Vương Trí Nhàn's Blog, page 58

May 8, 2016

Ta &người

Người Việt và việc tiếp nhận văn  hóa nước ngoài

 trong con mắt của một số trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX









       Trong các công trình nghiên cứu văn hóa của một quốc gia,  thường người
ta không quên để riêng một phần nói về lịch sử giao lưu văn hóa của
nước chủ nhà với các nước khác, các nền văn hóa khác. 



       Nhu cầu tự nhận thức buộc người ta phải làm vậy. Không một dân tộc nào chỉ sống khép kín mà không quan hệ với các cộng đồng khác. Tối thiểu thì trong mối quan hệ này, các dân tộc sẽ học hỏi để ngày mỗi trở nên mạnh mẽ hơn giàu có hơn.  Còn nói cho to tát ra thì đây chính  là chỉ số đánh dấu trình độ 
trưởng thành của mỗi dân tộc  với tư cách một bộ phận của nhân loại.

         Trong quá trình này, ý thức về ta và người nẩy sinh, nó cũng là một khía cạnh làm nên  tâm thế làm người, một hằng số lặp đi lặp lại ở nhiều thế hệ.

         Hiện trong các công trình nghiên cứu về văn hóa VN,  vấn đề này gần như chưa được đặt ra.  Song ở dạng những nhận xét tạt ngang, nó đã được các nhà trí thức các
nhà hoạt động văn hóa trong quá khứ quan tâm và phát biểu đây đó. Mấy năm trước chúng tôi đã trích lục một số ý kiến này để đưa vào mục Người xưa cảnh tỉnh, in rải rác trên mặt báo.  Nay xin hệ thống hóa lại và giới thiệu chúng theo trình tự thời gian mà
các tác giả đã phát biểu. Các đầu đề nhỏ là do người biên soạn đặt.

























Sống như mơ ngủ

     
Nước ta từ ngày Pháp sang bảo hộ trên mấy mươi năm, người mình học Tây
học chỉ làm được việc phiên dịch nói phô mà thôi, không có ai hấp thu
được chỗ tinh tuý, phăn (phanh) tìm đến nơi màu nhiệm về mà đào tạo ra
học trò để làm việc vẻ vang cho nòi giống. Trái lại, bụng không một hạt
gạo mà nói chuyện thi thư (1), tay không nửa đồng mà tự xưng Khổng Mạnh.
Có lẽ da thịt huyết tuỷ của người nước mình mấy ngàn năm nay đã bị cái
hấp lực của huyết dẫn người Tàu chi phối hết cả, nên ngày nay đành làm
nộm rối cho người Tàu mà không tự biết chăng? Không thế thì sao lửa đốt
bên da mà không biết nóng, sét đánh ngang trán mà không biết sợ, thày
hay bạn giỏi ở một bên mà không biết gắng sức bắt chước bước theo. Thậm
nữa trằn trọc tráo trở, một hai toan tìm một nước thứ ba nào yêu thương
mình mà vui lòng làm tôi làm tớ.

   
Hiện trong lúc ngủ say mới tỉnh, xu hướng chưa định, học mới học cũ ngả
đường phân chia công hội thương hội chương trình chưa nên, thành hiện
ra một cái quái tượng, đầy nhà rối rít ồn ào, chưa giải quyết vội được.





(1)   Nghĩa gốc: Kinh Thi và Kinh Thư. Ở đây chỉ việc học hành ở trình độ cao 





 Phan Châu Trinh

 Hiện trạng vấn đề, 1907





Tuỳ tiện cẩu thả trong giao lưu tiếp xúc

   Xét nước ta các đời thụ phong Trung quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ vang.

      
Kẻ lấy Trung quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối (1): vua nhác, tôi
nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời
cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta (2) lại càng nhiều.

     
Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung quốc coi như vinh dự. Những
kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than
tiếng cười của sĩ phu Trung quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ
vang.

      Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.





(1) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại

(2) triều ta đây tức là nhà Nguyễn

 Phan Châu Trinh

 Nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp,1912





Sang đến xứ người

cũng không biết đường học hỏi 

    

    
Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn (1) với
Nhật Bản, thấy họ tiến  thì nức nở khen, chứ không khi nào chịu xét vì
sao họ được tiến tới như thế ? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu
mạnh  hay họ còn trau dồi đạo đức sửa đổi  luân lý mới được như ngày nay
?

     
Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật về, không đem cái hay
cái tốt về cho dân nhờ  mà chỉ làm giàu thêm tính nô lệ !

       Hay là người  mình như kẻ đã hư phổi rồi cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng ?!

     
 Lấy lịch sử mà  nói thì dân tộc Việt Nam  không phải là không thông
minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay (2) mà vẫn
còn mê mê muội muội  bịt mắt vít tai  không  chịu xem xét không chịu học
hỏi lấy  cái hay cái khéo của người. 





(1) cùng theo đạo Khổng cùng sử dụng chữ Hán

(2)  tính tới thời điểm  tác giả nói trong bài này, nước Pháp mới đô hộ nước ta 60 năm 

                                                                           

                                                                                                      

                                                                            Phan Châu Trinh

 Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925      





Dễ ỷ lại

   Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây – Việc gì vợ goá lo ngày lo đêm.
Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ
trông ngóng, nếu Ngô không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao
giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một
đống bồ nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao? Thì chỉ vì ỷ lại.

   

Phan Bội Châu

 Cao đẳng quốc dân,1928





Thạo sử người hơn sử mình

      Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân ta như thế nào.

       Họ chỉ biết Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao.

       
Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt, mà không biết các bề tôi Tô
Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào.

      
Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà cao thăm thẳm,
nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ
phát nguyên từ nơi nào.

     
Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn
tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả.

       
Người nước ta lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đã không
chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà lại đi tiêu thụ hàng
hoá giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ hàng tơ lụa, hàng thêu,
hàng đoạn (2) …, chúng ta đều
đi mua sắm từ bên Trung quốc về dùng. Rồi dần dà lâu ngày, linh hồn của
dân ta tự nhiên bị đổi dời, trí não của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà
ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta chuyên trọng Bắc sử (3) mà
thôi.





(1)   Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin v..v..

(2)   Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn

(3)   Tức lịch sử Trung Hoa

 Hoàng Cao Khải

 Việt sử yếu, 1914





Học đòi làm dáng một cách sống sượng

     
Cứ chiều đến, độ sáu bảy giờ, đứng ở góc hồ Hoàn Kiếm, trông kẻ đi qua
người đi lại, thấy ngứa mắt quá. Nhất là trông mấy ông ăn mặc quần áo
Tây. Gớm sao mà khéo bắt chước, giá sử sự học hành, sự buôn bán mà cũng
bắt chước được khéo thế thì hay quá! Ông cổ cồn trắng, cổ nút xanh, nút
đỏ, đầu thì mũ cỏ, tay thì ba toong, giày thì bóng nhoáng, hai ngón tay
thì khéo gẩy gẩy cái nách áo gi-lê. Ông ngồi xe thực khéo lấy dáng. Ngày
xưa cái ô lục soạn, cái điếu thuốc lá bọt. Nay những cái ấy đã cho là
đồ cũ rồi. Cái xe Nhật Bản bây giờ cũng bỏ. Bây giờ có xe cao su, êm hơn
mà ngồi ưỡn ra bệ vệ hơn nhiều. Tay cầm quyển sách hay là cái nhật
trình (1), mắt giả lờ trông thì lại ra tuồng (2) nữa.

    
Em (3) thực là người hiếu (4) sự duy tân. Cách ăn mặc An Nam đội cái
khăn bằng cái rế, búi tóc như quả bưởi, áo lướt tha lướt thướt, giày lẹp
cà lẹp kẹp, móng tay gãi đầu như người rũ chiếu, thì cũng bẩn lắm thực.
Em cũng muốn rằng người An Nam ăn mặc cho gọn gàng sạch sẽ diện mạo
tinh nhanh, nhưng mà thấy những trò sài sơn (5) của các ông cũng ngứa
mắt lắm.





(1)               báo ra hàng ngày

(2)    trông có vẻ phường tuồng

(3)   bài này in trong mục Nhời đàn bà của Đăng cổ tùng báo, ký Đào Thị Loan nên tác

giả xưng em

(4)    ưa thích

 (5) chúng tôi chưa tra cứu được chỉ đóan là  làm dáng ăn diện

 Nguyễn Văn Vĩnh

 Đăng cổ tùng báo, 1907





Thị hiếu tầm thường

       Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm.

      
Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ
núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng. Cầu quán con
con, thuyền bé lí tí. Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn.

       Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ chẳng ra hoạ.

       
Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu giường. Hoành phi câu đối thì
chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1). Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con
dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn
trọng khéo. Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.

      
Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo. Mà càng bắt
chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu, càng xấu bấy nhiêu.

       
Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi
ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên cuồng. Học chẳng phải mà
bắt chước chẳng phải.

       
Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên
bắt chước phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề
nguyên lành hoá nghề lang lố (4).





(1)   phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán.

(2)   vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; cả câu ý nói sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.

(3)    kém đi, hỏng đi

(4)   Nghĩa như nhố nhăng

 Nguyễn Văn Vĩnh

 Đăng cổ tùng báo, 1907





Vay mượn tuỳ tiện

thêm thắt lung tung  

      Ngày nay có cải lương (1) gì, thì chỉ sợ rằng trái đạo lý cũ của mình.

         Đạo lý cũ của mình là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà cúng phải tìm trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên Tàu các ông ấy khóc cha ra làm sao, thì cứ thế mà khóc.

        
Gián hoặc (2) trong hai cách có điều gì khác nhau thì cũng biết vậy,
lúc túng việc thì vớ được quyển nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo
một lệ nào đó, thì là nhà văn phép.

         Trong cả các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước những cách vô lý.

        Tấn tuồng thì lấy trong các sự tích của Tàu, mà lúc ra hát thì quên cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân chỗ nào hát được mấy câu nam thì nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi hài thì khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, thì làm mãi.





(1)               cũng tức là cải cách

(2)                thỉnh thoảng, giá như

(3)               thời ở đây tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian

(4)               nam: vốn được hiểu là những gì mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành nôm. Chữ nam thứ hai thì dùng như một động từ





 Nguyễn Văn Vĩnh

 Tật huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913





Học không biết cách

     
Về đạo cương thường cứ nói rằng ta thâm nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm
rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm cả.

       
Trong hết cả số người theo Nho học thì hoạ là có mấy ông vào bực giỏi,
hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ
thấy người ta học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có
định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy vào tính tình
riêng của người nước mình nó ra sao...

       
Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới
chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có, cho đến những điều mình
không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ. Cương thường
đạo lý toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh có điển.





(1)                ảnh hưởng sâu sắc

(2)                tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp

(3)               bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật của đời Đường





 Nguyễn Văn Vĩnh

 Đông dương tạp chí, 1913





Học đòi vặt vãnh

bỏ qua chuyện lớn





      Quái lạ
cho người đời, hễ ai bảo cải lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương ách
ăn mặc bắt chước theo lối Âu Tây, thời đua nhau như vịt; còn nhỡ ai
khuyên bảo nên cải lương những thói xấu nết hư -- chốn hương thôn không
nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn thời phải giữ lòng trung
tín --   thời dẫu nói rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi, chớ không thèm
nghe.

                                                                                               Nguyễn Bá Học

                                                                 Di ngôn, do Nguyễn Bá Trác thuật, Nam Phong, 1921





Nặng tính hiếu kỳ

    Cái
tính hiếu kỳ  là cái bệnh chung  trong lối học của ta, xưa kia học chữ
Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng  mà khinh rẻ những cái của
mình.

       Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình  cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới.

       
Thành ra núi sông đình miếu  nước Tàu thì biết  mà núi sông đình miếu
nước mình thời không hay; danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam
thắng tích nước mình thì không tường; lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp
liệp (1), mà lịch sử địa dư nước mình  thời mịt mù; phong tục nhân vật
nước Tàu thời tường tất  mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm.

         Mà có phải mình thiếu gì cái  đẹp cái hay, cái đáng ngắm …





(1) cũng  có hiểu ít nhiều

                                                                                                 Dương Quảng Hàm

                                                          Học sao cho phải đường, Hữu thanh, 1921









Không có can đảm là mình

      Ông Dorgelès trong quyển Con đường cái quan có nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày
xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu
cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm mà nhà cửa đã
theo Tây thời rất dễ dàng, mà nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình
như phải dịch tiếng mình ra tiếng nước ngoài.


  ...
Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì lâu dần sẽ
giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi màu
da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn
.”

    Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng phải.

   
Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mới đầu
có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can
đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)...

      Mà cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang thương
có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức
tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué!

   
Người Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hoà, cách mạng, cá nhân,
vật lý học, kỷ hà học (3)... Vì lòng sốt sắng làm cho tiếng nước nhà
giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy.

      
Người mình thì không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng
nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong
ấy đã sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ
cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.





 (1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: Trải qua một cuộc bể dâu Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình

(2) Một câu trong Cung oán ngâm khúc: Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

(3) Tức hình học

(4) Tức từ điển

 Nguyễn Duy Thanh

                                                Muốn cho tiếng An Nam giàu, Phụ nữ tân văn, 1929





Bắt chước không phải lối

    
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng
thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy
những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm
vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự
hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa.

   
Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi
còn cái tinh thần ở trong, phi(1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hoá
(3) đi thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt
chước của mình chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của
mình.

    
Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là
mình làm điều có ích cho sự tiến hoá của nòi giống. Không ngờ rằng sự
bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội.
Mà sự lầm lỗi ấy chỉ mỗi ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.





 (1) không phải

 (2) thâm nhập

 (3) thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá

 (4) nghĩ lầm





 Trần Trọng Kim

 Nho giáo, 1930

Óc sùng ngoại nặng nề

     Anh thợ vẽ cầm lấy cái bút là vẽ ngay phong cảnh Cô tô thành ngoại Hàn Sơn tự; thầy đồ cầm đến cái bút là tả ngay lịch sử Hán Cao Tổ Trương Lương Hàn Tín; anh phường tuồng ra trò là diễn ngay tấn Lưu Bị Quan Vũ Trương Phi.

      Thổ sản thổ hoá (1) mà hễ cái gì tồi thì cho một tiếng “nam “vào để giễu, như cái áo tơi gọi là áo cừu nam sột soạt, anh chàng dở người mà hay bàn thời thế họ gọi là Gia Cát nam. Cái gì tốt thì cho một tiếng “tàu “vào để khen, như măng khô gọi là măng tàu.

      
Ấy cũng vì tư tưởng đã thiên di (2)như thế mà những nhà chế tạo nội hoá
rất khốn khổ, đồ tốt không bán được phải thất nghiệp, mà những đồ thô
bỉ tầm thường thì may còn ngoi ngóp sống để kiếm ăn với những người quê
mùa nghèo khó.





(1)   hàng trong nước làm ra

(2)   biến chuyển





 Nguyễn Trọng Thuật

 Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931









   Khi  học hỏi người, thường thiếu  tự tin

    Cách
học muốn cho bằng người  thì phải biến hoá khác đi. Nay cứ toàn mô
phỏng, thấy không thể theo cho bằng được, bèn sinh lòng tự tiện (1), là
mình tự khinh cái tài của mình; tự tiện quá rồi tự khí (2) tự bỏ cái tài
của mình, cho mình là đồ bỏ.

     Mà đồ bỏ thật, vì học không có cái gì dùng được như mẫu của người.

     Cũng vì thế mà bao nhiêu cái hay không còn gì nữa.

      
Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng, ta phải hết sức từ bỏ cái
căn bệnh cẩu thả, cái tính tự tiện tự khí. Không thì về xã hội  lại cứ
lười biếng a dua  không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác
tự tin. Về kẻ học giả lại cứ tham cận lợi (3), nhai văn nuốt chữ, lấy
học đường của nước văn minh làm con đường tắt hiển vinh, học đến bao giờ
cũng chung vô sở đắc  (4).  

                                                                            

(1)  tự tiện đây là tự coi rẻ mình coi mình là hèn;  khác với  tự tiện có  nghĩa làm theo ý thích hiện nay hay dùng

(2 ) tự làm hỏng mình

(3) lợi ích trước mắt

(4) cuối cùng vẫn không có gì là của riêng mình  

                                                                                   Nguyễn Trọng Thuật

                                                                                       Điều đình cái án quốc học, 1931













Chỉ biết học cái bề ngoài

    
Người mình vốn có cái thiên tính dễ đồng hoá, nghĩa là có tư cách(1),
dễ am hiểu dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với mình, dễ đem những điều
hay điều dở của người ngoài mà hoá làm của mình.

      
Nhưng cái tài đồng hoá đó thường thường chỉ là cái khoé tinh (2), biết
xem xét và bắt chước của người, phảng phất ở bề ngoài, chứ không thấu
triệt được đến chỗ căn để (3), chỗ tinh tuý.

    
Tỉ như thợ An Nam thì phỏng chép tài lắm; những hình dáng kỳ đến đâu,
những kiểu cách lạ đến đâu, họ bắt chước cũng được như hệt cả.

       Cái cách đồng hoá dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt.

      
Như học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu
được thấu, đã hoá được hẳn những cái người ta dạy mình, và chưa chắc cái
học tiếp thu được dễ dàng như vậy nó đã làm cho óc được khôn ra, người
được chín ra chút nào.

      
Có những người mặc thì mặc theo đúng mốt tối tân ở Paris, nói năng ba
hoa đi đứng đường đột; bề ngoài như vậy mà bề trong nghị luận mơ hồ, tư
tưởng lộn xộn, không có thống hệ (4), không biết bắt chước lấy cái lối
nói năng gãy gọn, biện lẽ phân minh như người Tây phương.





(1) nghĩa cũ: tài lực trình độ khả năng

(2) mánh khóe ranh ma

(3) gốc rễ

(4) ngày nay hay nói ngược lại: hệ thống

 Phạm Quỳnh

 Giải nghĩa đồng hoá, Nam Phong, 1931









                                                                              





Không có thì giờ lo đến văn hoá,

đành đi vay mượn

   
Cả cuộc lịch sử của nước Nam là một cuộc chiến đấu vô hồi vô hạn đối
với người Tàu hoặc bằng võ lực, hoặc bằng  ngoại giao, hằng ngày chỉ nơm
nớp sợ bị nội thuộc lần nữa. Cái công của các tiên dân ta chống giữ cho
non sông đất nước nhà, can đảm vô cùng, kiên nhẫn vô cùng, thật đáng
cảm phục.

   
 Nhưng cả tinh lực trong nước đều chuyên chú về một việc cạnh tranh để
sinh tồn đó, cạnh tranh với một kẻ cường lân (1) hằng ngày nó đàn áp, để
cố sinh tồn cho ra một nước độc lập, còn có thì giờ đâu, còn có dư sức
đâu mà nghĩ đến việc khác nữa.

      
Cái quan niệm quốc gia bị nguy hiểm luôn nên thường lo sợ luôn chiếm
mất cả tâm tư trí lự, không còn để thừa chỗ cho những quan niệm khác về
văn hoá về mỹ thuật.

      
Nói riêng về học thuật  thì đã sẵn cái học của Tàu đó, tiêm nhiễm vào
sâu từ thuở mới thành dân thành nước, không thể tưởng tượng được rằng
ngoài sách vở của thánh hiền  còn có nghĩa lý (2) gì khác.

 (1)kẻ hàng xóm mạnh

 (2)Cái lý thuyết  phải theo





                                                                                                             Phạm Quỳnh

                                                                                                  Bàn về quốc học, 1931





Tâm lý ỷ lại, chịu  làm học trò suốt đời 

   
Địa lý lịch sử, chính trị  đều như hiệp sức nhau lại  mà gây cho nước
ta  một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư tưởng. Bao nhiêu
những người khá trong nước  đều bị cái tình  thế ấy nó áp bách  trong
mấy mươi đời  nên dần dần lập  thành một cái tâm lý riêng, là cái tâm lý
ỷ lại vào người  chứ không dám tự lập một mình ; trong việc học vấn 
thì cái tâm lý ấy là tâm lý làm học trò suốt đời.

     
Nước ta  ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng
thành  đều nấp  bóng nước Tàu  mà sinh trưởng, khác nào như  một cái
cây  nhỏ mọc bên một cái cây lớn, bị nó “ cớm “  không thể nào nẩy nở
lên được.

Phạm Quỳnh

                                                                                                  Bàn về quốc học,1931





Học người  cũng không xong

      
Phàm phóng chép (1) của người chỉ phóng chép được những cái thô thiển
trước, còn đến cái tinh tuý thì phải công phu lắm mới nhập diệu (2)
được.

      
Thử xét trong những kẻ tự xưng là hạng tân tiến (3), mấy người đã học
được đến nơi đến chốn? Mấy người có thể đối đáp nghị luận với tây, nói
những chuyện văn chương mỹ thuật, chính trị triết học mà người ta phải
chịu phải phục? Hay là phần nhiều chỉ mới học mót được mấy câu văn sáo
đã đem ra mà huyễn diệu (4) đồng bào?

      
Ấy là không nói những kẻ học chữ tây cũng còn chửa thông, nói một câu
không khỏi sai mẹo, mà cũng làm ra mặt thông thạo các lối văn minh mới,
nhất thiết tự xưng là duy tân cả, coi văn hoá cũ của nước nhà như cỏ rác
hết.

        Tưởng học được của người những gì hoá ra chỉ học được những thói tự do rởm, bình đẳng xằng, những cách du đãng phóng túng với cái tính khinh bạc ngạo mạn mà thôi.

         Lắm lúc trông thấy cái kết quả bất lương đó mà ngờ rằng nếu học tây mà đến thế thì thà không học nữa còn hơn.

       Cái học kia làm cho người ta nước giàu dân mạnh của khéo người khôn, có đâu lại tạo ra những cái quái vật như vậy?!

      Hay mình như cái đất xấu, hạt giống tốt trồng vào rồi mọc lên cũng thành ra cằn cọc?





(1) bắt chước

(2) đi tới cái thần khí sâu xa của sự việc

(3) tức hạng hướng sự học sang Tây phương, hồi đầu thế kỷ XX

(4) khoe khoang (với ai đó)

 Phạm Quỳnh

 Phong hoá suy đồi, Nam Phong, 1932









Chưa biết trở thành chính mình  

      Tôi
không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đã nói: “Những thanh
niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo
chắc chắn ”.

         Lời bình phẩm có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự thực.

       Vì sự thực cái bệnh ỷ lại là bệnh của ta và đã ăn sâu vào trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.

      
Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở trong văn chương mà ở
khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống
một cách lười biếng và cẩu thả.(...). Cẩu thả và biếng nhác trong sự ăn,
sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn tư tưởng.

        
Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta;
ta chỉ muốn hưởng thụ những của sẵn và cam tâm làm kiếp con ve của thơ
ngụ ngôn (1).

        
Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo
lý cao xa. Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là
những người Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam
cả.





(1)   ý
muốn nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để
sống qua ngày. Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine
Con ve và con kiến, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.





 Lưu Trọng Lư

 Một nền văn chương Việt Nam, Tao đàn 1939









Hợm hĩnh quá đáng

     
Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm
rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung quốc. Sự thác giác (1)
ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ.

      Lê Thánh Tôn phê bình hai câu thơ của Thân Nhân Trung quan đại học sĩ tại triều mình Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn cảnh - Hàn giang thi lạc dạ tam canh hợm hĩnh cho rằng dù Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức (2)… cũng vị tất đã nghĩ được ra.

      Gần này người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều (3): Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán -- Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.

     Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn đáng gọi là thịnh hơn các triều khác; nhưng nếu bảo vượt qua cả Hán Đường thì quá lố!

     Những lời tự khoe ấy cần phải cải chánh.





(1) lầm tưởng

(2) các thi hào nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung quốc.

(3) tức triều Nguyễn





 Phan Khôi

 Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta,Tao đàn,1939









Trì trệ và bất lực

    
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho
đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không
còn một chút hoạt lực (1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào
nữa.

      Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách.

      
Phụ hoạ với triều đình, họ đã lấy cái học bã giả (2) của Tống nho dựng
một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới
địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.

      
Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả
mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, -- đẳng cấp nho sĩ Việt
nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa
công phu nhưng không chút sinh khí.

      
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng
cấp nho sĩ, và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo
xã hội có tính chất cấp tiến.





(1) sức sống

(2)điều ai cũng biết.





 Lương Đức Thiệp

 Việt Nam tiến hoá sử,1944

Thoả mãn  với việc

mô phỏng bắt chước

    
Vô luận là vấn đề gì,  về quốc kế hay dân sinh cũng như về luân lý hay
triết lý, kẻ sĩ nước ta  đều thấy các thánh hiền  Trung quốc giải quyết
sẵn cho mình  rồi, cái công phu của mình  chỉ là thuật lại để thực hành
cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.

     
Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng
ta lại phải hãm  lại  cô lại cho vừa  với kích thước khuôn khổ của
chúng ta.

      
Bởi thế chính  trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, người ta
thấy  có những nhà nho kinh luân như Tô Hiến Thành,  nhà nho anh hùng
như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An,  nhà nho khẳng khái
như Nguyễn Trãi, mà  tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng một nhà
triết học nào.

     
Chúng ta chỉ có những nhà  nho lao tâm khổ tứ  để bắt chước thánh hiền 
mà cư xử  và hành động cho hợp với  đạo lý  chứ không có  nhà nho nào
dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xưa  mà băn khoăn  khao khát đi tìm 
đạo lý mới.





Đào Duy Anh

Việt nam văn hóa sử đại cương * 1950

 *Đây là bộ sách Đào Duy Anh viết ở Thanh Hóa những năm kháng chiến chông Phap. Không phải Việt nam văn hóa sử cương 1938     





Nền văn hoá của kẻ yếu

    
Hình như sống dưới cái bóng của cái khối văn hoá Trung quốc, sừng sững ở
bên mình như cả núi Thái Sơn, văn hoá chúng ta chỉ cố sức để man diên
(1) ở trên mặt đất chứ không có cái khuynh hướng trổ vọt lên trời.

      Để sống còn, chúng ta chỉ cốt bám chặt lấy đất như bám lấy cái nguồn sinh khí.

     
Cho nên chúng ta không có cái vinh dự là có những tổ tiên chọc trời
khuấy nước, làm chấn động thế giới bằng những tư tưởng hay hành động,
nhưng chúng ta lại đã may mắn có được những tổ tiên cần cù, kiên nhẫn
biết sống thiết thực và biết tổ chức cuộc sống một cách thích đáng để
đối phó với vận mệnh khắc nghiệt của mình.

      Cái giá trị tranh đấu chúng ta nhận thấy trong cái tính chất thiết thực ấy lại tuồng như chỉ là tiêu cực.

     
Ngay trong văn hoá bình dân, cái văn hoá phát triển ở ngoài phạm vi ảnh
hưởng trực tiếp của Hán hoá, tuy có lộ rõ cái tinh thần chống đối luân
lý lễ giáo của nhà nho, thế mà cũng chỉ là sự chống đối của kẻ yếu.

     
Có những người sau khi làm tròn phận sự một người quân tử ở đời thì rũ
sạch nợ trần đi tìm nhàn hạ ở nơi thôn dã, hay có người bất bình với
thời thế khiến mình không thể làm tròn phận sự được mà đi tìm an ủi ở
sơn lâm.

    
Nhưng thảy đều là những người chỉ cầu tự nhiên cấp cho những thú thanh
cao để di dưỡng tính tình mệt mỏi, chứ không ai dám đem tâm trí mà tìm
tòi mà tra hỏi tự nhiên.





 (1)  bò lan như cây cỏ





 Đào Duy Anh

 Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 08, 2016 02:57

May 4, 2016

Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trong sự hình thành tiểu thuyết Việt Nam trước 1930

Thời trung đại, văn học
Việt Nam chưa có tiểu thuyết; sự hình thành tiểu thuyết theo nghĩa
đúng đắn của khái niệm ấy chủ yếu diễn ra trong thế kỷ XX với những ảnh hưởng
rõ rệt của văn hóa phương Tây, tiểu thuyết phương Tây. 


 Đấy là nhận thức
thường thấy ở nhiều người và là nhận định bao quát trong các cuốn văn học sử dạy ở nhà trường. 

Muốn rõ thêm người ta còn nói rằng ảnh hưởng mới mẻ
này là khía cạnh làm nên sự khác biệt giữa văn học Việt Nam thời
trung đại và thời hiện đại.

 Để bổ sung cho một
nhận định một chiều như vậy, trong bài viết này chúng tôi muốn lưu ý: ảnh hưởng
nước ngoài trong thời hiện đại còn bao hàm cả sự có mặt và tác động của tiểu
thuyết Trung Quốc, hoặc nói theo một cách gọi vốn có trong lịch sử, là tiểu
thuyết Tàu. Văn hóa Trung Hoa là môi giới giúp chúng ta làm quen; là khoang
đệm; là điểm đến đầu tiên, trên con đường dài đến với văn hóa phương Tây (1).
Từ đây có thể rút ra một số quy luật tiếp nhận văn hóa nước ngoài của người
Việt, xem đó như một nhân tố thường xuyên tác động vào sự hình thành bản sắc
Việt trong lịch sử.



 Từ 1939, Lưu Trọng
Lư từng khái quát “Xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là
những người Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam cả”.
(2) Trong cái vẻ như là bốc đồng, như tiếng kêu buột miệng của một nghệ sĩ, câu
nói vẫn có cái hạt nhân rất chính xác của nó. Quay sang tiểu thuyết, và trên
tinh thần làm rõ hơn một nhận định, chúng tôi mạn phép đề nghị một công thức
như sau: Xưa kia chúng ta định làm người Tàu mà dang dở không thành.
Lúc học theo phương Tây, chúng ta là”những người Tây theo kiểu Tàu”. 
Mãi
về sau cái chất phương Tây kia mới đậm nét hơn. Tới những năm ba mươi, đã có
thể nói chúng ta chẳng phải Tàu mà chẳng phải Tây. Ta là Việt Nam.
Nhưng cái chất Việt Nam này độc đáo không phải ở thành phần của nó mà
là cái phương thức, cái cách các thành phần đó kết hợp lại.




 Chung quanh các
tiểu thuyết ra đời


ở Sài Gòn Lục tỉnh cuối
XIX đầu XX


 Văn xuôi cổ Việt Nam đã
không phát triển mà văn xuôi dịch coi như không có. Lý do một phần là ở văn tự.
Lý do lớn hơn là ở trình độ tư duy tự sự của người Việt (3).

 Thế nhưng từ khi
người Pháp đặt chế độ cai trị, một xã hội mang tính cách tư bản hình thành, thì
cái sự non nớt trì trệ ấy không thể tồn tại. Sự kiện còn ghi nhận được là việc
chủ bút người Pháp của tờ Nông cổ mín đàm cho in bản dịch Tam
quốc chí
 mới dịch ra tiếng Việt (1901). Để góp phần vào việc phổ biến
chữ quốc ngữ, ý định ban đầu là thế. Rồi một việc ngoài ý định đã tới, kéo theo
sự hoành hành quá đáng của tiểu thuyết Tàu.

 Người Trung quốc
vốn có một quan niệm khá rộng rãi về hàng hóa, nói chung là về mọi sản phẩm mà
họ định làm.Trong văn học, bên cạnh các sáng tác cấp cao – trước tiên là thơ
--,có hẳn một một mảng văn chương thông thường gần đại chúng mà họ gọi là tục
văn học, chủ yếu là tiểu thuyết. Ở những vùng đất Đông Nam Á, nơi mà người Tàu
đến làm ăn sinh sống, loại văn học này càng nẩy nở, và lây sang cả bản địa. Một
người nước ngoài đến Sài Gòn năm 1822 có kể là nhà cửa ở đây khá sơ sài, không
có những nhà cao cửa rộng như bên Chợ Lớn (4). Sự chênh lệch đó chắc kéo dài
suốt thế kỷ XIX và nó là tình trạng thấy ở cả kinh tế, thương mại, văn hóa,
nghệ thuật. Theo Bằng Giang “nói một mình một chợ thì không đúng, nhưng truyện
Tàu nổi lên trong cái bối cảnh văn học còn nghèo nàn ở thập kỷ đầu thế kỷ XX
như một anh chàng khổng lồ”. (5)

Rồi Bằng Giang đưa ra
con số. Từ 1904 đến 1910, trong khi sách dịch của Tàu in ra tới 46 bản thì
không có một tiểu thuyết nào được viết bằng tiếng Việt (6). Từ sau 1910 thì
tình hình thay đổi. Và khoảng 1924 đến 1930, con số so sánh là 29 và 183. (7)

 Chúng tôi chia sẻ
với cách giải thích của Bằng Giang: đây là một phản ứng tự nhiên.Tại sao là
người Việt Nam  mà cứ dịch sách ca ngợi anh hùng của ai ở tận đâu
đâu, trong lúc anh hùng của đất nước ta bị quên lãng? Người ta nghĩ vậy và
người ta kéo nhau đi viết tiểu thuyết lấy đề tài là lịch sử Việt Nam.
Nhưng nên bổ sung là nhìn chung các tiểu thuyết lúc ấy, đều viết theo lối Tàu.
Cũng chương hồi. Cũng ân oán giang hồ. Cũng bốc đồng lịch sử. Thậm chí cả lối
văn nữa, một chút sơn đông mãi võ, một chút cải lương sướt mướt, ta
mô phỏng tuốt.

 Còn cái truyền
thống của Thày Lazaro phiền, viết tiểu thuyết theo kiểu phương Tây,
thì không được tiếp tục.Tác phẩm chỉ tồn tại như một hòn đảo trơ trụi.




Hà Nội ba mươi năm ấy

Tình hình ở Sài Gòn Nam
Bộ nói trên cũng có nhiều nét lặp lại ở Hà Nội Hải Phòng đầu thế kỷ XX.

 Có nhiều lý do cụ
thể để người ta dịch và đọc tiểu thuyết. Để học tiếng Việt; để tập tành trong
nghề báo chí xuất bản; để cho ra một xã hội hiện đại; mà cũng là để mua vui...
Nên nhớ là lúc ấy nghệ thuật nghe nhìn chưa có, và các phương tiện giải trí còn
rất đơn sơ.

 Đọc lại mục lục
các sách lưu chiểu, không phải là không thể kể ra một số tiểu thuyết lúc ấy
được in theo kiểu phổ thông. Nhiều cuốn dựa theo một cuốn văn dịch. Về mặt chất
lượng, chúng có vẻ những bán thành phẩm hơn là tiểu thuyết thực thụ. Nói thẳng
ra rằng mình mô phỏng truyện nước ngoài lúc ấy không bị ai chê cười là đạo văn,
ngược lại còn được khen là khéo biết học thiên hạ.

 Nhìn rộng ra cả
đời sống văn học, một thời gian dài, bộ phận dịch lấn lướt bộ phận sáng tác,
dịch là tất cả.

 Thể lệ cuộc thi
thơ văn của Nam Phong 1-1918 có câu:”Tiểu thuyết phải (…) tự
đặt ra, không được dịch hoặc bắt chước truyện Tàu hay truyện Tây”. (8)

 Nguyễn Công Hoan
viết trong Đời viết văn của tôi: “Về văn chương, như trong Đông dương
tạp chí
, trừ văn vần là phần sáng tác, còn văn xuôi thì dịch từ sách Hán và
sách Pháp ra, những mẩu hay về văn chương, về tư tưởng, những ngụ ngôn, kịch
bản, truyện ngắn truyện dài. Truyện dài thì là những truyện ngôn tình, những
truyện trinh thám …” (9). “Tập Kiếp hồng nhan (1923) là cuốn
đầu tiên gồm toàn truyện sáng tác chứ không vừa soạn vừa dịch (như những sách
ra trước của những người khác –VTN)” (10).

 Trong bộ Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên
 của Phạm Thế Ngũ, phần IV viết về văn
học hiện đại, có một chương mang tên Sự thành hình của tiểu thuyết mới (11).
Sau khi “thích danh” tiểu thuyết và “biện biệt” sự khác nhau giữa truyện nôm và
tiểu thuyết, ông đi ngay vào Phong trào tiểu thuyết dịch. Rồi không
cần rào đón, Phạm Thế Ngũ nói “phong trào này bắt đầu bằng tiểu thuyết Tàu
trước”.

 Đây chính là sự
thực cần làm rõ thêm.

 Về số lượng, theo
Thanh Lãng, số truyện Tàu được dịch ra nhiều khiến cho người ta say mê đến nỗi
các học giả đương thời phải lên tiếng cảnh cáo nhiều lần ở trên Đông
Dương tạp chí 
(12).

 Tại sao lại có
hiện tượng đó?

 Những ảnh hưởng
Trung Hoa vốn âm thầm như những mạch nước ngầm, những con suối nhỏ ngày đêm xâm
nhập đời sống văn hóa người Việt. Cuối thế kỷ XIX, nhiều quan chức Việt khi đi
sứ Trung Hoa đã mang về những bộ tiểu thuyết, và các nhà nho của ta hồi đó
thường tiếp nhận chay, các cụ không dịch mà truyền tay đọc thẳng từ nguyên bản.
Nay nhân có việc dịch sách Tây—các sách học thuật-- thì tiểu thuyết Tàu như cái
kho đã tích lũy sẵn chỉ cần mở ra là có hàng, sự dịch được khởi động tức thì.
Nói cụ thể có nhà buôn đặt hàng là làm được ngay. Ngô Tất Tố đã mở đầu sự
nghiệp của mình bằng việc dịch Cẩm Hương Đình (1923).

 Nếu có thể nói
rằng nhờ tiếp xúc với văn hóa Pháp, ta bảo nhau đọc và viết tiểu thuyết -- thì
cái mẫu cụ thể là tiểu thuyết Pháp, phải đợi một thời gian sau, chứ lúc này
người ta chưa thể làm theo. Vì mỹ cảm xa lạ. Vì kỹ thuật viết ta không quen,
không chừng là chưa thấy hay. Ngay dịch cũng không có người thạo tiếng. Những
người học ở trường thông ngôn ra cung cấp cho bộ máy cai trị không đủ. Chỉ một
Nguyễn Văn Vĩnh làm sao bao sân hết được. Một cách tự nhiên, người ta phải
trông vào phương bắc quen thuộc.

 Từ văn học Tàu,
một cách hiểu về tiểu thuyết dần dần hình thành. Viết theo kiểu Tàu là một bước
đệm. Hơn thế nữa, nó là hướng đi duy nhất lúc ấy dễ mô phỏng, không cần có tay
nghề lắm cũng học theo được.

 Trong mười mấy năm
tồn tại của mình, Nam Phong đã cho in 50 truyện dịch, trong đó
26 truyện dịch từ Pháp văn, 24 truyện dịch từ Hán văn (13).

 Một nhà văn --
dịch giả mà các bộ văn học sử đã ghi nhận: Nguyễn Đỗ Mục. Ông nổi tiếng đến mức
Thanh Lãng viết: “những truyện dịch ở Tàu của Nguyễn Đỗ Mục và ở Pháp của
Nguyễn Văn Vĩnh gây hẳn trong phong trào dân chúng một phong trào say mê đọc và
viết tiểu thuyết... Truyện dịch của Nguyễn Đỗ Mục rồi đây sẽ gây hẳn một phong
trào tiểu thuyết rầm rộ” (14).

 Một nhân tố nữa
khiến người ta cảm thấy không khí Tàu bao trùm tiểu thuyết lúc này là ngôn ngữ.
Nguyễn Công Hoan nhớ lại rằng văn tiểu thuyết thời bấy giờ là thứ văn biền
ngẫu, nhiều câu rất bay bướm, không phải lúc cũng bay bướm. Nước Tàu vốn nhiều
mặt hàng, chứ không phải chỉ có cái món nghiêm mặt giáo huấn, như một số người
lầm tưởng.




 Ba loại tiểu
thuyết thông dụng.


 Nhìn vào mối quan
hệ văn học Việt Nam Trung Hoa từ thế kỷ XIX về trước, đã thấy hình thành một
vài khuôn thước, nói nôm na là những vệt mòn: giữa thơ và văn thì người Việt lo
học thơ nhiều hơn. Riêng trong văn, Trung quốc đã có nhiều loại, người Việt có
máu mê sáng tác nhiều thế kỷ trước gần như không ai không biết những bộ tiểu
thuyết chương hồi, tiểu thuyết dã sử... song không học theo được. Cái mà ta ảnh
hưởng là tiểu thuyết tài tử giai nhân, từ đó làm ra thể truyện nôm.

 Bước sang những
năm hai mươi, tình hình du nhập này cũng có những nét rất tế nhị, vừa do tình
hình bên Trung quốc, vừa do cách tiếp nhận của Việt Nam.

 Theo các bộ sách
nghiên cứu về văn học Trung quốc cận đại, ngay khi đặt vấn đề tiếp nhận phương
Tây, các nhà duy tân, nhất là Lương Khải Siêu, đã nhấn mạnh tới vai trò giáo
dục của tiểu thuyết, xem đó là một phương  tiện cứu quốc. Và tiểu thuyết
được hướng dẫn là phải đi vào các đề tài xã hội. Có điều loại này quá mới đối
với Trung quốc nên hơi khó. Cũng có người viết, nhưng không thành công; phải
mãi tới những năm ba mươi, thông qua nỗ lực của Ba Kim, Mao Thuẫn,Tiền Chung
Thư, Thẩm Tùng Văn.., lối tiểu thuyết ấy mới được khẳng định. Còn trong thực
tế, chiếm phần ưu thế trên văn đàn những năm hai mươi về trước là các loại tiểu
thuyết vốn có từ truyền thống, nay kéo dài, được cải tiến đôi chút, như tiểu
thuyết võ hiệp, hoặc tiểu thuyết uyên ương hồ điệp – “đó là một bước cải lương
trong tiểu thuyết Trung quốc, do đã kết hợp được dinh dưỡng của văn học nước
ngoài, kết hợp với truyền thống của văn học Trung quốc mà có” (15).

 Khi vào Việt Nam,
những vang hưởng của các loại tiểu thuyết Trung Hoa trên bộc lộ thành ba loại
chính:

 a/ nhánh võ hiệp-
dã sử, rõ nhất là trường hợp Nguyễn Tử Siêu với các bộ Trần Nguyên
chiến sử, Việt Thanh chiến sử, Vua Bố Cái, Lê Đại Hành.


 b/ thông dụng hơn,
là những tiểu thuyết dựng lại những cảnh con người lưu lạc rồi ba chìm bảy nổi,
mãi mới có dịp đoàn viên.Ở Trung quốc nó có nhiều cái tên khác nhau tiểu
thuyết xã hội, tiểu thuyết hắc mạc
 (màn đen), tiểu thuyết
khiển trách
, và ở Việt Nam, tôi tạm gọi nó là tiểu thuyết trường đời ---
tiền thân của tiểu thuyết hiện thực phê phán giai đoạn sau.

 Tác giả Việt Nam theo
đuổi hướng viết này rõ nhất là Đặng Trần Phất với các tiểu thuyết Cuộc
tang thương, Cành hoa điểm tuyết.


 Có một trường hợp,
mặc dù gần đây tác phẩm không được in lại, nhưng đương thời có ảnh hưởng lớn là Kim
Anh lệ sử
, tác giả là Trọng Khiêm. Về nội dung, Kim Anh Lệ Sử gần
với những Cảnh thu di hận, Giọt nước cành dương; trong nguyên bản
bên cạnh tiêu đề, thấy có chua thêm ”tiểu thuyết về ẩn tình xã hội”.

 c/ Còn loại mà
Phạm Quỳnh dùng lại thuật ngữ cổ điển là ngôn tình tiểu thuyết, thì
có lẽ tương đương với thể uyên ương hồ điệp vừa nói ở trên,
chúng tôi chưa có dịp đọc hết, song có cảm tưởng loại này không phát triển hoăc
có thì bị xã hội cảnh cáo nói là con đường tà dâm không nên theo; để bù lại, nó
lại có một kỳ tích mà hai loại trên không có. Đó là Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách, cuốn sách gối đầu giường của lớp thanh niên trước 1930.




Trường hợp Tố
Tâm
 và Tuyết hồng lệ sử


 Trong việc đưa
tiểu thuyết theo hướng Âu hóa, Tố Tâm (1925) là một cái mốc.
Về mặt ngôn ngữ thể loại, người ta nói nhiều tới chất tây của bút pháp tiểu
thuyết mà tác giả sử dụng. Hoàng Ngọc Phách đã rất thành tâm khi tự nhận rằng
với Tố Tâm, ông muốn ”tạo ra một tác phẩm khác hẳn tiểu thuyết
đã có”.

 Khác như thế nào?
“Về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những hình thức mới của Pháp, lối kể
chuyện tả cảnh, theo văn chương Pháp cả.Về tinh thần, chúng tôi đem vào những
tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân tích theo phương pháp của các nhà tiểu
thuyết đương thời” (16).

 Nhưng không phải
ngẫu nhiên, đọc nó, người ta nhớ ngay tới một cuốn tiểu thuyết Tàu nổi tiếng,
chắc là đã được truyền tay nhau đọc rất lâu trước khi bản dịch được công bố
trên Nam Phong. Đó là Tuyết hồng lệ sử.

 Đây vốn là một
cuốn tiểu thuyết Trung quốc, in trên Tiểu thuyết tùng báo,
1914; tác giả Từ Trẩm Á lấy tự truyện của mình để viết, ban đầu dùng lối kể
thông thường và gọi là Ngọc lê hồn, sau cải biến thành một thứ tiểu
thuyết nhật ký lấy tên là Tuyết hồng lệ sử. In ra lần đầu ở Thượng
Hải (mảnh đất Trung quốc sớm tiếp xúc với Tây phương) và đến nay vẫn được coi
là một cuốn có ảnh hưởng trong lịch sử phát triển tiểu thuyết Trung quốc (17).
Nguyễn Hiến Lê cũng kể là đương thời ở Trung quốc, tên tuổi nó vang lên như
sấm. (18).

 Riêng ở Việt Nam, Tuyết
hồng lệ sử
 là cả một thời đại của sách dịch.Trong Theo dòng,
Thạch Lam viết ”Ngày trước ta có rất ít tiểu thuyết, chỉ phỏng theo hay dịch
của Tầu. Rồi chúng ta bắt chước viết tiểu thuyết, từ quyển Cành hoa
điểm tuyết
 của Đặng Trần Phất đến quyển Tố Tâm của
Hoàng Ngọc phách, qua những tiểu thuyết dịch của Từ Trẩm Á như Tuyết
hồng lệ sử
 và Ngọc lê hồn; đó là thời kỳ tiểu thuyết
bắt đầu nẩy nở trong văn chương ta”(19).

 Hồi tưởng lại hồi
còn đi học, Xuân Diệu kể ra toàn những bài thơ buồn của Tản Đà, Đoàn Như Khuê;
rồi ông tự thú:”Đồng thời, Tuyết Hồng lệ sử dịch của Từ Trẩm Á 
lịm tôi trong những điệu ca từ thật là réo rắt tất cả quyển sách là một cuộc
nhặt hoa rơi chôn hoa rụng khóc hoa tàn”(20).

 Tới 1965, nó còn được tái bản ở Sài Gòn.

 Sự gần gũi giữa Tố
Tâm
 và Tuyết hồng lệ sử, theo Phạm Thế Ngũ, là ở mấy điểm:
Cũng những nhân vật tài tử và lãng mạn. Cũng một mối tình éo le. Thực ra còn
phải nói rõ hơn. Tình cảm Đạm Thủy và Tố Tâm cũng như Mộng Hà -- Lê Ảnh đều là
tình rất chân thành, nhưng trong hoàn cảnh bấy giờ là cái gì vượt ra ngoài lẽ
thường nên người trong cuộc sợ hãi lẩn tránh, mà tránh không nổi, kết cục đành
đầu hàng. Cuối Tuyết hồng lệ sử, Lê Ảnh ho lao mà chết. Cuối Tố
Tâm
, nhân vật chính cũng có cái chết tương tự.

“Cái điệu sầu của thời
đại”đổ ra bi ai trong những trang Tuyết hồng lệ sử, mà Tố
Tâm
 ra sau chính như một tiếng họa”(21)

 Thanh Lãng trích
dẫn mấy câu nhật ký Tố Tâm viết trước khi chết để rồi cảm khái”Thực là câu văn
đúng hệt như trong Tuyết Hồng lệ sử!”(22)

 Nguyễn Vy Khanh,
một nhà nghiên cứu hiện sống ở hải ngoại, trong một bài viết về tiểu thuyết,
khi dừng lại ở đầu thế kỷ XX cũng viết”…bắt đầu xuất hiện những tiểu thuyết
luân lý ái tình như Cành hoa điểm tuyết (1921), Cuộc
tang thương
 (1923) của Đặng Trần Phất, Kim Anh lệ sử (1924)
của Trọng Khiêm và Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á, do Mai Khê
dịch; sau đó đến biến cố Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách ra
mắt độc giả thanh niên tân học mà nội dung hình thức đã bị ảnh hưởng rõ
rệt của Tuyết hồng lệ sử
 (VTN nhấn mạnh), cộng với cái
lãng mạn thế kỷ XIX của Pháp nơi tác giả là một người tân học”(23)

 Tại một cuộc hội
thảo về văn học so sánh 2001, Đặng Anh Đào ghi nhận:

“Ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, ta tìm thấy cả Từ Trẩm Á, lẫn
Bernadin de Saint Pierre”.(24)

 Tại sao lại có sự
tiếp nhận đó? Cái lý sâu xa về phương diện tâm lý xã hội, là không khí thời
đại. Nói như Phạm Thế Ngũ, lúc ấy những người giàu tình cảm không khỏi thấy sự
trống rỗng ghê gớm trong lòng. Buồn nước mất, buồn nền nếp cũ đổ rơi, giá trị
cũ suy tàn. Buồn thất thời thất thế, buồn trơ trọi bơ vơ. Cái buồn ấy từ bậc
thức giả lan ra khắp xã hội. Người ta muốn quên, muốn được an ủi.

 Lâu nay nhiều người chỉ thấy Tố Tâm gần
với Tuyết hồng lệ sử là ở hơi văn, là ở nguồn cảm thương toát
ra qua câu chữ, là ở cách hình dung về cuộc đời, cái điệu tâm hồn của một thời
đại dang dở, cái đó đã đành. Song, cần nói thêm rằng cuốn truyện Tàu kia sở dĩ
được học theo một cách tự nhiên và nhuần nhuyễn như vậy bởi nó gần như là một
mẫu mực về phương diện thể loại. Khi nói về tiểu thuyết uyên ương hồ điệp, các
tài liệu nghiên cứu như Đại cương lịch sử văn hóa Trung quốc, Khái
yếu lịch sử văn học Trung quốc
 đều ghi nhận loại này tuy là tiếp tục
dòng tiểu thuyết tài tử giai nhân thời Minh Thanh, song đã có cộng thêm những
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cụ thể là chủ nghĩa tình cảm trong văn học
Đức Pháp (loại như Nỗi đau khổ của chàng tuổi trẻ Werther của
W. Goethe). Nó cung cấp giải pháp tạm thời cho nhu cầu thay đổi tiểu thuyết, và
chuẩn bị cho sự triệt để hơn về sau.Chính ở chỗ này, nó đáp ứng khá tốt cái
điều mà những người viết văn Việt Nam như Hoàng Ngọc Phách muốn tìm.
Cho nên, trong khi tâm trí đang để cả ở phía trời Tây, ông lại đã đến với nó
một cách tự nhiên. Hình như với nhiều người chúng ta, và trên tất cả các lĩnh
vực, cái gì cũng đã có ở bên Tầu, kể cả việc học theo phương Tây, và chỉ cần
người ta nhanh mắt nhanh tay đưa về là thành công. Gặp phút xuất thần làm được
thứ tuyệt phẩm (như Tố Tâm trong văn chương) thì không gì bằng
rồi, còn nếu như trong khi làm vội, chất lượng có sút giảm, thì với người trong
nước cũng còn là mới mẻ chán!




Nhận xét tổng hợp

 Chúng tôi đã có
lần thử nêu vài đặc điểm của quá trình văn hóa Việt tiếp nhận văn hóa nước
ngoài, chi phối cả trong thời trung đại lẫn thời hiện đại: Không có bài bản hợp
lý, thấy người ta làm thì bắt chước theo; gặp đâu hay đấy; thường khi cái ảnh
hưởng sâu sắc này nằm ngoài sự kiểm soát của lý trí người viết, tức là tiện thì
dùng, tiếp nhận đấy mà vẫn tưởng là mình chẳng tiếp nhận gì cả (25).

 Đối với văn chương
đầu thế kỷ XX, điều này vẫn có khía cạnh đúng. Sự xuất hiện của hàng loạt tiểu
thuyết cũng như của Tố Tâm xác nhận tính chất tự phát của một
quá trình.

 Nhưng hãy chú ý
một điều: hầu như đương thời, các cuốn tiểu thuyết in ra đều có kèm theo vài
lời bàn của tác giả về thể loại. Còn xét chung cả văn giới, sự có mặt của một
cuốn sách như Khảo về tiểu thuyết (1921) của Phạm Quỳnh là cả
một sự kiện mới mẻ.

 Sự học hỏi trong
nghề viết cụ thể như vậy là được mở đầu bằng tiếp nhận tư duy tiểu thuyết. Thay
cho lối mò mẫm mạnh ai nấy làm như thời trung cổ, khi nghề cầm bút còn mang
nhiều chất một thứ nghề thủ công, giờ đây lý tính bắt đầu có mặt. Sự sáng tác
đã được xã hội hóa, người viết, người dịch,người nghiên cứu, người phê bình,
chia nhau mà làm, hào hứng tin cậy.

 Đây là cách làm
chỉ thấy ở văn hóa phương Tây.

 Rồi sự học hỏi sẽ
nên công. Từ sau 1932, chúng ta có một nền tiểu thuyết gần với phương Tây của
thế kỷ XIX. Trong sự khác nhau rõ rệt -- văn của Thạch Lam, Khái Hưng, Nguyễn
Công Hoan, Nam Cao,Nguyên Hồng …vẫn gợi nhớ A. Daudet, G.Maupassant hơn là bất
cứ một nhà văn Trung Hoa hiện đại nào (26).

 Còn trong thời kỳ
mới hình thành tiểu thuyết,thì sự tiếp nhận này chưa thể nhuần nhụy hiệu quả.
Cái thấy rõ hơn là ảnh hưởng tới từ phương bắc.

 Điều đáng nói là
chúng ta thường hay lảng tránh thứ ảnh hưởng này.

 Đây là công thức
phổ biến được sử dụng khi nói về quan hệ văn hóa Việt Nam Trung Hoa, hầu như
trên tất cả các lĩnh vực:

 a/ Tối đa:”văn
hóa ta chẳng kém gì văn hóa Tàu,chỉ kẻ bắc kẻ nam phân biệt”.

 b/ Nếu không được
thì cố giữ lấy cái tối thiểu:”tất tần tật mọi thứ, ta tự nghĩ lấy
hết, chẳng học họ gì cả”.

 c/ Riêng từ đầu
thế kỷ XX tới nay:”có học thì học hẳn vào phương Tây chứ Tầu thời nay cổ rồi”.

 Mấy phương sách
trên đã đắp đổi cho nhau, tùy tình hình mà áp dụng.

 Suốt trường kỳ
lịch sử, người Tầu thao túng nền kinh tế đô thị từ các phủ huyện tới Hà Nội Hải
Phòng và Sài Gòn lục tỉnh. Nhưng các sách nghiên cứu về kinh tế thường lờ đi
không nói hoặc có nói chỉ dăm dòng chiếu lệ. Cứ tưởng không nói tới tức là sự
vật không tồn tại.

 Một bộ phận văn
hoá mà nước nào người ta cũng coi trọng là văn hóa hành chính, văn hóa cầm
quyền. Các nhân vật lịch sử có đóng góp vào việc canh tân đất nước như Lê Thánh
Tông Minh Mạng trước khi bắt tay vào việc đều cử người hoặc sang Tàu xin sách.
Không chỉ luật Gia Long”đồ”theo luật nhà Thanh, mà luật Hồng Đức cũng là được
biên soạn theo luật nhà Đường; nhưng những ai có trách nhiệm được biết điều này
đều chỉ thì thào với nhau chứ không nói với người khác.

 Thì trong tiểu
thuyết --- cái việc học Tầu để nghĩ, học Tầu để làm, là một bước đệm trên đường
đến với tư duy tiểu thuyết phương Tây, có bị lảng tránh, cũng là dễ hiểu. Trung
Hoa vẫn là cái cửa chính để văn hóa Việt Nam ra với thế giới, mà ta
vừa sử dụng thoải mái, vừa dễ xí xóa coi như không có.

 Xét tổng quát, văn
hóa Tầu là cái ta học theo khi còn quá non nớt; là yếu tố kích thích khiến ta
cố vươn tới khi có thể. Rồi là cái mà ta phải giã từ, khi đã trưởng thành --
cái thời điểm vàng son của sự trưởng thành ấy gói gọn trong khoảng 1932 -45.

 Nhưng liệu có giã
từ được không khi, mặc cho hoàn cảnh lịch sử thay đổi, các yếu tố của nền văn
hóa láng giềng kia luôn luôn như đầu tướng giặc Phạm Nhan, chặt đầu này lại mọc
đầu khác?

 Tiểu thuyết là một
trong những câu trả lời quá rõ ràng.

 Điều cần nói thêm
là do tiếp nhận văn hóa nước ngoài theo kiểu thiếu sòng phẳng này, nên ở ta sự
tiến triển nghệ thuật thường dang dở, bản sắc không sao xác lập được rõ nét, mà
lâu dần rồi cái sự mờ nhạt kia lại trở thành một bản sắc ổn định./.







Chú thích




(1Không phải là không có người xác định rằng bên cạnh ảnh hưởng phương Tây thì ảnh hưởng Trung
Hoa trong thế kỷ XX cũng rất lớn. Nhà nghiên cứu Phương
Lựu, trong bài viết ”Quan niệm văn học của Lương Khải Siêu”, in trong Tân
thư và xã hội Việt nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
(tr 128) cho
rằng ”Do nhiều nguyên nhân về lịch sử địa lý và văn hóa, mối liên hệ về quan
niệm văn học giữa Việt Nam và Trung Hoa là liền mạch một cách tất yếu. Nhưng
dường như giới nghiên cứu mới chú ý các mối liên hệ thời cổ trung và hiện đại.
Đã đến lúc phải chú ý thêm mối liên hệ ấy trong thời cận đại”. Ý kiến này của
Phương Lựu không được ai để ý và bản thân ông, theo chỗ chúng tôi đọc được cũng
không tiếp tục.

 (2) Lưu Trọng Lư (1939) ”Một nền văn chương
Việt Nam”, tạp chí Tao Đàn số 2 ra tháng 3-1939, bản in lại
năm 1998, tập I, tr 119

(3)Vương Trí Nhàn
(2004)”Vài nét về tư duy tự sự của người Việt” sách Tự sự học một số
vấn đề lý luận và lịch sử
, NXB Đại học Sư phạm 2004, tr 156-170

(4)Người nước ngoài đây
là John Crawfurd, trưởng phái đoàn mà năm 1822, toàn quyền Anh ở Bengale gửi
qua Thái Lan và Việt Nam để thương thuyết.”Theo John Crawfurd ghi trong nhật
ký, thành phố này hồi đó gồm hai thị trấn, cái bây giờ gọi là Chợ Lớn thì hồi đó
gọi là Sài Gòn, cái bây giờ gọi là Sài Gòn thì hồi đó gọi là Bến Nghé (…) Nhà
cửa của thương gia Trung Hoa trông đồ sộ hơn nhà cửa của người Việt nhiều. Đang
khi John Crawfurd đi thơ thẩn trong thành phố, ba gia đình Trung Hoa loại khá
giả nhất đã ra cửa mời ông vào chơi. Bên trong những ngôi nhà của họ trông thật
rộng rãi đồ đạc rất nhiều và tiện nghi cũng đầy đủ”. Trên đây là lời lược thuật
của Patrick J. Honey giáo sư sử học người Anh chuyên về Việt Nam. Dẫn theo
Patrick J. Honey, Trương Ngọc Phú chú giải ”Việt Nam vào thế kỷ XIX qua hồi ức
của John White, John Crawfurd, George Gibson”; tập san Nghiên cứu Huế, do
Trung Tâm nghiên cứu Huế xuất bản, tập I. 1999, tr. 216

(5,6,7) Bằng Giang
(1992) Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865—1930 NXB Trẻ,TP HCM 1992
các trang 246, 245, 255

(8) Dẫn theo Phong Lê
(2006) ”Văn học trong đời sống báo chí -- xuất bản từ nửa sau thế kỷ XIX, đến
nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 8-2006

 (9,10) Nguyễn Công
Hoan (1971) Đời viết văn của tôi Nxb Văn học các tr. 57, tr 81

(11) Phạm Thế Ngũ (1965) Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên
, ba tập, tập III,S. Quốc học tùng thư, tr. 318

(12) Thanh Lãng (không
rõ năm) Bảng lược đồ văn học Việt nam, quyển hạ (1862-1945) NXB
Trình Bày, Sài Gòn, tr 450

(13) Nguyễn Khắc Xuyên
(2002) Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, NXB
Thuận Hóa, TT Văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, tr. 385-386

(14) Thanh Lãng Sđd, tr
526

(15) Vương Văn Anh (chủ
biên), Phạm Công Đạt dịch (2005) Văn học hiện đại Trung quốc nhìn từ
Thượng Hải
 NXB Văn học, tr. 173

(16) Theo Lê Thanh – Cuộc
phỏng vấn các nhà văn
, Hà Nội 1943. Một phần cuộc phỏng vấn này được trích
trong Vương Trí Nhàn (biên soạn) Khảo về tiểu thuyết NXB Hội
nhà văn 1996, tr. 51

(17) Nhiều bộ lịch sử
văn học, nhiều tập từ điển văn học, được xuất bản ở Trung quốc đại lục cuối thế
kỷ XX , ở mức độ nặng nhẹ khác nhau đều có nói tới  Tuyết hồng lệ sử. Mạng book.ndcnc.gov.cn/ DLib/product.asp? DocID =
9695 - 9k
cho rằng tác phẩm “có một địa vị trọng yếu trong sự phát triển
hình thức tiểu thuyết” .

(18) Nguyễn Hiến Lê
(1969) Văn học Trung quốc hiện đại Tác giả tự xuất bản S.
1967, tr 134

(19) Thạch Lam
(1938)”Vài ý kiến về tiểu thuyết” xem  Vương Trí Nhàn Khảo về tiểu
thuyết,
 sđd, tr 72

(20) Xuân Diệu (2001) Toàn
tập
 sáu tập, tập III, NXB Văn học, tr.176

(21) Phạm Thế Ngũ sđd,
tr 359

(22) Thanh Lãng sđd tr
526

(23)Xemhttp://www.hobieuchanh.com/pages/baiv...

(24) Đặng Anh Đào Văn
học so sánh, lý luận và ứng dụng
, NXB Khoa học xã hội 2001, (tr397)

(25)Vương Trí Nhàn “Quá
trình du nhập của một thể tài ‘“Nguyễn Công Hoan và thể tiểu thuyết”, in trong Nhà
văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX cho tới 1945
, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2005

(26) Trong bài này,
chúng tôi xét tiểu thuyết theo nghĩa hẹp, tiểu thuyết khác với truyện ngắn. Còn
như, nếu hiểu tư duy truyện ngắn cũng là một bộ phận của tư duy tiểu thuyết rồi
nhìn vào đời sống văn học thì thấy: những năm đầu thế kỷ XX cũng là thời kỳ ra
đời của một số truyện ngắn viết theo bút pháp Tây phương của Phạm Duy Tốn, mà
nổi nhất là Sống chết mặc bay (1918). Tức là trong lúc này một
kiểu ảnh hưởng khác hẳn đã hình thành, không thông qua con đường của văn hóa
Trung Hoa. Sự Âu hóa theo hướng mà Phạm Duy Tốn mở ra khá toàn diện: Một
 ở nội dung trực tiếp đi vào các vấn đề xã hội. Hai là cái
điệu tâm hồn con người không sướt mướt sầu thảm tìm cách lảng tránh thực tế. Ba
 lối văn gọn gàng linh hoạt. Cái mới của văn xuôi thế kỷ XX được
chuẩn bị từ Sống chết mặc bay sau này sẽ được hoàn thiện với
các sáng tác của các nhà văn sau 1930. Nhưng đây là một hướng
nghiên cứu tiểu thuyết mà trong bài này chúng tôi chưa có điều kiện theo đuổi.







In lần đầu trên Talawas

31-10-2006
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 04, 2016 02:18

April 28, 2016

Hà Nội đầu 1975 ( nhật ký chiến tranh)

Loạt nhật ký chiến tranh của tôi đã đưa rải
rác trên blog này mấy năm nay và kết lại bằng phần 
 Những tháng ngày ngột ngạt -- nhật ký Hà Nội 1974 (kỳ II) đưa ngày  5-5 - 2014.  

Sau đây là phần  cuối của cuốn  NHẬT KÝ CHIÊN TRANH  này, phần  bắt  đầu từ 2-1-1975 và khép lại vào ngày 2-5-1975.





Đầu
1975


    2/1

     Hà Nội
mùa xuân, bao nhiêu màu xanh rút lại cả cho trời, và bao nhiêu màu đỏ, rút cả
vào cho hoa gạo. Tôi đã thấy nhiều hoa gạo, nhưng đẹp nhất vẫn là những khi
cành gạo nghiêng nghiêng hướng về phía mặt trời, cái cảnh này tôi chưa thấy bao
giờ, và chỉ mùa xuân năm nay, trong cảnh đèo mì chạy gạo về nhà, tôi mới bắt gặp
hoa gạo bùng nổ như vậy.


    Mùa xuân là gì? Là những mùa xen kẽ nhau. Sớm
mai lành lạnh như trời rét. Trưa trời xanh nao lòng như một ngày hè. Cùng ra vẻ
ngày hè là những viên đá rải đường, đá trắng lên sau mưa.

   Mùa xuân khuyến khích tất cả sinh sôi.

   Trên tất cả, mùa xuân là mùa của khả năng, tất
cả cái khả năng đều hình thành, và đều hứa hẹn, khiến mỗi chúng ta đều thấy nao
lòng. Cả những khả năng tốt lẫn khả năng xấu đều có mặt. Mùa xuân nuôi dưỡng
nhưng cũng có thể giết chết chúng ta bởi sự choáng ngợp của nó. Mùa xuân làm
chúng ta sướng run lên, nhưng cũng là mùa xuân gây bao nhiêu khốn khổ. Mùa xuân
phiền não, bởi mùa xuân quyến rũ.

      Thà
cứ như mùa hè mùa đông, nó thách thức bằng cái vẻ cay nghiệt của nó, lại khiến
chúng ta bình tâm.

    Thà cứ như mùa thu, ta tiếc nuối một cái gì
đã qua  bởi ngần ngại nhìn về phía trước.


    Mùa
xuân ngược lại với tất cả những mùa còn lại.

    Sao đôi lúc, tôi cứ sực nghĩ, thấy nhớ lại
những kỷ niệm mấy năm qua.

    Cuộc chiến ghê gớm này, chính vì mong muốn
qua đi, nên phải xem lại nó một cách cẩn thận. Bài học của kháng chiến chống Mỹ,
không ngoài bài học hành động, bài học sống. Sống có phương hướng, sống cả quyết,
sống biết bằng lòng với hiện tại, sống thận trọng với những gì đang có nhưng lại
biết chuẩn bị cho những ngày tới.

   Nếu hỏi ngay về khu 4, rất lộn xộn, tôi nhớ
rất nhiều.

   Nhớ
con đường thẳng ở Kỳ Anh (hiếm có nơi nào đường thẳng như vậy). Nhớ đèo Ngang, chỗ
mưa chỗ nắng; nhớ cái miếu bên đường, nơi các văn nhân thi sĩ đi qua thường ghé
lại.

   Những em bé kéo vó trên phà Ròn, trên Quán Hầu.

   Chiếc xe ô tô lặn lội vượt qua những quãng
ngầm gần đèo Lý Hoà.

    Bụi mù trên con đường Đá Mài... Đoạn đường
xóc, đường đỏ bụi, từ Vĩnh Linh ra Đồng Hới...

    Miền đông và miền tây của khu Bốn,  bắc và nam của khu Bốn. Có nơi  hoang vắng, tưởng như chỉ là một mảnh đất, để
cho những TNXP đi qua bộ đội đi qua. Nhưng bỗng chốc, người dân khu Bốn đó, như
một thứ thổ dân kỳ dị, , hiện ra như cây cỏ, như một thảm cỏ dại và  hoa rừng nảy trên mảnh đất cằn.

    Quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến giữa
người dân và chiến sĩ, đến với đất khu Bốn, thành ra một thứ quan hệ kỳ lạ: những
sự nương tựa vào nhau, những sự bóc lột nhau, vừa thương mến, vừa hành hạ. Đi
thì nhớ, ở thì thấy “kỳ “ không quen, bởi không bình thường.

    Những ông già bà già tham lam. Những dải
cát dầu dãi.

    Cái trù phú của khu Bốn. Cũng có trù phú đấy
chứ, những xóm làng trên kia, trên Hương Sơn... Chiến tranh đã cày xé tất cả.

    Cái cằn cỗi của khu Bốn. Thì hẳn rồi! Cái cằn cỗi khiến cho sự sống được đẩy tới
cái ranh giới với cái chết, và chiến tranh thành một lẽ sống.

   Tôi
cũng không bao giờ quên được lần đi bộ trên đường số 1.

   Đường ô tô tắc, từ Vinh ra đến Thanh Hoá, có
đoạn chúng tôi đi ngay giữa  đường số1. Một
buổi chiều lặng lẽ, con đường vắng vẻ, những hàng cây phơi ra trong nắng. Làm
gì có chiến tranh ở đây nếu không có những quãng đường bị bom đánh đất đỏ phủ đầy
đường?  Không, nó đấy chiến tranh đấy, chỉ
có trong chiến tranh mới có những đoạn đường nhựa sạch bong không người qua lại.

   Những quãng nghỉ, gần như chúng tôi có thể nằm
bò ra đường được. Nhìn ra chỉ có một ít người dân của mấy làng xóm
quanh quẩn ở đấy, và một vài người đi xe đạp.

    Cứ thế, thẳng mãi con đường thông ra đến tận
Hà Nội. Nhưng làm gì có chuyện thẳng mãi, nên mới lại cảm thấy quyến luyến với
những quãng đường ngắn ngủi này.

   Trở về thăm Hà Nội những ngày sơ tán đôi khi
tôi cũng gặp cái cảm giác  thanh vắng vậy.
Phố xá sạch sẽ một cách kỳ lạ, sự thanh tĩnh chỉ có trong những năm chiến tranh.




    26/1

    VN khác thiên hạ thế nào?

    Ở các nước ăn chậm đi nhanh, nước mình ăn
nhanh đi chậm. Mọi thứ đều đắt, chỉ có người là rẻ.

     Ở các nước, sản xuất mẻ đầu bao giờ cũng
là thí nghiệm những mẻ sau sẽ khá hơn. Ở nước mình, chỉ được có mẻ đầu là khá.
Những mẻ sau, sẽ kém hơn năng suất hụt, chất lượng yếu đi.

     Người Việt Nam hôn thì hôn bí mật đái thì
đái công khai. Nhà như đường, đường như nhà. Cứ xem như giao thông thì biết.
Người trào ra đầy đường. Người cản xe đạp, xe đạp cản ô tô. Muốn lách đi, nhiều
lúc tốt hơn hết là lách vào trong, chui vào giữa mớ thòng lọng đó...

...

     Tôi còn biết mô tả thế nào khác hơn -- Đó
là cái xã hội tôi đang sống.

    Lòng yêu đời không sao phai nhạt  nổi trong lòng. Đọc sách, tôi luôn tìm được
những câu nói lạc quan, và tôi hiểu là phải lạc quan. Nhưng nhìn ra đời, lại chỉ
thấy bi quan.

   Một phương diện khác, dạo này tôi hay nghĩ
ngợi, là cả cái phương Đông này nó vậy. Có lẽ tôi sẽ không nên tìm đọc phương
Tây, vì đọc xong đối chiếu, chỉ thấy xã hội phương Đông là ngán ngẩm.

   Một ví dụ tôi mới tìm thấy, là Hàn Tú Anh.
Phải chính Hàn Tú Anh nói, là ở phương Đông ở xứ Trung Hoa này, người ta không
quan niệm sống là hưởng hạnh phúc.

   Một nhà triết học Mỹ, nói về đời sống tinh
thần con người trong chiến tranh.

Không biết rằng về sau này nhân dân sẽ
coi các sĩ quan, các quân nhân là những người anh hùng hay là những bọn đểu giả.
Phần lớn bọn họ cho rằng hiện nay nên đơn giản thôi, không nên chú ý đến vấn đề
nhân tâm đạo đức, quên nó đi được chừng nào hay chừng ấy. Tốt hơn hết là hãy
nên để cho lương tâm yên ngủ, người ta làm gì thì mình làm nấy, lệnh bảo sao
thì cứ làm như vậy. Còn tương lai ra sao mặc nó. Ai mà biết được tương lai rồi
sẽ ra sao? Hầu hết lính tráng trong thời chiến đều cảm thấy họ bị hoàn toàn phụ
thuộc vào cuộc sống họ đang sống, đến nỗi họ đành chịu phó mặc tương lai và ý
nguyện của họ cho cấp trên, và chỉ biết sống một cách thoải mái trong cái đám
đông vô danh tiểu tốt mà thôi.








     29/1

    Ông Khải:

   -- Ở nước mình bây giờ, chẳng ai có
gì tài cả, chỉ có người nói là tài. Như hôm họp ở Nxb QĐND thằng Lựu nói hay
quá còn gì? Chỉ có nói thì nhất trí từ trên xuống dưới.

     ---- ...

    -- (nhiều lần) Thật là từ trên uống
dưới toàn chữ là chữ, lúc nào cũng thấy chữ.

    --- ...

    -- Ông I vừa  kể chuyện có một người giúp việc. Bà này buôn
bán rất giỏi, cứ ra chợ trông thấy cái gì có thể kiếm được là bà ấy mua ngay. Một
lần ra thấy người ta bán pin, bà ấy ẵm con bé con vào mua được một đôi, lần sau
lột áo mình thay bằng áo đứa trẻ, vào mua được đôi nữa, ra bán lấy tiền.

     Trước cách mạng bà ta cũng đi ở.
Sau cách mạng, bà ta cũng đi ở. Chỉ được cái trước người ta gọi là người ở, nay
là người giúp việc, và có thể gọi ông chủ bằng cậu, ai đến chơi, cũng cung kính
quý mến, người nhiều tuổi gọi bằng bác, người ít tuổi gọi bằng mẹ, thế là phấn
khởi rồi. Một người dân thường cũng thích chữ, thích tiếng, còn nói gì ai?

    -- ...

    -- Thật lắm lúc, trông thấy ai
cũng chán. Như bên Hội Nhà văn, bà Lê Minh lúc nào cũng thì thà thì thào. “Này,
bây giờ ông đi là phải lắm...” Ông Trọng Hứa trêu mình nói vậy. Trông ông Trọng
Hứa ngồi sau xe ông Linh Chi, hai anh em đèo nhau đi, cứ như là hai con chim
già, tởm không chịu được.

    Chiều nào cũng thấy mấy ông đánh
cầu lông mà sốt ruột, không buồn nhìn nữa.... Ông Hữu Mai thì lại lúc nào cũng
ra vẻ quan trọng, bí bí mật mật. Nhà văn gì mà lại chỉ lo nên viết về đề tài
nào không quân hay xe tăng.







         1/2

        Cái câu thơ hay nhất tôi đọc được trong
năm 1974 là của Thi Hoàng

Trời cứ xanh như rứt ruột mà xanh

Cây cứ biếc như vặn mình để biếc.

    Dù sao chăng nữa, vẫn phải nhận là cuộc đời
quá đẹp. Trong cái dáng lem luốc của nó, cuộc đời vốn thực là đẹp. Đẹp ở những
đôi trai gái đi bên nhau, suốt chặng đường này tới chặng khác, như vốn sinh ra
phải như vậy. Đẹp ở những đứa trẻ sạch sẽ, mặc ấm, ẵm nó lên tay, nóng sực cả
người. Sao trẻ con bây giờ khôn ngoan vậy, tôi chợt nhận ra trong chuyện với một
người bạn. Nhìn chúng lê la ra đường, như cả đất trời này của chúng, cuộc đời
này của chúng, tôi cứ thấy cất lên văng vẳng cái khẩu hiệu trong một buổi hội
nghị quốc tế nào đó: Chỉ có một trái đất. Chỉ có một cuộc đời.

     ... Phải sống nhiều lắm, người ta mới bằng
lòng với im lặng. Còn bình thường ra, sao mà cần nghe một cái gì đấy, tiếp xúc
với một cái gì đấy.




    18/3

    Đó là
buổi chiều thứ sáu 14/3. Tự nhiên Nghị nói với tôi là em của tôi có thể được đi
học ở Đức. Tôi run cả lên, và lặng người đi một lúc... Cảm giác vui có, tôi
nghĩ đến cả tương lai của Thư, lẫn những thùng hàng hoá đồ đạc lúc nào đó cậu
em mang về cho mình. Nhưng còn những cảm giác buồn bã ngấm ngầm. Giá kể như tôi
được đi một chuyến, thì thú vị bao nhiêu. Tôi tự thấy ham học, ham sống và ham
hiểu biết, tôi còn có thể làm được bao nhiêu điều hay, mà rồi có lẽ, do chỉ sống ở đây, đời tôi sẽ héo
tàn, chẳng làm được việc gì nên hồn cả.

    Những chuyện lặt vặt của đời sống hàng
ngày, nó ăn mòn, làm hỏng bao ý nghĩ trong tôi. Hoàn cảnh chung quanh, một cái
hậu phương chiến tranh nhốn nháo. Một xã hội sống không còn luật lệ gì hết, mạnh
ai nấy sống. Người rất rẻ, mọi chuyện rất nhạt nhèo. Chỉ còn bản năng kiếm sống
hoành hành và trở nên hợp lý, đến nỗi trông một kẻ phất lên kiếm chác phát ghét
đã đành, cả những kẻ lương thiện gàn quải cũng đáng ghét vô cùng.

    Đó là cái xã hội hôm nay tôi sống. Một người
như ông Mạn có lúc phải bảo: Đời nhảm nhí thế nên ngày xưa mới có những người
đi tu, đi ở ẩn, đi tự tử. Có gan làm những chuyện khác người  thì làm đi, nếu không thì cũng phải sống như mọi
người, hãy biết sống như mọi người.

    Nhưng cái mà gậm nhấm tôi không kém, cũng
là cái nghèo, hoàn cảnh gia đình tôi quá nghèo. Biết xoay sở làm sao, đúng là gần
như không dám làm gì nữa. Luôn luôn chỉ sợ mất cái nọ, bị lừa cái kia, và phí
phao một cái khác. Thế đấy, chẳng nhẽ chỉ còn có cách nghĩ: Thôi, người ta cũng
phải có lúc chết, lúc ấy sẽ được giải thoát. Chứ sống nhiều lúc kinh khủng quá.

    Một trong những điều kinh khủng khác riêng
có ở tôi, là sự cô độc. Cô độc như một thứ da thịt xé không ra, cô độc như
không khí trốn không nổi. Cô độc như một thứ bệnh mãn tính, nhiều lúc tưởng như
đã khỏi rồi, vẫn thấy nó đấy. Cô độc đến nỗi thiếu đi tất cả những gì có thể
làm cho con người bốc lên, sôi sục lên, do đó cuộc đời càng trở nên buồn tẻ.

    Bởi không có một cuộc sống bình lặng bảo đảm,
bởi không có những lúc xả hơi, nên dạo này tôi gần như không làm được việc gì nữa:
lúc nào cũng căng thẳng thì còn sống làm sao.

   Người cùng nhà với tôi hiện nay là một gã
chuột... Không biết gã hay ả, hồi nọ cứ thấy cắn đủ mọi thứ. Khéo hồi ấy nó chửa
cũng nên, vì đúng ngày hôm nay, thấy đâu đến hai chuột con chạy loăng quăng
theo đường của chuột lớn. Có một cái gì đó rất khó chịu khi phải nhìn lũ chuột
này. Như thế mà cũng là dấu hiệu của cuộc sống ư, cũng là cái gì sinh động, đi
về, rồi cũng sinh sôi nảy nở mãi ư? Nếu có một đấng tạo hoá, thì cũng thấy khó
hiểu cái ông ấy quá. Ông ấy dung dưỡng cả những cái tốt dẹp nhất lẫn những cái
tệ hại nhất.

    Vậy là chỉ có cách quay về  triết lý "sống cho nhiều, cho thoả mãn" của
Xuân Quỳnh? 

    Vậy chỉ có cách đóng những vai kịch trong cuộc đời, rồi lại tự xem
mình, tự lý giải mọi chuyện?

   ... Không, cũng chưa chắc đâu.

    Khiến tôi bình tâm trong những lúc này, chỉ
là một vài số phận khác: Nguyễn Đình Thảo đi Tây Nguyên một năm nay, giờ cưới vợ.
Tô Hoàng đau ốm không đi làm được, bố phải đi kèm mỗi lần đi đến đơn vị. Toàn
những người không may cả. Tôi còn may mắn hơn họ nhiều. Tội gì mà cứ phải nghĩ
về đời trong khi đời chẳng chịu nghĩ về mình gì hết?

     Ngay ở những người chung quanh bất hạnh của
cũng không vừa đâu. Ông Khải năm ngoái con chết, ông Khải  phải sống chung với tất cả mọi người, bất hạnh
như mọi người - cái ông Khải ấy cũng khổ sở chứ.







      31/3

     Mùa
xuân như một khả năng với nghĩa có những ngày nắng đấy, mà lại mưa đấy, mưa lai
ra lai rai, không ra làm sao. Có những ngày lúc nào cũng âm u âm u, trời đất
như một thứ nước muối, ướt, nhớp nháp, lẩm cẩm, khó chịu. Trông thấy hoa gạo nở
bùng lên, lá bàng đâm ra nhọn hoắt mà sợ hãi. Bao nhiêu sâu bệnh nổi lên, bao
nhiêu cái hạ cấp trong cuộc đời nổi lên. Nhớ một lần, ai đó nói về Nhị Ca: Ở
ông ấy toát lên sức sống của một người đang chết.

    Trời
đất bây giờ hình như là như vậy. Sống giữa nó tôi đâm quen, tôi cũng không
thích được một cái gì khô ráo, sạch sẽ, tinh tươm. Nó – cái bình thường ấy --
tôi thấy nó xa lạ. Lúc này tôi chỉ ước ao một cái gì bề ngoài như đang chết,
đang đông cứng lại, nhưng nó giúp cho những sự sống khác nẩy nở. Sự sống kỳ lạ
thế, có lúc nó cần đến cái chết để biểu hiện, chính cái chết, không gì khác,
cũng là một thứ có sức biểu hiện -- biểu hiện sự sống.







     4/4

     Chiến thắng bất ngờ như ở chỗ cái gốc gạo
khô cằn hôm qua, một đoá hoa nở toé lên, cả một cành hoa  một cây hoa.

    Tôi đã quen hoài nghi, nên tôi chẳng còn
nghĩ được gì nhiều. Nhưng phải chăng cuộc đời còn quá nhiều chuyện kỳ ảo? Tôi
nhớ lại kết luận đó của Nguyễn Khải, khi nghe chuyện ông Chưởng Cần, một năm
trước. Cuộc đời không phải là một cấu trúc lạnh toát, nghiệt ngã. Cuộc đời còn
là một cái gì đó rất sinh động, như một cơ thể mềm mại, chứa đựng nhiều khả
năng phát triển không sao có thể lường trước. Vậy thì anh đừng bao giờ coi là
có giới hạn sức lực của anh, con đường của anh. Anh đừng bao giờ tự hạn chế lại.
Muốn hay không muốn, anh vẫn phải sống gắng gỏi trong cuộc đời này. Vậy anh hãy
thử phá đi, thử đòi hỏi, thử thay đổi đi, hỏng thì thôi, không sao. Đời có gì
đâu mà tiếc?  Còn nếu được, thì hay quá,
mà sao lại không được?

...

     Tôi nghĩ về trường hợp của mình: Dẫu sao
thì tôi cũng ít gắn bó với cuộc chiến tranh giải phóng. Tôi không hiểu lắm. Chỉ
hiểu một ít khía cạnh nào đó.

    Vậy thì hãy nghĩ về tương lai, lúc này đã
phải nghĩ tới  đất nước sau chiến tranh.
Đó mới là một câu hỏi lớn.







     18/4

      - Cái chiến thắng mà chính những người
trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên: sao mà lại có thể dễ dàng như vậy?

     Không, chắc chắn rằng chúng ta không ngạc
nhiên. Chúng ta biết tất cả thì mới phải.

     - Bởi chúng ta đều là những người chiến
trường. Có sự gặp nhau ở trong kia, thì cũng là có sự gặp nhau ở ngoài này. Những
người vợ, những gia đình của những người lính làm nên cái hậu phương dày đặc
này. Ở đâu lại có thể có cuộc chiến tranh ghê gớm như trên nước Việt.

     - Nhưng cái tâm trạng chủ yếu của ngày hôm
nay là gì? Tôi nghe bên cạnh những niềm vui, có những nỗi buồn. Một chút thở
phào. Kèm theo một ít đau xót. Có một giáo sư 
Đại học y khoa trong kia viết rên báo,  ông không muốn các đồng nghiệp của mình  rơi vào cái cảnh ở miền Bắc. Là cái cảnh, trình
độ bác sĩ chỉ bằng trình độ y sĩ.







      2/5

      Người
ta vẫn bảo phản ứng của người Hà Nội lâu nay là dè dặt, đến vui cũng lặng lẽ.
Chúng ta sống trong một xã hội khép kín... Có thể là như thế nhưng hôm nay thì
khác. Chưa bao giờ, có cảm tưởng vui như thế này.

    Sáng 30/4, đã nghe có tin đồn Dương Văn
Minh đầu hàng.

    9 giờ sáng, Cục tuyên huấn -- cấp trên của
chúng tôi nói: chính thức đầu hàng rồi.

    Mở đài Sài Gòn. Chưa bao giờ được nghe đài
Sài Gòn công khai như vậy. Giọng Dương Văn Minh chậm rãi, cố làm ra vẻ bình thản.
Người giới thiệu của đài cũng nói bằng một giọng trang trọng, nghiêm túc.

    Lập tức có nhiều tiếng cười đùa réo lên.
Nghe xa xa đã có tiếng pháo nổ, đâu ngoài đường phía vườn hoa Hàng Đậu.

   Bia, ngồi tán phét. Nguyễn Minh Châu bảo lúc
này lại nhớ khi anh nọ đùn anh kia đi B, mà sao cứ lần chà lần chân, nói chẳng
nên lời.

    Nhiều người khác tán chuyện trong cơn say
thực sự, và cái say của tình cảm.

   Tôi phóng xe ra đường, khi nghĩ tới bạn bè.
Ngỡ đường phố chưa ai biết gì, lại nhớ cái cảm giác những ngày hoà bình 1973,
muốn kêu lên mọi chuyện.  Nhưng tôi đã nhầm,
chỉ cần ghé vào một hàng nước thôi, đã nghe đủ chuyện. Người ta bảo hôm qua một
hợp tác xã thủ công phải thức suốt đêm để may một lá cờ đỏ sao vàng 25m2. Hôm
nay, cờ được mang đi rồi.

   Ngồi uống nước, một ông già còn kể chuyện
Nam Bộ, một ông khác nói về Thái Lan, Cămpuchia: phen này, mình cứ đứng đây,
cho nó bò quanh mình.

    ... 5 giờ chiều, rất may mắn đi ra đường,
tôi được chứng kiến cảnh báo tin đầu tiên: “ Mời đồng bào và chiến sĩ cả nước
nghe tin chiến thắng. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, thành phố Sài Gòn
đã hoàn toàn giải phóng.”

     Người ứ lại trên ngã tư Tràng Tiền. Các
phóng viên nước ngoài, đã chực sẵn từ bao giờ, quay phim chụp hình rất nhanh.
Tôi nhớ nhất cái cảnh một người Việt Nam đang gân cổ nói trước một máy thu
thanh của một người nước ngoài. Một gã giáo viên giáo điều nào đó, nói sặc mùi
chính trị, trông xa đã ngượng hộ hắn. Hắn nói rai nhanh nhách đến nỗi người
phóng viên nước ngoài phải lợi dụng một nhịp hắn tạm nghỉ, để cắt lời hắn.

    Nhưng thôi,  hôm nay ngày vui , hãy để đấy
đã.

    Người đã đông thêm chung quanh Bờ Hồ. Tôi
chợt nhận ra một nét thuộc về cách sống của người Hà Nội hôm nay: Người ta
thích đổ ra đường, chia sẻ niềm vui với nhau. Dù trong bóng tối chiến tranh, người
ta đã quen nhìn nhau mà sống.

     Công tác tổ chức tồi quá. Giá kể có bắt
người ta đi mít tinh, thì như tôi thấy đây, trông rất lèo tèo, chưa ai nói gì
ra hồn. Nhưng cái cảnh người lũ lượt đi trên đường, đã chẳng phải là một thứ
mít tinh rồi sao?

      Tôi còn thấy một Hà Nội tấp nập như vậy,
suốt đêm 30/4 lẫn sáng 1/5.     Một ngày hai ý nghĩa, hai niềm vui.

     Những đám người xếp hàng mua báo, một cốt
cách mới của Hà Nội.

    Mấy lần, tôi bắt gặp một  cụ già đứng chờ bên này đường, cho một đứa
cháu nội cháu ngoại gì đấy sang bên kia đường xếp hàng mua báo. Có thể cụ không
biết chữ nhưng cụ mua về cho con cái đọc.

    Những đứa trẻ xem báo thì đứng ngay ở bên
những cái hố phòng không cũ-- mà tôi vốn rất quen thuộc và còn nhớ tỉ mỉ ngày lấp
đi, để đón hoà bình, tết năm 1973. Bây giờ, thì chắc chắn, có thể yên lòng với
những cái hố ấy rồi.

     Chung quanh Bờ Hồ, ngày 1-5, còn có nhiều
đám mít tinh lẻ tẻ khác. Tôi đồ rằng phản ứng của giới lãnh đạo Hà Nội chưa kịp,
cho nên hãy để cho quần chúng tự nguyện làm theo kiểu tự phát cái đã.

    Một người đàn ông đứng tuổi, ra dáng dân Hà
Nội gốc, đi trong đoàn người, mà lại ngước nhìn đi đâu. Tôi đoán ông ta đang
nghĩ tới một người cùng phố vào Sài Gòn từ cuối 1954.







 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 28, 2016 20:14

April 26, 2016

Năm bài viết có liên quan tới "Những chấn thương tâm lý hiện đại"



Dưới đây là hai bài viết nhân việc cuốn NCTTLHĐ của tôi được in ra lần đầu (cuối 2008) và được in lại (đầu 2016). Xin giới thiệu lại để các bạn có nhu cầu cùng đọc và...mừng cho tôi. Nhưng trước hết xin thành thật cảm ơn tác giả các bài báo, trong đó có những người quen cũ của tôi và cả những người tôi chưa gặp.



________________________________________



Về cuốn "Những chấn thương tâm lý hiện đại"

http://tuoitre.vn/tin/tu-sach/2009102...







Nhìn những chiếc xe giá hàng triệu đôla trên đường phố, có người dẫn chuyện trọc phú. Nhà kinh tế có thể nói đến chuyện tiêu xài vượt xa sức chịu đựng của nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp. Còn nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn lại nhìn thấy "cái tư tưởng ăn chơi đua đòi hưởng thụ bất chấp tình cảnh nghèo đói chung của cộng đồng" (Rác ngoại). Và cách sống đó, theo ông, là một căn bệnh "đã sẵn có trong nội tạng xã hội, quá trình hội nhập chỉ làm chúng bộc lộ rõ mà thôi" (Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình).

Sách có 270 trang, 30 câu chuyện phiếm luận, mà con người "sống trên đường" hay sống trên đời thường suy nghĩ. Vương Trí Nhàn đặt người đọc trước những câu hỏi: Chúng ta đang sống như thế nào? Ðiều gì có thể thay đổi? Ðiều gì sẽ phải chấp nhận mãi? Và tác giả lui lại làm người cung cấp những bài học từ lịch sử, Ðông Tây kim cổ, từ những trang sách của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, cả những F. Dostoievski, Lỗ Tấn...

Ông dẫn lại A. Chekhov kể chuyện người nông dân Nga "tháo một bulông trên đường sắt để làm đinh đóng móng ngựa", như người nông dân ấy khai trước tòa: "Thiếu một cái bulông xe lửa vẫn chạy. Còn thiếu đinh đóng móng ngựa, tôi biết làm sao cày ruộng lấy lúa mì nuôi vợ con tôi". Hay trong phiếm luận Tội làm hư dân, Vương Trí Nhàn đã trích dẫn Chính thể đại diện của John Suart Mill một cách đắc địa: "Người ta xét đoán một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi".

Ðọc Những chấn thương tâm lý hiện đại, bạn Trần Quang trên trang "Chúng ta" viết: "Anh viết sâu và sinh động, đọc rất thấm nên cũng rất buồn, chẳng thấy lối thoát". Quả là đáng buồn và khó tránh. Chính tác giả chắc hẳn cũng đã buồn, rất buồn khi viết thế này: "Những thay đổi theo hướng thoái hóa, tác động rất lớn, song rỉ rả mỗi ngày một chút nên dễ lọt lưới, và khi nghĩ ra thì đã muộn" (Sự cố trường diễn).



HOÀNG NAM ANH



“Cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra...



Câu nói của nhà văn Nga Tchekhov được Vương Trí Nhàn trích lại trong “Những chấn thương tâm lý hiện đại”. Dường như, đó cũng là tiếng cảm thán của chính tác giả, và của nhiều người về sự xuống dốc của lối sống hiện nay.



“Ai bảo tôi lạc hậu tôi xin nhận”

Vương Trí Nhàn tự nhận về mình cái tiếng lạc hậu, để phát biểu lên những suy nghĩ về lối sống hiện đại mà theo ông là đang trong một cơn chấn thương mạnh.

Ông tẩn mẩn xem xét khắp lượt cái cách người ta đi lại, ăn nói, giao thương, lễ lạt, ăn uống, tiêu dùng… để chỉ ra: “Triết lý hưởng thụ thấm sâu trong những người dân thường”, và “thô bạo đã trở nên một thứ khí hậu trong mối quan hệ bình thường.”, “lối sống ô-sin” hay “sự tha hóa trong tiếng nói của ta đã bắt đầu tư lâu lắm”…

Đau đầu nhất, đáng phiền muộn nhất trong những câu chuyện ở một đất nước đang đô thị hóa chóng mặt là chuyện giao thông. Cái hỗn loạn trong giao thông là hệ quả, hay cũng là phản chiếu của sự hỗn loạn trong tâm lý.

Trong sự hội nhập của người mình – theo tác giả - vẫn không theo được lề luật chung, không bỏ được lối làm ăn tủn mủn, vụn vặt, trông tránh được gian dối. Hội nhập làm rõ thêm những khuyết điểm cố hữu trong bản thân xã hội tiểu nông.

“Còn những cái mất, những hư hỏng như học đòi học mót, đua đả hưởng thụ quên cả lịch sử tổ tiên mà gần đây ai cũng thấy chướng? Bởi chúng xuất hiện nhiều trong thời hội nhập nên ta tưởng tất cả lỗi là từ ngoài vào. Nhưng nói thế là nhầm.

Cái chính là những căn bệnh đó đã sẵn có trong nội tạng xã hội, quá trình hội nhập chỉ làm chúng bộc lộ rõ mà thôi.” (Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình)



"Thế nghĩa là thế nào?"


Nhiều sự chướng tai gai mắt thế, lắm cảnh ngược đời thế, thế nghĩa là thế nào? Cái đạo lý nào lại sinh ra những chuyện ấy?

Trong mỗi mẩu chuyện riêng, tác giả dần đưa ra một vài kiến giải riêng. Cái căn nguyên cội rễ được nhắc lại khá nhiều lần là những tàn tích tinh thần từ chiến tranh.

"… Tuy đã ra khỏi chiến tranh, song cái thói quen sống một mình ở cả cộng đồng càng được cố kết lại để làm nên nhiều ảo tưởng. Khả năng tự nhận thức lúc ấy bị hạn chết. Ta bằng lòng với mình. Ta ngại thay đổi. Ta thấy chỉ có ta là nhất.

Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất. Nhưng có phải sự đời đơn giản thế?" (Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư)

Hay như trong một mẩu chuyện khác ông viết:

"Không khó khăn gì lắm để tìm ra lý do khiến chúng ta có nhiều thói xấu như vậy. Trước hết là cuộc chiến tranh kéo quá dài. Trong Câu chuyện triết học, phần viết về H. Spencer, W. Durant cho rằng “xã hội chiến tranh thường ca ngợi một vài đức tính (nguyên tắc ứng xử - VTN) và dung túng cho những việc mà các dân tộc khác xem là có tội”.

Nếu nơi không chiến tranh, con người quảng đại và nhân đạo, thì nơi chiến tranh kéo dài, người ta quen với cướp bóc phản bội. Đây là luật phổ biến song người ta thường quên và tự cho mình là một ngoại lệ.

Con người hôm nay lao vào cuộc làm ăn kinh tế, mà thói quen sống kiểu chiến tranh còn nguyên vẹn. Kinh tế thị trường rút lại được hiểu là thói cạnh tranh không lành mạnh, nói nôm na là chúa đã chết, ai luốn làm gì thì làm. Thành thử có xảy ra lộn xộn hỗn hào thì cũng là điều dễ hiểu. Từ chỗ chăm chăm chửi bới kẻ giàu cho rằng kẻ giàu là xấu, nay người ta lao vào làm giàu để rồi lãnh đủ những xấu xa bỉ ổi đó, và đưa cái ác lên một trình độ hiện đại đáng sợ.

Trong trạng thái như lại muốn thốt lên “cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”, tác giả nảy ra một ý:

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy và dung túng dân làm bậy. Tội làm hư dân." (Tội làm hư dân)



Không lẽ, lại như lời của một nhân vật, mà tác giả đã nhận là “vô cảm, nhưng là thực tế”:

“Khi không thay đổi được hoàn cảnh, tốt hơn hết là chấp nhận cho xong. Chứ đã biết là không ngăn chặn được tình trạng này từ gốc, mà thỉnh thoảng lại nổi cơn sụt sùi thương xót, cho phép nói thật nhé, thấy buồn cười lắm.” (Tổ chức đời sống nông dân sao đây?)



Và đôi lời về sự bế tắc…


Chỉ ra những khuyết điểm trong đời sống tinh thần của xã hội là một điều quan trọng để tiến đến nhận thức đầy đủ về bản thân xã hội. Và điều được mong đợi hơn cả là chỉ ra một lối thoát. Cả hai điều này, người đọc đang rất trông chờ ở giới nghiên cứu VN.

Dù có không ít cuốn sách tự trào, tự giễu về các thói hư tật xấu của người Việt Nam, (chưa kể, hàng ngày trên báo chí có rất nhiều bài viết cùng dạng này), nhưng hiếm thấy một cuộc điều tra xã hội học nào rộng khắp, hay một nghiên cứu đầy đủ nào với các dữ liệu thực tế, thực hiện trong một thời gian đủ dài với số lượng mẫu hỏi đủ lớn để đưa ra các kết quả thực tế.

Các nhà nghiên cứu thường chỉ dừng ở góc độ quan sát các nhân, trong vùng phạm vi trải nghiệm của họ về cuộc sống xung quanh. Do vậy khó tránh khỏi sự thiếu tính phổ quát về các vấn đề mà họ gọi là “người Việt”, hay “xã hội ta”.

Tương tự, các khái niệm thời gian thường chỉ được nói đến một cách chung chung “ngày nay”, “bây giờ”…, thay vì được xác định cụ thể trong một giai đoạn thực hiện nghiên cứu cụ thể.

Vì những điều nói trên, nên có lẽ việc đòi hỏi người viết đưa ra các giải pháp để giải quyết các hạn chế nhận thức xã hội và tâm lý của người Việt là một điều chưa thể. Vẫn biết các biểu hiện của các “thói hư tật xấu” có muôn hình vạn trạng, nhưng làm thế nào để thay đổi, thay đổi bắt đầu từ ai/cái gì? Khi không có những cứ liệu phân tích cụ thể trên diện rộng, thì làm sao có thể đưa ra giải pháp có tính thực tiễn?

Người đọc – bao gồm cả những người đang nhận thức được chấn thương tâm lý của bản thân mình và những người xung quanh – vẫn đang chờ đợi ở các nhà tâm lý một sự kiến giải rõ ràng hơn

Linh Thủy (Tuần Việt Nam)



"Bắt thóp" những thói xấu của người Việt

http://anninhthudo.vn/blog-nghe-si/ba...





ANTĐ - Mặc dù được đúc kết từ những sự kiện xảy ra trong hơn chục năm, lại từng được đăng tải trên nhiều mặt báo, trang web nhưng những vấn đề đặt ra trong cuốn “Những chấn thương tâm lý hiện đại” của nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn vẫn không hề cũ. Đọc sách của ông, người ta vừa thích thú trước lời văn tỉnh táo, sắc lẹm, vừa không khỏi băn khoăn: Chúng ta đang sống như vậy thật sao?



Người Việt đang bị bệnh “sốt ruột”



Bạn đọc chắc không quá xa lạ với nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn. Không chỉ là một người nặng lòng với văn chương, nhiều độc giả biết đến ông qua những bài báo, bài nghị luận sâu cay vạch trần những thói hư tật xấu của xã hội. “Những chấn thương tâm lý hiện đại” có thể coi là một khảo cứu khá thú vị của ông về xã hội hiện đại, trong đó tập trung chủ yếu vào đời sống người dân thành thị.

Ở đây, có thể nói, Vương Trí Nhàn đã không ngừng quan sát, để rồi chỉ ra, lý giải một cách cặn kẽ căn nguyên những biểu hiện lệch lạc, sự thoái hóa, xuống cấp của xã hội. Một trong những “căn bệnh” được Vương Trí Nhàn nhắc đến nhiều đó là căn bệnh “sống vội”, bệnh “sốt ruột”: “Hình như nay là lúc ai cũng vội. Hằng ngày mở mắt ra đã thấy bao nhiêu việc chờ mình. Ý nghĩ chúng ta đi quá nhanh. Mà tốc độ đi lại quá chậm”.

Thói quen sống gấp, sống vội tưởng chừng chỉ là một sản phẩm tất yếu của xã hội công nghiệp, chẳng hại đến ai, hóa ra đã len lỏi khắp các ngõ ngách, dần dần ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của mỗi người, khiến người ta dần đồng lõa với cách làm việc qua loa, đại khái, cẩu thả, thiếu trách nhiệm.

Lĩnh vực viết báo, viết sách cũng vậy. Theo Vương Trí Nhàn, nếu như hồi năm 1986 trở về trước, khi ở Hà Nội chỉ “lom đom” dăm bảy tờ báo, sách viết xong không chắc đã có giấy để in thì người ta không ai bảo ai viết cái gì cũng đậm đà, chậm chạp. Nay thì “…vừa nghĩ ra cái đầu đề đã ngồi ngay vào bàn, bản thảo chưa hoàn thành đã giục nhà xuất bản xin phép cho in”, để đến nỗi khi nhìn lại những gì mình viết mới thấy đã “sa vào vòng tay của sự làm liều, làm ẩu lúc nào không biết”.

Không chỉ nhắc đến “căn bệnh thời đại”, Vương Trí Nhàn còn sắc sảo bắt bệnh những thói xấu của người Việt, chẳng hạn như “bệnh ảo tưởng”, “thích ồn ào”, “chuyện sùng ngoại”, “nạn cờ bạc”… Ông thậm chí gọi văn hóa giao thông mà chúng ta đang có là một cuộc “biến hình khốn khổ” khi mỗi người tham gia giao thông thay vì nhìn nhau với ánh mắt thiện cảm, lại luôn thường trực một tâm lý “kẻ thù”, sẵn sàng tranh giành nhau từng centimet, nạt nộ nhau khi xảy ra va quệt. Rồi vô vàn những “chấn thương” tâm lý khác mà con người ta không lý giải nổi.



Sự trở lại của phiếm luận


Ngòi bút Vương Trí Nhàn tài tình ở chỗ ông kết hợp nhuần nhuyễn những tri thức sách vở với những câu chuyện thế sự, bằng việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, trực diện nhưng cũng đầy sâu cay. Đọc “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, độc giả thấy thích thú khi được gặp gỡ một cây bút không những thông tường văn chương mà còn nắm bắt từ chuyện Tây, chuyện Tàu… và móc nối chúng với những vấn đề nóng hổi của cuộc sống hôm nay.

Với mỗi vấn đề, nhà phê bình này lại có một cách tiếp cận rất đa dạng, khi thì “thẳng tay” vạch rõ khiếm khuyết, khi thì lồng ghép trong một câu chuyện tản mạn, vô thưởng vô phạt nhưng cũng đầy thâm thúy. Cái hay ở đây là mặc dù ngôn ngữ rất thẳng, rất quyết liệt nhưng không nặng về giáo điều hay lấy hiện tượng để quy chụp cho toàn thể.

Người đọc có thể thấy đôi khi ông “đi ngược”, tức là thay vì đồng ý với số đông thì tìm cách lý giải, mổ xẻ vấn đề theo điểm nhìn khác thường. Giống như tiêu đề một bài viết của ông - “Cái đúng hôm qua nay không đúng nữa”.

Có người nói “Những chấn thương tâm lý hiện đại” đánh dấu sự trở lại của thể loại phiếm luận - vốn tồn tại dưới nhiều tác phẩm đơn lẻ chứ ít khi chịu đứng riêng thành một tác phẩm độc lập. Với riêng Vương Trí Nhàn, người đã hơn chục năm nay theo đuổi thể loại phiếm luận, thì cuốn sách này giống như sự đối thoại giữa những con người khác nhau trong ông.

Trong cuộc đối thoại kỳ lạ đó, người đọc ắt hẳn đã nhìn thấy những lúc đồng cảm, nhưng cũng có cả những cuộc tranh cãi nảy lửa để rồi đi tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: “Chúng ta đang sống như thế nào”, và “Tại sao lại có tình trạng nhân thế như chúng ta đang thấy”. Và kết quả, dù đấu khẩu hay “hòa bình” thì ngòi bút ấy vẫn hướng con người tới những điều tích cực, để cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, hay chí ít là giảm thiểu những ung nhọt, những căn bệnh “biết rồi khổ lắm nói mãi”.

Mai Anh (An ninh Thủ đô)



Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn: Trăm sự chỉ vì chữ “vội”!


http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-phe...







“Hiện đại hóa làm nảy sinh bao bi hài kịch về tâm lý con người, trong đó có chuyện chúng ta “vội”. Vội chen lấn, vội thăng tiến, vội mưu sinh, vội like, vội share, vội chỉ trích, lại cả vội tha thứ… - trăm nghìn kiểu “vội”! Sập cầu, nổ bom, quấy rối tình dục (không từ cả trẻ em)… - cũng là từ chữ “vội” ấy mà ra cả chứ đâu!” - Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn chia sẻ với “Buffet cuối tuần” về “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, cũng là tên cuốn sách vừa xuất bản của ông.



“Chấp nhận đôi khi giúp tránh được tổn thương”

Thật ra, lúc này mà còn gọi ông là nhà phê bình văn học thì vẻ như không được chính xác lắm nhỉ?

- Đúng là, trong khoảng 8 năm trở lại đây, kể từ ngày nghỉ hưu, có thời gian đi đây đi đó, sống chậm hơn, ngắm nhìn thời cuộc nhiều hơn nên sự quan tâm của tôi dần ngả về phía những vấn đề văn hóa xã hội, chứ không chỉ gói gọn trong trang sách, đời sống văn học, chân dung các nhà văn… như trước đây nữa. Một phần có thể là do sau hàng chục năm làm nghề, “ông già về hưu” ấy đã đến hồi cạn vốn nên buộc phải mở rộng trường quan sát của mình hơn, nếu như còn muốn tiếp tục cầm bút và cầm bút có trách nhiệm, để đối thoại với bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ hôm nay, những người bạn của tôi trên FB...

Tuy nhiên, cũng lại phải là một nhà phê bình văn học, có một bề dày quan sát, nghiên cứu lâu năm thì mới có thể đưa ra những liên hệ, soi chiếu độc đáo giữa những vấn đề hôm nay với những câu chuyện, những khảo cứu… đã từng được các lớp nhà văn đi trước kể lại trên trang sách?

- Có những liên tưởng đến một cách tự nhiên, cũng có những cái cần tìm tòi, khảo cứu, theo kiểu “nói có sách, mách có chứng”. Âu cũng là một cách “tựa lưng” vào những giá trị chưa bao giờ cũ như văn học tiền chiến, văn học Nga Xô viết…; những Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải… và cả những F.Dostoievski, A.Tchekhov, Lỗ Tấn... để rọi vào những vấn đề của cuộc sống hôm nay.

Bằng cách soi rọi đó, “Những chấn thương tâm lý hiện đại” kể từ lần in đầu tiên vào năm 2009 có thể nói là đã ít nhiều đưa ra được một số dự báo, cảnh báo mà cho đến hôm nay vẫn còn là những vấn đề nổi cộm. Lần ra được sợi dây liên hệ giữa cái hôm nay và hôm qua hẳn cũng là một cách giúp chúng ta bớt đi được cảm giác hoang mang thái quá trước những biến chuyển của thời cuộc và lòng người.

Là một nhà phê bình văn học, nhưng từng học giỏi các môn khoa học tự nhiên nên ít nhiều trong cách nghĩ, cách viết của tôi cũng có phần được dung hòa hơn giữa hai thế mạnh. Đọc “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, đôi lúc bạn cảm thấy như có hai người đang “cãi nhau” trong cách nhìn nhận một vấn đề thì đó chính là hai con người ấy. Nếu không có cái nền tư duy hiện đại, giàu tính phản biện ấy, hẳn là tôi đã không có được độ “mềm” của tư duy như trong những trang viết gần đây. Một độ mềm đủ để không nhìn mọi việc bằng con mắt quá bi quan, cay nghiệt, cũng không đến mức “lạc quan tếu”.

Đại loại: Ở hiền chưa chắc đã gặp lành; một “nhân” có thể sinh ra nhiều “quả”, lại cũng có khi nhiều “nhân” lại chỉ sinh được một “quả”… Chấp nhận những điều không dễ gì chấp nhận đó, đôi khi cũng là một cách để chúng ta tránh được phần nào những tổn thương trong đời sống hiện đại.

“Người nghèo mưu sinh, người giàu… sinh mưu”

Từng là biên tập viên NXB, chứng kiến quy trình gồm nhiều công đoạn để xuất bản một cuốn sách, và sau đó là một ông già sành blog, Facebook, có thể tự xuất bản những bài viết của mình một cách nhanh nhất, ông nghĩ sao về bạn đọc trẻ hôm nay?

- Nhiều người già tỏ ra bi quan về lớp trẻ hôm nay nhưng tôi thì không. Tôi thậm chí còn đánh giá rất cao các bạn đọc trẻ của mình và không hề nghĩ họ hời hợt, trong cách họ giao lưu với tôi tại hội chợ sách mới đây, hay trước giờ, trên FB, blog… Nếu văn hóa đọc của giới trẻ hôm nay bị cho là có vấn đề thì tôi nghĩ lỗi trước hết và trên hết phải là ở người viết. Còn nếu như cách viết, cách đặt vấn đề của bạn gần gũi với người trẻ thì chắc chắn họ sẽ đối thoại với bạn một cách rất nghiêm túc và sâu sắc hơn bạn có thể tưởng tượng nhiều. Điều thú vị nhất của việc tự xuất bản một bài viết hay một cuốn sách trên mạng, đấy là được tương tác, đối thoại rất sôi nổi, “kịch tính” với các bạn đọc trẻ.

Tôi tưởng từ “Vội” - một trong những căn bệnh của thời hiện đại mà ông chỉ ra trong cuốn sách là để nhằm vào người trẻ?

- Đâu phải chỉ mỗi người trẻ. Bao người trong chúng ta đều đang “vội” cả đấy thôi! Hiện đại hóa làm nảy sinh bao bi hài kịch về tâm lý con người, trong đó có chuyện chúng ta “vội”. Vội chen lấn, vội thăng tiến, vội mưu sinh, vội chiếm đoạt (tình yêu hay của cải), vội thay lòng đổi dạ, vội like, vội share, vội phê phán, chỉ trích; lại cả vội tha thứ, bỏ qua nữa… - trăm nghìn kiểu “vội”! Sập cầu, nổ bom, quấy rối tình dục (không từ cả trẻ em)… - cũng là từ chữ “vội” ấy mà ra cả chứ đâu! Người nghèo chết vì mưu sinh, người giàu chết vì… “sinh mưu” - nhiều khi là thế. Đến lành hiền như nông thôn mà giờ cũng nhiều chuyện tan nát lắm: Vợ chồng bỏ nhau dễ dàng, con gái mới lớn giờ nghe từ “ngàn vàng” như chuyện của ai, không liên quan...

Những chuyển động bất quy tắc (trong đó có cả quy tắc đạo đức) đang khiến xã hội trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, thiếu quy hoạch, thiếu phép tắc… và đáng lo ngại nhất, là những hỗn loạn trong đời sống tâm lý của mỗi chúng ta, đặc biệt là những người trẻ có sức đề kháng thấp. Sự hỗn loạn là tất yếu, nếu như ngày càng có thêm nhiều người cho rằng: Chỉ có những điều không làm được, còn thì không có những điều không được làm, và cùng đó, là những mục tiêu ngắn hạn, trước mắt, hoặc được chăng hay chớ, hoặc bằng mọi giá. Nhiều người trong chúng ta gần như không biết đến sự tồn tại của khái niệm “lý tưởng sống” mà chỉ đơn giản là có lối thoát hay không có lối thoát, được hay mất...

Chúng ta (trong đó có không ít người nổi tiếng) thường nói rất nhiều, nhưng vấn đề là liệu có làm được điều gì tử tế cho cộng đồng… Hoặc có kiệm lời, thì cũng chẳng qua là vì đang cắm mặt vào cái điện thoại và cắm cúi “còm”, like…, không cần biết đến sự tồn tại của người bên cạnh, kể cả là những người cùng nhà, ngay trong một bữa cơm…

Ông đừng bi quan thế chứ! Tôi biết ông mê thơ Lưu Quang Vũ, có cách nào để vừa ghét mà cũng vừa “yêu quá đời này” được không?

- Thì đúng là Lưu Quang Vũ cũng từng hỏi thế mà: “Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi/ Về cuộc đời ghê gớm ta yêu”. Và chính anh cũng nói: “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh/ Những khuôn mặt những vòng xoáy những đám mây/ Sẽ hiểu được sẽ không còn đáng sợ/ Chúng ta sẽ chịu được khổ đau sẽ làm việc/ Đóng một cái đinh treo một tấm áo/ Và yêu nhau dưới một ngọn đèn…”.

Vâng, rốt cuộc vẫn là không nên “vội”! Cảm ơn ông.

THỦY NGUYÊN (thực hiện)



Người trẻ và những chấn thương tâm lý hiện đại


http://www.doanhnhansaigon.vn/doi-thu...



Rất lâu sau khi nổi tiếng với loạt bài nghiên cứu những tính xấu của người Việt cách đây hơn 10 năm, tên nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn mới lại xuất hiện trên kệ sách Nhã Nam với tựa sách rất lôi cuốn: Những chấn thương tâm lý hiện đại.



Thật sự nếu là tác giả khác, có lẽ tôi không muốn đọc, bởi thời bây giờ nhấp chuột máy tính đọc báo, bạn sẽ cảm nhận về một xã hội tổn thương sâu sắc lắm rồi. Nhưng nhãn quan của Vương Trí Nhàn không chỉ chứa đựng kinh nghiệm của người già, mà còn là tư duy khoa học, xã hội nghiêm túc, một sự soi rọi xã hội với tính triết lý cao.

Ông Vương Trí Nhàn nhớ thời chiến tranh, để vận động thanh niên nhập ngũ, những người lên đường ra chiến trường chưa tốt nghiệp cấp 3 vẫn được nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp. Những thanh niên có tiền sự, càn quấy, nếu nhập ngũ lại thành người tốt. Nghĩa là xã hội vận hành tất cả cho mục đích chiến thắng. Ngày nay, giữa bối cảnh xã hội mà luật pháp chưa đủ chặt chẽ, cả xã hội vẫn ngấm ngầm cổ vũ cho tư duy "làm tất cả để chiến thắng", tạo ra vô vàn kẽ hở để nhà nhà "tặc lưỡi" làm quen với những việc làm trái quy định để trục lợi cho bản thân, cho ngành của mình, và vẫn được xem là có công hơn có tội với guồng máy đang vận hành.

Tôi tâm đắc nhất bài phiếm luận "Những tù binh của lợi ích trước mắt" của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, trong đó ông viết con người chỉ sống cho giây phút hiện tại, chỉ cần tồn tại và thắng. Con người đang ngày càng mệt mỏi, buông thả, hoặc hung hãn, bất cần, hoặc ôm vào người thứ lý luận của kẻ bị bần cùng hóa: "Mình không ăn, không lấy thì thiên hạ cũng lấy, cũng tham nhũng, cướp giật hết".

Hoặc đề cập triết lý sống mới: "Cả xã hội cũng như cá nhân phải biết kiềm chế sự ham muốn của mình, hay nói cách khác phải có ý chí mạnh mẽ là sản xuất nhiều hơn tiêu thụ”. Đó chính là nước Nhật, một đất nước mạnh mẽ, thần kỳ trong tạo ra của cải, nhưng cũng tạo ra con người cần kiệm, khiêm tốn làm tiền đề chính của sự phát triển.

Trong khi đó, sự tiêu thụ ở người Việt hiện đại giống như "ăn trả bữa", tàn phá hết thiên nhiên, tàn phá cả văn hóa và đạo lý, dẫn đến làm suy sụp hệ thống giáo dục và đạo đức xã hội. Một cái nhìn không lạc quan, nhưng rất nghiêm túc về nền tảng nghiên cứu xã hội học Việt Nam khoảng mươi, mười lăm năm trở lại đây.

Tôi nghĩ, những quan điểm phiếm luận này đặc biệt quan trọng với doanh nhân, những người nắm những phương tiện sản xuất, nắm con người và tạo ra của cải cho xã hội nhiều hơn những người khác trong xã hội.

Chưa hết, ông Vương Trí Nhàn sau các phân tích về xã hội bỗng kết thúc bằng một phiếm luận: "Càng trẻ, chấn thương càng nặng!", đặc biệt trong lối sống thụ động, đặt hết vui, buồn của chính mình trong bàn tay thao túng của kẻ khác vì không có nền tảng tốt trong giáo dục nhân cách. Bạn có lo sợ không khi đọc điều này?

Những người lớn tuổi đã tiếp thu một nền văn hóa truyền thống, ít nhất còn được trang bị nền tảng để bình tĩnh tiếp nhận và chọn lọc cái mới, có sức đề kháng. Vậy những người trẻ sẽ đối diện thế nào với những chấn thương tâm lý hiện đại, như tiêu đề của cuốn sách?

Rất lý thú với lý giải sâu sắc của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn. Ông nói, suốt thời trung đại, Việt Nam không chế ra được văn tự riêng, phải dùng chữ Hán. Sau này người ta chế ra chữ Nôm, có khác đi, nhưng ác nỗi muốn biết chữ Nôm phải giỏi chữ Hán. Nghĩa là gì? Ông cho rằng chính các nhà nho xưa muốn thế, nếu học chữ dễ dàng thì ai cũng học được cả, còn gì là một tầng lớp đặc quyền đặc lợi, tìm ra thứ chữ dễ học, trao cần câu cơm cho người khác à, đâu dễ và không đời nào họ chấp nhận.

Đặc quyền đặc lợi cho riêng một tầng lớp luôn ám ảnh tâm lý xã hội hiện đại. Mình thành công trên sự thất bại của người khác. Mình có đời sống tốt trong các khu đô thị nhà giàu riêng mới thấy sung sướng. Mình đi ô tô trên con đường đông nghẹt xe máy mới thấy thoải mái. Cả xã hội đang hoang mang với chuyện thực phẩm nhiễm độc thì một bộ phận người ung dung khoe khoang sử dụng rau và thịt đưa từ nước ngoài về. Cái tâm lý nguy hiểm đó, nhân cách méo mó ở đó, chứ không đâu xa lạ!



HỒNG BÍCH




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2016 02:37

Năm bài viết



Dưới đây là hai bài viết nhân việc cuốn NCTTLHĐ của tôi được in ra lần đầu (cuối 2008) và được in lại (đầu 2016). Xin giới thiệu lại để các bạn có nhu cầu cùng đọc và...mừng cho tôi. Nhưng trước hết xin thành thật cảm ơn tác giả các bài báo, trong đó có những người quen cũ của tôi và cả những người tôi chưa gặp.



________________________________________



Về cuốn "Những chấn thương tâm lý hiện đại"

http://tuoitre.vn/tin/tu-sach/2009102...





Nhìn những chiếc xe giá hàng triệu đôla trên đường phố, có người dẫn chuyện trọc phú. Nhà kinh tế có thể nói đến chuyện tiêu xài vượt xa sức chịu đựng của nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp. Còn nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn lại nhìn thấy "cái tư tưởng ăn chơi đua đòi hưởng thụ bất chấp tình cảnh nghèo đói chung của cộng đồng" (Rác ngoại). Và cách sống đó, theo ông, là một căn bệnh "đã sẵn có trong nội tạng xã hội, quá trình hội nhập chỉ làm chúng bộc lộ rõ mà thôi" (Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình).

Sách có 270 trang, 30 câu chuyện phiếm luận, mà con người "sống trên đường" hay sống trên đời thường suy nghĩ. Vương Trí Nhàn đặt người đọc trước những câu hỏi: Chúng ta đang sống như thế nào? Ðiều gì có thể thay đổi? Ðiều gì sẽ phải chấp nhận mãi? Và tác giả lui lại làm người cung cấp những bài học từ lịch sử, Ðông Tây kim cổ, từ những trang sách của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, cả những F. Dostoievski, Lỗ Tấn...

Ông dẫn lại A. Chekhov kể chuyện người nông dân Nga "tháo một bulông trên đường sắt để làm đinh đóng móng ngựa", như người nông dân ấy khai trước tòa: "Thiếu một cái bulông xe lửa vẫn chạy. Còn thiếu đinh đóng móng ngựa, tôi biết làm sao cày ruộng lấy lúa mì nuôi vợ con tôi". Hay trong phiếm luận Tội làm hư dân, Vương Trí Nhàn đã trích dẫn Chính thể đại diện của John Suart Mill một cách đắc địa: "Người ta xét đoán một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi".

Ðọc Những chấn thương tâm lý hiện đại, bạn Trần Quang trên trang "Chúng ta" viết: "Anh viết sâu và sinh động, đọc rất thấm nên cũng rất buồn, chẳng thấy lối thoát". Quả là đáng buồn và khó tránh. Chính tác giả chắc hẳn cũng đã buồn, rất buồn khi viết thế này: "Những thay đổi theo hướng thoái hóa, tác động rất lớn, song rỉ rả mỗi ngày một chút nên dễ lọt lưới, và khi nghĩ ra thì đã muộn" (Sự cố trường diễn).



HOÀNG NAM ANH





“Cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra...



Câu nói của nhà văn Nga Tchekhov được Vương Trí Nhàn trích lại trong “Những chấn thương tâm lý hiện đại”. Dường như, đó cũng là tiếng cảm thán của chính tác giả, và của nhiều người về sự xuống dốc của lối sống hiện nay.



“Ai bảo tôi lạc hậu tôi xin nhận”

Vương Trí Nhàn tự nhận về mình cái tiếng lạc hậu, để phát biểu lên những suy nghĩ về lối sống hiện đại mà theo ông là đang trong một cơn chấn thương mạnh.

Ông tẩn mẩn xem xét khắp lượt cái cách người ta đi lại, ăn nói, giao thương, lễ lạt, ăn uống, tiêu dùng… để chỉ ra: “Triết lý hưởng thụ thấm sâu trong những người dân thường”, và “thô bạo đã trở nên một thứ khí hậu trong mối quan hệ bình thường.”, “lối sống ô-sin” hay “sự tha hóa trong tiếng nói của ta đã bắt đầu tư lâu lắm”…

Đau đầu nhất, đáng phiền muộn nhất trong những câu chuyện ở một đất nước đang đô thị hóa chóng mặt là chuyện giao thông. Cái hỗn loạn trong giao thông là hệ quả, hay cũng là phản chiếu của sự hỗn loạn trong tâm lý.

Trong sự hội nhập của người mình – theo tác giả - vẫn không theo được lề luật chung, không bỏ được lối làm ăn tủn mủn, vụn vặt, trông tránh được gian dối. Hội nhập làm rõ thêm những khuyết điểm cố hữu trong bản thân xã hội tiểu nông.

“Còn những cái mất, những hư hỏng như học đòi học mót, đua đả hưởng thụ quên cả lịch sử tổ tiên mà gần đây ai cũng thấy chướng? Bởi chúng xuất hiện nhiều trong thời hội nhập nên ta tưởng tất cả lỗi là từ ngoài vào. Nhưng nói thế là nhầm.

Cái chính là những căn bệnh đó đã sẵn có trong nội tạng xã hội, quá trình hội nhập chỉ làm chúng bộc lộ rõ mà thôi.” (Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình)



"Thế nghĩa là thế nào?"

Nhiều sự chướng tai gai mắt thế, lắm cảnh ngược đời thế, thế nghĩa là thế nào? Cái đạo lý nào lại sinh ra những chuyện ấy?

Trong mỗi mẩu chuyện riêng, tác giả dần đưa ra một vài kiến giải riêng. Cái căn nguyên cội rễ được nhắc lại khá nhiều lần là những tàn tích tinh thần từ chiến tranh.

"… Tuy đã ra khỏi chiến tranh, song cái thói quen sống một mình ở cả cộng đồng càng được cố kết lại để làm nên nhiều ảo tưởng. Khả năng tự nhận thức lúc ấy bị hạn chết. Ta bằng lòng với mình. Ta ngại thay đổi. Ta thấy chỉ có ta là nhất.

Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất. Nhưng có phải sự đời đơn giản thế?" (Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư)

Hay như trong một mẩu chuyện khác ông viết:

"Không khó khăn gì lắm để tìm ra lý do khiến chúng ta có nhiều thói xấu như vậy. Trước hết là cuộc chiến tranh kéo quá dài. Trong Câu chuyện triết học, phần viết về H. Spencer, W. Durant cho rằng “xã hội chiến tranh thường ca ngợi một vài đức tính (nguyên tắc ứng xử - VTN) và dung túng cho những việc mà các dân tộc khác xem là có tội”.

Nếu nơi không chiến tranh, con người quảng đại và nhân đạo, thì nơi chiến tranh kéo dài, người ta quen với cướp bóc phản bội. Đây là luật phổ biến song người ta thường quên và tự cho mình là một ngoại lệ.

Con người hôm nay lao vào cuộc làm ăn kinh tế, mà thói quen sống kiểu chiến tranh còn nguyên vẹn. Kinh tế thị trường rút lại được hiểu là thói cạnh tranh không lành mạnh, nói nôm na là chúa đã chết, ai luốn làm gì thì làm. Thành thử có xảy ra lộn xộn hỗn hào thì cũng là điều dễ hiểu. Từ chỗ chăm chăm chửi bới kẻ giàu cho rằng kẻ giàu là xấu, nay người ta lao vào làm giàu để rồi lãnh đủ những xấu xa bỉ ổi đó, và đưa cái ác lên một trình độ hiện đại đáng sợ.

Trong trạng thái như lại muốn thốt lên “cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”, tác giả nảy ra một ý:

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy và dung túng dân làm bậy. Tội làm hư dân." (Tội làm hư dân)



Không lẽ, lại như lời của một nhân vật, mà tác giả đã nhận là “vô cảm, nhưng là thực tế”:

“Khi không thay đổi được hoàn cảnh, tốt hơn hết là chấp nhận cho xong. Chứ đã biết là không ngăn chặn được tình trạng này từ gốc, mà thỉnh thoảng lại nổi cơn sụt sùi thương xót, cho phép nói thật nhé, thấy buồn cười lắm.” (Tổ chức đời sống nông dân sao đây?)



Và đôi lời về sự bế tắc…

Chỉ ra những khuyết điểm trong đời sống tinh thần của xã hội là một điều quan trọng để tiến đến nhận thức đầy đủ về bản thân xã hội. Và điều được mong đợi hơn cả là chỉ ra một lối thoát. Cả hai điều này, người đọc đang rất trông chờ ở giới nghiên cứu VN.

Dù có không ít cuốn sách tự trào, tự giễu về các thói hư tật xấu của người Việt Nam, (chưa kể, hàng ngày trên báo chí có rất nhiều bài viết cùng dạng này), nhưng hiếm thấy một cuộc điều tra xã hội học nào rộng khắp, hay một nghiên cứu đầy đủ nào với các dữ liệu thực tế, thực hiện trong một thời gian đủ dài với số lượng mẫu hỏi đủ lớn để đưa ra các kết quả thực tế.

Các nhà nghiên cứu thường chỉ dừng ở góc độ quan sát các nhân, trong vùng phạm vi trải nghiệm của họ về cuộc sống xung quanh. Do vậy khó tránh khỏi sự thiếu tính phổ quát về các vấn đề mà họ gọi là “người Việt”, hay “xã hội ta”.

Tương tự, các khái niệm thời gian thường chỉ được nói đến một cách chung chung “ngày nay”, “bây giờ”…, thay vì được xác định cụ thể trong một giai đoạn thực hiện nghiên cứu cụ thể.

Vì những điều nói trên, nên có lẽ việc đòi hỏi người viết đưa ra các giải pháp để giải quyết các hạn chế nhận thức xã hội và tâm lý của người Việt là một điều chưa thể. Vẫn biết các biểu hiện của các “thói hư tật xấu” có muôn hình vạn trạng, nhưng làm thế nào để thay đổi, thay đổi bắt đầu từ ai/cái gì? Khi không có những cứ liệu phân tích cụ thể trên diện rộng, thì làm sao có thể đưa ra giải pháp có tính thực tiễn?

Người đọc – bao gồm cả những người đang nhận thức được chấn thương tâm lý của bản thân mình và những người xung quanh – vẫn đang chờ đợi ở các nhà tâm lý một sự kiến giải rõ ràng hơn

Linh Thủy (Tuần Việt Nam)



"Bắt thóp" những thói xấu của người Việt

http://anninhthudo.vn/blog-nghe-si/ba...





ANTĐ - Mặc dù được đúc kết từ những sự kiện xảy ra trong hơn chục năm, lại từng được đăng tải trên nhiều mặt báo, trang web nhưng những vấn đề đặt ra trong cuốn “Những chấn thương tâm lý hiện đại” của nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn vẫn không hề cũ. Đọc sách của ông, người ta vừa thích thú trước lời văn tỉnh táo, sắc lẹm, vừa không khỏi băn khoăn: Chúng ta đang sống như vậy thật sao?



Người Việt đang bị bệnh “sốt ruột”



Bạn đọc chắc không quá xa lạ với nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn. Không chỉ là một người nặng lòng với văn chương, nhiều độc giả biết đến ông qua những bài báo, bài nghị luận sâu cay vạch trần những thói hư tật xấu của xã hội. “Những chấn thương tâm lý hiện đại” có thể coi là một khảo cứu khá thú vị của ông về xã hội hiện đại, trong đó tập trung chủ yếu vào đời sống người dân thành thị.

Ở đây, có thể nói, Vương Trí Nhàn đã không ngừng quan sát, để rồi chỉ ra, lý giải một cách cặn kẽ căn nguyên những biểu hiện lệch lạc, sự thoái hóa, xuống cấp của xã hội. Một trong những “căn bệnh” được Vương Trí Nhàn nhắc đến nhiều đó là căn bệnh “sống vội”, bệnh “sốt ruột”: “Hình như nay là lúc ai cũng vội. Hằng ngày mở mắt ra đã thấy bao nhiêu việc chờ mình. Ý nghĩ chúng ta đi quá nhanh. Mà tốc độ đi lại quá chậm”.

Thói quen sống gấp, sống vội tưởng chừng chỉ là một sản phẩm tất yếu của xã hội công nghiệp, chẳng hại đến ai, hóa ra đã len lỏi khắp các ngõ ngách, dần dần ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của mỗi người, khiến người ta dần đồng lõa với cách làm việc qua loa, đại khái, cẩu thả, thiếu trách nhiệm.

Lĩnh vực viết báo, viết sách cũng vậy. Theo Vương Trí Nhàn, nếu như hồi năm 1986 trở về trước, khi ở Hà Nội chỉ “lom đom” dăm bảy tờ báo, sách viết xong không chắc đã có giấy để in thì người ta không ai bảo ai viết cái gì cũng đậm đà, chậm chạp. Nay thì “…vừa nghĩ ra cái đầu đề đã ngồi ngay vào bàn, bản thảo chưa hoàn thành đã giục nhà xuất bản xin phép cho in”, để đến nỗi khi nhìn lại những gì mình viết mới thấy đã “sa vào vòng tay của sự làm liều, làm ẩu lúc nào không biết”.

Không chỉ nhắc đến “căn bệnh thời đại”, Vương Trí Nhàn còn sắc sảo bắt bệnh những thói xấu của người Việt, chẳng hạn như “bệnh ảo tưởng”, “thích ồn ào”, “chuyện sùng ngoại”, “nạn cờ bạc”… Ông thậm chí gọi văn hóa giao thông mà chúng ta đang có là một cuộc “biến hình khốn khổ” khi mỗi người tham gia giao thông thay vì nhìn nhau với ánh mắt thiện cảm, lại luôn thường trực một tâm lý “kẻ thù”, sẵn sàng tranh giành nhau từng centimet, nạt nộ nhau khi xảy ra va quệt. Rồi vô vàn những “chấn thương” tâm lý khác mà con người ta không lý giải nổi.



Sự trở lại của phiếm luận

Ngòi bút Vương Trí Nhàn tài tình ở chỗ ông kết hợp nhuần nhuyễn những tri thức sách vở với những câu chuyện thế sự, bằng việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, trực diện nhưng cũng đầy sâu cay. Đọc “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, độc giả thấy thích thú khi được gặp gỡ một cây bút không những thông tường văn chương mà còn nắm bắt từ chuyện Tây, chuyện Tàu… và móc nối chúng với những vấn đề nóng hổi của cuộc sống hôm nay.

Với mỗi vấn đề, nhà phê bình này lại có một cách tiếp cận rất đa dạng, khi thì “thẳng tay” vạch rõ khiếm khuyết, khi thì lồng ghép trong một câu chuyện tản mạn, vô thưởng vô phạt nhưng cũng đầy thâm thúy. Cái hay ở đây là mặc dù ngôn ngữ rất thẳng, rất quyết liệt nhưng không nặng về giáo điều hay lấy hiện tượng để quy chụp cho toàn thể.

Người đọc có thể thấy đôi khi ông “đi ngược”, tức là thay vì đồng ý với số đông thì tìm cách lý giải, mổ xẻ vấn đề theo điểm nhìn khác thường. Giống như tiêu đề một bài viết của ông - “Cái đúng hôm qua nay không đúng nữa”.

Có người nói “Những chấn thương tâm lý hiện đại” đánh dấu sự trở lại của thể loại phiếm luận - vốn tồn tại dưới nhiều tác phẩm đơn lẻ chứ ít khi chịu đứng riêng thành một tác phẩm độc lập. Với riêng Vương Trí Nhàn, người đã hơn chục năm nay theo đuổi thể loại phiếm luận, thì cuốn sách này giống như sự đối thoại giữa những con người khác nhau trong ông.

Trong cuộc đối thoại kỳ lạ đó, người đọc ắt hẳn đã nhìn thấy những lúc đồng cảm, nhưng cũng có cả những cuộc tranh cãi nảy lửa để rồi đi tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: “Chúng ta đang sống như thế nào”, và “Tại sao lại có tình trạng nhân thế như chúng ta đang thấy”. Và kết quả, dù đấu khẩu hay “hòa bình” thì ngòi bút ấy vẫn hướng con người tới những điều tích cực, để cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, hay chí ít là giảm thiểu những ung nhọt, những căn bệnh “biết rồi khổ lắm nói mãi”.

Mai Anh (An ninh Thủ đô)



Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn: Trăm sự chỉ vì chữ “vội”!

http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-phe...







“Hiện đại hóa làm nảy sinh bao bi hài kịch về tâm lý con người, trong đó có chuyện chúng ta “vội”. Vội chen lấn, vội thăng tiến, vội mưu sinh, vội like, vội share, vội chỉ trích, lại cả vội tha thứ… - trăm nghìn kiểu “vội”! Sập cầu, nổ bom, quấy rối tình dục (không từ cả trẻ em)… - cũng là từ chữ “vội” ấy mà ra cả chứ đâu!” - Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn chia sẻ với “Buffet cuối tuần” về “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, cũng là tên cuốn sách vừa xuất bản của ông.

“Chấp nhận đôi khi giúp tránh được tổn thương”

Thật ra, lúc này mà còn gọi ông là nhà phê bình văn học thì vẻ như không được chính xác lắm nhỉ?

- Đúng là, trong khoảng 8 năm trở lại đây, kể từ ngày nghỉ hưu, có thời gian đi đây đi đó, sống chậm hơn, ngắm nhìn thời cuộc nhiều hơn nên sự quan tâm của tôi dần ngả về phía những vấn đề văn hóa xã hội, chứ không chỉ gói gọn trong trang sách, đời sống văn học, chân dung các nhà văn… như trước đây nữa. Một phần có thể là do sau hàng chục năm làm nghề, “ông già về hưu” ấy đã đến hồi cạn vốn nên buộc phải mở rộng trường quan sát của mình hơn, nếu như còn muốn tiếp tục cầm bút và cầm bút có trách nhiệm, để đối thoại với bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ hôm nay, những người bạn của tôi trên FB...

Tuy nhiên, cũng lại phải là một nhà phê bình văn học, có một bề dày quan sát, nghiên cứu lâu năm thì mới có thể đưa ra những liên hệ, soi chiếu độc đáo giữa những vấn đề hôm nay với những câu chuyện, những khảo cứu… đã từng được các lớp nhà văn đi trước kể lại trên trang sách?

- Có những liên tưởng đến một cách tự nhiên, cũng có những cái cần tìm tòi, khảo cứu, theo kiểu “nói có sách, mách có chứng”. Âu cũng là một cách “tựa lưng” vào những giá trị chưa bao giờ cũ như văn học tiền chiến, văn học Nga Xô viết…; những Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải… và cả những F.Dostoievski, A.Tchekhov, Lỗ Tấn... để rọi vào những vấn đề của cuộc sống hôm nay.

Bằng cách soi rọi đó, “Những chấn thương tâm lý hiện đại” kể từ lần in đầu tiên vào năm 2009 có thể nói là đã ít nhiều đưa ra được một số dự báo, cảnh báo mà cho đến hôm nay vẫn còn là những vấn đề nổi cộm. Lần ra được sợi dây liên hệ giữa cái hôm nay và hôm qua hẳn cũng là một cách giúp chúng ta bớt đi được cảm giác hoang mang thái quá trước những biến chuyển của thời cuộc và lòng người.

Là một nhà phê bình văn học, nhưng từng học giỏi các môn khoa học tự nhiên nên ít nhiều trong cách nghĩ, cách viết của tôi cũng có phần được dung hòa hơn giữa hai thế mạnh. Đọc “Những chấn thương tâm lý hiện đại”, đôi lúc bạn cảm thấy như có hai người đang “cãi nhau” trong cách nhìn nhận một vấn đề thì đó chính là hai con người ấy. Nếu không có cái nền tư duy hiện đại, giàu tính phản biện ấy, hẳn là tôi đã không có được độ “mềm” của tư duy như trong những trang viết gần đây. Một độ mềm đủ để không nhìn mọi việc bằng con mắt quá bi quan, cay nghiệt, cũng không đến mức “lạc quan tếu”.

Đại loại: Ở hiền chưa chắc đã gặp lành; một “nhân” có thể sinh ra nhiều “quả”, lại cũng có khi nhiều “nhân” lại chỉ sinh được một “quả”… Chấp nhận những điều không dễ gì chấp nhận đó, đôi khi cũng là một cách để chúng ta tránh được phần nào những tổn thương trong đời sống hiện đại.

“Người nghèo mưu sinh, người giàu… sinh mưu”

Từng là biên tập viên NXB, chứng kiến quy trình gồm nhiều công đoạn để xuất bản một cuốn sách, và sau đó là một ông già sành blog, Facebook, có thể tự xuất bản những bài viết của mình một cách nhanh nhất, ông nghĩ sao về bạn đọc trẻ hôm nay?

- Nhiều người già tỏ ra bi quan về lớp trẻ hôm nay nhưng tôi thì không. Tôi thậm chí còn đánh giá rất cao các bạn đọc trẻ của mình và không hề nghĩ họ hời hợt, trong cách họ giao lưu với tôi tại hội chợ sách mới đây, hay trước giờ, trên FB, blog… Nếu văn hóa đọc của giới trẻ hôm nay bị cho là có vấn đề thì tôi nghĩ lỗi trước hết và trên hết phải là ở người viết. Còn nếu như cách viết, cách đặt vấn đề của bạn gần gũi với người trẻ thì chắc chắn họ sẽ đối thoại với bạn một cách rất nghiêm túc và sâu sắc hơn bạn có thể tưởng tượng nhiều. Điều thú vị nhất của việc tự xuất bản một bài viết hay một cuốn sách trên mạng, đấy là được tương tác, đối thoại rất sôi nổi, “kịch tính” với các bạn đọc trẻ.

Tôi tưởng từ “Vội” - một trong những căn bệnh của thời hiện đại mà ông chỉ ra trong cuốn sách là để nhằm vào người trẻ?

- Đâu phải chỉ mỗi người trẻ. Bao người trong chúng ta đều đang “vội” cả đấy thôi! Hiện đại hóa làm nảy sinh bao bi hài kịch về tâm lý con người, trong đó có chuyện chúng ta “vội”. Vội chen lấn, vội thăng tiến, vội mưu sinh, vội chiếm đoạt (tình yêu hay của cải), vội thay lòng đổi dạ, vội like, vội share, vội phê phán, chỉ trích; lại cả vội tha thứ, bỏ qua nữa… - trăm nghìn kiểu “vội”! Sập cầu, nổ bom, quấy rối tình dục (không từ cả trẻ em)… - cũng là từ chữ “vội” ấy mà ra cả chứ đâu! Người nghèo chết vì mưu sinh, người giàu chết vì… “sinh mưu” - nhiều khi là thế. Đến lành hiền như nông thôn mà giờ cũng nhiều chuyện tan nát lắm: Vợ chồng bỏ nhau dễ dàng, con gái mới lớn giờ nghe từ “ngàn vàng” như chuyện của ai, không liên quan...

Những chuyển động bất quy tắc (trong đó có cả quy tắc đạo đức) đang khiến xã hội trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, thiếu quy hoạch, thiếu phép tắc… và đáng lo ngại nhất, là những hỗn loạn trong đời sống tâm lý của mỗi chúng ta, đặc biệt là những người trẻ có sức đề kháng thấp. Sự hỗn loạn là tất yếu, nếu như ngày càng có thêm nhiều người cho rằng: Chỉ có những điều không làm được, còn thì không có những điều không được làm, và cùng đó, là những mục tiêu ngắn hạn, trước mắt, hoặc được chăng hay chớ, hoặc bằng mọi giá. Nhiều người trong chúng ta gần như không biết đến sự tồn tại của khái niệm “lý tưởng sống” mà chỉ đơn giản là có lối thoát hay không có lối thoát, được hay mất...

Chúng ta (trong đó có không ít người nổi tiếng) thường nói rất nhiều, nhưng vấn đề là liệu có làm được điều gì tử tế cho cộng đồng… Hoặc có kiệm lời, thì cũng chẳng qua là vì đang cắm mặt vào cái điện thoại và cắm cúi “còm”, like…, không cần biết đến sự tồn tại của người bên cạnh, kể cả là những người cùng nhà, ngay trong một bữa cơm…

Ông đừng bi quan thế chứ! Tôi biết ông mê thơ Lưu Quang Vũ, có cách nào để vừa ghét mà cũng vừa “yêu quá đời này” được không?

- Thì đúng là Lưu Quang Vũ cũng từng hỏi thế mà: “Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi/ Về cuộc đời ghê gớm ta yêu”. Và chính anh cũng nói: “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh/ Những khuôn mặt những vòng xoáy những đám mây/ Sẽ hiểu được sẽ không còn đáng sợ/ Chúng ta sẽ chịu được khổ đau sẽ làm việc/ Đóng một cái đinh treo một tấm áo/ Và yêu nhau dưới một ngọn đèn…”.

Vâng, rốt cuộc vẫn là không nên “vội”! Cảm ơn ông.

THỦY NGUYÊN (thực hiện)



Người trẻ và những chấn thương tâm lý hiện đại

http://www.doanhnhansaigon.vn/doi-thu...



Rất lâu sau khi nổi tiếng với loạt bài nghiên cứu những tính xấu của người Việt cách đây hơn 10 năm, tên nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn mới lại xuất hiện trên kệ sách Nhã Nam với tựa sách rất lôi cuốn: Những chấn thương tâm lý hiện đại.



Thật sự nếu là tác giả khác, có lẽ tôi không muốn đọc, bởi thời bây giờ nhấp chuột máy tính đọc báo, bạn sẽ cảm nhận về một xã hội tổn thương sâu sắc lắm rồi. Nhưng nhãn quan của Vương Trí Nhàn không chỉ chứa đựng kinh nghiệm của người già, mà còn là tư duy khoa học, xã hội nghiêm túc, một sự soi rọi xã hội với tính triết lý cao.

Ông Vương Trí Nhàn nhớ thời chiến tranh, để vận động thanh niên nhập ngũ, những người lên đường ra chiến trường chưa tốt nghiệp cấp 3 vẫn được nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp. Những thanh niên có tiền sự, càn quấy, nếu nhập ngũ lại thành người tốt. Nghĩa là xã hội vận hành tất cả cho mục đích chiến thắng. Ngày nay, giữa bối cảnh xã hội mà luật pháp chưa đủ chặt chẽ, cả xã hội vẫn ngấm ngầm cổ vũ cho tư duy "làm tất cả để chiến thắng", tạo ra vô vàn kẽ hở để nhà nhà "tặc lưỡi" làm quen với những việc làm trái quy định để trục lợi cho bản thân, cho ngành của mình, và vẫn được xem là có công hơn có tội với guồng máy đang vận hành.

Tôi tâm đắc nhất bài phiếm luận "Những tù binh của lợi ích trước mắt" của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, trong đó ông viết con người chỉ sống cho giây phút hiện tại, chỉ cần tồn tại và thắng. Con người đang ngày càng mệt mỏi, buông thả, hoặc hung hãn, bất cần, hoặc ôm vào người thứ lý luận của kẻ bị bần cùng hóa: "Mình không ăn, không lấy thì thiên hạ cũng lấy, cũng tham nhũng, cướp giật hết".

Hoặc đề cập triết lý sống mới: "Cả xã hội cũng như cá nhân phải biết kiềm chế sự ham muốn của mình, hay nói cách khác phải có ý chí mạnh mẽ là sản xuất nhiều hơn tiêu thụ”. Đó chính là nước Nhật, một đất nước mạnh mẽ, thần kỳ trong tạo ra của cải, nhưng cũng tạo ra con người cần kiệm, khiêm tốn làm tiền đề chính của sự phát triển.

Trong khi đó, sự tiêu thụ ở người Việt hiện đại giống như "ăn trả bữa", tàn phá hết thiên nhiên, tàn phá cả văn hóa và đạo lý, dẫn đến làm suy sụp hệ thống giáo dục và đạo đức xã hội. Một cái nhìn không lạc quan, nhưng rất nghiêm túc về nền tảng nghiên cứu xã hội học Việt Nam khoảng mươi, mười lăm năm trở lại đây.

Tôi nghĩ, những quan điểm phiếm luận này đặc biệt quan trọng với doanh nhân, những người nắm những phương tiện sản xuất, nắm con người và tạo ra của cải cho xã hội nhiều hơn những người khác trong xã hội.

Chưa hết, ông Vương Trí Nhàn sau các phân tích về xã hội bỗng kết thúc bằng một phiếm luận: "Càng trẻ, chấn thương càng nặng!", đặc biệt trong lối sống thụ động, đặt hết vui, buồn của chính mình trong bàn tay thao túng của kẻ khác vì không có nền tảng tốt trong giáo dục nhân cách. Bạn có lo sợ không khi đọc điều này?

Những người lớn tuổi đã tiếp thu một nền văn hóa truyền thống, ít nhất còn được trang bị nền tảng để bình tĩnh tiếp nhận và chọn lọc cái mới, có sức đề kháng. Vậy những người trẻ sẽ đối diện thế nào với những chấn thương tâm lý hiện đại, như tiêu đề của cuốn sách?

Rất lý thú với lý giải sâu sắc của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn. Ông nói, suốt thời trung đại, Việt Nam không chế ra được văn tự riêng, phải dùng chữ Hán. Sau này người ta chế ra chữ Nôm, có khác đi, nhưng ác nỗi muốn biết chữ Nôm phải giỏi chữ Hán. Nghĩa là gì? Ông cho rằng chính các nhà nho xưa muốn thế, nếu học chữ dễ dàng thì ai cũng học được cả, còn gì là một tầng lớp đặc quyền đặc lợi, tìm ra thứ chữ dễ học, trao cần câu cơm cho người khác à, đâu dễ và không đời nào họ chấp nhận.

Đặc quyền đặc lợi cho riêng một tầng lớp luôn ám ảnh tâm lý xã hội hiện đại. Mình thành công trên sự thất bại của người khác. Mình có đời sống tốt trong các khu đô thị nhà giàu riêng mới thấy sung sướng. Mình đi ô tô trên con đường đông nghẹt xe máy mới thấy thoải mái. Cả xã hội đang hoang mang với chuyện thực phẩm nhiễm độc thì một bộ phận người ung dung khoe khoang sử dụng rau và thịt đưa từ nước ngoài về. Cái tâm lý nguy hiểm đó, nhân cách méo mó ở đó, chứ không đâu xa lạ!



HỒNG BÍCH




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2016 02:37

April 24, 2016

Sơ bộ tìm hiểu tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài (phần II)

TK: Trên đây,
anh có nói đến khía cạnh hai mặt, vừa “tự tôn”, vừa “tự ti” của người Việt
trong việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài. Liệu anh có thể nói rõ hơn một chút, trước
hết về khía cạnh “tự tôn”.
 

VTN: Kể ra dùng chữ tự
tôn cũng chưa hẳn đã chính xác, chỉ biết là trong khi tìm hiểu về việc tiếp
nhận, tôi có nhận ra một sự thực là dân ta rất sợ mang tiếng là kém cỏi, rất sợ
nói rằng chúng ta chịu ảnh hưởng của nước ngoài, và luôn luôn tâm tâm niệm niệm rằng ta
chẳng kém gì người.


 Ngay từ khâu xếp loại ta
đã thích nói rằng mình thuộc loại ưu hạng, ngang hàng với những nền văn hóa lớn
trên thế giới. Nhà nghiên cứu lịch sử
người Anh, Arnold Toynbee, trong công
trình chủ yếu của mình A Study of History có nói rằng thế giới
hiện nay còn tồn tại 38 nền văn minh, trong đó có Việt Nam. Cái đó là cái mà
chúng ta đang cần, nên nhiều người thích nhắc lại, cho đây chứng tỏ rằng văn
minh Việt Nam, văn hóa Việt Nam ngang ngửa với người, cần được khẳng định. Thế
nhưng các vị ấy lại cố tình lờ đi, cố tình quên một điều là theo sự phân loại
của Toynbee, thực ra thế giới chỉ có mấy nền văn minh lớn như Ai Cập, Trung
Quốc, Ấn Ðộ, phương Tây, Hồi giáo... ngoài ra, còn lại là những nền văn minh vệ
tinh. Theo nghĩa này ta cũng là một loại văn minh vệ tinh,
tương tự như Triều Tiên, Nhật Bản, xoay quanh văn hóa Trung Hoa. Cái đó
nhiều nhà nghiên cứu đồng nghiệp của tôi không muốn chấp nhận, thấy người chung
quanh ai nói thế thì bảo là hèn, khiếp nhược, kém tinh thần dân tộc. Tôi thấy ở
đây có một sự thụt lùi. Tức là từ lâu rồi, các nhà văn, nhà nghiên cứu ở ta đã
ghi nhận ảnh hưởng nước ngoài, ví dụ như Lưu Trọng Lư chẳng hạn, ngay từ năm
1939, ông đã viết trên tạp chí Tao Ðàn“Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một
điệu thơ nhỏ nhất đến một đạo lý cao xa, hồi xưa chúng ta là những người Tàu,
gần đây là những người Tây, và chưa lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả”.
 Nhà
mác-xít Trường Chinh, trong báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam năm
1948, đã nói chắc như đanh đóng cột: “Ông cha ta hàng chục thế kỷ học Tàu,
viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu, pháp luật mô phỏng theo cách Tàu, học triết học
Tàu, theo lễ giáo Tàu. Về tín ngưỡng theo cả Tàu lẫn Ấn. Khoa học không tiến.
Lối ăn, mặc, ở hủ lậu, bảo thủ, thiếu khoa học
”, và ông đã tổng kết là: “Văn
hóa cổ của ta có hai nhược điểm lớn là kém khoa học và lai Tàu
”. Hay  khi nhận xét về văn hóa thời Pháp thuộc Trường Chinh cũng nói: “Nội dung lộn
xộn, phức tạp, hình thức vừa lai Pháp, vừa lai Tàu
” ( bản Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam tôi nói ở đây là bản đầu tiên in ra ở Việt Bắc; sau này nhiều ý ông ấy sửa cho bớt cực đoan đi, chữ Tàu
ông ấy đổi thành chữ Trung Quốc). Ðấy, một nhà mác-xít triệt để như ông Trường
Chinh mà cũng nói như thế, còn giờ đây chúng ta rất ít người nhắc lại những câu
tương tự, vì sợ, vì e nói thế là làm cho mình yếu thế. Và trên tinh thần thì cứ
luôn luôn nhấn mạnh rằng ta độc đáo lắm, hình như cái gì ta cũng nghĩ ra hết và
có tiếp nhận thì là tiếp nhận rất thông minh rất sáng tạo. Chính cái đó là một
lối nghĩ không khách quan, không khoa học, không đúng với sự thực, chả lợi lộc
gì mà chỉ làm dân ta hỏng thêm. 




TK: Trên kia anh
đã nói một chút về  khía cạnh “tự ti”. Anh
có bổ sung gì thêm?





VTN: Khi cái tự tôn nói trên dần  dần phai lạt, ở nhiều người lại có tình trạng ngược lại, đầu óc dễ sa vào lúng túng ngớ ngẩn, dân gian người ta gọi là sinh ra “cóng”.  Do từ chỗ tối bước ra chỗ sáng, nên đâm ra lóa mắt bỡ ngỡ. Trong thâm tâm cảm thấy như là có lẽ không bao giờ chúng ta có thể bằng được người, vì thế cho nên tranh thủ hưởng thụ, tranh thủ nhặt nhạnh, tranh thủ làm thế nào để có thể vênh mặt lên mà nói rằng ta không kém họ. Ðấy là những cái tôi tạm gọi là những bệnh tật trong sự tiếp nhận, nếu không khắc phục được thì không biết bao giờ chúng ta mới có thể nên người được. Ác thay nó lại phổ biến ở nhiều người kể cả những người được mệnh danh là có tri thức, là tai mắt trong xã hội và có biết ít nhiều về văn hóa nước ngoài. Khi gặp những chỗ
bí trong văn hóa, những người này thường có một cách xử lý rất đơn giản, là thả
cửa bắt chước, thả cửa học đòi, làm theo người ta một cách lộ liễu thô thiển, không biết thế nào là lố bịch, là xấu hổ nữa. Tại sao lối làm văn hóa kiểu đó
phát triển cho tới ngày nay? Vì anh em tự nhủ thầm, mình là nước nhỏ, chẳng
ai để ý, có lấy của người thì cũng chẳng ai biết và giá có biết cũng chẳng ai
bắt vạ. Hơn nữa chờ đến lúc mình cũng nghiên cứu được như người thì “có đến mùng thất”. Như thế là tự ti chứ còn gì nữa!  Bây giờ hiện
tượng này vẫn đang phổ biến. Một ví dụ rất nhỏ. Tôi thấy gần đây có một tình
trạng là trong ngôn ngữ, nhiều người rất thích dùng những chữ Hán kể cả những
chữ mà họ không hiểu nghĩa hoặc chỉ hiểu mang máng. Rồi rất thích ghép từ đặt
câu theo ngữ pháp chữ Hán, thí dụ mấy cửa hàng thì là Cày tơ quán, Trúc
ly quán
 hay thơ thì là đặt tên là Cỏ may thi tập, sách
tiểu thuyết đá nghiên cứu thì đặt tên là Thuyết Trần (tương tự
như Thuyết Ðường?!). Lại chẳng hạn, gần nhà tôi có một cái nhà có vẻ
biệt thự liền được đặt tên là Bồ đề trang. Cứ cảm thấy như là không
nói thế không viết thế, không phả một chút “mùi Tàu” nào đấy trong cách nói của
mình, chữ nghĩa của mình, thì nó không được sang trọng. Thành ra có hai tình
trạng song song tồn tại, vừa để cho ảnh hưởng xâm nhập bừa bãi như gió vào cái
nhà hoang, vừa đóng kín lại; vừa học mót học lỏm, lại vừa ra cái điều là ta
không cần ai và hoang tưởng rằng ta không kém gì ai trên đời này cả.

TK: Có vẻ như
tất cả cái xu hướng mà anh vừa kể, ít nhiều vốn có từ trong lịch sử rồi đến
thời các anh lại càng được tô đậm hơn lên. Tình cảnh ấy do đâu mà có


VTN: Đúng vậy, cả sự tự
tôn lẫn sự tự ti, sự bài ngoại lẫn sự vọng ngoại, tất cả chỗ yếu của việc tiệc
tiếp nhận văn hóa trong quá khứ đến với Hà Nội trước 1975 đều được làm một
cách có ý thức có bài bản để ra vẻ tôn trọng lịch sử. Nhìn lại quá khứ, do hoàn
cảnh riêng của một miền đất “phi Hoa phi Ấn”, do quốc gia mình chưa hình thành
đã bị các thế lực bên ngoài tác động nó khiến ta như là phải  lo
giữ sĩ diện, lại như là phải cố chín ép, nên cứ nói lấy được và bỏ qua cho nhau mọi sự hàm hồ vu khoát. Gần đây thì là do hoàn cảnh chiến tranh. Chiến tranh ở ta -- như bọn tôi
từng được học ở nhà trường phổ thông ở Hà Nội 1960 về trước --  là lấy yếu đánh mạnh. Để động viên dân chúng
chịu đựng và binh lính xông lên mặt trận, các nhà lãnh đạo phải tìm cách khơi dạy trong con người  niềm tự hào để gây tin tưởng. Trong niềm tự
hào này có chỗ đúng, nhưng cũng có nhiều phần là giả tạo. Con người lúc đầu tin
theo niềm tin đó nên hồn nhiên mà tự tôn, bài ngoại, tới lúc phát hiện nó là giả tạo
thì lại sinh ra tự ti để rồi vọng ngoại. Tóm lại,  trong mấy chục năm chiến tranh, những cái
bệnh tật vốn đã có từ lâu, càng có lý do để tồn tại.

Phần mở đầu ở trên tôi đã nói là trong chiến tranh, dân Hà Nội ra phố, giá kể nhỡ ra có gặp người nước
ngoài hỏi đường cũng không được phép trả lời và nếu như lúc ấy anh lại cầm theo vài tờ báo nổi tiếng của phương Tây thì càng dễ bị nghi vấn. Chả ai được phép biết về thế giới
đến nơi đến chốn. Ðặc biệt không biết gì về thế giới hiện đại, như trong văn
học có thể dịch văn học phương Tây thế kỷ XVIII, XIX chứ với văn học thế kỷ XX
thì coi là độc hại, hoàn toàn cấm cửa (đến sau 1986 mới có đổi khác). Đau xót là ở chỗ ấy, chỗ nền văn học  của chúng tôi quá cổ lỗ và khi hiểu rằng đó là một chủ trương thì tôi gần như  tuyệt vọng. Nhân đây xin kể thêm  một mẩu chuyện bên lề. Chị Đặng Anh Đào tôi quen
vốn làm công việc nghiên cứu văn học phương Tây, nhưng rất am hiểu văn học Việt
Nam và từ những năm tám mươi có chuyển sang viết phê bình, tức viết ngay về văn học đương thời, ngòi bút phê bình của chị đã được dư luận công nhận,
trở thành một thành viên Hội nhà văn. Sau những lần làm việc với sứ quán Pháp về sách vở, Chị
Đào có lần kể với tôi là không hiểu sao ông Hữu Thỉnh phụ trách Hội nhà văn có quan điểm rất lạ, người Pháp người ta cho sách thì chỉ nhận sách cổ
điển, còn sách hiện đại thế kỷ XX thì nhất định không nhận. Tôi phải nói ngay
với chị Đào rằng cái lối này đã có từ thời của nhà văn kiêm nhà trí thức số một
của thời ta là ông Nguyễn Đình Thi. Hồi chống Mỹ, Pháp họ vẫn cho Hội nhà văn
sách rất đều. Ông Thi, nhân danh thủ trưởng Hội cho thư viện nhận, nhưng nói nhỏ vào tai bà Huệ giữ thư viện – cũng tức là vợ
nhà văn Bùi Hiển -- cất kín trên gác, ai muốn mượn phải báo cáo ông Thi, có lệnh của ông Thi bà Huệ mới
được phép cho mượn. Nói tóm lại, cái xu hướng tự cách ly hẳn với thiên hạ,
cái đó là nhất quán, và đã kéo dài quá lâu, gây nên bao nhiêu tật bệnh. 




TK: Nói riêng
trong phạm vi văn học thời kỳ trước 1975, trong tình trạng chung là bị hạn chế,
anh và các bạn ở Hà Nội là những nhà văn, nhà phê bình, thì các anh chị có
thấy nó ảnh hưởng tới sự sáng tạo của mình  và đã làm cách nào để
 vượt qua hạn chế đó.





VTN: Ở Hà Nội, lớp người
viết văn, viết báo sinh khoảng những năm bốn mươi chúng tôi là một lứa người
khá độc đáo với nghĩa lưng vốn văn hóa
rất hạn hẹp. Các cụ ngày trước, khi đi viết văn thì ít nhất là biết chữ
Hán, biết văn học Trung Quốc cổ. Thời Tây sang, ông Tản Đà "chữ nghĩa tây tầu chót dở dang", nhưng cũng rất chăm đọc sách Tây dịch ra Trung văn tôi nhớ là trong hồi ký Giấc mộng con, Tản Đà đã nhắc tới Bàn về tự do của John Stuar Mill.  Chẳng những các nhà văn lớp 32-45, mà ngay các nhà văn
thế hệ chống Pháp, một số như các anh Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Vũ Tú
Nam, Phạm Hổ, Nguyên Ngọc...nhiều người còn đọc chủ động đọc sách báo Pháp kể cả tìm văn học Nga và Đông Âu qua tiếng Pháp. Còn như bọn
chúng tôi, thì nói theo chữ mà khoa sư phạm hay dùng là mất cơ bản, có biết gì thì chỉ là nghe các bậc đàn anh nói lại và thông qua một số lèo tèo các dịch phẩm xoàng xĩnh. Chúng tôi không có ý niệm gì về đời sống văn học nước ngoài. Chúng tôi thiếu
kiến thức tổng quát về các khoa học nhân văn cơ bản như sử, triết, xã hội học, tâm lý học. Như chị biết đấy, có học ngoại ngữ mới hiểu và dùng đúng tiếng
Việt, có biết văn học nước ngoài thì thật sự anh mới hiểu sâu sắc văn học Việt.
Không biết các bạn khác thế nào chứ riêng tôi đã có lúc tôi cảm thấy bi quan
cho rằng không biết mình có quyền được gọi là một nhà văn nữa hay không.
Sự ngớ ngẩn nhiều lắm đến mức nghĩ lại thấy
ngượng. Như chị Anh Thơ khi sang Liên xô năm 1955 cứ đòi người ta cho gặp
ông Lev Tolstoi - ông này đã qua đời từ 1910. Như là khoảng 1985, khi một cuốn tiểu thuyết rất bình thường
của Ấn Độ, cuốn Mùa tôm được dịch ra tiếng Việt, các nhà văn
cứ xuýt xoa coi như một kiệt tác, có nhà văn ở thế hệ tôi còn bảo sẵn sàng chép lại cả quyển để học hỏi.  Quay lại nhìn cái mình viết ra, thấy một vài cuốn sách của mình người ta dịch vì hữu nghị, thế là cứ tưởng văn học Việt Nam đương đại đã có tầm vóc thế giới(!). Kể ra trong hoàn cảnh
bưng bít, một số anh em hiếu động cũng tìm cách mò mẫm học thêm, nhưng cái ngọn lửa tự học ấy nó leo lắt rồi với nhiều người, khi cái hăng hái tuổi trẻ qua đi thì cũng bỏ
luôn. Hẳn chị còn nhớ sau
30-4-1975, khi vào Sài gòn, các nhà văn Hà Nội  đã khuân về cả đống sách dịch nhưng do
không có cơ bản, nên chúng tôi cũng không tiếp nhận được bao nhiêu. So với thời chiến sự hiểu biết về thế giớí của chúng tôi hôm nay có thay đổi, song vẫn còn lõm bõm lắm và để rút ra những bài học áp dụng vào hoàn cảnh trong nước thì lại càng lúng túng. Cái bi hài kịch trong việc tiếp
nhận nước ngoài của các nhà văn Hà Nội là cả một câu chuyện dài khi nào có thể
tôi sẽ kể thêm. Ở đây tôi muốn lưu ý chị thêm một khía cạnh. Khi đã
có thể trực tiếp đọc được một ít sách báo nước ngoài (với tôi là tiếng Nga) và
sau mấy chục năm làm biên tập xuất bản, nhìn lại việc dịch, tôi  phát hiện
ra một điều đáng sợ khác: ta dịch sai nhiều lắm, tùy tiện, ẩu, liều lĩnh, bừa
phứa; lâu nay đã vậy và gần đây, trong khung cảnh kinh tế thị trường hoang dã, lại càng như vậy. Chưa kể ở Hà Nội hồi trước 1975 còn có một cái
lối rất kỳ là khi cần dịch ai mà thấy có những đoạn người ta  viết trái ý
mình, liền tự cho phép  cắt bỏ ngay lập tức. Nói riêng về mặt kỹ thuật sáng tác. Sự trì trệ kéo dài khiến tôi có cảm tưởng với tiếng
Việt hiện nay, những tác phẩm hiện đại, loại như của Marcel Proust, James Joyce,
Kafka... rất khó dịch; khi tiếp xúc với các bản dịch các tác phẩm văn học đương
đại mà có những đổi mới về kỹ thuật biểu hiện, tôi cảm thấy thường là chúng ta
dịch không chính xác và không nói đúng được cái ý của người ta, không lột được tinh thần của văn bản. Và bởi vì các
nhà văn trẻ hồi ấy chỉ tiếp xúc với văn học nước ngoài qua bản dịch thôi, cái đó quay lại
hạn chế nhận thức của chúng tôi rất nhiều.

TK: Nếu nói
riêng về địa hạt lý luận phê bình thì tình trạng tiếp nhận là như thế nào?


VTN: Năm 2004 ở Hà Nội
đã có một cuộc hội thảo về lý luận, tôi cũng có một tham luận, đại ý tôi bảo nói cho nghiêm túc thì ở Việt Nam không có lý luận. Các cụ ngày trước
cũng đã công nhận như thế. Chúng ta có quen tư duy lý luận đâu? Không quen,
không thích làm, không thích nghĩ, thậm chí dè bỉu chê bai những người làm lý
luận. Ðến lúc theo lối làm ăn của Liên Xô của Trung Quốc, phải có vài đường học
thuật, thì cũng chỉ vay mượn để diễn giảng một vài vấn đề gọi là cơ bản, gọi là
cần thiết thôi, sau đó không tiếp tục đi sâu nữa. Vì thế cho nên căn bản ở Việt
Nam lý luận thực thụ không có, công trình lý thuyết không có. Những người mà có
thể nói là có đóng góp cho công tác lý luận, chính là những người đọc được sách
báo nước ngoài và giới thiệu lại những cái đó cho các đồng nghiệp: có yêu
cầu nhau cái gì thì cũng phải nhớ điểm xuất phát đó. Hơn bốn chục năm trước khi
học các giáo trình Sơ thảo nguyên lý văn học, Mấy vấn đề nguyên lý văn
học
 của Nguyễn Lương Ngọc, tôi thấy tác giả có sự tiếp cận khá rộng
rãi, tài liệu thì kể cả Trung Quốc, kể cả Liên Xô, kể cả phương Tây, đều có đọc có nhận xét riêng,
và có cả lý luận cổ điển nữa, cổ điển Hy La cổ điển Trung quốc. Cách giới thiệu của Nguyễn Lương Ngọc chừng mực mà
vẫn cởi mở và hướng tới những chân trời rộng rãi. Những người đi sau tuy có vài
khía cạnh đi sâu hơn nhưng lại có sự giản lược với nghĩa chủ yếu chỉ dừng lại ở một vài
tác giả mà các vị ấy học được ở nhà trường bên Nga như Timofiev hoặc
gần đây thì Likhachov hay
là Bakhtine v.v...
Tức loại người có sự tiếp nhận lý luận phê bình một cách sâu sắc và toàn diện
thì càng ngày càng hiếm. Nhiều học thuyết của nước ngoài, khi được truyền
đạt trong nhà trường, rồi theo cái kênh của nhà trường lan tỏa ra xã hội, phần lớn chỉ ở dạng thông tin, dạng trò học thầy, may lắm thì người giới
thiệu thuộc bài hiểu bài, chứ chưa ai có khả năng đánh giá, cũng như chưa đề ra
được hướng áp dụng những cái đó vào việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong văn
học Việt Nam. Nói đúng ra, do chỗ các nhà lý luận ấy thường yếu về văn học sử, ý kiến của họ trước các hiện tượng văn học Việt Nam thường là áp đặt, khiên cưỡng, gượng gạo, thiếu thuyết phục, các lớp học sinh sinh viên nhiều người phải tung hô vì họ phải làm thế để kiếm điểm rồi dần dần cũng leo lên được các thang bậc trong hệ thống học hàm học vị như thầy. Gần đây khi việc tiếp
nhận lý luận phương Tây được “bật đèn vàng” – tức là không cấm mà cũng không
khuyến khích, để tùy nghi ai muốn làm thì làm – lập tức có tình trạng là một số
anh em vừa đọc được những cái lạ thì có khi mới chàng màng qua loa đã quay ra
“trộ”, “lòe”, làm phách với chung quanh, từ đó gợi nên rất nhiều phản cảm. Cũng
có người tiếp nhận rất nghiêm túc, nhưng vẫn là tâm lý học trò, mà lại say sưa quá,
chỉ nói lại một ít điều đã đọc được ở những tác giả nước ngoài đã vội làm ầm
làm ĩ, tự cho là “loại một của thế giới đây” “hảo hạng đây”. Trong những trường
hợp này, tôi có cảm tưởng chuyện xảy ra trong học thuật mà chẳng khác gì bên
làm ăn buôn bán. Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa người ta thường thấy các
hãng nước ngoài có đại lý ở Việt Nam, cửa hàng này đại diện hãng dầu Shell, cửa
hàng kia chuyên bán sản phẩm Toyota. Thì mấy nhà nghiên cứu nói trên, cũng
chẳng qua là những “đại lý” của những nhà lý luận nước ngoài thôi, còn cố ra
oai mà tự phong mình là nhà lý luận mở đường, hoặc đã có được một trường phái lý luận riêng của Việt Nam, thì e tội nghiệp cho chúng sinh quá. 

Một ý khác tôi đã lưu ý
trong bản tham luận nói trên: mục đích trước mắt của việc tiếp nhận là để giúp
vào việc lý giải các hiện tượng văn học trong nước. Giới thiệu những lý luận
mới mẻ ở nước ngoài là hết sức cần thiết, nhưng chớ nên quên nó hình thành là
để hợp với trình độ của người ta. Chỉ có một số nhỏ trong những lý luận mới đó
phù hợp với đối tượng là văn học Việt Nam kể cả văn học đương đại lẫn văn học
cổ. Nếu nhầm lẫn ở chỗ này thì tài cao học rộng đến đâu cũng vô ích, hoặc chỉ
có ích trong một phạm vi hạn hẹp.

TK: Cách nhìn về
tình trạng tiếp nhận văn học nước ngoài hiện nay ở Việt Nam anh trình bày ở
trên có được nhiều người chia sẻ?





VTN: Ðôi khi tôi tìm
được những đồng minh rất tình cờ. Ví như gần đây tôi có đọc được ý kiến của một
nhà văn trẻ đang sống ở Mỹ và từng có dịp về làm việc ở Hà Nội là Lê Thị Huệ.
Qua một bài trả lời phỏng vấn trên Hợp Lưu cuối năm 2004, tôi được biết chị Huệ
từng có cuốn sách Văn hóa trì trệ nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ XXI. Trong
cuốn đó có cả một chương mang tên văn hóa vọng ngoại. Theo Lê Thị Huệ, “giới
văn học Hà Nội (cả sáng tác và phê bình) có nhiều chỗ tệ, nhưng tệ nhất là lười
độc lập. Cứ le te thấy ngoại quốc có cái gì hay thì ca um lên, rồi bắt chước
theo, sùng bái còn hơn cả tín đồ nước gốc. Ra cái điều là ta cũng biết ông Tây,
bà Ðầm này nọ. Vọng ngoại và vong thân tràn lùa như một cơn lũ đã phá tan và
đánh bạt niềm tự tôn của người Việt Nam quá lâu”.




Tôi không quen chị Huệ
và cũng chưa có may mắn đọc sáng tác của chị nhưng rất đồng tình với các nhận
xét nói trên. Có một số người thấy tôi bảo dân mình co lại khép kín và không
biết tiếp thu nước ngoài liền kêu tướng lên rằng tôi vọng ngoại, họ có biết đâu
tôi cũng rất dị ứng với các hiện tượng nông nổi kiểu đó. Ðiều tôi muốn nhấn mạnh thêm là thường thì vọng ngoại lại đi liền với bài ngoại, không hiếm những người
học đòi lại chính là những người co lại và tuyệt đối hóa bản sắc của mình như
trên đã nói.




Nhìn chung, tôi cho rằng
tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài chưa được suy nghĩ một cách nghiêm túc, nhiều lúc chúng ta rơi vào tình trạng dễ dãi và nói theo thói quen. Ví
dụ như một nhà văn mà tôi thấy rất đáng kính trọng là anh Nguyên Ngọc. Tác
giả Ðất nước đứng lên là một trong số ít nhà văn hiện nay thường xuyên tiếp xúc với văn hóa văn học nước ngoài ở cái dạng bộn bề sinh động của nó. Nguyên Ngọc cũng là người có nhiều
quan điểm về sáng tác khá cởi mở. Về việc tiếp nhận, anh ấy từng nói rất đúng rằng phải xem
mở cửa như một quy luật tất yếu. Thời nào mà chúng ta biết tiếp nhận nước ngoài
thì chúng ta sẽ phát triển, giữ được bản sắc, còn nếu chúng ta đóng kín, thì
chúng ta đánh mất bản sắc. Thế nhưng cuối cùng cần nhìn chung lại việc tiếp
nhận ở Việt nam thì Nguyên Ngọc lại kết luận như thế này – tôi không biết bây
giờ anh ấy còn nghĩ như thế không – “Dân tộc ta hiểu rất rõ quy luật này và đã
vận dụng hết sức sáng tạo
” hoặc “Kiểu cách của văn hóa Việt Nam là gì? Ðó chính
là khả năng tiếp nhận và tiêu hóa được tất cả những tinh hoa của văn hóa đến từ
nơi khác, chắt lọc và hòa nhập vào cái của mình
”. (Trích trong báo Người
Hà Nội
, một số ra trong tháng Tư năm 2002). Tôi ngờ rằng đây là một nhận
định dễ dãi, nói quen miệng thôi. Chứ thực ra nếu chúng ta được như thế thì
mừng quá rồi còn gì nữa, và có lẽ văn hóa của chúng ta nó không rơi vào tình
trạng như hiện nay.




TK: Ðể kết luận,
xin hỏi anh một câu hỏi chót. Theo anh thì có việc gì phải làm ngay để lay động
thói quen cũ và buộc mọi người quan tâm tới vấn đề này?





VTN: Tôi cho rằng đã đến lúc mọi người làm văn hóa Việt Nam phải lo hiểu mình hiểu người, nhìn kỹ vào mối quan hệ giữa mình và thế giới bên ngoài, nhìn mình theo tiêu chuẩn thế giới... đó mới là nội dung cơ bản của câu chuyện tiếp nhận chúng ta nói với nhau từ đầu đến giờ. Có nhiều việc phải làm lắm, mà trước tiên là xác nhận bằng được ảnh hưởng từ bên ngoài để
rồi tìm ra chính mình, tách mình khỏi người, trong khi vẫn không quên tiếp tục
học hỏi. Phải có một chương trình nghiên cứu đàng hoàng, phải tiến tới biên soạn
một bộ lịch sử giao lưu văn hóa hực chất là lịch sử sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài ở Việt Nam. Ði theo hướng đó
tức là dần dần lần ra chân tướng của văn hóa ta. Thật ra việc này ít nhiều
các bậc tiền bối đã làm. Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược để cả một chương – chương VI , quyển II --
 viết về Sự kết quả của thời đại bắc thuộc trong đó chủ
yếu viết về những điều dân ta đã học hỏi được của Trung Hoa trên phương diện
văn hóa. Dương Quảng Hàm, mở đầu cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã
viết ngay về ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa đối với Việt Nam. Thanh Lãng – và các nhà giáo giảng dạy văn học  ở miền Nam trước 1975 --, khi viết về văn học Việt Nam
thế kỷ XX, cũng đã rất chú ý đến ảnh hưởng của Pháp. Nhưng nhìn chung cả nước
sau 1975, tôi thấy có tình trạng là các sách nghiên cứu văn hóa ít chú ý đến
ảnh hưởng nước ngoài. Cứ nói như là nền văn hóa ta giời sinh ra đã như thế, đã
có khả năng làm được những việc mà ta đã làm. Rất thiếu hiểu biết lịch sử và
kém trong việc vận dụng quan niệm lịch sử.

Hiện nay người Việt đang
sống ở nước ngoài cũng khá đông. Hằng ngày hằng giờ, họ phải làm công việc hội
nhập văn hóa để xây dựng lại bản thân mình. Ðây cũng là một môi trường thể
nghiệm thú vị và tôi ngờ rằng những quy luật rút ra từ việc tiếp nhận văn hóa
nước ngoài ngay trên xứ người cũng sẽ dẫn đến những kết luận tương tự như khi
nghiên cứu người ở trong nước.

Cần nghiên cứu sự tiếp
nhận nói chung vì qua đó, sẽ cho ta thấy bản lĩnh Việt Nam khi tiếp xúc với thế
giới và thậm chí là sẽ giúp ta tìm thấy bản sắc thực sự của mình. Bản sắc không
phải là một cái gì nó tự sinh ra, mà được hình thành như sản phẩm của những mối
quan hệ với hoàn cảnh chung quanh. Bản sắc không nhất thành bất biến và có thể
nói rằng, hiện nay chúng ta vẫn đang đi tìm bản sắc. Rồi ra chính trong cái
việc kiểm điểm xem ta nhận của nước ngoài cái gì, ta sẽ hiểu bản sắc và vốn
liếng thật của mình. Mỗi khi nói về các vấn đề có liên quan tới giao lưu, học
hỏi, cọ xát, tiếp nhận, ảnh hưởng, thường trong đầu tôi vẳng lên câu thơ của L.Aragon: “Tất cả gì về anh nhờ em anh mới biết.” Ông ấy nói với người yêu rằng
qua sự tiếp xúc với em anh mới biết anh là người như thế nào, có gì hay gì
dở. Câu thơ nói về chuyện lứa đôi riêng tư mà lại có sức khái quát. Ðứng trên
bình diện cả dân tộc cũng vậy, tôi cho rằng qua việc tiếp cận và so sánh với
người nước ngoài, ta mới thực hiểu ta là người thế nào.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 24, 2016 01:46

April 21, 2016

Sơ bộ tìm hiểu tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài (phần I)




Nguyên đây là bản ghi
cuộc trò chuyện giữa tôi và nhà phê bình văn học Thụy Khuê, từng  được chị Thụy Khuê, khi đó đang làm ở RFI, ghi lại


 và đưa trên blog  http://thuykhue.free.fr/rfi/ 

dưới cái
tên “Nói chuyện với nhà phê bình Vương
Trí Nhàn về tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài tại Việt Nam”. 


Nhân đây, xin có lời cảm ơn tới  chị Thụy Khuê về những thịnh tình mà chị đã dành cho tôi trong công việc.

Những suy
nghĩ về các vấn đề nêu lên trong bài là thuộc về mười năm trước, ngày
nay cần phải bổ sung và đi sâu thêm rất nhiều, tuy nhiên, tôi chưa thu xếp được
thời gian để xử lý lại. Dưới đây chỉ xin giới thiệu văn bản cũ, sau một
vài sửa chữa nhỏ. 






Những năm gần đây, vấn đề tiếp nhận văn
hóa nước ngoài tại Việt Nam trở thành đề tài suy luận của nhiều trí thức, văn
nghệ sĩ trong nước. Bên cạnh bề mặt lạc quan của một xã hội mở cửa, giao thương
với nước ngoài, Việt Nam còn bộc lộ một bề trái khép kín, co lại luôn luôn nhấn
mạnh đến những yếu tố bản sắc, bản địa, trên các văn bản chính thức và trong
sách vở học đường. Nhiều câu hỏi được đặt ra về hiện tình này, về sự tiếp nhận
văn hóa và hậu quả của nó. Trong hai buổi nói chuyện trên đài RFI ngày 25/6 và
2/7 2005 , nhà phê bình Vương Trí Nhàn, ở Hà Nội, đã thẳng thắn bày tỏ những
trăn trở của một người làm văn học hôm nay, đối với những vấn đề nhức nhối, bức
thiết mà ông đã lưu tâm suy nghĩ từ nhiều năm qua.





T. K.










Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, tại sao vấn đề tiếp nhận văn hóa nước ngoài
lại cần được đặt ra hôm nay, trong lúc này?





Vương Trí Nhàn: Theo tôi bởi vì nó liên
quan đến những vấn đề lớn hơn, có thể nói là những vấn đề lớn nhất của xã hội
hiện nay. Sau chiến tranh, sau những năm tháng loay hoay hồi phục lại một cuộc
sống bình thường, nay đến lúc xã hội Việt Nam nghiêm túc đặt ra việc xây dựng
đất nước, chúng ta đang phải đối mặt với những câu hỏi như: Ta là ai? Ta có đi
cùng với thế giới? Xã hội ta có phát triển theo những quy luật chung của thế
giới hay có một con đường riêng của Việt Nam? Ta đang ở trong tình trạng như
thế nào? Phải tìm những yếu tố mới ở đâu? Thế nào là mới? Ta sẽ làm lại chính
ta, làm lại xứ sở ta ra sao? Theo tôi, trong tất cả những vấn đề lớn của một xã
hội như thế, thì có vấn đề tiếp nhận [văn hóa nước ngoài ]mà mọi người cần phải
quan tâm, tìm cách đánh giá lại, vì nó sẽ là một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ của
xã hội.










TK: Vậy
thì trước tiên xin anh một cái nhìn sơ bộ về hiện tình tiếp nhận văn hóa nước
ngoài hiện nay ở Việt Nam.





VTN: Nhìn qua bề ngoài đã thấy ngay là khá
hỗn loạn. Ðối với một người ở lứa tuổi như tôi (năm nay hơn 60), khi nhớ lại Hà
Nội những năm chiến tranh, thì hình dung ngay là đất nước thu mình lại, khép
kín, không quan hệ với ai, không có khách nước ngoài trên đường, trên báo chí
gần như không có tin tức quốc tế, trong văn chương việc dịch và giới thiệu nước
ngoài rất hạn chế. Ngày nay thì cởi mở hơn: hằng ngày chúng tôi được tiếp xúc
với những tin tức mới nhất của nước ngoài về chính trị, xã hội, về văn hóa.
Giải Nobel vừa công bố chúng tôi biết ngay. Giải Oscar được truyền hình trực
tiếp. Hằng ngày trên màn ảnh Hà Nội, đầy rẫy phim Hàn Quốc, phim Trung Quốc...
có khi cùng một lúc mở hai ba kênh thấy cùng là phim nước ngoài cả! Rồi nó ảnh
hưởng vào đời sống hằng ngày. Dưới chân các cô gái Hà Nội là đủ loại giày dép
đủ loại guốc của thế giới, nhìn thấy lạ, hỏi kỹ thì ra mới du nhập, nói nôm na
là được nhặt nhạnh từ đủ mọi khu vực mọi xứ sở mà ngẫu nhiên họ được biết. Quần
áo ăn mặc cũng thế. Mới đây tại một vùng ngoại thành Hà Nội tôi đang sống cũng
có cửa hàng chụp ảnh kiểu Hàn Quốc. Học sinh, sinh viên, qua phim ảnh, thuộc sử
Trung Quốc hơn cả sử nước mình. Thậm chí tôi còn muốn nói là trong tâm lý con
người – trước tiên là người trên đất Hà Nội, nơi tôi cũng đang sống – có một sự
vọng ngoại sâu sắc. Nếu có ai đó ở chỗ riêng tư thử khái quát “cái gì của nước
ngoài chẳng tốt hơn của mình?!” thì dường như ai cũng nghĩ là “chuyện đương
nhiên, “ “nói cứ như thật”, không ai phản đối.




Nhưng đó chỉ là một phần sự thực. Ðồng
thời với lối vọng ngoại đến không thể chấp nhận được thì trong tâm lý con người
lại có một sự từ chối. Thực chất là bên trong vẫn có cái vẻ ngập ngừng e dè khi
xem xét người, rồi dẫn đến co lại, khép kín. Có lẽ là do tự ti, lại do choáng
ngợp trước một thế giới xa lạ nên rất sợ bị cuốn theo người ta. Phải cố gồng
mình lên mà chống đỡ, tuy lại thừa biết là không chống lại nổi. Và sự tự ti này
dẫn tới những nỗ lực tự tô vẽ ngây thơ, một thứ tự tôn kỳ cục. Trên các tài
liệu chính thức hoặc trong các bài học ở nhà trường, yếu tố bản địa, bản sắc
luôn luôn được nhấn mạnh. Ngụ ý đằng sau sự nhấn mạnh đó: chúng ta chỉ kém
người về kinh tế thôi, chứ không kém gì về văn hóa; ta giao lưu đàng hoàng; ta
đứng ngang hàng với thiên hạ. Vừa nói vấn đề hòa (= hội) nhập xong thì phải lập
tức nói ngay là “hòa nhập chứ không hòa tan”. Tôi cho rằng những cái đó nó biểu
hiện một tâm lý văn hóa chưa trưởng thành, nếu nhìn xa hơn nữa thì có thể nói
rằng đó là do xã hội hôm nay không có khả năng tự nhận thức về mình. Không sử
dụng được những tiêu chuẩn chung của thế giới. Tự hạ thấp chuẩn mực xuống, để
có “số đo” không kém gì người. Của người ta một thước là 100cm thì của mình có
khi một thước chỉ là 80cm, có khi 70cm thôi! Tức là tự tạo ra những tiêu chuẩn
riêng cho mình, coi mình như một ngoại lệ. Việc nghiên cứu vừa thiếu xót vừa
sai lệch. Sách báo tài liệu dịch, bề ngoài đôi khi có thể là cũng rất ồn ào,
nhưng thực ra chỉ là một hình ảnh sai lạc về thế giới.




Việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay tóm lại có thể quy vào mấy điểm: Thiếu một sự định hướng rõ ràng,
thông minh, khoa học. Thiếu một trình độ đánh giá phân biệt tốt xấu nên nhiều
khi cái hay không học, lại học cái dở. Vừa không muốn học người ta, lại vừa
không thể bỏ được người ta. Dẫn đến tình trạng là nói một đằng làm một nẻo với
nghĩa hằng ngày cứ bắt chước, hằng ngày cứ nói là giữ gìn bản sắc và đồng thời
cứ học đòi học lỏm, việc học hỏi chắp vá nửa chừng đó không giúp chúng ta cải
thiện tình hình của chính mình.










TK: Nếu
tìm lại nguồn cội của tình trạng này thì có lẽ nó đã có từ lâu, từ những thế kỷ
trước, từ khi chúng ta du nhập văn hóa Trung Hoa. Theo anh, chúng ta đã tiếp
nhận nền văn hóa Trung Hoa như thế nào
?




VTN: Câu chuyện này dài lắm, tôi chỉ xin
nói sơ sơ mấy điểm. Trên đại thể, chắc chắn đây là một món nợ. Theo tôi sự  sòng phẳng với văn hóa Trung Hoa, bao gồm  phân biệt được cái nào của ta, cái nào ta ảnh
hưởng, và cách ta ảnh hưởng (liên quan tới mấy chữ học lỏm học mót mà trên đây
tôi vừa nói)  kể cái thói quen hồn nhiên “nhận
vơ của người là của mình” đến nay còn khá phổ biến. Lại phải xem xét sự tiếp
nhận này trên cái mạch của lịch sử của nó thì mới có thể nói là có những tiền
đề để ta có được sự tự nhận thức cần thiết. Chưa tách mình khỏi thế giới Trung
Hoa, thì mọi chuyện còn là khổ là lúng túng, thậm chí tôi còn muốn nói là ta sẽ
chưa nên người để sống đàng hoàng với thế giới.




Tạm nêu lên một số khía cạnh cụ thể. Trong
quan hệ với văn hóa Trung Hoa, tôi thấy cái gì ta cũng học mà lại chỉ học được
cái phần nông nổi bề mặt, bởi vậy đã học rất nhiều rồi mà xem kết quả lại thấy
quá ít và điều đáng sợ nữa là cứ bị ám mãi bởi những cái dở của người ta. Trước
tiên chúng ta không học được cách tổ chức xã hội của họ, cũng như không học được
văn hóa xây dựng quốc gia của họ. Trong việc quản lý cộng đồng người  Việt còn bị ám ảnh bởi những kinh nghiệm quản
lý làng xóm mà còn rất hạn chế chưa vươn tới được khả năng quản lý cả quốc gia
xã hội .Người Tàu không những giỏi về chinh chiến mà còn giỏi cả kinh tế nữa,
còn nghề buôn bán ở ta thì quá non nớt. Quay lại việc tiếp nhận tư tưởng, khi
học đạo Nho những cái học ở ta phần nhiều là phần ngọn, các giáo điều này được
ta áp dụng triệt để nhưng đạo Nho còn có những khía cạnh rất tốt đẹp, ta chưa biết
tới.  Chữ Nhân trong đạo Nho  vốn không chỉ là lòng nhân từ mà còn là cả
một quan niệm về con người, chữ Lễ gắn liền với tinh thần kỷ cương trật tự... –
những cái đó chưa được mang vào cuộc sống  Thuyết chính danh trong đạo Nho vốn rất quan
trọng. Xét một câu “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” đằng sau cái nghĩa cụ
thể “vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha và con phải ra con”,
theo tôi hiểu ở đây người ta còn muốn nhấn mạnh: cái gì cũng phải được quy phạm
hóa, phải đạt tới chuẩn mực. Mà cái đó ta không học được, thậm chí người Việt
phần lớn là làm ngược, là phi chuẩn. Cái gì chúng ta cũng là chín bỏ làm mười,
thậm chí năm sáu cũng là mười, ba bốn cũng là mười. Với tinh thần thực sự cầu
thị của Khổng tử, ta cũng xa lạ lắm. Gần đây nhiều người hay nói đến tinh thần
“tôn sư trọng đạo” một cách rất thô thiển, 
coi thầy là cái đích học trò lẽo đẽo theo sau. Có nhiều anh em làm khoa
học hôm nay thấy thầy sai cũng không dám nói. Sợ. Lảng. Bênh thầy bằng mọi giá,
bênh liều, bênh lấy được. Đọc Luận Ngữ, sẽ thấy trong thiên Vệ Linh Công, có
một câu rất hay: “Ðương nhân, bất nhượng ư sư” nghĩa là “làm việc nhân thì dẫu
thầy mình, mình cũng không nhường”. Thế tức là đặt vấn đề khoa học lên trên vấn
đề thầy trò, hơn cả vấn đề tình nghĩa. Tôi cho đó là một cái gì rất đáng để cho
những người làm công tác nghiên cứu và giáo dục hiện nay lưu ý, để tránh tinh
thần bảo thủ lạc hậu: người sau nem nép đứng sau người đi trước, không bao giờ
dám tự tin và đổi mới gì cả.




Ngoài nội dung cụ thể  các phương thức học hỏi Trung Quốc ở ta cũng
đơn giản nghèo nàn,  khiến cho  khó lòng có sự tiếp nhận tốt. Theo tôi biết,
ví dụ như Nhật chẳng hạn, học Trung Quốc là họ sang tận nơi họ học, lấy bằng
rồi họ mang về nước thực hiện đúng như thế đã, rồi sau đó họ mới làm khác đi.
Nghe nói là giữa Nhật Bản và Trung Quốc thời xưa còn có cả một con đường sách,
giống như con đường tơ lụa, chỉ khác là một đằng trên biển, một đằng trên bộ.
Còn ở ta thì những kinh nghiệm học Trung Quốc thường là qua những ông quan đi sứ,
đi sang bên ấy, học ké học tắt, học không đến nơi đến chốn, rồi về nhà áp dụng
thì lại tam sao thất bản đi một lần nữa. Tôi nhớ, lâu rồi, giáo sư Trần Ðình
Hượu đã nói đại ý chúng ta ở với người Trung Quốc lâu thế mà nước ta không có
ai giỏi về Trung Quốc học, thực chất là không có một khoa Trung Quốc học ở Việt
Nam. Tôi cho đây là một khái quát có thể mở rộng: Chúng ta đi ra với thế giới
mà chẳng hiểu gì về thế giới cả!




TK: Sang
đến thời kỳ Pháp thuộc, anh nhận thấy những đặc điểm gì trong sự tiếp nhận nền
văn minh Tây phương của chúng ta?





VTN: Trong thời gian đầu, khi những người
phương Tây mới đến Việt Nam, thì chúng ta có một thái độ kỳ thị lạ lùng, coi
rằng họ là một cái gì man di mọi rợ, phi văn hóa, bởi bấy giờ chúng ta chỉ biết
Tàu thôi và không biết đến cái gì khác cả (riêng một cuốn sách như Tây dương gia tô bí lục đã là một bằng chứng
thú vị). Sau này, khi nền thống trị của người Pháp đã được xác lập và chúng ta
phải chấp nhận sự chuyển đổi sang nền văn hóa theo kiểu phương Tây, cũng đã
thấy có nhiều cái tiếp thu thông minh, nhạy cảm, có những thành tựu như của Thơ mới hay của tiểu thuyết, là những
cái đến bây giờ còn có thể tự hào. Nhưng còn nhiều điều đáng lẽ ra chúng ta có
thể làm tốt hơn được. Ví dụ, theo tôi phải thấy ngay từ hồi ấy, sự tiếp nhận tư
tưởng đã rất hạn chế, các nhà tư tưởng lớn của phương Tây chưa được dịch, được phổ
biến từ đó tạo nên tình trạng thiếu cơ bản trầm trọng. Gần đây, tôi có đọc được
vài cuốn lịch sử Trung Hoa họ viết cho các trường đại học hàng đầu của họ thì
thấy việc tiếp nhận phương Tây được Trung Hoa tiếp nhận rất bài bản. Có thời
gian họ chỉ định tiếp nhận phương Tây về kỹ thuật về cách làm ăn kinh tế, tức
là phần văn minh vật chất. Sau họ mới hiểu rằng thực ra phương Tây sở dĩ tiến
mau hơn họ là trên phương diện tư tưởng. Xin chị nhớ cho là tôi vốn lớn lên ở
Hà Nội. Suốt thời trẻ tôi lớn lên theo tinh thần bài bác văn hóa phương Tây và
chỉ do tự học tôi mới biết thêm rằng thực ra trước 1945, chúng ta đã hiện
đại  hay Âu hóa tới một mức đáng kể. Mãi
tới 1989, cuốn Thi nhân Việt nam 1932
-41, mới được in lại công khai. Mà bọn tôi thường chỉ thích thú với lời bình
của Hoài Thanh về từng giọng thơ.  Còn
cái câu Hoài Thanh mở đầu công trình nổi tiếng ghi nhận: “Sự gặp gỡ phương
Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ (…)
Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình
như trước (…) Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta” thì chúng
tôi không biết và giá có biết thì cũng phủ nhận. Trở lại với tình hình tiếp
nhận văn học phương Tây, ở đây  không phải chỉ có một mà là hai điểm nhấn.
Đỉnh cao Thơ mới thì đã rõ rồi. Nhưng tôi cho rằng chính việc tiếp nhận và đổi
mới văn xuôi mới thực sự mang lại cho đời sống văn học Việt Nam thế kỷ XX một
bộ mặt hiện đại,  trong đó việc tiếp nhận
những ảnh hưởng tiểu thuyết khá tiêu biểu. Do chỗ thấy ngay rằng đây là một
công cụ có thể giúp cho việc giáo dục dân chúng, tổ chức xã hội, cho nên những
người cầm bút nhanh chóng học “làm” tiểu thuyết. Thế nhưng ở đây cũng lại bộc
lộ một tinh thần thực dụng rõ rệt, tức là cắm cúi mà học, học vội học vàng, học
không bài bản, không chú ý gì đến lý luận cả. Vừa đây tôi có viết một bài về
Nguyễn Công Hoan và thể tiểu thuyết, in trên tạp chí Nghiên cứu văn học.  Tôi chợt
nhận ra tác giả Bước đường cùng lạ lắm, lúc nào cũng thích tự nhủ người Việt
thì phải viết theo kiểu Việt, để rồi vừa đọc qua mấy quyển tiểu thuyết loại như
của Alexandre Dumas đã thấy “nắm” được, thế là bỏ dở không đọc nữa, xoay đi
viết. Về già, trong hồi ký, chính Nguyễn Công Hoan cũng nhận là “dạy non” tức
là chưa thuộc, thì đã bắt đầu vào làm, và làm với một tâm thế tự tin quá mức.
Ðây không phải trường hợp riêng của Nguyễn Công Hoan mà là của nhiều người
khác. Thành thử tiểu thuyết của chúng ta như chữ của Nguyễn Triệu Luật trong
một bài viết trên tờ Tao đàn 1939,
phần lớn chỉ là loại tiểu thuyết của “phường coi cổng”, tiểu thuyết bình dân
được nâng lên một tí. Với một thể loại được nhập từ ngoài vào thường chúng ta
chỉ tiện tay khai thác sử dụng, chứ chưa tiếp nhận có bài bản, chưa lo dựng tạo
cho được một sắc thái riêng đặc trưng cho tiểu thuyết người Việt.




TK: Nếu
so sánh thái độ của người Việt và của người Nhật đối với Tây phương, thì anh
thấy khác nhau như thế nào?





VTN: Mấy năm trước tôi có được đọc một tài
liệu của một nhà nghiên cứu người Việt ở Canada là ông Vĩnh Sính, ông ấy so
sánh một người như Phan Bội Châu với một nhà cách tân Nhật Bản là Fukuzawa
Yukichi (1834- 1901) ở khía cạnh nhận thức của Phan Bội Châu và Fukuzawa về
người nước ngoài, – theo tôi hiểu, cái nhận thức đó, nó quyết định toàn diện
hành động và hướng làm việc, hoạt động của hai người. Theo sự mô tả của Vĩnh
Sính, những người như Phan Bội Châu quan niệm thế này: Người nước ngoài đến
Việt Nam, là không thể được, với bất cứ giá nào, ta cũng phải đánh bật họ đi.
Phải dùng mọi biện pháp, mọi phương tiện để giành lại độc lập. Ngược lại,
Fukuzawa nghĩ, khi có người nước ngoài đến mình mà mình thua, như thế tức là
văn hóa mình, đất nước mình, nó có vấn đề. Và ông nhận thức rằng những người
nước ngoài ấy, trước sau sẽ là bạn của mình, trước sau sẽ phải quan hệ với họ,
cho nên ta phải tìm hiểu lý do tại sao họ thắng ta. Chính cái việc tìm ra lý do
như thế nó sẽ hướng chúng ta vào việc việc học hỏi người ta một cách nghiêm
túc, rồi đổi mới xã hội. Mà trước tiên là tự hiểu mình, có cách ứng xử hợp lý
thích hợp với nhu cầu của mình. Từ đó mục đích cuối cùng là cứu nước vẫn bảo đảm,
mọi mối quan hệ bình thường đối với người ngoài vẫn duy trì, đồng thời tránh
được tất cả những mất mát không cần thiết. Có thể nói ở Nhật việc tiếp nhận văn
hóa nước ngoài luôn được thúc đẩy một cách mạnh mẽ, nó làm giàu cho dân tộc
Nhật, đồng thời làm cho nước Nhật có thể thích ứng với thế giới.










TK: Từ
sau 1945, việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài bước qua một giai đoạn khác, theo
sự tìm hiểu của anh ở thời điểm ấy có những chuyện gì đáng nói?





VTN: Trong phạm vi cuộc sống ở miền Bắc,
tôi đã có để ý chuyện này và cố tìm hiểu cả các nguồn tài liệu trực tiếp cũng
như gián tiếp. Nói cụ thể là tôi muốn trở về với việc tiếp thu văn hóa nước
ngoài ngay từ thời ở Việt Bắc. Hồi ông Huy Cận còn sống, có lần tôi đã nói với
tác giả Lửa thiêng: “Chính các anh đi
kháng chiến chống Pháp bằng văn hóa Pháp”. Tại sao tôi nói thế? Bởi vì cứ xem
tờ Văn Nghệ làm trong kháng chiến thì
nó có khác gì những tờ Phong Hóa, Ngày
Nay
làm trước 1945 đâu? Nhìn chung rất nhiều hoạt động văn hóa lúc bấy giờ
chẳng qua là áp dụng những bài học chúng ta đã học được từ nền văn hóa Pháp.




Với kháng chiến, một vấn đề mới nảy sinh:
phải viết về đánh nhau, là chuyện trước đó ta chưa quen. Lập tức có sự chuyển
hướng, tức là học theo người Nga, học theo sách báo Xô Viết, mặc dù lúc bấy giờ
chưa biết tiếng Nga, phải “ mượn đường” qua tiếng Pháp. Hồi làm việc ở tạp chí Văn Nghệ quân đội, tôi nhớ anh Vũ Cao
hay kể cho tôi nghe chuyện những năm 48-49. Trên Việt Bắc, chỗ anh ấy có một số
sách Pháp lấy được ở Hà Nội lên, thế là Nguyễn Ðình Thi bên Hội Văn Nghệ phải
vác ba-lô đến ở chỗ Vũ Cao đọc cho bằng được mấy quyển như là Paris sụp đổ, như là Cơn bão táp của Ehrenbourg... để học
cách viết về chiến tranh của người Xô-Viết, từ đó mà có những sáng tác phục vụ
kháng chiến. Thày Huỳnh Lý khi giảng cho chúng tôi về văn học 1945-60 ở trường
Ðại Học Sư Phạm Hà Nội cũng nói đại ý: Không có những Ðợi anh về của Simonov hay thơ của một số nhà thơ Tây Ban Nha thì
chúng ta khó mà có những bài thơ kháng chiến chống Pháp như đã biết. Nếu không
có những cuốn như Tinh cầu của
Kazakevich chẳng hạn, thì không thể có Trước
giờ nổ súng
của Lê Khâm. Thế tức là việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài, ngay
trong những ngày đầu khói lửa chiến tranh chống Pháp đã có, và sau này lại tiếp
tục. Chỗ này phải nhận dân viết văn ở mình nhạy bén lắm, thấy cái gì cần là học
ngay, chẳng ngần ngại gì cả.










TK: Còn
tới giai đoạn miền Bắc tiếp thu văn hóa Nga Xô Viết ồ ạt như thời 1954-65, cảm
tưởng của anh ra sao?







VTN: Phải nói ngay là trong giai đoạn
54-65 này, hoặc một giai đoạn ồ ạt hơn là khoảng 1980-1990, chúng ta cũng đã có
sự tiếp nhận ồ ạt , mà đến nay không sao có thể lặp lại được.  Nhưng nói như thế không có nghĩa ta đã làm
tốt, vẫn còn hiện tượng cái dở thì vào rất nhanh mà cái hay thì lại lảng tránh
và chỉ hiểu một cách thô thiển  và không
tiếp nhận được, đến mức mà có khi người ta đã bỏ đi rồi, mình lại nắm lấy học
theo và chính cái đó nó làm hại mình. Trong những câu chuyện liên quan tới việc
tiếp nhận văn học Nga Xô Viết, gần đây một anh làm nghiên cứu văn học Xô Viết
là Phạm Vĩnh Cư, có nói đại ý: Nhìn vào cách của mấy nước như Ba Lan, Tiệp
Khắc, Hungari... thì rõ ràng họ rất có bản lĩnh. Họ biết phân biệt trong văn
học Xô Viết, cái gì hay, cái gì lâu dài thì họ nhận lấy, còn những gì chỉ là
tuyên truyền nhất thời thì họ từ bỏ, nếu buộc phải dịch họ chỉ làm qua loa cho
xong. Còn ở ta, nói chung, tôi thấy ít ai có can đảm chọn lọc, cứ cái gì mà
giới quan chức văn học Xô Viết bảo là hay thì ta dịch và làm theo. Cho nên
bây giờ chúng ta vẫn cứ còn loạng choạng thế này.



(còn một kỳ nữa)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2016 21:11

April 10, 2016

Mấy trích đoạn văn học viết về chiến tranh ...(II)

 Ngoài các tác
giả trong nước, một số  sách sách giáo khoa quốc văn in ở Hà Nội trước
1954 và Sài Gòn trước 1975 còn đưa vào cho học sinh học những đoạn văn viết về chiến
tranh  của các tác giả ngoại quốc.

Dưới đây là hai đoạn văn trích từ Năm chín ba (dưới đây chúng tôi theo bản gốc mà viết Năm 93) của Hugo.

Lưu ý là các đoạn này được đặt lẫn vào các mục của
sách chứ không phải trong phần học về lịch sử văn học nước ngoài như thường thấy
trong sách của học sinh cấp III Hà Nội.








KHÓI, LỬA




Trích

Giảng Văn phần Kim văn lớp Đệ Thất, Đệ Lục trung học

Hoàng Lê biên soạn

nhà in Văn Hồng Thịnh xuất bản,

 in lần thứ nhất – Hà Nội  1953

trang 94

Buổi chiều trên con đường về, hắn theo đường hẻm đến một
trái đồi cao trơ trụi. Đứng trên đồi, có thể phóng tầm con mắt rất xa, và rất
có thể trông rõ cả chân trời từ phía tây ra đến bờ bể.

Một luồng khói cuồn cuộn đã làm hắn chú ý.

Không có gì đẹp đẽ hơn một làn khói tỏa bay, và cũng
không có gì ghê khiếp hơn làn khói ấy. Có những làn khói êm đềm và cũng có những
làn khói nham hiểm. Một làn khói dầy hay mỏng, trắng hay đen, có những điểm
khác nhau cần phải phân biệt, những điểm trái ngược giữa hòa bình hay chiến
tranh, giữa tình huynh đệ hay sự oán cừu, giữa cái sống và cái chết. Một làn
khói bay trên chòm cây có nghĩa là một việc gì du dương nhất thế giới và cũng
có nghĩa là một vật kinh khủng nhất tựa như khói một vụ hỏa tai. Và tất cả hạnh
phúc hay tất cả đau khổ của con người có khi ở trong làn khói tỏa bay trước
gió.

Tức Mặc nhận thấy luồng khói đó mầu đen, đột nhiên pha
lẫn ánh đỏ có hình bếp lửa lúc âm ỷ lúc cháy bùng, gần như tắt hẳn, và hình như
phát nguồn từ thôn trại Bồ Đề.

Tức Mặc rảo bước thẳng về phía có khói. Hắn đã mệt lã,
nhưng hắn muốn biết có chuyện gì xảy ra. Hắn đã tới ngọn đồi, dưới sườn là xóm
trại.

Cả thôn xóm và trang trại không còn gì nữa.

Cả một đống nhà gianh tàn tạ đang cháy và đó là xóm Bồ
Đề.

Cảnh tượng một nhà gianh đang cháy thật là đau lòng
hơn cả tòa lâu đài cháy giở. Một mái nhà gianh bốc lửa thật thảm hại. Đó là
hình ảnh sự tàn phá đè nặng xuống cảnh nghèo nàn, hình ảnh con cắt lăn xả vào
xâu xé con dun, thật không cơ sự trái ngược nào se lòng hơn thế nữa.

Trước thảm cảnh ấy, hắn đứng nguyên như pho tượng,
không nhúc nhích.

Victor Hugo

93




MỘT CẢNH CHIẾN TRƯỜNG

Trích Giảng Văn phần Kim văn lớp Đệ Thất, Đệ Lục trung học

Hoàng Lê biên soạn nhà in Văn Hồng Thịnh
xuất bản,

 in lần thứ nhất – Hà Nội  1953 trang 159




Lúc làn sóng đầu tiên của quân xung phong tiến vào, tất
cả chiến lũy lòe ánh chớp; người ta tưởng tượng như là sét nổ ngay dưới mặt đất.


Súng là của quân xung phong trả lời súng của quân phục
kích. Tiếng nổ rền vang như sấm đáp lại lẫn nhau.

Binh khí chạm nhau loảng xoảng, gươm – giáo chém vào
nhau, và những tiếng nổ xé trời gieo rắc cái chết khắp xung quanh.

Bó đuốc cắm trên tường soi sáng lờ mờ cảnh tượng kinh
khủng ấy. Lúc đó, người ta không thể phân biệt được nữa; trong bóng tối đen chỉ
thấy lòe tia lửa đỏ.

Người tiến vào đột nhiên bị điếc và mù, điếc vì tiếng
súng vang tai, và mù vì khói súng dầy đặc.

Quân sĩ gục ngã trên chiến trường nằm lăn lóc giữa những
đống đổ vỡ. Người ta bước lên trên các tử thi, người ta xéo lên vết thương, người
ta nghiến lên các cánh tay, người ta đâm vào các cẳng chân gẫy làm bật ra những
tiếng rú đau đớn, làm chân người bước trên bị những hàm răng của kẻ sắp chết cắn
nát.

Thỉnh thoảng có những phút yên lặng kinh khủng hơn cả
tiếng động.

Người ta đánh nhau, người ta nghe tiếng thở phì phì
ghê rợn, tiếng nghiến răng ken két, tiếng rên rỉ, tiếng kêu vang rồi tiếng sấm
sét lại bắt đầu.

Một suối máu do lỗ hổng chảy ra ngoài tràn lan trong
bóng tối.

Ao máu tối tăm ấy hãy còn bốc hơi trên bãi cỏ.

Người ta cho rằng chính tòa thánh đã đổ máu, và chính
tòa thánh khổng lồ kia đã bị thương.

Đêm xuống tối đen như mực không nhìn rõ mặt người.
Trong rừng, ngoài đồng, xung quanh tòa thánh bị tấn công, không gian bao trùm
trong yên lặng thê lương.

Victor Hugo

93




Trước 1954, khi học ở trường tiểu học Thụy Khuê, nơi thày giáo dạy lớp nhất là nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, tôi còn được học trong
sách giáo khoa lúc đó một số bài thơ nói về những cảnh quê hương chiến tranh
tàn phá và nỗi ao ước của con người được trở lại cảnh thanh bình.

Một bài trong đó, tôi quên mất tên và phần đầu chỉ nhớ
mấy câu phần cuối :

Ôi quê hương đắm mình trong khói súng

Đến bao giờ lại sống phút thân yêu

Mái tranh hiền tha thiết biết bao nhiêu

Dòng sông mát yêu kiều bên bờ có

Ôi tha thiết ta thấy màu lửa đỏ

Bao trùm trời  thương
nhớ ơi quê hương




  Dưới đây
là một bài thơ viết về chiến tranh của một nhà thơ Việt Nam hôm nay. Bài Quà Tặng Trong Chiến Tranh của  Trần Mộng Tú này
cũng có số phận tương tự như mấy đoạn văn trên. 

Qua các trang mạng, ví dụ http://forum.phunuviet.org/yaf_postst396p2_Tran-Mong-Tu.aspx

tôi được biết bản dịch bài thơ ra tiếng Anh mang tên The Gift in Wartime  được in vào American Literature textbook do
nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất ở Mỹ, Glencoe/Mc.Graw-Hill phát hành năm
1999, trong các chương về văn học Mỹ trong thời Nội Chiến Nam Bắc Mỹ.




 Quà Tặng Trong Chiến
Tranh



Em tặng anh hoa hồng

Chôn trong lòng huyệt mới

Em tặng anh áo cưới

Phủ trên nấm mồ xanh



Anh tặng em bội tinh

Kèm với ngôi sao bạc

Chiếc hoa mai mầu vàng

Chưa đeo còn sáng bóng



Em tặng anh tuổi ngọc

Của những ngày yêu nhau

Đã chết ngay từ lúc

Em nhận được tin sầu



Anh tặng em mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương



Em tặng anh mây vương

Mắt em ngày tháng hạ

Em tặng anh đông giá

Giữa tuổi xuân cuộc đời



Anh tặng môi không cười

Anh tặng tay không nắm

Anh tặng mắt không nhìn

Một hình hài bất động



Anh muôn vàn tạ lỗi

Xin hẹn em kiếp sau

Mảnh đạn này em giữ

Làm di vật tìm nhau.




Tháng 7/ 1969







Xin đặc biệt lưu ý đoạn thơ thứ tư

Anh tặng em
mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương




Đối với những người lớn lên ở Hà Nội trước 1975 như tôi thì lời trối
trăng  của người con trai đã chết ở đây thực là
một bất ngờ.  Hồi ấy, chúng tôi được giáo
dục khác hẳn.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 10, 2016 21:27

April 9, 2016

Mấy trích đoạn văn học viết về chiến tranh ...(I)

Mấy  trích 
đoạn văn học viết về chiến tranh dùng làm bài giảng văn in trong các
sách giáo khoa trung học ở miền Nam thời kỳ 1954-75


Các sách
giáo khoa văn học ở miền Bắc trước 1975 thường xuyên mang thẳng các sáng tác
văn chương vào nhà trường để góp phần giáo dục tư tưởng cho học sinh.

 Nhưng, có
một tình hình dễ thấy. 

Các nhà văn đồng nghiệp của tôi lúc ấy chỉ lo viết để
kêu gọi người ta ra trận, nghĩa là phải nghiêng hẳn về sự lạc quan tin tưởng, chứ không được yêu cầu  miêu tả cái thực trạng chiến tranh mà mọi người
trong xã hội, cả ở hậu phương lẫn tiền tuyến cùng chứng nghiệm. 

Thì nhà trường
lấy đâu ra tài liệu được biên soạn để giảng dạy?

 Giả sử như trên báo chí, người ta có để lọt
lưới một vài mẩu tin một vài bài, những người biên soạn sách giáo khoa cũng không bao giờ tính chuyện
thu góp.


 Tình trạng
này phần nào cũng thấy trong các sách giảng văn quốc văn dùng làm tài liệu trong các trường
trung học ở miền Nam.

 Tuy nhiên, trong một nền giáo dục còn hướng về đời thường
và không có sự kiểm soát chặt chẽ lắm, ở đây,  loại bài này cũng không đến nỗi tuyệt chủng hẳn như ở sách
giáo khoa miền Bắc. 

Dưới đây xin giới thiệu mấy đoạn mà tôi sưu tầm được. 

Đoạn
văn thứ nhất nói về một câu chuyện vẫn thấy ở hậu phương – một người lính được
giao việc về gia đình một đồng đội báo về cái chết của đồng đội ấy. 

Đoạn thứ
hai nói về tình trạng rối loạn tinh thần của những người trai trẻ  sau một thời gian dài sống trong quân ngũ. 

Riêng hai đoạn cuối phác lên  khung cảnh một
vùng ngoại ô  trong thời kỳ 1946-1947,
khi chiến tranh mới bắt đầu. 

Tác giả các trích đoạn này đều là những nhà văn nổi tiếng đương thời.







TIN BUỒN

Trích  Giảng
văn lớp Tám


Nguyễn Quế
Viên biên soạn, 

Việt Điểu xuất bản 1972 

trang 160,




Người lính đã vào đến giữa nhà. Anh ta đứng trước bộ
xa-lông, hướng về phía ba mẹ tôi chào nghiêm theo kiểu nhà binh. Tôi nhận ra
người lính còn cao hơn tôi tưởng và chiếc ba lô anh ta mang trên lưng có vẻ nặng.


-  Thưa cụ, chúng tôi là trung
sỹ Đảo, trung đội phó trung đội của anh Phan.

Chị Phượng nói thêm:

-  Thưa ba mẹ, trung sỹ đây ở
cùng đơn vị với anh Phan và anh Nghĩa. Trung sỹ mang tin hai anh về nhà.

Hoàng đứng dậy lại bên người lính:

-  Mời anh ngồi, chắc anh vừa về
tới thành phố. Xin anh hãy để ba lô xuống đã.

Còn ba tôi thì đon đả:

-  Chúng tôi đang mong các con
tôi về. Cháu ngồi đi đã. Cứ gọi tôi là bác. Người nhà cả mà. Con Quyên rót thêm
bia đi con. Cháu dùng một chút bia đi nhé!

-   Chúng tôi có nghe anh Phan tôi nhắc đến trung
sỹ với anh tôi thân lắm.

-  Dạ

Người lính ấp úng nói. Nhưng anh vẫn chưa chịu ngồi xuống.
Rồi trong phút chốc, tôi vẫn thấy anh đưa mắt nhìn quanh nhà. Nhìn ba tôi. Nhìn
tôi. Nhìn Kim. Nhìn bàn chả giò. Nhìn bức tường. Nhìn chiếc bàn, chiếc ghế, như
muốn tìm kiếm một dấu hiệu nào đó trên những thứ ấy. Tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi
gấp rút:

-  Thằng Phan nhà tôi có nhắc gì
với trung sỹ không?

Ba tôi cũng đã đến bên người lính nói:

-  Thì bà để cháu nó ngồi nghỉ
một tý đã nào. Ngồi xuống đi cháu.

Ba tôi nắm tay người lính, kéo anh ngồi xuống ghế.
Nhưng trông những ngón tay ba tôi đang bấu vào tay áo người lính, tôi thấy nổi
rõ trên nền xanh một vẻ gì đó khác lạ, và tôi bắt đầu run. Mẹ tôi cũng có vẻ ấy.
Bà không chờ đội nổi nữa, mà bật lên hỏi:

-  Mấy đứa nó có sao không cậu?

Người lính đã ngồi xuống salon. Chị Phượng đã thay tôi
mang ra một ly bia. Chiếc ba lô được Hoàng đỡ xuống cạnh và bây giờ hai tay người
lính đang bóp chặt ly nước như muốn bóp bể nó. Rồi anh cúi xuống, nói nhỏ với
ba tôi:

-  Thưa, thế hai bác chưa nhận
được tin gì của anh Phan, anh Nghĩa ạ?

 Thôi rồi. Trước
mắt tối sầm. Tiếng người lính vang tiếp:

-  Cháu vừa từ Pleiku về đây
chiều nay. Cháu tưởng hậu cứ ở đây đã báo tin anh Phan, anh Nghĩa rồi, nên mới
xin về chia buồn cùng hai bác.

Người lính rời ly nước, cúi xuống nhấc chiếc ba lô
lên:

-  Nhân thể, cháu đem về hai
bác những di vật của anh Phan và anh Nghĩa.

Sau mấy tiếng của người lính, có đến hơn một phút, căn
phòng khách nhà tôi lặng đi, không một tiếng thở nhỏ. Rồi đột nhiên tôi nghe xoảng
một tiếng như có tiếng gì rơi vỡ đâu đó. Rồi một tiếng kêu, không phải tiếng
kêu, mà là tiếng rú của mẹ tôi tru lên, cùng với tiếng bà vật mình xuống nền
đá…

Có tiếng rên, tiếng khóc từ trong đi văng. Mẹ tôi tỉnh
dần, rồi đột nhiên bà vùng dậy la lớn:

-  Phan ơi là Phan! Con ơi là
con! Sao con không về. Bao giờ con về!

Cả ba tôi và Hoàng phải cùng nhau giữ mẹ tôi lại,
không cho bà vùng vẫy. Mẹ tôi vừa dẫy dụa vừa kêu tên anh Phan. Một lát, bà lả
dần xuống, rồi lảm nhảm luôn miệng:

-  Nó không về! Không bao giờ
nó về nữa đâu! Con ơi!

Người lính tần ngần phía trong một lát, rồi anh chầm
chậm đi lại phía tôi:

-  Tôi thật bậy. Tôi không ngờ
chính tôi lại mang tin buồn này lại. Tôi ân hận hết sức.

Tôi nhìn người lính xa lạ mà thấy anh bỗng như thân
thuộc gắn bó với gia đình tôi từ lâu. Tôi hỏi anh:

-  Thưa anh, anh Phan tôi gửi
được về cho chúng tôi những gì?

Người lính lấy trong túi ra một lắc bạc nhỏ đưa cho
tôi:

-  Đây là tấm lắc ghi số quân
và số máu của anh Phan.

S.Q – 264279. L.M.O. Tấm lắc trong tay tôi lạnh buốt.

Nhã Ca

(Đêm nghe tiếng đại bác)




NGƯỜI ĐIÊN ĂN CẮP




Trích Giảng
Văn và trần thuyết lớp Bảy


 Nguyễn Tăng
Chương biên soạn

Trí Đăng xuất bản 1972

trang 133




-        
Anh Hai, anh Hai, nó gỡ bóng đèn…

Tôi
giật mình quay lại. Ngay đầu xe một thanh niên đang đứng nhìn tôi, hắn nhếch
môi cười hở hai hàm răng trắng, nét cười lạnh lẽo, tôi nhận ra trong nét cười một
cái gì không bình thường. Hắn nhìn tôi, tay vẫn xoay bóng đèn. Một người đàn
ông, người vừa kêu tôi, đứng trong cửa sắt mở hé cửa chỉ vào thanh niên.

-        
Nó khùng đấy anh Hai, nhưng nó ăn cắp.

Tôi
nhìn người thanh niên:

-        
Ê bố làm gì đó? – Hắn vẫn cười lặng lẽ không ra tiếng – không
phải xe tôi đâu nghe.

Hắn
vẫn nhe răng cười, con mắt nhìn chòng chọc nhưng đầy vẻ ngây dại, tôi có cảm tưởng
hắn không nhìn tôi mà nhìn một cái gì đó. Cái mũ vải màu cứt ngựa nhàu nhượi chụp
trên đầu. Cái áo lính đã rách rộng thùng thình. Cái quần đen chân cao chân thấp.
Khuôn mặt dài, hai gò má cao, sống mũi gãy, lông mày thưa, cổ khô khẳng, tóc bờm
sờm. Tay hắn vẫn tiếp tục xoay bóng đèn. Tôi nói lớn:

-        
Bỏ tay ra bồ.

Hắn
ngừng tay, đứng im, người trong cửa sắt vẫn nhìn theo dõi nói giọng kể:

-        
Trước hắn đi lính, lính gì ghê lắm, biệt kích gì đó. Xưa hắn ở
xóm này, có vợ con đàng hoàng, mới đây hắn trở về nhà không thấy hắn đi nữa, hắn
lang thang tối ngày ăn cắp, thấy cái gì hắn cũng lấy, hắn điên, nhưng hiền
lành, tội nghiệp lắm…

Hắn
bỗng khép hai môi lại, không nhe răng nữa, hắn bỏ tay ra khỏi xe, quay đi và bước
xuống  đường, hắn lội lủng bủng trong nước,
mưa đổ xối xả trên người hắn. Hắn đi và chốc chốc dừng lại giơ tay lên, cử động
như nói thầm với mình. Và cứ thế hắn đi mãi xuống cuối phố lặng lẽ. Người đàn
ông nói tiếp:

-        
May mà biết nếu không anh Hai mất cái bóng đèn, nhiều khi hắn
lấy rồi vứt đi…

Người
đàn ông đóng cửa, tiếng sắt kêu rít, tôi tìm điếu thuốc châm hút. Cơn mưa bắt đầu
nhẹ hạt. Mình phải về.

Dương Nghiễm Mậu

(Con Sâu)

ĐÊM LỊCH SỬ

Trích Quốc văn lớp
Bảy,


 Đoàn Huy Oánh
biên soạn

Nhân Loại xuất bản, 1972

 trang 174

Cho đến cái đêm mười chín tháng chạp, cả làng Thụy sửng
sốt vì tiếng nổ dữ dội.

Họ chạy vội lên mặt đê, hướng về Hà Nội thấy sáng rực
cả một góc chân trời. Ai nấy nhớn nhác không còn lòng dạ nào mà nằm ngủ được nữa.
Tiếng nổ liên tiếp, màu đỏ của ánh lửa ửng lên trời như đẫm máu. Thôi, thế là
chiến tranh thực sự rồi! Trời vần vũ những mây. Về khuya, tiếng nổ có bớt phần
nào, song có lẽ lửa vẫn bừng bừng cháy. Vầng trăng đỏ kệch như nhuộm máu, hình
vòng cung in trên nền trời đục, gần đấy, một ngôi sao lớn đỏ rực không kém, như
hệt một viên đạn lửa mà vòng cung trăng vừa mới bắn ra lơ lửng giữa trời. Cái
màu đỏ như lửa và máu sau mà lạ thế! Đích thị là triệu chứng đại loạn rồi. Dân
làng tụm năm, tụm ba trên mặt đê bàn tán xôn xao.

Gần về sáng, đã có người từ miệt Hà Nội chạy xuôi qua
làng Thùy. Ai nấy túm lấy hỏi. Quả thật đã tác chiến tại thủ đô. Tự vệ thành và
dân quân du kích đương tấn công, chủ lực quân thì rút khỏi ra ngoài để bao vây
và yếm trợ.

Mấy ủy viên liên lạc xã chỉ còn biết tất tưởi chạy từ
xã trên xuống xã dưới, từ xã dưới lên xã trên… và họ đành ngơ ngác nhìn nhau
xem từ phủ bộ  có lệnh gì về không, chứ
biến cố thì rõ ràng là thủ đô đương tác chiến rồi. Ủy viên quân sự cũng lo âu
ra mặt. Nhớ lại chỉ thị của phủ bộ đề phòng Việt gian, song từ lúc tiếng súng nổ
vọng về, ai nấy nóng lòng chờ, mong gặp mặt được người nào từ miền trên về xuôi
qua mặt đê để túm lại hỏi tin tức thì còn nghĩ gì đến việc khám xét.

Càng gần sáng, dòng người từ ngược kéo về xuôi càng
nhiều. Đã có những mảng bè trôi giạt vào làng Thụy và vướng lại. Nét hãi hùng
và lo âu còn in trên mặt họ. Ngày mai vô định như đe dọa những con người bồng bế
nhau tản cư trong vội vã và túng thiếu.

Cái đêm lịch sử ấy làm cho cả làng Thụy nhỏ bé, xưa
nay êm ả sống, phải thức sáng đêm trong hoang mang hãi hùng.

Đỗ Thúc Vịnh

(Dì Mơ)

TẾT LY LOẠN

Trích Quốc văn lớp
Bảy,


 Đoàn Huy Oánh
biên soạn

Nhân Loại  xuất bản, 1972

 trang 177

Cái Tết đầu tiên của miền Bắc sau khi tác chiến, nhưng
là cái Tết thứ hai kể từ ngày khói lửa lan tràn từ miền Nam nước Việt. Chỉ ít
ngày nữa là qua năm Đinh Hợi. Nói gì thì nói chứ kể ra làng Thụy còn thái bình.
Nên không ai bảo ai, dân đã sửa soạn ăn Tết.

Có tiếng lợn kêu eng éc từ sớm, có những xấp lá dong
xanh mướt đã tước cọng, bó lấy cột nhà cho thẳng thắn; và trong xóm, khói đã
phơ phất tỏa ra từ mái nhà tranh lẻ tẻ, đem lại không khí ấm cúng cho vài ngày
cuối năm còn giá lạnh và lo âu.

Hai mươi tám Tết, Văn vẫn mải miết giảng bài cho bầy
trẻ, Tết hay không Tết, với một thanh niên lang bạt tản cư như Văn thì còn gì để
mà phải nghĩ đến nữa? Chàng cố giảng bữa nay, rồi mai bọn trẻ nhỏ có tạm nghỉ Tết
cũng không sao.

Trời bừng nắng nên quang đãng. Có tiếng máy bay. Thì
thỉnh thoảng vẫn có tiếng máy bay; chúng bay cao tít, mà nào có chuyện gì đâu?
Nên cũng chẳng mấy ai để ý đến.

Nhưng lạ, bữa nay tiếng máy bay nghe có như mạnh và
nhanh hơn, Và không là tiếng ù ù đều đặn nổi lên rồi dần dần tan biến nữa. Tiếng
kêu gần rồi xa, rồi lại gần, mỗi lần thêm to hơn. Văn ngừng giảng bài, lắng tai
nghe. Rõ ràng là máy bay lượn vòng thúng trên đầu, song cao lắm… Văn vội vàng bảo
bầy trẻ mau mau chui nấp dưới mấy bệ gạch bàn thờ. Một tiếng kêu như xé lụa vụt
xuống làng, tiếp theo là một tràng liên thanh. Rồi lại tiếng kêu nhức óc ấy với
những tiếng nổ đều như pháo. Có tới mười phút. Mười phút mà Văn thấy lâu quá đỗi,
có lẽ từ ngày tác chiến chưa bao giờ chàng thấy thời gian trôi qua chậm như vậy,
vì mối lo âu đè nặng lên người trai từng trải này. Không phải Văn sợ riêng cho
bản thân mà chàng lo cho bầy trẻ run cầm cập nằm nép dưới gầm bệ gạch.

Tiếng máy bay đã tắt. Dân làng nhốn nháo. Những nét mặt
kinh hoàng tái nhợt, ngơ ngác nhìn nhau. Máy bay địch tới bắn ụ đất. May vào buổi
trưa, trên đê làng vắng vẻ, nên không có ai bị nạn; chỉ có con trâu của lão
Chánh Bá thả ăn cỏ ở chân đê bị trúng đạn nằm chết ngay đơ.

Văn xua bầy trẻ đi khỏi, là chạy vội về nhà, bà giáo
Thọ còn run lẩy bẩy. Trong bếp, nồi bánh đã xếp xong, nhưng lửa chưa nhóm. Còn
ai dám nghĩ tới nhóm bếp nữa?

Đỗ Thúc Vịnh



(Dì Mơ)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 09, 2016 20:28

April 6, 2016

Con người và tư tưởng thời bao cấp (II)

 Những thay đổi đã đến với con người   

        Nói như ngôn ngữ thời nay, cái giá để duy trì sự nhất trí và do đó sự ổn định như vậy  “ không rẻ “. Về mặt sản xuất,đã thấy chế độ bao cấp mang lại nhiều tai hại. Nó tước đi của xã hội sự năng động và khả năng điều chỉnh tự nhiên. Nó kìm hãm sức làm việc khiến cho toàn bộ sản xuất ngưng trệ thậm chí thụt lùi. Nhưng không chỉ có thế. Tác động sâu xa  mà nó để lại trong đời sống tâm lý và toàn bộ cách sống của con người cũng là điều đáng để day dứt.



     Tchekhov là một nhà văn Nga vốn rất nhạy cảm với chủ đề nỗi khổ làm hại tới phẩm chất con người. Qua miệng một nhân vật,  ông từng  khái quát “những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo nghiệt ngã, và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn“.

      Ông từng dựng lại  một nhân vật suốt đời lo kiếm sống và khi về già lấy việc được ngồi ngắm những trái cây thu hoạch trong vườn mình làm điều mãn nguyện (Quả phúc bồn tử ). Bởi đã có lúc quá thiếu thốn, nên khi no đủ con người vẫn hiện ra bệ rạc đáng thương.

      Sự tha hóa con người ở mọi thời đại không ra ngoài hai hướng mà Tchekhov đã khái quát ở trên.

       Sau  đây là một  trường hợp gần với chúng ta hơn, một  cách ứng xử bề ngoài có vẻ như không có gì quá đáng  mà chỉ thoáng một chút kỳ dị, nhưng  không vì thế mà bớt đi vẻ bi thảm. Trong Chơi vơi trời chiều (5),  nhà văn Trung quốc Thiết Ngưng từng đưa ra  một nhân vật rất lạ: do có thời gian bị đày xuống nông thôn và chịu cảnh rét buốt  thấu xương, bà dạy mẫu giáo ở  một  huyện nọ nảy sinh một thói quen là  lúc nào cũng lo rét sợ rét, và không đủ phương tiện chống rét ; thế là đi đâu,  tới cửa hàng bách hóa nào,  bà cũng lùng sục để mua chăn bông, rồi về “ xếp cao từ nền nhà lên tận trần”.

      Những ngày thiếu thốn cũng đã để lại trong tâm lý con người Việt Nam nhiều loại di lụy tương tự. Cái hèn mà ta vốn khinh ghét, cái hèn đó ngấm ngầm ăn vào máu ta. Hèn theo nhiều nghĩa. Lúc nào cũng lo lắng, sợ sệt. Và chỉ có những niềm vui tầm thường. Mua được cân gạo không bị mốc, vui. Cưới cho con trai cô vợ làm ở cửa hàng  lương thực nên cả họ mua bán dễ dàng, quá vui. Đi  bộ mấy cây để đến nghe nhờ đài ở một nhà bạn, cũng đã vui lắm. Vui đấy rồi thấy mình sự khốn khổ của mình ngay đấy, và ngày mai, lại vẫn tiếp tục cái tầm thường dễ thương đó. 

       Cũng theo những cách thức rất từ tốn, sự xót xa đã đến, mà chỉ những lúc thật  tĩnh trí người ta mới nhận ra, nhưng nó cứ bám vào đầu óc ta mãi. Được giải thích kỹ lưỡng, ai cũng hiểu hy sinh là cần. Nhưng vì sự hy sinh này đã kéo quá dài nên người dân không khỏi sinh ra mệt mỏi. Nhiều sự uể oải diễn ra ngoài ý muốn. Và nguy hiểm nhất, sự ngại ngùng khi nhìn về phía trước. Con người cảm thấy không bao giờ mình có thể vươn tới những cái cao đẹp. Mình đã bị đánh mất. Nhắm mắt buông xuôi, tự cho phép làm bất cứ điều gì khi thấy cần, miễn là tồn tại. Lòng tự trọng kiểu nhân vật lão Hạc của Nam Cao không còn. Mà đến một chút phẫn uất của Chí Phèo cũng không còn nốt.

       Theo chỗ tôi biết, trong thời gian gọi là ngưỡng cửa của công cuộc đổi mới (khoảng 1985-86 ), nhà mác - xít Trường Chinh vốn người kiên định bỗng có một sự chuyển biến. Trước đây, ông nghĩ rằng sự chịu đựng của nhân dân là không giới hạn. Tới lúc này thì không phải thế nữa. Sự chịu đựng có thể  xói mòn lương tâm và làm thoái hóa con người. Bởi hiểu thế, ông nghiêng hẳn về cải cách.



Những mối quan hệ  bị biến dạng

        Đồng thời với việc tác động vào tâm tính con người, những ngày bao cấp  cũng mang lại cho mối quan hệ giữa người với người những biến dạng. Sự biến dạng này mỗi ngày một ít, đến mức người trong cuộc khó nhận ra, nhưng rồi cuối cùng vẫn hằn lên thành những  quy tắc rõ ràng, dù là quy tắc không ghi thành  văn bản.

       Bảo rằng mục tiêu của cả một thế hệ Việt Nam trong đêm trước đổi mới  là “ sống và sống đẹp “ như gần đây một vài tờ báo đã viết thì không ai cãi lại được. Riêng những năm đầu chiến tranh thì quả là một thời kỳ Nghiêu Thuấn. Ở Hà Nội, các nhà  đi sơ tán chỉ  khóa cửa bằng một cái khóa sơ sài. Ra đường, cánh bộ đội chúng tôi vẫy xe dễ dàng. Người nọ nghĩ về người kia với một niềm tin tự nhiên. Đẹp là đẹp theo nghĩa ấy !

       Song có một sự thực là đến đầu những năm bảy mươi, mọi chuyện đã khác và từ sau 1975 thì càng khác. Dễ thấy nhất là chuyện những chiếc xe đạp; ngoài khóa chính lại còn phải khóa thêm cái yên.Tô Hoài kể trong Cát bụi chân ai : Ở một cửa hàng ăn rất sang hồi ấy, những chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt vít xuống mặt bàn. Một sự thực nhiều người tuổi tôi còn nhớ: các quán mậu dịch giải khát ( kể cả cà phê)  loại tầm tầm cũng “thống nhất”  đục một lỗ thủng các thìa nhôm để đánh dấu.

        Vì sao ư, đơn giản lắm, vì sợ ăn cắp.Chính sách em học đã thông --  Chỉ vì túng thiếu xin ông ít nhiều: Quả thật, càng ngày  nạn ăn cắp  càng phổ biến, dù  chỉ là ăn cắp vặt. Ăn cắp bởi không có cách nào khác để sống. Và bởi nhiều ăn cắp quá nên không bị coi là việc xấu nữa. 

      Tương tự như thế là sự dối trá. Hồi ấy báo chí ít  lắm, mà từng tờ cũng it trang ít chữ, vậy mà có lần trên báo Nhân dân  (tôi nhớ đâu như 1974) có cuộc thảo luận về làm ăn thật thà, điều đó chứng tỏ là lúc đó sự dối trá trong làm ăn đã lan ra rất rộng. Không thật thà trong  việc làm ra của cải. Nhất là không thật thà trong chuyện phân phối.       

       Nếu thời gian đầu,  giữa người với người có sự chia ngọt sẻ bùi  thì càng về sau ( xin nhấn mạnh một lần nữa : đặc biệt nhất  từ 1975  trở đi ), một xu thế ngược lại ngày càng nổi lên và đóng vai trò chi phối: trong cảnh nghèo rỗi rãi, người ta rất hay soi mói để ý đồng nghiệp và hàng xóm. Nghi ngờ xen lẫn  ghen tị. Nghi ngờ : “đói ăn vụng túng làm càn “, ai cũng một lần da đến ruột, ai cũng sẵn sàng làm bậy như mình thôi. Và ghen tỵ, ghen tị một cách tự nhiên, thậm chí không biết rằng đang làm một hành động độc ác. Cùng cảnh khổ với nhau, không lẽ gì có người hơn kẻ kém. Vậy không ai  được phép hơn mình. Không cho ai ngóc đầu lên cả. Cách gì cũng có thể làm,  miễn là kéo được nhau xuống.

       Trên nét lớn, nhiều người biện hộ : con người phải thay đổi như vậy để thích ứng với hoàn cảnh. Tôi thấy cũng có lý, chỉ nói thêm, quá trình  thích ứng này không nên chỉ được xem như một cái gì đáng khen, đáng mừng mà thực ra là một quá trình kép, tích cực có mà tiêu cực cũng có, tiêu cực rất nhiều nữa.

     Trong một tài liệu mang tên Xã hội học cá nhân, nhà tâm lý học người Nga  I.X.Kon  từng nêu mấy nhận xét có tính chất lý luận. Kẻ lo thích nghi  là  kẻ trí tuệ kém phát triển hơn người độc lập. Họ ít khả năng làm chủ bản thân trong những điều kiện căng thẳng. Họ thường nghe ngóng dao động và rất dễ quay trở về với tình trạng vốn có, nói nôm na là họ rất bảo thủ. Bởi họ không đủ lòng tự tin. So với những nhân cách độc lập, và được phát triển trong điều kiện chính thường, thì quan niệm của họ về bản thân phiến diện hơn hời hợt hơn. Đứng trước thực tế khách quan, năng lực phán đoán  của họ rất thấp. Với người chung quanh họ vừa thiếu tin tưởng vừa  dễ bị lừa. Nói chung là họ rất  thụ động, hay đạo đức hóa các mối quan hệ  và sợ xa rời tiêu chuẩn.

      Không cần gò ép chút nào, cũng có thể thấy những đăc điểm đó của con người thích ứng cũng là đặc điểm của chính chúng ta thời bao cấp, với cách biểu hiện khi tinh tế hơn  khi trắng trợn  hơn, song  loại nào cũng có.




Những quan niệm thô thiển 

và những thang bậc chặt chẽ       

       Từ những hoạt động lặp đi lặp lại, lẽ tự nhiên có sự hình thành những quan niệm.Trở lên, tôi đã nói những tác động của quá  trình đoàn ngũ hóa, hợp tác hóa  cũng như  sự bao cấp nói chung tới quan niệm sống của  mọi người dân thường, mọi công dân. Thế còn  ảnh hưởng của nó tới ngay người quản lý xã hội ?  Đây là cả một câu hỏi lớn, dưới đây chúng tôi chỉ nói tới hai điểm  nhỏ.

      Thử đọc một cái lệnh về quản lý lạc được ghi lại trong cuốn Kinh tế Việt Nam 1945-2000 :

     Không có thị trường tự do về buôn bán cũng như về trao đổi  các mặt hàng kể trên, cụ thể như lạc chỉ để lại vừa đủ  làm giống cho vụ sau  tính toán cho sát. Người sản xuất không tiêu dùng là tốt, người trồng lạc không ăn lạc  không dùng lạc để  làm kẹo  hay luộc để bán … Đối với nông sản  dùng để chế biến thực phẩm cho nhân dân thì nhà nước  phải quản lý chặt chẽ trên thị trường, không để ai buôn bán kiếm lời.

       Đằng sau những lời lẽ cứng nhắc là một quan niệm khá thô thiển : người ta nghĩ rằng mỗi thành viên xã hội không là gì cả, mỗi công dân không thuộc về chính mình mà trước tiên là của cộng đồng. Cái gì cũng có thể và cần phải quản lý -- xã hội và con người chỉ còn là một thứ đất sét, muốn nhào nặn thế nào cũng được. Đây chính  là cái tư tưởng làm nền cho sự quản lý.

      Để biện hộ cho mình, một thời gian dài, chúng ta khăng khăng cho rằng những biện pháp như trên là duy nhất đúng và giá kể tiếp tục như thế mãi mãi thì làm gì cũng được.  Đáng lẽ phải hiểu rằng lối quản lý đó gây ra rất nhiều tai hại trong nếp sống cũng như tư tưởng con người  thì người ta lại lầm tưởng nó là cái mẫu lý tưởng nên theo, và sau này chỉ bần cùng bất đắc dĩ mới từ bỏ.

       Tư tưởng đó cố nhiên chỉ  có thể  nảy sinh ở những người ít kinh nghiệm nhưng lại quá tự tin không chịu rút kinh nghiệm. Không tính hết hậu quả các chính sách xã hội của mình. Dễ cứng nhắc, thô bạo.    

     Còn  một vấn đề nhức nhối nữa thường  ngự trị trong đầu óc mỗi người mỗi khi  nhớ lại  thời bao cấp  (mà đến nay cũng chưa chấm dứt được là ),  đó là  cảm tưởng về một xã hội có sự phân chia theo những thang bậc chặt chẽ.

       Mọi chuyện cũng bắt đầu từ kinh tế. Sự cung cấp được chia ra theo ngạch bậc. Cán bộ cao ăn cung cấp – cán bộ thấp ăn chợ đen—Cán bộ quen ăn cổng hậu.  Phải nói ngay là cũng như toàn bộ chế độ bao cấp nói  chung, việc phân chia theo ngạch bậc là hoàn toàn tự nhiên, không  thể làm khác.

       Thế nhưng không phải vì thế mà  làm thế nào cũng được !

     Đây là một số số liệu  ghi trong  cuốn sách Kinh tế Việt nam 1945-2000 . Trong khi  người dân thường mỗi tháng chỉ được 150 gram thịt, thì cán bộ cao cấp trên được 6kg, tức là bốn chục lần lớn hơn. Và tính ra chênh lệch  là 100 đồng. Ngoài ra còn  thuốc lá chè  đường sữa len dạ,  cũng tạo ra khoản chênh lệch khoảng 100  đồng nữa. 

      Theo cách nhìn hiện đại  thì cái sự hơn kém giữa trên với dưới  trên kia mô tả, kể cả những khoản giấu diếm – cũng chả là bao. Nhưng đặt trong mặt bằng chung của thời chiến, đó đã là một sự chênh lệch lớn. Bởi vậy  những lời biện hộ cho rằng so với  lương tối thiểu là 26 đồng  thì lương bộ trưởng  chỉ gấp tám lần ( khoảng từ  200 đến 220 đồng ) – lối biện hộ ấy  không thuyết phục được ai.

      Vốn cũng từ dân nghèo mà ra, người quản lý biết ngay rằng mình hưởng có phần quá. Lại do chỗ muốn an lòng người dân, một khuynh hướng  tìm cách che giấu hình thành. Ban đầu là tự nhiên. Về sau là cố ý.

     Từ đây nẩy sinh một ấn tượng, thường in đậm trong đầu óc mọi người mỗi khi nhớ tới cái khoảng thời gian gọi là thời bao cấp. Đó là  hình ảnh một xã hội mang tính thang bậc chặt chẽ. Cái này thì người dân thường Hà Nội trước sau 1975 cảm thấy rất rõ. Bởi hồi ấy, xe ô-tô ở Hà Nội rất hiếm, nên chỉ cần nhìn một chiếc xe con đi qua, chúng tôi biết ngay là đã có một vị cỡ nào vi hành. Xe Pobeda và sau này là Vonga đen ư? Cố nhiên là bộ trưởng trở lên rồi. Các  thứ trưởng và cấp tương đương đi những chiếc nhỏ hơn và ít oai vệ hơn, tức là loại Moskovits. Một  nhà văn hay ghi  những chuyện vặt là Tô Hoài còn kể  ngay cách trang trí sau xe cũng có phân biệt.  Như thế đấy, một nếp sống đặc sệt chất quan liêu nảy sinh ngay trong thời buổi  khó khăn và con người tưởng là bình đẳng nhất.




Xưa nay  nối tiếp

     Các nhà kinh tế gần đây hay nói tới cơ chế xin cho, nó là yếu tố cản trở tính năng động của xã hội. Nhưng ngồi thử vân vi thì biết: Tác phong quan liêu cửa quyền.Thói quen luồn lách, chỉ chực phá luật kiếm lợi riêng. Nhịp sống uể oải đến đâu hay đến đấy. Lối suy nghĩ rập khuôn. Những đam mê đen tối. Niềm khao khát thường xuyên muốn được tận hưởng những gì chỉ mới nghe mới thấy từ những xứ sở xa lạ …Bấy nhiêu  thói xấu mà hôm nay chúng ta khó chịu (cũng như bao thói khác chưa kể ở đây), chẳng phải đều bắt nguồn từ cái quá khứ mà chúng ta muốn không bao giờ lặp lại đó ?!

     Theo Từ điển Hoàng Phê,  bao cấp là  “cấp phát phân phối, trả công  bằng hiện vật và tiền mà không tính toán hoặc không đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng“. Cuộc trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp là một minh họa đích đáng cho cái định nghĩa phổ thông  đó  và mở ra cho chúng ta một dịp để nghĩ lại mọi chuyện. Với việc  không dùng tiền tệ để thanh toán, và đẩy hoạt động sản xuất về tình trạng tự cấp tự túc, cách phân phối ấy là một  bước lùi trong tư duy kinh tế. Còn nhìn rộng ra các mặt khác thì xã hội lúc ấy là xa lạ với khái niệm xã hội dân sự. Bởi về đại thể, đó là một xã hội không bình thường, nên những cố gắng bình thường hóa nó trở lại của chúng ta hai chục năm gần đây mới khó khăn đến thế !




-------

      (1) Cuộc trưng bày này nằm trong chương trình tổng kết 20 năm đổi mới do UNDP và các  quỹ khác như quỹ Ford, quỹ Sida tài trợ. Mở cửa từ tháng sáu tới hết năm 2006.

     (2)   Điều thú vị là đoạn này của Tô Hoài  lại được sử dụng như  là tài liệu minh họa tốt trong một cuốn sách giáo khoa về kinh tế, cuốn Kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II 1955-1975 – Đặng Phong chủ biên Nhà xuất bản Khoa học xã hội –2005. Đây là một  công trình nghiên cứu có giá trị khoa học thực sự. Một số trích dẫn dưới đây có ghi chú số trang  là lấy từ bản in này  

      (3) Nhại một câu thơ của Đoàn Phú Tứ Màu thời gian tím ngát, bài Hương thời gian

     (4) Dẫn lại từ Phạm Thị Quý chủ biên, Giáo trình lịch sử kinh tế Việt nam, NXB Đại học kinh tế quốc dân,2006,  tr 399.

      (5) Bản  dịch đã in ở NXB Hội nhà văn 2006
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 06, 2016 01:16

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.