung tẩy.
Về anh em trẻ
Trông thằng Đỗ Chu mình chả hiểu rồi nó sẽ ra sao. Về xưởng phim nữa, thì cũng thành ra lố bịch như mọi người. Chính hồi nó viết Phù sa, nó lại tĩnh trí hơn bây giờ. Bằng Việt trông nó cứ yểu yểu như thế nào đó. Từ hồi ông ấy đi Trường Sơn về đến giờ, thấy ông ấy càng nhảm. Cái cô Quỳnh này, bây giờ nhiều bài đã lặp lại rồi, cái phần thực chất chỉ có thế. Lưu Quang Vũ không chỉ tài hoa. Chính là Vũ nó đi hết được một cái gì đó, theo con đường của nó.
Về văn học tiền chiến
Nhàn: Anh có thể viết cho mục lý luận của bọn tôi một ít nhận xét về văn học trước cách mạng, so sánh văn chương thời ấy với bây giờ chẳng hạn
Châu: Mình đọc những thứ như Giông tố, thấy cũng vớ vẩn, như thứ tiểu thuyết đăng báo, cứ thế mà kéo dài câu chuyện, theo một thứ đường dây có sẵn.
Lão Nguyễn Công Hoan, thì văn chương quá là thuộc địa. Chỉ còn trường hợp khá như Khái Hưng và Thạch Lam, nhưng cả hai người, cũng chỉ là ăn vào sự tài hoa. Nói chung người viết chỉ tài hoa không đủ đâu.Ngay cả cái lớp trẻ các ông bây giờ nữa, tôi cũng không gặp được một cái gì mới.
– Chưa có một cảm hứng mới về thời đại?
– Đại khái một cái gì như thế, muốn theo được thời đại nó phải mới lắm mới được
Tĩnh và động. Mới và cũ
* Mình về ở với những người hàng xóm và thấy nơi đó, cũng giống như tình hình nước mình. Người ta bận bịu, vất vả suốt ngày, nhưng chính vì thế, người ta chả làm được trò trống gì cả. Cuộc sống hoàn toàn mù tối.
(Ra xí nghiệp khai thác cát) Ở những chỗ này, nó cũng dễ thành hào thành rãnh lắm. Mình cũng rất dễ xỉa vào rãnh! Anh phải viết về một mối quan hệ nào thật mới mới được.
Ngoài miền Bắc mình, cán bộ có thằng tham ô, thằng hống hách, nhưng nó còn rõ mặt.Vào trong Quảng Trị, ở với bọn cán bộ, mình chỉ buồn cười. Cứ y như là con trẻ. Một lũ chim sẻ rất là buồn cười
Dẫu sao đi thực tế, vẫn thích hơn ở nhà. Đi thực tế, mình tiếp xúc với cái xấu cũng rõ hơi, cái tốt cũng rõ hơn.
Sự thải loại thường xuyên của đời sống
*Lắm khi ngồi nghĩ lại mới thấy sợ. Đang viết đã thấy chắc rồi những cái viết ra phải vứt đi nhiều rồi. Viết nhiều quá, chỉ có nghĩa là mắc bệnh tâm thần
– Trong anh viết văn, lúc tự tin, thì thật tự tin mà lúc hoài nghi thì cũng phải đến độ mới được. Những tay như Hữ Mai, chẳng có bao giờ nó hoài nghi nó một ít nào cả.
(Đi họp NXb Văn học) Trong các mặt ngồi đấy, chỉ thấy già và cổ. Ông Nguyễn Tuân lại chửi ông Hoài Thanh . “Báo Văn nghệ có cho mình ăn được một bữa, thế này không. Cái thằng nó suốt đời đi nịnh, nó lại keo kiệt. Ông Vũ Tú Nam với bà Cẩm Thạnh đáng phải vật cổ, hất tòm nó đi mới phải”. Mọi người không chấp, cũng chẳng động dạng gì. Như trong những bữa cỗ, con cháu còn mải lo các việc khác, mấy bậc bề trên làm gì cũng mặc.
Một tay vào chạc tuổi mình như thằng Mai Ngữ, trông nó ngồi với các ông già, thấy nó cũng cổ lắm.… Trong cả bọn, chỉ còn có mặt Khải là đáng nói chuyện.
*Tôi về quê, tôi thấy những người già thường hay tham, tham lam một cách trắng trợn . Bà cụ tôi sống đúng như một con mẹ ăn mày, bạ ai cũng xin tiền .Ở ngoài này, trông bọn nhà văn cũ, cũng tham lam lắm. Nay mai Hội nhà văn có cái nhà xuất bản, rồi họ cũng xí phần hết cho mà xem.
Không hiểu sao, giữa hai con đường ở với bọn cán bộ chính trị, và bọn nhà văn già tất nhiên là vẫn trong cung cách sống hiện nay, thì mình thấy ở với bọn cán bộ chính trị còn hơn. Hoặc là chính nó lại còn bênh mình nữa.
Đọc các tác giả miền Nam
Chính trong cả bọn, tôi lại thích ông này ( Vũ Khắc Khoan &Thần tháp rùa) nhất. — văn học không thể xa rời tính chất tượng trưng được. Dẫu sao, đọc miền Nam mình vẫn thấy gần với mình hơn là đọc bọn Liên Xô. Đọc tập truyện ngắn Liên Xô, thấy ghê sợ cả người. Viết rất giỏi, nhưng toàn nói những cái vớ vẩn những là con người phải sống có lương tâm, có trách nhiệm với chung quanh.
Không hiểu sao cả, tôi cứ nghĩ cái chính là văn học phải xui người ta phản kháng với hiện thực mới phải.
Với lại anh phải có một thế đứng như thế nào đó. Như bây giờ ở mình, ngồi mà rỉa rói phê phán nhau những cách sống bủn xỉn, ti tiện, ăn cắp, thì không biết chừng, chính anh lại tỏ ra là hèn thấp, vớ vẩn.
(Nghe tôi kể về quyển Bên dòng lịch sử của Cao Văn Luận) Thế mới biết những chuyện hôm nay nó động chạm tới mình, nó buộc mình thế nọ thế kia, thực ra nó lại được quyết định ở đâu đó, lâu lắm rồi, mà mình không sao hiểu được.
Dĩ nhiên bây giờ mình không nên lảng tránh mọi chuyện. Nhưng mình cũng đừng nên nhảy chồm chồm ra làm gì. Không biết chừng, cái mà hôm nay mình thấy ở bề mặt nó là thế này, trong ruột nó lại là thế khác. Lúc bấy giờ, có thể những điểm trước đây mình tin, nó cũng hỏng hết. Bây giờ phải biết trước, mà tránh đi cái hỏng ấy.
Viết về thói dung tục, có lẽ phải như Tchekhov. Lão cứ lạnh tạnh đi, mà lại nhân hậu, nhân hậu ghê chứ. Rồi mà xem, khó ai hơn được Tche khov. Đọc bọn miền Nam, cái cảm giác của mình cũng giống như cảm giác của một người vào Quảng Trị. Nghĩa là ở trong đó, cũ cũng có, mới cũng có, nhưng cũ ra cũ mới ra mới, cái chùa ra cái chùa, cái mả ra cái mả, thằng côn đồ ra thằng côn đồ, mà vợ lính ra vợ lính. Cũng như thế trong văn chương, ở trong kia, đâu nó ra đấy. Chính mình ở ngoài này lại nhoá nhoà mọi chuyện.
Văn chương và thời cuộc
* Rồi mà xem, tình hình không mở ra thì trừ Khải không kể, còn loại như tôi, Kiên, Đỗ Chu, là không kéo được đâu. Rồi chỉ còn toàn nhưng loại như Hữu Mai, hay là loại như thằng Thiều là ăn. Nó không phải là văn chương, cho nên lúc nào nó cũng viết được.
Văn chương bây giờ nó giống như một thứ lá số, người ta có thể đoán ra thế nào cũng được.
Lâu nay, cứ nói thằng nào giỏi chính trị, viết chính trị — đó là những thằng láu cá.Ngồi nghe chuyện cảnh giác chẳng hạn, thấy những thói lừa lọc, lèo lá mà bọn viết gán cho bọn miền Nam, thực ra, cũng là của bọn miền Bắc hết. Xã hội mình là thế đấy, mọi chuyện cốt được việc ngay bây giờ.
Bấy nhiêu năm chiến tranh, thằng Mỹ nó đánh vào mình, có những thứ rất cổ hủ, mà nó không sao tàn phá nổi. Khoảng đầu năm 1973, tôi về quê hương. Tất cả là như vậy. Đi đường gặp một bà bán hàng, chào hỏi. Hoá ra con bà cụ chứ không phải bà cụ ngày xưa. Nhưng mà dáng dấp vẫn vậy.
Khi nó không đánh được cái cổ hủ ấy, thì những cái tốt đẹp kia, lại bị nó làm cho tan nát đi, không thể nào lấy lại được.
Mấy ý tưởng bâng quơ
* Ông hỏi tiểu thuyết là gì ư? Cũng như hỏi hạnh phúc là gì, bố ai mà nói được.
(Xem phim xxx) Diễn viên bây giờ, cũng như những người khác. Đóng người anh hùng được thôi, đóng người bình thường thì không đóng nổi.
(Nhân nghe đọc một thông cáo) Chính trị bây giờ còn đầy những chuyện ám chỉ, văn chương làm sao mà không ám chỉ được.
Cảm giác về những ngày hôm nay ư? Cảm giác về không khí. Mình đã ở với cái không khí này bao lâu nay, vậy mà mình vẫn không thật hiểu nó. Bây giờ mình mới thấy nó ở bên mình, đè lên mình, như một trái núi vậy.
Mỗi cuốn sách được viết như là một thứ nhà tù, mình giam mình vào đấy rồi mình gỡ từng viên gạch ra dần dần.Cuộc đời mỗi người là gì, nếu không phải là cuộc liên hiệp dài giữa mình và hoàn cảnh. Buổi sáng dậy, bố ngồi chân tường, con ngồi chân tường. Từ chỗ ngồi đó, sang chỗ ăn chỉ cần lê có vài bước thôi. Rồi người nào lại lê về chỗ của người ấy.
Thế mà cuộc đời mình cũng đi qua, mình cũng trở thành một người viết văn nổi tiếng, mình biết không biết bao nhiêu điều về những điều mình chả tin tưởng gì.
Trước khi mời các bạn đọc tiếp phần ghi chép về Nguyễn Minh Châu hơn 40 năm trước xin có mấy lời tâm sự.
Các đoạn ghi chép trên đây đã được đưa lên blog của tôi từ 12-2011. So với các đoạn sổ tay các đoạn đưa lên lúc ấy đã bị rút gọn đi nhiều. Lần này, tôi khôi phục cho đầy đủ hơn, bởi tin rằng nếu bạn đọc nào muốn tìm hiểu suy nghĩ của các nhà văn VN trong chiến tranh, khoảng cách giữa những cái mà họ viết ra và cái nung nấu trong đầu họ -- thì các trang ghi chép này có thể có ích. Chính tôi đã tin như thế. Khi đọc lại những trang ghi chép trên đây, tôi như nhớ lại cả không khí văn học những năm chiến tranh và thầm nhủ nếu có thời gian tôi có thể giải thích thêm nhiều điều chung quanh các ý tưởng của anh Châu cũng như của bọn tôi lúc ấy. Trong lúc chưa làm được cái việc bổ sung đó, tôi tạm chỉnh lý như trên, với niềm tin rằng có một số bạn đọc nào đó cần biết.
Tôi không rõ phản ứng của bạn đọc với các đoạn ghi chép trên thế nào, chỉ có một lần đọc được đoạn phản hồi sau đây, xin chép ra để ghi nhớ rằng đã có những bạn đọc đã đồng cảm với mình.
Nói thế này có thể là “hơi buồn” và không “phải đạo” lắm.
Lính chiến trường đi qua Đường 9 thì quên đi “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải. Nếu đi đến được cánh rừng cao su Tây ninh thì cũng không còn nhớ “Dấu chân người lính” nữa. Đến với “Đất trắng” thì khóc cho Nguyễn Trọng Oánh ra đi sớm quá. Rùng mình và chắp tay kính cẩn với Chu Lai, Bảo Ninh mà thốt lên “Mấy cha này là người hay là ma? Nếu là người thì có phúc to bằng cái đình”. Lính chiến trường mấy thằng qua nổi dăm bẩy trận mà còn gáo lành lặn trở về.(Lại còn viết tiểu thuyết nữa chứ.)
Sau cuộc chiến khốc liệt nhất, dài nhất lịch sử ấy, CÒN GÌ? – Cục đất thì nhiều lắm, còn hòn vàng thì quá ít, lại sứt sẹo, méo mó, mòn mỏi, lạc lõng …. và đâu còn sức để học mà viết. Bởi vậy, thật khó mong có được vài cuốn như “Nỗi buồn chiến tranh” và cũng dễ hiểu vì sao thiên hạ cứ nghĩ nhà văn mình kém, trí thức mình hèn.
Buồn và ngán ngẩm quá anh Nhàn ạ.
Phản hồi bởi Nguyen Thanh Van — 07.12.2009 @
Nhớ lại thời gian viết Dấu chân người lính
Hồi ấy, tôi tách hẳn mọi người ra. Ngồi ở cái tầng cuối của một ngôi nhà. Chung quanh đấy, nào là chuồng lợn, chuồng gà, ống nước chảy, bẩn thỉu, tối om ra. Ngồi như thế mà viết, một là anh cũng dễ ấm đầu, hai là anh sẽ viết đuợc một cái gì rất là ghê gớm. Như là ngồi ở dưới cái đáy một cái giếng.
Tôi đi chữa răng về, vừa đi vừa nghĩ được khối thứ. Thời buổi này, đánh nhau không xong, thì lại khổ nhất là thằng văn nghệ.Thắng xem, viết tha hồ tung tẩy.
Về anh em trẻ
Trông thằng Đỗ Chu mình chả hiểu rồi nó sẽ ra sao. Về xưởng phim nữa, thì cũng thành ra lố bịch như mọi người. Chính hồi nó viết Phù sa, nó lại tĩnh trí hơn bây giờ. Bằng Việt trông nó cứ yểu yểu như thế nào đó. Từ hồi ông ấy đi Trường Sơn về đến giờ, thấy ông ấy càng nhảm. Cái cô Quỳnh này, bây giờ nhiều bài đã lặp lại rồi, cái phần thực chất chỉ có thế. Lưu Quang Vũ không chỉ tài hoa. Chính là Vũ nó đi hết được một cái gì đó, theo con đường của nó.
Về văn học tiền chiến
Nhàn: Anh có thể viết cho mục lý luận của bọn tôi một ít nhận xét về văn học trước cách mạng, so sánh văn chương thời ấy với bây giờ chẳng hạn
Châu: Mình đọc những thứ như Giông tố, thấy cũng vớ vẩn, như thứ tiểu thuyết đăng báo, cứ thế mà kéo dài câu chuyện, theo một thứ đường dây có sẵn.
Lão Nguyễn Công Hoan, thì văn chương quá là thuộc địa. Chỉ còn trường hợp khá như Khái Hưng và Thạch Lam, nhưng cả hai người, cũng chỉ là ăn vào sự tài hoa. Nói chung người viết chỉ tài hoa không đủ đâu.Ngay cả cái lớp trẻ các ông bây giờ nữa, tôi cũng không gặp được một cái gì mới.
– Chưa có một cảm hứng mới về thời đại?
– Đại khái một cái gì như thế, muốn theo được thời đại nó phải mới lắm mới được
Tĩnh và động. Mới và cũ
* Mình về ở với những người hàng xóm và thấy nơi đó, cũng giống như tình hình nước mình. Người ta bận bịu, vất vả suốt ngày, nhưng chính vì thế, người ta chả làm được trò trống gì cả. Cuộc sống hoàn toàn mù tối.
(Ra xí nghiệp khai thác cát) Ở những chỗ này, nó cũng dễ thành hào thành rãnh lắm. Mình cũng rất dễ xỉa vào rãnh! Anh phải viết về một mối quan hệ nào thật mới mới được.
Ngoài miền Bắc mình, cán bộ có thằng tham ô, thằng hống hách, nhưng nó còn rõ mặt.Vào trong Quảng Trị, ở với bọn cán bộ, mình chỉ buồn cười. Cứ y như là con trẻ. Một lũ chim sẻ rất là buồn cười
Dẫu sao đi thực tế, vẫn thích hơn ở nhà. Đi thực tế, mình tiếp xúc với cái xấu cũng rõ hơi, cái tốt cũng rõ hơn.
Sự thải loại thường xuyên của đời sống
*Lắm khi ngồi nghĩ lại mới thấy sợ. Đang viết đã thấy chắc rồi những cái viết ra phải vứt đi nhiều rồi. Viết nhiều quá, chỉ có nghĩa là mắc bệnh tâm thần
– Trong anh viết văn, lúc tự tin, thì thật tự tin mà lúc hoài nghi thì cũng phải đến độ mới được. Những tay như Hữ Mai, chẳng có bao giờ nó hoài nghi nó một ít nào cả.
(Đi họp NXb Văn học) Trong các mặt ngồi đấy, chỉ thấy già và cổ. Ông Nguyễn Tuân lại chửi ông Hoài Thanh . “Báo Văn nghệ có cho mình ăn được một bữa, thế này không. Cái thằng nó suốt đời đi nịnh, nó lại keo kiệt. Ông Vũ Tú Nam với bà Cẩm Thạnh đáng phải vật cổ, hất tòm nó đi mới phải”. Mọi người không chấp, cũng chẳng động dạng gì. Như trong những bữa cỗ, con cháu còn mải lo các việc khác, mấy bậc bề trên làm gì cũng mặc.
Một tay vào chạc tuổi mình như thằng Mai Ngữ, trông nó ngồi với các ông già, thấy nó cũng cổ lắm.… Trong cả bọn, chỉ còn có mặt Khải là đáng nói chuyện.
*Tôi về quê, tôi thấy những người già thường hay tham, tham lam một cách trắng trợn . Bà cụ tôi sống đúng như một con mẹ ăn mày, bạ ai cũng xin tiền .Ở ngoài này, trông bọn nhà văn cũ, cũng tham lam lắm. Nay mai Hội nhà văn có cái nhà xuất bản, rồi họ cũng xí phần hết cho mà xem.
Không hiểu sao, giữa hai con đường ở với bọn cán bộ chính trị, và bọn nhà văn già tất nhiên là vẫn trong cung cách sống hiện nay, thì mình thấy ở với bọn cán bộ chính trị còn hơn. Hoặc là chính nó lại còn bênh mình nữa.
Đọc các tác giả miền Nam
Chính trong cả bọn, tôi lại thích ông này ( Vũ Khắc Khoan &Thần tháp rùa) nhất. — văn học không thể xa rời tính chất tượng trưng được. Dẫu sao, đọc miền Nam mình vẫn thấy gần với mình hơn là đọc bọn Liên Xô. Đọc tập truyện ngắn Liên Xô, thấy ghê sợ cả người. Viết rất giỏi, nhưng toàn nói những cái vớ vẩn những là con người phải sống có lương tâm, có trách nhiệm với chung quanh.
Không hiểu sao cả, tôi cứ nghĩ cái chính là văn học phải xui người ta phản kháng với hiện thực mới phải.
Với lại anh phải có một thế đứng như thế nào đó. Như bây giờ ở mình, ngồi mà rỉa rói phê phán nhau những cách sống bủn xỉn, ti tiện, ăn cắp, thì không biết chừng, chính anh lại tỏ ra là hèn thấp, vớ vẩn.
(Nghe tôi kể về quyển Bên dòng lịch sử của Cao Văn Luận) Thế mới biết những chuyện hôm nay nó động chạm tới mình, nó buộc mình thế nọ thế kia, thực ra nó lại được quyết định ở đâu đó, lâu lắm rồi, mà mình không sao hiểu được.
Dĩ nhiên bây giờ mình không nên lảng tránh mọi chuyện. Nhưng mình cũng đừng nên nhảy chồm chồm ra làm gì. Không biết chừng, cái mà hôm nay mình thấy ở bề mặt nó là thế này, trong ruột nó lại là thế khác. Lúc bấy giờ, có thể những điểm trước đây mình tin, nó cũng hỏng hết. Bây giờ phải biết trước, mà tránh đi cái hỏng ấy.
Viết về thói dung tục, có lẽ phải như Tchekhov. Lão cứ lạnh tạnh đi, mà lại nhân hậu, nhân hậu ghê chứ. Rồi mà xem, khó ai hơn được Tche khov. Đọc bọn miền Nam, cái cảm giác của mình cũng giống như cảm giác của một người vào Quảng Trị. Nghĩa là ở trong đó, cũ cũng có, mới cũng có, nhưng cũ ra cũ mới ra mới, cái chùa ra cái chùa, cái mả ra cái mả, thằng côn đồ ra thằng côn đồ, mà vợ lính ra vợ lính. Cũng như thế trong văn chương, ở trong kia, đâu nó ra đấy. Chính mình ở ngoài này lại nhoá nhoà mọi chuyện.
Văn chương và thời cuộc
* Rồi mà xem, tình hình không mở ra thì trừ Khải không kể, còn loại như tôi, Kiên, Đỗ Chu, là không kéo được đâu. Rồi chỉ còn toàn nhưng loại như Hữu Mai, hay là loại như thằng Thiều là ăn. Nó không phải là văn chương, cho nên lúc nào nó cũng viết được.
Văn chương bây giờ nó giống như một thứ lá số, người ta có thể đoán ra thế nào cũng được.
Lâu nay, cứ nói thằng nào giỏi chính trị, viết chính trị — đó là những thằng láu cá.Ngồi nghe chuyện cảnh giác chẳng hạn, thấy những thói lừa lọc, lèo lá mà bọn viết gán cho bọn miền Nam, thực ra, cũng là của bọn miền Bắc hết. Xã hội mình là thế đấy, mọi chuyện cốt được việc ngay bây giờ.
Bấy nhiêu năm chiến tranh, thằng Mỹ nó đánh vào mình, có những thứ rất cổ hủ, mà nó không sao tàn phá nổi. Khoảng đầu năm 1973, tôi về quê hương. Tất cả là như vậy. Đi đường gặp một bà bán hàng, chào hỏi. Hoá ra con bà cụ chứ không phải bà cụ ngày xưa. Nhưng mà dáng dấp vẫn vậy.
Khi nó không đánh được cái cổ hủ ấy, thì những cái tốt đẹp kia, lại bị nó làm cho tan nát đi, không thể nào lấy lại được.
Mấy ý tưởng bâng quơ
* Ông hỏi tiểu thuyết là gì ư? Cũng như hỏi hạnh phúc là gì, bố ai mà nói được.
(Xem phim xxx) Diễn viên bây giờ, cũng như những người khác. Đóng người anh hùng được thôi, đóng người bình thường thì không đóng nổi.
(Nhân nghe đọc một thông cáo) Chính trị bây giờ còn đầy những chuyện ám chỉ, văn chương làm sao mà không ám chỉ được.
Cảm giác về những ngày hôm nay ư? Cảm giác về không khí. Mình đã ở với cái không khí này bao lâu nay, vậy mà mình vẫn không thật hiểu nó. Bây giờ mình mới thấy nó ở bên mình, đè lên mình, như một trái núi vậy.
Mỗi cuốn sách được viết như là một thứ nhà tù, mình giam mình vào đấy rồi mình gỡ từng viên gạch ra dần dần.Cuộc đời mỗi người là gì, nếu không phải là cuộc liên hiệp dài giữa mình và hoàn cảnh. Buổi sáng dậy, bố ngồi chân tường, con ngồi chân tường. Từ chỗ ngồi đó, sang chỗ ăn chỉ cần lê có vài bước thôi. Rồi người nào lại lê về chỗ của người ấy.
Thế mà cuộc đời mình cũng đi qua, mình cũng trở thành một người viết văn nổi tiếng, mình biết không biết bao nhiêu điều về những điều mình chả tin tưởng gì.
Published on December 31, 2015 01:16
December 27, 2015
Nguyễn Minh Châu 1968-73 (III)
Về lao động nghề nghiệp
* Nói thì bảo sách vở, chứ thật ra văn chương là chuyện khổ công. Có nhiều ý nghĩ, mà nếu không phải là đưa vào trang viết, mình nghĩ không ra. Có nhiều chữ nghĩa, mình cứ phải xoay xoả trở đi trở lại mãi mới hạ bút.
Tôi đọc những ông như Xuân Sách, viết cho thiếu nhi, thấy chữ nghĩa vớ vẩn lắm, lại không chuẩn bị gì đâu. Cả những ông như Hữu Mai, lấy toàn từ liệu về máy bay máy bò, cái tư liệu chết ấy không gọi là tư liệu được. Hồ Phương cũng không phải tài hoa. Lão ấy còn cái gì đểnh đoảng nữa cơ. Chính Khải nó đọc, nó đi, nó sống kỹ viết kỹ chứ. Thằng Khải đi đơn vị, tôi đoán nó nằm dưới đất. Ông Hữu Mai thì đừng hòng. Ông này lúc nào cũng phải có cà phê với cái ăn ngon. Hay là không mò đi chơi, nghe tin tức là không chịu được.
Cái hồi tôi viết Dấu chân người lính, bên xuất bản Thanh niên nó chỉ bảo tôi chữa có vài chỗ, tôi ngồi tôi chữa mãi chứ có ít đâu.
Xem ra trong nhà này, tôi là người viết khó khăn nhất.
Về người cùng nghề
* Tôi là thằng viết, mà không gì ngại bằng phải sống cùng nhà với những ông viết khác. Cũng ngại những người khác, khi người ta làm thân và ra ý hỏi mình về việc viết lách. Cứ y như người ta đang dòm hành vào nhà mình.
Có lần, tôi xuống chỗ ông Mai. Ông ấy đang dọn các thứ, mới đưa cho quyển sách xem, một quyển tài liệu gì mà ông Văn đưa cho.
– Châu xem, có khi đọc cả quyển này, chỉ lấy được có vài ba dòng.
…Mình chưa thấy một anh nào lại chọe mình về việc viết lách như vậy.
Nhàn: Không hiểu sao, tôi cứ muốn anh viết về những người thủ công, ở Việt Nam mình, số phận người thợ thủ công rất tiêu biểu. Dĩ nhiên là đừng nên thi vị hoá họ, như kiểu ông Tô Hoài. Thi vị hoá người thợ thủ công không được đâu.
Châu: Như là cái Những người chân đất (tiểu thuyết của Z. Stancu-- Rumanie), nó viết giỏi lắm. Nó không sa vào cái phần phong tục thi vị hoá đâu. Trong những cảnh đói khổ nhếch nhác của con người, nó toàn ra những điều có ý nghĩa triết học… Chỉ phải cái cũng hơi sốt ruột.
* Ở Việt Nam mình, người viết tiểu thuyết đã nhiều, mà vẫn chưa có nhà tiểu thuyết. Nhưng tiểu thuyết phải như thế nào kia chứ không phải như cái ta đang viết hiện nay. (Như bọn tôi, cũng chẳng có quan niệm gì về tiểu thuyết -- một lần khác Châu nói vậy).
Về lối làm việc của nhà văn, tôi cũng thích nhiều thứ. Thích đi, thích viết bút ký đi đường. Trong khi đó, lại thích viết một cái gì, nó… nó giống những bức tranh xã hội. Rồi lại viết một cái đầy biểu tượng, như là gió ông Cụt. Nhưng mà làm như thế, phải có tài, có sức khoẻ, có điều kiện lắm cơ ! Để làm nhiều thứ cùng một lúc. Và như thế mới là nhà văn.
Một câu buột miệng:
–Ăn như tá điền thế này thì viết thế sao được
Chiến tranh muôn vàn bộ mặt
* Một bữa, tôi ngồi bên một mâm cơm, và tôi chợt nghĩ phải biến những cái này thành sự kiện văn học. Nhà văn ngồi đâu, thì phải biến cái đó thành sự kiện văn học ngay mới được. Mình phải viết để trả thù, trả thù lúc mình khốn khó quá.
Ngày 4/12/72, tôi đi lang thang khắp đường. Ở bên kia, ông Thọ vào bàn hội nghị. Ở bên này, dân tình xao xác.
Tôi đi trên những đoạn đường Hà Nội, tìm xem chỗ nào chỗ hết của đường nhựa, tức là mở đầu cho đường đất. Nhìn từ ngoài đường vào, dường như các nhà đều là yên tĩnh. Nhưng nhìn cho kỹ, lại như không phải. Lại như sự xáo động nằm trong tình cảm mỗi người.
– Bao giờ tập Đèo Trúc của ông Cao ra, tôi sẽ xin viết. Tôi viết rằng có người phải lao vào chỗ động, để nói cái động, như bọn mình, như thằng Duật. Nhưng lại có loại người mà cứ ở đằng xa, nghe tiếng động đó nó dội lại mình, mà vẫn có thể viết, như loại ông Cao.
Nhưng phải trách là ở cái nhà này, các ông ấy ít đi quá, ít chịu nghe mọi thứ ở ngoài mình. Có bao nhiêu là việc.
– Tôi nghĩ ra rồi. Bây giờ mình viết về những chuyện phản chiến, mình cũng không bằng mấy ông nước ngoài. Cái mới của mình văn chính là ở chỗ mình vẫn nói, tức chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Phải tìm ra ở đấy, những cái mới mà viết.
Ngay cái phần mà mình ngồi mà mình nghĩ, tức cái ảo ảnh của con người, tôi cũng thấy nó là cái chung, mà đâm ra mình lại rất khó viết.
Miền Bắc mình, những năm chiến tranh phá hoại có gì rất đáng viết. Rất đáng viết về Hà Nội, Hải Phòng. Viết về cao xạ, không hiểu sao thằng Chu nó không làm được. Viết về khu Bốn, ngòi bút Mai Ngữ tĩnh lắm, không viết được đâu.
Chỗ nào có thể hay?
* Khi nào tôi viết, có những chỗ bùng nhùng, biết dừng lại và nghĩ cho kỹ thì sau tôi lại viết được. Ý tôi muốn nói chỗ nó hơi phải nghĩ một tí, mình hơi bí ấy, nhưng chính vì như thế, mình phải tìm. Như tôi viết cái chương Kinh lên thăm trận địa. Nhẫn, Khuê thì lại còn hơi dễ. Đằng này ông Kinh ! Tôi không biết, xoay sở như thế nào. Tôi cứ xách túi đi chơi.Mãi về sau, mình nghĩ tới cái tĩnh và cái động trong cuộc đời, khéo chừng, viết thế lại được.
Những ông như ông Văn Đa, vẽ cái gì cũng dang dở, cũng như những công trình nửa vời, cách đi đánh đứng nửa vời, chứ không phải đi hết trên con đường mình định đi
Nhàn: Dấu chân người lính nhiều đoạn cái tài hoa át cái thực.
– Ông phải công nhận tôi viết cái đó trong một thời gian khó khăn, chạm phải những cái khó khăn. Nếu không có cái tài hoa làm cho mình mê đi, tôi làm sao viết hết được quyển sách…..Những người như ông ăn ở sự cần mẫn. Còn tôi, tôi ăn ở sự thất thường. Tôi biết lợi dụng sự thất thường đó. Nhưng mà ông xem, trong số các anh em ở đây, có phải tôi là người vẫn viết một cách khó khăn hơn cả không.
Đã phàm là một người viết, bao giờ ông cũng phải nhớ cái này: phải chú ý tới tiềm thức. Phải để cho cuộc sống tự nó nẩy lên vấn đề gì đó… Nếu như cái gì tôi viết, mà tôi có quá nhiều chủ định –ví như Trên vùng đất sỏi, Những vùng trời khác nhau – những cái đó toàn hỏng cả.
– Ví như tôi thấy có thể viết một làng xóm ở khu 4. Một làng mà trạm giao liên đi qua… Nó vốn xa quốc lộ, xa mọi thứ phố xá… Chiến tranh đến với những nơi đó, sẽ rất kỳ lạ cũng thật thấm thía.Muốn được như thế cái cửa mở ra cho người viết phải rộng ra nữa, phải viết với cái bút pháp thế nào cơ.
Nhàn: Ông Nguyễn Khải viết đối thoại giỏi đấy chứ. Muốn cho ra đối thoại, một tác giả phải để cho các nhân vật đủ mạnh, rõ cái chất người của nó ra cơ.
Châu: Đối thoại của ông Khải không giỏi, chẳng qua các nhân vật của ông Khải cũng như ông ấy, sắc sảo lý lẽ. Mình sợ những người nào viết đối thoại thế nào để giữa các nhân vật nó cứ lạnh như không ấy cơ, mà nó lại ra được mọi chuyện.
Nhàn :Tôi chỉ ức là không sao mang được cái gì đã nghĩ, đã trò chuyện đối đáp với nhau ở Hà Nôi những năm này vào bài viết của mình.
Châu: Nhưng mà thế thì làm sao mọi người in được.
Đi dự một buổi họp thông tin.
– Ở ngoài kia nó khen chê mạnh dạn hơn. Chính mình sống với nhau ở đây, khen không ra khen, chê không ra chê, chán lắm.
…
Nhàn: Hôm nay, tôi đi ngoài đường, thấy mùa rét đến, những đám ống khói, trẻ con nó đốt lên, ra vẻ tết lắm.
– Ông phải công nhận tôi viết nhân vật Lữ thích khói, thật là giỏi chứ ? Chi tiết như thế mới là chi tiết.
* Mình là cái anh nhà văn, mình phải viết không ra Hà Nội, cũng chẳng ra nông thôn. Phải viết, bao gồm được cả hai cái đó, bao gồm được mọi thứ, đứng trên mọi người, đứng trên mọi giai cấp.
— Nhưng mà có lúc tôi cứ nghĩ ngược hẳn . Viết về chiến tranh mà mình là cái anh đã nhiều chất lung tung, nhiều chất phản chiến quá rồi. Nếu lại đi viết về những thứ đó thì có thể lại chẳng được cái gì hết cả.
Những hạn chế
-- Trong quyển Dấu chân người lính, anh có thấy người ta chê cái gì mà anh cảm thấy đau nhất ?
– Chưa có, chưa có
– Có cảm thấy cái khu vực nào mà mình viết, nó không vào không?
– Có chứ. Ví dụ như từ nay trở đi phải viết về một thực tế huyễn hoặc, là cũng như mình cảm thấy mình còn chưa đặt chân vào được, đó là cái chỗ rất khó của văn học mình.
Nguyễn Khải: Phải công nhận văn xuôi Nguyễn Minh Châu có sức miêu tả rất lớn. Đó là một nghệ sĩ. Nhưng đó lại chưa phải là một nhà tư tưởng…. Chính lúc thấy cái ông ở ngoài hội nhà văn khen Dấu chân người lính quá đi, thì tôi lại càng thấy rõ đó là ở ông Châu có một cái gì rất hợp thời, từ nay mình không cần chú ý nữa.
Xuân Thiều: Nguyễn Minh Châu viết giỏi, từng trang một đọc rất trôi, nhưng mà toàn bộ lại không thích lắm.
1973
Quảng Trị và chiến tranh
Nhàn: Đi Quảng Trị lần này hẳn anh sẽ lên chỗ lính địch một tí.
– Xì, lên làm gì. Bây giờ tôi sợ nhất phải viết về địch, lại phải viết mình tốt nó xấu, mình thì ánh sáng, nó thì bóng tối, thật chả ra sao ! Cứ viết ngay về mình đây này, cũng đã có thể được khối chuyện.Để ý cho cho kỹ là được. Viết về nó, phải viết khác.
(Sau khi đi Quảng Trị về) Tôi chỉ dám lên chốt một ngày. Đánh nhau kinh, bây giờ trai tráng hai bên dằn mặt nhau cũng kinh – trong khi đó thì đàn bà, con trẻ cứ moi đất cắm từng cây mạ mới trên mặt đất hàng năm nay bỏ hoá.
… Cứ cho tôi ngồi, tôi lôi hết nhật ký ra đăng, có khi lại thấy hay không biết chừng. Cứ bảo lo viết lách kiếm tiền, chẳng qua nói thế cho người ta đỡ ghét. Chứ được viết cái gì của mình, thì giá có phải ngồi uống nước lã mà viết cũng chấp nhận.
Có lần, tôi đi từ Cam Lộ ra đường 9 – mình say sưa ngắm một đám cháy, rồi mình lại tự mắng mình là đi thưởng thức những cái trò chơi của chiến tranh.
… Biết đâu, trong những năm vừa qua, mình cũng đã làm công việc đi nhìn ngắm như vậy.
Nhàn: Tôi muốn ai đó viết về người lính 304 – cái người lính không phải của những chiến thắng, mà là của những sự chuẩn bị chiến đấu, dai dẳng, khốn khổ.
Châu: Nhưng để làm gì? Nói đến chiến tranh, là phải nói đến giết người.
Nhàn: Không đủ! Người ta phải làm rất nhiều hành động trước, thì người ta mới có thể giết người được. Sự giết người chỉ là hành động cuối cùng. Tôi muốn viết về hành hạ con người trong những năm tháng này. Từ con người bị hành hạ mới đẻ ra con người bắn giết.
* Trong đợt đi Quảng Trị, tôi đã chú ý nhiều đến các đội điều trị. Là vì trong cái chiến dịch 1972 này, đó là cái phần việc mà mình thấy có thể nó còn là giữ gìn con người, bảo vệ con người.
… Nhưng đi vào vẫn thấy bí. Những ngày chiến dịch, những thằng Quân y làm việc cứ như một bọn mổ vịt mổ gà (cho đến cả y tá cũng mổ).
… Một thằng lính Quảng Trị nó nói với tôi: Quảng Trị đúng là cái máy nghiền thịt.
Tôi ngồi tôi xem lại cái phần Lửa từ những ngôi nhà. Và tôi tự hỏi bây giờ mình phải viết thế nào. Viết ca ngợi chiến tranh cũng không được. Viết phản chiến cũng không được. Thôi thì viết cái gì đó, người ta cứ phải sống, lầy lụa mà sống, mà chịu đựng.
– Viết về kiếp người ?
– Gọi thế cũng được nhưng nó hơi bi thảm quá.
* Người nào đi Quảng Trị về, cũng thấy chói lên cái câu hỏi về chiến tranh – cái câu hỏi đỉnh chạm trời, và chân sát mặt đất.
… Lắm lúc, chả muốn đọc những thứ người ta suy nghĩ nữa. Ai nghĩ cũng chẳng bằng mình. Đất nước này là đáng nghĩ nhất. Mình là thằng nghĩ có thể hay nhất.
– Phải viết thế nào đó cho hết mình. Đôi lúc như là chỉ cần ghi lấy những ý nghĩ vớ vẩn của mình cũng được, nghĩ xuôi rồi lại nghĩ ngược, quanh quẩn nghĩ gần rồi lại đẩy nó ra xa, đẩy nó ra xa, rồi lại kéo nó vào gần…Văn học là phải như thế.
Nhìn lại một số tác phẩm viết về chiến tranh
*Tôi ngồi tôi đọc Sống mãi với thủ đô. Xem như ông Tưởng ở một đầu chiến tranh, mình ở đầu đằng này. Thấy trước từng ấy năm, mà ông Tưởng ông ấy lại còn tiến bộ hơn mình. Ông ấy còn dám nói cầm súng là một việc không ra sao, chúng ta buộc phải làm vậy. Còn mình, mình chỉ thấy việc cầm súng một việc anh hùng, tốt đẹp, chúng ta lầm lẫn mục đích với phương tiện. Và một số người cầm bút cũng lẫn giữa mục đích và phương tiện như vậy.
– Kiểm điểm lại thì thấy người viết mình loanh quanh lắm. Có độ 4-5 vấn đề, rồi cùng nhận ra và cùng chui cả vào đấy. Chả cứ chui vào về mặt tư tưởng, mà chui vào cả về mặt cốt truyện. Xem xem, từ ông Nguyễn Thi, ông Phan Tứ cho đến ông Xuân Thiều, cũng một cái thôn như thế, một cô trẻ trẻ bí thư chi bộ, lại một mẹ già, rồi một thằng địch. Sao mà mình giống nhau như lột. Tự nhiên câu cú chữ nghĩa cũng phải giống nhau.
… Nhưng tình hình mười năm tới, rồi cũng phải thế thôi. Ở mình đừng hòng viết về một cái gì hư ảo đâu, cái nền văn học ấu trĩ của mình rồi rút cục cũng chỉ như hôm nay. Chỉ có thể thế này, độ bảy phần nịnh thì viết lấy ba phần trung. Bảy phần như mọi người, và ba phần như của mình, lên diễn đàn hét ầm lên, nhưng cũng có lúc có thể ghé vào mọi người, nói vài điều tâm sự. ( Nhàn:Tôi chỉ sợ những cái anh ba phần kia cũng không có một, thì sao gọi là văn học được).
… Ở nước ngoài, đúng là nó hay viết về đất, về cát, về những chuyện đâu đâu, chính vì đó là cái phần bản năng, nó cũng là cái phần huyễn hoặc của mỗi con người.
– Con người ta, nếu cái gì cũng rõ ràng rồi, thì không phải viết nữa. Xem một nhà văn nhiều khi xem anh ta nói về phụ nữ thế nào, vì phụ nữ bao giờ cũng sống một cách bản năng như vậy.
Tính khái quát trong văn học
Hôm qua tôi ngồi nói chuyện với Khải. Một quyển như Vang bóng một thời ăn ở cái gì? Vì nội dung, nó ăn ở chỗ nó không sa vào cái hỗn tạp của thời đại bấy giờ, nó đề cao một cái gì tĩnh, đẹp, nói cho cùng cũng hợp nhân bản — mà về mặt nghệ thuật, ăn nhau ở câu chữ. Nhà văn của mình bây giờ chả ăn vào điều gì cả.
– Lúc nào đó, phải bàn lại cái chuyện như tính khái quát trong văn học, tính khái quát có phải là tính tượng trưng không. Khái quát ở mức nào (ví như truyện của Khải cũng chưa phải là khái quát lắm). Văn học nó phải là một cơ thể nội tại. Nó phải có một cuộc sống riêng — dù cách cuộc sống khi gần, khi xa, tức là nó có mô phỏng cuộc sống, hay là nó biến hình, nó thăng hoa đi, thì cũng vậy, — bao giờ nó cũng tách ra, có cái lý riêng của nó mới được.
Nhàn: Tôi đọc bài Nhà thơ trẻ và cánh rừng già của anh. Tôi thấy nó có nhiều chỗ vụt một cái, từ thực tế đến khái quát. Bọn chúng tôi viết kém, hay bị lằng nhằng.
– Căn bản là có sự liên tục trong ý nghĩ thì không cần móc nối. Với lại phải bạo một tí.
– Hay là có những câu dài…
– Có những trường hợp, tôi đã viết một câu dài, tôi định cắt nó ra — câu ngắn có cái ghê gớm của nó chứ, nó rất quyết liệt, nhưng phá không ổn, lại cứ phải để câu dài, để cho người đọc nó đọc cả cái nhịp nghĩ của mình.
Người viết văn có thể bằng cả vào cái đó, bằng vào cả cái quá trình suy nghĩ của mình, mà nói chuyện với người đọc. Như tôi đã nói với ông một lần, chỗ nào bùng nhùng, chỗ ấy tôi lại cảm thấy viết được.
* Người viết văn phải vừa viết, vừa hoài nghi mình mới được. Cảm thấy rằng mình đang còn ngờ vực cái điều mình vừa viết, để cho người đọc tiếp tục nghĩ. Còn như cái ông Lê Khâm, ông ấy viết văn cứ như dân Quảng Bình đúc gạch táp lô. Và ông ấy vứt cái gì ra, là tin nó vừa khít như trình độ nhà văn của ông ấy đấy.
Viết về chiến tranh chính ra lại có cái đưa đẩy đi, có cái để trốn. Mình phải động viên thằng lính, không thể nói hết mọi chuyện được. Viết về hoà bình mới thật khó quá, phải viết thực. Lắm lúc ngồi nghĩ, lâu nay nhà văn mình cứ xem có cần cái gì thì minh hoạ cái ấy, thế mà vẫn sống đuợc, lạ thật! Rồi sau này, chả còn gì.
Bây giờ trong văn học, những thằng bất tài sống hơn những thằng có tài. Mà trong mỗi người, chính anh lại sống bằng cái phần bất tài của anh hơn là những phần anh cảm thấy phải hơn, anh tài năng hơn. Thế mới chết!
Nhàn: Cái ông Nam Cao, ông ấy rất nhân bản.
Châu: Đồng ý với ông, cái nhân bản nó là cái quan trọng. So ông Nam Cao với ông Nguyễn Công Hoan thì Nam Cao nhân bản hơn. So Nguyên Hồng với Nguyễn Tuân, thì Nguyên Hồng cũng hơn. Bây giờ, bọn viết trẻ cũng thiếu. Bây giờ, bọn viết trẻ đã đến với chủ nghĩa anh hùng, trước khi đến với chủ nghĩa nhân đạo. Không đến được với chủ nghĩa nhân đạo, anh không viết được đâu.
* Bây giờ đi đâu, tôi cứ muốn né né, tránh tránh đi. Không muốn giơ mặt ra làm gì.
Cho nên gặp thằng Chu, thấy ai nó cũng bắt tay, mình lại đâm ra ngại.
Các vấn đề hình thức
* Là cái thằng viết anh phải chú ý đến câu chữ. Càng những chỗ bùng nhà bùng nhùng, anh lại càng phải viết cho trong sáng.Thằng viết phải nhớ rằng cả hai thứ vũ khí tay trái và tay phải, đều nguy hiểm — hình thức là tay trái, mà nội dung là tay phải.
– Hôm nọ, lão Khải cũng đã nói rồi. Ngay ở Vang bóng một thời cũng chỉ được về văn.Văn mình bây giờ cũng không có nữa, không biết ra sao?
– Những lão như lão Tuân, lão Xuân Diệu thực ra thiếu tư cách thì cũng là điều dễ hiểu. Họ đã quen ăn ngon rồi chẳng hạn. Mình ăn miếng giò, thì giò nào cũng được. Các lão ấy còn biết củ tỉ từng thứ giò một, giò hàng nào, thịt hàng nào.. Cho nên tống những thứ ấy vào mồm là viết theo đặt hàng hết.
Ví như mình, mình cũng vẫn có những khao khát. Mình giá có khổ nữa, nhưng được viết thoải mái, còn hơn sướng hơn, mà bắt viết khốn nạn.Mình muốn nói lên một điều gì đó. Mình muốn thét lên một điều gì đó còn nghẹn trong lòng.
Nhàn: Mình mới hơn?
Châu: Cũng không biết có mới không, nhưng mà rõ ràng là trẻ, cần trẻ quá đi chứ! Trẻ để có thể vụt ra cái điều thằng già nó giấu.
– Anh có ý thức về sự thay đổi của mình? Ví dụ từ truyện ngắn sang Cửa sông
– Hồi ấy tôi cứ làm thế thôi, không tính được.
– Anh có nhận đằng viết truyện ngắn không hay bằng truyện dài?
– Truyện ngắn khó. Xưa nay có truyện ngắn nào chỉ ăn ở chỗ ca ngợi
– Thế Daudet, Paustovski ?
– Đó phải là những người có tài ghê lắm cơ.
Nhàn: Tôi không phải là người học đòi dễ dãi đâu. Nhưng tôi cứ cảm thấy là cần phải viết khác đi. Con người mình cứ rời vụn ra, đồng thời lại rất thống nhất. Con người mình vừa lạnh đi vừa ngày mỗi cuồng nhiệt lên. Nhưng tôi hỏi anh, từ lối viết Cửa sông sang đến Dấu chân người lính, anh có ý thức không?
Châu: Cũng không hoàn toàn có ý thức, nhưng cứ cảm thấy là có khác. Đó là lần tôi đi chiến trường. Đi toàn với những người gây cho mình khó chịu, mình thấy rất rầy rà. Lại nữa, tình hình đánh đấm khó khăn, chẳng ra sao cả. Có nhiều điều không giống như dự kiến. Tự dưng trong con người mình nó sinh ra cái chất ác, cái yêu cầu phải phanh phui mọi chuuyện, phanh phui chính mình. Tự dưng con người thấy phải đi đến cùng trong một số ý nghĩ. Bắt đầu bằng việc ghi vào nhật ký.
– Những chuyện hình thức, nó vào mình ghê thật
– Vì sự biến chuyển của hiện thực, nó làm cho con người anh như một người sốt, sờ vào đâu cũng thấy nóng, mồm mũi mang tai đều thở ra hơi nóng. Đúng là tất cả những cái đó phải vào trong nội dung mới được. Nội dung không có, đâm ra hình thức cứ loanh quanh
– Nhưng mà vẫn có chuyện hình thức.
– Có. Hôm nọ Bằng Việt nó có nói chuyện này. Theo lời Nguyễn Khải, Bằng Việt nó nói là cách chia chương chia đoạn của văn xuôi mình quá cổ; đáng lẽ mình cũng phải chia theo những ý của nội dung, những ý của triết lý mới phải cơ, chứ cách chia theo thời gian không gian bình thường là hình thức lắm.Như thế là đã ngửi thấy hơi văn xuôi cả đấy.
Chất văn học
* Thằng viết thật buồn cười. Lắm lúc phải khoảng khoát, mà lắm lúc phải tẩn mẩn tính toán, quá anh hàng xén. Tính bao nhiêu chuyện.
Ví như tôi. Nó mời chào ghê lắm, nhưng nhất định, tôi sẽ không viết kịch bản phim. Viết những thứ ấy, không có ngôn ngữ nữa, vì nó không yêu cầu anh về mặt ngôn ngữ. Tôi cũng sẽ không viết truyện thiếu nhi. Không viết truyện ngắn. Chỉ vài ba năm, phang ra một cái truyện dài, hay tiểu thuyết cũng được. Hỏng thì hỏng mất vài năm, nhưng cũng đành chịu, mình phải tỉnh táo mà viết.
Văn chương VNQĐ mình đại khái là lính tẩy. Loại người như thằng Thiều, Hữu Mai, cả Khải, cả tôi là văn chương kiểu cán bộ, cán bộ chính trị.
Còn bọn bây giờ, nó lại lính tráng quá, Đỗ Chu lính, lính theo nghĩa binh nhất binh nhì, anh thiếu cái chững chạc của thằng cán bộ, chững chạc trong tác phẩm.
– Tôi đi xem một bộ phim Bulgari có một thằng nó làm thùng, nó nói về cái tài năng trong cuộc đời. Hôm nọ họp, tôi đã phải nói họ nói toàn chuyện vớ vẩn, ra những vấn đề quan trong; mình nói toàn chuyện quan trọng, mà xem lại thì vớ vẩn.
… Nói thế thôi, quy lại bây giờ mình rất giống nhau. Học ở đâu không biết, vừa viết vừa bình luận. Không ai làm được cái lối viết như Hemingway, có vẻ lẳng lặng tả thế, mà lại ra vấn đề. Mình thì hay xông vào truyện, ngố không chịu được. Đúng là các nhà văn của một dân tộc lắm điều.
Một buổi chiều, vừa ngồi xổm lau nhà vừa nói vọng lên:
– Mình còn biết là mình lảm nhảm. Lại còn bao nhiêu thằng cứ ngồi đấy, uống chè, hút thuốc lá, mặc quần áo thật diện, rồi cứ phán xét những chuyện đâu đâu, thì mới nhảm đến là ngần nào.
Mối quan hệ với chính mình
Nhàn: Khốn khổ, tôi vẫn có thích đọc lại văn mình!
Châu: Người viết mà không còn cái đó, thì anh còn gì nữa?
-- Viết đôi khi như là một sự bắt được. Tức là tự nhiên mình tìm thấy một cái gì đó, mà trước đó mình chỉ ang áng, chứ thật ra, mình cũng không thật hiểu.
– Người viết bao giờ cũng có những cái mà theo đuổi. Tác phẩm trôi chảy theo những cái hữu hình.Nhân vật áo xanh hay áo vàng, quen ai hay không quen ai, nhà văn phải biết.Nhưng nhà văn lại còn như đang theo đuổi một cái gì rất vô hình, một vẻ đẹp, một nhịp điệu. Về sau này, anh mới có thể nói rằng anh viết kỹ lưỡng cẩn thận, là để tỏ ra kính trọng độc giả hoặc là vì thế này thế nọ. Nhưng thật ra, trước hết, nó là để thoả mãn chính anh.
— Tôi thấy viết còn có cái thú vị này. Là cảm thấy chinh phục được một cái gì đó. Cảm thấy sẽ bắt nó đi theo cái ý của mình, nó thuần phục mình hoàn toàn. Bằng chứng là người ta vốn bảo nó như thế này, anh lại có thể viết nó ra thế kia… Đó cũng phải được coi là một thứ sung sướng.
-- Có những người như ông Khải khi đi thực tế ông ấy ghi rất nhiều chi tiết. Tôi thì khác. Tôi nghe người ta nói, cũng lơ mơ thôi (Dĩ nhiên, mình cũng phải ghi, văn xuôi tốn tài liệu lắm!). Nhưng ngồi với cái nhân vật tương lai của mình đó, cái trước tiên là mình tính: tính xem hắn mang lại cho mình cái gì, mình phải thông cảm với hắn điều gì – giữa ngưòi lính hậu phương với người lính ở tiền tuyến, có cái gì khác nhau? Có được cái phần đó rồi thì thôi đấy, coi như là anh đã gặp được một con người.
Sống và viết trong chủ nghĩa xã hội
*Vấn đề căn bản của văn học ở cái chế độ mình, nó là vấn đề đạo đức. Tức là xem con người ta nêu sống thế nào cho phải, cho phù hợp với xã hội (không bao giờ đặt vấn đề văn chương tồn tại hay không, như ở các nước khác.)
… Một người như tôi, tôi cũng hay để ý xem ở các nước XHCN, họ làm ăn thế nào, nhìn họ đi biết con đường mình có thể đi.
…. Tôi không thể nào viết về các loại truyện mà các nhân vật bị quấn chặt trong những chức vụ, những thứ như là chính sách, thời sự 1-2 năm. Tôi có viết về xã hội chủ nghĩa, thì tôi cũng tìm được cách rồi. Những lần đi qua cái chỗ khe nước lạnh ở giữa Nghệ An –Thanh Hóa, tôi rất chú ý những công trường làm đá ở đấy. Nếu cần phải viết, thì tôi viết về một cái miền xa xôi như vậy, mà ở đó, người ta vẫn bị mọi thứ quan hệ xã hội chủ nghĩa chi phối…
— Có lẽ là anh muốn đi cái kiểu như Aitma tov
– Có thể là như thế.
Những cái gọi là văn chương của XHCN mình, tôi đọc không chịu được. Ông Khải cứ khen om cái Đồng chí trong chủ tịch đoàn (tập truyện Liên Xô) tôi đọc thấy chả có gì, viết dở lắm. Tôi chỉ thấy được có cái phim Người đương thời với lại cái Khởi đầu.
Nhàn: Trong XHCN, thể chế xã hội đã là cái khung quá chặt, văn học lại tự tạo cho mình những cái gông, như một thứ khung nữa, muốn xoay sở cũng khó.
– Đúng hai cái khung. Trong khi đó, thì con người của mình bây giờ phức tạp quá. Đất nước chia ra, trong mỗi gia đình chia ra, và trong từng gia đình, y như có vài thằng người tồn tại. Tôi nghệ sĩ và tôi cũng tính toán vặt,tôi thông minh và tôi ngu — có cả. Những cái mặt ấy chen cạnh với nhau, giằng xé lẫn nhau, rồi nó ra mình.
… Đại khái văn học XHCN cũng như con người lão Khải ấy. Cứ bóng lòng lọng lên. Cứ sắc sảo, có rất nhiều vấn đề, mà lại hoá ra không có chuyện gì cả.
Hôm nọ, tôi nói thế này, lão Khải lão ấy mếch lòng lắm. Tôi bảo “Những thứ văn chương nói về hợp tác hợp tộ sau này vứt đi cả thôi !”
… Không biết chừng, mình còn trong sáng hơn cả lão Khải nữa.
* (Xem Đường qua đất nước phim CHDC Đức) Xem thấy thằng làm phim nó rất rành mạch với bản thân. Với lại cái chính là nó nói được về một con người. Cái người đàn bà ấy trong chiến tranh, đi đến đâu, cũng đón lấy bọn trẻ con, y như mang trong mình những cái mầm nhân bản. Cái hướng mở như thế rồi nói được như thế, thì tức là rất hợp với mình. Mình cũng chẳng còn mong được cái gì hơn nữa.
Câu và chữ
Nhàn: Văn chương mà viết cho tinh luyện đọc sướng thật. Nhưng tôi lại càng thích thứ văn có vẻ như xô bồ nhưng lại có được vẻ đẹp bên trong của nó.
Châu: Nhưng như thế, cái nội dung anh viết phải thực lắm cơ.
– Cái chữ quan trọng thật.
– Chữ, đó là màu của tranh. Cùng với chữ, tư tưởng triết học của anh hình thành.
– Có nhiều người chữ dùng quá chênh vênh.
– Một số người khác, thì chữ lại nhợt nhạt. Như ông Thi chẳng hạn.
-- Văn ông Tuân còn là do phần công phu, cho nên nhiều lúc còn thấy vàng son lộng lẫy quá. Văn ông Nam Cao cũng điệu.
-- Đúng rồi, văn chương như văn Tô Hoài dông dài thế nào cũng xong … mới viết về cách mạng được. Văn của Nam Cao chua chát thế, giá có viết về cái mới cũng rất khó viết. Tôi đọc một cái ký của Quang Dũng. Đúng lão này có một thứ ngữ pháp rất lạ. Tức là ngữ pháp của mình, thằng này thì cứng quá, điệu bộ, thằng khác thì mềm yếu quá. Ông này ông ấy cứ vuông vức, dẽ dàng, ngữ pháp nó cứ thành những kết cấu xếp theo chiều dài đâu vào đấy.
Nhưng thôi, văn của người nào, là do tạng của người ấy. Cốt có một điều, phải cho nó rõ ràng, đâu vào đấy, đừng có nham nhở, chắp vá, vớ vẩn, hoá ra hỏng.
Kể chuyện cánh biên tập xưởng phim
Bọn ấy nó thạo lắm ông ạ. Như thằng Trần Kim Thành, nó bốc ông Mai lên thế nào không biết, nhưng ngồi với tôi nó chê nhem nhẻm. Đại khái nó nói là nó chỉ mượn cái tên Vùng trời của ông này thôi, còn nó sẽ làm ra một cái phim hoàn toàn khác.
Hay là cái ông Phạm Văn Khoa, ông ấy bảo tôi. Ông có biết ở Liên xô, bọn nào nói chính trị hay nhất không? Bọn say rượu. Một lần tôi đang đi, thấy hai thằng say rượu đang đùa nhau.
– Đứng lên, đứng lên, khách nước ngoài kia kìa, người ta cười chết.
– Khách nào thế?
– Việt Nam.
– A, Việt Nam, Việt Nam. Hoan hô các đồng chí Việt Nam. Con đường XHCN rất rộng, mời các đồng chí cứ đi(ý muốn nói: bài xã luận tháng 8/72 của mình.Hồi ấy, cha con chuẩn bị với nhau mấy tháng mới có thể ra đựoc cái xã luận ấy đấy chứ).
Nói chung, bọn Xưởng phim nó đều nói rất hay, vì chúng nó đều là bọn thất thế. Thằng nào nó cũng có cuộc đời cả.
Còn như mình ở đây, nói chung chúng tôi cũng như ông, tức là vào đây ngay, chẳng anh nào có gì thăng trầm. Mình là nhà văn ca ngợi chế độ này thì đúng rồi. Mình có điều suy nghĩ một tí thì cũng chỉ là nói hộ những người thất thế.
*(Viết truyện phim) Mình chỉ là cái thằng nhà văn viết truyện thôi. Phim không ăn được đâu.
Nhàn: Anh phải làm nhiều thứ cho nó “hiện đại” cơ. Trông ông Mai đấy.
Châu: Những thằng ấy nó làm một thứ không xong, cho nên nó mới phải làm nhiều thứ. Nhưng mà thôi, làm thế chỉ tổ hỏng bút. Văn học mà mất đi cái vỏ ngôn ngữ, thì còn gì là văn học nữa.
Thử ngồi viết một cái gì không cần in, rồi cũng lại chán. Mình bây giờ nó cũng quen rồi. Làm cái gì phải có cả nghệ thuật lẫn kiếm tiền, có hai cánh nó mới đủ sức thôi thúc. Chỉ có nghệ thuật thôi không được. Nhưng chỉ có kiếm tiền thôi càng không được!
(còn tiếp)
Published on December 27, 2015 01:43
December 24, 2015
Bức tranh làng xã một thời quá khứ
Trên thế giới hiện có cả một môn học chuyên nghiên cứu nông thôn và nông dân nhưng ở ta, ngành này còn đang non yếu, chập chững. Điều đáng tiếc nữa là nhiều người chỉ biết tới những công trình (những bài báo, những cuốn sách) mà các tác giả như Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Từ Chi, Diệp Đình Hoa, Vũ Huy Phúc,... đã cho công bố mấy chục năm gần đây, chẳng hạn Xã thôn Việt Nam, Người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Tìm hiểu làng Việt, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nông thôn Việt Nam thời cận đại...
Trong khi đó, thực tế cho thấy là ngay từ 1945, trên lĩnh vực này, người Pháp đã có nhiều chuyên gia hoạt động có tính cách khai phá, cuốn sách Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của P. Gourou , bản dịch tiếng Việt in lần đầu 2003, tái bản 2014 là một ví dụ.
Riêng phần nghiên cứu viết bằng tiếng Việt thì còn nằm rải rác trên các báo, tạp chí, tuy nhiên, ở đó cũng có nhiều trang viết có tính khái quát cao, chúng có thể giúp bạn đọc có quan tâm tới nông thôn hiểu biết sâu sắc hơn về bức tranh làng xã trong quá khứ, từ đó lý giải nhiều hiện tượng trì trệ bảo thủ hiện nay.
Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu một trong những công trình loại đó, loạt bài Những nhận xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ, của tác giả Tân Phong Vũ Văn Hiền, in trên một tờ tạp chí xuất bản ở Hà Nội thời gian 1941 – 1945, là tờ Thanh Nghị.
Như tác giả viết trong lời mở đầu, sau một thời gian sống hẳn ở một làng quê, ông ghi lại một số nhận xét của mình.
Thói quen biệt lập
Nét đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ là tính chất manh mún lặt vặt, làng nhỏ thôn xóm rời rạc và được hình thành một cách tự phát. Đã có những nơi người ta định dồn các đơn vị nhỏ lẻ ấy lại thành những đơn vị lớn hơn, nhưng gặp phải sức phản kháng từ nhiều phía. Người dân muốn sống xa sự quản lý rồi dông dài thế nào cũng xong. Mà lý dịch cũng không thích ghép làng nọ với làng kia vì như vậy họ mất quyền lợi.
Các làng quen sống biệt lập với nhau, ngay các thôn trong cùng một làng cũng vậy. Vì không tin nhau, người ta thường rất chểnh mảng mỗi khi phải có việc cần đến sự cộng tác. Những quãng đường nhiều thôn cùng đi là những quãng đường ít được sửa sang nhất.
Bộ máy quản lý đơn sơ cổ lỗ
Trong phần lớn trường hợp, bộ máy này được hình thành trên cơ sở sự hiệp thương, thoả thuận giữa các phe phái trong làng, chủ yếu là xoay quanh các dòng họ. Bởi vậy, mặc dù trên nguyên tắc thì lý trưởng là người đứng đầu bộ máy hành chính, nhưng thực ra người này chịu sự khống chế của các bậc đàn anh trong dòng họ mình (nhiều khi những người này giấu mặt, song ngấm ngầm điều khiển công việc). Họ mạnh thì mới trúng được lý trưởng. Nhưng trong một làng mà vấp đâu cũng là người cùng họ thì việc điều hành của người lý trưởng có bất lực cũng trở nên dễ hiểu. Nhiều khi tình thần gia tộc diệt hết tinh thần công dân và cả những người đứng đầu trong làng cũng không thoát ra nổi tình cảnh đau xót này.
Nhưng sự bất lực của bộ máy còn đến từ nhiều lý do khác. Vì những chồng chéo trong phương thức tổ chức, nào là xóm ngõ, nào là giáp, nhiều khi các phe cánh mới sinh ra chỉ là để chống lại các phe cánh vốn có. Nhất là vì các nguyên tắc vận hành của bộ máy đó không được hình thành rõ ràng, và sự giải thích thì hoàn toàn tuỳ tiện. Rút cuộc, cả xứ như một hội riêng của những tư nhân. Nếu cái đặc tính của một pháp nhân cai trị là quyền ban hành những nghị định có ý nghĩa cưỡng bách, buộc mọi người thi hành, thì làng xứ ta chưa bao giờ có được cơ quan như vậy. Đây cũng là lý do khiến người ta nói rằng trong suốt quá trình tồn tại của mình, làng xóm mải lo làm ăn kiếm sống, mà không hình thành nổi một nền hành chính hợp lý.
Về cái gọi là nguyên tắc dân chủ ở nông thôn
Do những rơi rớt từ thời công xã nên có nhiều việc phải được sự nhất trí của đông đảo mọi người. Trước những công việc có ý nghĩa quyết định, cả làng cùng được mời ra họp. Việc làng thường định vào những ngày tuần tiết là những ngày ở đình có tế lễ và ăn uống. Khi nào có việc gì khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn thì số người ra họp khá đông. Còn khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mẻ nhưng chưa ai thấy lợi trực tiếp cho mình thì buổi họp rất vắng, nhiều người chỉ ra tế lễ ăn ruống rồi về. Mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao nhiêu người dự bàn mới là đủ.
Thường thường những cuộc bàn cãi trong những buổi họp việc làng không dẫn đến một kết quả thiết thực gì cả. Bởi ngoài đám đông vô cảm thì một số người gọi là có hiểu biết một chút lại hay phá ngang. Chỉ cần một kẻ phản đối thì đủ làm cho điều đề nghị hay đến đâu cũng phải gác bỏ. Mà ở làng nào cũng có vài viên kỳ mục, vài người bướng bỉnh giữ thái độ phản đối: Hoặc vì họ thấy công việc sẽ làm không trực tiếp lợi cho họ, hoặc vì họ ghét người khởi xướng ra công việc ấy; đại khái họ nghĩ rằng người khởi xướng định bới ra việc để ăn - điều nghi kỵ sau này tiếc thay, nhiều khi cũng đúng.
Sự trì trệ kéo dài
Nghe thì có vẻ ngược đời, nhưng trong nhiều trường hợp, chính cái gọi là tinh thần dân chủ nói ở trên lại là nguyên nhân của tình trạng trì trệ. Nói chung, ngẫu nhiên tuỳ tiện gặp đâu hay đấy là đặc tính chi phối các hoạt động chung của làng xóm. Muốn đắp một con đường ư? Quyết định năm nay, nhưng có nhẽ rồi một hay hai năm sau mới làm xong, mỗi họ mỗi thôn mỗi gia đình ung dung tiện lúc nào thì làm lúc ấy. Muốn đào một giếng nước ăn ư? Nếu người khởi xướng ra việc đó không can đảm đứng ra mà đốc thúc thì dân làng cứ chịu khó ăn nước ao mãi. Hội đồng làng xã đặt lệ cấm đổ rác ra đường cái ư? Nếu không có một mối hiềm thù riêng từ trước, thì không một chức dịch nào thấy mình có trách nhiệm là ngăn cản hay trừng phạt người làm trái lệ ấy.
Tài chính bế tắc hay là thu chi hạn hẹp và giấm giúi
Khái niệm tổ chức sản xuất không có trong đầu những người quản lý làng xã. Sự bất lực trong hoạt động, có một lý do đơn giản: ngân sách thường rất hạn hẹp. Làm ăn kém, người dân muốn sự đóng góp càng ít càng tốt. Mà sự chi thì lúng túng, chẳng mang lại lợi ích gì chung. Thứ nữa, lý dịch chỉ nhăm nhăm chờ cho những dịp thu thuế có được ít quỹ là giấm giúi chia nhau giật tạm, việc này ai cũng biết mà không sao kiểm soát nổi. Tinh thần hoài nghi càng có dịp để mọc rễ trong tâm trí mỗi người dân thường.
Trước năm 1945, khái niệm xã hội học chưa thông dụng, song có thể nói trong bài viết này, nông thôn Việt nam trước 1945 đã được xem xét đánh giá bằng một cái nhìn mang tính cách xã hội học khá sắc sảo. Một trong những kết luận cuối cùng của người viết bài này quy lại ở một điểm thực tế: muốn cho làng xã thay đổi thì không thể và không nên để làng xã tự trị, làng nào cai trị làng ấy. Mà phải có một quy hoạch chung, hình thành nên một loại chức sắc chuyên quản lý nông thôn, loại cán bộ này (như cách ta gọi ngày nay) được đào tạo kỹ càng và do công quỹ trả lương. Có như thế thì mới khởi động cho việc đưa nông thôn ra khỏi tình trạng biệt lập trì trệ vốn kéo dài từ thời trung đại và đến nhà nước thuộc địa Pháp cũng bất lực.
Đã in Xưa & Nay, số 297, 12/2007, tr 32
Published on December 24, 2015 22:22
December 19, 2015
Vũ Cao và một kiểu người quản lý văn nghệ những năm chiến tranh.
Theo nhiều người kể lại, ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, nơi làm việc của tạp chí Văn Nghệ Quân
đội từ 1957 đến nay, vốn được xây từ trước 1945 để dành cho phi công Nhật.
Các phòng gác hai được lát bằng thứ gỗ phẳng lỳ, anh em sống ở tòa soạn chúng
tôi thường lau sạch đi, lấy chỗ để hàng chục người có thể ngồi họp hành nghiêm
chỉnh hoặc quây quần tán chuyện.
Sau khi lễ mễ mang cả xô nước từ bể lên gác lại nhoài người lau nhà, mọi người
không khỏi tiếc sức, nên trước cửa thường không quên đề rõ rằng vào phòng để
dép ở ngoài. Nhưng có lần anh Hà Trì, người trình bày các số báo, kể với tôi:
--
Ông mới về không biết, hồi trước đã có lần
hình như ông Oánh thì phải đã phải đề rất rõ “Giày dép để ngoài, trừ Vũ Cao”.
--
Sao lại có cái lệ lạ lùng vậy, chắc là để
chiếu cố thủ trưởng?
--
Hồi ấy đâu ông Cao đã lên Phó chủ nhiệm mà chiếu với chẳng cố. Căn bản là ông
Cao ở cái phòng dưới nhà mình chuyên đi đất, ra ngoài mới xỏ dép, nên vào phòng
đi dép hay bỏ dép cũng thế. Tóm lại chân Vũ Cao lúc nào cũng bẩn, có thế mà cũng không hiểu,
bố trẻ ạ!
Người phụ trách tờ báo của chúng tôi có tính
xuề xòa thật. Trong khi các thành viên tòa soạn hai người một phòng trong ngôi nhà hai tầng sang trọng trên gác thì thủ trưởng Vũ Cao và thủ phó Từ Bích Hoàng chỉ mỗi người một
phòng, loại phòng nhỏ dưới ngôi nhà một tầng tường mỏng cửa giả sơ sài, mùa hè thì nóng mùa đông thì lạnh. Bàn ghế không có gì khác anh em. Nhân viên có đến làm việc ngồi cạnh cái bàn gỗ
mộc. Người công vụ của cơ quan là anh Mạn chỉ ưu tiên cho hai vị hơn hẳn anh em là mỗi sáng đun sẵn cho mỗi
người một phích nước sôi, để các vị tiếp khách.
Trong
đời cán bộ của mình trước sau tôi chỉ ở có hai nơi là Văn nghệ quân đội và nhà xuất bản Tác phẩm mới sau là nhà xuất bản Hội nhà văn, nên không được biết nhiều về lề lối làm việc hồi ấy,
nhưng rõ ràng Vũ Cao là loại người xuề xòa hiếm có. Xin kể hai chuyện có liên
quan tới bản thân.
Năm
1964, tôi đi bộ đội theo chế độ nghĩa vụ quân sự và bắt đầu đeo cái lon binh
nhì. Sau mấy tháng luyện quân ở Nà Sản, lúc được gọi về làm giáo viên văn hóa,
nghĩa là làm đúng chuyên môn của mình, tôi cũng chỉ bò dần theo chế độ hạ sĩ
quan; tới khi từ Đoàn kịch Tổng cục chính trị chuyển sang tạp chí, mới chỉ đeo
quân hàm thượng sĩ.
Ở
Văn Nghệ quân đội đâu độ gần một năm
rồi tôi mới được chuyển dần lên chuẩn úy
quân nhân chuyên nghiệp 1970, rồi thiếu
úy theo hệ sĩ quan chính thức năm 1971, và từ 1976 tới khi xuất ngũ 1978 là
trung úy.
Tôi
còn nhớ rất rõ cả mấy lần nhận giấy thăng chức. Buổi sáng thức dạy tập thể dục
và ăn sáng xong, đang leo lên cầu thang, chuẩn bị làm việc, tới nửa chừng, bỗng
nghe có tiếng Vũ Cao khẽ gọi, nhưng lại giật giật từng tiếng một Nhàn Nhàn, tôi
không hiểu ra làm sao cả. Sao trước đó thủ trưởng lại cứ đi đi lại lại như đã
chờ mình thì phải? Mọi khi có việc gì anh vẫn nhắn qua anh em khác để hẹn tới tận
phòng, sao lần này sao khác hẳn? Tôi đã tới sàn tầng một. Vũ Cao đang tay chắp
sau lưng vụt giơ về phía tôi tờ giấy với một câu nói khẽ “Của cậu đây này”, rồi
bỏ đi luôn không chờ tôi hỏi lại một lời. Lúc lên phòng mở ra, hóa cái quyết định
trao quân hàm. Tôi biết rằng ở nơi khác mỗi lần như thế, các thủ trưởng cơ quan làm rất bài bản. Gọi
nhân viên tới. Trước khi đưa quyết định thì huấn thị dài dài, yêu cầu thời gian
tới thế nọ thế kia. Và nhất là cố làm cho người được thăng chức biết công ơn
mình, nay mai tiếp tục hầu hạ mình. Đằng này Vũ Cao làm như một việc chẳng dây
dưa gì đến anh cả, cấp trên đưa tờ giấy phong ai thì anh trao cho người đó thế
thôi, và là trao ngay giữa lối đi.
Đến
như cái chuyện sau đây thì bây giờ tôi vẫn giật mình không ngờ lúc ấy mình liều
thế mà Vũ Cao cũng dễ dãi với mình đến mức vô nguyên tắc đến thế. Hè năm 1972
đó tôi có quyết định theo một đoàn văn nghệ (gồm có các anh Thu Bồn Sơn Nam
bên tạp chí tôi, anh Trần Anh Vinh và
anh Sơn Nam bên PhòngVăn nghệ) đi chiến dịch Quảng Trị. Theo nguyên tắc mỗi
sĩ quan sơ cấp như bọn tôi đều phải mang
theo một khẩu súng lục. Từ lúc lĩnh về, tôi cũng chẳng mở ra xem nữa. Chỉ muốn để ở nhà cho đỡ nặng nợ. Cứ ấp úng mãi, lúc sắp lên ô tô, tôi không nhịn được nữa,
đành nói thật với Vũ Cao:
- -- Anh cho em để nó ở nhà được không?
Sau
một phút suy nghĩ, Vũ Cao phẩy tay:
-- Ừ!
cất ngay vào tủ trên gác đi…
Sau
này biết tôi không mang súng, thiếu tá Anh Vinh trưởng đoàn còn cằn nhằn mãi. Tới
một trung đoàn, anh xin hộ tôi một khẩu carbin
và bắt tôi mang theo. Lúc này đã vào chiến trường rồi, tự nhiên tôi cũng thấy cần
có một khẩu súng nhỏ bên mình, dù cũng chẳng bao giờ tôi nạp đạn để bắn một
viên nào cả.
Cái
nét phóng khoáng trong sinh hoạt thật ra chỉ là một hậu quả tự nhiên của cái phóng khoáng chung trong quan niệm sống
của Vũ Cao.
Nhìn bọn anh em viết trẻ chúng tôi, bao giờ Vũ Cao
cũng mủm mỉm cười. Anh gọi chúng tôi là một lũ “nhốn nháo cách mạng” và ngầm có
ý bảo rằng hôm qua bọn mình cũng như các cậu có khác gì đâu.
Sinh
hoạt tư tưởng trong những năm chiến tranh có những sự gò bó chấp nhặt rất lạ. Một
bậc đàn anh dạy nghề trực tiếp, người nối tôi với tòa soạn bấy giờ là Nguyễn
Minh Châu. Trong những buổi tối trò chuyện
đủ thứ với nhau, tác giả Cửa sông thường không quen dặn tôi, giữa
quan điểm văn nghệ của cơ quan mình với các cơ quan chung quanh vênh nhau lắm,
có nhiều chuyện nói trong cơ quan thì được vào trong thành hay trước mặt
các phái viên Tổng cục mà cứ nói linh tinh thì khốn đấy. Tôi thấm thía lời dặn đó của Nguyễn Minh Châu, rõ nhất là trong một lần
đi họp với mấy vị phụ trách Thư viện và nhân viên các phòng Tư
liệu của các cơ quan báo chí bên cạnh. Với niềm tự tin và cảnh giác cao độ, các đồng chí đó
đặt vấn đề phải quản văn nghệ báo chí
thật chặt, ngay các biên tập viên các phóng viên cũng không được đọc các tài liệu
ngoài quy định của Tổng cục. Ở một trình
độ cao hơn, tôi nghe ra một nguyên tắc nghiêm ngặt có tính chỉ đạo chung, là phải xây dựng một nền
văn nghệ riêng, không để cho những linh
tinh bên ngoài đột nhập.
Họp
xong về, tôi lắc đầu le lưỡi bảo với
Nguyễn Minh Châu và mấy người khác, hôm nay tôi mới hiểu thế nào là kỷ
luật tuyên truyền trong quân đội.
Câu
chuyện rồi cũng đến tai cả Vũ Cao và Từ Bích Hoàng. Vũ Cao bảo nghe ai nói thế
nào lúc nào phải phân tích cho kỹ, có khi người ta nói với mình một khác, mình
lại nghe lầm thì sao. Còn cụ thể trong trường hợp này, biết tôi có nhiều bạn bè
bên ngoài, Vũ Cao dặn là biết thế thôi chứ đừng có đi mà nói rộng ra với cánh
Xuân Quỳnh Bằng Việt nhỡ anh em hiểu lầm.
Trong một dịp hiếm hoi, Vũ Cao nói thêm với
tôi rằng cả trong những buổi họp với cấp
trên, anh vẫn báo cáo cho các vị rõ là không có chuyện đó, không có chuyện một nền
văn nghệ quân đội hoàn toàn cô lập, và các
vị không có ý kiến gì khác.
Nên biết rằng hồi đó, giấy in báo không có, và
hình như bên Tuyên giáo cũng không muốn
có nhiều báo làm gì, phát sinh nhiều chuyện thêm mệt. Từ 1964 về trước, cả giới còn có tờ tạp chí Văn Nghệ của Hội liên hiệp và tờ báo hàng tuần Văn học của Hội nhà văn. Sau
kỳ Đại hội Hội liên hiệp lần thứ hai, hai tờ này sát nhập lại gọi chung là Văn nghệ. Tờ báo 16 trang mỗi tuần mà phải
cõng chung cho cả mỹ thuật, âm nhạc sân khấu, quả thật còn đâu ra đất để mà
dành cho các nhà văn. Văn Nghệ quân đội chúng tôi lúc ấy do Tổng cục chính trị quản. Đằng thằng
mà nói, những người phụ trách tạp chí có thể làm theo cái lối là khóa chặt cửa
lại, chỉ đăng sáng tác cho anh em nhà, cũng chả ai phê phán anh được. Thời các
anh Văn Phác Thanh Tịnh — những người tiền nhiệm của Vũ Cao — việc mở cửa đã bắt đầu
nhưng còn khá dẻ dặt. Tới Vũ Cao thì việc
này thành một nền nếp. Nhất là Văn nghệ quân đội rất sẵn sàng đón nhận
những tác phẩm hay của các bạn trẻ. Tôi nhớ hồi đó, tất cả những Xuân Quỳnh,
Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Hưng, Thi Hoàng, Nguyễn Khắc Phục…
đều có thơ hay truyện đăng ở Văn nghệ
quân đội và các tác giả trẻ này đều cảm thấy tạp chí không hề có tính chất
căng cứng hoặc biệt lập gây cho người khác
chút mặc cảm nào cả.
Sau này tôi mới hiểu Vũ Cao làm thế -- không bao giờ tự coi là dân đứng ngoài,
không muốn dính dáng đến các sinh hoạt văn học chung -- không phải là chuyện ngẫu
nhiên. Sự gắn bó giữa phong trào văn nghệ trong Quân đội với lực lượng sáng tác dân sự đã có từ thời kháng chiến chống Pháp. Hồi ở Hương Ngải, một trong những câu chuyện đầu
tiên Nhị Ca kể với tôi là chuyện Nguyễn Đình Thi sau khi đi chiến dịch trung du
đã ghé lại chỗ các anh, ngồi lì 18 ngày viết cho xong Xung kích mới quay về cơ quan
Hội văn nghệ, đưa cho các ông Trường Chinh Tố Hữu duyệt. Vũ Cao thì kể hồi
1948-49, cơ quan của anh tuy đã kéo lên Việt Bắc song vẫn có bộ phận ở Hà Nội,
trên này cần gì dưới đó mang lên. Và thế
là các anh có cả một lô những cuốn sách bằng tiếng Pháp, cái quyển mà Vũ Cao nhớ
hơn cả đâu là cuốn Cơn bão táp của
Ehrenburg. Nghe tin có sách, Nguyễn Đình Thi đang từ cơ quan Hội văn nghệ đi bộ
cả ngày đường sang chỗ Vũ Cao đọc nhờ. Mình vừa phải cho nó đọc sách, vừa
phải nuôi báo cô nó mấy ngày – Vũ Cao vừa nói vừa cười khà khà vẻ tự tin của một
người từ trẻ đến già luôn luôn là ông chủ những cơ ngơi đàng hoàng. Trong các câu chuyện của ông với chúng tôi về
thời nay của văn nghệ, ông không cần nhắc nhiều nhưng cái cảm giác về thời xưa ở
Việt Bắc cứ còn mãi trong ông, chả chuyện gì bên Hội nhà văn – bao gồm cả người
và việc -- lọt qua mắt ông cả.
1970,
Nam Định làm lễ kỷ niệm 100 năm sinh Tú
Xương. Văn Nghệ quân đội cũng một
ô-tô riêng về thành Nam. Trở về Vũ Cao chỉ nói với tôi:
--
Sừ Tô Hoài ghê thật!
--
Sao hả anh?
-- Có coi ai ra gì đâu. Ngồi trên chủ tịch đoàn mà tôi để ý toàn thấy tay ấy viết cả. Hình như đang viết một tiểu thuyết về Cao Bá Quát. Ra ngoài tay ấy còn bảo
là sẽ gửi cho bên mình vài chương. Tôi đồng ý ngay.
Sự
thông thuộc tình hình cả giới bảo đảm cho mọi sắc thái làm nên phương hướng mà
Vũ Cao phải quyết định .
Đứng
về mặt sáng tác, tác phẩm của Vũ Cao ở lại với lịch sử văn học chiến tranh chỉ có Núi
đôi, bài thơ mà trong thời chống Mỹ, khi tìm hiểu nhiều ba lô các liệt sĩ,
người ta thấy nó được chép rất nắn nót trong khi họ chẳng chép bài nào của Tố Hữu.
Về con người thi sĩ nơi Vũ Cao, riêng
tôi chỉ một lần đọc là dù quên tên nhưng thuộc
ngay được bài lục bát sau:
Mẹ tôi ru cháu chiều chiều
Thường là hát mấy câu Kiều cháu nghe
Mây hồng khóa kín song
the
Bụi
hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tôi rằng cháu hiểu làm sao
Những câu thơ tự thuở nào mẹ ơi
Lặng yên mẹ chẳng trả lời
Hai tay ôm cháu ạ ời vẫn ru
Mai
sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy se tơ phím này
Con tôi đôi má hây hây
Lại yên giấc ngủ thơ ngây chiều chiều
Bâng khuâng mẹ nói một điều
Nghĩ mà thương phận cô Kiều ngày xưa
Cũng
giống như Chính Hữu, Vũ Cao chỉ có độ vài chục bài thơ. Và cái chính là trong
cách sống, ông vẫn có chất của một cán bộ quân đội làm công tác phụ trách, còn
người nghệ sĩ trong ông thì còn ở dạng nghiệp dư, khi vui thì viết, cũng không
có một bài bản gì đầy đủ, lại càng không chất ngất quyết tâm trở thành nhà văn
lớn.
Tuy
nhiên đối với tôi, đây là một loại quan chức văn nghệ phù hợp với tình hình lúc ấy.
Một
đặc điểm của sinh hoạt văn học trong thời
gian chống Mỹ, là có rất nhiều vụ đánh đấm sát phạt nhau. Tôi sẽ nói lại tình
trạng này trong một hồi ký riêng, ở đây chỉ
nói một đặc điểm là rất nhiều vụ trong đó được đẩy lên quá mức cần thiết,
nhiều vụ không đáng có mà vẫn xảy ra, chẳng qua là có các vụ đấu tranh tư tưởng
trong xã hội nói chung thì người ta phải mượn việc đe nẹt giới văn nghệ để nêu
gương. Hồi chiến tranh phá hoại, máy bay Mỹ có cái lệ là sau khi oanh kích các
mục tiêu ở Bắc bộ, lúc trở về hạm đội trên biển, còn bao nhiêu bom phải trút
ra bằng hết. Và các làng xóm ven biển Nam Định Thái Bình, nhiều khi là một cánh
đồng, một bãi hoang vu vơ trở thành nơi hứng bom lu bù là vì thế. Việc giới văn nghệ được ví với những vùng ném bom
tự do – cái cách nghĩ có ở một số anh em thạo đời hồi ấy -- đã chứng tỏ văn nghệ có một thân phận
như thế nào. Liên tục bi cột vào những vụ việc không hiểu đầu cua tai nheo ra
sao, cả đám cứ nơm nớp như đám con nhà
nghèo, sợ cảnh bố mẹ cãi nhau lại mang
mình làm cớ. Hơn thế nữa, những việc vội vã này cũng
mở ra con đường cho những ngòi bút cơ hội, lấy việc hưởng ứng cấp trên để
lập thân -- đó mới là điều di họa cho thời gian sau.
Tôi còn nhớ khi xảy ra các vụ Cái gốc, Tình rừng, đến các vụ Vòng trắng vòng đen, Cây Táo ông Lành… thì ở
nhà số 4 chúng tôi, các bậc đàn anh năng nổ là người xầm xì với nhau đầu tiên.
Nguyễn Khải mang về các tin bên Hội nhà văn. Hữu Mai thì có đầu mối là các người quen trong Tổng cục chính trị,
cái chữ mà chúng tôi hay dùng là “dân thạo tin trong thành”. Cách nói của Nguyễn
Khải là cứ toe loe ầm ĩ cả lên, trong khi
Hữu Mai thì úp úp mở mở, nhưng các anh đều ngầm nói rằng chắc là phen
này Tạp chí mình cũng phải lên tiếng chứ.
Với vai trò là nhân vật số một của VNQĐ,
tôi đoán mọi chuyện Vũ Cao đã biết ngay từ đầu, nhưng trong các buổi họp,
Tổng biên tập của chúng tôi – mà hồi đó còn dùng cái chức danh Chủ nhiệm
-- chỉ nói là chờ cấp trên. Họp xong giải
tán trở về phòng riêng, Nhị Ca nói thẳng với tôi rằng cấp trên là ai, là ông ấy
[ = Vũ Cao] chứ còn ai nữa, vậy chắc là người còn đang tính, nhưng chắc là bố
mày chả làm gì đâu. Từ lâu mấy anh em làm công tác trị sự trong cơ quan như anh
Hà Trì, anh Doãn Trung đều bảo với tôi ông Cao nhà mình tuy chức danh chỉ ngang
trưởng phòng, nhưng lại có chân trong Đảng ủy Tổng cục, nơi mà các ông Cục trưởng
bình thường cũng không dám mơ. Thế mà Vũ Cao đã trúng mấy khóa liền. Về văn nghệ,
người ta có làm gì cũng phải tính đến ý kiến của ông. Nên lần này nghe Nhị Ca
nói vậy, tôi tin ngay. Quả nhiên Vũ Cao đã chi đạo tờ tạp chí của mình yên lặng
đứng ngoài không tham gia vào các vụ
đánh đấm, các chiến dịch truy quét sai lầm đương thời.
Khỏi phải nói trong việc này, Vũ Cao đã phải
suy nghĩ rất nhiều. Nó là chuyện sinh mạng chính trị của các quan chức. Đấu đá
đang là không khí của thời đại. Chỉ có con người lịch lãm và tự tin mới dám giữ một sự im lặng như vậy. Mà với ông nó là một sự nhất trí một sự liên tục.
Từ
1970, đang từ giọng thơ trữ tình dẫu sao
cũng còn đằm thắm, Chế Lan Viên ngả hẳn sang những bài thơ chính luận sống sượng
và trong các phát biểu trong các Hội nghị thì có cái giọng sát phạt đe nẹt khiến
nhiều người biết Chế Lan Viên từ hồi chữa bệnh ở Trung quốc về không khỏi ngạc
nhiên. Tôi tưởng trong cơ quan chỉ Nguyễn Khải vì là người hay đi lại bên Hội
biết con người Chế Lan Viên thế nào (điều này tôi đã kể trong các hồi ức về
Nguyễn Khải), còn ông Vũ Cao cứ lầm lầm lì lì ngồi đọc Oeuvre et Opinion với lại Lettre Francais không để ý. Hóa ra tôi nhầm.
--
Lâu nay cứ tưởng thế nào, giờ mới biết chính bố Lành đứng đằng sau Chế Lan Viên xúi hết.
Vũ
Cao thủng thẳng nói, nhân một lần anh ghé lại chỗ mấy anh em khác trong đó có
tôi.
Cái
sự Vũ Cao không tham gia các vụ đánh đấm trong mấy năm ấy hóa ra có cả một quan niệm chi phối dài dài. Anh đã là đồng đội từ Thâm Tâm, đã
chứng kiến những phút bi phẫn của Thâm Tâm trước khi hy sinh. Trần Dần là
người anh từng mến mộ và có quan hệ tốt với cả gia đình anh. Anh thường nhìn
Văn Cao với con mắt của một người cùng quê, trên đường lập nghiệp. Trong những
bài thơ Vũ Cao viết hồi kháng chiến, tôi
nhớ có bài Đèo trúc với mấy câu kết “
Lên ngang dốc núi / Chợt thấy mình say/
Người ơi hoa tím / Đầy rừng hoa bay”. Kháng chiến hồi đầu là thế, là một lũ
thanh niên thích giang hồ kéo nhau đi vừa phục vụ xã hội vừa thỏa chí tò mò. Trong bụng ai cũng một mớ
lơ mơ, chỉ có người nói ra thế này người nói thế khác, người ngông cuồng quyết
liệt, người lặng lẽ thể nghiệm, chứ sai lầm tư tưởng gì, địch ta gì ở chuyện
này.
Chính
thức ra công khai từ 1957, thật ra lúc đầu
Văn Nghệ quân đội vẫn còn tính chất một
bản tin nội bộ. Các vụ đấu tranh chống ảnh hưởng xét lại lẫn xu hướng học theo
cách mạng văn hóa bên Bắc Kinh có được giới thiệu ít nhiều trên trang báo khổ lớn
thì cũng viết theo các tài liệu từ cấp trên đưa xuống từ bên ngoài đưa vào, chứ
không phải lả tiếng nói của các người trong cuộc. Cái sự nhũn nhặn không tham
gia vào việc mình không thạo, chỉ lo việc cấp trên giao phó cho mình, thực
ra là cả nguyện vọng chung của các cây bút mới thành danh trên tạp chí, chứ
không của riêng ai. Nhưng trong tay một người chừng mực và lão luyện như Vũ Cao, nó có sự đúng mức mà người ta có thể vì nể.
Trong
việc quản lý Văn nghệ quân đội, Vũ Cao hay nói rằng lãnh đạo tức không
làm gì cả, cứ để cho việc mặc nhiên nó luân chuyển. Thực ra, đó là một cách
nói nhũn, nói tránh để không muốn bộc lộ ra những chủ kiến. Vũ Cao chỉ
không làm gì cả với nghĩa không hò hét không đao to búa lớn. Chứ đằng sau
cái vẻ dễ dãi, thật ra Vũ Cao có tính nguyên tắc của mình.
Có
một chuyện tới nay ít ai nói lại mà Vũ
Cao không bao giờ nói ra, nhưng theo tôi, nó cho thấy bản lĩnh của Vũ Cao, đó là việc sử dụng các cây bút chủ lực của Văn nghệ quân đội. Một tư tưởng chi phối nhiều người lúc đó là tư tưởng bình
quân, đại khái cho rằng đã là nhân viên cơ quan thì người nào cũng như người nào, ai cũng
phải tuân theo sự phân công của người phụ trách và người phụ trách phải công tâm với nghĩa coi ai cũng như ai. Nhưng tôi nhớ, với hai nhà văn
xuất sắc nhất của văn nghệ quân đội những năm ấy là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh
Châu, thì Vũ Cao có khác. Lệ của Tạp chí là anh em thay nhau về làm biên tập, hết
hạn biên tập mới được lo chuyên về sáng tác. Với các nhà văn mà anh ưu ái, Vũ Cao dành cho họ sự biệt nhãn, chứ không đến lượt lại lên, phải bỏ sáng tác để về làm
biên tập như mọi người khác. Và điều quan trọng hơn, Vũ Cao để cho hai nhà văn Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu tự do lựa chọn các đề tài và cách viết của mình. Anh tôn trọng những tìm
tòi của họ vì rất tin ở con người của họ. Cái công thức ngắn gọn “lãnh đạo
tức không lãnh đạo gì cả" thực chất là biểu hiện một sự hiểu biết của Vũ Cao
về mọi mặt văn nghệ, trong đó có việc sử dụng các tài năng.
Phần
lớn cán bộ phụ trách văn nghệ ở ta coi rằng
mình được bầu được cử ra quản lý tức có
khả năng sáng tác hơn người . Nhưng Vũ Cao hiểu khác, anh hiểu sáng tác và quản
lý là hai lĩnh vực khác nhau. Một sự tôn trọng đầy thiện chí của người phụ
trách đối với cấp dưới có năng lực sáng
tác hơn mình, chính nó làm nên cái vinh dự
của người quản lý và người ta sẽ ở lại trong lòng đồng nghiệp là ở sự biết
người biết của đó .
Sự
thực là chỉ có một người đọc nhiều, hiểu rộng như Vũ Cao thì mới có tầm nhìn và cách quản lý kiểu đó.
Tôi
nói Vũ Cao là một người đọc nhiều hiểu đọc vì tôi còn nhớ hồi ấy ngay trong
chiến tranh mà Văn nghệ quân đội vẫn lo đặt bằng được báo chí phương Tây như Europe,l'Humanité Dimanche …và tôi
thấy chúng luôn luôn xuất hiện trên bàn làm việc của Vũ Cao. Không chỉ bó hẹp trong
khu vực mình quản lý, Vũ Cao còn hiểu kĩ càng về đời sống văn học nói chung
và cả phần văn học phương Tây mà ít nhiều thế hệ như anh đã có biết từ trước.
Tôi cho rằng chỉ nhờ vốn văn hóa như vậy mà Chủ nhiệm của chúng tôi có được quan niệm khá tự do
trong xử lý công việc. Một bằng chứng là mặc dù thời đó báo chí trong nước khá
im ắng không tính chuyện giới thiệu văn
học nước ngoài, nhưng từ 1973, khi tình hình có vẻ cởi mở một chút thì
trên tờ tạp chí của chúng tôi, ở phần lí
luận, cũng sớm có được tin tức và bài vở gọi là hé ra cho thấy thế giới. Tin tức từ Trung quốc không có vì bên ấy vẫn
đang trong không khí của Cách mạng văn hóa. Mà Trung quốc không có thì Nga cũng không thể có. Trong cái khó ló cái
khôn, tôi đề nghị đưa các ý kiến bàn về nhà văn và chiến tranh của E. Hemingway
và các ý kiến bàn về văn học của B.
Brecht, rồi có khi đá sang cả Mỹ la tinh, nhất là khi nghe cuốn Trăm năm cô đơn đang nổi như cồn... Vũ Cao sẵn sàng chấp nhận những bước hội nhập sớm sủa đó.
Nên cắt nghĩa ra sao về hiện tượng này?
Cách mạng tháng Tám 1945 và sự nghiệp toản quốc kháng chiến sau đó sớm lôi cuốn vào hàng ngũ của mình lớp thanh
niên ưu tú mà trước đó về mặt con người
trí thức được đào tạo khá bài bản trong các nhà trường Pháp thuộc. Trong quân đội,
ta cũng thấy tập trung rất nhiều thanh niên tri thức trẻ. Trước khi các đợt
chính huấn theo kiểu Trung quốc được phát động những năm 50, nhiều chỉ huy
cao cấp trong quân đội là những sinh viên cũ của các trường đai học Hà Nội. Dưới
họ, làm nền cho họ, các bậc tú tài cũ lại càng đông đảo. Trước khi có sự xuất hiện các cây bút gọi là công nông đám tri thức trẻ này có vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên bộ phận tuyên truyền báo chí văn nghệ trong quân
đội, và sau này họ cũng là những người cốt cán để xây dựng nền văn học nghệ thuật
nói chung. Khi có một số vụ việc xảy ra
trong văn nghệ, cán bộ các Hội có vấn đề, người ta đều đưa cán bộ quân
đội ra thay. Đặng Đình Hưng, Đỗ Nhuận, Huy Du, Chính Hữu, Hữu
Mai Nguyên Ngọc … đều là như thế. Những
người này đóng vai chèo lái chủ yếu ở các Ban chấp hành, còn nhiều nhân vật có
uy tín chuyên môn vốn có ở Hội chỉ còn trên danh nghĩa. Những người này được
coi là trung kiên. Nhưng chữ trung kiên
này cũng có những nghĩa khác nhau của nó. Có những cán bộ thừa hành lấy việc nhất nhất làm theo cấp trên làm lẽ sống, thậm chí còn làm quá lên nữa để lấy thành tích. Nhưng có
những người tự tin ở sự trung thành của mình với cách mạng, vừa làm vừa lắng nghe,
vừa làm vừa điều chỉnh, cốt lấy việc phát triển đúng đắn của văn nghệ làm chính.
Với bản lĩnh và tầm nhìn sáng suốt, cuối cùng họ lại làm tốt cái điều mà họ và cấp
trên cùng mong mỏi là đưa văn nghệ đóng góp vào sự nghiệp chung. Loại người thứ nhất rất nhiều, ngày càng nhiều tôi không kể ở
đây. Còn trong những người loại thứ hai, bao giờ tôi cũng nghĩ tới Vũ Cao.
Hồi
ấy, sự hiểu biết của bọn dân đen văn nghệ chúng tôi còn đơn giản lắm. Làm gì có ai tính thoát ra được khỏi cái
không khí thời đại đang hừng hực. Được gặp
những người vừa phải như Vũ Cao, trong hơn mười năm đầu đời làm nghề, tôi tự thấy mình đã may mắn lắm. Nó cũng là cơ
sở để sau này tôi tìm dần ra cách thích ứng mà vẫn giữ được cuộc sống tinh thần phần nào độc lập riêng tư bên
Hội nhà văn.
Tôi
có một người bạn cũ là Nguyễn Quân , quen nhau từ sau 1975. Vốn đi học ở Đức về kinh tế, trở về nước,
anh còn đi dạy tiếng Đức một thời gian, rồi mới chuyển về dạy lý luận nghệ thuật
ở trường Mỹ thuật, trước khi trở thành họa sĩ. Một người chen ngang vào nghệ
thuật, người ta thường gọi anh như vậy. Theo chính lời kể của Nguyễn Quân, có lần
ông già bậc lão làng là Vũ Khiêu đã hỏi anh:
--
Có phải cậu là cái anh lách cửa phụ mà vào với giới văn nghệ phải không?
Quân
trả lời ngay:
--
Không thưa bác, cái cửa cháu vào mới là cửa chính còn cửa mọi người vẫn đi mới
là cửa phụ, chẳng qua nhiều người đi quá nên tưởng là cửa chính thôi.
Cái kỳ lạ của Nguyễn Quân là chẳng bao lâu
chuyển sang bên Hội mỹ thuật anh đã trở thành một thứ thủ lĩnh mang lại nhiều
cách tân vượt lên trên sự trì trệ kéo
dài của những năm chống Mỹ. Đúng vào lúc có những đổi mới, anh trở thành người
điều hành công việc của Hội. Có việc đi dự cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh ư, anh là một trong những người
đầu tiên người ta nghĩ tới , và quả là đã phát biểu raát mới, đến bây giờ vẫn cứ mới. Vốn là con một
vị tướng bên Tổng cục hậu cần, anh có niểm tự tin của đám con cháu trong nhà, có những điều ở miệng người khác nói ra lập tức
ăn đòn, mà Nguyễn Quân nói người ta phải chịu.
Tôi đã ghi lại điều này trong nhật ký và giới thiệu trong bài trên mạng Chuyện văn
nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ II)
Mới đây, hôm 5-12-2015, Nguyễn Quân kể lại một
việc hồi ấy tôi không được biết. Khi Quân làm thường trực Hội cũng là lúc có vụ cấp trên tha bổng cho các vị Nhân văn Giai
phẩm. Anh sớm bắt tay ngay vào cái việc cấp thiết hồi đó là tổ chức có đến mười mấy triển lãm,
đưa sáng tác của những người lâu nay sống trong quên lãng trở nên thành tựu và coi như niềm tự hào của cả giới. Sau khi
đưa Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng trở lại Hội anh còn lập tức tăng lương cho các cụ hôm
qua đã sống rất khổ sở đó, có những người lương cao hơn cả ông trùm đương thời
của Hội là Tổng thư ký Trần Văn Cẩn.
Tôi
hỏi Quân:
-- Quả là việc không thể có bên Hội nhà văn.
Ông Thi lúc đó chỉ làm công việc đón cánh Nhân văn về một cách tượng trưng. Còn
Hữu Thỉnh sau này chỉ dùng ông Lê Đạt như một thứ “đối lập” để làm dáng, để ra vẻ đổi mới, đối lập
nhằm tô vẽ cho chính các quyết định của mình. Thế lúc ấy ông không sợ các ông trên tuyên huấn không bằng lòng à?
--
Cánh bảo thủ toàn phóng đại ảnh hưởng của các cán bộ chính trị. Tôi thấy khác. Một
khi người ta đã tin là anh chỉ làm những việc cho người ta đẹp mặt, thì việc gì
người ta chẳng tán thành. Cái điều tôi
rút ra cho mình thời đổi mới thực ra
khá đơn giản. Cái sức ì lớn nhất chi phối mọi hoạt động của Hội lại nằm ở trong
đa số Hội viên và những người đương quyền trong giới của mình. Thắng được cái đó là thắng
tất mà thua cũng là thua luôn.
Tuy Vũ Cao và Nguyễn Quân thuộc hai thế hệ khác nhau, và tài năng khác nhau, nhưng tôi cảm thấy ở họ
có cái đức tính chung của những người quản lý mà giới văn nghệ rất cần. Lòng họ
trong sáng. Họ không có ý định dùng quan chức để leo trèo, kể cả leo lên một địa
vị cao trong sáng tác. Lòng tự tin ở họ bắt nguồn từ sự hiểu biết về guồng máy,
và trong thời của họ, họ đã điều khiển tốt guồng máy.
đội từ 1957 đến nay, vốn được xây từ trước 1945 để dành cho phi công Nhật.
Các phòng gác hai được lát bằng thứ gỗ phẳng lỳ, anh em sống ở tòa soạn chúng
tôi thường lau sạch đi, lấy chỗ để hàng chục người có thể ngồi họp hành nghiêm
chỉnh hoặc quây quần tán chuyện.
Sau khi lễ mễ mang cả xô nước từ bể lên gác lại nhoài người lau nhà, mọi người
không khỏi tiếc sức, nên trước cửa thường không quên đề rõ rằng vào phòng để
dép ở ngoài. Nhưng có lần anh Hà Trì, người trình bày các số báo, kể với tôi:
--
Ông mới về không biết, hồi trước đã có lần
hình như ông Oánh thì phải đã phải đề rất rõ “Giày dép để ngoài, trừ Vũ Cao”.
--
Sao lại có cái lệ lạ lùng vậy, chắc là để
chiếu cố thủ trưởng?
--
Hồi ấy đâu ông Cao đã lên Phó chủ nhiệm mà chiếu với chẳng cố. Căn bản là ông
Cao ở cái phòng dưới nhà mình chuyên đi đất, ra ngoài mới xỏ dép, nên vào phòng
đi dép hay bỏ dép cũng thế. Tóm lại chân Vũ Cao lúc nào cũng bẩn, có thế mà cũng không hiểu,
bố trẻ ạ!
Người phụ trách tờ báo của chúng tôi có tính
xuề xòa thật. Trong khi các thành viên tòa soạn hai người một phòng trong ngôi nhà hai tầng sang trọng trên gác thì thủ trưởng Vũ Cao và thủ phó Từ Bích Hoàng chỉ mỗi người một
phòng, loại phòng nhỏ dưới ngôi nhà một tầng tường mỏng cửa giả sơ sài, mùa hè thì nóng mùa đông thì lạnh. Bàn ghế không có gì khác anh em. Nhân viên có đến làm việc ngồi cạnh cái bàn gỗ
mộc. Người công vụ của cơ quan là anh Mạn chỉ ưu tiên cho hai vị hơn hẳn anh em là mỗi sáng đun sẵn cho mỗi
người một phích nước sôi, để các vị tiếp khách.
Trong
đời cán bộ của mình trước sau tôi chỉ ở có hai nơi là Văn nghệ quân đội và nhà xuất bản Tác phẩm mới sau là nhà xuất bản Hội nhà văn, nên không được biết nhiều về lề lối làm việc hồi ấy,
nhưng rõ ràng Vũ Cao là loại người xuề xòa hiếm có. Xin kể hai chuyện có liên
quan tới bản thân.
Năm
1964, tôi đi bộ đội theo chế độ nghĩa vụ quân sự và bắt đầu đeo cái lon binh
nhì. Sau mấy tháng luyện quân ở Nà Sản, lúc được gọi về làm giáo viên văn hóa,
nghĩa là làm đúng chuyên môn của mình, tôi cũng chỉ bò dần theo chế độ hạ sĩ
quan; tới khi từ Đoàn kịch Tổng cục chính trị chuyển sang tạp chí, mới chỉ đeo
quân hàm thượng sĩ.
Ở
Văn Nghệ quân đội đâu độ gần một năm
rồi tôi mới được chuyển dần lên chuẩn úy
quân nhân chuyên nghiệp 1970, rồi thiếu
úy theo hệ sĩ quan chính thức năm 1971, và từ 1976 tới khi xuất ngũ 1978 là
trung úy.
Tôi
còn nhớ rất rõ cả mấy lần nhận giấy thăng chức. Buổi sáng thức dạy tập thể dục
và ăn sáng xong, đang leo lên cầu thang, chuẩn bị làm việc, tới nửa chừng, bỗng
nghe có tiếng Vũ Cao khẽ gọi, nhưng lại giật giật từng tiếng một Nhàn Nhàn, tôi
không hiểu ra làm sao cả. Sao trước đó thủ trưởng lại cứ đi đi lại lại như đã
chờ mình thì phải? Mọi khi có việc gì anh vẫn nhắn qua anh em khác để hẹn tới tận
phòng, sao lần này sao khác hẳn? Tôi đã tới sàn tầng một. Vũ Cao đang tay chắp
sau lưng vụt giơ về phía tôi tờ giấy với một câu nói khẽ “Của cậu đây này”, rồi
bỏ đi luôn không chờ tôi hỏi lại một lời. Lúc lên phòng mở ra, hóa cái quyết định
trao quân hàm. Tôi biết rằng ở nơi khác mỗi lần như thế, các thủ trưởng cơ quan làm rất bài bản. Gọi
nhân viên tới. Trước khi đưa quyết định thì huấn thị dài dài, yêu cầu thời gian
tới thế nọ thế kia. Và nhất là cố làm cho người được thăng chức biết công ơn
mình, nay mai tiếp tục hầu hạ mình. Đằng này Vũ Cao làm như một việc chẳng dây
dưa gì đến anh cả, cấp trên đưa tờ giấy phong ai thì anh trao cho người đó thế
thôi, và là trao ngay giữa lối đi.
Đến
như cái chuyện sau đây thì bây giờ tôi vẫn giật mình không ngờ lúc ấy mình liều
thế mà Vũ Cao cũng dễ dãi với mình đến mức vô nguyên tắc đến thế. Hè năm 1972
đó tôi có quyết định theo một đoàn văn nghệ (gồm có các anh Thu Bồn Sơn Nam
bên tạp chí tôi, anh Trần Anh Vinh và
anh Sơn Nam bên PhòngVăn nghệ) đi chiến dịch Quảng Trị. Theo nguyên tắc mỗi
sĩ quan sơ cấp như bọn tôi đều phải mang
theo một khẩu súng lục. Từ lúc lĩnh về, tôi cũng chẳng mở ra xem nữa. Chỉ muốn để ở nhà cho đỡ nặng nợ. Cứ ấp úng mãi, lúc sắp lên ô tô, tôi không nhịn được nữa,
đành nói thật với Vũ Cao:
- -- Anh cho em để nó ở nhà được không?
Sau
một phút suy nghĩ, Vũ Cao phẩy tay:
-- Ừ!
cất ngay vào tủ trên gác đi…
Sau
này biết tôi không mang súng, thiếu tá Anh Vinh trưởng đoàn còn cằn nhằn mãi. Tới
một trung đoàn, anh xin hộ tôi một khẩu carbin
và bắt tôi mang theo. Lúc này đã vào chiến trường rồi, tự nhiên tôi cũng thấy cần
có một khẩu súng nhỏ bên mình, dù cũng chẳng bao giờ tôi nạp đạn để bắn một
viên nào cả.
Cái
nét phóng khoáng trong sinh hoạt thật ra chỉ là một hậu quả tự nhiên của cái phóng khoáng chung trong quan niệm sống
của Vũ Cao.
Nhìn bọn anh em viết trẻ chúng tôi, bao giờ Vũ Cao
cũng mủm mỉm cười. Anh gọi chúng tôi là một lũ “nhốn nháo cách mạng” và ngầm có
ý bảo rằng hôm qua bọn mình cũng như các cậu có khác gì đâu.
Sinh
hoạt tư tưởng trong những năm chiến tranh có những sự gò bó chấp nhặt rất lạ. Một
bậc đàn anh dạy nghề trực tiếp, người nối tôi với tòa soạn bấy giờ là Nguyễn
Minh Châu. Trong những buổi tối trò chuyện
đủ thứ với nhau, tác giả Cửa sông thường không quen dặn tôi, giữa
quan điểm văn nghệ của cơ quan mình với các cơ quan chung quanh vênh nhau lắm,
có nhiều chuyện nói trong cơ quan thì được vào trong thành hay trước mặt
các phái viên Tổng cục mà cứ nói linh tinh thì khốn đấy. Tôi thấm thía lời dặn đó của Nguyễn Minh Châu, rõ nhất là trong một lần
đi họp với mấy vị phụ trách Thư viện và nhân viên các phòng Tư
liệu của các cơ quan báo chí bên cạnh. Với niềm tự tin và cảnh giác cao độ, các đồng chí đó
đặt vấn đề phải quản văn nghệ báo chí
thật chặt, ngay các biên tập viên các phóng viên cũng không được đọc các tài liệu
ngoài quy định của Tổng cục. Ở một trình
độ cao hơn, tôi nghe ra một nguyên tắc nghiêm ngặt có tính chỉ đạo chung, là phải xây dựng một nền
văn nghệ riêng, không để cho những linh
tinh bên ngoài đột nhập.
Họp
xong về, tôi lắc đầu le lưỡi bảo với
Nguyễn Minh Châu và mấy người khác, hôm nay tôi mới hiểu thế nào là kỷ
luật tuyên truyền trong quân đội.
Câu
chuyện rồi cũng đến tai cả Vũ Cao và Từ Bích Hoàng. Vũ Cao bảo nghe ai nói thế
nào lúc nào phải phân tích cho kỹ, có khi người ta nói với mình một khác, mình
lại nghe lầm thì sao. Còn cụ thể trong trường hợp này, biết tôi có nhiều bạn bè
bên ngoài, Vũ Cao dặn là biết thế thôi chứ đừng có đi mà nói rộng ra với cánh
Xuân Quỳnh Bằng Việt nhỡ anh em hiểu lầm.
Trong một dịp hiếm hoi, Vũ Cao nói thêm với
tôi rằng cả trong những buổi họp với cấp
trên, anh vẫn báo cáo cho các vị rõ là không có chuyện đó, không có chuyện một nền
văn nghệ quân đội hoàn toàn cô lập, và các
vị không có ý kiến gì khác.
Nên biết rằng hồi đó, giấy in báo không có, và
hình như bên Tuyên giáo cũng không muốn
có nhiều báo làm gì, phát sinh nhiều chuyện thêm mệt. Từ 1964 về trước, cả giới còn có tờ tạp chí Văn Nghệ của Hội liên hiệp và tờ báo hàng tuần Văn học của Hội nhà văn. Sau
kỳ Đại hội Hội liên hiệp lần thứ hai, hai tờ này sát nhập lại gọi chung là Văn nghệ. Tờ báo 16 trang mỗi tuần mà phải
cõng chung cho cả mỹ thuật, âm nhạc sân khấu, quả thật còn đâu ra đất để mà
dành cho các nhà văn. Văn Nghệ quân đội chúng tôi lúc ấy do Tổng cục chính trị quản. Đằng thằng
mà nói, những người phụ trách tạp chí có thể làm theo cái lối là khóa chặt cửa
lại, chỉ đăng sáng tác cho anh em nhà, cũng chả ai phê phán anh được. Thời các
anh Văn Phác Thanh Tịnh — những người tiền nhiệm của Vũ Cao — việc mở cửa đã bắt đầu
nhưng còn khá dẻ dặt. Tới Vũ Cao thì việc
này thành một nền nếp. Nhất là Văn nghệ quân đội rất sẵn sàng đón nhận
những tác phẩm hay của các bạn trẻ. Tôi nhớ hồi đó, tất cả những Xuân Quỳnh,
Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Hưng, Thi Hoàng, Nguyễn Khắc Phục…
đều có thơ hay truyện đăng ở Văn nghệ
quân đội và các tác giả trẻ này đều cảm thấy tạp chí không hề có tính chất
căng cứng hoặc biệt lập gây cho người khác
chút mặc cảm nào cả.
Sau này tôi mới hiểu Vũ Cao làm thế -- không bao giờ tự coi là dân đứng ngoài,
không muốn dính dáng đến các sinh hoạt văn học chung -- không phải là chuyện ngẫu
nhiên. Sự gắn bó giữa phong trào văn nghệ trong Quân đội với lực lượng sáng tác dân sự đã có từ thời kháng chiến chống Pháp. Hồi ở Hương Ngải, một trong những câu chuyện đầu
tiên Nhị Ca kể với tôi là chuyện Nguyễn Đình Thi sau khi đi chiến dịch trung du
đã ghé lại chỗ các anh, ngồi lì 18 ngày viết cho xong Xung kích mới quay về cơ quan
Hội văn nghệ, đưa cho các ông Trường Chinh Tố Hữu duyệt. Vũ Cao thì kể hồi
1948-49, cơ quan của anh tuy đã kéo lên Việt Bắc song vẫn có bộ phận ở Hà Nội,
trên này cần gì dưới đó mang lên. Và thế
là các anh có cả một lô những cuốn sách bằng tiếng Pháp, cái quyển mà Vũ Cao nhớ
hơn cả đâu là cuốn Cơn bão táp của
Ehrenburg. Nghe tin có sách, Nguyễn Đình Thi đang từ cơ quan Hội văn nghệ đi bộ
cả ngày đường sang chỗ Vũ Cao đọc nhờ. Mình vừa phải cho nó đọc sách, vừa
phải nuôi báo cô nó mấy ngày – Vũ Cao vừa nói vừa cười khà khà vẻ tự tin của một
người từ trẻ đến già luôn luôn là ông chủ những cơ ngơi đàng hoàng. Trong các câu chuyện của ông với chúng tôi về
thời nay của văn nghệ, ông không cần nhắc nhiều nhưng cái cảm giác về thời xưa ở
Việt Bắc cứ còn mãi trong ông, chả chuyện gì bên Hội nhà văn – bao gồm cả người
và việc -- lọt qua mắt ông cả.
1970,
Nam Định làm lễ kỷ niệm 100 năm sinh Tú
Xương. Văn Nghệ quân đội cũng một
ô-tô riêng về thành Nam. Trở về Vũ Cao chỉ nói với tôi:
--
Sừ Tô Hoài ghê thật!
--
Sao hả anh?
-- Có coi ai ra gì đâu. Ngồi trên chủ tịch đoàn mà tôi để ý toàn thấy tay ấy viết cả. Hình như đang viết một tiểu thuyết về Cao Bá Quát. Ra ngoài tay ấy còn bảo
là sẽ gửi cho bên mình vài chương. Tôi đồng ý ngay.
Sự
thông thuộc tình hình cả giới bảo đảm cho mọi sắc thái làm nên phương hướng mà
Vũ Cao phải quyết định .
Đứng
về mặt sáng tác, tác phẩm của Vũ Cao ở lại với lịch sử văn học chiến tranh chỉ có Núi
đôi, bài thơ mà trong thời chống Mỹ, khi tìm hiểu nhiều ba lô các liệt sĩ,
người ta thấy nó được chép rất nắn nót trong khi họ chẳng chép bài nào của Tố Hữu.
Về con người thi sĩ nơi Vũ Cao, riêng
tôi chỉ một lần đọc là dù quên tên nhưng thuộc
ngay được bài lục bát sau:
Mẹ tôi ru cháu chiều chiều
Thường là hát mấy câu Kiều cháu nghe
Mây hồng khóa kín song
the
Bụi
hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tôi rằng cháu hiểu làm sao
Những câu thơ tự thuở nào mẹ ơi
Lặng yên mẹ chẳng trả lời
Hai tay ôm cháu ạ ời vẫn ru
Mai
sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy se tơ phím này
Con tôi đôi má hây hây
Lại yên giấc ngủ thơ ngây chiều chiều
Bâng khuâng mẹ nói một điều
Nghĩ mà thương phận cô Kiều ngày xưa
Cũng
giống như Chính Hữu, Vũ Cao chỉ có độ vài chục bài thơ. Và cái chính là trong
cách sống, ông vẫn có chất của một cán bộ quân đội làm công tác phụ trách, còn
người nghệ sĩ trong ông thì còn ở dạng nghiệp dư, khi vui thì viết, cũng không
có một bài bản gì đầy đủ, lại càng không chất ngất quyết tâm trở thành nhà văn
lớn.
Tuy
nhiên đối với tôi, đây là một loại quan chức văn nghệ phù hợp với tình hình lúc ấy.
Một
đặc điểm của sinh hoạt văn học trong thời
gian chống Mỹ, là có rất nhiều vụ đánh đấm sát phạt nhau. Tôi sẽ nói lại tình
trạng này trong một hồi ký riêng, ở đây chỉ
nói một đặc điểm là rất nhiều vụ trong đó được đẩy lên quá mức cần thiết,
nhiều vụ không đáng có mà vẫn xảy ra, chẳng qua là có các vụ đấu tranh tư tưởng
trong xã hội nói chung thì người ta phải mượn việc đe nẹt giới văn nghệ để nêu
gương. Hồi chiến tranh phá hoại, máy bay Mỹ có cái lệ là sau khi oanh kích các
mục tiêu ở Bắc bộ, lúc trở về hạm đội trên biển, còn bao nhiêu bom phải trút
ra bằng hết. Và các làng xóm ven biển Nam Định Thái Bình, nhiều khi là một cánh
đồng, một bãi hoang vu vơ trở thành nơi hứng bom lu bù là vì thế. Việc giới văn nghệ được ví với những vùng ném bom
tự do – cái cách nghĩ có ở một số anh em thạo đời hồi ấy -- đã chứng tỏ văn nghệ có một thân phận
như thế nào. Liên tục bi cột vào những vụ việc không hiểu đầu cua tai nheo ra
sao, cả đám cứ nơm nớp như đám con nhà
nghèo, sợ cảnh bố mẹ cãi nhau lại mang
mình làm cớ. Hơn thế nữa, những việc vội vã này cũng
mở ra con đường cho những ngòi bút cơ hội, lấy việc hưởng ứng cấp trên để
lập thân -- đó mới là điều di họa cho thời gian sau.
Tôi còn nhớ khi xảy ra các vụ Cái gốc, Tình rừng, đến các vụ Vòng trắng vòng đen, Cây Táo ông Lành… thì ở
nhà số 4 chúng tôi, các bậc đàn anh năng nổ là người xầm xì với nhau đầu tiên.
Nguyễn Khải mang về các tin bên Hội nhà văn. Hữu Mai thì có đầu mối là các người quen trong Tổng cục chính trị,
cái chữ mà chúng tôi hay dùng là “dân thạo tin trong thành”. Cách nói của Nguyễn
Khải là cứ toe loe ầm ĩ cả lên, trong khi
Hữu Mai thì úp úp mở mở, nhưng các anh đều ngầm nói rằng chắc là phen
này Tạp chí mình cũng phải lên tiếng chứ.
Với vai trò là nhân vật số một của VNQĐ,
tôi đoán mọi chuyện Vũ Cao đã biết ngay từ đầu, nhưng trong các buổi họp,
Tổng biên tập của chúng tôi – mà hồi đó còn dùng cái chức danh Chủ nhiệm
-- chỉ nói là chờ cấp trên. Họp xong giải
tán trở về phòng riêng, Nhị Ca nói thẳng với tôi rằng cấp trên là ai, là ông ấy
[ = Vũ Cao] chứ còn ai nữa, vậy chắc là người còn đang tính, nhưng chắc là bố
mày chả làm gì đâu. Từ lâu mấy anh em làm công tác trị sự trong cơ quan như anh
Hà Trì, anh Doãn Trung đều bảo với tôi ông Cao nhà mình tuy chức danh chỉ ngang
trưởng phòng, nhưng lại có chân trong Đảng ủy Tổng cục, nơi mà các ông Cục trưởng
bình thường cũng không dám mơ. Thế mà Vũ Cao đã trúng mấy khóa liền. Về văn nghệ,
người ta có làm gì cũng phải tính đến ý kiến của ông. Nên lần này nghe Nhị Ca
nói vậy, tôi tin ngay. Quả nhiên Vũ Cao đã chi đạo tờ tạp chí của mình yên lặng
đứng ngoài không tham gia vào các vụ
đánh đấm, các chiến dịch truy quét sai lầm đương thời.
Khỏi phải nói trong việc này, Vũ Cao đã phải
suy nghĩ rất nhiều. Nó là chuyện sinh mạng chính trị của các quan chức. Đấu đá
đang là không khí của thời đại. Chỉ có con người lịch lãm và tự tin mới dám giữ một sự im lặng như vậy. Mà với ông nó là một sự nhất trí một sự liên tục.
Từ
1970, đang từ giọng thơ trữ tình dẫu sao
cũng còn đằm thắm, Chế Lan Viên ngả hẳn sang những bài thơ chính luận sống sượng
và trong các phát biểu trong các Hội nghị thì có cái giọng sát phạt đe nẹt khiến
nhiều người biết Chế Lan Viên từ hồi chữa bệnh ở Trung quốc về không khỏi ngạc
nhiên. Tôi tưởng trong cơ quan chỉ Nguyễn Khải vì là người hay đi lại bên Hội
biết con người Chế Lan Viên thế nào (điều này tôi đã kể trong các hồi ức về
Nguyễn Khải), còn ông Vũ Cao cứ lầm lầm lì lì ngồi đọc Oeuvre et Opinion với lại Lettre Francais không để ý. Hóa ra tôi nhầm.
--
Lâu nay cứ tưởng thế nào, giờ mới biết chính bố Lành đứng đằng sau Chế Lan Viên xúi hết.
Vũ
Cao thủng thẳng nói, nhân một lần anh ghé lại chỗ mấy anh em khác trong đó có
tôi.
Cái
sự Vũ Cao không tham gia các vụ đánh đấm trong mấy năm ấy hóa ra có cả một quan niệm chi phối dài dài. Anh đã là đồng đội từ Thâm Tâm, đã
chứng kiến những phút bi phẫn của Thâm Tâm trước khi hy sinh. Trần Dần là
người anh từng mến mộ và có quan hệ tốt với cả gia đình anh. Anh thường nhìn
Văn Cao với con mắt của một người cùng quê, trên đường lập nghiệp. Trong những
bài thơ Vũ Cao viết hồi kháng chiến, tôi
nhớ có bài Đèo trúc với mấy câu kết “
Lên ngang dốc núi / Chợt thấy mình say/
Người ơi hoa tím / Đầy rừng hoa bay”. Kháng chiến hồi đầu là thế, là một lũ
thanh niên thích giang hồ kéo nhau đi vừa phục vụ xã hội vừa thỏa chí tò mò. Trong bụng ai cũng một mớ
lơ mơ, chỉ có người nói ra thế này người nói thế khác, người ngông cuồng quyết
liệt, người lặng lẽ thể nghiệm, chứ sai lầm tư tưởng gì, địch ta gì ở chuyện
này.
Chính
thức ra công khai từ 1957, thật ra lúc đầu
Văn Nghệ quân đội vẫn còn tính chất một
bản tin nội bộ. Các vụ đấu tranh chống ảnh hưởng xét lại lẫn xu hướng học theo
cách mạng văn hóa bên Bắc Kinh có được giới thiệu ít nhiều trên trang báo khổ lớn
thì cũng viết theo các tài liệu từ cấp trên đưa xuống từ bên ngoài đưa vào, chứ
không phải lả tiếng nói của các người trong cuộc. Cái sự nhũn nhặn không tham
gia vào việc mình không thạo, chỉ lo việc cấp trên giao phó cho mình, thực
ra là cả nguyện vọng chung của các cây bút mới thành danh trên tạp chí, chứ
không của riêng ai. Nhưng trong tay một người chừng mực và lão luyện như Vũ Cao, nó có sự đúng mức mà người ta có thể vì nể.
Trong
việc quản lý Văn nghệ quân đội, Vũ Cao hay nói rằng lãnh đạo tức không
làm gì cả, cứ để cho việc mặc nhiên nó luân chuyển. Thực ra, đó là một cách
nói nhũn, nói tránh để không muốn bộc lộ ra những chủ kiến. Vũ Cao chỉ
không làm gì cả với nghĩa không hò hét không đao to búa lớn. Chứ đằng sau
cái vẻ dễ dãi, thật ra Vũ Cao có tính nguyên tắc của mình.
Có
một chuyện tới nay ít ai nói lại mà Vũ
Cao không bao giờ nói ra, nhưng theo tôi, nó cho thấy bản lĩnh của Vũ Cao, đó là việc sử dụng các cây bút chủ lực của Văn nghệ quân đội. Một tư tưởng chi phối nhiều người lúc đó là tư tưởng bình
quân, đại khái cho rằng đã là nhân viên cơ quan thì người nào cũng như người nào, ai cũng
phải tuân theo sự phân công của người phụ trách và người phụ trách phải công tâm với nghĩa coi ai cũng như ai. Nhưng tôi nhớ, với hai nhà văn
xuất sắc nhất của văn nghệ quân đội những năm ấy là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh
Châu, thì Vũ Cao có khác. Lệ của Tạp chí là anh em thay nhau về làm biên tập, hết
hạn biên tập mới được lo chuyên về sáng tác. Với các nhà văn mà anh ưu ái, Vũ Cao dành cho họ sự biệt nhãn, chứ không đến lượt lại lên, phải bỏ sáng tác để về làm
biên tập như mọi người khác. Và điều quan trọng hơn, Vũ Cao để cho hai nhà văn Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu tự do lựa chọn các đề tài và cách viết của mình. Anh tôn trọng những tìm
tòi của họ vì rất tin ở con người của họ. Cái công thức ngắn gọn “lãnh đạo
tức không lãnh đạo gì cả" thực chất là biểu hiện một sự hiểu biết của Vũ Cao
về mọi mặt văn nghệ, trong đó có việc sử dụng các tài năng.
Phần
lớn cán bộ phụ trách văn nghệ ở ta coi rằng
mình được bầu được cử ra quản lý tức có
khả năng sáng tác hơn người . Nhưng Vũ Cao hiểu khác, anh hiểu sáng tác và quản
lý là hai lĩnh vực khác nhau. Một sự tôn trọng đầy thiện chí của người phụ
trách đối với cấp dưới có năng lực sáng
tác hơn mình, chính nó làm nên cái vinh dự
của người quản lý và người ta sẽ ở lại trong lòng đồng nghiệp là ở sự biết
người biết của đó .
Sự
thực là chỉ có một người đọc nhiều, hiểu rộng như Vũ Cao thì mới có tầm nhìn và cách quản lý kiểu đó.
Tôi
nói Vũ Cao là một người đọc nhiều hiểu đọc vì tôi còn nhớ hồi ấy ngay trong
chiến tranh mà Văn nghệ quân đội vẫn lo đặt bằng được báo chí phương Tây như Europe,l'Humanité Dimanche …và tôi
thấy chúng luôn luôn xuất hiện trên bàn làm việc của Vũ Cao. Không chỉ bó hẹp trong
khu vực mình quản lý, Vũ Cao còn hiểu kĩ càng về đời sống văn học nói chung
và cả phần văn học phương Tây mà ít nhiều thế hệ như anh đã có biết từ trước.
Tôi cho rằng chỉ nhờ vốn văn hóa như vậy mà Chủ nhiệm của chúng tôi có được quan niệm khá tự do
trong xử lý công việc. Một bằng chứng là mặc dù thời đó báo chí trong nước khá
im ắng không tính chuyện giới thiệu văn
học nước ngoài, nhưng từ 1973, khi tình hình có vẻ cởi mở một chút thì
trên tờ tạp chí của chúng tôi, ở phần lí
luận, cũng sớm có được tin tức và bài vở gọi là hé ra cho thấy thế giới. Tin tức từ Trung quốc không có vì bên ấy vẫn
đang trong không khí của Cách mạng văn hóa. Mà Trung quốc không có thì Nga cũng không thể có. Trong cái khó ló cái
khôn, tôi đề nghị đưa các ý kiến bàn về nhà văn và chiến tranh của E. Hemingway
và các ý kiến bàn về văn học của B.
Brecht, rồi có khi đá sang cả Mỹ la tinh, nhất là khi nghe cuốn Trăm năm cô đơn đang nổi như cồn... Vũ Cao sẵn sàng chấp nhận những bước hội nhập sớm sủa đó.
Nên cắt nghĩa ra sao về hiện tượng này?
Cách mạng tháng Tám 1945 và sự nghiệp toản quốc kháng chiến sau đó sớm lôi cuốn vào hàng ngũ của mình lớp thanh
niên ưu tú mà trước đó về mặt con người
trí thức được đào tạo khá bài bản trong các nhà trường Pháp thuộc. Trong quân đội,
ta cũng thấy tập trung rất nhiều thanh niên tri thức trẻ. Trước khi các đợt
chính huấn theo kiểu Trung quốc được phát động những năm 50, nhiều chỉ huy
cao cấp trong quân đội là những sinh viên cũ của các trường đai học Hà Nội. Dưới
họ, làm nền cho họ, các bậc tú tài cũ lại càng đông đảo. Trước khi có sự xuất hiện các cây bút gọi là công nông đám tri thức trẻ này có vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên bộ phận tuyên truyền báo chí văn nghệ trong quân
đội, và sau này họ cũng là những người cốt cán để xây dựng nền văn học nghệ thuật
nói chung. Khi có một số vụ việc xảy ra
trong văn nghệ, cán bộ các Hội có vấn đề, người ta đều đưa cán bộ quân
đội ra thay. Đặng Đình Hưng, Đỗ Nhuận, Huy Du, Chính Hữu, Hữu
Mai Nguyên Ngọc … đều là như thế. Những
người này đóng vai chèo lái chủ yếu ở các Ban chấp hành, còn nhiều nhân vật có
uy tín chuyên môn vốn có ở Hội chỉ còn trên danh nghĩa. Những người này được
coi là trung kiên. Nhưng chữ trung kiên
này cũng có những nghĩa khác nhau của nó. Có những cán bộ thừa hành lấy việc nhất nhất làm theo cấp trên làm lẽ sống, thậm chí còn làm quá lên nữa để lấy thành tích. Nhưng có
những người tự tin ở sự trung thành của mình với cách mạng, vừa làm vừa lắng nghe,
vừa làm vừa điều chỉnh, cốt lấy việc phát triển đúng đắn của văn nghệ làm chính.
Với bản lĩnh và tầm nhìn sáng suốt, cuối cùng họ lại làm tốt cái điều mà họ và cấp
trên cùng mong mỏi là đưa văn nghệ đóng góp vào sự nghiệp chung. Loại người thứ nhất rất nhiều, ngày càng nhiều tôi không kể ở
đây. Còn trong những người loại thứ hai, bao giờ tôi cũng nghĩ tới Vũ Cao.
Hồi
ấy, sự hiểu biết của bọn dân đen văn nghệ chúng tôi còn đơn giản lắm. Làm gì có ai tính thoát ra được khỏi cái
không khí thời đại đang hừng hực. Được gặp
những người vừa phải như Vũ Cao, trong hơn mười năm đầu đời làm nghề, tôi tự thấy mình đã may mắn lắm. Nó cũng là cơ
sở để sau này tôi tìm dần ra cách thích ứng mà vẫn giữ được cuộc sống tinh thần phần nào độc lập riêng tư bên
Hội nhà văn.
Tôi
có một người bạn cũ là Nguyễn Quân , quen nhau từ sau 1975. Vốn đi học ở Đức về kinh tế, trở về nước,
anh còn đi dạy tiếng Đức một thời gian, rồi mới chuyển về dạy lý luận nghệ thuật
ở trường Mỹ thuật, trước khi trở thành họa sĩ. Một người chen ngang vào nghệ
thuật, người ta thường gọi anh như vậy. Theo chính lời kể của Nguyễn Quân, có lần
ông già bậc lão làng là Vũ Khiêu đã hỏi anh:
--
Có phải cậu là cái anh lách cửa phụ mà vào với giới văn nghệ phải không?
Quân
trả lời ngay:
--
Không thưa bác, cái cửa cháu vào mới là cửa chính còn cửa mọi người vẫn đi mới
là cửa phụ, chẳng qua nhiều người đi quá nên tưởng là cửa chính thôi.
Cái kỳ lạ của Nguyễn Quân là chẳng bao lâu
chuyển sang bên Hội mỹ thuật anh đã trở thành một thứ thủ lĩnh mang lại nhiều
cách tân vượt lên trên sự trì trệ kéo
dài của những năm chống Mỹ. Đúng vào lúc có những đổi mới, anh trở thành người
điều hành công việc của Hội. Có việc đi dự cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh ư, anh là một trong những người
đầu tiên người ta nghĩ tới , và quả là đã phát biểu raát mới, đến bây giờ vẫn cứ mới. Vốn là con một
vị tướng bên Tổng cục hậu cần, anh có niểm tự tin của đám con cháu trong nhà, có những điều ở miệng người khác nói ra lập tức
ăn đòn, mà Nguyễn Quân nói người ta phải chịu.
Tôi đã ghi lại điều này trong nhật ký và giới thiệu trong bài trên mạng Chuyện văn
nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ II)
Mới đây, hôm 5-12-2015, Nguyễn Quân kể lại một
việc hồi ấy tôi không được biết. Khi Quân làm thường trực Hội cũng là lúc có vụ cấp trên tha bổng cho các vị Nhân văn Giai
phẩm. Anh sớm bắt tay ngay vào cái việc cấp thiết hồi đó là tổ chức có đến mười mấy triển lãm,
đưa sáng tác của những người lâu nay sống trong quên lãng trở nên thành tựu và coi như niềm tự hào của cả giới. Sau khi
đưa Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng trở lại Hội anh còn lập tức tăng lương cho các cụ hôm
qua đã sống rất khổ sở đó, có những người lương cao hơn cả ông trùm đương thời
của Hội là Tổng thư ký Trần Văn Cẩn.
Tôi
hỏi Quân:
-- Quả là việc không thể có bên Hội nhà văn.
Ông Thi lúc đó chỉ làm công việc đón cánh Nhân văn về một cách tượng trưng. Còn
Hữu Thỉnh sau này chỉ dùng ông Lê Đạt như một thứ “đối lập” để làm dáng, để ra vẻ đổi mới, đối lập
nhằm tô vẽ cho chính các quyết định của mình. Thế lúc ấy ông không sợ các ông trên tuyên huấn không bằng lòng à?
--
Cánh bảo thủ toàn phóng đại ảnh hưởng của các cán bộ chính trị. Tôi thấy khác. Một
khi người ta đã tin là anh chỉ làm những việc cho người ta đẹp mặt, thì việc gì
người ta chẳng tán thành. Cái điều tôi
rút ra cho mình thời đổi mới thực ra
khá đơn giản. Cái sức ì lớn nhất chi phối mọi hoạt động của Hội lại nằm ở trong
đa số Hội viên và những người đương quyền trong giới của mình. Thắng được cái đó là thắng
tất mà thua cũng là thua luôn.
Tuy Vũ Cao và Nguyễn Quân thuộc hai thế hệ khác nhau, và tài năng khác nhau, nhưng tôi cảm thấy ở họ
có cái đức tính chung của những người quản lý mà giới văn nghệ rất cần. Lòng họ
trong sáng. Họ không có ý định dùng quan chức để leo trèo, kể cả leo lên một địa
vị cao trong sáng tác. Lòng tự tin ở họ bắt nguồn từ sự hiểu biết về guồng máy,
và trong thời của họ, họ đã điều khiển tốt guồng máy.
Published on December 19, 2015 20:57
December 12, 2015
Nguyễn Minh Châu 1968-73 ( II)
Đơn độc
*Tôi thấy sống ở đây, người nào rồi cũng có chỗ không hợp mình, rồi cũng chán. Thằng Sách tẩn mẩn và ti tiện quá — lúc nào cũng lắng nghe theo đuổi tọc mạch một chuyện gì đấy. Ông Khải trắng trợn. Không phải là lưu manh hư hỏng gì, nhưng mà cứ có phần trắng trợn, tôi ghê ghê. Ông Mai muốn lôi tôi vào rất nhiều chuyện mà tôi xa lạ; ông ấy cứ giới thiệu cho mình gặp người nọ người kia. Còn thằng Thiều thích đủ mọi thứ, thấy người ta làm sao thì làm vậy. Nói chuyện với nó cũng nhạt, chẳng bốc được chuyện gì. Còn như ông, sao mà ông phiền muộn sớm thế, cái tuổi của ông đáng nhẽ phải đang là tuổi đàn đúm, thì nó mới là trẻ (Một lần khác: ông nên nhớ rằng không có gì thích bằng tuổi trẻ. Tuổi già bao giờ cũng có cái lố bịch của nó. Ông có mà không biết dùng.)
… Tôi chẳng biết xếp mình vào đâu cả ; không biết như thế nào, nhưng tôi, tôi nhận thấy cách sống của tôi đang là cách sống của một nghệ sĩ đấy. Trước những vấn đề thời sự những vấn đề của đời sống hàng ngày sự phản ứng của mình như thế là vừa phải.
Tôi cho về căn bản đời sống là phải ít yêu cầu thôi. Mình tự lượng sức mình, mình không giúp ai được chút gì, thì mình cũng đừng đòi hỏi ở ai một tí gì cả.
… Suy cho cùng, đối với thằng viết, chỉ có viết là thích nhất.
Ảo tưởng
*Tôi định viết hơn 100 truyện thật ngắn trong đó có một cái truyện như thế này: Chuyện con người ta như một hòn đá buộc vào đâu đấy, rồi quay quay lên. Cứ quay cuồng như thế là sống. Giữ lại, để hòn đá chạm đầu kia của sợi dây là chết.
Tức là con người ta luôn luôn phải khác mình, luôn luôn phải sống bằng những ảo ảnh do mình tạo ra. Như hôm nọ ông Tào Mạt sang chỗ tạp chí chơi, nói về triết học, nói về đường lối văn nghệ, nói mọi chuyện, gì cũng biết, nhưng lại cứ sống thế, và dù viết không nên câu nào cả. Như ông Huy Du ở đây tưởng là mình trẻ trai. Như ông Xuân Sách tưởng mình mắng được mọi người một cách khôn khéo, tức là mình hơn được mọi người…. Đây, ảo tưởng, cái mà ông Sartre ông ấy cũng đã nói trong Những chữ, nhưng mà nói không rõ. Ảo tưởng luôn luôn là có thể — nếu không có thể, lại không thành ra sự đời! Cả mình nữa, mình cũng ảo tưởng chứ. Những khi mình viết, trong con người mình phải bốc lên cái chất tín đồ… Nhưng mà mình chỉ hơn mọi người là lúc khác mình lại tỉnh, cho nên ngay trong phần ảo tuởng, cũng vẫn có cái chất thật của mình, và mình tồn tại ở chỗ ấy.
Châu: Tôi chỉ cần viết xong truyện này, với cái truyện gió ông cụt, tức là có thể nhắm mắt bỏ bút được rồi.
Nhàn: Nói đến hết như thế, anh không làm cho mọi người buồn sao?
— Buồn cũng phải nói. Thà làm cho người ta buồn, hơn là làm cho người ta vui một cách giả tạo thế này.
– Lắm lúc tôi cảm thấy không biết tin vào gì nữa. Tôi cảm thấy sống quá xa mọi người bình thường, mà sống như họ, tức là phải xoay sở, chạy vạy, thì tôi không sống nổi.
-- Thế anh trông tôi xem, tôi sống có nổi không?
— Để tôi nói tiếp. Tôi khó sống lắm.Đời sống có quá nhiều chuyện mập mờ. Tôi không đủ trí khôn để tin vào mọi điều, phân biệt điều sai và điều đúng.
– Hãy tin vào cái đầu của mình.
– Nhà văn các anh, các anh sống bằng tài năng. Nhưng những người bình thường nhất không biết họ sống bằng cái gì?
– Họ sống bằng sự hồn nhiên, bằng thói quen, bằng những ảo ảnh nữa. Trong những ngày này, ông ra phố xem, đời sống vẫn vận động ghê lắm. Người ta đi dọc đường, mấy ông thợ gõ tôn cứ choang choang, và ở đường Bưởi, xe ô tô xếp liền nhau, quay đầu một hướng, chỉ chờ Hòa bình là đi. Đúng như cái câu thơ của ông Chế Lan Viên vậy, cái chết đã chết rồi, cái sống bận đi lên
– Suy cho cùng, nó là cái sức sống của dân tộc mình. Nếu không thì trong bom đạn thế này, người ta trụ sao nổi.
-- Nhưng mà những ngày này, tội vạ gì mà viết (!) đi xem mọi người cho thích. Tôi thấy ông Hữu Mai, chồng bản thảo cứ dầy mãi lên một cách đáng sợ. Hôm nọ tay Tuấn (NXB Thanh Niên) lại mời tôi ăn cơm… Phải nhận là nó rất tốt, nó giúp mình đủ thứ — Nhưng mà nghe nó ngồi, nó nói, nó tưởng tượng mình viết thế nào, thì tôi cứ ghê sợ cả người. Dây với những NXB Thanh Niên, Quân Đội này, người viết mình cũng dễ mất tư cách lắm. Không phải nó nạt nộ mình đâu, nhưng mà trong cách hiểu, nó cứ khính khinh mình như thế nào ấy, họ coi mình là kém chính trị cần được hướng dẫn chu đáo. Bây giờ nó còn bảo mình viết như Cửa sông, viết những truyện lùa con em người ta ra chiến trường, thì viết làm sao được nữa? Cái hồi ấy viết, chính là nó có cái không khí khác.
Các khu vực đề tài
*Ông Chính Hữu vỗ vai bảo tôi đi viết về 559 đi. Hôm nọ, ông ấy đã bảo tôi một lần rồi. Quả là bây giờ, viết về 559 là phải. Coi như viết về cái xương sống của cuộc chiến tranh nay rồi. Tôi mà vào, chắc ông Đổng Sĩ Nguyên quý thôi. Nhưng tôi đã nghĩ rồi, vẫn chưa phải lúc viết đâu, vào làm gì. Chính sách của người ta như thế. Tôi đang viết cái Hà Nội kia, mấy hôm đi đâu, mở mồm nói ra cái gì, cũng đều oóc-giơ. Nghĩ đưa cái gì mới, thì oóc-giơ… Cho nên, mình cũng hơi ảo tưởng đấy. Cái quyển Hà Nội này, mấy chương Hà Nội vừa rồi, thế là phải tháo tung ra viết lại mất.
Sắp tới, có 3 khu vực mà các ông ấy cho viết. Viết về cuộc đấu tranh chính trị trong Sài Gòn, có ông Khải. Tổng kết cuộc chiến tranh chống Mỹ, viết riêng về 559 như kiểu không quân trong Vùng trời, ông Mai giỏi. Và một kiểu nữa, viết về chủ nghĩa xã hội như mấy năm vừa rồi, ông Khải đã viết hồi 59-60. Có lẽ tôi đành sang viết về loại thứ ba này thôi. Nhà văn mà gác bút như ông Kim Lân thì cũng không nên. Viết về những chuyện lớn bị kiểm soát chặt chẽ hơn nhưng lại có cái thú của nó: nó mới là văn học.
Thôi, tôi cứ chọn lối viết cách người đọc– cũng là người thường– độ nửa bước chân thôi, mà cũng là cách lãnh đạo độ nửa bước chân thôi.
Dấu ấn riêng trong mỗi đề tài
* Lẽ dĩ nhiên, để nay mai xem tình hình như thế nào. Nếu như tình hình là các ông ấy kiểm điểm lại những ngày này, các ông ấy có một cái gì như là tự phê phán về những năm chống Mỹ cứu nước, thì mình cũng có thể viết được chứ. Khi ấy, tôi sẽ là người đầu tiên, vác ba lô vào nằm trong Trường Sơn sau chiến thắng.
* Một người viết như ông Khải, tính lại đến nay đã hơn một chục quyển sách, nhưng thử hỏi ông ta còn lại được cái gì, viết được cái gì trong nông thôn chúng ta trong những năm vừa qua.
Viết bề sâu nông thôn, Khải đọ làm sao được với những Kim Lân, Nam Cao.
Cái chết của Khải, nhiều khi lại ở sự dứt khoát quá, minh bạch quá. Tức là sự một chiều, nghĩ rất rõ ràng. Không bao giờ ở ông Khải đọc thấy một cái gì đó, thuộc về những tâm sự ẩn kín của một người viết. (Nhàn đế vào: ông Khải không có cáí mà ta gọi là hai tầng hai mặt - trong cái vui có cái buồn, trong cái hy vọng có cái thất vọng).
Còn như Đỗ Chu, tôi thấy một nhà văn mà ở lại văn học với chỉ một quyển sách như thế, là nên mà cũng không nên. Một nhà văn phải ở lại văn học với cả sự hiểu biết của mình,với cả trừng trải của mình. Đỗ Chu khi viết Trong tầm súng, thực ra là có dịp để nhìn lại mình lắm chứ, nhìn lại cả một lớp thanh niên như mình đã chiến đấu ở Hà Nội. Thế mà sao Đỗ Chu viết không nên !
* Tôi tính, lắm khi viết tiểu thuyết phải như tôi, chui vào một xó nào đó ngồi đối mặt chỉ mình với mình thôi, thì mới viết được.
Nhưng làm báo, làm báo phải xuống dưới Hà Nội. Cứ ở cái xó Hương Ngải (địa điểm sơ tán) đó, rồi được toàn những thứ như rơm rác cả.
Hải Phòng nạn nhân chiến tranh
*Tôi đi Hải Phòng chỉ chưa đầy hai ngày, nhưng giá kể cho tôi viết thoả thuê, tôi có thể viết được cái gì đó về cuộc chiến tranh phá hoại. Thành phố như đã chết. Con sông Hạ Lý không chảy, mặt sông không còn dầu mỡ.
Thằng em tôi nó cứ reo lên. Nó đón tôi, nhưng nó lại nhạt nhẽo với tôi.
Tôi vào Hải Phòng, để mà cứu những đứa con khỏi trở thành nạn nhân. Cả Hải Phòng đã là nạn nhân.
Nhưng tôi lại bỏ Hải phòng tôi đi, tôi đạp xe suốt bốn tiếng ngoài đường, không vào nhà ai. Tôi không muốn vào Hải Phòng, cái thành phố tôi đã lấy vợ, có những đứa con, tôi không muốn thấy nó trong cái vẻ thành phố chết chóc.
Phần tiềm thức của tài năng
*Những nhà văn cái loại như Hữu Mai, như Hồ Phương, các ông ấy thiếu một sức chứa, nó chứa sẵn trong người. Các ông ấy lấy được tài liệu bao nhiêu thì viết bấy nhiêu, lấy được cái gì viết cái ấy.Tôi thì khác. Có những chuyện rất vớ vẩn, tự nhiên mình gặp, thế là cả kinh nghiệm cũ của mình nổi dậy. Có những chi tiết đến đó tự mình, mình phải bịa nó ra, không hiểu làm sao mà bịa nó ra, nhưng phải thế mới được. Có những chỗ mình tô rất đậm, và có những chỗ mình bỏ qua đi. Đấy là cái phần tiềm thức của tài năng. Viết thì phải lý trí lắm, lý trí phân tích cả xã hội. Nhưng viết lại phải có phần buột ra tự phát vụt ra những cái gì đó, như là ngẫu nhiên bắt được và không giải thích được.
* ( Nghe VTN kể chuyện Tiếng động ban trưa của Dương Nghiễm Mậu) Tôi công nhận có những giây phút như thế, những khung cảnh như thế, những con người mà mình phải bắt lấy cái hồn.
Không nói Hữu Mai, Hồ Phương, ngay ví dụ như ở Đỗ Chu, hay cả cái dòng văn Thạch Lam nữa, cách cảm cách nghĩ kiểu Thạch Lam, đều là bám vào cái thực trần tục phổ biến.
* Nhìn bao quát cả cuộc đời những thằng viết, có thể rút được kinh nghiệm rất nhiều. Như Nguyễn Kiên, tôi thấy nó lắp bắp quá, nhiều tác phẩm viết nhảm quá.
Tôi đọc Chuyến xe ra, và tôi bắt gặp ông Nguyễn Kiên như một ông chủ nhiệm trong hợp tác xã của mình. Chuyện trong nội bộ hợp tác thì thạo, cái gì anh cũng biết. Người cũng vừa khắc nghiệt, vừa hiền hậu, ông ấy nói cái gì, mình biết cái phần ấy ông ấy biết thật. Nhưng ngoài ra, thì không thấy ông ấy hiểu rộng thêm được gì nữa.
Nhưng Nguyễn Kiên còn có gì đó chắc thiệt hơn Đỗ Chu.
Tôi yêu nhà văn nào nói được một cái gì khác ở cái quen thuộc,cái phần mà tôi không nhìn ra. Những ông như Hữu Mai, không biết làm thế. Nhiều khi lại không còn có cả cái có duyên của câu văn nữa.
Châu: Nguyễn Kiên cũng có những lúc viết lắp bắp, mấy năm gần đây là lắp bắp.
Nhàn: Lắp bắp tức là thế nào ?
Châu: Là viết ra những quyển sách, mà giá kể không có, người ta vẫn thấy anh là chính anh.
Cái gì là văn học
* Hôm nọ ông nói đúng đấy. Sức mạnh dân tộc mình nó ở sự chịu đựng. Tôi nghĩ bây giờ viết về hoàn cảnh của một người đàn bà mà bất cứ tai vạ gì cũng chịu được. Thế nào cũng ra ngày hôm nay, ra cuộc chiến tranh kểu VN.
… Sau Nguyên Hồng, cũng chưa ai viết được một cái gì nên hồn. Chính Hải Phòng là một thành phố có cá tính. Về đấy, để vài ba năm viết vài quyển, cũng khối chuyện viết. Không chừng còn hơn viết về nông thôn.
-- Nhàn: Có lần qua vùng Phố Nối, một điểm bán nem, tôi thấy vẫn có những cụ già ngồi thái nem trạo cho thật mềm thật săn. Có lẽ do thói quen và lòng yêu nghề mà ông cụ trụ được. Bây giờ, người viết văn là một trong số người thợ thủ công loại ấy. Dù làm cho nhà nước, làm cho mậu dịch ta cũng phải giữ lấy lương thiện.
*Châu: Lắm lúc tôi nghĩ tôi cứ thấy sợ. Giả sử, những lớp người sau, họ đọc đến văn học bây giờ, thì có khi, cái bộ phận văn học hiện thực miền Nam lại có ý nghĩa hơn là những gì miền Bắc mình làm từ bảy năm nay.
Nhiều khi người viết mình ở ngoài này, cứ muốn khôn hơn thời đại, cứ muốn ra cái điều ý thức, còn cái phần hiện thực chẳng bao nhiêu. Chính văn một người như Đỗ Chu là thứ văn rất ít chi tiết.
Thì chi tiết lại cũng chính là tư tưởng. Tư tưởng đã không có, thì chi tiết chỉ là trò vớ vẩn. Cái quan trọng vẫn là thực tế, như ông Lỗ Tấn đấy. Mà thực tế đó phải là cái thâm nhập vào cá nhân mỗi người thành sự thực của riêng hắn. Tiểu thuyết làm được việc ấy. Tiểu thuyết, nếu tôi được viết, sẽ có một nhân vật thế này. Hắn có mười căn buồng tư tưởng khác nhau. Ở mỗi căn buồng hắn là một người khác.
*Nói thế thôi thứ tiểu thuyết lại là một thể rất điêu toa. Ký mới thực.
Tiểu thuyết của mình thì vụ thực quá. Ký của mình thì lại quay ra hư cấu, và ít chất thực. Nó cũng phản ánh tình trạng chung của mình: cái gì cũng lem nhem, trật trạo.
Sự khác biệt thường xuyên
Trước lúc có ý thức, Nguyễn Minh Châu đã có cái gì gần như bản năng. Khi cái ý thức kia có vị trí của nó rồi, anh sẽ đi rất xa. Có thể rồi ông Châu cũng lên đến cái cỡ như ông Khải , hoặc xa hơn chăng?
Khải: Công nhận là ông Châu viết lý luận đã có cách viết riêng.
Xuân Sách: Nguyễn Minh Châu lý luận tạo ra được những bất ngờ, bất ngờ trong cách nhìn nhận, đánh giá mọi thứ, bất ngờ trong ý kiến. Nói cứ như vào tận gan ruột người ta.
Châu: Ông Hải Hồ làm thủ tướng thì hàng ngày, từng công dân, phải đến trình diện, báo cáo thủ tướng tôi đi đái.
Xuân Thiều: Còn ông Nguyễn Minh Châu mà là thủ tướng thì treo một cái bảng trước cửa, không tiếp ai hết.
Bao giờ Nguyễn Minh Châu cũng có một thái độ rõ rệt với những thứ không phải văn chương. Ví dụ như nói về ông Khánh Vân báo Quân đội Nhân dân, Nguyễn Minh Châu lập tức nhăn mặt lại. Cái ông Khánh Vân ấy ! Ví dụ như nói về thơ, nghe Ngô Văn Phú khẳng định chúng ta phái phấn đấu để thơ có cái chất riêng của thơ bộ đội, Nguyễn Minh Châu nói ngay không có cái gì là cái riêng của thơ bộ đội cả.
Dưới mắt mọi người
Nhị Ca: Nguyễn Minh Châu có năng khiếu, nhưng vẫn là anh làm ăn không hợp thời, loay hoay ngồi viết, rồi cũng chả đâu vào đâu.Thằng Hữu Mai nó viết văn rất khô, nhưng nhiều khi nó vẫn đặt vấn đề, đặt ra một cách mạnh mẽ lắm.
Tại sao trong thái độ, Nguyễn Minh Châu có phần như “bênh” Đỗ Chu, như rộng rãi hơn đối với Đỗ Chu.Có phải vì Nguyễn Minh Châu vẫn thấy những chuyện gọi là quan điểm với lại tư tưởng, chả có gì quan trọng mà chỉ cần tài năng?
Theo Nguyễn Khải, hình như Nguyễn Minh Châu đang bước vào một thứ văn chương khác, cách nói khác, song vẫn chưa đến được chỗ mộc, khoẻ, vạm vỡ.
Xuân Sách công nhận chỗ mạnh của Nguyễn Minh Châu là ở những ý nghĩ bột phát bất ngờ, những điều lung tung không đâu vào đâu cả. Sách bảo còn mình thì đã có ý thức từ sớm, cái gì hơi là lạ đã ngăn chặn được, cho nên ngay trong cách nói, đã đánh mất hẳn cái phần hồn nhiên ấy đi.
Cũng Xuân Sách: Chính là Nguyễn Minh Châu ăn ở cái hồn nhiên, không sợ cái gì ( còn mình – Xuân Sách nói – mình luôn luôn cảm thấy một cái gì đó, mà không với tới được)
Bùi Bình Thi: (Chắc là ý nhiều người bên Hội nhà văn): Văn Nguyễn Minh Châu không có sắc thái, không có cái vẻ riêng biệt của một ngòi bút. Nguyễn Khải viết có vóc vạc hơn.
Độ chênh giữa nhà tư tưởng và người nghệ sĩ
Nguyễn Minh Châu viết rất mạch lạc, trong khi nói rất lung tung. Nguyễn Minh Châu thật có phong thái một người viết tiểu thuyết, những tiểu thuyết dài, tự nó đòi hỏi một người từ tốn không vội vã.
Cái thứ hai đối với Nguyễn Minh Châu: Gần như để mắt vào cái gì, cũng nói nó lên một cách rất là văn học. Ở đây, có một bí mật nào đấy, mà tôi nhìn không ra.
Trong cách nhìn nhận về con người, Nguyễn Minh Châu nhiều khi cũng tự tin đến định kiến. Với ông, những loại như Đỗ Chu, đáng mặt viết văn lắm. Còn những loại như Lê Lựu — cái người ấy chỉ là thứ đất thó, nặn thế nào ra thế ấy, không thể nào ra văn chương được.
Khải: Dấu chân người lính đúng là mang lại một bước tiến mới cho văn xuôi mình đấy. Tác giả thì rõ là một nghệ sĩ, cái chất hình tượng trong văn xuôi của Châu rõ lắm, đọc văn cứ như là sờ thấy được khung cảnh nhân vật.
Nhàn: Tôi cũng đã thấy nhiều người tả cảnh, nhưng như ông Tuân, ông Tô Hoài tả, thì có nhiều chỗ tả như người lần mò trên một thây chết vậy. Cứ dẫn giải từng li từng tí một. Còn nếu Nguyễn Minh Châu tả, bao giờ cũng có cái sống của nó, người nghệ sĩ có cái vui buồn xốc nổi cuốn theo sự yêu thích đối với cảnh vật.
Nhưng mà về mặt nhân vật, thấy Nguyễn Minh Châu dừng lại ở bản năng nhân vật quá nhiều, mà thiếu từ đó viết một khái quát gì đó. Nói là không đặt ra một vấn đề tư tưởng gì đó trong tác phẩm, có lẽ ở chỗ này. Cuộc sống là thế nào thì cứ kệ nó, rồi nó sẽ tới.
Khải: Tức là ở Nguyễn Minh Châu thiếu đi một nhà tư tưởng, tuy rằng nhà nghệ sĩ, đã là rất đậm nét.
Tự kể về mình
Tôi thuở trước, tính cũng ngơ ngơ thế này này. Năm ấy vào Đảng, — vào từ hồi đi học chuyên khoa, — là vì ở với mấy cậu nó cũng tốt. Học xong Lục quân về 320, làm thằng trung đội phó. Sau một lão cán bộ trên về thấy tôi hay vẽ vẽ trên báo tường, mới lấy lên, chuyên môn đi vẽ bản đồ. Năm ấy tôi hơn 20 tuổi. Có lần, ngồi chung mấy thằng với nhau, mỗi thằng phải nói sau này mình sẽ làm một nghề gì đấy. Tôi bảo sau này tôi sẽ viết văn. Ai cũng buồn cười.
Ở Khu bốn ra Việt Bắc, rồi lại về đồng bằng, đúng là tôi có bị choáng một tí thật. Tôi có ghi lại một đoạn nhật ký khi vào những thành phố nữa, sau đánh mất mất.
Tôi, ai người ta cũng bảo là sống không có tình cảm. Tôi đóng quân ở đâu, lúc đi khỏi, người ta ít nhớ lắm.
Tôi viết cái gì cũng như là bắt được chứ lúc đầu chả định viết thế. Cái Cửa sông cứ dài mãi chứ lúc đầu chỉ là truyện ngắn. Viết Dấu chân người lính, chính là quá trình tôi khám phá ra hiểu biết của tôi về thằng lính. Viết cái gì bao giờ cũng là một sự nhận thức về cái đó thật.
* Quá trình viết cũng là một quá trình thưởng thức. Tôi không hay đọc lại những cái đã viết từ lâu, nhưng viết chương này, hay phải đọc lại chương trước. Sự viết đồng thời là một sự thưởng thức. Vì thế sự viết là một hứng thú.
Chính cái việc viết, nó làm cho mình cảm thấy mình không đủ. Viết cái này, lại nghĩ ra viết cái khác.
Sự viết, giống như là một sự phát ra một cái gì đó. Nhưng nó cũng lại là sự tích điện, là sự nạp vào trong mình một cái gì đó, ngay trong cái lúc anh phóng anh phát.
* Tôi thấy nhiều lúc viết cũng là một quá trình nhiều mặt lắm. Về những vấn đề tư tưởng, mình phải tính toán cho kỹ. Nhưng mình cũng phải chọn được truyện. Tư tưởng như là cái hồn, hồn phải tìm cho được cái xác, thì mới thể hiện được hết điều định nói. Có lúc, có hồn trước, đi tìm xác. Có lúc, từ cái xác cụ thể, mình lại phải lôi lên rút ra cái hồn.
* Viết được cái chất hình tượng như tôi, không phải là dễ đâu. Nhưng chính viết mãi như thế, mình cũng thấy chán. Tôi định bao giờ rỗi rãi, mình viết cái gì với một bút pháp xám. Tức là không khí tư tưởng, con người, câu cú trong đó, nó không phải cứ trơn tuột đi, không phải cứ toe toét màu hồng, không phải nó cứ tươi nở, mà phải là hơi lổm chổm, bứt rứt, nó nửa vời, mà nó lại sâu đậm.
Nhàn: Ở ta, không ai đi theo lối hiện thực hư ảo, ma quái.
Châu: Hiện thực xã hội chủ nghĩa thì làm sao mà xoay sở thế được. Cái chết của văn học mình là văn học phải tuyên truyền. Bây giờ, tay nào mà đi vào thứ hiện thực ấy, là mở ra một hướng mới trong văn học đấy.
( còn tiếp)
Published on December 12, 2015 20:19
December 10, 2015
Nguyễn Minh Châu 1968-1973 ( I)
Khi mới được chuyển về tạp chí Văn Nghệ quân đội, tôi thường có dịp trò chuyện với Nguyễn Minh Châu như một đồng nghiệp. Sau này khi ông đã nổi lên với Dấu chân người lính, sự thân thiết đó nhạt dần đi. Nhưng quả thật lúc đó, khoảng trước sau 1970, phải nhận là ông mến tôi, có chuyện gì cũng kể với tôi. Ấn tượng để lại trong tôi sau các buổi nói chuyện này sâu đậm tới mức tôi phải thường xuyên ghi chép trong một cuốn sổ riêng.
Dưới đây là những suy nghĩ của nhà văn về nhiều vấn đề nghề nghiệp mà tôi đã nghe và ghi được. Mỗi lần đọc lại, tôi vẫn hằng tin rằng ghi chép này không chỉ có ích cho những ai muốn hiểu về tác giả Dấu chân người lính mà còn là những gợi ý để cùng hiểu về một lớp người viết văn và một giai đoạn văn học.
Một trong những bài phát biểu nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu trước khi qua đời là bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa .
Theo tôi đó là một ý tưởng ông đã nghiền ngẫm từ lâu. Vậy mà khoảng đầu 2000, trong một hồi ức về Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyễn Trung Thu có kể lại một chi tiết.
Đó là bên giường bệnh, nhà văn có mấy lời nói lại về bài này.
Anh tâm sự: “Ông ạ, tôi nói cả một giai đoạn văn nghệ minh hoạ và hãy đọc lời ai điếu nó là hồ đồ. Phải nói, dù còn nhiều cái cản trở sự sáng tạo, nhiều cái dở đấy, nhưng không ít tác phẩm văn học – nghệ thuật của ta bấy nay cũng được lắm, hay lắm, cũng thật lắm chứ!
Có minh họa đi chăng nữa mà được vậy thì cũng tốt chứ sao, không thể lờ quên nó được. Nói thế là bạc với đóng góp tâm huyết của anh em mình, kể cả của những người quản lý nữa – nhất là của anh em mình từng bỏ bao công lao, cả xương máu nữa làm ra nó”.
Tôi nghĩ rằng những lời lẽ này là đáng tin.
Nó làm chứng cho một tình thế có thật trong tâm lý những người viết văn.
Đó là mỗi chúng ta thường xuyên mâu thuẫn, có khi vừa nghĩ song lại phủ nhận ngay ý nghĩ của mình.
Thành thử khi xét cả thời gian dài, những nhà văn thân yêu thường hiện ra không phải chỉ có một mà qua nhiều hình ảnh khác nhau.
Với Nguyễn Minh Châu cũng vậy.
Dưới đây là hình ảnh ông qua những câu chuyện với tôi trước sau 1970, khoảng 1968-1973.
1968-72 –Thời gian viết DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH
Viết lách bao giờ cũng khó
(Đi Quảng Bình về) Giá kể gia đình mình ổn ổn thì mình ở luôn trong ấy mà viết cho xong. Lắm lúc nghĩ không nên trách thằng nhà văn Việt Nam bất cứ một điểm gì vì nó đã khổ quá. Nghe Bằng Việt bảo tình hình này truyện khó, thơ cũng khó, mình phải nói ngay: Tôi thì tôi cảm thấy thơ bao giờ cũng có cái khó của nó, nó có cái gì ma quái lắm.
Bây giờ người ta cho mình viết bằng cái quyển sách, mà mình muốn viết bằng được cái bàn này này. Cho nên, mình phải lựa mà viết cho hết. Nhưng cũng nhiều lúc phát chán.Tôi với ông Khải bàn nhau, bây giờ làm sao cho nó mùi là được.
Phải viết chiến tranh theo cách của mình
* Tôi định viết một cái gì như là bà mẹ và viên tướng. Anh lính và viên tướng cùng làm công việc quân sự cả. Nhưng người lính thì làm vì nhiệm vụ, ông tướng ngoài phần trách nhiệm lại có phần nghề nghiệp của ông ấy nữa, cho nên có lúc ông ấy quên cái phần vất vả của chiến tranh đi. Trong một trận chiến đấu, ví dụ bao giờ nó cũng có tính trước số thương vong, sau đó, trên cơ sở dự tính thế mà khớp lại xem mình dự tính tài đến mức nào. Có những ông tướng căng cả óc nghĩ về cái mức ấy. Bây giờ phải có một người mẹ người tốt dạy lại cho ông ta, thì ông mới hiểu được.
Ông tưởng tượng đoạn đối thoại ấy có ghê không?
Mấy chục năm nay, xã hội mình toàn những người đi buôn cả. Cứ tìm tiểu thương ở đâu, tiểu thương ở ngay trong tư tưởng anh ấy, diệt làm sao được. Mình đi bộ từ đây xuống Bờ Hồ, qua mỗi hè phố lại thấy bà bán ngồi chồm hỗm, hỏi anh có gì bán không. Tưởng tượng chính là những người từ trong những hố cá nhân tránh mảnh bom kia mọc lên đấy, nó có bị giết thì tự nó lại mọc lên một cái đầu.
Mình vào Quảng Bình, thấy kể chuyện người ta háo hức đón đoàn mặt trận miền Nam, kêu lên với nhau rằng sao đến miền Bắc mà đoàn lại không vào Quảng Bình, và giá có vào thì người ta sẽ tiếp đón linh đình lắm. Trong khi ấy thì những thằng lính ở đường 9 Khe Sanh ra mặt xanh nanh vàng, húp bát bún con con trả đồng bạc vẫn khen rẻ mà chẳng ai quan tâm cả. Chính bọn ấy mới là đại diện chân chính của miền Nam.
… Lại nghe nói đâu Trung ương có ý định bảo Hà Nội để lại một khu phố, để sau này, khách phương xa đến, làm nơi tham quan về những tội ác của địch. Mãi sau, một thằng nó phải bảo: Thôi, dân mình khổ đã nhiều rồi, cốt sao ông cho họ cái nhà họ ở đi cho chóng, còn làm gì mà phải xoay ra thế nữa.
… Người ta buôn bán ghê lắm, người ta buôn bán mọi thứ. Cả xã hội đi buôn. Nói thế mới gọi là vấn đề của văn học chứ!
Gửi gấm gì vào “Dấu chân người lính”?
* Tôi sẽ viết cho nó mùi, cho nó nhiều chuyện lắt léo một tí. Nhưng cái chính mình muốn viết là một thế hệ lớp trước và một thế hệ thanh niên bây giờ. Có một chương các ông cán bộ ở một trạm giao liên mới ngồi bàn về bọn con cái của mình, mình muốn dạy song nó chán nó chỉ muốn truồi ra khỏi bàn tay của mình như thế nào.
… Chính ra đây là quyển 2, quyển ở chiến trường. Còn quyển 1, một thằng về hậu phương mình lấy quân, nó mang tất cả không khí hậu phương, của Hà Nội, của công trường 800. Nếu 2 quyển này trót lọt thì mình sẽ có một nhát chổi quét thẳng từ Nam đến Bắc.
Không biết có hay hơn so với Cửa sông hay không, nhưng mà có cái chắc rằng các nhân vật của nó khác, vấn đề của nó khác.
Hôm qua 12 giờ đi ngủ, rồi đến 2 giờ lại lục cục dậy. Mình không sao ngủ được. Cảm thấy như bao nhiêu linh hồn lính nó ốp đồng vào ngòi bút mình vậy..
* Tôi viết về sự nhận thức, nhận ra nhau của hai thế hệ. Trong tình hình hiện nay, chỉ có thể thấy hai bên đều quý nhau, phục nhau, sợ nhau.
Nhưng mà nói chung là thế hệ mới sẽ làm cho thế hệ trước ngạc nhiên. Tôi phải để cho một ông cỡ cán bộ Trung đoàn làm thơ để cho nó sợ, không có nó cứ tưởng văn nghệ là linh binh. Nhưng chính nhà thơ này lại mê một tay chiến sĩ quá chừng, nhà thơ bỏ ông bố cán bộ trung đoàn để quay về với đứa con, theo nó đi khắp mặt trận.
… Chính trong lúc viết, mình có dịp kiểm điểm lại con người mình, sự từng trải của mình, học vấn của mình xem chỗ nào thiếu, chỗ nào tạm được.
Đưa những kinh nghiệm hàng ngày vào trang sách
* Người viết như kẻ làm công việc xả thân. Phải lấy tất cả các việc ra để tính toán, lo liệu lấy cho mình. Không có gì là bỏ đi, không có gì là thừa.
Lắm lúc tôi ngồi canh cháo cho con cũng nghĩ được những ý nghĩ hay đáo để, chỉ hiềm lúc khác mình lại quên biến đi mất. Ví dụ như mình nghĩ các thế hệ cứ tàn phá nhau, thế hệ con mình nó ra đời là nó phủi bố nó đi, mất bao nhiêu là sức lực của bọn mình. Thế rồi thế nào? Thế rồi mà đâu vẫn vào đấy.
* Tôi rỗi tôi sẽ ngồi viết cho ông những loại bài nghĩ về nghề. Mình là thằng không có lý luận gì hết, nhưng mình biết cách nói về những điều mình có sẵn, thế là được rồi.Tôi sẽ nói từ phong trào hiện nay, sẽ nảy sinh ra những thằng viết trẻ thế nào. Tôi sẽ nói rằng nhà văn cần phải biết khai thác hết những khu vực mình sẵn có, nó là những miếng đất hoang trong người mình. Làm gì phải đi cho lạ lẫm thêm. Mình đã viết về mình đâu?
Tôi thích gửi vào văn chương những cảm xúc trong con người mình. Một lần, tôi đưa mấy đứa con đi xem, rồi lại quay về nhà. Bóng mình đổ vào bóng cái cây đằng trước rồi cứ xa dần đi. Tôi lại ngồi tôi ghi ngay được một đoạn Mình nghĩ về những người tốt, họ tản mát khắp nơi, có phải bao giờ cũng gặp nhau đâu.
Theo Quang Thọ(họa sĩ) thì ở NM Châu có cái khả năng kích thích người khác nói thực. “Trông thấy cái mặt thằng này, là lại không làm sao mà giấu được mọi ý nghĩ thực của mình”.
Có lần NMChâu nói với Quang Thọ:
– Lắm lúc muốn chết mẹ nó đi, vợ con gia đình nheo nhóc, thân mình cứ như thân con lừa con trâu kéo cày giả nợ. Nhưng rồi lại nghĩ thả nào trong quyển sách sắp tới, cũng phải tương vào một ít đoạn nói về nỗi khổ của con người để báo thù mới được.
… Tôi sẽ cố gắng bằng mọi cách, đưa ra những đoạn quan trọng, ví dụ như đoạn thằng Lữ này nó qua sông Bến Hải như thế nào, thằng này nó nghĩ về miền Nam, về đất nước như thế nào! Bằng cách nào cũng phải đưa vào chứ.
Nhàn: Nhân vật Khuê thì nhiều người viết được. Nhân vật Lữ của anh là hoàn toàn của anh, là một sự nhận thức của người nghệ sĩ trước cuộc đời.
Châu: Đúng thế, ở cuối sách, mình sẽ viết về một đám bộ đội. Họ ngồi hát những điệu hát của quê hương, thằng Hà Bắc, đứa Nam Định. Và Nhẫn với thằng Khuê đi qua, nó sẽ quát cho một hồi, bắt tất cả bọn kia im. Không phải những loại như thằng Lữ, hay lão Nghi, Kinh làm nên cuộc đời mới, mà là những thằng Khuê, thằng Nhẫn kia.
Đi tìm khái quát
Châu: Mình chỉ sợ những thứ mà mình viết, nó không được người dân thường miền Nam chấp nhận, nó không đúng là những vấn đề của mìền Nam!
Nhàn: Thì tôi vẫn nghĩ chính ông nói vấn đề của miền Bắc chứ có phải miền Nam đâu. Chúng ta biết gì về miền Nam mà viết.
– Tôi vừa đưa cho thằng Thiều đọc một đoạn, có một ông già ở Khe Sanh lên thăm con, gọi nó về. Đây là đoạn đối thoại rất quan trọng. Thằng Thiều nó bảo: Lại bịa rồi.
-- Bây giờ truyện của mình quá nhiều chỗ thực mà lại không đủ phần bịa. – Cái phần bịa ấy, nó là phần quan trọng để đóng góp vào cuộc đời của những người viết truyện và những trang sách.
* Xong cái này, tôi viết cái sau, phải chơi cái lối là làm sẵn kế hoạch ra mà viết mới được.
Tôi rất yêu cái khu 800 của tôi, vì nó như chợ phiên, lúc nào ngoài kia tròng trành có gì, thì nó lại lập tức có ảnh hưởng trở vào khu trong này của mình. Hồi kỷ niệm Lê nin thì toàn chiếu phim Lê nin, Lê nin ngồi Lê nin đứng, Lê nin ăn bánh mì với Krúpxkai a — con bé con nhà mình thấy thế cứ nhoài người ra đòi ăn. Bây giờ thì lúc nào cũng phim: Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn.
Chủ đề của văn học mình bây giờ là gì? Là lòng yêu nước.
Mà thực ra, cái chủ đề ấy cũng đã cổ lắm rồi.
Thế giới bây giờ nó sang chủ đề khác rồi (Nhiều lần NMChâu nói rằng văn học mình chả có chủ nghĩa gì cả, chỉ có chủ nghĩa lớn nhất là tuyên truyền).
Đối diện với chính mình
Lên tận nhà NMChâu ở công trường 800, tôi có cái sung sướng được là người vào tận trong bếp núc, ngồi đọc ít bản thảo Dấu chân người lính. NM Châu vừa muốn cho xem, vừa ngại nên cứ quay đi viết.Thỉnh thoảng lại đánh trống lảng:
-- Mình vừa đọc một ít kịch Arbuzov do Đặng Qúy Quyền cho mượn. Ngồi tính bây giờ ở nước mình, có thể phỏng theo cái kiểu Liên Xô ấy, dựng một câu chuyện giữa hai vợ chồng. Đôi vợ chồng này gặp nhau, yêu nhau từ hồi Điện Biên, đấy là một cảnh. Cảnh thứ hai, là một cảnh nào đó trong hoà bình. Và một cảnh thứ ba, là một cảnh gặp lại tặng ở già, ở Trường Sơn. Như thế thì hay quá còn gì nữa.
Tôi đọc sang những trang tình yêu. NM Châu theo dõi rồi hỏi đọc có chuế quá không, mình cũng là thằng dốt về tình yêu thôi.Tôi bảo không, cũng đọc được. Cũng có những câu gợi đến sự suy nghĩ của tôi. Hai nhân vật Lữ và cô Hiền này cũng hay hay.
Thế là Nguyễn Minh Châu sổ ra:
– Giá kể chỉ cho tôi viết về hai tay này thôi, từ lúc nó quen nhau từ ở nhà, đến lúc nó đi trên đường, thì cũng đã được nhiều lắm rồi.
– Đúng thế, văn chương bây giờ chẳng được nói cái gì cho nó kỹ cả mà cứ phớt phớt thế nào ấy, cả lớn cả bé, cả trẻ cả già như thế thì làm sao mà hay được.
– Viết độ hai đứa thôi, thì phải viết vào tận củ tỉ của người ta rồi còn gì nữa.
Rất nhiều lần, NM Châu lặp đi lặp lại:
– Tôi không tin thứ văn học mà cứ cười hô hố lên, văn học bao giờ nó cũng phải là một cái gì phẫn uất cơ. Tôi với ông chẳng đã bàn nhau là thơ thằng Duật cũng vừa phải thôi là gì?
– Các ông bây giờ son rỗi rảnh rang, nên ngồi nghĩ kỹ được.Bọn chúng tôi mải lo kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, nên đằng nào cũng phải viết thôi. Nhưng tôi tin rằng, nếu tôi rỗi rãi ra, cho tôi đi vào những mảnh đất mới, cứ đi dọc sông Hồng này, ra cái bến ga kia, thả nào tôi cũng viết được cái gì, không biết nó là thể loại gì, nhưng nhất định là có đóng góp.
… Mình chán viết về đánh nhau lắm rồi. Nó không phải là cái chất của mình. Sắp tới, tôi đi xem có bọn làm khoa học nào, nó kể cho mình, khéo mình có thể viết được cái gì đó. Viết về những cuộc tranh luận của bọn ấy, nghe có vẻ trí thức hơn, mà thật sự là mình cảm thấy ngòi bút có vẻ phóng túng hơn.
Hoài nghi và tin tưởng
Một buổi trưa, lên nhà ông chơi, Nguyễn Minh Châu bảo ta đi ra đường một tí đi. Chúng tôi nói về rất nhiều người khác nhau.
– Những người như ông Hữu Mai, ông Tào Mạt, cả như Quang Thọ nữa, anh nào nó cũng có một niềm tin rất ghê, những chỗ rất thiêng liêng. Nó sống được bằng ngòi bút là ở đó. Bọn học sinh nông thôn như thằng Duật, thằng Chu có lẽ cũng vậy. Ông là người Hà Nội, ông tiếp xúc với sách báo sớm, ông còn có thể có được cái đầu óc hoài nghi, chứ họ thì không biết. Nhưng không hiểu sao, mình cũng vậy, có một tối Nguyễn Khải ngồi nói chuyện với mình, Khải đã định khoác áo đi mưa quay về mấy lượt, rồi lại phải ở lại, suốt từ 7 giờ đến 10 giờ. Về sau tay ấy phải nói tôi công nhận ông là người hoài nghi tới cùng cực, mà cũng có lòng tin thật ghê gớm, tôi chịu đấy.
Nhân đọc bài thơ Bãi cỏ bên kia bờ sông của Xuân Quỳnh:
-- Bây giờ bà ấy phải thêm cái phần cuối vào. Phải tả là bãi cỏ ấy có lúc như bị chìm ngập, nhưng sau lại mọc lên những mầm cỏ mới và cứ xanh rờn mãi đi.
Những thoáng tự hào
Buổi sáng ra cổng 4 LNĐ gặp ngay NMChâu :
- Mình đạp xe từ nhà đến đây cũng đã mệt, chỉ thấy thích là đường nhiều con gái đẹp quá chừng. Tôi đéo tin ông tướng ông tá nào cứu được nước mình, nhưng tất cả bọn con gái đẹp ấy lại cứu được đấy.
Tôi viết lại gần xong rồi. Cũng có những chương mình thích lắm.Tôi thấy ghê nhất là mình cứ hiện lên đằng sau các trang sách, không sao giấu được. Tôi cho là ai viết văn cũng có thể để lên đầu mấy chữ thân tặng tôi vào quyển sách của mình.
Nhàn(nghe đọc một đoạn trong Dấu chân người lính): Cứ viết thế này thì có thể viết miên man được mãi đấy!
Châu: Không, cũng chỉ viết được một ít thôi, tốn vốn liếng lắm. Văn chương mà cứ ra ông ổng thì sao gọi là văn chương được — để cho bọn khác nó viết.
Văn chương là gồm những giọng điệu khác nhau
* Bấy giờ mình đừng có khinh ai. Có những điểm mình không nói, thế là mình không nói thôi, người ta cũng thế. Sau này, không chừng tình hình sẽ khác đi. Như thằng Vũ nhé, bây giờ cái phản ứng nó bề ngoài có phần nhảm, nhưng bề trong có cái đúng của nó chứ! Sau này, ai biết Đỗ Chu sẽ viết thế nào. Biết đâu những thằng thơ mộng ấy, sau nó lại viết về những cái thật là dữ dội trong lòng người.
— Đọc Vòng tay học trò (của Nguyễn Thị Hoàng) thấy văn chương nó viết nhuyễn thật. Không phải là uốn éo đâu mà với nội dung ấy thì phải viết kiểu ấy, nó mới nói hết được cái phức tạp của con người bây giờ. Có một đoạn, Nguyễn Thị Hoàng tả cô Trâm này với tay Minh ra gieo đỗ, nói về sức sống trong lòng đất. Tôi thấy mình cũng gặp nó ở chỗ ấy, trong một đoạn tôi viết Xiêm đi lấy thóc và tự hỏi tại sao không lấy gạo mà lại lấy thóc?…
… Đọc những tay này, tự nhiên dậy lên một thứ thâm thù: Mình cũng phải viết được cái gì để làm cho nó khiếp về mình mới được.
– Tôi thấy bây giờ đời sống nó căng lắm, lúc nào cũng phải đặt vấn đề là nhận thức. Các nhân vật của tôi cũng đều là nhân vật nhận thức cả.
Tôi thấy ở nước mình, nghề văn chương bao giờ nó cũng mang sẵn cái yếu tố nhảm. Như thằng Duật nhảm kiểu Duật, thằng Chu nhảm kiểu Chu, mà mình có kiểu nhảm của mình. Người ta chỉ quan niệm thằng viết như một thằng làm trò, một anh nặn bột, chứ làm gì có yếu tố xã hội. Nhưng biết đâu rằng văn chương phải có những cái khác ở đằng sau câu và chữ. Ở nước mình, ngay những người như ông Tố Hữu, người ta có chia nhà cho ông ta thì cũng chia cho cái nhà có con phượng con công trên mái, chứ không đơn giản mà mô đéc như các nhà kia.
… Ông Khải hay nói tới sự từng trải, nhưng lại rất ít từng trải. Dạo này nghe nói ông ấy viết về pháo, tôi không tin. Dạo trước ông ấy có đi đâu một tí, thế mới nhân ra thành Ra đảo được. Bây giờ nghe kể thì làm sao nói được về rừng. Chính Khải cũng đã bảo mình viết quen tay đi mà lại.
Tôi cho rằng những thằng như thằng Triệu Bôn, thằng Duật thì khen thế cũng chưa đủ, cứ phải khen nữa. Chứ làm sao, ông Xuân Sách viết nhảm thế thì không ai phê bình, mà ông Triệu Bôn nó viết thế thì nói nọ nói này (Nhàn: Vì mình quan niệm ông Xuân Sách như một cái gì đã thành, mà ông Triệu Bôn thì còn thay đổi được).
Thoáng tâm sự riêng
Ngày tết đầu 1971, tôi (VTN) trở lại Quảng Bình. Về, ông Châu kéo vào đọc bài thơ về cái chết của con mèo, ý chính là tôi thấy cái chết con mèo, tôi lại nhớ mẹ tôi ở nhà.
— Thằng Chu ở đây, tôi không dám đọc. Nhưng mà có lúc mình buồn quá, mình đâm ra như thể phát cuồng lên, không làm được gì nữa. Có lúc tôi buồn ghê lắm. Suy ra trên đời này, vui chỉ ở chỗ cắn răng mà làm mọi điều.
Người ta cũng có lúc phải biết buồn. Buồn được cũng không phải là dễ đâu nhé.
Tôi viết xong mấy chương đầu, loanh quanh đến mấy tháng không biết viết thế nào nữa. Mình không hiểu nên bắt đầu cho nó đánh ở đâu, xong ở đâu. Mãi rồi mới nghĩ: thôi chỉ cho nó vây áp Tà Cơn thôi. Bận sau, tôi cũng đến cạch không dám viết kiểu này nữa. Viết toàn những thứ mình không biết gì cả, đi mình không đi, hỏi mình không hỏi – cái đơn vị mà tôi viết đây, đâu có 7, 8 ngày — mình nghĩ cũng liều thật. Thế này là tôi đã phải huy động tôi rất nhiều rồi đấy.
* Lắm lúc viết, thấy nên tự khen rằng mình viết khá, những thằng khác không đáng xách dép cho mình. (Nhớ có lần NMChâu đã viết trong một tiểu luận “Hãy tha thứ cho người viết những lúc bốc đồng khoác lác“).
Hiện thực cuộc đời là vô tận, thì không bao giờ hết chủ đề cho văn học. Ăn nhau chỉ ở cách làm việc của mỗi người.
* Tôi định viết một đoạn kết thế này: Cuối chương Hiền và cô bạn gái đi dọc bờ suối bắt cá. Những con cá suối chết khô ở suối, họ nướng ăn. Rồi họ nói chuyện về hạnh phúc, về tương lai. Khi họ bắt được một quả vả, trông rất ngon, bửa ra, thì bên trong toàn những muỗi là muỗi cả. Đêm, đoàn văn công ở một bờ này suối, tốp cán bộ của ông Kinh thì ở bên kia suối. Những suối đá. Trăng sáng quá, không ai ngủ được, ông Kinh đi dạo bên này suối. Hiền đi bên kia, nhưng không sao gặp nhau được.
Tất cả đều có ý nghĩa tượng trưng cả đấy !
* Tôi bắt tay vào quyển mới cũng được, nhưng chỉ sợ mỗi một điểm là nó dễ trùng với Cửa sông lắm. Trùng thì mình không thấy thích nữa!
Tôi đang đọc quyển Hoàng Văn Thụ của ông Tô Hoài. Ông này viết khôn lắm, chỗ nào cũng có cái hay. Nhưng đó là một lối văn để tả những chuyện bông đùa, hay những chuyện phong tục, chứ không phải là lối văn để tả những chuyện cách mạng. Nó thiếu những cái sục sôi cuồn cuộn bên trong.
-Nhàn: Ông Tô Hoài viết như người đi bộ ấy, lúc nào cũng chậm rãi vô cùng, đọc thì thấy mệt, chẳng biết bao giờ thì hết. Văn ông ấy tĩnh lắm!
Châu: Ông này giỏi tránh dùng những chữ sáo. Nhưng lại không bắt được cái hồn bên trong. Cho nên nó vẫn không được gì hết!
Nhàn: Người viết nên tránh tạo ra lắt léo.
Châu: Nhưng mà kết cấu cũng quan trọng lắm. Nó như là cái tài xếp đặt cái nọ bên cái kia. Đọc truyện của người khác, bao giờ tôi cũng tưởng tượng xem nó có hình gì? Như truyện Ráng đỏ của Đỗ Chu có hình tròn. Còn chuyện trong Vòm trời quen thuộc cũng của Chu thì chưa ra hình gì cả. Nó như hình con giun con dế vậy.
Vừa viết vừa nhìn chung quanh
… Không thể phá kết cấu được đâu. Cái Vòm trời quen thuộc, nhiều chỗ Chu nó tả nhân vật như tiểu thuyết, rồi nó lại không tiếp tục nữa, cũng là không được.
Nghĩ thế, nhưng chính tôi thì lại đã có lúc làm thế.Trong Dấu chân người lính, lúc đầu có nhân vật Thái Văn sau tôi bỏ bố nó đi, không cho nó phát triển. Mình nghĩ: không giống như tiểu thuyết cổ điển, rất dễ bị phê bình. Nhưng mình thấy ở đoạn trên thế là được một việc rồi.
Tôi bây giờ đang phân vân, đứng giữa hai ngả đường xem viết truyện hay ký. Giá bây giờ viết được bút ký thật hay cũng thích. Ví như không có nhân vật gì cả, chỉ có năm phần. Phần một tôi nói về 5 gia đình trong khu nhà tôi. Phần thứ hai nói về một cái xe chạy từ 559 ra đây, đến Hà Nội, thả lính xuống mỗi anh về một nơi. Phần thứ ba tả cái trạm 66. Nhưng viết thế, không đâu nó in. Viết giống các tiểu thuyết cổ điển, như tiểu thuyết Nga, thì lại vừa với trình độ người đọc bây giờ.
Với tôi viết ký thì bộc lộ được chỗ mạnh của mình, là cái phần nghĩ, sau khi bố trí sự kiện.
(Một lúc khác) Khi mà viết cái Hà Nội, tôi toàn đưa tài liệu thôi. Vì cái phần không khí, mình làm được, mình không sợ.
Giữa các đồng nghiệp
Những người già và những người trẻ khác nhau thế nào? Tôi chỉ cảm thấy tuy cũng thuộc lớp trước, nhưng ông Châu vẫn trẻ, không phải là chỉ hay cười đùa đâu, mà là bao dung được lớp sau.Với những tay như Vũ, ông cũng chịu được. Lưu Quang Vũ: Nguyễn Minh Châu là cái ông lớp trước duy nhất mà bọn trẻ không nói xấu, mà còn muốn đến gặp.
Nhưng NMChâu cũng già lắm. Gu cổ điển. Hay kêu cái sự lươm tươm của Khải. Hay khen những thứ trong vắt lấp lánh của Đỗ Chu. Không chịu được Lỗ Tấn cho là nó là kiểu cùng đường. Không thích những người xông vào nói trực tiếp trong truyện. Ví dụ như Nguyễn Minh Châu không sao chịu được Nguyễn Khắc Phục.
(Viết bài điểm sách cuốn bút ký Cửa Thép của Nguyễn Khoa Điềm): Thằng này tả giỏi lắm, nó có cái thứ tự như những yếu lĩnh xạ kích vậy. Tôi viết tôi toàn trích những câu hay thôi (vừa trích vừa chữa!) Để dạy cho những thằng như thằng Nhị Ca nó biết rằng phải viết phê bình như thế nào!
Viết về cái nghĩ khó lắm. Viết như ông Nguyễn Trung Thành đã đành là cải lương quá. Ngay viết như Nguyễn Thi cũng không ra sao! Nhân dân họ nghĩ ngổn ngang hơn nhiều cơ.
Dưới con mắt của mọi người
Tào Mạt Nguyễn Đăng Thục:
-- Vốn của Nguyễn Minh Châu về văn học cổ không nhiều lắm đâu, cho nên văn viết không được cô đọng lắm (Nguyễn Minh Châu: Tôi cũng công nhận thế).Cái tư tưởng hoài nghi ở Nguyễn Minh Châu hơi nặng, tôi đã phải bảo mãi.
Nhị Ca (đọc Quê người lính):
-- Ông Châu khi nào nói về những bi kịch trong gia đình thì rất giỏi. Nhưng khi nào mở rộng ra, nói về những vấn đề xã hội, thì lại không được
Mai Ngữ:
-- Ông Châu viết hồi trước còn ngu ngơ lắm cơ. Đưa sang Văn học tập truyện ngắn mang sang từ hồi hoà bình, nó có in cho đâu. Chính chiến tranh đã nâng ông Châu với ông Thiều lên đấy chứ.
Khải:
-- Ngay sau khi in Cửa sông, mới đây thôi, nó còn không muốn in truyện ngắn cơ mà. Căn bản đối với một người viết là việc tuyên truyền. Hồi Cửa sông nhớ, tôi đến tôi xem xong, tôi cứ giục: Tội gì mà không viết thêm. Rồi tôi ra ngoài tôi quảng cáo cho.
Có lần, tôi túm lấy ông Như Phong, nghĩa là trước NMChâu bọn chúng tôi cứ xê ra hết, xê ra hết tôi bảo vậy. Như Phong mới dặn về giữ lấy rồi thả nào cũng đưa cho tay ấy cơ mà.
… Văn của Nguyễn Minh Châu rất chông chênh, có những chữ những đoạn mà lỏng tay một chút thì thành cải lương ngay, ví dụ như cái Mảnh trăng cuối rừng đấy. Ở nhà này, Hồ Phương là người văn đã có mặt (những cái như kiểu Hoa cúc vàng đấy). Hữu Mai viết lộn xuôi lộn ngược, khi ra vẻ chính trị, khi ra vẻ trữ tình, nhưng vẫn không có nét mặt riêng.Xuân Thiều là người cố hết sức, nhưng Hồ Phương chưa cố. May ra, sau cái Dấu chân người lính này, Nguyễn Minh Châu cũng có nét mặt.
Vẫn Nguyễn Khải:
- Khi ông Ngọc ông ấy cho ra mấy cái truyện ngắn về sau in vào Rẻo cao thì tôi không sợ nữa. Pồn viết sau khi đọc Người nhạc sĩ mù của Korolenco. Mạch nước ngầm lấy cảm hứng từ Ổ gà của Tendriakov.
Tay Kiên mấy năm nay nhiều chỗ hơi cằn rồi.
Bây giờ đợi Châu xem sao. Có một cái là ông ấy phát triển rất hợp quy luật đấy. Cho nên đối với tôi bây giờ không phải Hội nhà văn, mà chính là cái nhà 4 Lý Nam Đế này với lại bọn trẻ các ông mới là quan trọng.
Khải: Từ Mảnh trăng cuối rừng, tôi bắt đầu nghi ngờ ông Châu. Lại tả cảnh, lại làm duyên. Cái Phi vừa rồi cũng thế. Cửa sông chủ yếu viết về một cái gì chung (ý thức độc lập tự do). Hồi ấy, đó là một vấn đề người ta băn khoăn. Bây giờ khác.
Nghiêm chỉnh mà nói NMChâu bây giờ phải nhanh chóng bỏ qua cái bản năng và lo cho mình một cái quan niệm về xã hội. Anh không thể cứ đùa mãi như thế được. Anh phải có hướng. Nếu không, có thể từng mảng từng mảng anh giỏi, anh xôn xao, nhưng lúc lắp vào, anh lại lắp ra một cái gì giống mọi người hoặc nếu lắp theo kiểu của anh, thì lại hỏng.
Chất liệu chiến tranh
* Những vấn đề ở bãi tha ma Mỹ ở Tà Cơn với lại ở những đơn vị trinh sát, thích lắm.
Nói cho cùng thì Nguyễn Thi nó đi, nó cũng mới viết về chị Út, về nhân dân. Còn những mảng thật là lính chưa ai viết. Chất lính nó có một cái gì dữ dội. Chất lính ở đường 9 nó lại có một cái gì đó lộn mù lên – Cứ viết riêng về thằng lính đã đủ thích lắm rồi. Nhưng mà có những chỗ phạm huý, toàn phạm huý cả.
Ở cái Đuờng 9 Khe Sanh ấy, mình với nó như là anh anh cắn nhau, ngoạm vào nhau một miếng rổi lại bỏ ra rời ra…
–(với Mai Ngữ):Viết chiến tranh phá hoại mà cứ phải bắn súng lên, bắn súng xuống thì chán lắm rồi. Trong chiến tranh phá hoại bao giờ cũng phải thêm những chuyện nội bộ nữa vào thì mới thích.
Hồi ấy tôi viết Cửa sông cũng cứ vừa viết vừa nghĩ, viết đến đâu nghĩ tiếp đến đó. Sau này tôi mới nghĩ ra cái kết như thế.
Có một hồi thằng Chu còn bị các ông ấy bịp, chạy theo vấn đề nọ, vấn đề kia. Tôi chẳng cần những chuyện ấy. Thằng viết phải để cho vấn đề nó nhuốm vào trong truyện. Cứ viết đi rồi tự nó những vấn đề nó sẽ nổi dậy
– Đúng là tôi muốn viết những gì có tính chất bền vững lâu bền. Như viết về chiến tranh, hãy viết về những bà cụ bán hàng, những bữa cơm người ông tiễn đưa cháu.
Giữa văn chương và thực tế
( NMC đi nói chuyện với CAND vũ trang) Tôi có khuyên mấy thằng là việc gì phải đi đâu, các ông cứ nói cho kỹ cái nơi đang sống. Như viết về đồn biên phòng, về cửa Ba Lạt chẳng hạn
– Như thế là tiểu thuyết phong tục rồi.
– Thì văn chương mình bây giờ cũng chỉ ăn ở cái phong tục
-Chu nó giỏi nhất vẫn là về những chủ đề hậu phương
-Cái phần văn học nhất, xưa nay, cũng là về hậu phương chứ là gì?
(Nói về lụt)
Khải: Thế là mình dự đoán về lòng người về thiên nhiên đều sai cả, trái quẻ cả.
Châu: Cái phần trái quy luật ấy chính lại là quy luật.
(nói về thơ Duật Những cánh rừng không dân). Những đoạn như đoạn lục bát nó hay đấy, nhưng cũng là cũ, nó là cái giai đoạn ông Tố Hữu ông ấy viết rồi. Phần đầu của Duật nó mới hơn. Tôi vẫn ưa cái gì khái quát.
Khải: Ông Duật kêu lên những câu hỏi nhân loại mà thấy như ghép ở đâu vào. Bây giờ những kiểu viết sát sàn sạt vào thực tế, có khi lại không thực tế. Còn lối viết như của Đỗ Chu trong Ráng đỏ, nó có vẻ như không liên quan đến hiện thực, nhưng lại hiện thực…..Dấu chân người lính có những chỗ rất là thích, cảm thấy người viết nói hết được mình đấy.
Châu: Nhiều vấn đề chỉ không nói nữa thôi, chứ mình đã chuẩn bị cho đầy đủ rồi.
Tôi ngồi tôi đọc mấy cái truyện của bọn miền Nam: một người trước khâm phục kháng chiến nhưng cuộc sống trôi nổi vẫn ở vùng tạm bị chiếm. Sau những ngày đất nước chia cắt, bây giờ nghĩ về những người lính giải phóng, thấy hình như không gặp được ý nghĩ của họ, tức là chợt thấy cánh giải phóng đó là không sao hiểu nổi.
… Mấy thằng nó viết dung dị quá, và mình chợt thấy sợ hãi. Khéo nó sẽ có những cái còn lại với lịch sử. Mà những cái mình viết hôm nay, chẳng còn gì cả.
Có những khu vực mà nếu tôi viết, mình sẽ thấy còn lại – ví dụ như tiểu đoàn cao xạ Nguyễn Viết Xuân, ví dụ như Hà Nội, như những chuyện thuộc về những cái ngàn năm của đất nước mà ông vẫn nói với tôi bấy lâu. Còn như những chuyện hôm nay, mình phải coi chừng. Hôm nọ tôi đi Vĩnh Linh, tôi có cảm tưởng rất hiểu khu vực sông Hiền Lương, nhưng đến hôm nay, nghĩ lại, thì tôi lại cảm thấy đó là cái phần mà mình không nên động tới, dù thế nào thì mình cũng không nên động tới.
Tồn tại cách nào?
* Người viết bây giờ cứ phải một câu trung, một câu nịnh một câu nói giống mọi người thì mới được một câu nói khác mọi người.
Cứ bảo cánh miền Bắc mình viết giỏi. Miền Nam nó viết, câu chữ của nó chỉnh lắm.
Bây giờ thì mình chỉ viết kiếm tiền. Chả làm danh nhân danh tướng gì. Danh nhân đã hàng đống đầy đường ngoài kia. Hoặc là bây giờ mình chỉ phục cái loại nó cứ dai nhằng nhằng.
Tôi viết cái Dấu chân người lính này có cái gì quyết liệt lắm. Các nhân vật của tôi đều đang đi tìm đi tìm mình, kể cả những nhân vật đã chững tuổi.
Hôm nọ tôi đi xem gặp lại Nghiêm Kinh (nguyên mẫu của nhân vật Kinh trong Dấu chân người lính-- VTN chú), thì lại chán quá. Hoá ra nhân vật trong văn học bao giờ cũng là phần tưởng tượng ra, chứ không phải là phần có thật trong đời. Thực ra, tôi chỉ nói chuyện với ông ta có một lúc, vào khoảng từ 7 giờ đến 8 giờ tối, nói những chuyện đâu đâu ấy, rồi thôi. Lính nó nói về ông ta cũng toàn những chuyện không đâu vào đâu)
Viết của mình bây giờ, nó giống nhau, nó đều như là ký cả. Nhưng thật ra ký viết rất khó. Ký phải bố cục thế nào đó lớp lang chừng mực, tả những cái đáng tả, viết những cái đáng viết… Vì thế cho nên viết tiểu thuyết có cái dễ của nó. Mỗi tiểu thuyết có cái khung truyện,tức tự nó, tự số phận của nhân vật có vấn đề của nó rồi. Ví dụ như tôi nghe chuyện một thằng lính về phép xong, đến Hà Nội thì bị mất cắp, chỉ còn cái ba lô, ngồi vườn hoa tính chuyện quay về đơn vị thế nào đây. Thế mà không hay à?
Những chỗ chênh vênh mới là chỗ khó
Nhàn: Cái tên Ký sự giữa hai bờ đất hay đấy.
Châu: Tôi định viết về những người viết văn đến cái mảnh đất Hiền Lương này, nhưng mà không viết được.
Nhàn – Viết cứ lung tung như thế mà lại hay
Châu – Cũng phải tài giỏi lắm mới lung tung được, chứ có phải bỡn!
Tôi tự hỏi không hiểu sao, ngay từ hồi đọc cái truyện Người về đồng cói của thằng Lựu, tôi đã không thích. Sau mới hiểu ra: tại vì trong truyện ấy, nó nói về một nhân vật cứ làm lung tung cả lên. Thực ra, không nhân vật nào có thể làm lung tung như thế được.
Truyện của chúng ta bây giờ hoặc là công thức, hoặc là bắt chước nước ngoài. Nhưng cái ấy của thằng Lựu vừa công thức, vừa bắt chước nước ngoài, thì mình chịu làm sao nổi được. Trong truyện ấy của nó, chỉ có mấy đoạn nói về cói là ra văn học.
Trong Dấu chân người lính ngoài cái phần viết như mọi người, về lòng yêu nước và lòng dũng cảm, thì còn có cái phần này, tôi muốn viết về sự xao động của cả một thế hệ trong cuộc chống Mỹ cứu nước.
Nhân vật chính, kể ra chỉ được thằng Lữ. Tôi ngồi tôi viết mấy đoạn về tay chính trị viên văn công, rồi bọn văn chương. Mình nghĩ: không biết mình viết cái phần này làm gì nhỉ? Không biết dựa vào đâu để viết những ý nghĩ ấy? Nhưng sau tôi nghĩ ra: đó chính là một phần những quan niệm của thằng Lữ.
Quyển sách đến gần 500 trang. Mình viết ra nó cứ dai như đỉa. Lạ thế không biết! Mình không ăn ở sự sâu sắc, chính là ăn ở cái phần dai như đỉa ấy.
Sự đa dạng của chiến tranh
–(với Quang Thọ) Mình vẫn cay cái món Hà Nội, nói chiến tranh là cần, nói mọi thứ là cần, nhưng vẫn cần phải tìm cái chiến tranh, cái mặt trận ngay trên một khuôn mặt thằng lính bây giờ, trên khuôn mặt một người dân bây giờ. Mình nhớ nhất là cái năm 1967, trong cái mùa hè nắng cứ dựng lên, mặt người nào cũng được phát tán không khí, mặt người nào cũng rực cả lên. Tại sao chúng mình không nói được những cái đó nhỉ?
Phải bình tĩnh mà sống, là một thằng viết, phải bình tĩnh sống với những ngày hôm nay, cái cuộc sống hôm nay không thể nào khác được. Những cái lạ, anh không biết, nhưng có khi những cái chung quanh mình, anh cũng không biết.
Còn như bây giờ cho tôi mà đi vào nhà máy nào đấy được ít ngày, tôi cũng viết được. Căn bản là phần mình.
Không có nhà văn riêng của đề tài nào cả. Càng những thứ lạ, lại càng dễ viết.
Quang Thọ:Đã đành là thế rồi. Một khuôn mặt không vẽ được. Mà đến cái nắng trên trận địa càng không vẽ được, thế mới ức chứ.
Nguyễn Minh Châu: Ông Nguyễn Thi toàn viết về phụ nữ mới lại trẻ con. Tôi cho cái đó không giỏi. Cái giỏi chính là phải nói về những người đàn ông cơ
(Sau khi nói về gầy lửa) Cái khó ở đời là một mình nhen lên được một ngọn lửa giữa đêm đông, khi niềm vui và sự ấm áp đã có thì khắc có người tới bên mình, chẳng phải đợi
– Cái chết bao giờ cũng có hình thù và mỗi người ngã xuống đều có một câu chuyện.
Phải biết thỏa hiệp
Nhàn: Tôi thấy cái kết cấu Dấu chân người lính của anh làm hỏng cái xu thế toát ra từ những mảng sống trong truyện của anh. (Tôi không muốn nói rõ hơn: cái kết cấu ấy có vẻ “nịnh đời “ quá)
Châu: Sự thực là từ khi tôi viết dở quyển Dấu chân người lính này, cũng như khi tôi viết xong, nhiều ông ở tổ sáng tác đều có ý lo cho tôi, không khéo tôi viết đã càn, lại hung, làm các ông cháy thành vạ lây thì khổ. Cho nên chính tôi cũng sợ. Cái chất láo nó đã có sẵn trong con người mình rồi, đến lúc nào đó tự nhiên nó bột phát. Nhìn vào cái phần cuối. Giải phóng rồi thằng Lữ thì chết, cô Xiểm lại trở về với thằng chồng cũ. Mọi thứ đều vữa ra. Giá kể đào kỹ vào không hay à ?
Nhưng mà thôi, văn chương bây giờ nhảm nhí quá. Lắm lúc mình nghĩ may lắm thì văn chương bây giờ làm được cái phần việc như Tự lực văn đoàn ngày xưa nó làm, tức là làm trong sáng tiếng nói, làm đẹp thêm cho tiếng nói.
Tiêu chuẩn để xét một nhà văn, với Nguyễn Minh Châu, là ngôn ngữ.
Nói về Nhị Ca: Cái thằng ấy đặt câu không nên.
Nói về Xuân Thiều: Thằng ấy hay mang vào văn học những chữ của tiếng nói hàng ngày, ví như tiếng ông bà ông vải… Còn như ông Nguyễn Tuân, ông này làm cho tiếng nói nhiều khi trở nên mách qué.
Trong một lúc tự thả lỏng:
–Trên mà giao cho mình làm một bộ từ điển mình sẽ bỏ hết những từ chính trị trong văn chương.
Ghi trong chuyến đi Vĩnh Linh
* Những xu hướng chính trị đang xô đẩy chính kiến và tình cảm của con người, nhưng chưa đến lúc nói đến những xung khắc về chính kiến, văn học hôm nay hãy nói đến những giằng xé về tình cảm, chỉ làm được việc như vậy đã khó.
Con người là vật tượng trưng của sự bất lực, hay nói đúng hơn, sự bất lực của mọi nỗ lực của con người, và đừng nên buồn vì điều đó. Cái quan trọng là không bao giờ nên để rơi mất những khát vọng và hy vọng. Chủ đề của tất cả những sự kiện mà tôi đang sống chính là sự thất bại của những khát vọng. Dần dần con người còn tiến đến thực dụng.
Viết về chiến tranh từ xưa đến nay, vẫn là giải quyết cái này. Giết người? Giải thích con người giết người. Anh giết một người: Anh là ai — con người bị giết là ai?Lòng căm thù, động cơ của sự giết người là một phạm trù của tình cảm hay phạm trù lý tính?
Cái nguy hiểm của chủ nghĩa tình cảm ở chỗ nó như một đám lửa. Vẻ đùng đùng bề ngoài che lấp mất cái gì đó sâu bên trong, cái gì đó đang khiến cho ngọn lửa bốc cháy. Nhà văn cần đề cao lý trí trong tác phẩm.
Những cái muốn viết
4 LNĐ một buổi tối mùa đông 1972, tôi và NMChâu đi ra phố
-- Sau này, tôi chỉ muốn viết về những cái chết, những chuyện bất đắc kỳ tử, cũng như những cái chết trong chiến tranh — muốn viết về một cái gì như là gió ông cụt ở Vinh, cái gió nó xoáy người, xoáy cả đồ vật.
Những linh hồn chết theo cơn gió xoáy đó đi tìm đầu hồn của mình. Nó lật tung cả cái nhà của tỉnh uỷ Nghệ An lên để tìm.
… Chính tôi, tôi cũng sợ cho cái lung tung của tôi. Chính cái thành phố Hà Nội tôi cũng cảm thấy lạ.( Đỗ Chu nói đùa: Chắc là ông Châu mà sang Liên Xô thì thấy nhiều chuyện lạ lắm. Mường đi Tràng An mà lại)
Sau này, hoà bình, tôi sẽ tha hồ đi và viết bút ký . Còn đi nước ngoài, thì chỉ có đi Lào.
Bây giờ người ta phải viết tiểu thuyết thôi, tiểu thuyết thì còn có chỗ trốn. Còn như bút ký, người viết cứ phải trần ra trước mặt mọi người. Viết tiểu thuyết như làm một thứ búp bê, cho nó đứng ra trò chuyện với mọi người. Còn như viết bút ký, tức là anh lôi người ta đến trước cửa nhà anh, anh phải đứng ra dàn xếp mọi chuyện. Cái đó khó lắm. Nhưng mà nếu tình hình yên yên, với lại nếu được viết một cách rộng rãi xem, thì tôi sẽ đi, tôi viết ký.
Trong những ngày này, tôi chỉ muốn viết về cái gì đẹp. Tôi cảm thấy tôi cũng khá nhạy cảm về những chuyện này, thế thôi
*Cái tập mới này của tôi – Lửa từ những ngôi nhà –– sẽ viết về những chuyện vơ vẩn trong chiến tranh, sẽ làm cho người ta cảm thấy chiến tranh len vào khắp mọi chuyện, khắp mọi con người. Chiến tranh là cả một vấn đề xã hội chứ không phải chỉ là công việc của mấy ông lính
Nếu có ai đặt, có thể mỗi ngày tôi viết được một truyện ngắn. Sẽ viết truyện ngắn Người đóng vai nói về Huy Du và vợ. Vợ học nước ngoài về, ông ta phải nhuộm tóc, sửa quần áo làm cho người trẻ lại — cứ phải đóng một vai khác mình như vậy.
Viết truyện ngắn Những vụ tự sát không tiếng súng. Một người ngày nào cũng nghĩ chuyện thành một người gì đó khác mình — Phải quan tâm tiêu diệt thằng người cũ trong mình. Nhưng ngày mai, lại con người cũ trở lại.
… Tôi nhớ tôi đọc một cái kịch gì đó — hình như Caragula — của Camus, viết về một bạo chúa giết cả người yêu của mình. Tức là con người ta cũng ma quái lắm.
Châu: Nhà văn mình lắm lúc chả biết viết cái gì. Sau chiến tranh, có viết về sự chán ghét, sự ghê tởm, thì người ta cũng đã viết đủ rồi.
Nhàn: Hãy viết về sự man rợ.
Châu: Thế mà cũng đòi lên Xã hội chủ nghĩa!
Người và nghề
* Nếu tôi viết cho ông một bài lý luận bây giờ, tôi sẽ viết sự mệt mỏi của nền văn nghệ tuyên truyền.Tôi cũng có thể viết cho ông một số bài về nghệ thuật tôi thích.
Đọc Evtuchenco. Nó viết điên thật đấy nhưng mà hay. Cả Việt Nam chả có người nào có được tư cách như chính tay này. Tất cả cái Hội nhà văn của mình.
–Thực ra mình cũng cố gắng làm sao để viết ra cho nó in được, in hết quyển nọ đến quyển kia, thế là thích rồi. Tình hình này thì khó làm những cái hay. Với lại có lúc đột xuất quá, thì cũng có lúc chìm đi. Như Phạm Tiến Duật, rồi cũng có lúc chán chứ. Tôi sợ lúc lên quá, rồi lúc lại xuống quá.
– Xong quyển Dấu chân người lính này, quyển sau tôi phải nghĩ kiểu viết cho nhanh hơn. Tức là làm một kế hoạch tỉ mỉ một chút !
… Dạo này, nhà xuất bản Văn học nghe cũng đã thiếu bản thảo thì phải. Thằng Huy Phương đang bảo tôi mang bản thảo sang. Thế mới biết mình viết đứng đắn thì cũng không thiếu gì nơi dùng, những thằng viết được ở mình có mấy?
… (Đùa): Cố viết lấy mấy quyển đầu, cho nó có cái tên; những quyển sau, thả nào cũng in được thôi. Nhà văn là một người làm bạc giả, đưa bạc giả cho cuộc đời, rồi lại thu về bạc thật, là những đồng tiền.
Về các đồng nghiệp
* Những câu văn của ông Tuân, ông Tô Hoài, có cái gì nó không hợp với thời đại lắm — mặc dầu nó đã rất cố gắng vặn vẹo trong đó.
Dạo này tôi chỉ toàn ngủ. Viết căng quá ròi, cứ phồng căng cả lên, như cái bánh đa nướng ấy, mệt lắm rồi, muốn viết thật buông thả, thật thoải mái xem như thế nào.
Xem quyển Đời viết văn của tôi, thấy ông Hoan ông ấy giỏi lắm. Ví dụ như ông ấy nói rằng từ bé tôi chẳng coi chuyện gì là quan trọng cả. Mình cũng nghĩ thế, nhưng mình không nói được thế. Hay là một chương trong cuốn Bước đường viết văn cũng vậy. Ông Nguyên Hồng ông ấy tả cái nghèo thì nhất.
Xuân Thiều lúc nào cũng như một thằng trung nông. Xuân Sách giống như một thứ dầu nhờn. Còn những lão ở ngoài kia, tôi cũng chẳng kính trọng lão nào cả.
(Nhân nghe ông Thanh Tịnh kể chuyện) Ông này bốc phét ghê lắm. Họ cũng không còn sống chết gì với nghề nghiệp này, không còn sức sống gì nữa. Cả ông Nguyễn Tuân ngoài kia cũng thế. Lão Tô Hoài thì viết ở lời mở đầu Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ: Tất cả đều là sự thật(!!!). Cả cái hội nhà văn của mình như một lũ chó hục đầu vào chậu cơm duy nhất đó.
Từ trước tới nay tôi cũng không bao giờ bị cay cái gì. Sự thực tôi cũng chưa thấy tay nào nó viết vượt lên mình cả. Còn như trao đổi nghề nghiệp cũng chán. Chỉ có lão Khải nói tạm nghe được còn những lão khác, có bao giờ nói được cái gì ra hồn đâu. Những loại Hồ Phương, Hữu Mai, Hải Hồ, Xuân Sách chưa phải là nhà văn, viết văn không ra hồn (Ccus âu của Xuân Sách cứ cảm thấy không được chững chạc. Còn câu của ông Hải Hồ thì lại rất chênh vênh)
Về thơ Lưu Quang Vũ
Mấy ngày trước gặp Vũ, Nguyễn Minh Châu: Cái xô bồ cũng có phần đơn điệu.
Hôm nay lại bảo:
Thằng này đúng là thằng tài hoa thôi, nhưng nghĩ lại thì cũng thấy nó nói lung tung không đâu vào đâu
Thơ căn bản là hình ảnh, nhưng mà cứ làm xiếc vậy thôi, rút lại thì chính hình ảnh không đủ.Tôi thấy nghe nó đọc cũng mệt, đọc bằng mắt còn mệt nhiều. Đọc bằng mắt phải dàn mặt với từng chữ một Cứ thế này mà đọc 3000 câu thì chán lắm.
… Vũ sao lại so sánh với Evtuchenco được. Thằng kia nó thực sự cầu thị hơn chứ. Vũ không thực sự cầu thị lắm.
Tôi thấy văn thơ các ông ấy( Đỗ Chu Lưu Quang Vũ), đặt ra vấn đề này: Tức là người ta sống thật với văn chương như thế nào. Vì nếu người viết nói dối, cái nói dối này tiếp cái nói dối khác, rồi cuối cùng thì người đọc cũng biết. Phải sòng phẳng với văn chương lắm. Cái sòng phẳng ấy, cũng tức là cái chân thật. Ông phải tự hào rằng nhiều cái ông không bằng chúng nó, nhưng cái phần ấy, ông lại hơn chúng nó. Hay như tôi chẳng hạn. Tôi thấy rất nhiều người thích tôi, cả những tay bên báo QĐND nó cũng thích tôi, có lẽ là ở cái phần ấy có cái phần ấy thì đôi khi, mình có nói lếu nói láo một chút, người ta vẫn có thể nghe được.
Ở nhà này, những ông Phương, thằng Sách, cả ông Khải nữa, đều thiếu cái đó. Ông Thiều có cái đó, nhưng lại thiếu tầm cỡ.
(còn tiếp)
Published on December 10, 2015 18:47
Nguyễn Minh Châu 1968-1973 (phần I)
Khi mới được chuyển về tạp chí Văn Nghệ quân đội, tôi thường có dịp trò chuyện với Nguyễn Minh Châu như một đồng nghiệp. Sau này khi ông đã nổi lên với Dấu chân người lính, sự thân thiết đó nhạt dần đi. Nhưng quả thật lúc đó, khoảng trước sau 1970, phải nhận là ông mến tôi, có chuyện gì cũng kể với tôi. Ấn tượng để lại trong tôi sau các buổi nói chuyện này sâu đậm tới mức tôi phải thường xuyên ghi chép trong một cuốn sổ riêng.
Dưới đây là những suy nghĩ của nhà văn về nhiều vấn đề nghề nghiệp mà tôi đã nghe và ghi được. Mỗi lần đọc lại, tôi vẫn hằng tin rằng ghi chép này không chỉ có ích cho những ai muốn hiểu về tác giả Dấu chân người lính mà còn là những gợi ý để cùng hiểu về một lớp người viết văn và một giai đoạn văn học.
Một trong những bài phát biểu nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu trước khi qua đời là bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa .
Theo tôi đó là một ý tưởng ông đã nghiền ngẫm từ lâu. Vậy mà khoảng đầu 2000, trong một hồi ức về Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyễn Trung Thu có kể lại một chi tiết.
Đó là bên giường bệnh, nhà văn có mấy lời nói lại về bài này.
Anh tâm sự: “Ông ạ, tôi nói cả một giai đoạn văn nghệ minh hoạ và hãy đọc lời ai điếu nó là hồ đồ. Phải nói, dù còn nhiều cái cản trở sự sáng tạo, nhiều cái dở đấy, nhưng không ít tác phẩm văn học – nghệ thuật của ta bấy nay cũng được lắm, hay lắm, cũng thật lắm chứ!
Có minh họa đi chăng nữa mà được vậy thì cũng tốt chứ sao, không thể lờ quên nó được. Nói thế là bạc với đóng góp tâm huyết của anh em mình, kể cả của những người quản lý nữa – nhất là của anh em mình từng bỏ bao công lao, cả xương máu nữa làm ra nó”.
Tôi nghĩ rằng những lời lẽ này là đáng tin.
Nó làm chứng cho một tình thế có thật trong tâm lý những người viết văn.
Đó là mỗi chúng ta thường xuyên mâu thuẫn, có khi vừa nghĩ song lại phủ nhận ngay ý nghĩ của mình.
Thành thử khi xét cả thời gian dài, những nhà văn thân yêu thường hiện ra không phải chỉ có một mà qua nhiều hình ảnh khác nhau.
Với Nguyễn Minh Châu cũng vậy.
Dưới đây là hình ảnh ông qua những câu chuyện với tôi trước sau 1970, khoảng 1968-1973.
1968-72 –Thời gian viết DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH
Viết lách bao giờ cũng khó
(Đi Quảng Bình về) Giá kể gia đình mình ổn ổn thì mình ở luôn trong ấy mà viết cho xong. Lắm lúc nghĩ không nên trách thằng nhà văn Việt Nam bất cứ một điểm gì vì nó đã khổ quá. Nghe Bằng Việt bảo tình hình này truyện khó, thơ cũng khó, mình phải nói ngay: Tôi thì tôi cảm thấy thơ bao giờ cũng có cái khó của nó, nó có cái gì ma quái lắm.
Bây giờ người ta cho mình viết bằng cái quyển sách, mà mình muốn viết bằng được cái bàn này này. Cho nên, mình phải lựa mà viết cho hết. Nhưng cũng nhiều lúc phát chán.Tôi với ông Khải bàn nhau, bây giờ làm sao cho nó mùi là được.
Phải viết chiến tranh theo cách của mình
Tôi định viết một cái gì như là bà mẹ và viên tướng. Anh lính và viên tướng cùng làm công việc quân sự cả. Nhưng người lính thì làm vì nhiệm vụ, ông tướng ngoài phần trách nhiệm lại có phần nghề nghiệp của ông ấy nữa, cho nên có lúc ông ấy quên cái phần vất vả của chiến tranh đi. Trong một trận chiến đấu, ví dụ bao giờ nó cũng có tính trước số thương vong, sau đó, trên cơ sở dự tính thế mà khớp lại xem mình dự tính tài đến mức nào. Có những ông tướng căng cả óc nghĩ về cái mức ấy. Bây giờ phải có một người mẹ người tốt dạy lại cho ông ta, thì ông mới hiểu được.
Ông tưởng tượng đoạn đối thoại ấy có ghê không?
Mấy chục năm nay, xã hội mình toàn những người đi buôn cả. Cứ tìm tiểu thương ở đâu, tiểu thương ở ngay trong tư tưởng anh ấy, diệt làm sao được. Mình đi bộ từ đây xuống Bờ Hồ, qua mỗi hè phố lại thấy bà bán ngồi chồm hỗm, hỏi anh có gì bán không. Tưởng tượng chính là những người từ trong những hố cá nhân tránh mảnh bom kia mọc lên đấy, nó có bị giết thì tự nó lại mọc lên một cái đầu.
Mình vào Quảng Bình, thấy kể chuyện người ta háo hức đón đoàn mặt trận miền Nam, kêu lên với nhau rằng sao đến miền Bắc mà đoàn lại không vào Quảng Bình, và giá có vào thì người ta sẽ tiếp đón linh đình lắm. Trong khi ấy thì những thằng lính ở đường 9 Khe Sanh ra mặt xanh nanh vàng, húp bát bún con con trả đồng bạc vẫn khen rẻ mà chẳng ai quan tâm cả. Chính bọn ấy mới là đại diện chân chính của miền Nam.
… Lại nghe nói đâu Trung ương có ý định bảo Hà Nội để lại một khu phố, để sau này, khách phương xa đến, làm nơi tham quan về những tội ác của địch. Mãi sau, một thằng nó phải bảo: Thôi, dân mình khổ đã nhiều rồi, cốt sao ông cho họ cái nhà họ ở đi cho chóng, còn làm gì mà phải xoay ra thế nữa.
… Người ta buôn bán ghê lắm, người ta buôn bán mọi thứ. Cả xã hội đi buôn. Nói thế mới gọi là vấn đề của văn học chứ!
Gửi gấm gì vào “Dấu chân người lính”?
– Tôi sẽ viết cho nó mùi, cho nó nhiều chuyện lắt léo một tí. Nhưng cái chính mình muốn viết là một thế hệ lớp trước và một thế hệ thanh niên bây giờ. Có một chương các ông cán bộ ở một trạm giao liên mới ngồi bàn về bọn con cái của mình, mình muốn dạy song nó chán nó chỉ muốn truồi ra khỏi bàn tay của mình như thế nào.
… Chính ra đây là quyển 2, quyển ở chiến trường. Còn quyển 1, một thằng về hậu phương mình lấy quân, nó mang tất cả không khí hậu phương, của Hà Nội, của công trường 800. Nếu 2 quyển này trót lọt thì mình sẽ có một nhát chổi quét thẳng từ Nam đến Bắc.
Không biết có hay hơn so với Cửa sông hay không, nhưng mà có cái chắc rằng các nhân vật của nó khác, vấn đề của nó khác.
Hôm qua 12 giờ đi ngủ, rồi đến 2 giờ lại lục cục dậy. Mình không sao ngủ được. Cảm thấy như bao nhiêu linh hồn lính nó ốp đồng vào ngòi bút mình vậy..
– Tôi viết về sự nhận thức, nhận ra nhau của hai thế hệ. Trong tình hình hiện nay, chỉ có thể thấy hai bên đều quý nhau, phục nhau, sợ nhau.
Nhưng mà nói chung là thế hệ mới sẽ làm cho thế hệ trước ngạc nhiên. Tôi phải để cho một ông cỡ cán bộ Trung đoàn làm thơ để cho nó sợ, không có nó cứ tưởng văn nghệ là linh binh. Nhưng chính nhà thơ này lại mê một tay chiến sĩ quá chừng, nhà thơ bỏ ông bố cán bộ trung đoàn để quay về với đứa con, theo nó đi khắp mặt trận.
… Chính trong lúc viết, mình có dịp kiểm điểm lại con người mình, sự từng trải của mình, học vấn của mình xem chỗ nào thiếu, chỗ nào tạm được.
Đưa những kinh nghiệm hàng ngày vào trang sách
– Người viết như kẻ làm công việc xả thân. Phải lấy tất cả các việc ra để tính toán, lo liệu lấy cho mình. Không có gì là bỏ đi, không có gì là thừa.
Lắm lúc tôi ngồi canh cháo cho con cũng nghĩ được những ý nghĩ hay đáo để, chỉ hiềm lúc khác mình lại quên biến đi mất. Ví dụ như mình nghĩ các thế hệ cứ tàn phá nhau, thế hệ con mình nó ra đời là nó phủi bố nó đi, mất bao nhiêu là sức lực của bọn mình. Thế rồi thế nào? Thế rồi mà đâu vẫn vào đấy.
– Tôi rỗi tôi sẽ ngồi viết co ông những loại bài nghĩ về nghề. Mình là thằng không có lý luận gì hết, nhưng mình biết cách nói về những điều mình có sẵn, thế là được rồi.Tôi sẽ nói từ phong trào hiện nay, sẽ nảy sinh ra những thằng viết trẻ thế nào. Tôi sẽ nói rằng nhà văn cần phải biết khai thác hết những khu vực mình sẵn có, nó là những miếng đất hoang trong người mình. Làm gì phải đi cho lạ lẫm thêm. Mình đã viết về mình đâu?
Tôi thích gửi vào văn chương những cảm xúc trong con người mình. Một lần, tôi đưa mấy đứa con đi xem, rồi lại quay về nhà. Bóng mình đổ vào bóng cái cây đằng trước rồi cứ xa dần đi. Tôi lại ngồi tôi ghi ngay được một đoạn Mình nghĩ về những người tốt, họ tản mát khắp nơi, có phải bao giờ cũng gặp nhau đâu.
Theo Quang Thọ(họa sĩ) thì ở NM Châu có cái khả năng kích thích người khác nói thực. “Trông thấy cái mặt thằng này, là lại không làm sao mà giấu được mọi ý nghĩ thực của mình”.
Có lần NMChâu nói với Quang Thọ:
– Lắm lúc muốn chết mẹ nó đi, vợ con gia đình nheo nhóc, thân mình cứ như thân con lừa con trâu kéo cày giả nợ. Nhưng rồi lại nghĩ thả nào trong quyển sách sắp tới, cũng phải tương vào một ít đoạn nói về nỗi khổ của con người để báo thù mới được.
… Tôi sẽ cố gắng bằng mọi cách, đưa ra những đoạn quan trọng, ví dụ như đoạn thằng Lữ này nó qua sông Bến Hải như thế nào, thằng này nó nghĩ về miền Nam, về đất nước như thế nào! Bằng cách nào cũng phải đưa vào chứ.
Nhàn: Nhân vật Khuê thì nhiều người viết được. Nhân vật Lữ của anh là hoàn toàn của anh, là một sự nhận thức của người nghệ sĩ trước cuộc đời.
Châu: Đúng thế, ở cuối sách, mình sẽ viết về một đám bộ đội. Họ ngồi hát những điệu hát của quê hương, thằng Hà Bắc, đứa Nam Định. Và Nhẫn với thằng Khuê đi qua, nó sẽ quát cho một hồi, bắt tất cả bọn kia im. Không phải những loại như thằng Lữ, hay lão Nghi, Kinh làm nên cuộc đời mới, mà là những thằng Khuê, thằng Nhẫn kia.
Đi tìm khái quát
– Mình chỉ sợ những thứ mà mình viết, nó không được người dân thường miền Nam chấp nhận, nó không đúng là những vấn đề của mìền Nam!
(Nhàn): Thì tôi vẫn nghĩ chính ông nói vấn đề của miền Bắc chứ có phải miền Nam đâu. Chúng ta biết gì về miền Nam mà viết.
– Tôi vừa đưa cho thằng Thiều đọc một đoạn, có một ông già ở Khe Sanh lên thăm con, gọi nó về. Đây là đoạn đối thoại rất quan trọng. Thằng Thiều nó bảo: Lại bịa rồi.
(Nhàn ): Bây giờ truyện của mình quá nhiều chỗ thực mà lại không đủ phần bịa. – Cái phần bịa ấy, nó là phần quan trọng để đóng góp vào cuộc đời của những người viết truyện và những trang sách.
– Xong cái này, tôi viết cái sau, phải chơi cái lối là làm sẵn kế hoạch ra mà viết mới được.
Tôi rất yêu cái khu 800 của tôi, vì nó như chợ phiên, lúc nào ngoài kia tròng trành có gì, thì nó lại lập tức có ảnh hưởng trở vào khu trong này của mình. Hồi kỷ niệm Lê nin thì toàn chiếu phim Lê nin, Lê nin ngồi Lê nin đứng, Lê nin ăn bánh mì với Krúpxkai a — con bé con nhà mình thấy thế cứ nhoài người ra đòi ăn. Bây giờ thì lúc nào cũng phim: Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn.
Chủ đề của văn học mình bây giờ là gì? Là lòng yêu nước.
Mà thực ra, cái chủ đề ấy cũng đã cổ lắm rồi.
Thế giới bây giờ nó sang chủ đề khác rồi (Nhiều lần NMChâu nói rằng văn học mình chả có chủ nghĩa gì cả, chỉ có chủ nghĩa lớn nhất là tuyên truyền).
Đối diện với chính mình
Lên tận nhà NMChâu ở công trường 800, tôi có cái sung sướng được là người vào tận trong bếp núc, ngồi đọc ít bản thảo Dấu chân người lính. NM Châu vừa muốn cho xem, vừa ngại nên cứ quay đi viết.Thỉnh thoảng lại đánh trống lảng:
-- Mình vừa đọc một ít kịch Arbuzov do Đặng Qúy Quyền cho mượn. Ngồi tính bây giờ ở nước mình, có thể phỏng theo cái kiểu Liên Xô ấy, dựng một câu chuyện giữa hai vợ chồng. Đôi vợ chồng này gặp nhau, yêu nhau từ hồi Điện Biên, đấy là một cảnh. Cảnh thứ hai, là một cảnh nào đó trong hoà bình. Và một cảnh thứ ba, là một cảnh gặp lại tặng ở già, ở Trường Sơn. Như thế thì hay quá còn gì nữa.
Tôi đọc sang những trang tình yêu. NM Châu theo dõi rồi hỏi đọc có chuế quá không, mình cũng là thằng dốt về tình yêu thôi.Tôi bảo không, cũng đọc được. Cũng có những câu gợi đến sự suy nghĩ của tôi. Hai nhân vật Lữ và cô Hiền này cũng hay hay.
Thế là Nguyễn Minh Châu sổ ra:
– Giá kể chỉ cho tôi viết về hai tay này thôi, từ lúc nó quen nhau từ ở nhà, đến lúc nó đi trên đường, thì cũng đã được nhiều lắm rồi.
– Đúng thế, văn chương bây giờ chẳng được nói cái gì cho nó kỹ cả mà cứ phớt phớt thế nào ấy, cả lớn cả bé, cả trẻ cả già như thế thì làm sao mà hay được.
– Viết độ hai đứa thôi, thì phải viết vào tận củ tỉ của người ta rồi còn gì nữa.
Rất nhiều lần, NM Châu lặp đi lặp lại:
– Tôi không tin thứ văn học mà cứ cười hô hố lên, văn học bao giờ nó cũng phải là một cái gì phẫn uất cơ. Tôi với ông chẳng đã bàn nhau là thơ thằng Duật cũng vừa phải thôi là gì?
– Các ông bây giờ son rỗi rảnh rang, nên ngồi nghĩ kỹ được.Bọn chúng tôi mải lo kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, nên đằng nào cũng phải viết thôi. Nhưng tôi tin rằng, nếu tôi rỗi rãi ra, cho tôi đi vào những mảnh đất mới, cứ đi dọc sông Hồng này, ra cái bến ga kia, thả nào tôi cũng viết được cái gì, không biết nó là thể loại gì, nhưng nhất định là có đóng góp.
… Mình chán viết về đánh nhau lắm rồi. Nó không phải là cái chất của mình. Sắp tới, tôi đi xem có bọn làm khoa học nào, nó kể cho mình, khéo mình có thể viết được cái gì đó. Viết về những cuộc tranh luận của bọn ấy, nghe có vẻ trí thức hơn, mà thật sự là mình cảm thấy ngòi bút có vẻ phóng túng hơn.
Hoài nghi và tin tưởng
Một buổi trưa, lên nhà ông chơi, Nguyễn Minh Châu bảo ta đi ra đường một tí đi. Chúng tôi nói về rất nhiều người khác nhau.
– Những người như ông Hữu Mai, ông Tào Mạt, cả như Quang Thọ nữa, anh nào nó cũng có một niềm tin rất ghê, những chỗ rất thiêng liêng. Nó sống được bằng ngòi bút là ở đó. Bọn học sinh nông thôn như thằng Duật, thằng Chu có lẽ cũng vậy. Ông là người Hà Nội, ông tiếp xúc với sách báo sớm, ông còn có thể có được cái đầu óc hoài nghi, chứ họ thì không biết. Nhưng không hiểu sao, mình cũng vậy, có một tối Nguyễn Khải ngồi nói chuyện với mình, Khải đã định khoác áo đi mưa quay về mấy lượt, rồi lại phải ở lại, suốt từ 7 giờ đến 10 giờ. Về sau tay ấy phải nói tôi công nhận ông là người hoài nghi tới cùng cực, mà cũng có lòng tin thật ghê gớm, tôi chịu đấy.
Nhân đọc bài thơ Bãi cỏ bên kia bờ sông của Xuân Quỳnh:
-- Bây giờ bà ấy phải thêm cái phần cuối vào. Phải tả là bãi cỏ ấy có lúc như bị chìm ngập, nhưng sau lại mọc lên những mầm cỏ mới và cứ xanh rờn mãi đi.
Những thoáng tự hào
Buổi sáng ra cổng 4 LNĐ gặp ngay NMChâu :
- Mình đạp xe từ nhà đến đây cũng đã mệt, chỉ thấy thích là đường nhiều con gái đẹp quá chừng. Tôi đéo tin ông tướng ông tá nào cứu được nước mình, nhưng tất cả bọn con gái đẹp ấy lại cứu được đấy.
Tôi viết lại gần xong rồi. Cũng có những chương mình thích lắm.Tôi thấy ghê nhất là mình cứ hiện lên đằng sau các trang sách, không sao giấu được. Tôi cho là ai viết văn cũng có thể để lên đầu mấy chữ thân tặng tôi vào quyển sách của mình.
Nhàn(nghe đọc một đoạn trong Dấu chân người lính): Cứ viết thế này thì có thể viết miên man được mãi đấy!
Châu: Không, cũng chỉ viết được một ít thôi, tốn vốn liếng lắm. Văn chương mà cứ ra ông ổng thì sao gọi là văn chương được — để cho bọn khác nó viết.
Văn chương là gồm những giọng điệu khác nhau
– Bấy giờ mình đừng có khinh ai. Có những điểm mình không nói, thế là mình không nói thôi, người ta cũng thế. Sau này, không chừng tình hình sẽ khác đi. Như thằng Vũ nhé, bây giờ cái phản ứng nó bề ngoài có phần nhảm, nhưng bề trong có cái đúng của nó chứ! Sau này, ai biết Đỗ Chu sẽ viết thế nào. Biết đâu những thằng thơ mộng ấy, sau nó lại viết về những cái thật là dữ dội trong lòng người.
— Đọc Vòng tay học trò (của Nguyễn Thị Hoàng) thấy văn chương nó viết nhuyễn thật. Không phải là uốn éo đâu mà với nội dung ấy thì phải viết kiểu ấy, nó mới nói hết được cái phức tạp của con người bây giờ. Có một đoạn, Nguyễn Thị Hoàng tả cô Trâm này với tay Minh ra gieo đỗ, nói về sức sống trong lòng đất. Tôi thấy mình cũng gặp nó ở chỗ ấy, trong một đoạn tôi viết Xiêm đi lấy thóc và tự hỏi tại sao không lấy gạo mà lại lấy thóc?…
… Đọc những tay này, tự nhiên dậy lên một thứ thâm thù: Mình cũng phải viết được cái gì để làm cho nó khiếp về mình mới được.
– Tôi thấy bây giờ đời sống nó căng lắm, lúc nào cũng phải đặt vấn đề là nhận thức. Các nhân vật của tôi cũng đều là nhân vật nhận thức cả.
Tôi thấy ở nước mình, nghề văn chương bao giờ nó cũng mang sẵn cái yếu tố nhảm. Như thằng Duật nhảm kiểu Duật, thằng Chu nhảm kiểu Chu, mà mình có kiểu nhảm của mình. Người ta chỉ quan niệm thằng viết như một thằng làm trò, một anh nặn bột, chứ làm gì có yếu tố xã hội. Nhưng biết đâu rằng văn chương phải có những cái khác ở đằng sau câu và chữ. Ở nước mình, ngay những người như ông Tố Hữu, người ta có chia nhà cho ông ta thì cũng chia cho cái nhà có con phượng con công trên mái, chứ không đơn giản mà mô đéc như các nhà kia.
… Ông Khải hay nói tới sự từng trải, nhưng lại rất ít từng trải. Dạo này nghe nói ông ấy viết về pháo, tôi không tin. Dạo trước ông ấy có đi đâu một tí, thế mới nhân ra thành Ra đảo được. Bây giờ nghe kể thì làm sao nói được về rừng. Chính Khải cũng đã bảo mình viết quen tay đi mà lại.
Tôi cho rằng những thằng như thằng Triệu Bôn, thằng Duật thì khen thế cũng chưa đủ, cứ phải khen nữa. Chứ làm sao, ông Xuân Sách viết nhảm thế thì không ai phê bình, mà ông Triệu Bôn nó viết thế thì nói nọ nói này (Nhàn: Vì mình quan niệm ông Xuân Sách như một cái gì đã thành, mà ông Triệu Bôn thì còn thay đổi được).
Thoáng tâm sự riêng
Ngày tết đầu 1971, tôi (VTN) trở lại Quảng Bình. Về, ông Châu kéo vào đọc bài thơ về cái chết của con mèo, ý chính là tôi thấy cái chết con mèo, tôi lại nhớ mẹ tôi ở nhà.
— Thằng Chu ở đây, tôi không dám đọc. Nhưng mà có lúc mình buồn quá, mình đâm ra như thể phát cuồng lên, không làm được gì nữa. Có lúc tôi buồn ghê lắm. Suy ra trên đời này, vui chỉ ở chỗ cắn răng mà làm mọi điều.
Người ta cũng có lúc phải biết buồn. Buồn được cũng không phải là dễ đâu nhé.
Tôi viết xong mấy chương đầu, loanh quanh đến mấy tháng không biết viết thế nào nữa. Mình không hiểu nên bắt đầu cho nó đánh ở đâu, xong ở đâu. Mãi rồi mới nghĩ: thôi chỉ cho nó vây áp Tà Cơn thôi. Bận sau, tôi cũng đến cạch không dám viết kiểu này nữa. Viết toàn những thứ mình không biết gì cả, đi mình không đi, hỏi mình không hỏi – cái đơn vị mà tôi viết đây, đâu có 7, 8 ngày — mình nghĩ cũng liều thật. Thế này là tôi đã phải huy động tôi rất nhiều rồi đấy.
— Lắm lúc viết, thấy nên tự khen rằng mình viết khá, những thằng khác không đáng xách dép cho mình. (Nhớ có lần NMChâu đã viết trong một tiểu luận “Hãy tha thứ cho người viết những lúc bốc đồng khoác lác“).
Hiện thực cuộc đời là vô tận, thì không bao giờ hết chủ đề cho văn học. Ăn nhau chỉ ở cách làm việc của mỗi người.
– Tôi định viết một đoạn kết thế này: Cuối chương Hiền và cô bạn gái đi dọc bờ suối bắt cá. Những con cá suối chết khô ở suối, họ nướng ăn. Rồi họ nói chuyện về hạnh phúc, về tương lai. Khi họ bắt được một quả vả, trông rất ngon, bửa ra, thì bên trong toàn những muỗi là muỗi cả. Đêm, đoàn văn công ở một bờ này suối, tốp cán bộ của ông Kinh thì ở bên kia suối. Những suối đá. Trăng sáng quá, không ai ngủ được, ông Kinh đi dạo bên này suối. Hiền đi bên kia, nhưng không sao gặp nhau được.
Tất cả đều có ý nghĩa tượng trưng cả đấy !
– Tôi bắt tay vào quyển mới cũng được, nhưng chỉ sợ mỗi một điểm là nó dễ trùng với Cửa sông lắm. Trùng thì mình không thấy thích nữa!
Tôi đang đọc quyển Hoàng Văn Thụ của ông Tô Hoài. Ông này viết khôn lắm, chỗ nào cũng có cái hay. Nhưng đó là một lối văn để tả những chuyện bông đùa, hay những chuyện phong tục, chứ không phải là lối văn để tả những chuyện cách mạng. Nó thiếu những cái sục sôi cuồn cuộn bên trong.
-Nhàn: Ông Tô Hoài viết như người đi bộ ấy, lúc nào cũng chậm rãi vô cùng, đọc thì thấy mệt, chẳng biết bao giờ thì hết. Văn ông ấy tĩnh lắm!
Châu: Ông này giỏi tránh dùng những chữ sáo. Nhưng lại không bắt được cái hồn bên trong. Cho nên nó vẫn không được gì hết!
Nhàn: Người viết nên tránh tạo ra lắt léo.
Châu: Nhưng mà kết cấu cũng quan trọng lắm. Nó như là cái tài xếp đặt cái nọ bên cái kia. Đọc truyện của người khác, bao giờ tôi cũng tưởng tượng xem nó có hình gì? Như truyện Ráng đỏ của Đỗ Chu có hình tròn. Còn chuyện trong Vòm trời quen thuộc cũng của Chu thì chưa ra hình gì cả. Nó như hình con giun con dế vậy.
Vừa viết vừa nhìn chung quanh
… Không thể phá kết cấu được đâu. Cái Vòm trời quen thuộc, nhiều chỗ Chu nó tả nhân vật như tiểu thuyết, rồi nó lại không tiếp tục nữa, cũng là không được.
Nghĩ thế, nhưng chính tôi thì lại đã có lúc làm thế.Trong Dấu chân người lính, lúc đầu có nhân vật Thái Văn sau tôi bỏ bố nó đi, không cho nó phát triển. Mình nghĩ: không giống như tiểu thuyết cổ điển, rất dễ bị phê bình. Nhưng mình thấy ở đoạn trên thế là được một việc rồi.
Tôi bây giờ đang phân vân, đứng giữa hai ngả đường xem viết truyện hay ký. Giá bây giờ viết được bút ký thật hay cũng thích. Ví như không có nhân vật gì cả, chỉ có năm phần. Phần một tôi nói về 5 gia đình trong khu nhà tôi. Phần thứ hai nói về một cái xe chạy từ 559 ra đây, đến Hà Nội, thả lính xuống mỗi anh về một nơi. Phần thứ ba tả cái trạm 66. Nhưng viết thế, không đâu nó in. Viết giống các tiểu thuyết cổ điển, như tiểu thuyết Nga, thì lại vừa với trình độ người đọc bây giờ.
Với tôi viết ký thì bộc lộ được chỗ mạnh của mình, là cái phần nghĩ, sau khi bố trí sự kiện.
(Một lúc khác) Khi mà viết cái Hà Nội, tôi toàn đưa tài liệu thôi. Vì cái phần không khí, mình làm được, mình không sợ.
Giữa các đồng nghiệp
Những người già và những người trẻ khác nhau thế nào? Tôi chỉ cảm thấy tuy cũng thuộc lớp trước, nhưng ông Châu vẫn trẻ, không phải là chỉ hay cười đùa đâu, mà là bao dung được lớp sau.Với những tay như Vũ, ông cũng chịu được. Lưu Quang Vũ: Nguyễn Minh Châu là cái ông lớp trước duy nhất mà bọn trẻ không nói xấu, mà còn muốn đến gặp.
Nhưng NMChâu cũng già lắm. Gu cổ điển. Hay kêu cái sự lươm tươm của Khải. Hay khen những thứ trong vắt lấp lánh của Đỗ Chu. Không chịu được Lỗ Tấn cho là nó là kiểu cùng đường. Không thích những người xông vào nói trực tiếp trong truyện. Ví dụ như Nguyễn Minh Châu không sao chịu được Nguyễn Khắc Phục.
(Viết bài điểm sách cuốn bút ký Cửa Thép của Nguyễn Khoa Điềm): Thằng này tả giỏi lắm, nó có cái thứ tự như những yếu lĩnh xạ kích vậy. Tôi viết tôi toàn trích những câu hay thôi (vừa trích vừa chữa!) Để dạy cho những thằng như thằng Nhị Ca nó biết rằng phải viết phê bình như thế nào!
Viết về cái nghĩ khó lắm. Viết như ông Nguyễn Trung Thành đã đành là cải lương quá. Ngay viết như Nguyễn Thi cũng không ra sao! Nhân dân họ nghĩ ngổn ngang hơn nhiều cơ.
Dưới con mắt của mọi người
Tào Mạt Nguyễn Đăng Thục:
-- Vốn của Nguyễn Minh Châu về văn học cổ không nhiều lắm đâu, cho nên văn viết không được cô đọng lắm (Nguyễn Minh Châu: Tôi cũng công nhận thế).Cái tư tưởng hoài nghi ở Nguyễn Minh Châu hơi nặng, tôi đã phải bảo mãi.
Nhị Ca (đọc Quê người lính):
-- Ông Châu khi nào nói về những bi kịch trong gia đình thì rất giỏi. Nhưng khi nào mở rộng ra, nói về những vấn đề xã hội, thì lại không được
Mai Ngữ:
-- Ông Châu viết hồi trước còn ngu ngơ lắm cơ. Đưa sang Văn học tập truyện ngắn mang sang từ hồi hoà bình, nó có in cho đâu. Chính chiến tranh đã nâng ông Châu với ông Thiều lên đấy chứ.
Khải:
-- Ngay sau khi in Cửa sông, mới đây thôi, nó còn không muốn in truyện ngắn cơ mà. Căn bản đối với một người viết là việc tuyên truyền. Hồi Cửa sông nhớ, tôi đến tôi xem xong, tôi cứ giục: Tội gì mà không viết thêm. Rồi tôi ra ngoài tôi quảng cáo cho.
Có lần, tôi túm lấy ông Như Phong, nghĩa là trước NMChâu bọn chúng tôi cứ xê ra hết, xê ra hết tôi bảo vậy. Như Phong mới dặn về giữ lấy rồi thả nào cũng đưa cho tay ấy cơ mà.
… Văn của Nguyễn Minh Châu rất chông chênh, có những chữ những đoạn mà lỏng tay một chút thì thành cải lương ngay, ví dụ như cái Mảnh trăng cuối rừng đấy. Ở nhà này, Hồ Phương là người văn đã có mặt (những cái như kiểu Hoa cúc vàng đấy). Hữu Mai viết lộn xuôi lộn ngược, khi ra vẻ chính trị, khi ra vẻ trữ tình, nhưng vẫn không có nét mặt riêng.Xuân Thiều là người cố hết sức, nhưng Hồ Phương chưa cố. May ra, sau cái Dấu chân người lính này, Nguyễn Minh Châu cũng có nét mặt.
Vẫn Nguyễn Khải:
- Khi ông Ngọc ông ấy cho ra mấy cái truyện ngắn về sau in vào Rẻo cao thì tôi không sợ nữa. Pồn viết sau khi đọc Người nhạc sĩ mù của Korolenco. Mạch nước ngầm lấy cảm hứng từ Ổ gà của Tendriakov.
Tay Kiên mấy năm nay nhiều chỗ hơi cằn rồi.
Bây giờ đợi Châu xem sao. Có một cái là ông ấy phát triển rất hợp quy luật đấy. Cho nên đối với tôi bây giờ không phải Hội nhà văn, mà chính là cái nhà 4 Lý Nam Đế này với lại bọn trẻ các ông mới là quan trọng.
Khải: Từ Mảnh trăng cuối rừng, tôi bắt đầu nghi ngờ ông Châu. Lại tả cảnh, lại làm duyên. Cái Phi vừa rồi cũng thế. Cửa sông chủ yếu viết về một cái gì chung (ý thức độc lập tự do). Hồi ấy, đó là một vấn đề người ta băn khoăn. Bây giờ khác.
Nghiêm chỉnh mà nói NMChâu bây giờ phải nhanh chóng bỏ qua cái bản năng và lo cho mình một cái quan niệm về xã hội. Anh không thể cứ đùa mãi như thế được. Anh phải có hướng. Nếu không, có thể từng mảng từng mảng anh giỏi, anh xôn xao, nhưng lúc lắp vào, anh lại lắp ra một cái gì giống mọi người hoặc nếu lắp theo kiểu của anh, thì lại hỏng.
Chất liệu chiến tranh
Những vấn đề ở bãi tha ma Mỹ ở Tà Cơn với lại ở những đơn vị trinh sát, thích lắm.
Nói cho cùng thì Nguyễn Thi nó đi, nó cũng mới viết về chị Út, về nhân dân. Còn những mảng thật là lính chưa ai viết. Chất lính nó có một cái gì dữ dội. Chất lính ở đường 9 nó lại có một cái gì đó lộn mù lên – Cứ viết riêng về thằng lính đã đủ thích lắm rồi. Nhưng mà có những chỗ phạm huý, toàn phạm huý cả.
Ở cái Đuờng 9 Khe Sanh ấy, mình với nó như là anh anh cắn nhau, ngoạm vào nhau một miếng rổi lại bỏ ra rời ra…
–(với Mai Ngữ):Viết chiến tranh phá hoại mà cứ phải bắn súng lên, bắn súng xuống thì chán lắm rồi. Trong chiến tranh phá hoại bao giờ cũng phải thêm những chuyện nội bộ nữa vào thì mới thích.
Hồi ấy tôi viết Cửa sông cũng cứ vừa viết vừa nghĩ, viết đến đâu nghĩ tiếp đến đó. Sau này tôi mới nghĩ ra cái kết như thế.
Có một hồi thằng Chu còn bị các ông ấy bịp, chạy theo vấn đề nọ, vấn đề kia. Tôi chẳng cần những chuyện ấy. Thằng viết phải để cho vấn đề nó nhuốm vào trong truyện. Cứ viết đi rồi tự nó những vấn đề nó sẽ nổi dậy
– Đúng là tôi muốn viết những gì có tính chất bền vững lâu bền. Như viết về chiến tranh, hãy viết về những bà cụ bán hàng, những bữa cơm người ông tiễn đưa cháu.
Giữa văn chương và thực tế
( NMC đi nói chuyện với CAND vũ trang) Tôi có khuyên mấy thằng là việc gì phải đi đâu, các ông cứ nói cho kỹ cái nơi đang sống. Như viết về đồn biên phòng, về cửa Ba Lạt chẳng hạn
– Như thế là tiểu thuyết phong tục rồi.
– Thì văn chương mình bây giờ cũng chỉ ăn ở cái phong tục
-Chu nó giỏi nhất vẫn là về những chủ đề hậu phương
-Cái phần văn học nhất, xưa nay, cũng là về hậu phương chứ là gì?
(Nói về lụt)
Khải: Thế là mình dự đoán về lòng người về thiên nhiên đều sai cả, trái quẻ cả.
Châu: Cái phần trái quy luật ấy chính lại là quy luật.
(nói về thơ Duật Những cánh rừng không dân). Những đoạn như đoạn lục bát nó hay đấy, nhưng cũng là cũ, nó là cái giai đoạn ông Tố Hữu ông ấy viết rồi. Phần đầu của Duật nó mới hơn. Tôi vẫn ưa cái gì khái quát.
Khải: Ông Duật kêu lên những câu hỏi nhân loại mà thấy như ghép ở đâu vào. Bây giờ những kiểu viết sát sàn sạt vào thực tế, có khi lại không thực tế. Còn lối viết như của Đỗ Chu trong Ráng đỏ, nó có vẻ như không liên quan đến hiện thực, nhưng lại hiện thực…..Dấu chân người lính có những chỗ rất là thích, cảm thấy người viết nói hết được mình đấy.
Châu: Nhiều vấn đề chỉ không nói nữa thôi, chứ mình đã chuẩn bị cho đầy đủ rồi.
Tôi ngồi tôi đọc mấy cái truyện của bọn miền Nam: một người trước khâm phục kháng chiến nhưng cuộc sống trôi nổi vẫn ở vùng tạm bị chiếm. Sau những ngày đất nước chia cắt, bây giờ nghĩ về những người lính giải phóng, thấy hình như không gặp được ý nghĩ của họ, tức là chợt thấy cánh giải phóng đó là không sao hiểu nổi.
… Mấy thằng nó viết dung dị quá, và mình chợt thấy sợ hãi. Khéo nó sẽ có những cái còn lại với lịch sử. Mà những cái mình viết hôm nay, chẳng còn gì cả.
Có những khu vực mà nếu tôi viết, mình sẽ thấy còn lại – ví dụ như tiểu đoàn cao xạ Nguyễn Viết Xuân, ví dụ như Hà Nội, như những chuyện thuộc về những cái ngàn năm của đất nước mà ông vẫn nói với tôi bấy lâu. Còn như những chuyện hôm nay, mình phải coi chừng. Hôm nọ tôi đi Vĩnh Linh, tôi có cảm tưởng rất hiểu khu vực sông Hiền Lương, nhưng đến hôm nay, nghĩ lại, thì tôi lại cảm thấy đó là cái phần mà mình không nên động tới, dù thế nào thì mình cũng không nên động tới.
Tồn tại cách nào?
Người viết bây giờ cứ phải một câu trung, một câu nịnh một câu nói giống mọi người thì mới được một câu nói khác mọi người.
Cứ bảo cánh miền Bắc mình viết giỏi. Miền Nam nó viết, câu chữ của nó chỉnh lắm.
Bây giờ thì mình chỉ viết kiếm tiền. Chả làm danh nhân danh tướng gì. Danh nhân đã hàng đống đầy đường ngoài kia. Hoặc là bây giờ mình chỉ phục cái loại nó cứ dai nhằng nhằng.
Tôi viết cái Dấu chân người lính này có cái gì quyết liệt lắm. Các nhân vật của tôi đều đang đi tìm đi tìm mình, kể cả những nhân vật đã chững tuổi.
Hôm nọ tôi đi xem gặp lại Nghiêm Kinh (nguyên mẫu của nhân vật Kinh trong Dấu chân người lính-- VTN chú), thì lại chán quá. Hoá ra nhân vật trong văn học bao giờ cũng là phần tưởng tượng ra, chứ không phải là phần có thật trong đời. Thực ra, tôi chỉ nói chuyện với ông ta có một lúc, vào khoảng từ 7 giờ đến 8 giờ tối, nói những chuyện đâu đâu ấy, rồi thôi. Lính nó nói về ông ta cũng toàn những chuyện không đâu vào đâu)
Viết của mình bây giờ, nó giống nhau, nó đều như là ký cả. Nhưng thật ra ký viết rất khó. Ký phải bố cục thế nào đó lớp lang chừng mực, tả những cái đáng tả, viết những cái đáng viết… Vì thế cho nên viết tiểu thuyết có cái dễ của nó. Mỗi tiểu thuyết có cái khung truyện,tức tự nó, tự số phận của nhân vật có vấn đề của nó rồi. Ví dụ như tôi nghe chuyện một thằng lính về phép xong, đến Hà Nội thì bị mất cắp, chỉ còn cái ba lô, ngồi vườn hoa tính chuyện quay về đơn vị thế nào đây. Thế mà không hay à?
Những chỗ chênh vênh mới là chỗ khó
Nhàn: Cái tên Ký sự giữa hai bờ đất hay đấy.
Châu: Tôi định viết về những người viết văn đến cái mảnh đất Hiền Lương này, nhưng mà không viết được.
Nhàn – Viết cứ lung tung như thế mà lại hay
Châu – Cũng phải tài giỏi lắm mới lung tung được, chứ có phải bỡn!
Tôi tự hỏi không hiểu sao, ngay từ hồi đọc cái truyện Người về đồng cói của thằng Lựu, tôi đã không thích. Sau mới hiểu ra: tại vì trong truyện ấy, nó nói về một nhân vật cứ làm lung tung cả lên. Thực ra, không nhân vật nào có thể làm lung tung như thế được.
Truyện của chúng ta bây giờ hoặc là công thức, hoặc là bắt chước nước ngoài. Nhưng cái ấy của thằng Lựu vừa công thức, vừa bắt chước nước ngoài, thì mình chịu làm sao nổi được. Trong truyện ấy của nó, chỉ có mấy đoạn nói về cói là ra văn học.
Trong Dấu chân người lính ngoài cái phần viết như mọi người, về lòng yêu nước và lòng dũng cảm, thì còn có cái phần này, tôi muốn viết về sự xao động của cả một thế hệ trong cuộc chống Mỹ cứu nước.
Nhân vật chính, kể ra chỉ được thằng Lữ. Tôi ngồi tôi viết mấy đoạn về tay chính trị viên văn công, rồi bọn văn chương. Mình nghĩ: không biết mình viết cái phần này làm gì nhỉ? Không biết dựa vào đâu để viết những ý nghĩ ấy? Nhưng sau tôi nghĩ ra: đó chính là một phần những quan niệm của thằng Lữ.
Quyển sách đến gần 500 trang. Mình viết ra nó cứ dai như đỉa. Lạ thế không biết! Mình không ăn ở sự sâu sắc, chính là ăn ở cái phần dai như đỉa ấy.
Sự đa dạng của chiến tranh
–(với Quang Thọ) Mình vẫn cay cái món Hà Nội, nói chiến tranh là cần, nói mọi thứ là cần, nhưng vẫn cần phải tìm cái chiến tranh, cái mặt trận ngay trên một khuôn mặt thằng lính bây giờ, trên khuôn mặt một người dân bây giờ. Mình nhớ nhất là cái năm 1967, trong cái mùa hè nắng cứ dựng lên, mặt người nào cũng được phát tán không khí, mặt người nào cũng rực cả lên. Tại sao chúng mình không nói được những cái đó nhỉ?
Phải bình tĩnh mà sống, là một thằng viết, phải bình tĩnh sống với những ngày hôm nay, cái cuộc sống hôm nay không thể nào khác được. Những cái lạ, anh không biết, nhưng có khi những cái chung quanh mình, anh cũng không biết.
Còn như bây giờ cho tôi mà đi vào nhà máy nào đấy được ít ngày, tôi cũng viết được. Căn bản là phần mình.
Không có nhà văn riêng của đề tài nào cả. Càng những thứ lạ, lại càng dễ viết.
Quang Thọ:Đã đành là thế rồi. Một khuôn mặt không vẽ được. Mà đến cái nắng trên trận địa càng không vẽ được, thế mới ức chứ.
Nguyễn Minh Châu: Ông Nguyễn Thi toàn viết về phụ nữ mới lại trẻ con. Tôi cho cái đó không giỏi. Cái giỏi chính là phải nói về những người đàn ông cơ
(Sau khi nói về gầy lửa) Cái khó ở đời là một mình nhen lên được một ngọn lửa giữa đêm đông, khi niềm vui và sự ấm áp đã có thì khắc có người tới bên mình, chẳng phải đợi
– Cái chết bao giờ cũng có hình thù và mỗi người ngã xuống đều có một câu chuyện.
Phải biết thỏa hiệp
Nhàn: Tôi thấy cái kết cấu Dấu chân người lính của anh làm hỏng cái xu thế toát ra từ những mảng sống trong truyện của anh. (Tôi không muốn nói rõ hơn: cái kết cấu ấy có vẻ “nịnh đời “ quá)
Châu: Sự thực là từ khi tôi viết dở quyển Dấu chân người lính này, cũng như khi tôi viết xong, nhiều ông ở tổ sáng tác đều có ý lo cho tôi, không khéo tôi viết đã càn, lại hung, làm các ông cháy thành vạ lây thì khổ. Cho nên chính tôi cũng sợ. Cái chất láo nó đã có sẵn trong con người mình rồi, đến lúc nào đó tự nhiên nó bột phát. Nhìn vào cái phần cuối. Giải phóng rồi thằng Lữ thì chết, cô Xiểm lại trở về với thằng chồng cũ. Mọi thứ đều vữa ra. Giá kể đào kỹ vào không hay à ?
Nhưng mà thôi, văn chương bây giờ nhảm nhí quá. Lắm lúc mình nghĩ may lắm thì văn chương bây giờ làm được cái phần việc như Tự lực văn đoàn ngày xưa nó làm, tức là làm trong sáng tiếng nói, làm đẹp thêm cho tiếng nói.
Tiêu chuẩn để xét một nhà văn, với Nguyễn Minh Châu, là ngôn ngữ.
Nói về Nhị Ca: Cái thằng ấy đặt câu không nên.
Nói về Xuân Thiều: Thằng ấy hay mang vào văn học những chữ của tiếng nói hàng ngày, ví như tiếng ông bà ông vải… Còn như ông Nguyễn Tuân, ông này làm cho tiếng nói nhiều khi trở nên mách qué.
Trong một lúc tự thả lỏng:
–Trên mà giao cho mình làm một bộ từ điển mình sẽ bỏ hết những từ chính trị trong văn chương.
Ghi trong chuyến đi Vĩnh Linh
Những xu hướng chính trị đang xô đẩy chính kiến và tình cảm của con người, nhưng chưa đến lúc nói đến những xung khắc về chính kiến, văn học hôm nay hãy nói đến những giằng xé về tình cảm, chỉ làm được việc như vậy đã khó.
Con người là vật tượng trưng của sự bất lực, hay nói đúng hơn, sự bất lực của mọi nỗ lực của con người, và đừng nên buồn vì điều đó. Cái quan trọng là không bao giờ nên để rơi mất những khát vọng và hy vọng. Chủ đề của tất cả những sự kiện mà tôi đang sống chính là sự thất bại của những khát vọng. Dần dần con người còn tiến đến thực dụng.
Viết về chiến tranh từ xưa đến nay, vẫn là giải quyết cái này. Giết người? Giải thích con người giết người. Anh giết một người: Anh là ai — con người bị giết là ai?Lòng căm thù, động cơ của sự giết người là một phạm trù của tình cảm hay phạm trù lý tính?
Cái nguy hiểm của chủ nghĩa tình cảm ở chỗ nó như một đám lửa. Vẻ đùng đùng bề ngoài che lấp mất cái gì đó sâu bên trong, cái gì đó đang khiến cho ngọn lửa bốc cháy. Nhà văn cần đề cao lý trí trong tác phẩm.
Những cái muốn viết
4 LNĐ một buổi tối mùa đông 1972, tôi và NMChâu đi ra phố
-- Sau này, tôi chỉ muốn viết về những cái chết, những chuyện bất đắc kỳ tử, cũng như những cái chết trong chiến tranh — muốn viết về một cái gì như là gió ông cụt ở Vinh, cái gió nó xoáy người, xoáy cả đồ vật.
Những linh hồn chết theo cơn gió xoáy đó đi tìm đầu hồn của mình. Nó lật tung cả cái nhà của tỉnh uỷ Nghệ An lên để tìm.
… Chính tôi, tôi cũng sợ cho cái lung tung của tôi. Chính cái thành phố Hà Nội tôi cũng cảm thấy lạ.( Đỗ Chu nói đùa: Chắc là ông Châu mà sang Liên Xô thì thấy nhiều chuyện lạ lắm. –Mường đi Tràng An mà lại)
Sau này, hoà bình, tôi sẽ tha hồ đi và viết bút ký . Còn đi nước ngoài, thì chỉ có đi Lào.
Bây giờ người ta phải viết tiểu thuyết thôi, tiểu thuyết thì còn có chỗ trốn. Còn như bút ký, người viết cứ phải trần ra trước mặt mọi người. Viết tiểu thuyết như làm một thứ búp bê, cho nó đứng ra trò chuyện với mọi người. Còn như viết bút ký, tức là anh lôi người ta đến trước cửa nhà anh, anh phải đứng ra dàn xếp mọi chuyện. Cái đó khó lắm. Nhưng mà nếu tình hình yên yên, với lại nếu được viết một cách rộng rãi xem, thì tôi sẽ đi, tôi viết ký.
Trong những ngày này, tôi chỉ muốn viết về cái gì đẹp. Tôi cảm thấy tôi cũng khá nhạy cảm về những chuyện này, thế thôi
Cái tập mới này của tôi – Lửa từ những ngôi nhà –– sẽ viết về những chuyện vơ vẩn trong chiến tranh, sẽ làm cho người ta cảm thấy chiến tranh len vào khắp mọi chuyện, khắp mọi con người. Chiến tranh là cả một vấn đề xã hội chứ không phải chỉ là công việc của mấy ông lính
Nếu có ai đặt, có thể mỗi ngày tôi viết được một truyện ngắn. Sẽ viết truyện ngắn Người đóng vai nói về Huy Du và vợ. Vợ học nước ngoài về, ông ta phải nhuộm tóc, sửa quần áo làm cho người trẻ lại — cứ phải đóng một vai khác mình như vậy.
Viết truyện ngắn Những vụ tự sát không tiếng súng. Một người ngày nào cũng nghĩ chuyện thành một người gì đó khác mình — Phải quan tâm tiêu diệt thằng người cũ trong mình. Nhưng ngày mai, lại con người cũ trở lại.
… Tôi nhớ tôi đọc một cái kịch gì đó — hình như Caragula — của Camus, viết về một bạo chúa giết cả người yêu của mình. Tức là con người ta cũng ma quái lắm.
Châu: Nhà văn mình lắm lúc chả biết viết cái gì. Sau chiến tranh, có viết về sự chán ghét, sự ghê tởm, thì người ta cũng đã viết đủ rồi.
Nhàn: Hãy viết về sự man rợ.
Châu: Thế mà cũng đòi lên Xã hội chủ nghĩa!
Người và nghề
Nếu tôi viết cho ông một bài lý luận bây giờ, tôi sẽ viết sự mệt mỏi của nền văn nghệ tuyên truyền.Tôi cũng có thể viết cho ông một số bài về nghệ thuật tôi thích.
Đọc Evtuchenco. Nó viết điên thật đấy nhưng mà hay. Cả Việt Nam chả có người nào có được tư cách như chính tay này. Tất cả cái Hội nhà văn của mình.
–Thực ra mình cũng cố gắng làm sao để viết ra cho nó in được, in hết quyển nọ đến quyển kia, thế là thích rồi. Tình hình này thì khó làm những cái hay. Với lại có lúc đột xuất quá, thì cũng có lúc chìm đi. Như Phạm Tiến Duật, rồi cũng có lúc chán chứ. Tôi sợ lúc lên quá, rồi lúc lại xuống quá.
– Xong quyển Dấu chân người lính này, quyển sau tôi phải nghĩ kiểu viết cho nhanh hơn. Tức là làm một kế hoạch tỉ mỉ một chút !
… Dạo này, nhà xuất bản Văn học nghe cũng đã thiếu bản thảo thì phải. Thằng Huy Phương đang bảo tôi mang bản thảo sang. Thế mới biết mình viết đứng đắn thì cũng không thiếu gì nơi dùng, những thằng viết được ở mình có mấy?
… (Đùa): Cố viết lấy mấy quyển đầu, cho nó có cái tên; những quyển sau, thả nào cũng in được thôi. Nhà văn là một người làm bạc giả, đưa bạc giả cho cuộc đời, rồi lại thu về bạc thật, là những đồng tiền.
Về các đồng nghiệp
Những câu văn của ông Tuân, ông Tô Hoài, có cái gì nó không hợp với thời đại lắm — mặc dầu nó đã rất cố gắng vặn vẹo trong đó.
Dạo này tôi chỉ toàn ngủ. Viết căng quá ròi, cứ phồng căng cả lên, như cái bánh đa nướng ấy, mệt lắm rồi, muốn viết thật buông thả, thật thoải mái xem như thế nào.
Xem quyển Đời viết văn của tôi, thấy ông Hoan ông ấy giỏi lắm. Ví dụ như ông ấy nói rằng từ bé tôi chẳng coi chuyện gì là quan trọng cả. Mình cũng nghĩ thế, nhưng mình không nói được thế. Hay là một chương trong cuốn Bước đường viết văn cũng vậy. Ông Nguyên Hồng ông ấy tả cái nghèo thì nhất.
Xuân Thiều lúc nào cũng như một thằng trung nông. Xuân Sách giống như một thứ dầu nhờn. Còn những lão ở ngoài kia, tôi cũng chẳng kính trọng lão nào cả.
(Nhân nghe ông Thanh Tịnh kể chuyện) Ông này bốc phét ghê lắm. Họ cũng không còn sống chết gì với nghề nghiệp này, không còn sức sống gì nữa. Cả ông Nguyễn Tuân ngoài kia cũng thế. Lão Tô Hoài thì viết ở lời mở đầu Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ: Tất cả đều là sự thật(!!!). Cả cái hội nhà văn của mình như một lũ chó hục đầu vào chậu cơm duy nhất đó.
Từ trước tới nay tôi cũng không bao giờ bị cay cái gì. Sự thực tôi cũng chưa thấy tay nào nó viết vượt lên mình cả. Còn như trao đổi nghề nghiệp cũng chán. Chỉ có lão Khải nói tạm nghe được còn những lão khác, có bao giờ nói được cái gì ra hồn đâu. Những loại Hồ Phương, Hữu Mai, Hải Hồ, Xuân Sách chưa phải là nhà văn, viết văn không ra hồn (Ccus âu của Xuân Sách cứ cảm thấy không được chững chạc. Còn câu của ông Hải Hồ thì lại rất chênh vênh)
Về thơ Lưu Quang Vũ
Mấy ngày trước gặp Vũ, Nguyễn Minh Châu: Cái xô bồ cũng có phần đơn điệu.
Hôm nay lại bảo:
Thằng này đúng là thằng tài hoa thôi, nhưng nghĩ lại thì cũng thấy nó nói lung tung không đâu vào đâu
Thơ căn bản là hình ảnh, nhưng mà cứ làm xiếc vậy thôi, rút lại thì chính hình ảnh không đủ.Tôi thấy nghe nó đọc cũng mệt, đọc bằng mắt còn mệt nhiều. Đọc bằng mắt phải dàn mặt với từng chữ một Cứ thế này mà đọc 3000 câu thì chán lắm.
… Vũ sao lại so sánh với Evtuchenco được. Thằng kia nó thực sự cầu thị hơn chứ. Vũ không thực sự cầu thị lắm.
Tôi thấy văn thơ các ông ấy( Đỗ Chu Lưu Quang Vũ), đặt ra vấn đề này: Tức là người ta sống thật với văn chương như thế nào. Vì nếu người viết nói dối, cái nói dối này tiếp cái nói dối khác, rồi cuối cùng thì người đọc cũng biết. Phải sòng phẳng với văn chương lắm. Cái sòng phẳng ấy, cũng tức là cái chân thật. Ông phải tự hào rằng nhiều cái ông không bằng chúng nó, nhưng cái phần ấy, ông lại hơn chúng nó. Hay như tôi chẳng hạn. Tôi thấy rất nhiều người thích tôi, cả những tay bên báo QĐND nó cũng thích tôi, có lẽ là ở cái phần ấy có cái phần ấy thì đôi khi, mình có nói lếu nói láo một chút, người ta vẫn có thể nghe được.
Ở nhà này, những ông Phương, thằng Sách, cả ông Khải nữa, đều thiếu cái đó. Ông Thiều có cái đó, nhưng lại thiếu tầm cỡ.
( còn tiếp)
Published on December 10, 2015 18:47
November 27, 2015
Chung quanh câu chuyện đổi mới nhận thức lịch sử
Tạp chí Văn học số 6 - 1990 đăng bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng của Nguyễn Huệ Chi. Trên nét lớn chúng tôi tán thành các ý kiến của tác giả bài báo và muốn nhân đây, bàn thêm về một vài căn bệnh mà một số tài liệu liên quan tới lịch sử văn học thường mắc phải, nó là lý do khiến cho các công trình nghiên cứu đó ít sức thuyết phục và cả ngành lịch sử văn học trì trệ, chậm phát triển.
Những cắt xén
tuỳ tiện mang tính cách vụ lợi
Trong sách Lịch sử văn minh Trung Quốc, học giả W. Durant có kể lại một đặc điểm của Khổng Tử “vị hiền triết già ấy có thói quen không ngại làm sai sự thực đi đôi chút, để lịch sử có một ý nghĩa luân lý”
Chúng tôi không đủ trình độ để kiểm tra xem các tài liệu có liên quan đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... ở ta có bị cắt xén theo cách ấy không. Nhưng nhìn vào các bài viết, các công trình nghiên cứu hoặc giản dị hơn, cách giới thiệu khi xuất bản các sáng tác thuộc về văn học Việt Nam thế kỷ XX, thì thấy lối làm việc trên đây của Đức Thánh Khổng được vận dụng một cách rất tự nhiên, khéo léo.
Ai cũng biết rằng Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... là những kiện tướng của văn học trước 1945, song lại có đóng góp lớn vào đời sống văn nghệ sau 1945. Bởi vậy, các sáng tác cũ của các ông dễ được chúng ta ưu ái hơn so với những người đương thời. Ngay từ 1982-1983, Thế Lữ, Xuân Diệu đã có Tuyển tập của mình. Nhưng các tuyển tập đó được làm như thế nào?
- Trong Tiểu sử ghi ở đầu sách, những người làm tuyển tập lờ hẳn đi việc cả Thế Lữ và Xuân Diệu đều đã có chân trong Tự lực văn đoàn.
- Các bài báo của Thế Lữ in trong mục Tin thơ, Tin văn... vắn chỉ ghi trích ở báo Ngày nay mà quên nói rõ thật ra đó đều là những bài phát biểu quan niệm chính thức của nhóm Tự lực, tranh cãi, chế giễu bài bác lại các báo khác khi họ công kích Tự lực.
- Hàng loạt bài thơ của Xuân Diệu trong Thơ thơ, của Huy Cận trong Lửa thiêng, khi in ra lúc đầu, có chua rõ là tặng Nhất Linh, tặng Khái Hưng, tặng Hoàng Đạo... nhưng khi in lại, bị rũ sạch, “phi tang”. Ngược lại lời đề tựa của Khái Hưng cho Vàng và máu của Thế Lữ bản in ra lần đầu cũng bị ngơ đi, coi như không có.
Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định bàn riêng về sáng tác của Thế Lữ hay Xuân Diệu. Chúng tôi chỉ lưu ý một điều: nghiên cứu về sáng tác của hai vị đó trước 1945 mà không đặt các sáng tác ấy vào cái mạch của Tự lực văn đoàn nói chung thì chẳng khác chi tách cá ra khỏi nước.
Có thể bảo đây là những ví dụ sinh động, chứng tỏ chủ nghĩa công lợi (chữ của Nguyễn Huệ Chi) đã thấm vào chúng ta một cách sâu sắc. Nhưng cũng nên nói thêm rằng ẩn sau sự tuỳ tiện đáng sợ, tuỳ tiện cắt xén thêm bớt trong việc trình bày các sự kiện trong quá khứ, thực chất là thái độ coi thường lịch sử, cho rằng hoàn toàn chúng ta có quyền đưa ra một thứ lịch sử hợp với ý muốn của chúng ta.
Mấy chục năm qua sự tuỳ tiện này đã chi phối một số người nghiên cứu trong việc đánh giá các sự kiện văn học quá khứ, dẫn đến những vô lý trong việc cho phép công bố hay cấm đoán tác phẩm này, tác phẩm nọ.
Xét trên bình diện tư tưởng, bức tranh Cô gái bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân vốn rất gần với những Hồn bướm mơ tiên, Đời mưa gió, Gánh hàng hoa. Thế nhưng trong khi Cô gái bên hoa huệ được thừa nhận như một đóng góp cho hội hoạ hiện đại, thì các tiểu thuyết nói trên của Nhất Linh, Khái Hưng bị gạt ra khỏi lịch sử văn học trong một thời gian dài. Tại sao? Tại chúng ta có thói quen chú ý đến người, đánh giá tác phẩm qua người, quan hệ người với thời cuộc, chứ không phải qua văn, qua sáng tác của người đó nói chung. Cũng vì con người Nhượng Tống “có vấn đề” mà một thời gian dài chúng ta đã bỏ qua bản dịch Mái tây và nhiều bài thơ Đỗ Phủ là những đóng góp độc đáo của Nhượng Tống đối với lịch sử văn học, đặc biệt là trên phương diện ngôn ngữ ( mãi gần đây mới khôi phục trở lại ).
Lối hiện đại
hoá không thể chấp nhận
Nếu việc trình bày lịch sử văn học hiện đại thường mang nặng tính chất tuỳ tiện và vụ lợi thì nhiều tài liệu nghiên cứu văn học (từ thế kỷ XIX trở về trước) lại cung cấp những ví dụ rõ rệt chứng tỏ các nhà nghiên cứu thường hiện đại hoá lịch sử tức “uốn nắn lịch sử theo con người hiện đại” “làm cho lịch sử mang những nét đồng dạng với hiện đại” “dẫn tới tình trạng làm nghèo lịch sử” (Nguyễn Huệ Chi)
“Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đó là quy luật của đời sống. Nhân dân ta vốn đã anh dũng trong sự nghiệp chống ngoại xâm, lại cũng kiên cường bất khuất trong công cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra lâu dài và ngày một trở nên quyết liệt” . Một đoạn văn với kiểu viết như trên có thể gặp trong khá nhiều tập sách nghiên cứu văn học, phần viết về bối cảnh lịch sử (ở đây chúng tôi lấy từ Tuyển tập truyện Việt Nam thế kỷ X thế kỷ XIX). Để nội dung ý kiến sang một bên. Điều làm chúng tôi băn khoăn là cách diễn đạt: chẳng nhẽ chỉ có một công thức duy nhất như vậy để nói về quá khứ? Trước mắt chúng ta là sách văn học sử hay sách giáo khoa chính trị, sách giáo khoa triết học?
Khi đi vào miêu tả từng cá nhân, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng không hề dè dặt gì hết, cứ hồn nhiên mà khoác lên người các bậc tiền bối những bộ y phục vốn chỉ dành cho con người hiện đại. Dưới ngòi bút của những người viết văn học sử mà thiếu cảm hứng lịch sử, các nhà văn nhà thơ vốn sống cách đây từ một đến vài thế kỷ nói chung đều mang khuôn mặt tinh thần của con người hôm nay. Thậm chí trong một số trường hợp đọc kỹ một số đoạn miêu tả thấy giá thay chữ ông bằng chữ đồng chí thì cũng không gây ra cảm giác đảo lộn gì ghê gớm lắm.
Sau đây là một ví dụ:
- Trên con đường đi tìm một phẩm chất trong sạch, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự giác hoặc không tự giác kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần lâu đời của dân tộc, những giá trị tuy bị giai cấp phong kiến lúc bấy giờ vứt bỏ, nhưng vẫn tiềm tàng trong đời sống của nhân dân (Lời giới thiệu đặt ở đầu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Trong tình hình chưa ổn định của vùng đất đang khai phá việc tập hợp nhân dân và tất cả những hạng người có thể sử dụng được đòi hỏi phải có một độ lượng rộng rãi ở người lãnh đạo. Nguyễn Cư Trinh đã tỏ ra tự hào vì đã dung nạp được mọi hạng người để phục vụ cho công cuộc chung. Để có thể đạt được sự nghiệp lớn, Nguyễn Cư Trinh đã tự đề ra cho mình những yêu cầu nghiêm khắc (Nguyễn Cư Trinh là người có kinh nghiệm đấu tranh) có tinh thần hăng hái tiến lên phía trước... (Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII, tập II)
- Nhưng mặt khác cũng cần vạch ra rằng “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ không có tý liên hệ nào với quần chúng, nó coi thường quần chúng thậm chí có lúc còn đi ngược lại quyền lợi của quần chúng. Nhà thơ đã vận dụng nó một cách giáo điều vào một hoàn cảnh không còn tiền đề cho nó tồn tại nữa (Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, tập II) []
Rộng hơn câu chuyện về từng cá nhân cụ thể còn thấy có hiện tượng cả một thời kỳ cả một giai đoạn lịch sử văn học được dựng lại theo kịch bản hiện đại. Trong nhiều cuốn sách mệnh danh là công trình nghiên cứu, quá khứ được mô tả cứ làm người ta ngờ ngợ bởi sao mà nó quá giống đời sống văn học hôm nay. Ấn tượng đó còn được củng cố thêm do nơi có sự áp dụng bừa bãi các nguyên tắc lý luận hiện đại cho lịch sử. Đáng lẽ phải xuất phát từ chính lịch sử để suy xét và nêu ra vấn đề cho lý luận giải quyết, thì ngược lại, thường xuyên có tình trạng lấy lịch sử ra để minh hoạ cho lý luận. Dù khéo léo, dù thô thiển, song đã gọi là minh hoạ tức đã làm nghèo lịch sử mà cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho lý luận thực thụ!
Nên quan niệm
về lịch sử như thế nào?
Có những lối nói, lối nghĩ phổ biến trong giới nghiên cứu, người nói kể nghe giống nhau trong cách tư duy nên cứ thế chấp nhận rồi nghe mãi quen đi, không thấy lạ, nhưng có người bạn xa, lắng nghe, thấy không thể chịu được. Thuộc về cái sự bất cập ấy là những lý luận của chúng ta khi trình bày những tất yếu lịch sử. Chẳng hạn, không hẹn mà nên, cả Hoàng Trung Thông trong bài tựa Tuyển tập Xuân Diệu, lẫn Vũ Quần Phương trong một bài báo nhân kỷ niệm 50 năm làm thơ của Xuân Diệu, đều cho rằng sự tham gia cách mạng của Xuân Diệu có tính cách “tất yếu”.
Một người rất thạo văn học Việt Nam và cũng rất yêu tác giả Thơ thơ, ông Nam Chi, trong một bài viết sau có in lại trong cuốn Xuân Diệu, con người và tác phẩm (H. 1987) đã phát hiện ra điều ấy và tỏ ý hoài nghi: “Nói rằng người này “tất yếu” cách mạng thì có nghĩa là người kia tất yếu phản động, vì bản chất phản động”. Sau khi dẫn ra hàng loạt ví dụ bất ngờ trong sự phân hoá của các văn nghệ sĩ tiền chiến trong thời đầu cách mạng và những năm kháng chiến, Nam Chi cho rằng cái công thức tất yếu nói trên là không thể vận dụng để lý giải các hiện tượng văn học.
Nhưng chữ tất yếu mà Nam Chi hoài nghi đó, lại là cái thần, cái hồn cốt chính trong lối suy nghĩ của chúng ta về xã hội, về lịch sử. Tư duy dân gian khái quát: ở hiền gặp lành có nhân có quả. Tư duy hiện đại chỉ nói khác đi một chút: ở hiền cũng có khi gặp lành mà cũng có khi không, có nhân có khi có quả, có khi không. Nói theo thuật ngữ của triết học, thì trong trường hợp thứ nhất (ở hiền gặp lành), người ta dừng lại ở quyết định luận máy móc, còn trong trường hợp thứ hai (ở hiền cũng có khi... cũng có khi...) người ta đã tiến sang một bước mới: quyết định luận xác xuất thống kê. Thế nhưng nói chung, trong cách lập luận của nhiều người nghiên cứu lịch sử văn học ở ta, kiểu quyết định máy móc nói trên vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Các hiện tượng lịch sử văn học (một trào lưu, một tác giả hoặc một tác phẩm) thường được trình bày như một cái gì tất yếu phải xảy ra, mà không mấy khi làm người đọc bỡ ngỡ vì một sự sinh thành nảy nở kỳ lạ, tuồng như là ngoài quy luật và phải xem xét kỹ, thậm chí phải quan niệm lại về quy luật, thì mới thấy nó cũng rất hợp quy luật.
Điều gì đã cản trở nhà nghiên cứu không cho họ trở thành nhà lịch sử? Chính là sự cả tin, tin rằng lịch sử là một cái gì rất sáng rõ, rất mạch lạc, rất thuận lôgích, lôgích thô thiển theo cách hiểu của họ, trong khi một điều kiện để hiểu lịch sử là phải giả định rằng ở đó nhiều khuất khúc, nhiều mờ tối, nhiều khả năng đánh lừa con người và nhà nghiên cứu phải luôn luôn lật đi lật lại vấn đề thì mới mong phần nào hiểu đúng được lịch sử.
Ở chỗ này, những nhận xét của một nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp là Marc Bloch (1886-1944) đối với chúng ta rất có ý nghĩa.
Là người chuyên về sử trung thế kỷ đồng thời là một người yêu nước, đã chết trong trại tập trung của phát xít Đức --- M. Bloch từng khái quát, “sự bùng nổ của thất vọng và thành kiến, những hành động không được suy xét kỹ, những bước ngoặt bất thình lình trong đời sống tinh thần... những cái đó mang lại nhiều khó khăn cho những nhà lịch sử có bản năng quen dựng lại quá khứ theo sơ đồ của trí tuệ. Tất cả những hiện tượng đó đều tồn tại ở mọi thời điểm lịch sử... mà chỉ những sự xấu hổ ngu ngốc mới câm lặng không nói tới”.
M. Bloch chê trách các đồng nghiệp của mình “Đọc những cuốn sách lịch sử hiện nay, có thể thấy nhân loại hiện ra như là hoàn toàn gồm những người hoạt động một cách lôgích trong họ không có một chút gì là bí mật”.
Ông khẳng định “Chúng ta sẽ xuyên tạc lịch sử một cách nghiêm trọng, nếu luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng quy nó về những mô-típ hoàn toàn tự giác.
Cho đến nay, những ý kiến tương tự như của M. Bloch nói trên hầu như chưa được giới thiệu ở Việt Nam. Nếu chúng tôi không nhầm thì kiểu nhận thức đơn giản, máy móc không chỉ có ở những người nghiên cứu lịch sử văn học, mà ở cả những người nghiên cứu lịch sử ở ta nói chung. Trong tình hình đó, sự hạn chế của một số công trình nghiên cứu lịch sử văn học như chúng tôi trình bày ở đây, là hoàn toàn dễ hiểu, nhưng không phải vì thế mà cứ nên tiếp tục.
Không làm
nghèo di sản
Một trong những yêu cầu đặt ra đối với các ngành lịch sử văn hoá là tìm hiểu, phân tích cho thấu đáo những giá trị đã được các thế hệ đi trước sáng tạo, tìm ra mối liên hệ giữa các giá trị đó với cuộc sống hiện tại, lấy chúng làm giàu thêm cho con người hiện đại.
Nhưng nói một cách nghiêm khắc đây lại là khâu yếu nhất trong toàn bộ công việc tiếp thu di sản mà chúng ta đã làm trong thời gian vừa qua. Trên nguyên tắc thì ai cũng nói là phải trở về với dân tộc, phải trân trọng mọi thành quả của ông cha. Nhưng trên thực tế, thì những thái độ thô bạo tha hồ tung hoành. Kết quả là nhiều khi chúng ta hiện ra như những kẻ hẹp hòi đến cay nghiệt. Nhân danh những lợi ích trước mắt, các nhà nghiên cứu sẵn sàng lớn tiếng phê phán người này chỉ ra những hạn chế ở tác phẩm kia từ đó quyết định không công bố thơ Nguyễn Húc (theo sự tiết lộ của Huệ Chi), trù dập cả Chinh phụ ngâm lẫn Cung oán ngâm, gán cho Sơ kinh tân trang cái tội tày đình “con dao hai lưỡi”, xếp thơ văn Tự Đức và Tùng Thiện Vương vào tủ rồi tuyên truyền rằng đó là thứ thơ văn xa lạ với quyền lợi của nhân dân. Cũng do những thành kiến tai hại đó chi phối mà một thời gian dài, trừ Thạch Lam còn hầu như toàn bộ Tự lực văn đoàn bị đẩy vào bóng tối, một kiệt tác như Chùa đàn không làm sao được ló mặt trong Tuyển tập của Nguyễn Tuân, còn thơ Nguyễn Bính trong Tâm hồn tôi, một ngàn cửa sổ, Mây Tần thì giống như số phận của người chị trongLỡ bước sang ngang “... Chị giờ sống cũng bằng không - Coi như chị đã ngang sông đắm đò”. May mà tình hình bung ra trong ngành xuất bản mấy năm nay gỡ lại hộ, nếu không rất nhiều báu vật trong kho tàng văn học dân tộc bị xếp xó, nhiều tên tuổi bị quên lãng, nhiều cuốn sách trở thành những kỷ niệm mà may ra lớp người đi trước mới biết là có!
Trên nguyên tắc, chúng tôi chia sẻ với ý kiến của Nguyễn Huệ Chi là phải lấy tiêu chí chủ nghĩa nhân bản để bổ sung cho tiêu chí chủ nghĩa yêu nước, ngõ hầu giải phóng cho khoa lịch sử văn học khỏi những hẹp hòi thiển cận hiện nay. Vả chăng cũng đã đến lúc bản thân từng khái niệm nhân đạo, yêu nước đòi hỏi một cách hiểu đa dạng cởi mở hơn. Một tác phẩm trong đó tác giả nói to lên rằng mình thương xót những người nghèo khổ đã đành là có tư tưởng nhân đạo. Nhưng nếu chỉ giới hạn chủ nghĩa nhân đạo trong một nghĩa cụ thể như vậy thì đã tự mình làm nghèo mình đi rất nhiều! Những bài thơ cuốn truyện có tham vọng trình bày kỹ lưỡng những khía cạnh tế nhị trong quan hệ giữa người với người, và phanh phui cho hết cái quanh co phức tạp trong cuộc đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng trong từng tâm hồn con người, những tác phẩm đó lẽ nào không được ghi vào bảng vàng của chủ nghĩa nhân đạo? Tương tự như vậy, yêu nước không chỉ là tham gia chống ngoại xâm, trong thực tế lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước còn được bộc lộ ở nhiều hình thức khác mà hiện nay chúng ta tổng kết chưa hết. Bản lĩnh của một dân tộc không phải chỉ bộc lộ ở khả năng giữ gìn giang sơn bờ cõi ở đó các thế hệ nối tiếp đã sinh sống. Bản lĩnh một dân tộc còn phải được xem xét ở khả năng của dân tộc đó trong việc tìm ra cách sống hoà hợp với các dân tộc khác, tiếp nhận một cách thông minh những ảnh hưởng văn hoá ngoại nhập đó để làm giàu cho đời sống tinh thần của mình. Trên ý nghĩa ấy mà xét tất cả những đóng góp nhằm làm cho đất nước ngày một canh tân đổi mới, xã hội ngày một văn minh tiến bộ thực chất đều đáng được xem là hành động yêu nước thương nòi, cũng tức là đáng được khoa học lịch sử - trong đó có lịch sử văn học - ghi nhận đầy đủ.
1991
(1 )Trong cả ba đoạn trích dẫn này, chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi
(2) Trích từ Ca tụng lịch sử bản dịch tiếng Nga, Nxb Khoa học, Moskva, 1973.
Lần đầu in Tạp chí văn học 1991,
số 3, dưới bút danh Vũ Tam Giang.In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại
hóa văn học 2006 Phê bình và tiểu luận 2008
Published on November 27, 2015 18:01
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
