Vương Trí Nhàn's Blog, page 55
September 23, 2016
Cô đơn và nhập cuộc kiểu Dương Nghiễm Mậu
Một cách sống chừng mực giữa các đồng nghiệp
Với tư cách một người cả đời sống trong không khí văn nghệ Hà Nội, tôi hay nhìn sinh hoạt văn nghệ SG trước 1975 giống như là khung cảnh chung của đời sống chính chúng tôi. Ở đó có nhóm nọ nhóm kia, có sếp sòng chỉ huy, có đám đông vừa ù lì vừa nhạy cảm, có những người cùng ý chí, cùng hướng tìm tòi sáng tạo, tất cả quen biết nhau và làm việc trong sự hiệp đồng với nhau, tuy bên trong cũng đầy những ghen ghét lẫn đố kỵ. Với cái nhìn ấy tôi thường chú ý đến nhóm Sáng Tạo và các cây bút di cư sau 1954, chú ý tới tạp chí Bách Khoa, các tạp chí Văn, hoặc sau này mấy tờ Khởi Hành, Vấn Đề…
Võ Phiến và Mai Thảo tôi nhớ đầu tiên. Ngoài ra là Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Nhã ca Túy Hồng…đặt bên cạnh bức tranh sơ bộ như trên thì thấy Dương Nghiễm Mậu không thuộc vào nhóm nào cụ thể. Nhà văn có lần kể với tôi người thân nhất với ông là Lý Hoàng Phong – người làm tờ tạp chí Văn Nghệ và tờ này đã đóng cửa từ 1963.
Ở chỗ riêng tư Dương Nghiễm Mậu được coi như cùng lứa với Thanh Tâm Tuyền, họ đều là những người thanh niên từ Bắc di cư. Nhưng trong những hoạt động sôi nổi của nhóm Sáng Tạo bao gồm những thảo luận nghệ thuật là gì, đánh giá lại văn học tiền chiến… người ta chỉ nhớ Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp và những tên tuổi tuổi khác. Còn Dương Nghiễm Mậu thì không tham gia vào những cuộc tìm tòi ồn ào và sôi nổi đó.
Mặc dầu vậy, một trong những bài viết hiếm hoi mà Dương Nghiễm Mậu còn viết sau năm 1975 chính là một bài viết dài về nhóm Sáng Tạo.
Hôm trước tôi vừa đưa lại lời bạt rất tâm tình của Dương Nghiễm Mậu viết cho tập thơ Nhã Ca
Ở bài đó ta thấy, tác giả của Cũng đành… chơi với mọi người nhưng không tham gia vào nhóm nào cả. Đọc văn xuôi ông, cũng có người nhận ra ở ông những dấu hiệu của avant-garde, nhưng những phát biểu có tính chất là tuyên ngôn về những tìm tòi nghề nghiệp thì rất ít khi người ta tìm thấy ở các bài báo ký tên ông. Nếu ở ông có một thứ ngôn ngữ văn xuôi mới, thì sự tìm tòi ấy đã đến với ông một cách tự nhiên.
Ngay từ 1971 trong tập Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tị, tên tuổi của Dương Nghiễm Mậu cũng được đặt bên cạnh những nhân vật tiêu biểu của SG 1945 – 1975 như Trịnh Công Sơn…
Trong tập hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nhà biên khảo này hay tìm tòi về tiểu thuyết chỉ hạ một câu, đại ý Dương Nghiễm Mậu viết sâu sắc nhưng có màu đen tối
Chính tôi được nghe Dương Nghiễm Mậu kể lúc đầu Võ Phiến chê văn ông, đại ý nói sao ông lại viết thế. Nhưng về sau Võ Phiến khi làm NXB Thời Mới lại lấy tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu về in. Nhà văn hỏi lại tại sao như vậy thì Võ Phiến trả lời đơn giản là vì tác phẩm của cậu người ta đọc nhiều.
Trong cuốn Tổng quan về văn học miền Nam của Võ Phiến cũng đã trích ra một đoạn ngắn trong truyện ngắn Rượu, Chưa đủ của Dương Nghiễm Mậu viết từ 1963. Mai Thảo có lần nói về Dương Nghiễm Mậu thì nhắc ngay đến truyện Rượu, Chưa đủ. Ai thích chuyện hậu trường văn học tiền chiến hẳn biết trường hợp thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao, khi được gửi tới tờ báo lúc đầu nó đã bị vứt vào sọt rác. Nhưng về sau thì lại được các nhà biên tập -- theo tôi nhớ là Lê Văn Trương -- tìm lại và coi như họ đã khai sinh ra một tác giả.Trường hợp xảy ra với Rượu, Chưa đủ cũng na ná như trường hợp trên.
Tóm lại, khi nhìn lại cuộc đời của Dương Nghiễm Mậu, tôi thấy ông không thuộc loại làm văn nghệ theo nhóm phái và thường xuyên có những cuộc trao đổi về nghề nghiệp với bạn bè, nói theo cái chữ suồng sã của bọn tôi là tồn tại kiểu bầy đàn. Những tìm tòi về nghệ thuật của ông cũng nảy sinh một cách tự nhiên, do chỗ nội dung yêu cầu như thế thì phải có hình thức tương ứng. Ông không “vào hùa”, “kéo bè kéo cánh”, hoặc làm hàng, chạy theo mốt. Ông không quá coi trọng và lo lắng sự đánh giá của người viết đương thời, mà cái chính là lo đọc đi và viết.
Nhưng đấy mới là một khía cạnh của Dương Nghiễm Mậu.
Gặp lại mình trong người xưa
Trong dịp Dương Nghiễm Mậu qua đời, tôi được đọc trên trang Da Màu một bài viết cũ của Dương Nghiễm Mậu mang tên là Nhân nghĩ về Khái Hưng. Bài này vốn in trên bán nguyệt san Văn số 22 ra ngày 15/11/1964. Trong bài, ngoài đoạn kể về cái chết của Khái Hưng, Dương Nghiễm Mậu nói tới hai cuốn sách của Khái Hưng mà ông có cảm tình đặc biệt. Trong khi những người khác thích ở Khái Hưng những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân (vốn sau này đã được đưa vào chương trình giảng dạy ở trường trung học của SG trước 75) thì Dương Nghiễm Mậu lại chú ý đến hai tác phẩm là Tiêu Sơn tráng sĩ và Băn khoăn. Ông viết, “cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái – một nhân vật vừa là chiến sĩ vừa là tu sĩ vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được. Còn cuốn sau tôi cho là một tiểu thuyết rất mới của thới đó mà cho đến bây giờ nữa đã cho tôi phần nào lý do sự thất bại của trí thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.”
Từ cách miêu tả của Dương Nghiễm Mậu trong bài này, thấy toát lên cái ý Băn khoăn chính là bức tranh hoàn chỉnh về đời sống tinh thần của một lớp trí thức như ông và sau ông. Trong tác phẩm ấy, sự bế tắc là cái chia đều cho mọi thế hệ. Người tri thức sau khi tự hỏi “học để làm gì và đỗ để làm gì” thì câu trả lời là “học để chẳng làm gì ráo, đó cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng”. Các nhà thầu, các nhà làm kinh tế cũng bế tắc không hiểu kiếm tiền để làm gì. Các cô gái mới lớn cũng băn khoăn không hiểu tuổi thanh xuân của mình sẽ dùng để làm việc gì. Cả xã hội sống trong một khung cảnh nhiễu loạn, không có giáo dục gia đình, không có luân lý gia đình; đám thanh niên lớn lên sống không mục đích hay với chỉ mục đích là chơi bời phóng đãng.
Qua việc đọc ra những bế tắc của các nhân vật thời Khái Hưng, Dương Nghiễm Mậu nhận thấy đó cũng là những bế tắc của thế hệ mình. Cái trách nhiệm của người tri thức mà tác giả nhận lấy và coi những người đương thời của mình cũng phải nhận lấy, cái trách nhiệm đó không có gì thực hiện và điều đó kéo dài qua mấy thế hệ.
Dương Nghiễm Mậu đã mở ra một khía cạnh mới của văn học tiền chiến và sự liên lục của nó còn kéo dài đến sau 1975.
Từ bài viết trên về Khái Hưng tôi chợt nhận ra nhà văn nổi tiếng là hay lặn lội đi tới các tiền đồn này rất hay trở lại với lịch sử và tìm thấy trong cách sống cách nghĩ của người xưa những gợi ý cho ngày hôm nay.
Tôi chợt nhớ lại một tiểu luận khác của Dương Nghiễm Mậu, bài Tản Đà – kẻ làm loạn với chính mình.in ở Văn số 35 ra 1-6-65
Nguyễn Tuân viết về nghệ thuật múa kiếm của Tản Đà, kể cũng đã lạ. Nay Dương Nghiễm Mậu còn đi xa hơn, thấy ở nhà thơ mà người ta chỉ nhớ như là ông thần ngông và ông thần rượu một khía cạnh con người hiện đại. Nhớ trong một lần trả lời Thời tập 1974 khi được hỏi Không lẽ người ta chỉ say sưa có chừng đó? Rượu, thiên nhiên, người yêu ông trả lời ngay Còn có những thứ say sưa khác nữa chứ, ví dụ như làm loạn chẳng hạn...
Trường hợp sau đây thì được biết tới nhiều hơn:
Dương Nghiễm Mậu với truyện ngắn Kinh Kha con chủy thủ và đất Tần bắt trắc. Tác giả đọc trong lịch sử của đời Tần Hán xa xôi những vấn đề của nước VN thời nay. Ông chấp nhận cả chuyện phần nho khanh thư vì thật ra trên đời này có biết bao kẻ làm loạn. Cái sự chuyên chế đã đành là phải tiêu diệt, nhưng sau đó thì cái gì sẽ thay thế, tất cả đều không biết. Cuối truyện này còn một đoạn trữ tình ngoài lề, trong đó tác giả liên hệ hoàn cảnh cuộc đời về Tần Hán với tình cảnh của con người ở giữa những sự lựa chọn thời gian từ 1945 – 1954. Cái giọng bao trùm của bài viết cũng là cái giọng thấy ở nhiều tác phẩm khác của Dương Nghiễm Mậu, đó là sự bế tắc của con người không biết lựa chọn điều gì cần thiết cho mình, nhưng lại cũng kiên quyết bảo vệ sự lựa chọn ấy, không đặt quyền hướng dẫn đời mình vào tay kẻ khác. Sự chọn đường của người trí thức bao giờ cũng là hành động tự nguyện và là sản phẩm của những hiểu biết về lịch sử và thân phận con người.
Từ những suy nghĩ của Dương Nghiễm Mậu về Băn khoăn của Khái Hưng và các sáng tác vừa kể, tôi nhận ra hình ảnh một nhà văn hôm nay, không quá lo lắng về quan hệ với các đồng nghiệp đương thời, nhưng lại luôn thấy mình chia sẻ với các tác giả trong quá khứ và biết sống với những vấn đề chung của con người ở các thời khác.
Nói các khác, cảm tưởng về quá khứ văn nghệ và quá khứ lịch sử mới chính là những ám ảnh sâu sắc nhất của Dương Nghiễm Mậu. Ông thấy những vấn đề của đời mình, của thế hệ mình cũng là phóng chiếu từ những vấn đề của con người trong các thời đại trước. Với vẻ bề ngoài xù xì và bám sát của đời sống sĩ quan và lính tráng những năm chiến tranh, thật ra thì Dương Nghiễm Mậu cũng đặt những vấn đề của xã hội. Ở ông tuyệt nhiên không có sự viết văn làm dáng, nghệ thuật vị nghệ thuật như người ta nói. Trong khi đạt tới sự thiết thực tối đa thì đồng thời ông cũng đạt tới sự trừu tượng hóa tối đa mà trường hợp tập Cũng đành là một ví dụ.
Dưới đây là một bức ảnh tôi thấy trên mạng, ảnh chụp năm 1968, khi Dương Nghiễm Mậu tới Huế, đi bộ qua cầu Trường Tiền bị đánh sụp.
Với tư cách một người cả đời sống trong không khí văn nghệ Hà Nội, tôi hay nhìn sinh hoạt văn nghệ SG trước 1975 giống như là khung cảnh chung của đời sống chính chúng tôi. Ở đó có nhóm nọ nhóm kia, có sếp sòng chỉ huy, có đám đông vừa ù lì vừa nhạy cảm, có những người cùng ý chí, cùng hướng tìm tòi sáng tạo, tất cả quen biết nhau và làm việc trong sự hiệp đồng với nhau, tuy bên trong cũng đầy những ghen ghét lẫn đố kỵ. Với cái nhìn ấy tôi thường chú ý đến nhóm Sáng Tạo và các cây bút di cư sau 1954, chú ý tới tạp chí Bách Khoa, các tạp chí Văn, hoặc sau này mấy tờ Khởi Hành, Vấn Đề…
Võ Phiến và Mai Thảo tôi nhớ đầu tiên. Ngoài ra là Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Nhã ca Túy Hồng…đặt bên cạnh bức tranh sơ bộ như trên thì thấy Dương Nghiễm Mậu không thuộc vào nhóm nào cụ thể. Nhà văn có lần kể với tôi người thân nhất với ông là Lý Hoàng Phong – người làm tờ tạp chí Văn Nghệ và tờ này đã đóng cửa từ 1963.
Ở chỗ riêng tư Dương Nghiễm Mậu được coi như cùng lứa với Thanh Tâm Tuyền, họ đều là những người thanh niên từ Bắc di cư. Nhưng trong những hoạt động sôi nổi của nhóm Sáng Tạo bao gồm những thảo luận nghệ thuật là gì, đánh giá lại văn học tiền chiến… người ta chỉ nhớ Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp và những tên tuổi tuổi khác. Còn Dương Nghiễm Mậu thì không tham gia vào những cuộc tìm tòi ồn ào và sôi nổi đó.
Mặc dầu vậy, một trong những bài viết hiếm hoi mà Dương Nghiễm Mậu còn viết sau năm 1975 chính là một bài viết dài về nhóm Sáng Tạo.
Hôm trước tôi vừa đưa lại lời bạt rất tâm tình của Dương Nghiễm Mậu viết cho tập thơ Nhã Ca
Ở bài đó ta thấy, tác giả của Cũng đành… chơi với mọi người nhưng không tham gia vào nhóm nào cả. Đọc văn xuôi ông, cũng có người nhận ra ở ông những dấu hiệu của avant-garde, nhưng những phát biểu có tính chất là tuyên ngôn về những tìm tòi nghề nghiệp thì rất ít khi người ta tìm thấy ở các bài báo ký tên ông. Nếu ở ông có một thứ ngôn ngữ văn xuôi mới, thì sự tìm tòi ấy đã đến với ông một cách tự nhiên.
Ngay từ 1971 trong tập Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tị, tên tuổi của Dương Nghiễm Mậu cũng được đặt bên cạnh những nhân vật tiêu biểu của SG 1945 – 1975 như Trịnh Công Sơn…
Trong tập hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nhà biên khảo này hay tìm tòi về tiểu thuyết chỉ hạ một câu, đại ý Dương Nghiễm Mậu viết sâu sắc nhưng có màu đen tối
Chính tôi được nghe Dương Nghiễm Mậu kể lúc đầu Võ Phiến chê văn ông, đại ý nói sao ông lại viết thế. Nhưng về sau Võ Phiến khi làm NXB Thời Mới lại lấy tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu về in. Nhà văn hỏi lại tại sao như vậy thì Võ Phiến trả lời đơn giản là vì tác phẩm của cậu người ta đọc nhiều.
Trong cuốn Tổng quan về văn học miền Nam của Võ Phiến cũng đã trích ra một đoạn ngắn trong truyện ngắn Rượu, Chưa đủ của Dương Nghiễm Mậu viết từ 1963. Mai Thảo có lần nói về Dương Nghiễm Mậu thì nhắc ngay đến truyện Rượu, Chưa đủ. Ai thích chuyện hậu trường văn học tiền chiến hẳn biết trường hợp thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao, khi được gửi tới tờ báo lúc đầu nó đã bị vứt vào sọt rác. Nhưng về sau thì lại được các nhà biên tập -- theo tôi nhớ là Lê Văn Trương -- tìm lại và coi như họ đã khai sinh ra một tác giả.Trường hợp xảy ra với Rượu, Chưa đủ cũng na ná như trường hợp trên.
Tóm lại, khi nhìn lại cuộc đời của Dương Nghiễm Mậu, tôi thấy ông không thuộc loại làm văn nghệ theo nhóm phái và thường xuyên có những cuộc trao đổi về nghề nghiệp với bạn bè, nói theo cái chữ suồng sã của bọn tôi là tồn tại kiểu bầy đàn. Những tìm tòi về nghệ thuật của ông cũng nảy sinh một cách tự nhiên, do chỗ nội dung yêu cầu như thế thì phải có hình thức tương ứng. Ông không “vào hùa”, “kéo bè kéo cánh”, hoặc làm hàng, chạy theo mốt. Ông không quá coi trọng và lo lắng sự đánh giá của người viết đương thời, mà cái chính là lo đọc đi và viết.
Nhưng đấy mới là một khía cạnh của Dương Nghiễm Mậu.
Gặp lại mình trong người xưa
Trong dịp Dương Nghiễm Mậu qua đời, tôi được đọc trên trang Da Màu một bài viết cũ của Dương Nghiễm Mậu mang tên là Nhân nghĩ về Khái Hưng. Bài này vốn in trên bán nguyệt san Văn số 22 ra ngày 15/11/1964. Trong bài, ngoài đoạn kể về cái chết của Khái Hưng, Dương Nghiễm Mậu nói tới hai cuốn sách của Khái Hưng mà ông có cảm tình đặc biệt. Trong khi những người khác thích ở Khái Hưng những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân (vốn sau này đã được đưa vào chương trình giảng dạy ở trường trung học của SG trước 75) thì Dương Nghiễm Mậu lại chú ý đến hai tác phẩm là Tiêu Sơn tráng sĩ và Băn khoăn. Ông viết, “cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái – một nhân vật vừa là chiến sĩ vừa là tu sĩ vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được. Còn cuốn sau tôi cho là một tiểu thuyết rất mới của thới đó mà cho đến bây giờ nữa đã cho tôi phần nào lý do sự thất bại của trí thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.”
Từ cách miêu tả của Dương Nghiễm Mậu trong bài này, thấy toát lên cái ý Băn khoăn chính là bức tranh hoàn chỉnh về đời sống tinh thần của một lớp trí thức như ông và sau ông. Trong tác phẩm ấy, sự bế tắc là cái chia đều cho mọi thế hệ. Người tri thức sau khi tự hỏi “học để làm gì và đỗ để làm gì” thì câu trả lời là “học để chẳng làm gì ráo, đó cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng”. Các nhà thầu, các nhà làm kinh tế cũng bế tắc không hiểu kiếm tiền để làm gì. Các cô gái mới lớn cũng băn khoăn không hiểu tuổi thanh xuân của mình sẽ dùng để làm việc gì. Cả xã hội sống trong một khung cảnh nhiễu loạn, không có giáo dục gia đình, không có luân lý gia đình; đám thanh niên lớn lên sống không mục đích hay với chỉ mục đích là chơi bời phóng đãng.
Qua việc đọc ra những bế tắc của các nhân vật thời Khái Hưng, Dương Nghiễm Mậu nhận thấy đó cũng là những bế tắc của thế hệ mình. Cái trách nhiệm của người tri thức mà tác giả nhận lấy và coi những người đương thời của mình cũng phải nhận lấy, cái trách nhiệm đó không có gì thực hiện và điều đó kéo dài qua mấy thế hệ.
Dương Nghiễm Mậu đã mở ra một khía cạnh mới của văn học tiền chiến và sự liên lục của nó còn kéo dài đến sau 1975.
Từ bài viết trên về Khái Hưng tôi chợt nhận ra nhà văn nổi tiếng là hay lặn lội đi tới các tiền đồn này rất hay trở lại với lịch sử và tìm thấy trong cách sống cách nghĩ của người xưa những gợi ý cho ngày hôm nay.
Tôi chợt nhớ lại một tiểu luận khác của Dương Nghiễm Mậu, bài Tản Đà – kẻ làm loạn với chính mình.in ở Văn số 35 ra 1-6-65
Nguyễn Tuân viết về nghệ thuật múa kiếm của Tản Đà, kể cũng đã lạ. Nay Dương Nghiễm Mậu còn đi xa hơn, thấy ở nhà thơ mà người ta chỉ nhớ như là ông thần ngông và ông thần rượu một khía cạnh con người hiện đại. Nhớ trong một lần trả lời Thời tập 1974 khi được hỏi Không lẽ người ta chỉ say sưa có chừng đó? Rượu, thiên nhiên, người yêu ông trả lời ngay Còn có những thứ say sưa khác nữa chứ, ví dụ như làm loạn chẳng hạn...
Trường hợp sau đây thì được biết tới nhiều hơn:
Dương Nghiễm Mậu với truyện ngắn Kinh Kha con chủy thủ và đất Tần bắt trắc. Tác giả đọc trong lịch sử của đời Tần Hán xa xôi những vấn đề của nước VN thời nay. Ông chấp nhận cả chuyện phần nho khanh thư vì thật ra trên đời này có biết bao kẻ làm loạn. Cái sự chuyên chế đã đành là phải tiêu diệt, nhưng sau đó thì cái gì sẽ thay thế, tất cả đều không biết. Cuối truyện này còn một đoạn trữ tình ngoài lề, trong đó tác giả liên hệ hoàn cảnh cuộc đời về Tần Hán với tình cảnh của con người ở giữa những sự lựa chọn thời gian từ 1945 – 1954. Cái giọng bao trùm của bài viết cũng là cái giọng thấy ở nhiều tác phẩm khác của Dương Nghiễm Mậu, đó là sự bế tắc của con người không biết lựa chọn điều gì cần thiết cho mình, nhưng lại cũng kiên quyết bảo vệ sự lựa chọn ấy, không đặt quyền hướng dẫn đời mình vào tay kẻ khác. Sự chọn đường của người trí thức bao giờ cũng là hành động tự nguyện và là sản phẩm của những hiểu biết về lịch sử và thân phận con người.
Từ những suy nghĩ của Dương Nghiễm Mậu về Băn khoăn của Khái Hưng và các sáng tác vừa kể, tôi nhận ra hình ảnh một nhà văn hôm nay, không quá lo lắng về quan hệ với các đồng nghiệp đương thời, nhưng lại luôn thấy mình chia sẻ với các tác giả trong quá khứ và biết sống với những vấn đề chung của con người ở các thời khác.
Nói các khác, cảm tưởng về quá khứ văn nghệ và quá khứ lịch sử mới chính là những ám ảnh sâu sắc nhất của Dương Nghiễm Mậu. Ông thấy những vấn đề của đời mình, của thế hệ mình cũng là phóng chiếu từ những vấn đề của con người trong các thời đại trước. Với vẻ bề ngoài xù xì và bám sát của đời sống sĩ quan và lính tráng những năm chiến tranh, thật ra thì Dương Nghiễm Mậu cũng đặt những vấn đề của xã hội. Ở ông tuyệt nhiên không có sự viết văn làm dáng, nghệ thuật vị nghệ thuật như người ta nói. Trong khi đạt tới sự thiết thực tối đa thì đồng thời ông cũng đạt tới sự trừu tượng hóa tối đa mà trường hợp tập Cũng đành là một ví dụ.
Dưới đây là một bức ảnh tôi thấy trên mạng, ảnh chụp năm 1968, khi Dương Nghiễm Mậu tới Huế, đi bộ qua cầu Trường Tiền bị đánh sụp.
Published on September 23, 2016 20:14
September 20, 2016
Thêm mấy đoạn ghi từ báo chí văn nghệ Sài Gòn trước 1975 về Dương Nghiễm Mậu
1/ Về bức ảnh Trần Cao Lĩnh Chụp Dương Nghiễm Mậu, nhà nhiếp ảnh (hay là một người có biết việc này) kể lúc đầu bối cảnh là một hành lang dài tối tăm có những khung cửa tò vò sau thì đổi thành một đồng hồ treo trên tường.
Đồng hồ đủ chữ số nhưng hai cây kim lại rớt xuống, buộc lủng lẳng bằng một sợi dây…
Và Dương Nghiễm Mậu thì tủm tỉm cười nghĩ đến thời gian kỳ quái trên chiếc đồng hồ kỳ quái. (Trong số ảnh Trần Cao Lĩnh chụp còn có ảnh Vũ Hạnh - ông này tươi cười dưới một họa phẩm cháy tiêu hết chỉ còn một cái khung.)
2/ Trong một bài báo người ta tả Dương Nghiễm Mậu người gầy mỏng xương xẩu má hóp sâu, cặp mắt chất chứa tinh nghịch, nụ cười độ lượng, tiếng cười hể hả, nghe thật sướng tai.
3/ Viên Linh viết trên tuần báo Nghệ Thuật 1966 – năm mươi năm trước
Dương Nghiễm Mậu là nhà văn 20 tuổi của VN năm 1966. Mậu không dùng đến những con tẩy vớ vẩn.
Không có sự thỏa hiệp giữa Dương Nghiễm Mậu và Thẩm Thúy Hằng.
Nghệ thuật trình diễn và văn chương VN không bao giờ đi chung một con đường và có chung một lớp người thưởng ngoạn
Sáu tháng trong năm 1966, Mậu có 6 tác phẩm. Thương mại hóa được Mậu là một cố sức ghê gớm của chúng ta
4/Mấy câu kết của truyện ngắn Tiếng động trên da thú :
-- Hường ơi, người ta đã đếm hết những sợi tóc trên đầu chúng ta chưa? Mắt em còn mở lớn cho anh soi thấy mặt anh và khuôn mặt đó vừa gãy vụn.
5/ Về truyện Sông mê của Dương Nghiễm Mậu in trong tạp chí Văn 3/6/1974
Tác giả kể chuyện đi đường về nhà bị bọn cảnh sát Cộng lực hỏi giấy. Nhân đó nghĩ về cái thật cái giả ở đời. Lại kể một chuyện có liên quan đến Lê Quý Đôn:
-- Làm người là khổ, nhưng làm các giống khác còn khổ hơn. Làm người phải sống như mọi người, phải khờ phải dại, phải bú phải mớm, nếu không làm rắn làm trâu cũng chết.
-- Và nếu là người anh phải cố chịu như mọi người, đừng chơi trội khác đời, sẽ bị cho là kỳ quái, sẽ chết.
Kết luận: Trời đang chạng vạng, nhưng trời sẽ sáng.
6/Trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, mỗi nhà văn được trích in truyện, thì có kèm theo mấy lời phát biểu về nghệ thuật viết truyện ngắn. Dương Nghiễm Mậu được chọn truyện Cũng đành, và ông đưa ra quan niệm của mình:
Truyện ngắn gần với thơ, kề cận thân thiết với đời sống ấu thơ và những kỷ niệm của tác giả, nó như những bước đi đầu vừa ngỡ ngàng vừa hăm hở, ở đó có những xúc động nhẹ nhàng hoặc bất ngờ hung hãn như một nhát chém.
7/ Khoảng 1973 -1974 các văn nghệ sĩ SG cảm thấy xã hội sắp có thay đổi nên không ai bỏ ai, nhiều người làm những tổng kết về cuộc sống sáng tác những năm trước đó.
Có người đã lật ra Bảng phong trần của 55 nhà văn, mỗi người có một cái nhất
Tôi ghi lại một số :
Nằm nhiều nhất là Vũ Hoàng Chương,
Gây chấn động nhất là Trùng Dương,
Sống khuất lánh nhất là Nguyễn Thị Hoàng
Hành hạ máy chữ khủng khiếp nhất là Nhã Ca
Độc miệng nhất là Nguyễn Đình Toàn
Nói về mình nhiều nhất trong tác phẩm là Nguyễn Thị Thụy Vũ
Hippi nhất là Nguyễn Sỹ Tế
Làm dáng nhất là Cung Trầm Tưởng
Làm ăn nhất là Trần Dạ Từ
Lãng mạn nhất là Du Tử Lê
Cô độc nhất là Thanh Tâm Tuyền
Đổ bác nhất là Huỳnh Phan Anh
Don Juan nhất là Nguyễn Xuân Hoàng
Tươi nhất là Võ Phiến
Có chiếc xe hơi chiến nhất là Duyên Anh
Xe đạp cà khổ nhất là Doãn Quốc Sỹ
Đến Dương Nghiễm Mậu thì người lập bảng hạ ba chữ là cần kiệm nhất
Tôi quên không ghi cái bảng phong trần này được in trên báo nào, chỉ nhớ không phải bán nguyệt san Văn. Và qua cái giọng thì thấy người lập bảng khá hiểu anh em đồng nghiệp. Cái nhất của Dương Nghiễm Mậu được nêu lên ở đây tôi thấy ông còn giữ đến khi mất.
Đồng hồ đủ chữ số nhưng hai cây kim lại rớt xuống, buộc lủng lẳng bằng một sợi dây…
Và Dương Nghiễm Mậu thì tủm tỉm cười nghĩ đến thời gian kỳ quái trên chiếc đồng hồ kỳ quái. (Trong số ảnh Trần Cao Lĩnh chụp còn có ảnh Vũ Hạnh - ông này tươi cười dưới một họa phẩm cháy tiêu hết chỉ còn một cái khung.)
2/ Trong một bài báo người ta tả Dương Nghiễm Mậu người gầy mỏng xương xẩu má hóp sâu, cặp mắt chất chứa tinh nghịch, nụ cười độ lượng, tiếng cười hể hả, nghe thật sướng tai.
3/ Viên Linh viết trên tuần báo Nghệ Thuật 1966 – năm mươi năm trước
Dương Nghiễm Mậu là nhà văn 20 tuổi của VN năm 1966. Mậu không dùng đến những con tẩy vớ vẩn.
Không có sự thỏa hiệp giữa Dương Nghiễm Mậu và Thẩm Thúy Hằng.
Nghệ thuật trình diễn và văn chương VN không bao giờ đi chung một con đường và có chung một lớp người thưởng ngoạn
Sáu tháng trong năm 1966, Mậu có 6 tác phẩm. Thương mại hóa được Mậu là một cố sức ghê gớm của chúng ta
4/Mấy câu kết của truyện ngắn Tiếng động trên da thú :
-- Hường ơi, người ta đã đếm hết những sợi tóc trên đầu chúng ta chưa? Mắt em còn mở lớn cho anh soi thấy mặt anh và khuôn mặt đó vừa gãy vụn.
5/ Về truyện Sông mê của Dương Nghiễm Mậu in trong tạp chí Văn 3/6/1974
Tác giả kể chuyện đi đường về nhà bị bọn cảnh sát Cộng lực hỏi giấy. Nhân đó nghĩ về cái thật cái giả ở đời. Lại kể một chuyện có liên quan đến Lê Quý Đôn:
-- Làm người là khổ, nhưng làm các giống khác còn khổ hơn. Làm người phải sống như mọi người, phải khờ phải dại, phải bú phải mớm, nếu không làm rắn làm trâu cũng chết.
-- Và nếu là người anh phải cố chịu như mọi người, đừng chơi trội khác đời, sẽ bị cho là kỳ quái, sẽ chết.
Kết luận: Trời đang chạng vạng, nhưng trời sẽ sáng.
6/Trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, mỗi nhà văn được trích in truyện, thì có kèm theo mấy lời phát biểu về nghệ thuật viết truyện ngắn. Dương Nghiễm Mậu được chọn truyện Cũng đành, và ông đưa ra quan niệm của mình:
Truyện ngắn gần với thơ, kề cận thân thiết với đời sống ấu thơ và những kỷ niệm của tác giả, nó như những bước đi đầu vừa ngỡ ngàng vừa hăm hở, ở đó có những xúc động nhẹ nhàng hoặc bất ngờ hung hãn như một nhát chém.
7/ Khoảng 1973 -1974 các văn nghệ sĩ SG cảm thấy xã hội sắp có thay đổi nên không ai bỏ ai, nhiều người làm những tổng kết về cuộc sống sáng tác những năm trước đó.
Có người đã lật ra Bảng phong trần của 55 nhà văn, mỗi người có một cái nhất
Tôi ghi lại một số :
Nằm nhiều nhất là Vũ Hoàng Chương,
Gây chấn động nhất là Trùng Dương,
Sống khuất lánh nhất là Nguyễn Thị Hoàng
Hành hạ máy chữ khủng khiếp nhất là Nhã Ca
Độc miệng nhất là Nguyễn Đình Toàn
Nói về mình nhiều nhất trong tác phẩm là Nguyễn Thị Thụy Vũ
Hippi nhất là Nguyễn Sỹ Tế
Làm dáng nhất là Cung Trầm Tưởng
Làm ăn nhất là Trần Dạ Từ
Lãng mạn nhất là Du Tử Lê
Cô độc nhất là Thanh Tâm Tuyền
Đổ bác nhất là Huỳnh Phan Anh
Don Juan nhất là Nguyễn Xuân Hoàng
Tươi nhất là Võ Phiến
Có chiếc xe hơi chiến nhất là Duyên Anh
Xe đạp cà khổ nhất là Doãn Quốc Sỹ
Đến Dương Nghiễm Mậu thì người lập bảng hạ ba chữ là cần kiệm nhất
Tôi quên không ghi cái bảng phong trần này được in trên báo nào, chỉ nhớ không phải bán nguyệt san Văn. Và qua cái giọng thì thấy người lập bảng khá hiểu anh em đồng nghiệp. Cái nhất của Dương Nghiễm Mậu được nêu lên ở đây tôi thấy ông còn giữ đến khi mất.
Published on September 20, 2016 20:18
September 19, 2016
Dương Nghiễm Mậu: Lời bạt viết ở cuối tập Nhã Ca Mới 1964
Tôi lưu giữ bài viết sau đây của Dương Nghiễm Mậu và thường đọc lại, vì ở đó tìm thấy nhiều thứ: tuổi trẻ của nhà văn, những ngày mới chuyển từ Hà Nội qua Huế vào Sài Gòn; mối giao tình gắn bó giữa ông và vợ chồng nhà thơ tác giả Nhã Ca Mới, cảnh gieo neo của lớp trí thức trẻ những năm sau 1954. Trong khi viết về một hiện tượng văn chương gần gũi, người viết cũng tìm thấy một cơ hội để nói những quan niệm nhân sinh chi phối ông, mối quan hệ giữa thế hệ ông với thời cuộc.
Văn Dương Nghiễm Mậu vốn có cái giọng rất lạ, nó phản chiếu hình ảnh một con người luôn đau đớn bất mãn, trong khi bắt buộc phải chấp nhận đầu hàng cuộc sống thì lại giữ nguyên cho mình cái bất khuất chống lại đời sống đến cùng. Và cả cách viết cách đưa tài liệu tiểu sử riêng ẩn hiện giữa những câu ngắn, đứt nối nữa - nó khiến cho thứ văn xuôi này tự nó như có nhiều bình diện còn những chi tiết tưởng như lạc lõng thì lại như mời gọi người đọc hãy tìm hiểu thêm ở ngoài văn bản. Viết bạt cho người mà Dương Nghiễm Mậu cũng viết cho mình.
Sau những cơn bão lướt qua, Sài Gòn lạnh. Tôi nhớ Hà Nội vào mùa này, tôi nhớ Huế cũng vào mùa này. Tối nay tôi trở về nhà sớm. Những đêm giới nghiêm vẫn còn kéo dài. Tôi nhận được một tấm thiếp trên bàn làm việc. Tấm thiếp cưới báo tin Kim lập gia đình. Trên đó, ngoài những hàng chữ in, Kim viết cho tôi một mẩu thư nhỏ. Anh Nghiễm ơi… giờ hạ huyệt đã đến, anh hãy vứt xuống đó một viên đất và một bông hồng… Một viên đất và một bông hồng. Tôi cười thầm, tôi chỉ có hai bàn tay không, chẳng có gì để vứt xuống. Những dĩ vãng dù trôi đi, nhưng dấu vết vẫn còn đó. Tôi chẳng biết phải làm gì để xoá đi, chôn đi. Cuộc phiêu lưu đã kéo dài trong nhiều năm… Tôi đã sống thế nào trong suốt thời gian qua. Bây giờ còn một ít kỷ niệm. Kim còn có nhớ. Chắc Kim đã quên.(1) Nào có hề chi. Nói như thơ Nhã: Tôi như loài rong. Chìm dưới vùng ăn năn.
Từ những kỷ niệm của Kim gọi đến, từ những thời gian tôi gặp và thân với Từ. Từ nhắc với tôi về một người con gái Huế, người con gái đó tên Vân. Nói đến Huế, tôi nhớ lại những ngày đầu tiên rời Hà Nội vào sống ở Huế. Những trận mưa kéo dài ầm ĩ làm rêu thối mặt đất, làm váng đen mặt tường vôi vàng cũ, làm hẹp thấp bầu trời. Những bữa cơm khô như đá sỏi bên những người thân yêu. Tôi đã khóc ở Huế. Tôi nhớ Huế. Nhớ mãi Huế, một vẻ buồn bưng bít dồn nén từ những dãy núi lầm lì, từ những cánh đồng cát trắng nhem nhuốc, từ những cơn gió lào khô nóng, từ những mùa đông bất chợt ào xuống với cơn mưa tầm tã. Vẻ buồn bưng bít dồn nén còn đọng lại nơi chính cuộc sống của hơn trăm năm một đế đô với những thành quách, hào lạch và nỗi u uất bao nhiêu người sống trong những lề thói, tập tục, phong cách… Huế buồn chất ngất cô đơn với thế giới bên ngoài. Vân, tên của người làm thơ Nhã Ca, đã sống, lớn lên ở đó. Và Vân bỏ Huế, Vân làm thơ, Vân bắt đầu một cuộc sống khác. Tôi không hiểu những người đã rời Huế nghĩ gì về Huế. Phần tôi, tôi thù oán Huế nỗi thù oán cay đắng, vì Huế vừa bí ẩn vừa đáng yêu vừa đáng ghét. Điều ấy hãy nhìn vào mắt những người con gái Huế. Đôi mắt sâu hút vừa quyến rũ vừa đe doạ, vừa hiền lành vừa hung ác cuồng nhiệt. Khuôn mặt Huế, đời sống Huế. Khuôn mặt Vân, đời sống Vân, đó là một sự thực thơ. Nàng đã đứng dậy nàng đã đi.
Đọc thơ của Nhã, những mòn hết tuổi thơ, niềm hối tiếc, ăn năn, mất thời gian, lỡ nụ cười, buồn như cỏ khô, thở dài, ưu phiền, môi sầu, lãng quên, nghẹn ngào rất thường ở đâu tôi đã gặp, nhưng ở trong thơ của Nhã Ca nó khác hẳn, lạ hẳn. (2)
Sau cơn say váng vất kéo dài, tôi thức dậy. Tôi đã hỏi một người bốn mươi tuổi Khi các anh bằng tuổi các anh có buồn không, bây giờ chúng tôi buồn quá. Người đó nói với tôi: Khác các cậu bây giờ. Cậu thất tình phải không. Tôi gật đầu: nhiều thứ nữa.
Nhiều thứ nữa. Đọc thơ Nhã, tôi càng thấm thía với những gì tôi nghĩ. Nhã, cũng như tôi, các bạn hữu tôi… chúng tôi đều buồn.
Có người bảo tôi lấy vẻ buồn làm dáng. Tôi không thấy vậy. Suốt quãng đời đã qua tôi chưa có một câu chuyện gì vui để kể lại, một hạnh phúc làm vốn liếng. Những ngày nào vừa đặt chân xuống Sài Gòn, sống khốn khổ giữa những bạn hữu nghèo đói, những ngày Từ năm phơi mình ở Ngã tư Bảy Hiền, Bình Thới… bên những chồng giấy báo cũ. Những ngày chui lủi nơi căn phòng một bin-đinh. Những ngày Từ vào tù và Nhã bế cháu Sớm Mai hốc hác đi tìm chồng... Cuộc sống riêng tư mỗi người và đời sống xã hội, tất cả đó là những chua xót, dầy vò.. sự thật đó hiện diện trong thơ Nhã. Thơ Nhã là đời sống Nhã, là hình bóng chúng tôi.
Một buổi chiều, khi ở phố, tôi gặp nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Sau đó, chúng tôi cùng về một đường. Trên xe, anh Nguyễn Mạnh Côn hỏi tôi: Anh có mơ ước viết một tác phẩm thơ mộng hay không. Tôi nói có. Tôi vẫn mơ ước viết một tác phẩm thơ mộng, về một mối tình chẳng hạn. Nhưng tôi vẫn chưa viết được, chừng như chúng tôi mất đi sự say mê hào hùng…
Thơ Nhã là cơn váng vất đau buồn âm ỉ, như giọt cường toan trên vách đá xanh đen. Tôi đã mất say mê hào hứng, đó là sự thật. Tôi nghĩ điều mơ ước của tôi về một tác phẩm thơ mộng sẽ mãi mãi là ước vọng. Thơ Nhã, khuôn mặt mới của thơ mộng, hạnh phúc… khuôn mặt thiểu não, tiều tuỵ đó là khuôn mặt thật của thơ mộng, hạnh phúc trong đời sống chúng tôi.
Bây giờ Kim đã lập gia đình, người ta bảo như vậy là phản bội. Làm rất nhiều thơ, văn, trong nhiều năm, bây giờ Nhã mới in được tập thơ đầu cho mình. Sau những năm trôi nổi hằn học, chúng tôi mỗi lúc một buồn bã hơn, một độc ác tàn nhẫn hơn: những độc ác, tàn nhẫn từ trong tâm hồn mình, với chính mình. Chúng tôi đã chẳng dấu giếm gì điều đó. Bao nhiêu thần thoại đã bị huỷ thiêu. Trước thực tế, chúng tôi kiêu hãnh làm loài sâu bọ, một kiêu hãnh rất Người. Đọc thơ Nhã trước đó, phải chấp nhận thái độ này, thái độ mà, với chúng tôi thật đau khổ, nhưng chúng tôi không thể làm gì khác. Nhã nói với tôi: Anh có thể viết gì cho tập thơ của Nhã. Tôi đã viết một cách vụn vặt, một vài mẩu ngắn rời rã. Tôi vốn chủ quan. Nghĩ cho cùng chẳng nên viết gì. Nghĩ cho cùng Nhã cũng chẳng nên in thơ. Hoàn cảnh nầy còn viết văn, làm thơ gì nữa… Chẳng qua mình làm cho khuây vậy thôi. Như thế, chắc Nhã không buồn lòng vì những gì tôi viết. Và Kim, chắc em đã hài lòng.
Ghi chú
(1) Nhân vật Kim ở đây từng được DNM nhắc tới trong đoạn văn sau
Kim đã lấy chồng, đã sung sướng ra
sao. Tôi lặng lẽ nhớ về những gì đã có. Trong những người đến với em,
anh là người yêu em hơn hết. Em ngoại tình trong tư tưởng phải không
anh. Tôi mỉm cười. Có điều anh ngu phải không. Kim lặng im. Có lẽ anh
không yêu em như em tưởng. Tôi nói tuỳ em nghĩ. Thời gian đã trôi, đã
trôi, mới đầu tôi tưởng tôi không yêu nhưng cho đến nay tôi rõ tôi yêu
Kim.
Tôi quên không ghi đoạn văn xuất xứ ở đâu, nhưng thấy nó tiêu biểu cho cách hành văn của tác giả nên cũng đã đưa vào trong bài Một ít tài liệu về Dương Nghiễm Mậu ghi từ báo chí Sài Gòn trước 1975 ở blog này ngày 28-11-2012, đường link
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012...
(2) Sau đây là bài thơ của Nhã Ca mà một số mô-típ vừa được DNM nhắc tới
THANH XUÂN
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa dạt dấu chân giày
Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ may
Và lá mùa xanh cũng đỏ dần
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần…
Kỉ niệm sầu như tiếng thở dài
Đêm chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian, lỡ nụ cười…
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ…
Theo Thi ca.Net
Published on September 19, 2016 00:33
September 10, 2016
Nguyễn Huy Thiệp và việc "đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất"
Đọc tập phê bình-tiểu luận Giăng lưới bắt chim của Nguyễn Huy Thiệp .
“Một
người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta”,
Nguyễn Huy Thiệp từng tự nhủ như vậy và đã làm như vậy. Dù rằng cái phần
tự ý thức của tác giả còn nhiều lầm lẫn và nói chung còn là chật hẹp so
với lý luận như nó phải có, song một số bài viết in trong "Giăng lưới
bắt chim" có góp phần thức tỉnh nhiều người: đối với văn học mà chúng ta
tưởng đã quá quen, đã đến lúc cần phải nghĩ khác.
Được bảo đảm từ sáng tác
Trong giới cầm bút Việt Nam thế kỷ 20, ít thấy ai có bước vào nghề kỳ lạ như tác giả Tướng về hưu.
Thoắt cái ông được tôn vinh, rồi thoắt một cái bị nếm những đòn sát thủ
hiểm ác, người yếu bóng vía chắc đã không trụ nổi. Không phải ngẫu
nhiên những bài gọi bằng lý luận hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp ra đời
vào mấy năm 1988 -1992. Tôi ngờ rằng trong những ngày ấy, lý luận đã trở
thành bạn bầu của ông. Nó giúp ông kiểm tra lại sự trong sạch của mình
mà cũng đồng thời là cái neo giúp ông giữ lấy niềm tin để tiếp tục sống
và viết.
Khoảng đầu 2004, khi trong sáng tác có
sự khó khăn, Nguyễn Huy Thiệp lại trở về với lý luận. Loạt bài này cũng
gây ra bao khó chịu. Song khi đưa vào sách, nhà văn chỉ lược bỏ mấy câu
"nặng tay", ngoài ra vẫn kiên trì những ý tưởng chính. Bởi dường như ông
đã lấy cả mười mấy năm cầm bút ra để bảo đảm.
Một sự phá cách
Cho
đến nay, với nhiều bạn đọc và một số đồng nghiệp, sự có mặt của văn
xuôi Nguyễn Huy Thiệp vẫn là một cái gì “khạc không ra nuốt không vào”.
Đọc thì có đọc, trong bụng thậm chí là say mê nữa, nhưng vẫn không muốn
chính thức công nhận. Bởi so với thứ văn họ quen đọc và cái họ vẫn viết
thì Nguyễn Huy Thiệp là cả một sự phá cách. Không đi theo những nền nếp
cũ. Liều lĩnh. Cực đoan. Rất nhiều điều người khác chỉ thì thào nói vụng
nói trộm thì ông nói buột ra, và đã nói là không hối hận.
Nhưng đó cũng chính là nhân tố làm nên chỗ mới của Nguyễn Huy Thiệp, kể cả trong các tiểu luận.
“Trừ
đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ
ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với các dân tộc khác,
phải thừa nhận là kém cỏi” (tr. 33, bản in 2008 Dưới đây các trích dẫn số trang cũng theo lệ này- VTN).
Theo tập quán thông thường, những ý
nghĩ như thế không ai dám viết trên mặt giấy. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã
viết, và nếu như không đồng ý hoàn toàn thì nhiều người đã bắt đầu thấy
sự có lý của nó.
“Văn học (hôm nay - V.T.N. chú)
luôn né tránh một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải
khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảm với chiến
tranh... Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả
năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực
dụng ê chề lọc lõi oái oăm đôi khi đểu cáng” (tr. 272 ).
“Văn học giá
trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội không có những tác phẩm
văn học hay, không có những tác phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở
đấy đang bị xói mòn đang bị mất dần đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở
một người nào mà nó ở toàn xã hội” (tr. 284).
Vượt lên khá xa ngay cả
với những lời chỉ trích nhăng nhít mà đầy ác ý, những nhận xét như thế
làm nhức nhối lòng người và đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh bậc nhất
cho việc xây dựng đời sống tinh thần hiện nay.
Đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất
Không
ít nhà văn ở ta tự coi mình là những đấng siêu phàm, là lương tâm của
đất nước và trong những ngày tháng này đang lao động cật lực để phục vụ
xã hội giáo hoá nhân dân! Tác giả Tướng về hưu đưa ra cách hiểu thực tế hơn. Những khi bàn về người làm nghề, những chữ xuất hiện dưới ngòi bút ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương
- toàn những “đức tính” khiến người ta ghê ghê.
Một lần khác ông nói
toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây trở lại đây ở Việt Nam không
có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng
không phải là nỗi buồn lớn” (nếu lấy lại bản in trên báo thì người ta
nhớ là ông còn nói đến tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm
hấp, quá khích, vớ vẩn…).
Nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm
sao mà người ta có thể nói được sự thật về xã hội trong khi sự thật về
chính cái giới của mình thì lảng tránh?” sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.
Không phải vì chán nản trước tình trạng bê bết
của nhiều đồng nghiệp mà ở nhà văn này mất đi niềm tin thiêng liêng vào
sứ mệnh ngòi bút. “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn
nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy. Nó là
con vật nhạy cảm hết sức đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn.
Nó viết không phải vì nó, nó viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi
ích công cộng, một lợi ích văn hoá”. Cái tha thiết muốn vượt lên trên
chính mình thường trực ở tác giả Tướng về hưu đã là yếu tố cứu vãn lại tất cả.
Chỗ giống người của kẻ khác người
Đôi khi Nguyễn Huy Thiệp cũng viết phê bình. Có những bài như Hiện tượng Vi Thuỳ Linh,
ở đó ông cắt nghĩa được hiện tượng thơ trẻ hiện nay trên cơ sở một nét
tâm lý xã hội đang phổ biến. Ngoài ra, nó còn cho thấy ông xa lạ với một
thái độ mị dân, lấy tuổi trẻ ra để doạ người khác.
Tuy nhiên, nếu trong
khi nhìn chung nghề văn, vượt lên trên mớ kiến thức chắp vá, Nguyễn Huy
Thiệp vẫn đàng hoàng sáng suốt thì, khi viết về từng đồng nghiệp, trong
phần lớn trường hợp, ông tỏ ra khá tầm thường và tuỳ tiện.Viết như đang
lè nhè giữa một đám chén chú chén anh nào đó. Viết để lấy lòng mọi
người. Viết để trả nợ. Viết để ra vẻ bề trên, ban phát cho các đàn em...
Hình như ông quên mất mình là một nhà văn đang được trông đợi và có vai trò mở đường cho cả giới.
Với một tâm lý
làng xã đã ăn vào tận xương tuỷ, nhà văn mình thường chỉ có những mối
quan hệ chật hẹp và dễ sống theo lối kéo bè kéo cánh với nhau. Cái điều
Nguyễn Huy Thiệp đã cảm thấy chán mọi người thì chính ông không thoát ra
nổi. Ở đây không thể nói là đáng tiếc mà là đáng sợ, vì sức mạnh của
hoàn cảnh đã khống chế không trừ một ai, kể cả những người tài năng nhất và thông minh
nhất.
Đặt mình vào dòng chảy thời đại
Đọc Giăng lưới bắt chim,
trước tiên tôi nhớ Nguyễn Công Hoan với cách nghĩ thực dụng và những
nhận xét kiểu “trong giới không thiếu những người cầm bút nửa đời nửa
đoạn” hoặc “có một dạo, người ta sợ những người là nghề cầm bút như sợ…
hủi” (Xem Đời viết văn của tôi).
Tôi cũng nhớ tới Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu hồi các ông còn trẻ và đầy khao khát về nghề. Đủ
điều sâu sắc từng đươc các ông nghĩ và nói ở chỗ riêng tư, tuy chỉ nói
đâu để đấy, nói xong nhiều khi lại dặn bọn tôi là đừng có bép xép.
Với
Nguyễn Huy Thiệp, từ nay sự phân thân (hoặc nói nôm na là tính hai mặt)
không còn là định mệnh cho nghề văn ở Việt Nam, như một số người thường
tự biện hộ.
Nhưng đọc Giăng lưới bắt chim tôi còn nhớ tới nhà văn Trung Quốc Vương Sóc. Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê (đã dịch ra tiếng Việt) tổng hợp bao nhiêu vấn đề. Tác giả chê văn học Trung quốc đương thời,
ngán văn chương đại chúng. Và ông lật tẩy cả những tượng đài của văn
chương hiện đại, bảo họ là giả dối vụ lợi. Ở Trung Quốc Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
đã gây ra tranh cãi. Còn ở Việt Nam, người ta lặng lẽ đọc nó với bao
thích thú, vừa sung sướng được gặp các ý tưởng mình thường nghĩ, vừa
không sợ tội vạ gì.
Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp cần
cho chúng ta một phần là ở chỗ đó: ông nối nghề văn ở ta với nghề văn ở
cả các xứ sở khác. Trong khi mang nặng cốt cách bản địa, các sáng tác
cũng như tiểu luận phê bình của ông đã là một bằng chứng để những ai vốn
ngần ngại trước con đường hội nhập có thể yên tâm. Bởi chỉ cần trung
thực với chính mình, thì thế giới chẳng xa lạ với ta mà ta cũng chẳng xa
lạ với ai cả.
Nguyên là bài Giăng lưới bắt ... lý luận
đã đưa trên blog này lần đầu ngày 26-8-2008
và lần thứ hai 6-11-2015. Có sửa lại một hai ý nhỏ
“Một
người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta”,
Nguyễn Huy Thiệp từng tự nhủ như vậy và đã làm như vậy. Dù rằng cái phần
tự ý thức của tác giả còn nhiều lầm lẫn và nói chung còn là chật hẹp so
với lý luận như nó phải có, song một số bài viết in trong "Giăng lưới
bắt chim" có góp phần thức tỉnh nhiều người: đối với văn học mà chúng ta
tưởng đã quá quen, đã đến lúc cần phải nghĩ khác.
Được bảo đảm từ sáng tác
Trong giới cầm bút Việt Nam thế kỷ 20, ít thấy ai có bước vào nghề kỳ lạ như tác giả Tướng về hưu.
Thoắt cái ông được tôn vinh, rồi thoắt một cái bị nếm những đòn sát thủ
hiểm ác, người yếu bóng vía chắc đã không trụ nổi. Không phải ngẫu
nhiên những bài gọi bằng lý luận hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp ra đời
vào mấy năm 1988 -1992. Tôi ngờ rằng trong những ngày ấy, lý luận đã trở
thành bạn bầu của ông. Nó giúp ông kiểm tra lại sự trong sạch của mình
mà cũng đồng thời là cái neo giúp ông giữ lấy niềm tin để tiếp tục sống
và viết.
Khoảng đầu 2004, khi trong sáng tác có
sự khó khăn, Nguyễn Huy Thiệp lại trở về với lý luận. Loạt bài này cũng
gây ra bao khó chịu. Song khi đưa vào sách, nhà văn chỉ lược bỏ mấy câu
"nặng tay", ngoài ra vẫn kiên trì những ý tưởng chính. Bởi dường như ông
đã lấy cả mười mấy năm cầm bút ra để bảo đảm.
Một sự phá cách
Cho
đến nay, với nhiều bạn đọc và một số đồng nghiệp, sự có mặt của văn
xuôi Nguyễn Huy Thiệp vẫn là một cái gì “khạc không ra nuốt không vào”.
Đọc thì có đọc, trong bụng thậm chí là say mê nữa, nhưng vẫn không muốn
chính thức công nhận. Bởi so với thứ văn họ quen đọc và cái họ vẫn viết
thì Nguyễn Huy Thiệp là cả một sự phá cách. Không đi theo những nền nếp
cũ. Liều lĩnh. Cực đoan. Rất nhiều điều người khác chỉ thì thào nói vụng
nói trộm thì ông nói buột ra, và đã nói là không hối hận.
Nhưng đó cũng chính là nhân tố làm nên chỗ mới của Nguyễn Huy Thiệp, kể cả trong các tiểu luận.
“Trừ
đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ
ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với các dân tộc khác,
phải thừa nhận là kém cỏi” (tr. 33, bản in 2008 Dưới đây các trích dẫn số trang cũng theo lệ này- VTN).
Theo tập quán thông thường, những ý
nghĩ như thế không ai dám viết trên mặt giấy. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã
viết, và nếu như không đồng ý hoàn toàn thì nhiều người đã bắt đầu thấy
sự có lý của nó.
“Văn học (hôm nay - V.T.N. chú)
luôn né tránh một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải
khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảm với chiến
tranh... Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả
năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực
dụng ê chề lọc lõi oái oăm đôi khi đểu cáng” (tr. 272 ).
“Văn học giá
trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội không có những tác phẩm
văn học hay, không có những tác phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở
đấy đang bị xói mòn đang bị mất dần đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở
một người nào mà nó ở toàn xã hội” (tr. 284).
Vượt lên khá xa ngay cả
với những lời chỉ trích nhăng nhít mà đầy ác ý, những nhận xét như thế
làm nhức nhối lòng người và đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh bậc nhất
cho việc xây dựng đời sống tinh thần hiện nay.
Đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất
Không
ít nhà văn ở ta tự coi mình là những đấng siêu phàm, là lương tâm của
đất nước và trong những ngày tháng này đang lao động cật lực để phục vụ
xã hội giáo hoá nhân dân! Tác giả Tướng về hưu đưa ra cách hiểu thực tế hơn. Những khi bàn về người làm nghề, những chữ xuất hiện dưới ngòi bút ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương
- toàn những “đức tính” khiến người ta ghê ghê.
Một lần khác ông nói
toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây trở lại đây ở Việt Nam không
có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng
không phải là nỗi buồn lớn” (nếu lấy lại bản in trên báo thì người ta
nhớ là ông còn nói đến tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm
hấp, quá khích, vớ vẩn…).
Nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm
sao mà người ta có thể nói được sự thật về xã hội trong khi sự thật về
chính cái giới của mình thì lảng tránh?” sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.
Không phải vì chán nản trước tình trạng bê bết
của nhiều đồng nghiệp mà ở nhà văn này mất đi niềm tin thiêng liêng vào
sứ mệnh ngòi bút. “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn
nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy. Nó là
con vật nhạy cảm hết sức đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn.
Nó viết không phải vì nó, nó viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi
ích công cộng, một lợi ích văn hoá”. Cái tha thiết muốn vượt lên trên
chính mình thường trực ở tác giả Tướng về hưu đã là yếu tố cứu vãn lại tất cả.
Chỗ giống người của kẻ khác người
Đôi khi Nguyễn Huy Thiệp cũng viết phê bình. Có những bài như Hiện tượng Vi Thuỳ Linh,
ở đó ông cắt nghĩa được hiện tượng thơ trẻ hiện nay trên cơ sở một nét
tâm lý xã hội đang phổ biến. Ngoài ra, nó còn cho thấy ông xa lạ với một
thái độ mị dân, lấy tuổi trẻ ra để doạ người khác.
Tuy nhiên, nếu trong
khi nhìn chung nghề văn, vượt lên trên mớ kiến thức chắp vá, Nguyễn Huy
Thiệp vẫn đàng hoàng sáng suốt thì, khi viết về từng đồng nghiệp, trong
phần lớn trường hợp, ông tỏ ra khá tầm thường và tuỳ tiện.Viết như đang
lè nhè giữa một đám chén chú chén anh nào đó. Viết để lấy lòng mọi
người. Viết để trả nợ. Viết để ra vẻ bề trên, ban phát cho các đàn em...
Hình như ông quên mất mình là một nhà văn đang được trông đợi và có vai trò mở đường cho cả giới.
Với một tâm lý
làng xã đã ăn vào tận xương tuỷ, nhà văn mình thường chỉ có những mối
quan hệ chật hẹp và dễ sống theo lối kéo bè kéo cánh với nhau. Cái điều
Nguyễn Huy Thiệp đã cảm thấy chán mọi người thì chính ông không thoát ra
nổi. Ở đây không thể nói là đáng tiếc mà là đáng sợ, vì sức mạnh của
hoàn cảnh đã khống chế không trừ một ai, kể cả những người tài năng nhất và thông minh
nhất.
Đặt mình vào dòng chảy thời đại
Đọc Giăng lưới bắt chim,
trước tiên tôi nhớ Nguyễn Công Hoan với cách nghĩ thực dụng và những
nhận xét kiểu “trong giới không thiếu những người cầm bút nửa đời nửa
đoạn” hoặc “có một dạo, người ta sợ những người là nghề cầm bút như sợ…
hủi” (Xem Đời viết văn của tôi).
Tôi cũng nhớ tới Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu hồi các ông còn trẻ và đầy khao khát về nghề. Đủ
điều sâu sắc từng đươc các ông nghĩ và nói ở chỗ riêng tư, tuy chỉ nói
đâu để đấy, nói xong nhiều khi lại dặn bọn tôi là đừng có bép xép.
Với
Nguyễn Huy Thiệp, từ nay sự phân thân (hoặc nói nôm na là tính hai mặt)
không còn là định mệnh cho nghề văn ở Việt Nam, như một số người thường
tự biện hộ.
Nhưng đọc Giăng lưới bắt chim tôi còn nhớ tới nhà văn Trung Quốc Vương Sóc. Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê (đã dịch ra tiếng Việt) tổng hợp bao nhiêu vấn đề. Tác giả chê văn học Trung quốc đương thời,
ngán văn chương đại chúng. Và ông lật tẩy cả những tượng đài của văn
chương hiện đại, bảo họ là giả dối vụ lợi. Ở Trung Quốc Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
đã gây ra tranh cãi. Còn ở Việt Nam, người ta lặng lẽ đọc nó với bao
thích thú, vừa sung sướng được gặp các ý tưởng mình thường nghĩ, vừa
không sợ tội vạ gì.
Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp cần
cho chúng ta một phần là ở chỗ đó: ông nối nghề văn ở ta với nghề văn ở
cả các xứ sở khác. Trong khi mang nặng cốt cách bản địa, các sáng tác
cũng như tiểu luận phê bình của ông đã là một bằng chứng để những ai vốn
ngần ngại trước con đường hội nhập có thể yên tâm. Bởi chỉ cần trung
thực với chính mình, thì thế giới chẳng xa lạ với ta mà ta cũng chẳng xa
lạ với ai cả.
Nguyên là bài Giăng lưới bắt ... lý luận
đã đưa trên blog này lần đầu ngày 26-8-2008
và lần thứ hai 6-11-2015. Có sửa lại một hai ý nhỏ
Published on September 10, 2016 19:19
September 6, 2016
Thử tìm cách lý giải tình hình sử học hiện thời
LỜI DẪN
Trên FB hôm nay 6-9-2015 tôi vừa có bài viết ngắn có liên quan tới sử học và lịch sử. Nhân tình hình nhức nhối trong giới quan chức, tôi đặt vấn đề phải trở lại với lịch sử VN để hiểu mọi chuyện xảy ra trước mắt.
Tôi cũng giới thiệu lại một bài viết cũ mang tên Tất cả đã có trong lịch sử , bài này đã được đưa vào tập sách Những chấn thương tâm lý hiện đại mới in lại 2016.
Nhưng trên blog này của mình bài Tất cả đã có trong lịch sử đã được gỡ ra và hòa chung vào một bài dài mang tên
Đi tìm một hướng nghĩ về sử Việt Nam. http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/08/i-tim-mot-huong-nghi-ve-su-viet-nam.html
Nhân vì bài viết dài này đưa trên blog từ chín năm trước, 6-8-2009, nay tôi mạn phép in lại và đổi tên cho hợp lý hơn, tất cả để mong có thêm có bạn đọc chia sẻ.
Mấy năm nay ở ta có hiện tượng điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào khác mới chịu thi vào sử.
Tại sao như vậy? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là các giáo viên chúng ta không biết dạy. Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu lặp đi lặp lại. Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật thật "xịn" ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử, theo tôi có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Các bài sử được giảng khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế. Chuyên ngày xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần gũi.
Thế thì ai mà thích được?
Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà không một đầu óc nào tưởng tượng nổi. Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến, lý giải.
Cái hồn này của sử ở ta không có. Ngược lại, người viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ, lịch sử đã chưng cất, phục vụ cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu.
Thí dụ nói đến nhà Trần đánh quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng vậy, mà lên đại học cũng vậy. Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước lúc ấy quan hệ với nhau ra sao, suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động, có những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng, thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần biết.
Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông, đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt : nào “có áp bức có đấu tranh “, nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh".
Khi cảm thấy không được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến thức mà vẫn buộc phải học, người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ,làm sao gọi là sử được?
Một số chi tiết thường bị bỏ qua
Xu thế của con người là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm thấy sự hấp dẫn của Sử khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm nay, thấy ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử bởi tôi thấy các vấn đề xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc sống hàng ngày tôi đang sống.
Một lần đọc Hà Văn Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu tuyệt vời của nhà triết học B. Russel,“ đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339),thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm và rất yêu nướ nữa! Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón ma lôi về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đọc.
Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thấy có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn.
Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ?”.
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê Thánh Tôn), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan, hối lộ bừa bãi”.
Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi: “Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không ?”.
Chống tham nhũng đang là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch sử các triều đình xưa đầy rẫy chuyện tham nhũng, đến nỗi cảm thấy tham nhũng là cả một truyền thống "lớn" của quan chức Việt, phi tham nhũng bất thành quan lại. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có tham nhũng rồi. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số ra đầu 2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của vấn đề y như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi nền thống trị yếu quá và muốn lợi dụng khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn buôn bán để học hỏi gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người làm ngoại thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều.Các quan chức nghề này thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ.
Đọc lại tự nhiên thấy cảm ơn các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.
Quan niệm về sử của chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn đăng ở Talawas cuối 2007, có lá thư của Trần Văn Tích, thống kê số sách vở mất mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh.
Đoạn văn có một chi tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu:
Khi đưa ra con số này trong Việt nam sử lược, cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung quốc mà quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng đã đốt rất nhiều sách.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết thế.
Chi tiết này gợi cho tôi mấy ý nghĩ:
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim Đào Duy Anh cũng có lối viết "đổ cả những kém cỏi trong sự phát triển của xã hội Việt Nam cho người nước ngoài".
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá quan liêu, tức là bằng lòng với những huyền thoại. Chẳng hạn khi nghiên cứu về sử thời giặc Minh ai cũng chỉ nghĩ tới công thức bắt dân ta lên rừng tìm thú quý, xuống biển mò ngọc châu.Thí dụ mà Trần Văn Tích nêu ở trên giúp chúng ta giải huyền thoại này, và chợt nhận ra bao công việc phải suy nghĩ ngược lại thói quen.
Một trường hợp tỉnh ngộ khác.
Khi nói về sách vở, người mình chỉ nghĩ đến văn thơ, tính chung trong số người liệt vào loại danh nhân đất nước, cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục phần trăm. Trong khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn, thấy trong độ một trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%.
Học thuật ở ta không được chú ý đúng mức. Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm, mà không để ý tới sự nghĩ.
Chúng ta nhìn về quá khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới được gọi tên nhiều hơn là được nhận thức. Con người VN các thời đại trước đây sống ra làm sao, đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành ra làm sao? Các sứ thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn nước ngoài đến VN ra làm sao?
Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài, và nhiều khi là chưa được ai đề cập tới.
Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tôi bắt đầu chú ý tới sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm nay.
Càng đọc lại sử, tôi càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý như Đại Việt sử ký toàn thư, như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục. Thế mà mang danh là những người cầm bút mấy ai đã đọc những bộ sử đó.
Lại càng lấy làm xấu hổ là thời ta hôm nay chưa có cái Sử đó. Trên sách sử hôm nay thường chỉ có những bức tranh chung chung được đưa ra, chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người đương thời.
Một trình độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa khiến "không ai muốn dạy sử, không ai muốn học sử" phải tìm ở khoa sử học hiện thời. Trước tiên là quan niệm của các nhà khoa học ngành này về đối tượng cần nghiên cứu.
Chúng ta chỉ nhìn quá khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc lại. Cái gì có vẻ như không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực dụng sát mặt đất.
Thế thì làm sao có Sử được? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng chúng ta không nghiêm túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa.
May lắm thì trong sử chúng ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính trị xã hội. Trong khi đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương nhân, lịch sử trang phục...Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới thời Hitler. Cách hiểu về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm phim về Lý Công Uẩn, tôi ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu. Cung điện thời đó ra sao? thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra sao? Tiếng Việt thời ấy ra sao? Không ai biết. Gần đây nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê ngựa về quay và ông Dương Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử dụng ngựa nhiều. Từ đây mà suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra trong phim, ai còn tin được điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các kho lưu trữ lại không mở ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ như hồi ký thư từ, không được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của giả. Nói chung, chúng ta coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không đặt vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong các công thức cũ là với nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch sử nào ra hồn là chuyện đương nhiên.
Ngay khối lượng thuần túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu. Ở nước ngoài, từng triều đại từng giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có được vài ba quyển, lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế là người nước ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Một lý do làm nên sự thua kém của các nhà sử học bản địa: Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử VN ở ta tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh... không biết; cả sách vở cũ lẫn sách vở mới của Tây của Tầu đều không được tiếp xúc. Kể cả một số thầy đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ ra viết lại. Các lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ thông, còn được cái gì?!
Nhận thức về quá khứ vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay tức là chúng ta tước bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ. Khi không chịu nổi thì họ quay lưng lại với sử có gì là lạ!
Trên FB hôm nay 6-9-2015 tôi vừa có bài viết ngắn có liên quan tới sử học và lịch sử. Nhân tình hình nhức nhối trong giới quan chức, tôi đặt vấn đề phải trở lại với lịch sử VN để hiểu mọi chuyện xảy ra trước mắt.
Tôi cũng giới thiệu lại một bài viết cũ mang tên Tất cả đã có trong lịch sử , bài này đã được đưa vào tập sách Những chấn thương tâm lý hiện đại mới in lại 2016.
Nhưng trên blog này của mình bài Tất cả đã có trong lịch sử đã được gỡ ra và hòa chung vào một bài dài mang tên
Đi tìm một hướng nghĩ về sử Việt Nam. http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/08/i-tim-mot-huong-nghi-ve-su-viet-nam.html
Nhân vì bài viết dài này đưa trên blog từ chín năm trước, 6-8-2009, nay tôi mạn phép in lại và đổi tên cho hợp lý hơn, tất cả để mong có thêm có bạn đọc chia sẻ.
Mấy năm nay ở ta có hiện tượng điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào khác mới chịu thi vào sử.
Tại sao như vậy? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là các giáo viên chúng ta không biết dạy. Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu lặp đi lặp lại. Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật thật "xịn" ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử, theo tôi có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Các bài sử được giảng khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế. Chuyên ngày xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần gũi.
Thế thì ai mà thích được?
Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà không một đầu óc nào tưởng tượng nổi. Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến, lý giải.
Cái hồn này của sử ở ta không có. Ngược lại, người viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ, lịch sử đã chưng cất, phục vụ cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu.
Thí dụ nói đến nhà Trần đánh quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng vậy, mà lên đại học cũng vậy. Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước lúc ấy quan hệ với nhau ra sao, suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động, có những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng, thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần biết.
Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông, đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt : nào “có áp bức có đấu tranh “, nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh".
Khi cảm thấy không được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến thức mà vẫn buộc phải học, người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ,làm sao gọi là sử được?
Một số chi tiết thường bị bỏ qua
Xu thế của con người là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm thấy sự hấp dẫn của Sử khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm nay, thấy ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử bởi tôi thấy các vấn đề xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc sống hàng ngày tôi đang sống.
Một lần đọc Hà Văn Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu tuyệt vời của nhà triết học B. Russel,“ đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339),thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm và rất yêu nướ nữa! Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón ma lôi về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đọc.
Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thấy có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn.
Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ?”.
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê Thánh Tôn), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan, hối lộ bừa bãi”.
Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi: “Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không ?”.
Chống tham nhũng đang là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch sử các triều đình xưa đầy rẫy chuyện tham nhũng, đến nỗi cảm thấy tham nhũng là cả một truyền thống "lớn" của quan chức Việt, phi tham nhũng bất thành quan lại. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có tham nhũng rồi. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số ra đầu 2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của vấn đề y như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi nền thống trị yếu quá và muốn lợi dụng khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn buôn bán để học hỏi gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người làm ngoại thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều.Các quan chức nghề này thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ.
Đọc lại tự nhiên thấy cảm ơn các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.
Quan niệm về sử của chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn đăng ở Talawas cuối 2007, có lá thư của Trần Văn Tích, thống kê số sách vở mất mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh.
Đoạn văn có một chi tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu:
Khi đưa ra con số này trong Việt nam sử lược, cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung quốc mà quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng đã đốt rất nhiều sách.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết thế.
Chi tiết này gợi cho tôi mấy ý nghĩ:
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim Đào Duy Anh cũng có lối viết "đổ cả những kém cỏi trong sự phát triển của xã hội Việt Nam cho người nước ngoài".
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá quan liêu, tức là bằng lòng với những huyền thoại. Chẳng hạn khi nghiên cứu về sử thời giặc Minh ai cũng chỉ nghĩ tới công thức bắt dân ta lên rừng tìm thú quý, xuống biển mò ngọc châu.Thí dụ mà Trần Văn Tích nêu ở trên giúp chúng ta giải huyền thoại này, và chợt nhận ra bao công việc phải suy nghĩ ngược lại thói quen.
Một trường hợp tỉnh ngộ khác.
Khi nói về sách vở, người mình chỉ nghĩ đến văn thơ, tính chung trong số người liệt vào loại danh nhân đất nước, cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục phần trăm. Trong khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn, thấy trong độ một trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%.
Học thuật ở ta không được chú ý đúng mức. Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm, mà không để ý tới sự nghĩ.
Chúng ta nhìn về quá khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới được gọi tên nhiều hơn là được nhận thức. Con người VN các thời đại trước đây sống ra làm sao, đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành ra làm sao? Các sứ thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn nước ngoài đến VN ra làm sao?
Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài, và nhiều khi là chưa được ai đề cập tới.
Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tôi bắt đầu chú ý tới sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm nay.
Càng đọc lại sử, tôi càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý như Đại Việt sử ký toàn thư, như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục. Thế mà mang danh là những người cầm bút mấy ai đã đọc những bộ sử đó.
Lại càng lấy làm xấu hổ là thời ta hôm nay chưa có cái Sử đó. Trên sách sử hôm nay thường chỉ có những bức tranh chung chung được đưa ra, chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người đương thời.
Một trình độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa khiến "không ai muốn dạy sử, không ai muốn học sử" phải tìm ở khoa sử học hiện thời. Trước tiên là quan niệm của các nhà khoa học ngành này về đối tượng cần nghiên cứu.
Chúng ta chỉ nhìn quá khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc lại. Cái gì có vẻ như không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực dụng sát mặt đất.
Thế thì làm sao có Sử được? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng chúng ta không nghiêm túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa.
May lắm thì trong sử chúng ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính trị xã hội. Trong khi đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương nhân, lịch sử trang phục...Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới thời Hitler. Cách hiểu về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm phim về Lý Công Uẩn, tôi ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu. Cung điện thời đó ra sao? thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra sao? Tiếng Việt thời ấy ra sao? Không ai biết. Gần đây nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê ngựa về quay và ông Dương Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử dụng ngựa nhiều. Từ đây mà suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra trong phim, ai còn tin được điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các kho lưu trữ lại không mở ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ như hồi ký thư từ, không được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của giả. Nói chung, chúng ta coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không đặt vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong các công thức cũ là với nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch sử nào ra hồn là chuyện đương nhiên.
Ngay khối lượng thuần túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu. Ở nước ngoài, từng triều đại từng giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có được vài ba quyển, lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế là người nước ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Một lý do làm nên sự thua kém của các nhà sử học bản địa: Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử VN ở ta tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh... không biết; cả sách vở cũ lẫn sách vở mới của Tây của Tầu đều không được tiếp xúc. Kể cả một số thầy đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ ra viết lại. Các lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ thông, còn được cái gì?!
Nhận thức về quá khứ vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay tức là chúng ta tước bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ. Khi không chịu nổi thì họ quay lưng lại với sử có gì là lạ!
Published on September 06, 2016 20:29
September 5, 2016
Thử tìm cách lý giải tình hình sử học hiện thời
LỜI DẪN
Trên FB hôm nay 6-9-2015 tôi vừa có bài viết ngắn có
liên quan tới sử học và lịch sử. Nhân tình hình nhức nhối trong giới quan chức,
tôi đặt vấn đề phải trở lại với lịch sử VN để hiểu mọi chuyện xảy ra trước mắt.
Tôi cũng giới thiệu lại một bài viết cũ mang tên Tất cả đã có trong lịch sử , bài này đã được đưa vào tập sách Những chấn thương tâm lý hiện đại mới
in lại 2016.
Nhưng trên blog này của mình bài Tất cả đã có trong lịch sử đã được gỡ ra và hòa chung
vào một bài dài mang tên
Đi tìm một hướng
nghĩ về sử Việt Nam. http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009...
Nhân vì bài viết dài này đưa trên blog từ chín năm trước, 6-8-2009, nay tôi mạn phép in lại và đổi tên cho hợp lý hơn, tất cả để mong có thêm có bạn đọc chia sẻ.
Mấy năm nay ở ta có hiện tượng
điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và
nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất
đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào khác mới chịu
thi vào sử.
Tại
sao như vậy ? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là các giáo viên
chúng ta không biết dạy. Có người dám
viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu lặp đi
lặp lại. Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn
của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật
thật "xịn" ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học
sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu
chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử, theo tôi có nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Các bài sử được giảng khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế. Chuyên ngày
xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu
vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần
gũi.
Thế thì ai mà thích được ?
Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người
học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà
không một đầu óc nào tưởng tượng nổi. Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến,
lý giải.
Cái hồn này của sử ở ta không có. Ngược lại, người
viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ, lịch sử đã chưng cất, phục vụ
cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu.
Thí dụ nói đến nhà Trần đánh
quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói
đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng
vậy, mà lên đại học cũng vậy. Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước
lúc ấy quan hệ với nhau ra sao, suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động, có
những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng, thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần
biết.
Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông, đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui
đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt
: nào “có áp bức có đấu tranh “,
nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh".
Khi cảm thấy không được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến
thức mà vẫn buộc phải học, người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống
con người trong quá khứ,làm sao gọi là sử được ?
Một số chi tiết thường bị bỏ qua
Xu thế của con người là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm
thấy sự hấp dẫn của Sử khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm
nay, thấy ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử
bởi tôi thấy các vấn đề xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc
sống hàng ngày tôi đang sống.
Một lần đọc Hà văn Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu tuyệt vời của nhà triết học
B. Russel,“ đọc sử để
biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn
những ngu xuẩn của hiện tại “
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339),thường được biết tới như một
trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng
rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng
còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón
kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân
biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm và rất yêu nướ nữa! Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua
sẵn nón ma lôi về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được
một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử
lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú ra đọc.
Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thấy
có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn.
Có lần người dân đã kiện Trần
Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt,
dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ?”.
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra
nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa
Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê
Thánh Tôn), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm
quan, hối lộ bừa bãi”.
Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí
của Phan Huy Chú ghi: “Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều
trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể
được không ?”.
Chống tham nhũng đang là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch
sử các triều đình xưa đầy rẫy chuyện tham nhũng, đến nỗi cảm thấy tham nhũng là cả một truyền thống "lớn" của quan chức Việt, phi tham nhũng bất thành quan lại. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có
tham nhũng rồi. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan
chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác
ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ
trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
số ra đầu 2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của
vấn đề y như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi nền thống trị yếu quá và muốn
lợi dụng khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn
buôn bán để học hỏi gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người
làm ngoại thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều.Các quan chức nghề
này thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ.
Đọc lại tự nhiên thấy
cảm ơn các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.
Quan niệm
về sử của chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn đăng ở Talawas cuối 2007, có lá thư của Trần Văn Tích,
thống kê số sách vở mất mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh.
Đoạn văn có một chi tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu:
Khi đưa ra con số này
trong Việt nam sử lược, cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung
quốc mà quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng
đã đốt rất nhiều sách.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã
viết thế.
Chi tiết này gợi cho tôi mấy ý nghĩ:
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim
Đào Duy Anh cũng có lối viết "đổ cả những kém cỏi trong sự phát triển của xã hội
Việt Nam cho người nước ngoài".
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá quan liêu, tức là bằng lòng với những
huyền thoại. Chẳng hạn khi nghiên cứu về sử
thời giặc Minh ai cũng chỉ nghĩ tới công thức bắt dân ta lên rừng tìm thú quý,
xuống biển mò ngọc châu.Thí dụ mà Trần Văn Tích nêu ở trên giúp chúng ta giải huyền
thoại này, và chợt nhận ra bao công việc phải suy nghĩ ngược lại thói quen.
Một trường hợp tỉnh ngộ khác.
Khi nói về sách vở, người mình chỉ nghĩ đến văn thơ, tính chung trong số người
liệt vào loại danh nhân đất nước, cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục
phần trăm. Trong khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn,
thấy trong độ một trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%.
Học thuật ở ta không được chú ý đúng mức. Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm, mà không để ý tới sự nghĩ.
Chúng ta nhìn về quá khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới
được gọi tên nhiều hơn là được nhận thức. Con người VN các thời đại trước đây
sống ra làm sao, đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành
ra làm sao? Các sứ thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn
nước ngoài đến VN ra làm sao?
Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài, và nhiều
khi là chưa được ai đề cập tới.
Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời
xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện
tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng
xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tôi bắt đầu chú ý tới sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm
nay.
Càng đọc lại sử, tôi càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý
như Đại Việt sử ký toàn thư, như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục. Thế mà mang danh là những
người cầm bút mấy ai đã đọc những bộ sử đó.
Lại càng lấy làm xấu hổ là thời ta hôm nay chưa có cái Sử đó. Trên sách sử hôm nay thường chỉ có những bức tranh chung
chung được đưa ra, chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người
đương thời.
Một trình
độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa
khiến "không ai muốn dạy sử, không ai muốn học sử" phải tìm ở khoa sử học hiện thời. Trước tiên là quan niệm của các nhà khoa học ngành này về đối tượng cần nghiên cứu.
Chúng ta chỉ nhìn quá khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc
lại. Cái gì có vẻ như không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực
dụng sát mặt đất.
Thế thì làm sao có Sử được? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng
chúng ta không nghiêm túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa.
May
lắm thì trong sử chúng ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính
trị xã hội. Trong khi đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương
nhân, lịch sử trang phục...Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới
thời Hitler. Cách hiểu về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm
phim về Lý Công Uẩn, tôi ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu.
Cung điện thời đó ra sao? thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra
sao? Tiếng Việt thời ấy ra sao? Không ai biết. Gần đây nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê
ngựa về quay và ông Dương Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử
dụng ngựa nhiều. Từ đây mà suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra
trong phim, ai còn tin được điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các
kho lưu trữ lại không mở ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ
như hồi ký thư từ, không được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của
giả. Nói chung, chúng ta coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không
đặt vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong
các công thức cũ là với nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch
sử nào ra hồn là chuyện đương nhiên.
Ngay khối lượng thuần túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu. Ở nước ngoài,
từng triều đại từng giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có
được vài ba quyển, lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế
là người nước ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Một lý do làm nên sự thua kém của các nhà sử học bản địa: Nhiều nhà
nghiên cứu lịch sử VN ở ta tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh... không biết; cả sách vở cũ lẫn sách vở mới của Tây của Tầu đều không được tiếp xúc.
Kể cả một số thầy đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ
ra viết lại. Các lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ
thông, còn được cái gì?!
Nhận thức về quá khứ vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay
tức là chúng ta tước bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ. Khi không chịu nổi thì họ quay lưng lại với sử có gì là lạ!
Trên FB hôm nay 6-9-2015 tôi vừa có bài viết ngắn có
liên quan tới sử học và lịch sử. Nhân tình hình nhức nhối trong giới quan chức,
tôi đặt vấn đề phải trở lại với lịch sử VN để hiểu mọi chuyện xảy ra trước mắt.
Tôi cũng giới thiệu lại một bài viết cũ mang tên Tất cả đã có trong lịch sử , bài này đã được đưa vào tập sách Những chấn thương tâm lý hiện đại mới
in lại 2016.
Nhưng trên blog này của mình bài Tất cả đã có trong lịch sử đã được gỡ ra và hòa chung
vào một bài dài mang tên
Đi tìm một hướng
nghĩ về sử Việt Nam. http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009...
Nhân vì bài viết dài này đưa trên blog từ chín năm trước, 6-8-2009, nay tôi mạn phép in lại và đổi tên cho hợp lý hơn, tất cả để mong có thêm có bạn đọc chia sẻ.
Mấy năm nay ở ta có hiện tượng
điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và
nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất
đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào khác mới chịu
thi vào sử.
Tại
sao như vậy ? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là các giáo viên
chúng ta không biết dạy. Có người dám
viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu lặp đi
lặp lại. Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn
của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật
thật "xịn" ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học
sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu
chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử, theo tôi có nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Các bài sử được giảng khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế. Chuyên ngày
xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu
vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần
gũi.
Thế thì ai mà thích được ?
Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người
học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà
không một đầu óc nào tưởng tượng nổi. Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến,
lý giải.
Cái hồn này của sử ở ta không có. Ngược lại, người
viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ, lịch sử đã chưng cất, phục vụ
cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu.
Thí dụ nói đến nhà Trần đánh
quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói
đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng
vậy, mà lên đại học cũng vậy. Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước
lúc ấy quan hệ với nhau ra sao, suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động, có
những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng, thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần
biết.
Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông, đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui
đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt
: nào “có áp bức có đấu tranh “,
nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh".
Khi cảm thấy không được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến
thức mà vẫn buộc phải học, người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống
con người trong quá khứ,làm sao gọi là sử được ?
Một số chi tiết thường bị bỏ qua
Xu thế của con người là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm
thấy sự hấp dẫn của Sử khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm
nay, thấy ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử
bởi tôi thấy các vấn đề xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc
sống hàng ngày tôi đang sống.
Một lần đọc Hà văn Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu tuyệt vời của nhà triết học
B. Russel,“ đọc sử để
biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn
những ngu xuẩn của hiện tại “
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339),thường được biết tới như một
trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng
rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng
còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón
kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân
biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm và rất yêu nướ nữa! Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua
sẵn nón ma lôi về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được
một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử
lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú ra đọc.
Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thấy
có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn.
Có lần người dân đã kiện Trần
Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt,
dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ?”.
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra
nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa
Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê
Thánh Tôn), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm
quan, hối lộ bừa bãi”.
Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí
của Phan Huy Chú ghi: “Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều
trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể
được không ?”.
Chống tham nhũng đang là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch
sử các triều đình xưa đầy rẫy chuyện tham nhũng, đến nỗi cảm thấy tham nhũng là cả một truyền thống "lớn" của quan chức Việt, phi tham nhũng bất thành quan lại. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có
tham nhũng rồi. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan
chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác
ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ
trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
số ra đầu 2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của
vấn đề y như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi nền thống trị yếu quá và muốn
lợi dụng khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn
buôn bán để học hỏi gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người
làm ngoại thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều.Các quan chức nghề
này thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ.
Đọc lại tự nhiên thấy
cảm ơn các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.
Quan niệm
về sử của chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn đăng ở Talawas cuối 2007, có lá thư của Trần Văn Tích,
thống kê số sách vở mất mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh.
Đoạn văn có một chi tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu:
Khi đưa ra con số này
trong Việt nam sử lược, cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung
quốc mà quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng
đã đốt rất nhiều sách.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã
viết thế.
Chi tiết này gợi cho tôi mấy ý nghĩ:
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim
Đào Duy Anh cũng có lối viết "đổ cả những kém cỏi trong sự phát triển của xã hội
Việt Nam cho người nước ngoài".
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá quan liêu, tức là bằng lòng với những
huyền thoại. Chẳng hạn khi nghiên cứu về sử
thời giặc Minh ai cũng chỉ nghĩ tới công thức bắt dân ta lên rừng tìm thú quý,
xuống biển mò ngọc châu.Thí dụ mà Trần Văn Tích nêu ở trên giúp chúng ta giải huyền
thoại này, và chợt nhận ra bao công việc phải suy nghĩ ngược lại thói quen.
Một trường hợp tỉnh ngộ khác.
Khi nói về sách vở, người mình chỉ nghĩ đến văn thơ, tính chung trong số người
liệt vào loại danh nhân đất nước, cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục
phần trăm. Trong khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn,
thấy trong độ một trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%.
Học thuật ở ta không được chú ý đúng mức. Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm, mà không để ý tới sự nghĩ.
Chúng ta nhìn về quá khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới
được gọi tên nhiều hơn là được nhận thức. Con người VN các thời đại trước đây
sống ra làm sao, đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành
ra làm sao? Các sứ thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn
nước ngoài đến VN ra làm sao?
Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài, và nhiều
khi là chưa được ai đề cập tới.
Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời
xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện
tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng
xã ngược mãi lên đến cả triều đình.
Tôi bắt đầu chú ý tới sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm
nay.
Càng đọc lại sử, tôi càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý
như Đại Việt sử ký toàn thư, như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục. Thế mà mang danh là những
người cầm bút mấy ai đã đọc những bộ sử đó.
Lại càng lấy làm xấu hổ là thời ta hôm nay chưa có cái Sử đó. Trên sách sử hôm nay thường chỉ có những bức tranh chung
chung được đưa ra, chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người
đương thời.
Một trình
độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa
khiến "không ai muốn dạy sử, không ai muốn học sử" phải tìm ở khoa sử học hiện thời. Trước tiên là quan niệm của các nhà khoa học ngành này về đối tượng cần nghiên cứu.
Chúng ta chỉ nhìn quá khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc
lại. Cái gì có vẻ như không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực
dụng sát mặt đất.
Thế thì làm sao có Sử được? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng
chúng ta không nghiêm túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa.
May
lắm thì trong sử chúng ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính
trị xã hội. Trong khi đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương
nhân, lịch sử trang phục...Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới
thời Hitler. Cách hiểu về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm
phim về Lý Công Uẩn, tôi ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu.
Cung điện thời đó ra sao? thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra
sao? Tiếng Việt thời ấy ra sao? Không ai biết. Gần đây nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê
ngựa về quay và ông Dương Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử
dụng ngựa nhiều. Từ đây mà suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra
trong phim, ai còn tin được điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các
kho lưu trữ lại không mở ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ
như hồi ký thư từ, không được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của
giả. Nói chung, chúng ta coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không
đặt vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong
các công thức cũ là với nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch
sử nào ra hồn là chuyện đương nhiên.
Ngay khối lượng thuần túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu. Ở nước ngoài,
từng triều đại từng giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có
được vài ba quyển, lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế
là người nước ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Một lý do làm nên sự thua kém của các nhà sử học bản địa: Nhiều nhà
nghiên cứu lịch sử VN ở ta tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh... không biết; cả sách vở cũ lẫn sách vở mới của Tây của Tầu đều không được tiếp xúc.
Kể cả một số thầy đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ
ra viết lại. Các lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ
thông, còn được cái gì?!
Nhận thức về quá khứ vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay
tức là chúng ta tước bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ. Khi không chịu nổi thì họ quay lưng lại với sử có gì là lạ!
Published on September 05, 2016 23:10
September 4, 2016
Về cách miêu tả hoa sen và lý do để yêu hoa
I/
Bài viết sau đây được anh Trần Đình Sử đưa ra trên FB của mình ngày 30-8 :
KHUYẾT ĐIỂM CỦA BÀI THƠ TRONG ĐẦM GÌ ĐẸP BẰNG SEN
Bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen được dạy trong nhà trương phổ
thông, không ai là không thuộc. Tranh luận xung quanh bài thơ này có
nhiều. Nay tôi muốn nêu một ý, có thể là mới. Sen có một đặc điểm khó
quên, đó là mùi hương đặc biệt, thơm cả hoa, cả hạt, mứt sen, chè sen
vẫn ngạt ngào một mùi thanh tao, quý phái. Ấy vậy mà bài thơ chỉ khen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng, tức khen màu sắc. Câu cuối lại
khen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Khen như thế chẳng khác nào
thấy một cô gái đẹp mà chỉ khen cô ấy ăn mặc chỉnh tề, ngoan ngoãn,
không khen sắc đẹp là cái hiếm có nhất. Vì sao tác giả bài thơ lại mù
điếc về mùi thơm như vậy? Đó là do quan điểm ý thức hệ. Anh ta chỉ biết
phân biệt với bùn thôi, chứ không quan tâm đến hoa.Ý thức hệ xưa nay đã
làm hỏng bao nhiêu thiên tính của con người.”
Tôi thì tôi thấy,
chính câu thứ tư “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” đã nói về mùi thơm
của hoa. Không cần nói thẳng về sự vật hoặc miêu tả nó mà chỉ cần nói về
sự trống vắng của nó, rồi tùy người đọc liên tưởng -- tôi nhớ đó là
một bút pháp quen thuộc của hội họa Trung Hoa; mỹ học cổ điển phương
Đông có cả một thuật ngữ để chỉ bút pháp này, tiếc là tôi không nhớ để
nói ra ở đây. Nhưng có phần chắc đây là chuyện của mỹ học chứ không phải
chuyện ý thức hệ.
Việc miêu tả mùi hương vốn là một chuyện khó.
Trong văn học Pháp, Ch. Baudelaire (1821-1867) được ghi nhận như một
người biết phân tích một cách tế nhị các cảm giác khác nhau, cả xúc giác
lẫn vị giác. Chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, mấy nhà thơ
thời tiền chiến từng mon men tới lĩnh vực này. Huy Cận viết trong bài
“Đi giữa đường thơm Trong không gian hương với màu hòa hợp để ...
lảng tránh.
Còn Xuân Diệu trong bài “Vì sao?” tặng Đoàn Phú Tứ thì thú nhận:
Ai đem phân chất một mùi hương
Hay bản cẩm ca? tôi chỉ thương
Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương
Khi dành cả ba câu đầu vào việc miêu tả sắc hoa mà chỉ dành cho việc
tả hương sen vào câu cuối, người viết đoạn ca dao trên cũng chỉ ...làm
theo thông lệ từ xưa tới nay.
II/
Khi đọc hai chữ khuyết
điểm trong đầu đề bài viết lúc 7h36 nói trên của anh Sử, người viết mấy
dòng này thoáng có một liên tưởng tội lỗi xin thú thực ở đây: tôi có
cảm tưởng nhà giáo đang làm công việc chấm bài, phê vào bài của học
sinh.
Nhưng, chỉ gần 9 giờ sau tức lúc 16h14, tuyệt vời thay, tôi
được đọc bài viết bổ sung rõ là dấu hiệu của một cây bút nghiên cứu
văn học thâm hậu.
CỘI NGUỒN CỦA BÀI CA DAO TRONG ĐẦM GÌ ĐẸP BẰNG SEN
Cội nguồn của bài thơ này là tư tưởng của Chu Hi, bậc đại nho đời Tống. Trong bài Ái liên thuyết, ông viết như sau:
Hoa các cây cỏ mọc ở dưới nước, ở trên cạn, các giống đáng ưa thích thì
thật nhiều. Đào Uyên Minh thời Tấn chỉ thích cúc. Từ thời Đường tới nay
người đời rất thích mẫu đơn. Tôi chỉ thích sen mọc ở trong bùn, mà
không vấy bùn. Tuy ngã trên nước trong, gợn nước lăn tăn mà không có
dáng nũng nịu, ẻo lả. Thân cây giữa thông suốt mà đứng sừng sững, không
rậm cành rậm lá. Hương càng xa càng mát. Thẳng thắn uy nghi, đứng xa
thưởng ngoạn chứ không đứng gần được. Tôi cho cúc là hoa ẩn dật, mẫu đơn
là hoa phú quý, sen là hoa quân tử. Mới hay yêu cúc, sau ông Đào, không
thấy nói đến tên ai. Cùng với tôi yêu sen thì có ai. Mẫu đơn thì ai
cũng yêu.
Và anh Sử viết thêm lời bình:
Đây là bài tản văn rất
đẹp, nhẹ nhàng, uyên bác, sâu sắc. Tuy nhiên tác gỉa đứng trên lập
trường nhà nho mà yêu sen, ví sen với người quân tử, đem tiêu chí của
người quân tử mà tả cây sen, nào uy nghi, cứng cỏi, không đứng gần được.
Bài ca dao có thể do một ông đồ nho nào đó, do yêu bài văn mà diễn ra,
nhưng thô thiển hơn, tuy cũng một lập trường đề cao sen quân tử. Như thế
cốt lõi của nó là tư tưởng nho giáo của Chu Hi. Nhà thơ Phùng Quán có
lí của ông ấy. Nhưng chúng ta vẫn yêu sen, không phải vì sen là biểu
tượng của quân tử, mà sen là loài hoa quý, được coi là biểu tượng trong
đạo Phật, biểu tượng của Việt. Cho nên cần có bài viết mới về hoa sen.
Từ việc miêu tả hoa sen, câu chuyện đến đây đã chuyển thành tại sao yêu hoa sen.
Tôi không dám nghĩ tới chuyện viết một bài văn khác về hoa sen, nhưng
giả sử -- trong muôn một -- có ai viết được một bài hoàn hảo tương tự
thì cũng yêu cả hai chứ không vì bài này mà bỏ bài khác.
Tôi chỉ
cảm ơn anh Sử là qua đây, hiểu thêm một khía cạnh của đạo Nho mà có lẽ
ai đó đã viết ở đâu đó chỉ vì mình xao nhãng nên bỏ qua.
Các nhà
nho xưa không yêu những cái gì tự nhiên như nhiên trời cho sẵn như vậy.
Họ nghiêng về những vẻ đẹp vượt lên cái thông thường, những vẻ đẹp do
phấn đấu mà có. Những cuộc vượt lên nghịch cảnh này càng khắc nghiệt thì
vẻ đẹp càng cao quý.
Trong cuốn “Hán văn giáo khoa thư của Võ
Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao tập II do Trung tâm học liệu của Bộ
giáo dục in ở Sài Gòn 1972, tôi tìm thấy một bài cũng nói về hoa.
Bài viết mang tên Cúc hoa tán này không thấy ghi rõ tác giả là ai,
nhưng cũng nêu lên cái lý do yêu hoa của người xưa tương tự như Chu Hy.
Trong bài, có đoạn “Cúc sở dĩ dược yêu quý vì sinh vào mùa thu.”
Nếu biết là mùa thu ở phía bắc Trung quốc đã lạnh lắm rồi, ta mới hiểu
tại sao tác giả viết “giậu gió buốt mà hoa vẫn xinh tươi mơn mởn có
dáng vẻ độc lập không cậy dựa chi ai”.
Bài viết kết lại cũng với ý
ấy “ Hoa cúc [cũng] nhân mùa thu mà phô vẻ đẹp lạnh. Thảo nào Đào Uyên
Minh yêu hoa cúc cũng phải”.
Published on September 04, 2016 19:08
September 3, 2016
Giữ cho học sinh cảm giác thiêng liêng của ngày khai giảng
Nhân ngày khai giảng, bạn Quý Hiên ở báo Thanh niên đã gợi ý để tôi có dịp suy nghĩ về một số vấn đề giáo dục hiện nay. Một phần bài trả lời phỏng vấn này đã đưa trên báo.
Sau đây là bản đầy đủ.
Những suy nghĩ trong bài này bắt nguồn từ bài viết của tôi Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo
dục miền Bắc đưa trên blog này ngày 10-12-2014. Hy vọng rằng nhân ngày khai giảng bài viết cũ của tôi có thêm những bạn đọc mới.
Theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn,
khai giảng nên chỉ duy trì phần lễ, và ngắn gọn, không chỉ để kết thúc trước
khi học sinh kịp chán mà còn để bớt đi sự ồn ào dung tục.
Nhớ về những ngày lễ khai giảng trong ký ức tuổi thơ mình, ông Vương
Trí Nhàn chia sẻ:
Tôi học cấp II (trung
học cơ sở) từ 1955 tớí 1958 và cấp III (trung học phổ thông) 1958-1961 đều ở
trường Chu Văn An Hà Nội. Hồi ấy ngày khai giảng diễn ra với đầy đủ ý nghĩa của
từ “khai giảng”, nghĩa là sau một thời gian nghỉ hè chúng tôi đến gặp lại các bạn,
gặp lại thầy cô và bắt đầu cảm nhận được
không khí của một năm học. Vì thế cảm thấy rất hào hứng. Nhà tôi hồi ấy ở đường
Thụy Khuê, trong một xóm toàn người dân lao động lam lũ nên nhà cửa cũng bình
thường. Vì thế khi bước chân vào ngôi trường do người Pháp xây cây xanh rợp trời
với những dãy nhà cao tầng khang trang, lũ trẻ chúng tôi cảm thấy như được bước chân vào một thế giới
khác.
Thời
gian làm cho mọi thứ đều khác dần đi, và như tôi nhìn nhận cách làm giáo dục hiện
nay của ta ở mọi cấp đã khác đi nhiều cách tổ chức những buổi khai giảng cũng
khác. Không biết tôi có hàm hồ không nhưng quả thật cứ cảm thấy bản chất nền
giáo dục của mình là ồn ào phô trương vì thế ngày khai trường cũng mang tính chất
đó.
Xin hỏi ngay ông tại sao lại có tình trạng
đó?
Nguyên tắc lớn của chúng ta là nhà trường
phải nhịp bước cùng xã hội, và hoạt động giáo dục cũng là một ngành nó giống
như thương trường hay giới kinh doanh. Nguyên tắc ấy không sai tất cả nhưng lại được
hiểu một cách quá máy móc và thô thiển nên hóa ra làm hỏng giáo dục. Khi tìm hiểu nét đặc thù của
nghề dạy học thời trước, tôi thấy hồi ấy người ta quan niệm có những người không bao giờ nên bước lên bục giảng. Nhất là
trong quản lý giáo dục, có những người tài ba giỏi giang ở các ngành khác,
nhưng không nên đưa về quản lý giáo dục. Điều đó hiện nay nói ra coi như phạm
quy. Nay cũng là lúc giáo dục không còn
hệ thống những giá trị riêng của mình. Nhưng thôi chuyện này dài lắm, không thể nói hết ở đây được.
Quay trở lại câu
chuyện ta nói từ đầu, tôi chỉ muốn nói ngày
khai giảng hôm nay không phải dành cho giáo viên và học sinh. Nó được làm cốt để
biểu dương uy thế của nhà trường. Thời tôi đi học trường sở còn ít lắm, không
có chuyện mỗi nhà trường phụ thuộc quá cụ thể vào chính quyền địa phương. Ngày
nay ngày khai giảng chủ yếu là lo làm theo những khuôn mẫu mà địa phương quản lý trường đã quy định. Giáo dục đã không
còn cái quyền được là mình, tôi nhắc lại.
Nói riêng về ngày khai giảng,
tại sao ông lại đi tới những ý tưởng ở trên đã nói?
Mấy hôm nay, quan sát việc chuẩn bị khai giảng
của một trường gần nhà (ở TP Hồ Chí Minh – PV), tôi nhận thấy người ta phải huy
động học sinh đến trường để chuẩn bị cho khai giảng qua nhiều ồn ào lộn xộn và
cũng mất quá nhiều thời gian. Tôi biết một điều là “cái gì quá nhiều” đều gây
phản cảm. Người ta đặt ra yêu cầu quá cao, quá cầu kỳ đối với ngày lễ sắp tới.
Người ta quá xem trọng việc phô diễn “năng lực” tổ chức sự kiện của mình thông
qua một lễ khai trường, đại để phải làm sao cho trang trọng, cho khí thế… Vậy
là sinh ra đủ các tiết mục. Nào là tập các nghi thức, nào là tập chào hỏi đón
tiếp quan khách, rồi đủ các thể loại diễn văn và lại còn văn nghệ nữa chứ.
Theo quan niệm của ngành giáo dục thì một cuộc
khai giảng phải có cả phần lễ lẫn phần hội. Và cả hai phần đó đều phải được làm
một cách hoàn hảo...
Giờ tôi mới biết ý đó. Nếu thế thì quan niệm của
tôi hoàn toàn ngược lại. Tôi muốn trong buổi sáng khai giảng chỉ nên làm phần lễ
thôi, đừng làm phần hội. Như cách mà chúng ta làm hiện nay phần lễ dông dài đã
đành, mà phần hội cũng rất lích kích, tốn kém thời gian chuẩn bị của học sinh,
mà cũng có ra gì đâu!
Nhưng theo quan niệm của lãnh đạo ngành
GD-ĐT, để ngày khai giảng trở thành sự kiện dành cho chính học sinh thì phần hội
mới là quan trọng…
Nếu có một buổi liên hoan chào mừng ngày khai
giảng thì tổ chức vào lúc khác, chẳng hạn vào một buổi tối sau đó. Đừng trộn lẫn
hai cái đó, khiến cho cái nào cũng dang dở. Làm ngắn lại để khỏi biến ngày khai
giảng thành một ngày thách thức sự chịu đựng của học sinh. Thật ra các em cũng
háo hức lắm. Các em rất cố gắng để chú ý, nhưng mà làm sao chú ý lâu được khi ở
lứa tuổi đó! Chẳng thế mà tiết học chỉ có 35 – 45 phút thôi. Giờ còn đang là đầu
thu. Bắt các em ngồi ngoài sân nắng nôi như thế, bàn ghế không có, lại còn phải
ngồi đều tăm tắp như thế, chịu sao nổi! Lại cả buổi văn nghệ nữa, trong khi các
em biết thừa là nó có ra làm sao đâu, chỉ xem để mà cười giễu!
Theo tôi, nếu nói có cái gì các em cần nhất ở
ngày khai giảng, thì nó chính là cái cảm
giác thiêng liêng của một sự bắt đầu. Cái thiêng liêng đó mất đi rất nhanh, không
ai duy trì được lâu. Chúng ta cần giúp các em giữ gìn cái cảm giác thiêng liêng
đó trước khi nó bị những phản cảm đánh bật. Tất nhiên đấy là mong muốn tối đa
thôi, chứ toàn bộ cuộc sống giờ mất thiêng đủ thứ, trong mọi mối quan hệ. Ví dụ
địa điểm xây trường ngày nay thường là ngay giữa phố xá ồn ào, đông người qua lại,
nó không có một không gian đủ rộng và đủ độ tĩnh lặng cần thiết để giúp học
sinh cả học kiến thức lẫn học làm người. Các em phải chen chúc nhau mà vào trường,
chen chúc nhau trên một chỗ ngồi. Trách gì trường học khi mà ngay cả Văn Miếu
mình cũng có giữ được sự tôn nghiêm đâu!
Nhưng ngày nay người ta cho rằng nhà trường
là môi trường vui vẻ, nơi tạo nên sự phấn chấn, hứng khởi cho mỗi học sinh?
Cái vui vẻ đích
thực phải được diễn ra trong một đời sống quân bình hợp lý. Cuộc sống hôm nay
quá nhiều tiếng cười quá nhiều niềm vui, song đứng ngoài nhìn thì xã hội chỉ là
một đám đông ồn ào, niềm vui ấy quá xô bồ,
dung tục. Tìm lại cảm giác thiêng liêng
là việc rất khó, nhưng trong lúc chưa làm được, tối thiểu hãy nên
nghĩ tới nó. Và hãy bắt đầu từ những chuyện quá quen mà ta vẫn làm. Tôi biết
nhiều trường hiện nay bắt đầu năm học mới trước, rồi mới làm lễ khai giảng. Những
buổi học ấy sẽ chán như nhai cơm nguội. Học sinh thừa biết lúc này chỉ là học chiếu lệ.
Mà khi ngày khai giảng tới thì các em lại dửng dưng. Thành thử nên bắt buộc các
trường chỉ tổ chức việc học sau ngày
khai giảng. Nói cách khác, ngày khai giảng
phải là ngày đầu tiên của năm học.
Chốt lại đề nghị của ông là gì?
Tôi cũng đã đủ
già để hiểu rằng thay đổi được một nếp sống
là rất khó, nên cũng không dám đề đạt điều nọ điều kia làm gì. Tôi chỉ muốn nói
với các vị phụ trách khai giảng một điều là hãy thử bắt đầu nghĩ chuyện làm
khác cái cách mà từ nhiều năm nay ta vẫn làm. Trong lúc chưa khác được, thì hãy
cố gắng làm thật ngắn gọn để đỡ lộ ra những nhược điểm vốn có. Trong buổi lễ
khai giảng từ hiệu trưởng, giáo viên đến các vị khách, mỗi người hãy nói những điều
cảm thấy cần nói và do chính mình nghĩ ra, chứ không phải nói lại những câu những
chữ vẫn viết trong các báo cáo hoặc các nghị quyết. Làm như thế mới là tôn trọng
học sinh.
Cảm ơn ông Vương Trí Nhàn!
Quý Hiên (thực hiện)
Published on September 03, 2016 22:52
August 17, 2016
Một ít chuyện bên lề liên quan tới "Chân dung nhà văn": phần hai -- về chính Xuân Sách
Sự hình thành một huyền thoại mới
Từ quá trình sáng tác của Xuân Sách, tôi đã thử liên hệ với đời sống văn nghệ, những mẫu người viết một thời. Nhưng bản thân số phận người viết Xuân Sách cũng là một nhân vật mà tôi muốn kể tiếp. Sau đây là một ít chuyện vặt và những suy nghĩ rút ra từ đó.
Ngoài thơ tứ tuyệt các nhà văn cũng thường cũng “chơi" nhau bằng câu đối. Tôi nhặt ra mấy câu tạm gọi là tiêu biểu.
Về Tú Mỡ và Khái Hưng
--Dưới bóng tre xanh Tú Mỡ buông câu dòng nước ngược
Dọc đường gió bụi Khái Hưng đứng bán gánh hàng hoa
Về Vân Đài và Đoàn Phú Tứ
--Thanh lịch Vân Đài, thanh lịch... kịch
Ngã ba Phú Tứ, ngã ba.. hoa
Về Thanh Tịnh
-- Thanh thanh thanh, thanh tú thanh giường thanh thiếu nữ
Tịnh tịnh tịnh, tịnh sừng tịnh mỏ tịnh nam mô
Và về Xuân Sách
-- Xuân đâu nữa 40, con 3 đứa, sao 3 ngôi, khôn dại dại khôn, khôn cũng nó, dại cũng nó
- Sách gì cũng năm bảy, thơ một thể, văn một thể, đức tài tài đức, tài nơi mình, đức nơi mình
Đôi câu đối này Xuân Thiều làm năm 1972. Nó đã phác ra đầy đủ con người gia cảnh tác giả thơ chân dung. Sao ba ngôi chỉ quân hàm thượng úy mà Xuân Sách mang trên vai ( Hữu Mai Hồ Phương lúc này đã đeo quân hàm thiếu tá). Tên ba đứa con chính là những chữ làm nên bút danh Lê Hoài Đăng.
Từ Xuân Sách lúc này có thể nhận ra dấu ấn một nếp sống thời chiến ổn định ở hậu phương Hà Nội trước 1975. Ổn định hay trì trệ thì cũng vậy. Trừ bom đạn, một chiến trường ở xa và những người đi người về, còn tất cả như đứng nguyên, năm nay giống năm ngoái. Sự trì trệ này là bao trùm nên tự nhiên là đi từ đời sống sang sáng tác. Những tờ báo ra những số giống nhau, bài vở na ná như nhau. Những nhà văn hàng đầu cũng thấy bí, lặp lại mình, chán mình. Chỉ có các cây bút công chức là thấy hợp. Chất công chức trong Xuân Sách cũng được dịp “phát huy’. Các nhà xuất bản cần những cuốn sách tả chiến trường cho đèm đẹp một chút ? Thì , như trên đã kể, Xuân Sách có tập truỵện Đêm ra trận tập thơ Trong lửa đạn. Phong trào văn học cần những tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhất là cái phần tham gia chiến tranh của thiếu nhi? Thì Xuân Sách có Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Mặt trời quê hương...Tôi xin phép không kể ra đây hết mọi sự trung bình thấp lè tè dang dở... của nhiều tác phẩm đương thời. Nhưng làm thế nào được, cùng đường rồi hết cách rồi. Sự đầu hàng cam chịu bao gồm cả cách nghĩ. Một cách rất bản năng Xuân Sách đã tìm ra cho mình cách tồn tại lý tưởng . Một mặt anh thừa hiểu những cái mình viết ra chả là gì cả ( anh viết rất vội, chỉ cốt được in, chứ không gửi gắm tâm huyết gì ). Mặt khác anh vẫn không giấu được một nỗi vênh vang ngấm ngầm. Ta đã có sách in, ta cũng chả kém gì đời. Sự trâng tráo, giá anh thấy ở ai sẽ cười giễu ngay, thì lại trở thành cách xử thế chủ yếu của anh. Dường như sau trang viết của Xuân Sách lúc này là cái cười khẩy, giữa sự dày công lao tâm khổ tứ của các anh với sự phẩy tay viết xong của tôi, thua đươc có là bao?
Chạm mặt nhau trong cơ quan, mấy năm ấy, tôi luôn luôn bắt gặp một Xuân Sách lưỡng phân. Lúc là người nhũn nhặn biết điều, lam lũ làm ăn; lúc khác là kẻ ra cái điều hơn người, kiêu ngạo vô lối. Lúc cam chịu nhẫn nhục, lúc lại lồng lộn như con ngựa bất kham. Vừa đục nước béo cò tranh thủ làm ăn kiếm chác, vừa ngả sang hư vô thấy mọi thứ hão huyền. Và anh lại muốn xoa đầu thiên hạ , muốn cười thầm, muốn lắc đầu làm một cái án tử hình cho những kẻ gặp thời kẻ quá may mắn, muốn có một quân tẩy xóa bỏ tất cả.
Trong số những ấn tượng lớn nhất về Xuân Sách tôi nhớ tới cái bĩu môi khinh đời của anh khi nghe những bản báo cáo về công trạng sáng tạo và phẩm cách của đám người làm nghề. Anh nắm bắt rất nhanh cái hãnh tiến ở người này, cái lặng lẽ sung sướng đếm tiền của người kia. Mọi thành tựu dưới mắt anh như đều hiện ra với cái vẻ vô nghĩa của nó. Cuối năm 1973, nhân dịp tổ sáng tác của Hồ Phương tổng kết, Xuân Sách cũng ném ra cách tổng kết của mình
Tổ sáng tác, tổ sáng tác
Tác phẩm ùn ra như đống rác
Dấu chân người lính chửa in xong
Đã viết Ký sự hai bờ đác
Ông Chủ tịch huyện cưỡi xe tăng
Thằng nào không tránh thì mất xác
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Vùng trời
Mây trắng xếp đầy như xếp bạc
Một mình anh hùng Lê Mã Lương
Đánh cho lữ dù 3 tan tác
Thôi đành trở lại Thôn ven đường
Kiếm lấy cái gì mà gỡ gạc
Con gà động ổ nhà bên
Cục, cục tác, cục cục tác.
( những chữ được gạch chân ở trên đều là tên gọi tác phẩm mà các nhà văn VNQĐ lúc ấy mới cho in)
Trong tiếng Việt có một từ gọi là khôn. Người khôn thông thường được hiểu không phải là người uyên bác về kiến thức hoặc giỏi giang về nghề nghiệp mà chủ yếu là người giỏi thích ứng, trong phạm vi hạn hẹp của tài năng và trình độ của mình vẫn biết cách kiếm lợi cho bản thân làm nổi bản thân khiến người ta phải chấp nhận, lắm khi không yêu không phục nhưng cũng phải chấp nhận.
Làm sao mà một người sáng tác không có gì đặc biệt như Xuân Sách tạo đươc một ấn tượng khiến người ta luôn phải nhắc đến anh – đấy là cái khôn của anh.
Nguyễn Minh Châu ví von: Thằng Sách lúc này như chất dầu nhờn chỗ nào cũng chảy vào được, đâu cũng có mặt.
Mặc! Xuân Sách vẫn sống và viết một cách kiên trì với những lý lẽ riêng của mình. Có lần anh nói với Nguyễn Minh Châu:
-- Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
Dường như Xuân Sách không chỉ nói với thiên hạ mà thường xuyên nói với chính mình như vậy. Sự tự tin làm cho anh đứng vững, lại cũng là nhân tố khiến anh tìm cách huy động hết vốn liếng của mình cho cuộc chơi. Một lần nào đó anh bảo tôi:
-- Ông xem còn cửa nào mà tôi không thử vào không?
Nghe mà sững sờ! Trong khi tưởng là dong chơi Xuân Sách vẫn lẩn mẩn làm cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Ở những khu vực người khác bỏ qua anh lại gặt hái được một ít thành tựu. Trên tinh thần tự khẳng định như vậy, Xuân Sách có lần khắc họa chân dung mình một cách phô trương, dùng các tác phẩm của mình để ghép lại:
- Cô giáo làng tôi đẻ sòn sòn
Một đêm ra trận được nghìn con
Thiếu nhi Đình Bảng nô ầm ĩ
Du kích Bạch Đằng hát véo von
Đường ra mặt trận chân chẳng mỏi
Lối vào lửa đạn bước không mòn
Mặt trời rạng rỡ quê hương mới
Vang khắp xa gần một tiếng khôn
Còn nhớ khi lần đầu nghe đọc bài này, Nguyễn Minh Châu cho luôn một chùy “Như là một bản báo công ấy“. Nguyễn Khải thì điểm huyệt cả con người bạn: “Thế mà cũng đòi khôn!”
Dường như thấy tự khen như thế quá lố, nên Xuân Sách có lúc chữa như sau:
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người chồng goá
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường ra mặt trận gân cốt rão
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Khôn dại trần gian để tiếng cười
(tôi ghi theo bản chép trong sổ, so với bản in sau này câu cuối có khác. Câu cuối về sau là Ở một cung đường rách tả tơi )
Chê thì có chê, tuy nhiên âm điệu chủ yếu vẫn là khoe, khoe một cách kín đáo. Dao sắc không gọt được chuôi—người ta lại chỉ có thể kêu lên như vậy.
Tận hưởng lộc trời
Tuy chỉ in ra có một lần, nhưng thơ chân dung thực sự tồn tại theo lối truyền khẩu. Mà khi truyền khẩu thì nó trở nên một thứ tập mờ không có hình thù rõ rệt, bị giải thích tuỳ tiện, có lúc trở thành một thứ bí truyền, khiến người ta vừa đọc vừa giải đoán.
Chẳng hạn đây là những lời ca tụng thơ chân dung. “Hình như trong đó sừng sững đến cả trăm gương mặt. Tập thơ đặc tả những gương mặt quen thuộc, nhàu nát như thể sách giáo khoa. Những thế hệ bầy đàn như chúng tôi chính là đã lớn lên trong cái vầng hào quang giáo khoa chói lọi ấy”.
Nên nhớ là Xuân Sách làm tập này ban đầu chỉ để đùa, chả có lớp lang quy hoạch gì. Có một vài bài làm chỉ để lấp chỗ trống. Có bài làm theo đơn đặt hàng. Có mấy trường hợp một nhà văn thấy phải có mặt trong tập thơ này của Xuân Sách thì mới nên người, nên chèo kéo ông mời mọc ông; rồi thì Xuân Sách cũng chiều đời mà làm thôi chứ chả hề mang vào đấy chút chủ kiến nào cả.
Còn về nghệ thuật loạt thơ cũng trong tình trạng xôi đỗ, bài hay bài dở, khá nhiều bài chặt chẽ ( nhất là mấy bài làm theo thể tứ tuyệt ) nhưng nhiều hơn là những bài vần điệu xộc xệch, tác giả viết vội viết vàng cho qua, và trong khi thưởng thức người ta chỉ mải để ý xem nó dùng để chơi xỏ ai, ra đòn có ác không, chứ không đếm xỉa tới nghệ thuật.
Song khi đã mê rồi còn ai tỉnh nữa. Hơn nữa từ yêu thơ, người ta chuyển sang yêu người, cái bước đi phi lô-gich ấy đã đến với cuộc đời bao người, lại đến với Xuân Sách.
Từ sau 1980, cuộc sống trong nghề của anh có bước rẽ ngoặt. Không chỉ chuyển về các cơ quan văn nghệ dân sự, mà cái chính là từ nay anh trở thành một bộ phận của sinh hoạt văn học ở cả bề nổi cũng như bề chìm của nó. Trong giới, cái tên Xuân Sách nổi lên như một người thạo đời thạo việc. Khoảng 1989-90, Dương Thu Hương còn sinh hoạt với Hội nhà văn, và nhiều lần được nhăm nhe vào chấp hành hội. Trước Đại hội nhà văn cuối 1989, Dương Thu Hương nói với nhiều người:
-- Tôi mà trúng vào Ban chấp hành thì thả nào tôi xin Đại hội để nhường cho Xuân Sách. Dương Thu Hương tin khả năng ứng phó và hiểu nghề, hiểu giới viết văn của Xuân Sách sẽ giúp cho việc điều hành hoạt động của Hội.
Ngoài những người bạn cũ, bắt đầu có bao nhiêu người viết khác, chỉ đọc chân dung mà cảm thấy Xuân sách như người quen của mình. Các đám nhậu trở nên sang trọng hơn nếu mời được Xuân Sách đến dự. Người ta chẳng những thấy đây là một tác giả sành sỏi thạo đời mà còn tin chắc rằng anh là một người viết có bao điều chưa bộc lộ, có cái bề sâu thăm thẳm chưa kịp nói ra. Cơn sóng ngấm ngầm sùng bái đã đẩy tác giả của những bài thơ đùa bỡn này lên thành một bậc trí giả, một cây bút uyên bác thông kim bác cổ. Cách nghĩ thâm thúy của người Tàu được vận dụng để cắt nghĩa. Trong số các danh hiệu được đặt bên cạnh anh có những chữ thuộc loại thiêng liêng nhất mà dưới áp lực của văn hóa Trung Hoa, mọi người đều dùng một cách tự nguyện. Nào một ẩn sĩ cô đơn, một nhân giả, một chân kẻ sĩ, một cây cổ thụ. Có mặt trong một bữa rượu, anh được mô tả “có cái gì giống Khuất Nguyên ngày trước. Cả cuộc đời say, đủ các kiểu say, chỉ có mình ông tỉnh...” “ Ông chính là người mà thời gian đã kịp “nấu” thành... cao, một thứ “cao” giống như cao hổ cốt.”
Dễ dàng đoán ra tâm trạng nao đã khiến người ta có sự quá đáng trong những lời khen tặng như vậy. Ngoài đời nhiều giá trị giả quá, mà không ai phá tung ra được, nên thấy ở Xuân Sách có chút gì thực, là người ta khen không tiếc lời. Xã hôi tốt xấu nhập nhèm, mà tìm trong dư luận công khai chẳng thấy gì nên người ta mù quáng tin vào những lời đồn thổi. Xã hội quá nhiều người sống cứ nhô ra, làm nổi mình lên, nên thấy ai có vẻ bình lặng một chút, người ta gán cho đủ thứ phẩm chất tốt đẹp.
Câu thơ Xuân Sách viết về Chính Hữu Anh thành đồng chí tự bao giờ? ( Đồng chí là tên một tập thơ Chính Hữu) lúc này có thể đổi ra anh thành huyền thoại tự bao giờ?
Và tôi hiểu rằng, khốn khổ, cũng như nhiều nhân vật hoạt động xã hội thời nay, Xuân Sách cũng tham gia vào cái việc tạo ra huyền thoại cho chính mình. Anh muốn bù lại những năm bị thiệt thòi, bị quên lãng.
Ở các làng xóm xưa có những nho sĩ chuyên làm vè. Cái gì họ cũng biết một tí. Về kiến thức, chân trời của họ là những cuốn sử sách và triết lý bên Tàu. Nhưng cái chân trời ấy xa quá thăm thẳm nên khi đến với mỗi người thì nó chỉ còn là những mảnh tan nát rời vụn mỗi người nhặt một mảnh mỗi kiểu. Xuân Sách cũng không ra thoát khỏi tình trạng chung. Nhưng như thế kể đã đủ lắm.
Ngoàì một chút “thâm như người Tàu” , loại trí thức nông thôn mà Xuân Sách đại diện lại còn chỗ mạnh của người trí thức bình dân. Lơ lửng sống giữa nông thôn, họ như ma xó, tức là không cần đi đâu mà chuyện gì trong cái “ hương đảng tiểu triều đình” cũng không qua khỏi mắt. Tầm hiểu biết của họ bao quát từ những vụ việc bê bối trong làng xóm tới các kiểu tính cách con người, những mối quan hệ lằng nhằng phức tạp. Với năng khiếu thiên về phúng thích (=châm biếm mỉa mai), những người làm vè nhậy với những gì cũ càng, héo hon, tan nát. Vượt quá lên nữa, đôi khi họ chạm tới cả sự vô nghĩa của kiếp người lẫn sự bất lực của cái cao sang cái tốt đẹp.
Xuân Sách là một con người như thế còn sót lại. Xuân Sách mang cái nếp nghĩ ấy nghĩ về làng văn. Ta biết rằng cuối đời Xuân Sách dặn người thân khi chết đưa mình về làng. Tôi nhìn nhận việc này như một lời thú nhận. Người ấy biết thân biết phận .
Sáng tác của Xuân Sách từ 1980 cũng theo đà này mà thay đổi về sau cũng đậm hơn sắc thái nhân sinh
Làm vua mà cũng chán
Bỏ đi theo mây ngàn
Một nước cờ Yên Tử
Làm bận lòng thế gian ( bài Yên Tử )
Đừng rót nữa tôi không sành rượu
Uống không say thì uống làm gì
Vui chẳng thêm, buồn không quên được
Cứ như thừa từ cái mặt thừa đi
Cứ như thừa trong cõi đời náo nhiệt
Hay hớm gì nhìn gan ruột người ta
Giữa thời buổi cạnh tranh quyết liệt
Cứ tỉnh queo lắm lúc cũng phiền hà... ( bài Rượu )
.
Tôi về tới bến sông xưa
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò
Nhìn theo ngọn khói vu vơ
Nhớ thương thì có đợi chờ thì không
Buồn ai thả lại giữa dòng
Cho tôi mang lấy nặng lòng chiều nay
Hư hao một thoáng heo may
Sương nhòa mặt đất mây bay cuối trời
Cất lên một tiếng đò ơi
Nhỏ nhoi như giọt mưa rơi giữa đồng. ( bài Bến quê ).
Trong các hồi ức có liên quan tới nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi đã kể những buổi họp mặt ngẫu nhiên ở đó các nhà văn chúng tôi sống thật cuộc sống của mình. “Giao ban“ với nhau về những tin tức mới thu thập được. Đọc được cái gì hay kể lại. Có chuyện gì bực bội kể lại. Bao nhiêu những tình cảm suy nghĩ mà mỗi người vừa trải nghiệm có dịp bộc lộ. Thành thử ở đó mỗi nhà văn cũng có dịp hiện ra với tính cách có thật của mình. Hữu Mai với bộ dạng kín kín hở hở muốn chứng minh rằng mình quen biết nhiều vị cấp trên, được dự vào nhiều việc quan trọng. Xuân Thiều còn nhiều chất của người cán bộ cơ sở, thực thà đơn giản, trong khi Hải Hồ ranh vặt, Nhị Ca hư vô, Mai Ngữ chẳng còn tin ở việc gì tử tế trên đời...
Trong số này tôi nhớ hơn cả là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu. Người thứ nhất sôi nổi hào hứng không chỉ từng trải sự đời mà còn giỏi bình luận biết chớp ngay được những chi tiết người khác vừa kể biến ngay thành tài liệu riêng, và điều quan trọng hơn là cái gì cũng chấp nhận, chuyện gì cũng thấy có lý. Còn người thứ hai bề ngoài như một người thừa, thỉnh thoảng chêm vào một câu chẳng đâu vào đâu hoặc nhếch mép cười một mình, song thật ra ngấm ngầm thu góp tất cả, để rồi mai kia trong buổi nói chuyện riêng sẽ thủ thỉ với tôi về những chiêm nghiệm và sau cùng đưa những gì tâm huyết vào trang sách.
Người thứ ba tôi phải nhớ là Xuân Sách. Anh có cả đặc điểm của hai người trên. Với sự thông minh hiếm có, gần như chuyện gì anh cũng có thể tham gia được, chuyện bên ta hay bên Tàu cũng chen vào được. Cũng có lúc chẳng qua là nói vuốt đuôi nhạt nhẽo, song có khi lại là sự tiên cảm sâu sắc kỳ lạ. Ngay hồi ấy, tức là giữa lúc cách mạng văn hoá bên Trung Hoa bộc lộ tính cách cực đoan kỳ dị của nó, Xuân Sách có lúc đã dự đoán đúng. Anh bảo không chừng thứ tai hoạ này lại là một lời cảnh tỉnh, sau cơn dằn vặt này xã hội Trung Hoa sẽ trưởng thành vượt bậc. Đây là kết quả của một đầu óc có nhặt được ít mảnh vụn lấy từ những Đông Chu liệt quốc, Chiến quốc sách, Tam quốc, Thuỷ hử. Còn cách bộc lộ của Xuân Sách thì đại khái thường gồm mấy bước thế này. Thoạt đầu, giữa đám đông anh cũng chỉ dửng dưng lơ láo như một người thừa. Làm sao mà thi thố tài năng được với những cái mồm lợi hại khác? Vả chăng còn để mọi người có ngón gì trổ hết ra đã chứ. Rồi cái gì phải đến sẽ đến. Khi câu chuyện đã tàn, phần lớn mọi người ra về cả, anh thường còn cùng một vài người khác nán lại tiêu hoá câu chuyện. Và Xuân Sách là người tiêu hoá nhanh nhất, có cách giải thích độc đáo nhất khiến những ai kiên trì ở lại cùng anh sẽ không mấy khi phải hối hận. Mà về cách biểu hiện, đã bốc lên thì Xuân Sách của chúng tôi cũng bồng bột lắm. Cũng có lúc anh đỏ mặt tía tai như cãi nhau với ai đó. Lại cũng có lúc đang ngồi anh phải đứng lên vung chân múa tay như đang diễn thuyết trước đám đông, và diễn xong lăn ra cười, không hiểu sao tôi thường hay nghĩ cái tiếng cười tự mình thưởng thức cái sự bình luận sâu sắc của mình ở Xuân Sách lúc ấy vừa sang mà lại vừa hèn hèn thế nào ấy.
Tôi nghĩ sự có mặt của Xuân Sách, cái vai Xuân Sách đóng trong những buổi nói chuyện trên đây cũng mang bóng dáng cách tồn tại của Xuân Sách nói chung. Những vần thơ chân dung của anh, sự có mặt của anh trong giới văn nghệ mà trên đây tôi thử miêu tả nuôi trong đầu óc tôi một cảm tưởng về sự đa dạng của tài năng trong giới văn nghệ , nhất là văn nghệ trong hoàn cảnh của Hà Nội lúc đó. Miễn làm sao mỗi chúng ta tìm được cái vai của mình, thứ đặc sản của mình, thì rồi không bao giờ thiệt, thiên hạ sẽ biết hết, cuộc đời này công bằng trong cái lý lớn lao của nó.
Từ quá trình sáng tác của Xuân Sách, tôi đã thử liên hệ với đời sống văn nghệ, những mẫu người viết một thời. Nhưng bản thân số phận người viết Xuân Sách cũng là một nhân vật mà tôi muốn kể tiếp. Sau đây là một ít chuyện vặt và những suy nghĩ rút ra từ đó.
Ngoài thơ tứ tuyệt các nhà văn cũng thường cũng “chơi" nhau bằng câu đối. Tôi nhặt ra mấy câu tạm gọi là tiêu biểu.
Về Tú Mỡ và Khái Hưng
--Dưới bóng tre xanh Tú Mỡ buông câu dòng nước ngược
Dọc đường gió bụi Khái Hưng đứng bán gánh hàng hoa
Về Vân Đài và Đoàn Phú Tứ
--Thanh lịch Vân Đài, thanh lịch... kịch
Ngã ba Phú Tứ, ngã ba.. hoa
Về Thanh Tịnh
-- Thanh thanh thanh, thanh tú thanh giường thanh thiếu nữ
Tịnh tịnh tịnh, tịnh sừng tịnh mỏ tịnh nam mô
Và về Xuân Sách
-- Xuân đâu nữa 40, con 3 đứa, sao 3 ngôi, khôn dại dại khôn, khôn cũng nó, dại cũng nó
- Sách gì cũng năm bảy, thơ một thể, văn một thể, đức tài tài đức, tài nơi mình, đức nơi mình
Đôi câu đối này Xuân Thiều làm năm 1972. Nó đã phác ra đầy đủ con người gia cảnh tác giả thơ chân dung. Sao ba ngôi chỉ quân hàm thượng úy mà Xuân Sách mang trên vai ( Hữu Mai Hồ Phương lúc này đã đeo quân hàm thiếu tá). Tên ba đứa con chính là những chữ làm nên bút danh Lê Hoài Đăng.
Từ Xuân Sách lúc này có thể nhận ra dấu ấn một nếp sống thời chiến ổn định ở hậu phương Hà Nội trước 1975. Ổn định hay trì trệ thì cũng vậy. Trừ bom đạn, một chiến trường ở xa và những người đi người về, còn tất cả như đứng nguyên, năm nay giống năm ngoái. Sự trì trệ này là bao trùm nên tự nhiên là đi từ đời sống sang sáng tác. Những tờ báo ra những số giống nhau, bài vở na ná như nhau. Những nhà văn hàng đầu cũng thấy bí, lặp lại mình, chán mình. Chỉ có các cây bút công chức là thấy hợp. Chất công chức trong Xuân Sách cũng được dịp “phát huy’. Các nhà xuất bản cần những cuốn sách tả chiến trường cho đèm đẹp một chút ? Thì , như trên đã kể, Xuân Sách có tập truỵện Đêm ra trận tập thơ Trong lửa đạn. Phong trào văn học cần những tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhất là cái phần tham gia chiến tranh của thiếu nhi? Thì Xuân Sách có Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Mặt trời quê hương...Tôi xin phép không kể ra đây hết mọi sự trung bình thấp lè tè dang dở... của nhiều tác phẩm đương thời. Nhưng làm thế nào được, cùng đường rồi hết cách rồi. Sự đầu hàng cam chịu bao gồm cả cách nghĩ. Một cách rất bản năng Xuân Sách đã tìm ra cho mình cách tồn tại lý tưởng . Một mặt anh thừa hiểu những cái mình viết ra chả là gì cả ( anh viết rất vội, chỉ cốt được in, chứ không gửi gắm tâm huyết gì ). Mặt khác anh vẫn không giấu được một nỗi vênh vang ngấm ngầm. Ta đã có sách in, ta cũng chả kém gì đời. Sự trâng tráo, giá anh thấy ở ai sẽ cười giễu ngay, thì lại trở thành cách xử thế chủ yếu của anh. Dường như sau trang viết của Xuân Sách lúc này là cái cười khẩy, giữa sự dày công lao tâm khổ tứ của các anh với sự phẩy tay viết xong của tôi, thua đươc có là bao?
Chạm mặt nhau trong cơ quan, mấy năm ấy, tôi luôn luôn bắt gặp một Xuân Sách lưỡng phân. Lúc là người nhũn nhặn biết điều, lam lũ làm ăn; lúc khác là kẻ ra cái điều hơn người, kiêu ngạo vô lối. Lúc cam chịu nhẫn nhục, lúc lại lồng lộn như con ngựa bất kham. Vừa đục nước béo cò tranh thủ làm ăn kiếm chác, vừa ngả sang hư vô thấy mọi thứ hão huyền. Và anh lại muốn xoa đầu thiên hạ , muốn cười thầm, muốn lắc đầu làm một cái án tử hình cho những kẻ gặp thời kẻ quá may mắn, muốn có một quân tẩy xóa bỏ tất cả.
Trong số những ấn tượng lớn nhất về Xuân Sách tôi nhớ tới cái bĩu môi khinh đời của anh khi nghe những bản báo cáo về công trạng sáng tạo và phẩm cách của đám người làm nghề. Anh nắm bắt rất nhanh cái hãnh tiến ở người này, cái lặng lẽ sung sướng đếm tiền của người kia. Mọi thành tựu dưới mắt anh như đều hiện ra với cái vẻ vô nghĩa của nó. Cuối năm 1973, nhân dịp tổ sáng tác của Hồ Phương tổng kết, Xuân Sách cũng ném ra cách tổng kết của mình
Tổ sáng tác, tổ sáng tác
Tác phẩm ùn ra như đống rác
Dấu chân người lính chửa in xong
Đã viết Ký sự hai bờ đác
Ông Chủ tịch huyện cưỡi xe tăng
Thằng nào không tránh thì mất xác
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Vùng trời
Mây trắng xếp đầy như xếp bạc
Một mình anh hùng Lê Mã Lương
Đánh cho lữ dù 3 tan tác
Thôi đành trở lại Thôn ven đường
Kiếm lấy cái gì mà gỡ gạc
Con gà động ổ nhà bên
Cục, cục tác, cục cục tác.
( những chữ được gạch chân ở trên đều là tên gọi tác phẩm mà các nhà văn VNQĐ lúc ấy mới cho in)
Trong tiếng Việt có một từ gọi là khôn. Người khôn thông thường được hiểu không phải là người uyên bác về kiến thức hoặc giỏi giang về nghề nghiệp mà chủ yếu là người giỏi thích ứng, trong phạm vi hạn hẹp của tài năng và trình độ của mình vẫn biết cách kiếm lợi cho bản thân làm nổi bản thân khiến người ta phải chấp nhận, lắm khi không yêu không phục nhưng cũng phải chấp nhận.
Làm sao mà một người sáng tác không có gì đặc biệt như Xuân Sách tạo đươc một ấn tượng khiến người ta luôn phải nhắc đến anh – đấy là cái khôn của anh.
Nguyễn Minh Châu ví von: Thằng Sách lúc này như chất dầu nhờn chỗ nào cũng chảy vào được, đâu cũng có mặt.
Mặc! Xuân Sách vẫn sống và viết một cách kiên trì với những lý lẽ riêng của mình. Có lần anh nói với Nguyễn Minh Châu:
-- Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
Dường như Xuân Sách không chỉ nói với thiên hạ mà thường xuyên nói với chính mình như vậy. Sự tự tin làm cho anh đứng vững, lại cũng là nhân tố khiến anh tìm cách huy động hết vốn liếng của mình cho cuộc chơi. Một lần nào đó anh bảo tôi:
-- Ông xem còn cửa nào mà tôi không thử vào không?
Nghe mà sững sờ! Trong khi tưởng là dong chơi Xuân Sách vẫn lẩn mẩn làm cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Ở những khu vực người khác bỏ qua anh lại gặt hái được một ít thành tựu. Trên tinh thần tự khẳng định như vậy, Xuân Sách có lần khắc họa chân dung mình một cách phô trương, dùng các tác phẩm của mình để ghép lại:
- Cô giáo làng tôi đẻ sòn sòn
Một đêm ra trận được nghìn con
Thiếu nhi Đình Bảng nô ầm ĩ
Du kích Bạch Đằng hát véo von
Đường ra mặt trận chân chẳng mỏi
Lối vào lửa đạn bước không mòn
Mặt trời rạng rỡ quê hương mới
Vang khắp xa gần một tiếng khôn
Còn nhớ khi lần đầu nghe đọc bài này, Nguyễn Minh Châu cho luôn một chùy “Như là một bản báo công ấy“. Nguyễn Khải thì điểm huyệt cả con người bạn: “Thế mà cũng đòi khôn!”
Dường như thấy tự khen như thế quá lố, nên Xuân Sách có lúc chữa như sau:
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người chồng goá
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường ra mặt trận gân cốt rão
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Khôn dại trần gian để tiếng cười
(tôi ghi theo bản chép trong sổ, so với bản in sau này câu cuối có khác. Câu cuối về sau là Ở một cung đường rách tả tơi )
Chê thì có chê, tuy nhiên âm điệu chủ yếu vẫn là khoe, khoe một cách kín đáo. Dao sắc không gọt được chuôi—người ta lại chỉ có thể kêu lên như vậy.
Tận hưởng lộc trời
Tuy chỉ in ra có một lần, nhưng thơ chân dung thực sự tồn tại theo lối truyền khẩu. Mà khi truyền khẩu thì nó trở nên một thứ tập mờ không có hình thù rõ rệt, bị giải thích tuỳ tiện, có lúc trở thành một thứ bí truyền, khiến người ta vừa đọc vừa giải đoán.
Chẳng hạn đây là những lời ca tụng thơ chân dung. “Hình như trong đó sừng sững đến cả trăm gương mặt. Tập thơ đặc tả những gương mặt quen thuộc, nhàu nát như thể sách giáo khoa. Những thế hệ bầy đàn như chúng tôi chính là đã lớn lên trong cái vầng hào quang giáo khoa chói lọi ấy”.
Nên nhớ là Xuân Sách làm tập này ban đầu chỉ để đùa, chả có lớp lang quy hoạch gì. Có một vài bài làm chỉ để lấp chỗ trống. Có bài làm theo đơn đặt hàng. Có mấy trường hợp một nhà văn thấy phải có mặt trong tập thơ này của Xuân Sách thì mới nên người, nên chèo kéo ông mời mọc ông; rồi thì Xuân Sách cũng chiều đời mà làm thôi chứ chả hề mang vào đấy chút chủ kiến nào cả.
Còn về nghệ thuật loạt thơ cũng trong tình trạng xôi đỗ, bài hay bài dở, khá nhiều bài chặt chẽ ( nhất là mấy bài làm theo thể tứ tuyệt ) nhưng nhiều hơn là những bài vần điệu xộc xệch, tác giả viết vội viết vàng cho qua, và trong khi thưởng thức người ta chỉ mải để ý xem nó dùng để chơi xỏ ai, ra đòn có ác không, chứ không đếm xỉa tới nghệ thuật.
Song khi đã mê rồi còn ai tỉnh nữa. Hơn nữa từ yêu thơ, người ta chuyển sang yêu người, cái bước đi phi lô-gich ấy đã đến với cuộc đời bao người, lại đến với Xuân Sách.
Từ sau 1980, cuộc sống trong nghề của anh có bước rẽ ngoặt. Không chỉ chuyển về các cơ quan văn nghệ dân sự, mà cái chính là từ nay anh trở thành một bộ phận của sinh hoạt văn học ở cả bề nổi cũng như bề chìm của nó. Trong giới, cái tên Xuân Sách nổi lên như một người thạo đời thạo việc. Khoảng 1989-90, Dương Thu Hương còn sinh hoạt với Hội nhà văn, và nhiều lần được nhăm nhe vào chấp hành hội. Trước Đại hội nhà văn cuối 1989, Dương Thu Hương nói với nhiều người:
-- Tôi mà trúng vào Ban chấp hành thì thả nào tôi xin Đại hội để nhường cho Xuân Sách. Dương Thu Hương tin khả năng ứng phó và hiểu nghề, hiểu giới viết văn của Xuân Sách sẽ giúp cho việc điều hành hoạt động của Hội.
Ngoài những người bạn cũ, bắt đầu có bao nhiêu người viết khác, chỉ đọc chân dung mà cảm thấy Xuân sách như người quen của mình. Các đám nhậu trở nên sang trọng hơn nếu mời được Xuân Sách đến dự. Người ta chẳng những thấy đây là một tác giả sành sỏi thạo đời mà còn tin chắc rằng anh là một người viết có bao điều chưa bộc lộ, có cái bề sâu thăm thẳm chưa kịp nói ra. Cơn sóng ngấm ngầm sùng bái đã đẩy tác giả của những bài thơ đùa bỡn này lên thành một bậc trí giả, một cây bút uyên bác thông kim bác cổ. Cách nghĩ thâm thúy của người Tàu được vận dụng để cắt nghĩa. Trong số các danh hiệu được đặt bên cạnh anh có những chữ thuộc loại thiêng liêng nhất mà dưới áp lực của văn hóa Trung Hoa, mọi người đều dùng một cách tự nguyện. Nào một ẩn sĩ cô đơn, một nhân giả, một chân kẻ sĩ, một cây cổ thụ. Có mặt trong một bữa rượu, anh được mô tả “có cái gì giống Khuất Nguyên ngày trước. Cả cuộc đời say, đủ các kiểu say, chỉ có mình ông tỉnh...” “ Ông chính là người mà thời gian đã kịp “nấu” thành... cao, một thứ “cao” giống như cao hổ cốt.”
Dễ dàng đoán ra tâm trạng nao đã khiến người ta có sự quá đáng trong những lời khen tặng như vậy. Ngoài đời nhiều giá trị giả quá, mà không ai phá tung ra được, nên thấy ở Xuân Sách có chút gì thực, là người ta khen không tiếc lời. Xã hôi tốt xấu nhập nhèm, mà tìm trong dư luận công khai chẳng thấy gì nên người ta mù quáng tin vào những lời đồn thổi. Xã hội quá nhiều người sống cứ nhô ra, làm nổi mình lên, nên thấy ai có vẻ bình lặng một chút, người ta gán cho đủ thứ phẩm chất tốt đẹp.
Câu thơ Xuân Sách viết về Chính Hữu Anh thành đồng chí tự bao giờ? ( Đồng chí là tên một tập thơ Chính Hữu) lúc này có thể đổi ra anh thành huyền thoại tự bao giờ?
Và tôi hiểu rằng, khốn khổ, cũng như nhiều nhân vật hoạt động xã hội thời nay, Xuân Sách cũng tham gia vào cái việc tạo ra huyền thoại cho chính mình. Anh muốn bù lại những năm bị thiệt thòi, bị quên lãng.
Ở các làng xóm xưa có những nho sĩ chuyên làm vè. Cái gì họ cũng biết một tí. Về kiến thức, chân trời của họ là những cuốn sử sách và triết lý bên Tàu. Nhưng cái chân trời ấy xa quá thăm thẳm nên khi đến với mỗi người thì nó chỉ còn là những mảnh tan nát rời vụn mỗi người nhặt một mảnh mỗi kiểu. Xuân Sách cũng không ra thoát khỏi tình trạng chung. Nhưng như thế kể đã đủ lắm.
Ngoàì một chút “thâm như người Tàu” , loại trí thức nông thôn mà Xuân Sách đại diện lại còn chỗ mạnh của người trí thức bình dân. Lơ lửng sống giữa nông thôn, họ như ma xó, tức là không cần đi đâu mà chuyện gì trong cái “ hương đảng tiểu triều đình” cũng không qua khỏi mắt. Tầm hiểu biết của họ bao quát từ những vụ việc bê bối trong làng xóm tới các kiểu tính cách con người, những mối quan hệ lằng nhằng phức tạp. Với năng khiếu thiên về phúng thích (=châm biếm mỉa mai), những người làm vè nhậy với những gì cũ càng, héo hon, tan nát. Vượt quá lên nữa, đôi khi họ chạm tới cả sự vô nghĩa của kiếp người lẫn sự bất lực của cái cao sang cái tốt đẹp.
Xuân Sách là một con người như thế còn sót lại. Xuân Sách mang cái nếp nghĩ ấy nghĩ về làng văn. Ta biết rằng cuối đời Xuân Sách dặn người thân khi chết đưa mình về làng. Tôi nhìn nhận việc này như một lời thú nhận. Người ấy biết thân biết phận .
Sáng tác của Xuân Sách từ 1980 cũng theo đà này mà thay đổi về sau cũng đậm hơn sắc thái nhân sinh
Làm vua mà cũng chán
Bỏ đi theo mây ngàn
Một nước cờ Yên Tử
Làm bận lòng thế gian ( bài Yên Tử )
Đừng rót nữa tôi không sành rượu
Uống không say thì uống làm gì
Vui chẳng thêm, buồn không quên được
Cứ như thừa từ cái mặt thừa đi
Cứ như thừa trong cõi đời náo nhiệt
Hay hớm gì nhìn gan ruột người ta
Giữa thời buổi cạnh tranh quyết liệt
Cứ tỉnh queo lắm lúc cũng phiền hà... ( bài Rượu )
.
Tôi về tới bến sông xưa
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò
Nhìn theo ngọn khói vu vơ
Nhớ thương thì có đợi chờ thì không
Buồn ai thả lại giữa dòng
Cho tôi mang lấy nặng lòng chiều nay
Hư hao một thoáng heo may
Sương nhòa mặt đất mây bay cuối trời
Cất lên một tiếng đò ơi
Nhỏ nhoi như giọt mưa rơi giữa đồng. ( bài Bến quê ).
Trong các hồi ức có liên quan tới nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi đã kể những buổi họp mặt ngẫu nhiên ở đó các nhà văn chúng tôi sống thật cuộc sống của mình. “Giao ban“ với nhau về những tin tức mới thu thập được. Đọc được cái gì hay kể lại. Có chuyện gì bực bội kể lại. Bao nhiêu những tình cảm suy nghĩ mà mỗi người vừa trải nghiệm có dịp bộc lộ. Thành thử ở đó mỗi nhà văn cũng có dịp hiện ra với tính cách có thật của mình. Hữu Mai với bộ dạng kín kín hở hở muốn chứng minh rằng mình quen biết nhiều vị cấp trên, được dự vào nhiều việc quan trọng. Xuân Thiều còn nhiều chất của người cán bộ cơ sở, thực thà đơn giản, trong khi Hải Hồ ranh vặt, Nhị Ca hư vô, Mai Ngữ chẳng còn tin ở việc gì tử tế trên đời...
Trong số này tôi nhớ hơn cả là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu. Người thứ nhất sôi nổi hào hứng không chỉ từng trải sự đời mà còn giỏi bình luận biết chớp ngay được những chi tiết người khác vừa kể biến ngay thành tài liệu riêng, và điều quan trọng hơn là cái gì cũng chấp nhận, chuyện gì cũng thấy có lý. Còn người thứ hai bề ngoài như một người thừa, thỉnh thoảng chêm vào một câu chẳng đâu vào đâu hoặc nhếch mép cười một mình, song thật ra ngấm ngầm thu góp tất cả, để rồi mai kia trong buổi nói chuyện riêng sẽ thủ thỉ với tôi về những chiêm nghiệm và sau cùng đưa những gì tâm huyết vào trang sách.
Người thứ ba tôi phải nhớ là Xuân Sách. Anh có cả đặc điểm của hai người trên. Với sự thông minh hiếm có, gần như chuyện gì anh cũng có thể tham gia được, chuyện bên ta hay bên Tàu cũng chen vào được. Cũng có lúc chẳng qua là nói vuốt đuôi nhạt nhẽo, song có khi lại là sự tiên cảm sâu sắc kỳ lạ. Ngay hồi ấy, tức là giữa lúc cách mạng văn hoá bên Trung Hoa bộc lộ tính cách cực đoan kỳ dị của nó, Xuân Sách có lúc đã dự đoán đúng. Anh bảo không chừng thứ tai hoạ này lại là một lời cảnh tỉnh, sau cơn dằn vặt này xã hội Trung Hoa sẽ trưởng thành vượt bậc. Đây là kết quả của một đầu óc có nhặt được ít mảnh vụn lấy từ những Đông Chu liệt quốc, Chiến quốc sách, Tam quốc, Thuỷ hử. Còn cách bộc lộ của Xuân Sách thì đại khái thường gồm mấy bước thế này. Thoạt đầu, giữa đám đông anh cũng chỉ dửng dưng lơ láo như một người thừa. Làm sao mà thi thố tài năng được với những cái mồm lợi hại khác? Vả chăng còn để mọi người có ngón gì trổ hết ra đã chứ. Rồi cái gì phải đến sẽ đến. Khi câu chuyện đã tàn, phần lớn mọi người ra về cả, anh thường còn cùng một vài người khác nán lại tiêu hoá câu chuyện. Và Xuân Sách là người tiêu hoá nhanh nhất, có cách giải thích độc đáo nhất khiến những ai kiên trì ở lại cùng anh sẽ không mấy khi phải hối hận. Mà về cách biểu hiện, đã bốc lên thì Xuân Sách của chúng tôi cũng bồng bột lắm. Cũng có lúc anh đỏ mặt tía tai như cãi nhau với ai đó. Lại cũng có lúc đang ngồi anh phải đứng lên vung chân múa tay như đang diễn thuyết trước đám đông, và diễn xong lăn ra cười, không hiểu sao tôi thường hay nghĩ cái tiếng cười tự mình thưởng thức cái sự bình luận sâu sắc của mình ở Xuân Sách lúc ấy vừa sang mà lại vừa hèn hèn thế nào ấy.
Tôi nghĩ sự có mặt của Xuân Sách, cái vai Xuân Sách đóng trong những buổi nói chuyện trên đây cũng mang bóng dáng cách tồn tại của Xuân Sách nói chung. Những vần thơ chân dung của anh, sự có mặt của anh trong giới văn nghệ mà trên đây tôi thử miêu tả nuôi trong đầu óc tôi một cảm tưởng về sự đa dạng của tài năng trong giới văn nghệ , nhất là văn nghệ trong hoàn cảnh của Hà Nội lúc đó. Miễn làm sao mỗi chúng ta tìm được cái vai của mình, thứ đặc sản của mình, thì rồi không bao giờ thiệt, thiên hạ sẽ biết hết, cuộc đời này công bằng trong cái lý lớn lao của nó.
Published on August 17, 2016 01:18
August 12, 2016
Thư Xuân Quỳnh viết khi đi thực tế ở Quảng Bình Vĩnh Linh 1969 ( phần cuối)
25/10/1969
Nhàn thân mến,
Hôm nay anh Phạm Tường Hạnh ở ngoài ấy vào. Anh ấy bảo anh
cũng đi Vĩnh Linh. Thế là tôi đi cùng với anh ấy luôn. (Hôm nay may quá! Vì về
Hội lấy thư nên gặp anh ấy).
Thế là có người cùng đi.
Tôi và anh Hạnh còn đi Đại Phong, đi Ngư Thủy chừng nửa
tháng rồi mới đi Vĩnh Linh. Tôi cảm thấy yên tâm hơn và chắc Nhàn cũng yên tâm
vì tôi có người cùng đi.
Anh Hạnh lại là một người rất tháo vát.
Bây giờ chỉ còn có một cái lo là lo xe đạp hỏng giữa đường
thôi. Xe của tôi lốp cũ quá rồi.
Đi đường xốc long hết ốc. Tối không tìm thấy cái ốc xe đâu cả.
Hôm sao phải buộc dây thép vào chỗ mất ốc.
Từ trang sau tôi sẽ ghi theo nhật ký đi đường, Nhàn chịu khó
xem. Vì rằng Nhàn hình như cũng muốn theo dõi những cuộc đi của bè bạn và náo nức
về những chuyến đi xa.
26/10/1969
Bị mệt – không hiểu chiều có đủ sức đi Đại Phong không. Thèm
uống một cốc nước đường vô cùng!
3g30, đi. Qua phà Lệ Thủy trời đã tối. Gió dữ dội. Cơn mưa,
đường tối quá, không trông rõ. Rất đói.
Đến bến phà Quán Hào, nấu ăn đêm. Trời gió, không thắp được
ngọn đèn. Đêm mưa. Nước mưa cứ hắt vào mặt không sao ngủ được. Rét quá !
27/10/1969
Vẫn mưa, nhưng mưa nhỏ thôi. Tôi và anh Hạnh đạp xe đi Đại
Phong. Đường xuôi gió nên đi xe rất nhanh. Đi đến giữa đường bị nghi là gián điệp
bị một xe đuổi theo hỏi giấy. Chắc là vì anh Hạnh mặc áo phi công Mỹ và hai người
cùng đeo kính râm. Sau khi hỏi xong họ thấy đủ giấy tờ thì họ xin lỗi và bảo rằng:
Vì có 5 tên ở Hà Nội đi, họ đã bắt được 3 tên, còn lại 2 tên là một nam và một
nữ, họ đang truy lùng nên họ phải quay xe ô tô lại đuổi kịp bọn tôi. Kể cũng
vui!
28/10/1969
Ở Đại Phong.
Trời mưa ròng rã, lạnh rồi! Chúng tôi ở một nhà có bộ đội
cùng ở. Nơi này có rất nhiều bộ đội đi B về đây dưỡng sức để rồi lại sắp đi.
Nhiều người bị sốt rét.
Nhà tôi ở có một anh bộ đội rất trẻ. Tên là Viện. Cứ mỗi
ngày anh lên một cơn sốt dữ dội. Có lúc sốt nói mê.
Đêm tôi nằm nghe hết thấy bộ đội tập hát ở nhà bên lại nghe
anh lính trẻ sốt rét rên suốt đêm.
Anh em bộ đội rất trẻ, từ 10 đến 23 tuổi. Họ nói chuyện về bệnh
sốt rét ác tính chết rất nhiều người. (Họ nói đến cái chết thản nhiên như nói đến
cuộc đi chơi, ăn cơm, uống nước). Chị chủ nhà cũng nói rằng có một anh bộ đội ở
đây mấy tháng trước, trong khi sốt rét quá, điên lên, lấy con dao rồi ra nhà xí
cắt lưỡi. Người ta đưa ra viện ba ngày sau thì chết.
Họ nói chuyện về những cuộc hành quân mang nặng, vứt hết cả
quần áo đi chỉ giữ cái điếu cày. Về chuyện đói, đổi quần áo cho dân Lào lấy gạo
và thịt. Dân Lào bây giờ đa số là mặc áo quần của bộ đội, người thì đổi, người
thì lấy của bộ đội chết.
Họ nói về những lần đóng quân ở những làng trong Nam, nơi
dân còn chưa hiểu, họ bảo: “Đã để cho các bác nửa nước ở ngoài ấy rồi các bác
không ở. Ngoài ấy không sung sướng sao mà các bác vào đây làm khổ chúng tôi” vì
bộ đội đóng đâu là nó tan tác đến đấy. Cũng có những nơi dân đùm bọc yêu thương
…
Đêm nào tôi cũng nghe họ hát và thấy họ rên, nói mê.
Tôi nghĩ về tổ quốc. Tổ quốc chúng ta trong tay những người
lính trẻ này. Tổ quốc chúng ta là những người lính trẻ đang sốt rét và hát ca.
Tôi thấy xót xa trước những hành động phản lại xương máu của
anh em. Chúng ta không có quyền làm những điều gì hèn hạ xấu xa trong khi những
người lính trẻ này đang chết ngoài mặt trận cho chúng ta. Tôi không lên gân
đâu. Tôi nghĩ tất cả điều này với những xúc cảm thành thật mà tôi tự tìm ra.
Không ai dạy bảo.
29/10/1969
Trưa nay Viện – anh bộ đội sốt rét nhận được thư của người
yêu ở bệnh viện Hà Tĩnh. Anh đọc to cho anh em nghe chung. Thư có vẻ “văn
chương” lâm ly thống thiết – anh em ai cũng nắc nỏm khen cô ta viết thư hay. Họ
bình từng câu, từng chữ. Có anh nói đùa: Thư viết rằng: “…bố mẹ vẫn khỏe, chó đẻ
7 con”. Mọi người cười ầm ỹ rồi giải tán.
Viện để lá thư vào túi trong ngực, lại giở ra đọc lại suốt
buổi trưa. Chiều Viện đã đi bệnh viện, trước khi đi, anh dặn Bảy, bạn anh: “Ở
nhà nếu có thư thì nhận hộ”
Nói chuyện về chuột.
Ở Đại Phong có cái đặc
biệt là nhiều chuột. Tôi vẫn chưa thấy nơi nào nhiều chuột như ở đây.
Ban đêm nó “hoạt động” suốt. Nó cậy được cả những cái nồi rất
to. Nó cắn quần áo, ăn xà phòng, gặm cả cái chân ghế bằng gỗ lim. Có cái ba lô,
tôi chỉ sợ chuột cắn quần áo nên phải bỏ vào trong màn nằm. Nó chạy lục xục
quanh giường. Có hôm không buông màn, nó bò qua mặt chọc cả chân vào mắt mình.
Không làm sao trừ được chuột, nhân dân ở đây bảo chỉ có lụt
là nó chết thôi. Có những năm nước lụt to, chuột chết, bơi thuyền đến đâu cũng
thấy xác chuột và mùi hôi thối. Vì vậy họ rất mong lụt.
Năm nay nước không lụt, nhân dân bảo: “Không lụt năm nay thì
sang năm lại mất mùa đấy!” Bởi vì sang năm sẽ rất nhiều chuột mà chuột sẽ phá hết
mùa màng.
Anh Đính – chủ nhiệm ở đây bảo nhà anh đã bắt được tới 40
con chuột to bằng bắp chân (chừng 1 kg một con) mà vẫn chưa ăn thua gì.
Mèo ở đây cũng sợ chuột. Chuột bắt gà, có những con gà to bị
chuột ăn cụt ngón chân. Chuột tha lợn con, chuột bắt vịt…
Một anh bộ đội nói chuyện rằng, ở bệnh viện Hà Tĩnh có một
con chuột 5kg. Nó chuyên môn ăn thịt người chết. Chị ruột anh ta chết vì bệnh
thương hàn, mang xuống nhà xác một đêm, sáng
hôm sau bị chuột ăn hết cả mũi, mồm, tai.
Sau người ta cũng bắt được con chuột này.
2/11/1969
Chúng tôi về Ngư Thủy. Trên đường đi rất vắng, thỉnh thoảng
mới gặp một vài người bộ đội đi kiếm củi hoặc khiêng lợn dọc dường.
Dắt xe qua động cát vất vả quá. Đi 17km đường đất còn hơn dắt
xe lên đường cát 1km.
Chúng tôi ở đơn vị pháo nữ bờ biển Ngư Thủy. Nhà chật, chúng
tôi phải mắc võng nằm. Lại bọ chét cắn.
Trời vẫn mưa ròng rã! Có đêm mưa lật cả tấm bạt che trên mái
lều, họ phải ra buộc lại bạt. Gió xoáy mạnh như bão lớn.
Ở đây ngoài các cô gái pháo thủ, chúng tôi còn có thêm bạn mới:
3 anh bộ đội, một người ở huyện đội, một ở thông tin và một là kỹ sư về sửa chữa
súng.
3/11/1969
Sáng, trời hửng một chút. Tôi, anh Hạnh và anh Thuận kỹ sư
đi dọc bờ biển chơi. Chúng tôi nhặt được nhiều hộp và chai lọ dạt vào. Nhân dân
ra nhặt cũng đông. Họ bảo là có tàu nào đắm đó. Biển động nên nó trôi vào. Có
người nhặt được cả cái mặt giường. Chúng tôi nhặt nhiều đến nổi phải vứt gần hết
đi vì không thể nào chở về được, mà đi đường còn xa. Chúng tôi mới đùa với nhau
là: hợp tác xã đồng nát vì những đồ chúng tôi nhặt được mà bán cho hàng đồng
nát ở Hà Nội chắc được khối tiền. Cả đèn nê-ông nữa.
5/11/1969
Chúng tôi lại đi. Chỉ còn có anh Thuận ở lại (anh người miền
Nam). Anh ấy bảo anh ấy còn vào đường 9 chưa biết chừng anh ta sẽ không trở về
nữa (lúc này hai anh bộ đội kia cũng đi rồi). Anh Thuận có vẻ cũng buồn. Anh ta
bảo có người vợ làm ở Bộ Nội thương Hà Nội. Nếu anh ta về được sẽ mang về cho vợ
cái hộp khâu – hộp bánh quy tròn anh nhặt được ở bờ biển. Chúng tôi cũng rất
quý và thương anh ta.
Tôi nghĩ đến cụ Pautopxky, nếu tôi có tài như cụ, chắc tôi sẽ
viết được một truyện “man mác” gì đó có thể lấy đề là Gió biển. Tôi sẽ nói về những cảm xúc của chúng tôi trong những
ngày ở đây, về anh bộ đội miền nam, cuộc gặp của chúng tôi và người vợ trẻ ở Hà
Nội… Nói chung là tôi có thừa cảm xúc và chi tiết, chỉ thiếu có cái “tài” vả lại
những truyện như thế người ta bây giờ cũng chả cần đến lắm. Cuộc sống bây giờ
trần trụi và thực dụng. Người ta đang yêu cầu nói thẳng, nói rõ và đúng vào
lòng người ta bằng những đường ngắn nhất.
Trên đường đi vào Vĩnh Linh ngược gió. Gió mạnh quá. Đường rất
vắng. Thỉnh thoảng gặp người ngồi nghỉ hoặc ngủ ở bên đường. Tôi cứ nghĩ là tôi
được đi cùng với ông Hạnh cũng là may. Mặc dù ông ấy có nhiều điểm cũng không hợp
ý mình lắm nhưng nếu như mình tôi đạp xe đi, đường vắng thế này thì không gặp
người tôi cũng sợ mà gặp được người đi đường tôi cũng sợ.
Sẩm tối trời cơn mưa. Chúng tôi tìm vào một nơi sửa chữa ô
tô ở bên đường xin ngủ nhờ. Mấy thằng ở đó nó cứ đuổi quầy quầy. Tôi ức đến ứa
nước mắt. Xung quanh chả có nhà cửa gì nên phải nói khó với họ, tôi cảm thấy tủi
nhục. Tôi có nói với anh Hạnh là: “Thôi nếu họ không bằng lòng thì mình đi tìm
nơi khác”. Nhưng cuối cùng một người khác trong bọn họ bằng lòng nhận chúng tôi
và đưa tôi vào chỗ họ ăn cơm xong thì họ tìm một nhà dân gần đó cho chúng tôi
ngủ nhờ (ở Vĩnh Chấp).
Đêm không tài nào ngủ được vì chiều đi đường về đến đây khát
quá uống gần một ấm chè tươi, lại bị bọ chét cắn ghẻ và ngứa cả đêm.
7/11/1969
Chúng tôi tiếp tục đi vào để tìm cơ quan tuyên giáo. Đi còn
cách cầu chừng 10km tôi trông thấy những đám khói lớn và tiếng bom đan về phía
Do Linh. Nhưng đồng thời tôi trông thấy cờ ta bay rất cao, tôi thấy mừng và yên
lòng.
Loanh quanh đến quá trưa mới tìm được cơ quan, vì đây họ “3
không”, họ không nói hoặc toàn chỉ lung tung, làm mình tìm thật khổ. Nếu mà một mình
tôi thì có thể tôi phải tìm mất 5 ngày mới tới địa điểm.
Ở đây chúng tôi cũng nghe tiếng bom của B52 rất lớn bên bờ
Nam.
Mai chúng tôi bắt đầu xuống xã. Thư này có lẽ là thư sau
cùng vì thư chắc chỉ về trước tôi một ít ngày thôi.
Xuân Quỳnh.
Nhàn thân mến,
Hôm nay anh Phạm Tường Hạnh ở ngoài ấy vào. Anh ấy bảo anh
cũng đi Vĩnh Linh. Thế là tôi đi cùng với anh ấy luôn. (Hôm nay may quá! Vì về
Hội lấy thư nên gặp anh ấy).
Thế là có người cùng đi.
Tôi và anh Hạnh còn đi Đại Phong, đi Ngư Thủy chừng nửa
tháng rồi mới đi Vĩnh Linh. Tôi cảm thấy yên tâm hơn và chắc Nhàn cũng yên tâm
vì tôi có người cùng đi.
Anh Hạnh lại là một người rất tháo vát.
Bây giờ chỉ còn có một cái lo là lo xe đạp hỏng giữa đường
thôi. Xe của tôi lốp cũ quá rồi.
Đi đường xốc long hết ốc. Tối không tìm thấy cái ốc xe đâu cả.
Hôm sao phải buộc dây thép vào chỗ mất ốc.
Từ trang sau tôi sẽ ghi theo nhật ký đi đường, Nhàn chịu khó
xem. Vì rằng Nhàn hình như cũng muốn theo dõi những cuộc đi của bè bạn và náo nức
về những chuyến đi xa.
26/10/1969
Bị mệt – không hiểu chiều có đủ sức đi Đại Phong không. Thèm
uống một cốc nước đường vô cùng!
3g30, đi. Qua phà Lệ Thủy trời đã tối. Gió dữ dội. Cơn mưa,
đường tối quá, không trông rõ. Rất đói.
Đến bến phà Quán Hào, nấu ăn đêm. Trời gió, không thắp được
ngọn đèn. Đêm mưa. Nước mưa cứ hắt vào mặt không sao ngủ được. Rét quá !
27/10/1969
Vẫn mưa, nhưng mưa nhỏ thôi. Tôi và anh Hạnh đạp xe đi Đại
Phong. Đường xuôi gió nên đi xe rất nhanh. Đi đến giữa đường bị nghi là gián điệp
bị một xe đuổi theo hỏi giấy. Chắc là vì anh Hạnh mặc áo phi công Mỹ và hai người
cùng đeo kính râm. Sau khi hỏi xong họ thấy đủ giấy tờ thì họ xin lỗi và bảo rằng:
Vì có 5 tên ở Hà Nội đi, họ đã bắt được 3 tên, còn lại 2 tên là một nam và một
nữ, họ đang truy lùng nên họ phải quay xe ô tô lại đuổi kịp bọn tôi. Kể cũng
vui!
28/10/1969
Ở Đại Phong.
Trời mưa ròng rã, lạnh rồi! Chúng tôi ở một nhà có bộ đội
cùng ở. Nơi này có rất nhiều bộ đội đi B về đây dưỡng sức để rồi lại sắp đi.
Nhiều người bị sốt rét.
Nhà tôi ở có một anh bộ đội rất trẻ. Tên là Viện. Cứ mỗi
ngày anh lên một cơn sốt dữ dội. Có lúc sốt nói mê.
Đêm tôi nằm nghe hết thấy bộ đội tập hát ở nhà bên lại nghe
anh lính trẻ sốt rét rên suốt đêm.
Anh em bộ đội rất trẻ, từ 10 đến 23 tuổi. Họ nói chuyện về bệnh
sốt rét ác tính chết rất nhiều người. (Họ nói đến cái chết thản nhiên như nói đến
cuộc đi chơi, ăn cơm, uống nước). Chị chủ nhà cũng nói rằng có một anh bộ đội ở
đây mấy tháng trước, trong khi sốt rét quá, điên lên, lấy con dao rồi ra nhà xí
cắt lưỡi. Người ta đưa ra viện ba ngày sau thì chết.
Họ nói chuyện về những cuộc hành quân mang nặng, vứt hết cả
quần áo đi chỉ giữ cái điếu cày. Về chuyện đói, đổi quần áo cho dân Lào lấy gạo
và thịt. Dân Lào bây giờ đa số là mặc áo quần của bộ đội, người thì đổi, người
thì lấy của bộ đội chết.
Họ nói về những lần đóng quân ở những làng trong Nam, nơi
dân còn chưa hiểu, họ bảo: “Đã để cho các bác nửa nước ở ngoài ấy rồi các bác
không ở. Ngoài ấy không sung sướng sao mà các bác vào đây làm khổ chúng tôi” vì
bộ đội đóng đâu là nó tan tác đến đấy. Cũng có những nơi dân đùm bọc yêu thương
…
Đêm nào tôi cũng nghe họ hát và thấy họ rên, nói mê.
Tôi nghĩ về tổ quốc. Tổ quốc chúng ta trong tay những người
lính trẻ này. Tổ quốc chúng ta là những người lính trẻ đang sốt rét và hát ca.
Tôi thấy xót xa trước những hành động phản lại xương máu của
anh em. Chúng ta không có quyền làm những điều gì hèn hạ xấu xa trong khi những
người lính trẻ này đang chết ngoài mặt trận cho chúng ta. Tôi không lên gân
đâu. Tôi nghĩ tất cả điều này với những xúc cảm thành thật mà tôi tự tìm ra.
Không ai dạy bảo.
29/10/1969
Trưa nay Viện – anh bộ đội sốt rét nhận được thư của người
yêu ở bệnh viện Hà Tĩnh. Anh đọc to cho anh em nghe chung. Thư có vẻ “văn
chương” lâm ly thống thiết – anh em ai cũng nắc nỏm khen cô ta viết thư hay. Họ
bình từng câu, từng chữ. Có anh nói đùa: Thư viết rằng: “…bố mẹ vẫn khỏe, chó đẻ
7 con”. Mọi người cười ầm ỹ rồi giải tán.
Viện để lá thư vào túi trong ngực, lại giở ra đọc lại suốt
buổi trưa. Chiều Viện đã đi bệnh viện, trước khi đi, anh dặn Bảy, bạn anh: “Ở
nhà nếu có thư thì nhận hộ”
Nói chuyện về chuột.
Ở Đại Phong có cái đặc
biệt là nhiều chuột. Tôi vẫn chưa thấy nơi nào nhiều chuột như ở đây.
Ban đêm nó “hoạt động” suốt. Nó cậy được cả những cái nồi rất
to. Nó cắn quần áo, ăn xà phòng, gặm cả cái chân ghế bằng gỗ lim. Có cái ba lô,
tôi chỉ sợ chuột cắn quần áo nên phải bỏ vào trong màn nằm. Nó chạy lục xục
quanh giường. Có hôm không buông màn, nó bò qua mặt chọc cả chân vào mắt mình.
Không làm sao trừ được chuột, nhân dân ở đây bảo chỉ có lụt
là nó chết thôi. Có những năm nước lụt to, chuột chết, bơi thuyền đến đâu cũng
thấy xác chuột và mùi hôi thối. Vì vậy họ rất mong lụt.
Năm nay nước không lụt, nhân dân bảo: “Không lụt năm nay thì
sang năm lại mất mùa đấy!” Bởi vì sang năm sẽ rất nhiều chuột mà chuột sẽ phá hết
mùa màng.
Anh Đính – chủ nhiệm ở đây bảo nhà anh đã bắt được tới 40
con chuột to bằng bắp chân (chừng 1 kg một con) mà vẫn chưa ăn thua gì.
Mèo ở đây cũng sợ chuột. Chuột bắt gà, có những con gà to bị
chuột ăn cụt ngón chân. Chuột tha lợn con, chuột bắt vịt…
Một anh bộ đội nói chuyện rằng, ở bệnh viện Hà Tĩnh có một
con chuột 5kg. Nó chuyên môn ăn thịt người chết. Chị ruột anh ta chết vì bệnh
thương hàn, mang xuống nhà xác một đêm, sáng
hôm sau bị chuột ăn hết cả mũi, mồm, tai.
Sau người ta cũng bắt được con chuột này.
2/11/1969
Chúng tôi về Ngư Thủy. Trên đường đi rất vắng, thỉnh thoảng
mới gặp một vài người bộ đội đi kiếm củi hoặc khiêng lợn dọc dường.
Dắt xe qua động cát vất vả quá. Đi 17km đường đất còn hơn dắt
xe lên đường cát 1km.
Chúng tôi ở đơn vị pháo nữ bờ biển Ngư Thủy. Nhà chật, chúng
tôi phải mắc võng nằm. Lại bọ chét cắn.
Trời vẫn mưa ròng rã! Có đêm mưa lật cả tấm bạt che trên mái
lều, họ phải ra buộc lại bạt. Gió xoáy mạnh như bão lớn.
Ở đây ngoài các cô gái pháo thủ, chúng tôi còn có thêm bạn mới:
3 anh bộ đội, một người ở huyện đội, một ở thông tin và một là kỹ sư về sửa chữa
súng.
3/11/1969
Sáng, trời hửng một chút. Tôi, anh Hạnh và anh Thuận kỹ sư
đi dọc bờ biển chơi. Chúng tôi nhặt được nhiều hộp và chai lọ dạt vào. Nhân dân
ra nhặt cũng đông. Họ bảo là có tàu nào đắm đó. Biển động nên nó trôi vào. Có
người nhặt được cả cái mặt giường. Chúng tôi nhặt nhiều đến nổi phải vứt gần hết
đi vì không thể nào chở về được, mà đi đường còn xa. Chúng tôi mới đùa với nhau
là: hợp tác xã đồng nát vì những đồ chúng tôi nhặt được mà bán cho hàng đồng
nát ở Hà Nội chắc được khối tiền. Cả đèn nê-ông nữa.
5/11/1969
Chúng tôi lại đi. Chỉ còn có anh Thuận ở lại (anh người miền
Nam). Anh ấy bảo anh ấy còn vào đường 9 chưa biết chừng anh ta sẽ không trở về
nữa (lúc này hai anh bộ đội kia cũng đi rồi). Anh Thuận có vẻ cũng buồn. Anh ta
bảo có người vợ làm ở Bộ Nội thương Hà Nội. Nếu anh ta về được sẽ mang về cho vợ
cái hộp khâu – hộp bánh quy tròn anh nhặt được ở bờ biển. Chúng tôi cũng rất
quý và thương anh ta.
Tôi nghĩ đến cụ Pautopxky, nếu tôi có tài như cụ, chắc tôi sẽ
viết được một truyện “man mác” gì đó có thể lấy đề là Gió biển. Tôi sẽ nói về những cảm xúc của chúng tôi trong những
ngày ở đây, về anh bộ đội miền nam, cuộc gặp của chúng tôi và người vợ trẻ ở Hà
Nội… Nói chung là tôi có thừa cảm xúc và chi tiết, chỉ thiếu có cái “tài” vả lại
những truyện như thế người ta bây giờ cũng chả cần đến lắm. Cuộc sống bây giờ
trần trụi và thực dụng. Người ta đang yêu cầu nói thẳng, nói rõ và đúng vào
lòng người ta bằng những đường ngắn nhất.
Trên đường đi vào Vĩnh Linh ngược gió. Gió mạnh quá. Đường rất
vắng. Thỉnh thoảng gặp người ngồi nghỉ hoặc ngủ ở bên đường. Tôi cứ nghĩ là tôi
được đi cùng với ông Hạnh cũng là may. Mặc dù ông ấy có nhiều điểm cũng không hợp
ý mình lắm nhưng nếu như mình tôi đạp xe đi, đường vắng thế này thì không gặp
người tôi cũng sợ mà gặp được người đi đường tôi cũng sợ.
Sẩm tối trời cơn mưa. Chúng tôi tìm vào một nơi sửa chữa ô
tô ở bên đường xin ngủ nhờ. Mấy thằng ở đó nó cứ đuổi quầy quầy. Tôi ức đến ứa
nước mắt. Xung quanh chả có nhà cửa gì nên phải nói khó với họ, tôi cảm thấy tủi
nhục. Tôi có nói với anh Hạnh là: “Thôi nếu họ không bằng lòng thì mình đi tìm
nơi khác”. Nhưng cuối cùng một người khác trong bọn họ bằng lòng nhận chúng tôi
và đưa tôi vào chỗ họ ăn cơm xong thì họ tìm một nhà dân gần đó cho chúng tôi
ngủ nhờ (ở Vĩnh Chấp).
Đêm không tài nào ngủ được vì chiều đi đường về đến đây khát
quá uống gần một ấm chè tươi, lại bị bọ chét cắn ghẻ và ngứa cả đêm.
7/11/1969
Chúng tôi tiếp tục đi vào để tìm cơ quan tuyên giáo. Đi còn
cách cầu chừng 10km tôi trông thấy những đám khói lớn và tiếng bom đan về phía
Do Linh. Nhưng đồng thời tôi trông thấy cờ ta bay rất cao, tôi thấy mừng và yên
lòng.
Loanh quanh đến quá trưa mới tìm được cơ quan, vì đây họ “3
không”, họ không nói hoặc toàn chỉ lung tung, làm mình tìm thật khổ. Nếu mà một mình
tôi thì có thể tôi phải tìm mất 5 ngày mới tới địa điểm.
Ở đây chúng tôi cũng nghe tiếng bom của B52 rất lớn bên bờ
Nam.
Mai chúng tôi bắt đầu xuống xã. Thư này có lẽ là thư sau
cùng vì thư chắc chỉ về trước tôi một ít ngày thôi.
Xuân Quỳnh.
Published on August 12, 2016 02:10
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
