Vương Trí Nhàn's Blog, page 56

August 9, 2016

Thư Xuân Quỳnh viết khi đi thực tế ở Quảng Bình, Vĩnh Linh 1969 ( phần đầu)




Mấy năm đầu chiến tranh, một việc  thường trực của nhà văn là đi thực tế. Với cánh nhà văn quân đội, chúng tôi có thuận lợi là kiếm xe rất dễ, đâu cũng có thể nhờ. Với các nhà văn bên Hội, khó hơn nhiều. Như trường hợp Xuân Quỳnh. Trong hai năm 1969-70, chị đã có hai chuyến đi dài vào Quảng Bình Vĩnh Linh  mỗi chuyến khoảng hai tháng, mang theo cả xe đạp để vào đến tỉnh thì còn xuống xã, sự vất vả như thế nào thì sau đây bạn đọc sẽ thấy. Tôi có may mắn là được Quỳnh khi đi viết thư về kể khá kỹ về các chuyến đi này. Hôm nay chép lại, không phải chỉ là để cùng các bạn đồng nghiệp ôn lại cuộc sống một thời khi chúng tôi còn rất trẻ  mà còn muốn các bạn trẻ hôm nay đọc vào sẽ  hiểu thêm về  những năm tháng xa xôi ấy. Hơn bốn mươi năm đã qua, nhưng tôi luôn  có cảm tưởng  cuộc chiến tranh vẫn chi phối cách sống và cách nghĩ của chúng ta.


Ngày 14 tháng 10 năm 1969



Vương Trí Nhàn thân,

Đáng lẽ tôi viết thư cho Nhàn từ lúc mới vào đây nhưng vì chưa có chuyện gì mới và chưa viết được gì.

Cho đến hôm nay tôi đã viết được vài bài. Tôi chép gửi về chỗ Bằng, Nhàn bảo Bằng đưa cho đọc hộ tôi. Chỉ Nhàn đọc thôi chứ đừng có “tuyên truyền” rộng nhé. Vì e là nó chẳng ra sao. Nhàn từ xưa đến nay vẫn tế nhị và kín đáo, tôi có dặn thế cũng thừa nhưng cứ dặn.

Tôi đã viết thư cho Vũ Quần Phương nói qua về những chuyện sinh hoạt của tôi. Chả có gì đâu, có bao nhiêu thì tôi đã viết ra thơ rồi đấy. Đọc thì biết. Quyển sổ Nhàn cho tôi đã bôi nhằng nhịt được vài trang. Toàn ghi những chuyện vụn. Chỉ sợ vài tháng sau mình xem lại thấy nó rỗng tuếch và trẻ con thôi.

Đợt này tôi đi cũng lý thú, dễ chịu, chỉ có nhớ nhà và nhớ các bạn thôi.

Tôi đã gặp một số các anh sáng tác ở Quảng bình, cả cô Tuyết Bông và Mỹ Dạ của anh Châu. Họ đều tốt với tôi.

Tôi xuống thôn xóm cũng được nhân dân yêu mến và đùm bọc. Tôi rất yên tâm. Chỉ có điều không đọc được sách và học thôi. Rất khó.

Nhàn nhớ viết thư cho tôi, đề địa chỉ:

Xuân Quỳnh Hội sáng tác Quảng Bình.

Đến cuối tháng 11 thì Nhàn đừng viết về đấy nữa, vì thư đến rất chậm và khi đó tôi đã đi Vĩnh Linh.

Tôi vẫn khỏe, hơi mất ngủ một chút.

Nhàn có gì mới không? Các bạn ở Hà Nội có gì mới không? Viết thư cho tôi tỷ mỷ.

Tôi rất mong.

Nhàn khỏe và sống cho “hay” nhé.

Thân.













15/10/1969

Thư thứ 2

Nhàn rất quý mến,

Cho tới hôm nay tôi đi đã được gần một tháng, vừa rồi tôi có viết cho Nhàn một lá thư nhạt nhẽo vô cùng, vì thực ra trong lúc đó cũng nhiều điều muốn nói nhưng tôi lại nói khác với cái mà tôi đang sống và đang nghĩ. Hôm nay nhận được thư Nhàn, tôi thấy ân hận về lá thư ấy.

Thật ra những ngày tôi đi đây thật là nhọc nhằn. Tôi phải vượt qua tất cả những điều khó khăn về thể chất và tâm hồn. Ở nhà đã có lần tôi nói với Nhàn rằng “tôi là người không phải bẩm sinh ra đã có nghị lực, muốn có được nghị lực, tôi phải tự rèn luyện. Cho nên mỗi chuyến đi xa cũng là một lần tôi tập cho tôi có nghị lực thôi”

Tôi cũng có nhiều cái xấu cũng như những người khác nhưng tôi cố gắng phấn đấu sống cho tốt cũng như cho “hay” như Nhàn vẫn nói. Cho nên tôi chịu đựng tất cả. Tôi sẵn lòng hy sinh những sở thích vô ích để có thể làm cho cuộc sống của tôi có ý nghĩa gì chăng.

Bây giờ tôi đã xa tất cả mọi thứ, xa những điều phiền phức và nhỏ nhen, nhưng đồng thời xa cả những người thân thiết mà tôi quý mến.

Ở đây trời mưa liên miên, lại mất ngủ vì rệp và bọ chét nhiều như chấu. Tôi càng nhớ nhà, nhớ các bạn. Có những đêm không thể ngủ được, tôi phải ra một cái thuyền ở bờ biển ngủ (đêm không mưa).

Tôi chợp mắt nghe tiếng sóng lại mơ là tiếng máy bay Mỹ oanh tạc rất khủng khiếp. Tôi phải bế con chạy hết hầm này đến hầm khác. Khi tỉnh dậy tôi mừng vì không phải thế và thương con đến xót xa. Còn ăn ở đây chỉ là một thứ lý do để mà sống. Biển động liên miên, toàn ăn cơm với nước mắm, rau cũng không có. Tôi chẳng chú ý đến bữa ăn nữa, có khi mình ăn rồi hay chưa ăn cũng chả cần và chả nhớ nữa. Còn cách đối xử thì tôi kể cho Nhàn nghe! Khi tôi vào đây, tôi không muốn nhờ vả tỉnh ủy, tôi tìm thẳng đến chi hội, tôi tưởng các anh sẽ mừng và sẽ giúp tôi những điều cần thiết. Tôi mang sẵn một tấm lòng tin cậy và quý mến . Nhưng mà không phải thế. Những người tốt ở đây lại là những người tôi chưa quen như Trần Nhật Thu – anh Văn Tôn (Hải Bằng) và anh Hà Nhật còn tổ chức của hội (là ông Hoàng và ông Tấn) thì rất nhạt nhẽo. Sở dĩ là hôm đi dự hội nghị Phụ Nữ, tôi có đùa anh Tấn một câu, thế là hôm sau ông ấy lập tức thay đổi kế hoạch. Ông ấy định đẩy tôi sang tỉnh ủy (sau có người nói lại cho tôi biết).

Và tôi đi không ai giúp đỡ qua một tý gì, kể cả cái giấy giới thiệu. Không ai hỏi tôi ăn ở ra sao, trong khi về hội, mỗi bữa ăn một bát cơm với canh rau muống suông và mắc võng ngủ. Tôi không có ý kêu ca về ăn ở đâu vì anh em ở đây đều khổ thế cả. Nhưng tôi kêu về sự quan tâm đến một người đến địa phương các ông ấy công tác, chưa kể là, tôi đã quen các ông ấy. Nói chung là còn rất nhiều chuyện phiền lòng. Nhàn cứ hỏi anh Châu sẽ biết, và về tôi sẽ nói thêm.

Hôm trời mưa rất to, Trần Nhật Thu đưa tôi ra bến đò đi sang bên Bảo Ninh. Qua đò tôi thấy buồn quá! Nhớ nhà, nhớ các bạn vô cùng và thầm quý mến các bạn vô cùng. Nhàn không thể hình dung tôi nhớ đến thế nào đâu. Những ngày ở Hà Nội có lẽ tôi ít nói chuyện với Nhàn hơn là Bằng và Phương. Nhưng tôi hiểu Nhàn không kém gì Bằng và Phương cả. Tôi biết Nhàn rất quý và thương tôi. Tôi không tự ái và sĩ diện đâu. Tôi được các bạn thương bao giờ tôi cũng được vui hơn, và chắc Nhàn cũng hiểu là tôi quý Nhàn như thế nào.

Tôi nghĩ rằng: “Trong cuộc đời này, nếu người ta sống chỉ có một mình hoặc chỉ có hai người mặc dù rất yêu nhau  đi chăng nữa rồi cũng chán, rồi cũng chả có ý nghĩa gì. Cho nên sống phải có xã hội và cái xã hội gần gũi nhất, cụ thể nhất của mình là bè bạn”.

Nhàn là một trong một số rất ít người bạn làm cho tôi cảm thấy cuộc đời này đáng tin cậy và yêu quý hơn. Bao giờ tôi cũng sống cho những người mà tôi quý mến. Vì thế tôi phải cố gắng vượt bản thân tôi, vượt những điều xấu mà tôi có để cho tôi, cho các bạn.

Tôi thấy tự hào về các bạn và bao giờ nghĩ đến các bạn tôi cũng nghĩ bằng tấm lòng trong sạch nhất.

Có đôi khi không viết được, tôi nghĩ rằng: “Nếu một ngày nào tôi không viết được nữa tôi sẽ tự ý rút lui. Tôi không bạn với các bạn nữa, vì tôi không còn lý do gì để chơi với các bạn. Tôi không muốn các bạn sẽ nói chuyện với tôi bằng một cái “nghĩa” là bạn cũ mà trong ý thức không bình đẳng về tri thức”. Cái hôm mà tôi ngồi chơi với Nhàn và Bằng ấy là tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi rất buồn!

Bây giờ thì tôi không nghĩ như thế. Tôi lại thấy xúc cảm với cuộc sống. Cuộc sống đáng tin yêu lắm mà sao tôi lại cứ day dứt về những cay đắng cá nhân?

Khi tôi mới về đây, tôi cũng định viết thư cho Nhàn và các bạn, muốn viết vô cùng nhưng tôi lại xấu hổ vì chưa làm được gì. Cho nên mãi hôm nay tôi mới viết cho Nhàn được lá thư có đầu có đuôi đây.

Những ngày này tôi sống cực nhọc thật nhưng mà “tự do” – cái tự do mà Nhàn đã phát hiện ra ở tôi ấy. Chưa bao giờ tôi thấy tự do và sung sướng như hôm nọ, suốt một buổi đi bộ dọc bờ biển chỉ có một mình, vì biển động, xã viên không ai ra cả. Tôi đi mấy tiếng đồng hồ, lòng tràn đầy xúc cảm (tôi không buồn đâu). Tôi cứ run lên sợ nó mất đi những giây phút như thế. Tôi đã viết một bài thơ về biển trong buổi đó - có lẽ là chưa trọn bài, vì tôi định kéo dài 40 câu nữa, nhưng sau qua khúc ấy tôi không thể viết được nữa. Khi đầu, trong óc tôi chỉ thoáng một câu thơ:

Lòng em vắng như những ngày biển động

Sau là tôi viết, viết liên miên có tính chất ghi lại cảm xúc thôi, tôi chép cho Nhàn xem - cả mấy bài khác nữa.

Các bài này tôi có ít nhiều gửi tâm trạng mình (về xã hội, về cá nhân). Nhàn thì hiểu điều đó rồi thôi, mong Nhàn vui và sống hay nhé!

Thân.

Xuân Quỳnh.







17/10/1969

Nhàn thân,

Đã lâu lắm mới được một ngày nắng, tôi và Nhật Thu đi xe đạp về Quang Phú, trên đường đi qua thị xã độ một quãng chừng hơn 200m thì có một tiếng nổ rất lớn. Trông lại thì thấy khói mù mịt. Có lẽ là bom nổ chậm. Đi gần thì thật hú vía!

Đi suốt dọc đường với Trần Nhật Thu tôi nói chuyện về Hà Nội, về các bạn, về Nhàn, nói song cảm thấy vô duyên, vì cứ làm như ai cũng quan tâm và quý các bạn mình như mình ấy.

Chiều mát, hôm nay chúng tôi định làm một cuộc đi bộ dọc bờ biển (độ 4km) sang Nhân Trạch. Chúng tôi phải đi sớm vì sợ tôi khó đi (trong lúc chờ đợi, tôi viết tiếp cho Nhàn đây). Gần một tháng sống dưới đèn dầu và bây giờ là mùa thu, tôi đôi khi nhớ đến câu thơ của tôi:

Chiều mùa thu Hà Nội vội lên đèn

Thế là tôi lại hình dung các bạn sinh hoạt, sống ở Hà Nội như thế nào. Tôi hay tự mình đem mình ra mà “trích dẫn” ra quá! Nhàn có khó chịu không? Vì tôi nhớ đến lá thư Nhàn viết cho tôi, Nhàn nói có một chút về Nhàn mà Nhàn đã sợ “lấy mình làm ví dụ”. Trong khi tôi toàn nói về mình thôi.

Nhưng tôi biết rằng Nhàn thích nghe chuyện về bạn (mà Nhàn lại sợ nói về Nhàn người ta cười) thì Nhàn cũng phải hiểu rằng tôi cũng muốn được hiểu biết về Nhàn, về các bạn chứ.

Tối, chúng tôi đã đi qua 4 km bờ biển. Thích vô cùng! Tới Nhân Trạch thì tối, hỏi thăm văn phòng Đảng ủy, cả khách và chủ đều nói chuyện thầm (không có đèn) ở một cái nhà rất trống gió.




18/10/1969

Đêm tôi ngủ trong một cái nhà đại loại như thế. Có Nhật Thu và một ông ở văn phòng cũng ở đó. Cứ thỉnh thoảng có một người đi qua tạt vào mở màn chiếu đèn pin vào lên mặt. Tôi rất khó chịu. Không tài nào ngủ được nữa.

Nằm nghĩ đến cái lối sống digan này cũng lý thú! Tôi có cảm thấy cái ngày về của tôi còn xa lắm. Hai tháng nữa kia mà! Người đi bao giờ cũng thấy lâu Nhàn ạ. Sao những ngày sống ở Hà Nội nó qua mau như vậy!

Khi tôi về chắc Bằng cũng sắp cưới rồi. VQ Phương thì đã ổn định. Những ngày tôi ở Hà Nội, tôi đã thấy cuộc sống gia đình của Phương làm cho Phương khác hẳn đi. Rồi Bằng cũng sẽ thế. Rồi đến lượt Nhàn nữa…

Lại nhớ đến câu bọn mình vẫn hay lấy thơ của Bằng ra giễu ở nhà:

Từ những năm ai cũng hóa nên gàn

Sẽ tới lúc mọi người đều không bạn

Tôi thầm cười một mình vì nghĩ đến cái hôm anh Vũ Tú Nam nhìn tôi và Nhàn đang nói chuyện, anh bảo: “Hình ảnh của bà Hằng Phương và ông Hoài Thanh tương lai”. Anh Vũ Tú Nam đôn hậu thật đấy.

Nhàn cũng có cái điểm giống anh Nam là luôn luôn nghĩ tốt về người khác. Mà người được Nhàn nghĩ là tốt ấy thì lại luôn luôn cảm thấy mình không tốt bằng những điều mình được Nhàn nghĩ. Tôi thường hay có cảm thấy như thế. Vì thật ra tôi cũng rất nhiều tính xấu. Ngay cả cái “nghị lực” như Nhàn nói tôi cũng khác mọi người. Đôi khi tôi thấy thèm một cái nghị lực bản năng như của Xuân Quý. Tôi yếu đuối quá cho nên muốn có được cái nghị lực đó thì thật là nhọc nhằn, và qua cái con đường đi tới đó, tôi cũng có thể phạm những sai sót (ít nhất là trong ý nghĩ).

Tôi cũng hay ganh tỵ và kèn cựa, nhưng rồi tôi chợt nhìn ra là tôi ty tiện quá – thì lúc ấy khổ sở vô cùng. Và còn nhiều, nhiều điều nữa mà đôi khi cảm thấy trong lòng mình chưa trong sạch. Bởi vậy, bạn bè ai quý tôi đến đâu, tôi cũng cứ nghĩ “có ngày họ sẽ chán mình” vì ngoài những thói xấu trên, mình cũng còn nghèo nàn và nhạt nhẽo như mọi người nhạt nhẽo. Để vượt qua cái xấu dần đến cái tốt thì tôi có thể phấn đấu được, nhưng để khỏi nghèo nàn và ngu dốt thì thật khó khăn, mà nhu cầu đó lại là cơ sở lâu dài của tình bạn.

Người ta có thể sống “hay” từng giai đoạn chứ khó mà giữ được cái “hay” đó cho đến suốt đời. Bởi thế cho nên có những người đã trở thành “bạn cũ” của nhau, mà tôi nghĩ người bạn là phải luôn luôn là “bạn mới” mặc dù chơi với nhau đã lâu. Đến cái lúc nào đấy để cho người bạn mình nhắc đến tên mình chỉ toàn là nhắc về những kỷ niệm thì ta đến lúc không bạn được nữa rồi. Vì lúc ấy là người ta quý mến cái người bạn xưa kia chứ không phải là mình bây giờ.

Đánh cá đèn.

Tôi nghe người ta kể chuyện đánh cá đèn rất vui: con cá nào cũng mê đèn, quay đi quay lại là cá nó về tập trung quanh đèn những đám lớn như bằng mấy cái nhà ấy.

Con cá chuồn thì bay từ xa tới rồi nằm giang vây ra, con mực lá nổi trên mặt nước chỉ cần lấy vợt mà hớt, con tôm bạc thường thì ở sát dưới đáy biển cũng nổi lên ngóc đầu trên mặt nước nhìn đèn và hai chân trước cứ đập đập.

Cả bầy cá cứ bơi vòng tròn quanh thuyền đèn. Con nào đến sau lại bơi theo hàng như đèn kéo quân ấy. Khi cá đã mê đèn rồi thì thuyền đèn dẫn cá vào lưới để đánh. Có khi đánh được mấy tấn, thuyến chở không hết, phải đổ bớt đi…

Nghe vậy tôi rất thích, xin đi đánh cá một đêm.

Đêm hôm qua (18-10) biển động, thuyền cá đi đánh cá đèn ở sông Dinh.

Chiều tối thuyền đi từ cửa sông ngược vào trong. Bên kia sông có những cồn cát nổi liên tiếp trắng xóa – tôi nghĩ đến những vùng sa mạc ở Châu Phi và những đoàn người thám hiểm bị chết khát trong sa mạc.

Khi thuyền đi đến chỗ để đánh cá thì trăng vẫn sáng. Nằm chơi một lúc chờ đến 11g trăng lặn thì bắt đầu thắp đèn lên. Nổ máy rất lâu mà chẳng thấy con cá nào tới. Chỉ có con tép bằng đầu tăm cứ lượn đi lượn lại.

Người ở bên bờ sông ra xem rất đông. Họ ngồi trên bờ như xem văn công ấy, có những ông cụ bơi cả thuyền con ra xem (nhưng vẫn chỉ có một con tép).

Khi kéo lưới lên chỉ có độ một con cá “long hội”, tức là cá nhỏ quá ăn hay bị hóc, người ta gọi đùa thế, nghĩa là cá “lôi họng”

Sau chuyến thất bại thảm hại thế, tôi và Nhật Thu về. Vì đi các thuyền khác nhau nên về trước anh Hợp (ở cùng nhà). Hai người chờ anh ấy mãi cũng không thấy về. Tôi phải bảo Nhật Thu mang võng sang một nhà Đảng ủy cách đó độ vài trăm mét để ngủ. Đèn đóm không có, tôi bấm đèn pin lên mắc màn, rồi đi nằm. Nhà trống quá mà, gió biển rất mạnh. Lại sợ vì nằm có một mình một nhà. Xung quanh không có nhà dân (ở rất xa) vì dân chưa về. Không tài nào ngủ được, tôi cứ nắm chặt lấy cái đèn pin mỗi lần thấy tiếng động.

20/10/1969

Bây giờ thì đang rất là đói. Trong lúc chờ đợi cơm, tranh thủ viết thư cho Nhàn.

Đêm qua cũng như mọi đêm, tôi bị rệp và bọ chét hoành hành, gãi cũng như Tôn Ngộ Không ấy. Khắp người nổi lên những mụn đỏ bằng hạt ngô, chuyến này chắc “ghẻ cụ Mao” rồi.

Tôi đang ở Nhân Trạch – nơi mà anh Châu đã về đấy. Tôi có phịa ra là anh Châu có gửi lời thăm các anh, các ông ấy thích lắm.

Kể cuộc sống phiêu bạt này cũng thích. Nó đơn giản đi được nhiều cái lệ hàng ngày. Gặp đâu ngủ đấy. Từ ngày đi đến giờ tôi chưa bao giờ rửa chân trước khi đi ngủ. Hôm nào mà lạnh một chút là cứ đóng cả “lễ phục” trèo lên giường thôi.

Chiều

Lại đi bộ dọc bãi biển về Quang Phú. Đi vào đường bãi bom bi may mà không đá phải. Tôi nhìn dưới chân tôi thấy một quả, lúc nhìn xung quanh độ 4m2 thì thấy có tới hàng chục quả. Chả là khi chiều vừa có cơn giông gió thổi cát đi. Bom lồi lên. Thế là hai lần chết hụt. Nếu tôi đi tối hơn, chắc bị bom rồi.

Nhàn, có lần Nhàn bảo tôi là thấy tôi viết thơ thì y như là lúc nào cũng ở ngoài biển ấy. Tôi cũng nghĩ như thế. Tôi nghĩ là tôi rất yêu biển. Nhưng hôm qua, tôi chợt nhận ra là cũng có lúc tôi chán.

Chả là khi về Quang Phú từ bãi biển vào đi qua một quả đồi. Thấy nhiều cây dại và hoa dại, khuất hẳn mặt nước. Tự nhiên tôi thấy trong lòng mừng quá! Lúc đó tôi chợt nhận ra là tôi đã chán biển.

Cũng như một hôm ở Bảo Ninh, tôi đi khắp thôn xóm chỉ thấy nhà đổ, cát và cây xương rồng. Có lần tôi ra bãi biển chợt gặp một khóm hoa trắng nhỏ, tôi bỗng mừng như gặp người quen ấy.




22/10/1969

Mấy hôm nay nắng gay gắt! Tôi đang ở HTX Quang Phú – chả biết Hà Nội có nắng không, ấy mỗi khi nắng hay mưa tôi đều nghĩ về Hà Nội như thế. Chợt nhớ đến câu thơ tôi làm hồi còn nhỏ:

Mưa có rơi trên khắp mọi nhà

Nhà chị Lan và bên bác Quán

Chắc rằng mưa cũng giống nhà ta?

Tự nhiên tôi thấy một tình cảm trẻ thơ sốc nổi. Tôi thấy nhớ Hà Nội quá. Ngày trước, hồi năm 1953, bố tôi từ ở trong Sài Gòn ra chơi, bố tôi cứ cầm máy ảnh đi lang thang khắp Hà Nội chỗ nào cũng chụp. Cụ chụp cả cái ánh đèn ở Hồ Hoàn Kiếm. Khi đi in, người thợ ảnh thấy cái phim chụp ánh đèn ấy tưởng phim hỏng nên không in cho cụ. Bố tôi cũng yêu Hà Nội như tôi, như chúng ta, cụ chỉ mong khi già được trở về Hà Nội.

Mỗi lần nhớ về Hà Nội là tôi lại nhớ đến cụ. Bây giờ tôi thêm nỗi nhớ gia đình, nhớ các bạn.

Hôm nay tôi đã đi được một tháng, đúng một tháng, thấy con đường về còn dài quá! Chả ai bắt tôi ở đây lâu đâu, nhưng tôi nhất định sẽ ở theo như điều quy ước của tôi đối với tôi. Nghĩa là: ít nhất là hai tháng. Và chắc là hơn hai tháng. Nhàn viết thư cho tôi, tôi có đi Vĩnh Linh chắc sẽ quay lại đây để tìm xe về Hà Nội.



Thân.




Còn tiếp 





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 09, 2016 21:00

August 3, 2016

Nhật ký văn nghệ 1969 (VIII)

THỦ TƯỚNG
GẶP CÁC NHÀ VĂN NGHỆ TRẺ

Vừa thấy
tổ chức một buổi để  Thủ tướng Phạm Văn Đồng
gặp một số anh em làm văn nghệ trẻ. Chu, Vũ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Bằng
Việt được đưa vào ban trù bị. Ra những lần gặp trước của TVP là để chuẩn bị  cho buổi họp này.


Tất cả
những người đi dự đều nói rằng thật là một buổi họp khổ sở, không ra
làm sao. Ông Đồng cũng chán vì một bên lãnh đạo thì quân phiệt, ngu dốt, và anh
em cấp dưới thì cũng vô học chả ra thế
nào cả. Chỉ có Xuân Trình nói rất ngắn là nghe được, khi đề nghị cần phải mở rộng dân chủ.  Nhà viết kịch này bảo bây giờ
kiểm duyệt ngặt nghèo quá, duyệt chặt hơn cả thằng Pháp ngày xưa. Tất Đạt thì bảo có anh Hà (Huy Giáp) ngồi đây, anh chỉ
gật hay lắc một cái là hỏng hết cả vở kịch của chúng tôi. Ông Giáp phản ứng
ngay.

- Nhưng
mà kịch của anh đưa ra quần chúng người ta kêu ầm ầm chứ còn sao nữa.

- Anh đã
cho diễn được bao nhiêu lần? Quần chúng lắc đầu lại toàn ông to cả, chứ có phải đúng quần chúng ngoài đời không?

- Với lại
kịch của anh thiếu thực tế. Không đúng thực tế.

- Lạ thật,
tôi lăn lộn vào đất lửa Khu 4, tôi ăn uống khổ sở thì không có thực tế, còn anh
ở Hà Nội, sơ tán cũng chả phải đi, thì lại có thực tế hay sao?

Cứ thế
mà đôi co, khốn khổ! Dĩ nhiên, tay Đạt kia cũng dở, nhưng nhiều người nói
với tôi rằng ông Hà Huy Giáp ấy thì cũng phải thế mới được. Trưởng giả, gia trưởng lắm!
Nhiều lúc, trong các buổi họp người ta đang báo cáo thì ông ngoảnh lại, nhe
răng ra cười: "Ê... này, này hoãn lại đã. Chỗ ấy không được đâu." Thật là mất hết
cả tính chất nghiêm túc. Nghe đâu, ông ấy rất lười, mọi thứ bài viết trên báo
hiện nay đều do một tay thư ký viết, kể cả luận điểm nổi tiếng: đã hết thời
của bi kịch
, nay tất cả phải là anh hùng ca. Người ta rất phản đối chủ
trương đó, nhưng đành im, mãi đại hội Văn Nghệ toàn quốc lần thứ 4, đến tai ông Đồng, mới bị dẹp. Giới
quan chức không thiếu những ông cốp tự mình viết, tự mình xem lại bản cuối
cùng, nhưng lại càng nhiều những ông nói gì viết gì do sự giật dây của thư ký. Hoá
ra nhiều tay thư ký đứng ra lãnh đạo văn nghệ.

Lại nói
tiếp trong cuộc họp, sau khi Tất Đạt nói thế đến lượt Tào Mạt đứng lên xoa xoa
tay, xin Thủ tướng đừng bận tâm, chuyện này chúng tôi giải quyết được cả. Trọng
Bằng thì nằn nèo rằng mình chưa có đàn pianô, nên khó sáng tác.

Sau này
ông Khải bảo các tướng kia dại quá. Không mấy khi được gặp các ông to, phải
tính trước đi, tính trước để mà nói cái gì vừa phải thôi, các ông ấy nghe được,
mà lại nhất thiết không được thêm tí cá nhân nào cơ, thì mới ăn tiền.

Khải kể cái lần
gặp ông Song Hào gần đây, thằng Nguyễn Đức Toàn cũng xin đàn, lúc ra nó mới hối.


-- Các
ông khôn thật.

-- Các ông không biết cái lõi đời của ông Song Hào đấy thôi! Gặp mà cứ kêu rên xin xỏ là thả nào ông ấy cũng cho
một câu mát mẻ: “Các đồng chí kêu Tổng cục nhưng Tổng cục còn có cấp trên của Tổng
cục nữa chứ!”

Khổ cho
ông Đồng, toàn phải nghe những chuyện lặt vặt ấy. Chỉ định gặp một tiếng rưỡi
thì kéo dài gần 3 - 4 tiếng đồng hồ. Chắc là trở về,  ông Thủ tướng mất ngủ. Tình hình  chính trị 
dạo này nghe có vẻ ổn nhưng kinh tế với văn hoá thì căng thật.




VŨ &NHỮNG NGUY CƠ  RÌNH RẬP
 

Nhớ lại buổi họp ở báo Văn
Nghệ
, thấy giữa đám anh em Vũ vẫn nổi hơn cả. Hôm ấy Bằng Việt than phiền, ở các nước khác, những
người tài người ta làm vẻ vang cho nước người ta bao nhiêu. Ở nước mình, càng
tài hình như càng khổ. Tôi nhìn vào anh em  chung quanh đã thấy đúng như thế.


 Những người hôm ấy ngồi trong buổi họp phải nói là may chứ. Vì chúng
tôi đều được thời buổi dựng lên, cả kẻ có tài lẫn kẻ bất tài chung một đám. Người
trung bình đã hả hê lắm. Còn những tài năng như Vũ thì thiếu bệ phóng. Vũ đau
buồn mà nói rằng từ bốn năm nay,  chỉ loanh
quanh đây lên Vĩnh Phúc. Vũ hay bảo, tao cứ rút ruột tao ra mà viết mãi thôi. Trong khi đó,
mấy thằng viết làng nhàng kia thì đi đây đi đó, vào cả bên đồn địch, sang cả
bên kia sông Bến Hải. Cho nên đứng giữa cuộc họp, Vũ chỉ T.  mà nói với Chu:

- Thằng ấy
nó ngồi đây làm gì?

Chu nhắc
lại với tôi câu ấy, rồi tỏ ý đồng tình.

- Vũ nó
có quyền nói thế lắm chứ.

Tôi nghĩ
nhưng không tiện nói ra:

- Nhưng
dám nói cái lời  khinh bạc ấy thì cũng chỉ
có Vũ.

Thường
thì thái độ cả bọn chúng tôi đối với Vũ có hai mặt.  Vừa yêu, lại vừa giận nó, lo cho nó. Quỳnh bảo lúc nào nó cũng buồn, chả còn tin được
ai.  Cả cái Uyên là người mà nó yêu nhất,
nó cũng không tin.  Chu lo rằng Vũ quá
chán như thế, làm cả bọn bị chán lây...Ở chỗ này tôi nhớ một  ý của NgMChâu. 

-- Mình không nói về mặt chủ đề văn học,
ngay về mặt viết, cái bi quan người ta cũng nói chán ra rồi. Chủ yếu bây giờ
văn học phải nói được cái lạc quan, dù cái lạc quan ấy bé bỏng đến đâu. 

Nghe
tôi nhắc lại, Quỳnh bảo cũng thấy thế.
Cái buồn nó là cái bản năng, cái vui và tin
mới là cái trí tuệ mình cần phấn đấu tới. Quỳnh nói thêm:

--Tôi sợ
cho Vũ lắm, có những chỗ thiêng liêng, bọn mình phải dừng lại nghe ngóng mà nó cũng dám vượt qua. Tôi xem thế này thì tôi biết. Đọc một tập thơ của hai tay miền Bắc
hàng địch vào miền Nam chẳng hạn,  thì thấy
ngay là mình không thể tầm thường như bọn nó rồi. Tức là mình hãy còn yêu chế độ
lắm.  

Tuy thế,
tất cả bạn bè lại giữ một thái độ ru rín, nâng giấc Vũ đến mức như một người
anh hùng. Ai có tài liệu gì lạ sẵn lòng cho Vũ mượn, tất cả những gì Vũ yêu
cầu đều có thể có, chỗ nào có Vũ là rộn rịp, "những chuyến tiễn đưa là những yêu thương"... 

Quỳnh lại còn có lúc bốc lên tự hào “Khi một người bạn mình
có nói quá lên một tí, chẳng qua cũng là họ nói thêm cho mình những điều mình định
nói ra thôi.”

Vũ đón
nhận những quý mến này với vẻ thản nhiên. Trước đây hai tháng, thỉnh thoảng Vũ vẫn trộ rằng được đơn vị quý lắm. Và khi nghe tôi  kể về một số  khó khăn trong quan hệ của Chu, Duật với đơn vị thì Vũ lại đinh ninh rằng mọi người
cũng chỉ như mình.Vũ bảo, như vậy là những thằng ấy nó cũng đéo được quý gì cả,
nó cũng khổ lắm, nó cứ làm ra vẻ ngoan ngoãn đấy thôi. Cuối cùng, Vũ bình luận về
cách đơn vị trị mình. Bây giờ hành tao
thì chán rồi, chỉ có cách cấm tao viết nữa thôi, lại đéo dám cấm.

Lúc chia
tay, Vũ vẫn hẹn là năm nay sẽ viết nhiều, sẽ viết một cái trường ca, lấy tên là
 Trời
xanh của người ra trận
gửi về đăng tạp chí.

Vũ của
chúng tôi rắc rối thế đấy.

Không những
nói rằng Vũ vô kỷ luật ( Nguyễn Lâm bảo chung quy nó cũng chỉ là cái tội lười)
anh em còn muốn nói  từ trước đến nay, Vũ
đã sống già quá, chán chường quá. Ông Vũ Cao  chỉ vào trán “Hôm tôi nghe ông ấy đọc thơ,  những gì
tôi già nua như trái đất này, tôi thấy buồn
quá...”

Về cách  đối xử của Vũ với cấp trên, Quỳnh kể:

- Ông Trần
Việt Phương đến đây nhiều, ông ấy cũng rủ chúng tôi đến chơi, nhưng chúng tôi
có đến đâu. Người ta còn có  việc của người
ta. Đằng này Vũ tiện là đi thôi.

Cái hôm
họp với ông Đồng nữa, nó còn bắt ông Phương đánh xe xuống dưới Bạch Mai đón, để
lấy thế với đơn vị. Xưa nay, lúc nào nó cũng chửi người nọ người kia cầu cạnh cậy
nhờ, rốt cuộc nó lại cầu cạnh bằng mấy.

Làm thế
đơn vị thì nó ghét, mà ông Việt Phương biết, ông ấy cũng khinh cho.

 Phát biểu trong cuộc họp, Vũ nó cũng liều lắm cơ, Quỳnh kể tiếp. Các anh không tin chúng
tôi, cấp trên không tin chúng tôi. Ông Thi phải ngắt lời, không phải là không
tin, mà là phải nghĩ thêm sau khi nghe. Và Thủ tướng cũng chỉnh, muốn được tin, phải xem lại xem mình  ra sao đã!

...Vũ gửi
đăng ở báo  Hà Nội bài Phà đen.
Cũng như xưa nay, mỗi khi  thấy bài yếu, Vũ lại kể đấy là do biên tập viên đòi bài. Vũ phân trần Phan Thị Thanh Nhàn nó cứ lấy nó đăng
đây chứ, Vũ có gửi đâu.  Bao giờ ở Vũ
cũng có hai trạng thái ấy, tôi nghĩ. Chiều đời. Và chửi đời. Khi thì chiều quá,
khi thì chửi văng mạng.

Bằng Việt  nói theo kiểu của mình:

- Mình
cho rằng như thế tức là chưa có sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Tự
mình chưa chịu vươn mình lên. Còn nặng nợ lắm.




PHẠM TIẾN
DUẬT

Phạm Tiến
Duật học với tôi từ văn III 1963-64, bây giờ lại gặp nhau trong sinh hoạt của bọn trẻ. Ngày xưa đi học
là một ông tướng chúa luộm thuộm và bẩn, nhưng mà ngày nào cũng làm thơ, tháng
nào cũng có một tập thơ. Mỗi tập có tên, có bìa, có mục lục, làm xong là ào một
cái ra tận Hà Nội gửi. Say lắm, thỉnh thoảng lại õng ẹo gọi bọn con gái: “Có nghe
thơ Duật không? Duật đọc nhé.” Đọc thật uốn éo, cười, cái cười rất say mà rất bốc.

Hai thằng,
đứa giường trên đứa giường dưới, cùng có âm mưu về văn nghệ cả mà không bao giờ
nói với nhau. Cuối 1964, cùng ở Na Sản tôi đi từ chỗ  đai đội SKZ của E.148 lên doanh trại cao xạ
chỗ Duật, anh chàng chỉ kể làm thơ rất nhiều. Rồi mãi đến cuối 1965, mới gặp lại
nhau, anh về pháo binh, anh về vận tải và thỉnh thoảng cụng đầu ở các buổi họp của giới văn nghệ. Tôi chưa thể nhớ được ở Duật một cái gì, một
câu gì cho thật rõ ràng cả, có lẽ vì thấy nó cứ thế nào ấy. Chỉ thấy đấy là một
người rất tự tin và quý bạn. Đỗ Chu bảo: “Nó bảo mỗi lần đi chơi với mình về,
nó lại khôn hơn lên một chút”. Được như thế thì thật hay. Duật quý bạn lắm, thằng
nào cần gì nói nửa lời hỏi xin là Duật cho liền, khi cân gạo, khi ít tiền. Thỉnh
thoảng lại trốn đơn vị, trốn từng buổi, ra nhà Nguyễn Lâm ngồi viết. Rồi cuối
cùng là cái vụ cuối năm 1967. Giữ kho vật tư văn nghệ mà lại đi phát nhầm đài cho đơn
vị, hụt vài trăm bạc. Định bán cái xe đạp để giả, thì sang thăm người yêu bên
Gia Lâm,  chiếc xe bị một thằng vớ vẩn nó
giật mất. Thế là tay trắng. Gần đến ngày kiểm điểm cuối năm rồi, trốn về nhà chị.
Đêm nằm cứ ngẫm nghĩ định xin tiền, sáng ra trông thấy các cháu nheo nhóc quá,
lại thôi. Đơn vị tìm nháo nhác cả lên. Khi  Hồ Phương  thay mặt tạp chí đến xin Duật về VNQĐ, người ta bảo:

- Đấy,
người đào ngũ thế đấy, anh có xin thì xin.

         Hồ Phương bảo với tôi, đến nổi tiếng như Nguyễn
Khải mà đi đâu một ngày cũng phải báo cho cơ quan nữa là...Đằng này.

Ngẫm cái
đời Duật mấy năm nay thật vất. Năm 1965, đánh mạnh khu 4 thì vào khu 4. Năm
1967, nó tập trung vào Hà Nội, thì lại ra Hà Nội. Năm 1968, vào khu 4 trở lại,
hứng lấy chiến tranh hạn chế, cuộc chiến  ác liệt nhất từ trước đến giờ. Và bây giờ chuyển vào 500, lại vượt cửa khẩu, ở với những đơn vị Cha lo, Cổng trời, nơi nhiều tay
cán bộ tiểu đoàn vào là nằm bẹp, không dám ra mặt đường.

 Tôi đã đi với Duật vào những đơn vị vận tải (gồm từ xe đến giao liên binh trạm) hai lần. Đến đơn vị xin đi
với anh em một tuần. Tuần sau ở nhà viết. Viết xong đọc cho mọi người nghe. Thơ
Duật là một thứ thơ dễ dàng, đọc cho ai nghe cũng được. Lại có một
kiểu trở thành người nhà rất tự nhiên với chung quanh. Các ông cán bộ phụ trách đơn vị thú lắm: “Ở với chúng tôi một tuần,
một tháng chúng tôi cũng nuôi. Chỉ cần làm thơ thôi”. Và Duật đã làm thơ To là Zin 3 cầu, khoẻ là Zin 3 cầu, đại đội
có mình nó, nên quý như con đầu
. Làm xong thì chép vào những mảnh giấy, đứng
ra phát cho anh em trước khi qua cửa khẩu. Thơ đã có mặt với người  lính lái xe đúng theo kiểu Phạm Tiến Duật.

 Nhưng mà đó cũng là điểm lo nhất của Duật hiện
nay. Bởi vì cứ như thế mà kéo thôi, người ta sẽ hoá một thứ nghệ nhân, xẩm,
không biết mình ra sao. Hình như so với người đời, mình đã giỏi quá rồi! Hình
như luôn luôn được hoan nghênh, và ai mà lại không sẵn sàng làm đúng như người
ta đã hoan nghênh được?  Sự thỏa mãn sớm
sủa của Duật thấy rõ nhất là qua một bài thơ có cái tên khá dài Chào những đoàn quân tuyên truyền Chào những đoàn
quân nghệ thuật
. Sau khi ca ngợi một hồi về cách làm nghệ thuật dễ dãi của các đơn vị phong trào  nhà thơ nâng
lên khái quát:

- Cứ thế
cũng đã là nghệ thuật.


Chu nghe
tôi kể bảo:

-- Thế
thì không chơi với thằng này được nữa rồi.

-  Đừng tưởng thơ của những thằng hay chơi với nhau là giống nhau đâu, tôi nói thêm. Từ trong con người đã khác, khác nhiều. Những thằng như thằng Bằng Việt nói chuyện với
nó lại thấy mình sáng láng lên một chút, đúng là một thứ thông minh kiểu trí tuệ.

Lối làm
thơ của mỗi người khi mới viết hình như còn theo mãi người ta  về sau. Duật làm thơ, cũng như người đồng hương Nguyễn Đình Ảnh,
lạ lắm. Duật kể, ngày xưa đi học, đọc sách Thư viện tỉnh Phú Thọ theo danh sách từ 1,
2... đến hết, lại đọc từ đầu. Trước khi làm thơ về nông nghiệp lo tìm các sách khoa học phổ biến như
 sách về cây khoai lang, cây đỗ và cả  cây  lúa
nữa, đọc kỹ các phần chi tiết và cả kỹ thuật gieo trồng. Đọc thêm sách về những vùng
xa và cây cỏ các vùng ấy, như đọc báo Thống Nhất thì  chỉ cốt tìm bài nói về tỉnh Bà Rịa, cây Vú Sữa... Năm ấy, khi 
Bài thơ cuộc đời được in
ra, tôi nhớ Duật đọc rất kỹ, đọc xong chỉ khen Huy Cận làm thể thơ gì cũng giỏi, chỗ này trong bài này là học ca dao, chỗ kia là học thơ Đường v.v...( lúc ấy chúng tôi vừa học một chuyên đề thơ Đường với thầy Trương Chính). Duật hay lam nham mỗi thứ một tí. Còn học một chương
trình cho đến đầu đến đũa thì rất lười, không bao giờ theo đề tài nào cho trọn vẹn.

Con người
Duật nhẹ nhõm hóm hỉnh, thơ Duật rất hóm hỉnh. Cái
cầu Vệt,
Chú Lư phố khách – các bài ấy cùng một thứ tiểu xảo ngôn ngữ cốt gây ấn tượng.  Đúng
hơn là nó biểu hiện một lý tưởng thẩm mỹ tầm thường, thích thú với những chi tiết
ngồ ngộ. Ví dụ bài Chuyện lạ gặp trên đường hành quân. Mỗi dịp nhắc lại bài đó với các bạn, Duật đều khoe cái câu: “Dấu vết voi xưa vừa đi vừa đóng"

 – Các cậu thấy không, chữ đóng
thì hay thật, hay quá còn gì nữa!

Duật yêu
người, dễ tin người, giao việc gì cũng nhận và nghĩ mình làm được, cứ liều là
xong. Hỏng việc thì bỏ đi và quên ngay.  Đi đến đâu 
cũng gây ấn tượng ngọt ngào dễ chịu. Đi đến đâu cũng không chịu ngồi yên một chỗ mà
mò đi chơi đủ hàng xóm chung quanh. Chiều người, chịu nghe người ta nói, lại còn làm
thơ tặng người ta. Cái câu tiêu biểu sau đây là do một cô bé ở Đoàn Chèo kể với tôi. Vừa đón họ đến với Đoàn bộ 500, Duật đã õng ẹo:

- Tiếc
quá, các cô mà vào đây sớm thì hôm qua  đã được gặp một đoàn bướm vàng rất lớn mấy năm
nay đi sơ tán mới lại trở về.

  Duật cũng là ví dụ cho kiểu nghệ sĩ dễ dãi và hay quên. Có một cái bằng đại học cũng mang đi theo rồi vứt trên đường. Ở Cục vận tải, Duật có một cô yêu hờ là cô Liên. Cô ấy nhiều lần đến thăm
Duật.  Một anh ở tuyên huấn vận tải kể, đúng
là họ cũng khéo tìm nhau, cô kia chân đi
đất, quần thủng buộc túm ống rơm v.v..

Tôi tự nhiên ngứa mồm bảo với các anh cơ quan: 

-- Thằng Chu nó về đây sau cũng được, nó đủ bản lĩnh để sống ở đơn vị mà không thành tỉnh lẻ.
Thằng Duật, thằng Hoàng thì phải gọi
ngay nó về, mới khá lên được. Không sợ Duật viết không ra. Chỉ lo Duật không viết
được hay hơn nữa.




*** Đến đây tạm dừng phần nhật ký văn nghệ nửa đầu 1969. 





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 03, 2016 04:01

July 31, 2016

Nhật ký văn nghệ 1969 (VII)

LỚP TRẺ TỰ NÓI VỀ MÌNH

Qua những buổi nói chuyện với các bạn, ngày một thấy vỡ ra thêm những vấn đề chính của cuộc sống hiện nay. Đùa bỡn qua đi rất nhanh, loanh quanh một lúc rồi lại trở về chuyện chính trị, xã hội. Chúng tôi luôn luôn phải nói rằng mình cũng tốt, cũng đứng đắn, cũng còn tử tế hơn khối thằng. Nói thế, để tự an ủi mình, để yên tâm mà làm việc.


Có lần tôi đã nói với Vũ Cao, đồng ý là có nhiều chuyện thuộc về nguyên tắc, các anh không nói với chúng tôi được. Nhưng tất cả những chuyện quan trọng nhất thì chúng tôi lại phải biết, không bằng cách này thì bằng cách khác, có khi nó lại vòng vèo, nhưng rồi nó cũng  đặt ra với bọn tôi thôi. 

        Nói chuyện với  Xuân Quỳnh sáng nay, tôi bỗng hiểu rằng lúc nào đó, lớp trẻ phải có tiếng nói trong Hội. Cứ bảo ủng hộ trẻ phát triển lực lượng trẻ, nhưng nếu như mọi thứ chấp hành chấp tỏi hiện nay toàn là các ông già, các ông bàn bạc với nhau, trao đổi với nhau theo cái nếp cả chục năm nay, còn toàn coi bọn tôi như trẻ con, thì cũng còn rất lâu mới có những thay đổi trong sáng tác.

Báo Văn nghệ họp hội nghị những người cộng tác trẻ. Đỗ Chu cứ bông phèng “Đề nghị các anh ra đề, không có chúng tôi chả biết nói thế nào.” Rồi Chu lại phát biểu khơi mào:

- Thỉnh thoảng những anh em trẻ của chúng tôi cứ được khuyên một cách rất nghiêm chỉnh. Rằng cậu phải sống cẩn thận, cần rèn luyện tư tưởng cho tốt, cần gắn bó với đơn vị. Thú thực, chúng tôi quý lời nói ấy rất nhiều nhưng chúng tôi thấy không đủ nữa. Không nói ra thì thôi, nói ra thì nhiều chuyện lắm. Chúng ta sống lúc nào cũng sợ, như là sợ có chuyện gì lôi thôi sẽ đổ ập đến. Đi đến gặp báo thì lúc nào cũng chỉ thấy lời mời. Sắp đến 7-5 rồi đấy, sắp 2-9 rồi đấy, cậu viết cho cái gì đi. Trong một năm, chỉ có tháng tư là không có ngày kỷ niệm, còn tháng nào cũng có, tháng nào cũng được nhắn nhủ như thế. Thế thì còn vui vẻ nỗi gì. Chúng ta phải làm thế nào mà văn của ta lúc nào cũng là thời sự. Cũng như chúng ta phải viết như thế nào mà dù nói về ngành gì, tôi viết về phòng không hay anh Tô Hoàng viết về pháo binh thì tất cả cũng phải gắn bó với nhau thành một mối, và người đọc người ta chỉ nhớ những tác giả và những vấn đề trong đó thôi. Chứ không ai nhớ những cái không đâu vào đâu mà bất cứ bản tin nào cũng có .

Tôi càng nói càng thấy bực bội, nhưng mà quả thật thấy khó chịu lắm, khó chịu với chính mình, thấy chán chính mình chứ không phải chán gì mọi người chung quanh. Ở tuổi 26, 27, anh Nguyễn Tuân đã đứng đắn rồi, thành một người được tất cả các anh lớn tuổi công nhận, tại sao những người viết bây giờ vẫn cứ ê a những chuyện trẻ con. Các anh lớn tuổi chỉ bằng lòng khi chúng tôi là đàn em của anh ấy, nhưng lại không chịu được khi mình có những đóng góp thực sự  để bằng các anh ấy được.

Giống như nhiều buổi họp, thoạt đầu người ta ngại nói, về sau, lại phát biểu rộ cả lên, nói cả với cử tọa chung, lại nói riêng trong nhóm nhỏ mấy anh ngồi cạnh nhau. Nghiêm Đa Văn nói lải nhải những chuyện người ta sống ngoài đời thế nào, viết trong sách khác thế nào. Vũ nói vụng, thằng này càng ngày nó càng ngu đi. Tôi cũng nghĩ chỉ nên bàn những chuyện gì liên quan đến bọn trẻ thôi.  Rồi Vũ quay ra mọi người:

- Lâu nay, các anh cứ khen chúng tôi trong sáng, tế nhị... Chúng tôi chán lối khen ấy lắm rồi. Chúng tôi không trong sáng đâu, chúng tôi cũng phức tạp lắm, chúng tôi cũng phải nghĩ những chuyện của chúng tôi, những chuyện mà thỉnh thoảng anh Vương Trí Nhàn vẫn bảo là những chuyện thế hệ. Tôi thấy càng lớn lên, càng có những ý nghĩ nhọc nhằn, lòng tin của mình càng cần phải luôn được củng cố. Vậy bây giờ phải lên tiếng chứ!

Bằng Việt thì nói những điều chết người bằng cái giọng hiền lành:

- Không biết những buổi họp như thế này có phải là do nghị quyết của Ban bí thư về thanh niên mà có không? Tôi thì tôi thấy văn học mình dạo này đúng là nó cái gì có tính chất cung đình, trì trệ thế nào ấy. Người ta viết khi không tự hỏi mình xem viết thế này đã hết sức mình chưa, viết thế này đã đúng thực tế chưa. Mà chỉ nghĩ không biết viết thế này có đăng được không. Như thế thì bao giờ có văn học cho nó nên hồn được. Tôi thấy người ta cũng có phàn nàn rằng người nọ người kia không ủng hộ thanh niên. Tôi cho thế cũng chẳng có gì đáng lo. Tự anh thanh niên hãy tự khẳng định công việc của mình. Lúc ấy, chả có ai ngăn cản được hết.








Bằng Việt và VTN trước 1970




MỘT CA LẠ

 Hoàng Hưng đã có thơ đăng từ tập Sức mới, nhà lại gần chỗ tôi, nên dễ gặp nhau. Ở Hải Phòng về lần này, Hưng đến tìm tôi, bắt đầu bằng những câu bọn tôi thường chỉ dám nghĩ chứ không dám nói:

-- Có bao giờ cậu nghĩ về chế độ tư bản có thể tự do hơn chế độ mình không? Mình cho rằng để cho mọi người sống, làm việc được thì chế độ mình hơn chế độ tư bản. Nhưng để cho mọi người phát triển hết tài năng thì chưa chắc.

Trường hợp Hoàng Hưng quả là một ngoại lệ. Sinh ra trong một gia đình phong kiến tư sản nặng nề, cái nhà ở phố Đường Thành bây giờ vẫn cứ như một cái nhà thờ rất to, rất cồng kềnh, và bây giờ thì toàn người lạ đến ở, cả khu là một cảnh tượng tối tăm đổ nát hoang tàn. Theo cái nếp của thanh niên thời nay, Hưng học xong phổ thông thì bỏ lên Điện Biên, làm giáo viên ở bộ đội, rồi lại quay về, học Đại Học Sư Phạm. Dạy ở Hải Phòng, dạy rất tốt đấy, nhưng lại khổ sở về chuyện bị giữ không đi được. Đến đoạn kết không có hậu. Năm ngoái làm đơn xin thôi việc, bỏ về Hà Nội nằm một tuần. Sau mọi việc bên Giáo dục cũng thu xếp ổn thỏa, nhưng bên Hội nhà văn lại đóng vai bảo hoàng hơn cả vua, không cho Hưng đi học trường Hộị.







Từ trái qua phải: Nguyễn Lâm, Hoàng Hưng, Lưu Quang Vũ, Trần Hoài Dương,

Nguyễn Khắc Phục, và một bạn khác, trước 1973. 




Bao giờ rỗi, tôi muốn viết thêm về các bạn khác, mỗi người mang một khía cạnh của tình hình làm nên “bọn trẻ” ngày nay. Hoài Anh lúc nào cũng thiểu não, nhếch nhác. Bùi Bình Thi thì cười khì khì, không bao giờ có chủ kiến gì. Ngô Văn Phú cười ran rỉnh những lúc thật ra chẳng có gì đáng cười cả. Trúc Thông (theo lời Bằng Việt) sách vở. Tô Hà bốc một tấc đến trời...

Trở lại cái anh chàng Hoàng Hưng này. Nó nằm trong tâm lý hoài nghi phố biến khá rộng ở những thanh niên hiện nay. Không biết Hoàng Hưng nghe đâu, hôm nay kể rặt những chuyện kinh người. Ở Tiệp Khắc, năm 1948 có một vụ gì đấy bắt toàn những thứ trưởng bộ trưởng mà là bắt sai. Tám năm sau đưa ra tù, những người bị bắt đều tự nhận mình là gián điệp hết. Các nhà báo đã mở nhiều cuộc điều tra, những người có thiện chí cũng xác định bắt sai, chẳng qua mấy anh chàng kia khai thế vì bị đầu độc. Chỉ có hai người trong số đó trốn ra nước ngoài bây giờ mới viết hồi ký kể lại những gì xảy ra khi bị giam giữ. Suốt 8 năm trời, họ chỉ bị có một cái tát, đó là điều có thật. Nhưng những xử lý khác ghê hơn. Nhiều ngày, suốt 24 giờ họ không được ngồi mà chỉ đứng, giơ tay lên, bảo là hãy suy nghĩ về những điều sai trái trong cuộc đời. Có đêm 12 giờ đang ngủ, họ bị gọi bật dậy,  với chỉ một câu hỏi, đã nghĩ ra câu khai chưa? Rất nhiều lần người ta mở những phiên toà thử xét xử, trong đó quan tòa đạo diễn  từng giọng nói, từng cách nhăn mặt. Không còn cách nào khác nữa, những người kia phải làm đúng vậy.

“Càng nghĩ chỉ càng quay về với thuyết hiện sinh”. Sau những câu chuyện vậy, Hoàng Hưng lẳng lặng đi đến một kết luận triết học mà chắc Hưng đọc thẳng từ tiếng Pháp còn tôi chỉ mới hiểu sơ sơ qua các tài liệu mượn nhà ông Phong Hiền. Còn thế giới này ư? Lần nào cũng như buột mồm, mà rất nhiều lần, Hưng chỉ cho một câu duy nhất:

-- Cũng chả biết thế nào cả! 




THẾ NÀO LÀ CƠ HỘI TRONGVĂN NGHỆ ? 

 Trong số những bạn bè mới quen của tôi, đa số còn chạy rìa, chỉ có XQuỳnh là đã được vào biên chế trong giới từ mấy năm trước. Bởi vậy mọi chuyện nho nhỏ Q. kể, với tôi đều quý. Nào Hoàng Trung Thông lạnh, Vũ Tú Nam đôn hậu, ông Xuân Diệu yêu mình quá, tự coi mình có quyền, kể cả quyền tước những cái quyền của người khác. Ông Chế Lan Viên làm việc phải để một tờ giấy trước mặt: Tôi đang bận, chỉ tiếp khách 10 phút... Về kinh nghiệm làm báo, Q. bảo, có những câu chuyện mà chỉ chúng mình hiểu với nhau. Gặp những ông khách cám để trên vung thì khổ lắm, xuống tiếp bao giờ cũng nhắc đồng nghiệp cùng phòng “Này, tôi ngồi một tí thì gọi tôi nhé.”

Một mẫu người mà Q. đặc biệt ghét, là đám nịnh. Những triều đình lên xuống,  và bao nhiêu người kéo theo. Ông Bảo Định Giang, “người có tài về tổ chức”, muốn phơi cái chăn, có 4 góc thôi mà 5 người trông nom, sẵn sàng rũ hộ.

Một câu hỏi khác thế nào là người làm văn nghệ cơ hội. Có những kẻ đánh thuê ra mặt. Nhưng còn những kẻ cơ hội về lâu dài, một thứ cơ hội có bản lĩnh. Ví dụ như anh ta giỏi đón chuyện thời sự, và viết cái gì ra, cũng có vẻ hợp thời, cũng được người ta hoan nghênh.

Khi bàn chuyện này ở cái phòng từ toa lét cũ được cải tạo lại  của ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, NgM Châu lúc đầu chỉ ngồi nghe, nhưng sau bao giờ cũng nói thêm: “Và cái người mà viết thời sự tiêu biểu nhất, lại là ông Khải."

Chu vẫn tỏ ra không thích bài Vai trò tình cảm trong sáng tạo nghệ thuật. Chu bảo:

- Cái lão này khôn lắm. Bao giờ nó cũng đoán trước được tình hình. Nó viết ra đấy, nó biết thừa là mình nói nó cái gì, nhưng nó chỉ cười thôi, nó cho mình là trẻ con...

Lại lời của Chu:

--  Thế vẫn chưa phải là nghệ sĩ lớn. Người nghệ sĩ lớn thật sự không thể nào lại cắt gọt mình đi, cho vừa thời thế. Người nghệ sĩ ấy phải có những lúc dở hơi không hợp thời...

Ngay trong giới trẻ cũng có sự đón đầu chuẩn bị. Một nhà thơ đi B viết cho vợ cũng chuẩn bị vào chiến trường, em vào đây, chúng ta sẽ gương cao ngọn cờ văn nghệ.

Sau khi kể rằng nhà thơ B này còn gửi thư ra, yêu cầu thảo luận thơ của anh, Quỳnh bảo những người ấy sau này sẽ lãnh đạo mình thôi.

 Tôi chua chát nhớ lại chuyện ở các Đoàn xe vận tải B mà tôi nghe được trong chuyến đi với Duật ở các  đơn vị vận tải khu vực Vinh Nam Đàn 5-1968. Hồi trước, ở các đơn vị vận tải B này cứ ai lái kém thì được cất làm cán bộ, để đi lĩnh xăng, hoặc làm sổ. Thằng nào cũng đảng viên, cũng từng ấy lương, ai thích làm cán bộ làm gì. Nhưng lúc chuyển vận tải B sang quân đội, thì những anh kia lại là trung đội, đại đội, có cấp, có quyền, còn những cậu lái xe tài giỏi mấy cũng chỉ trần xì quân nhân chuyên nghiệp. Nhìn sang văn nghệ cũng y như vậy.








Vương Trí Nhàn tại nhà riêng ở Thụy Khuê 1965



Không hiểu sao, có lần tự nhiên tôi nói với Vũ Cao.

- Tôi cảm thấy đang đứng trước ngưỡng cửa của hai thứ: một là một thứ Nhân văn Giai phẩm, hai là một thứ cách mạng văn hoá... có tránh được cả hai thì mới có được một nền văn nghệ chân chính.

Ông Cao:

-- Mình thì mình không nghĩ thế. Cả không khí chung của anh em, cả những người lãnh đạo, đều nói không như vậy, không thể như vậy được.

Trong thâm tâm tôi tự giao cho mình một công việc mà có lẽ là không nên nói với ai. Bỏ ra thời giờ, đi hỏi mọi người về thực chất vụ Nhân văn Giai phẩm. Một hôm trong một câu chuyện tạt ngang, Nhị Ca và tôi tự nhiên giở chuyện này ra. Khi nghe tôi nói y như những điều mà tôi được học, rằng chúng tôi khác họ, chúng tôi yêu nước chứ, thì Nhị Ca phẩy tay:

-- Thôi ông ơi, họ cũng yêu nước, yêu nước chẳng kém gì tôi với ông. Thật cái hồi ấy thì không biết thế nào cả. Hồi ấy là cứ nháo cả lên, tôi Nhân văn, anh Nhân văn. Ông Đỗ Nhuận mà không bậy à, nhưng mà đánh Tử Phác rồi, đánh Đỗ Nhuận nữa rồi thì còn ai làm hội nhạc nữa.

Có lẽ đúng là như thế. Sai lầm của Nhân văn là sai lầm của lịch sử. Còn nói rằng các ông ấy tư cách xấu chăng? Thì văn nghệ mình thiếu gì những người như thế?

Đúng là mấy năm 56-57 hỗn hào cực độ. Những người còn sống sót thường khi nói xấu nhau. Không biết ai bảo tôi rằng Hồ Phương lúc đầu nói lung tung lắm. Chính Hồ Phương lại bảo Nguyễn Khải lúc đầu chỉ đi học Pháp văn, mãi lúc ngã ngũ  mới quay trở lại, còn  Vũ Cao lúc đầu cũng chỉ là tin ở lãnh đạo mà làm theo thôi. Cả vụ Nhân văn Giai phẩm là một đòn đau vào giới văn nghệ. Cuộc đấu tranh này còn dai dẳng.






Vương Trí Nhàn, Quế Võ - Bắc Ninh, 1966



Cái mà người nghệ sĩ sợ nhất, có lẽ là lịch sử, xu thế của lịch sử. Chính trị là gì nếu không phải là cách hướng mọi người  đi theo quỹ đạo của lịch sử theo quan niệm của những người chính thống đương thời. Và lịch sử khắc nghiệt lắm, chính trị khắc nghiệt lắm. Không nhớ ai một lần nhắc lại một chi tiết  trong  Sông Đông êm đềm. Chính trị là cái chết tiệt gì không biết. Mình với cậu vốn thân với nhau từ nhỏ, không hiểu sao mà bây giờ lại không nhìn  nhau được.  Kosévoi nói với Grigori như vậy.

Làm sao nói cho được rằng lịch sử đã trở nên khắc nghiệt như thế nào, đã phân hoá những người làm công tác văn nghệ, những người nghệ sĩ này như thế nào. Khó đấy.

Nhưng hãy hình dung có những lúc lịch sử lại sai lầm một chút. Nói theo kiểu Đỗ Chu, lịch sử có thể có con mắt mù chăng? Lịch sử mù nhưng nó cứ đi, và nhiều khi một người buộc phải hướng theo nó lại không khỏi ngấm ngầm đau đớn. Lúc một người sung sướng vì đã thuận theo được lịch sử, thì cũng là lúc bằng một thứ trực giác tinh nhậy, anh ta cảm thấy đã đi ngược lại cái phần chân chính của mình.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 31, 2016 21:57

July 26, 2016

Tú Mỡ và tiếng cười của một thời đã xa

 Lời dẫn cho hai bài viết cũ về Tú Mỡ

Các tài liệu văn học sử đều ghi Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, sinh 14-3-1900, mất
13-7-1976, nhà thơ trào phúng có chân trong Tự Lực văn đoàn; tác phẩm chính: Dòng
nước ngược
(1934), Nụ cười kháng chiến (1952), Bút
chiến đấu
(1960), Ông và cháu (1970)...





 Có nhiều cách để phân chia  các thời kỳ của xã hội VN từ đầu thế kỷ XX trở đi.

Nhiều người chia theo các tên gọi như thời tiền chiến, thời  chiến tranh 1945, thời hậu chiến sau 1975.

Tôi thì chỉ thấy có hai giai đoạn, 

một là giai đoạn từ 1975 về trước, tuy tên gọi về mặt xã hội chính trị có khác, song đó là giai đoạn của những ổn định, kể cả trong chiến tranh cũng ổn định

hai là giai đoạn từ 1975 tới nay, khi mọi sự hài hòa bị phá vỡ. 

Tú Mỡ thuộc hẳn về cái giai đoạn thứ nhất vừa nói ở trên. Ông lấy  bút danh là Tú Mỡ, là để nhại theo Tú Xương. 

Chúng ta ngày nay gần với tiếng cười hằn học hận đời Tú Xương hơn là tiếng cười  đôn hậu của Tú Mỡ. 

Tuy vậy thỉnh thoảng trở lại với thơ ông cũng là một cách để chúng ta  hiểu rằng dù sống ở thời đã khác, tiếng khóc câu cười của chúng ta ngày nay đã khác với các thế hệ tiền bối song nếu bình tĩnh đọc lại vẫn có thể được làm giàu thêm bởi những bài học nhân bản.



                  


                      SỰ THANH THẢN CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ






Những sự lựa chọn đích đáng 


Bạn bè nước ngoài đến Việt Nam thường bảo dân Việt là những người
thích cười và chính chúng ta cũng vui lòng với những nhận xét như vậy. Ấy thế
nhưng trong đáy sâu tâm thức nhiều người, tiếng cười thật ra vẫn bị coi thường.
Người ta gọi đó là những trò bông lơn chọc ghẹo nhau, một thứ cười cợt bày ra
cho vui, chứ chẳng có gì là nghiêm chỉnh cả. Riêng với những người có địa vị
cao trong đời sống tinh thần đời xưa, tức các kẻ sĩ, thì tiếng cười lại càng
không được xem trọng. Các thi sĩ xưa thường hiện ra với khuôn mặt đăm chiêu, vẻ
lo đạo, lo đời, chứ không nhếch mép cười mấy khi. Cực chẳng đã, phải lấy việc gợi
ra tiếng cười của mọi người làm sự nghiệp, như một Hồ Xuân Hương, một Tú Xương,
thì trong thâm tâm, họ đã chấp nhận sự rẻ rúng của dư luận chính thống. Sách vở
không còn ghi chép, song dựa vào cách suy nghĩ của người xưa, có thể tin chắc rằng
sinh thời, cả Hồ Xuân Hương lẫn Tú Xương đều chưa được đánh giá thích đáng và
chỉ đến lớp hậu thế chúng ta, các nhà thơ lớn ấy mới phần nào được đặt đúng vị
trí. Trong hoàn cảnh ấy, việc một nhà thơ như Tú Mỡ, vào những năm ba mươi của
thế kỷ hai mươi, dám mạnh dạn đứng ra nhận lấy việc làm thơ trào phúng, xem đó
như mặt hàng "chuyên doanh", là một hành động vượt lên thành kiến
thông thường. Sự cởi mở của hoàn cảnh đã giúp cho tác giả một phần. Nhưng có lẽ
cái chính ở đây có một sự khôn ngoan biết điều mà không phải ai cũng có ngay được.
Trong khi chấp nhận lời khuyên của Nhất Linh là bỏ hẳn thơ trữ tình để làm thơ
trào phúng (tức là tiếp tục làm thơ cũ, thơ bình dân, ngay trong khi thi đàn
đang sôi sục khí thế đi tìm cái mới), Tú Mỡ thực đã chứng tỏ là một con người
có bản lĩnh. Ông tự tin. Ông không hùa theo phong trào, chạy theo thời thượng,
mà ngược lại, tìm cách đóng góp cho cái Văn
đoàn
đầy tham vọng mà ông là một thành viên, bằng chính sở trường vốn
có. Cái bản lĩnh này ở Tú Mỡ sẽ còn có dịp bộc lộ, khi gần như suốt thời kháng
chiến chống Pháp ông nhận công tác ở một ty văn hóa địa phương và chuyên làm
thơ đánh địch, lấy tên là Bút chiến đấu. Hình
như với Tú Mỡ, đây là một việc làm tự nhiên, không phải phân vân toan tính gì
nhiều. Đã đi kháng chiến là phải tìm cách đóng góp cho kháng chiến. Mà cách
đóng góp tốt nhất, là dựa ngay vào sở trường vốn có của mình, tức là làm thơ
trào phúng. Ông không có những băn khoăn nhận
đường,
hoặc khao khát lột xác như
ở một số đồng nghiệp. Ông sớm bắt tay vào việc sáng tác đều đặn, lại theo đuổi
công việc một cách hào hứng, nó khiến cho sự nghiệp của ông có thêm một mảng chắc
chắn, rồi hợp với bộ phận sáng tác trước 1945, làm nên lý do để ông ở lại với lịch
sử văn học.


Tiếng cười nhẹ nhàng       


Mặc dù cùng sử dụng tiếng cười làm công cụ tác động vào đời sống
song giữa Hồ Xuân Hương, Tú Xương và Tú Mỡ vẫn có những chỗ khác nhau. Người kỳ
nữ của đất Hà thành có tiếng cười của bậc đàn chị, đùa trêu, bỉ bác cái
tẻ nhạt, cái vớ vẩn của cuộc đời và không thôi xót xa cho thân phận của mình.
Trong khi ấy, tiếng cười của người thi sĩ thành Nam có cái hằn học của kẻ bất đắc
chí, muốn tung phá cả xã hội thủa giao thời nhốn nháo, nham nhở. Về phần mình
Tú Mỡ không tới được độ sâu sắc của hai bậc tiền bối. Trong khi chế giễu sự đời,
tiếng cười của tác giả Dòng nước ngược thường không chát chúa cay độc,
mà thiên về hóm hỉnh nhẹ nhàng. Trước Cách mạng, ông cười bọn quan lại tham và
dốt, những "ông đồng, bà cốt" gieo rắc mê tín dị đoan cùng là kẻ dửng
mỡ khoe của hoặc sống lố lăng khác đời. Trong kháng chiến chống Pháp, ông giễu
bọn tướng tá thực dân cùng các hạng tay sai. Đại khái thấy gì bất hợp lý, thấy
gì ngang ngược trái khoáy, là ông cười, cười một cách hồn nhiên mà không cài
vào đấy một ít tâm sự riêng tư hoặc thâm trầm suy nghĩ để nâng câu chuyện lên tầm
vóc một vấn đề có ý nghĩa xã hội thế này thế nọ. Sống giữa những nhà thơ người
nào cũng đầy mơ mộng, cùng nhiều hoài bão lớn lao, Tú Mỡ có vẻ gì quá thiết thực.
Nhưng cái tạng của ông là thế, chỉ cần chung quanh cùng cười là ông mát ruột,
ngoài ra ông không muốn khác và không thể nào khác. Cũng nên lưu ý thêm là
trong toàn bộ thơ Tú Mỡ có một bộ phận tuy ít nhưng đọc khá thú vị là thơ tự
trào.
Thủa trẻ ông cười mình bất tài lơ mơ, không được tích sự gì cho đời.
Về già, ông cười mình còn ngây thơ khi đùa với các cháu. Trong cái việc lấy
mình ra đùa bỡn, Tú Mỡ như muốn đặt mình lẫn giữa mọi người, biết mình cũng
chưa hoàn thiện và sẵn sàng chấp nhận sự đời dang dở. Và như vậy, tiếng cười nhẹ
nhàng càng có cớ để cất lên thường trực, lúc này nó đã biến thành lời tâm sự
chuyện trò của ông với người thân, với đồng nghiệp, và nói chung với bạn đọc.




Con người thanh thản 

Sống trong một thế kỷ đầy biến động, song cuộc đời Tú Mỡ lại chỉ hiện
ra với những đường nét đơn giản. Theo bạn bè và những người thân trong gia đình
kể lại, thì cách sống của ông phải gọi là thanh bạch. Lúc nhỏ, đi học, lớn lên,
đi làm nuôi gia đình. Là một công chức mẫn cán, ngay cả khi tham gia Tự Lực văn
đoàn ông vẫn không rời cái "sở phi năng" (Sở tài chính) mà ông đã
tòng sự liên tục từ 1918 đến 1945, tức là 27 năm trời. Đến khi được chuyển hẳn
sang sáng tác, thì ông lại cặm cụi lo đọc lo viết. Mặc dù quen biết nhiều,
nhưng theo Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ là người "thuốc lá không hút, chè tàu
không nghiện, tổ tôm không biết đánh". Giữa đám người cầm bút đông đảo
"đa ngôn đa sự", ông có vẻ như sống riêng ra, lấy sự siêng năng cần mẫn
làm trọng, lấy cảnh gia đình yên ấm làm vui, không phiêu lưu không mơ tưởng hão
huyền, tin rằng thiên đường chỉ có ở trên trần thế, được sống khỏe mạnh, lại có
công việc ưa thích đã là tiên cảnh lắm rồi, còn như có gì khó chịu trước sự đời,
thì đã có nụ cười hóa giải giúp!

Ông đến với cách sống ấy một cách tự nguyện. Ông thấy bằng lòng với
nó, tự ông cho rằng đời ông chỉ nên tồn tại theo kiểu như thế. Có lần ông tả
con mèo "Thờ nhà chủ cơm ăn chuột bắt - Tôi chẳng chui luồn khuất
tất một ai
". Một lần khác, ông nói kỹ hơn về mình, thông qua lời
tự thuật của một cậu bé bán báo 

"Tôi thênh thênh như cá nước như chim
trời


 Được
vùng vẫy thảnh thơi là thỏa thích


 Tôi chẳng
ngại cơm khi không no áo khi mặc rách


 Chỉ miễn
sao cho đói sạch rách thơm


Sung sướng nhất là tôi giữ được thiện lương

 Khỏi nhơ
bẩn vì bát cơm tấm áo


 Tôi chỉ
là một trẻ con bán báo


 Khắp phố
phường chân sáo nhảy tung tăng
".



 Đằng sau
tiếng cười nhẹ nhàng hóa ra có ẩn giấu một lẽ sống riêng. Lẽ sống này tuy đơn
sơ, nhưng nhà thơ đã sống với nó một cách tự nhiên thuần thục, nhờ thế đời ông
có được những khía cạnh lão thực mà chỉ những người từng trải mới có.







                           BIẾT CƯỜI TỨC LÀ BIẾT SỐNG





Trào phúng là một chuyện khó. Trong khi cười cợt người
khác, người ta lại dễ bộc lộ chỗ tầm thường của mình, và đã đến nước ấy thì
không gì cứu vãn nổi! Chỉ những tấm lòng hồn nhiên và cởi mở, hơn nữa, những
đầu óc tỉnh táo, mới cười được một cách trong sáng và sâu sắc. Ít
ra điều đó đã đúng với nhà thơ trào phúng thuộc loại sáng giá nhất của văn học
hiện đại: Tú Mỡ.



Học
để nhìn đời một cách lạc quan 


Có lần,
qua một tờ báo, nhà thơ Vũ Đình Liên có gửi mấy dòng thơ tâm tình với Tú Mỡ.
Tác giả Ông
đồ 
bảo rằng đời mình
"đầy rẫy những nỗi buồn không thi vị", nên muốn hỏi kinh nghiệm Tú Mỡ
xem nên nghĩ sao để sống cho vui vẻ. Tác giả Dòng
nước ngược 
liền trả lời bằng
bài Lạc
quan, 
trong đó ông kể rằng
lúc trước ông cũng thường ủ rũ chán đời, và nhiều phen rên rỉ "trần ai là
bể khổ". Nhưng, "thật phúc đức", ông đã mau tỉnh ngộ và thường
tự nhủ hãy yên vui để làm việc và hưởng hạnh phúc ở đời; còn khi nào mệt quá,
tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi cho đầu óc được thoải mái. Tóm lại, sở dĩ ông không
buồn vì ông quyết trở thành một tín đồ của chủ nghĩa lạc quan. Dường như qua
đây, Tú Mỡ muốn bộc bạch rằng nhìn đời với những khía cạnh vui vẻ của nó nhiều
khi không cần bẩm sinh mà là điều người ta có thể học được; và khi nó đã thành
nhu cầu nội tại, thành phương cách tự vệ của con người thì tự nhiên người ta
gạt được hết mọi nỗi ưu phiền và tạo được niềm vui sống.

Theo dõi các bài thơ in trong Dòng
nước ngược, 
thấy đối
với cái định hướng tâm lý chính của đời mình, Tú Mỡ khá thành thật, thơ ông quả
là tiếng cười cất lên từ sự quan sát đời sống, và càng đi theo cái hướng lạc
quan như thế, ngòi bút ông càng tìm được sự hào hứng vốn rất cần cho sáng tạo.
Một lần nào đó, trên chuyến tàu hỏa, Tú Mỡ chứng kiến một cảnh trái mắt: một
bên là người vợ ngồi không, và luôn tay phấn son ngắm vuốt, còn một bên là anh
chồng "tay cầm chai sữa, tay bồng con thơ", đến khi con ngủ lại ngân
nga ru con. Thế là ông có bài Thằng... vú em. Lại
một lần khác - theo lời các thành viên Tự Lực văn đoàn kể lại - mấy anh em đang
cùng nhau đi chơi thì bắt gặp một cảnh lạ đời không dễ ai tưởng tượng nổi: Một
viên quan ngồi trong ô tô, hai bên có bốn tên lính chạy
theo vác lọng che ngoài mui xe. 
Trong
lúc ai cũng thấy chướng nhưng chưa kịp nói gì, thì Tú Mỡ buột ra một câu khái
quát: "Y đi lọng!" (chơi chữ từ tiếng Pháp idiot nghĩa là thằng ngốc), và
trở về làm bài thơ Đi lọng. Cứ
thế, ông viết về đủ cảnh nhố nhăng kỳ cục: những ông già làm bộ trẻ và những
ông trẻ làm bộ già; những viên quan nịnh bợ dốt nát và những tờ báo chết yểu.
Đặt bên cạnh những bài thơ của Tú Xương nhiều phen ngả sang cay cú hằn học, cái
cười của Tú Mỡ như có gì lành hiền hơn, nhưng do đó, lại dễ chấp nhận hơn. Trên
một số phương diện, Tú Mỡ gợi nhớ tới Nguyễn Khuyến, nhất là trong những bài tự
trào hóm hỉnh và pha chút trữ tình.



Cốt
cách dân tộc   


Ai đó từng nói: các dân tộc khóc giống nhau, song cười lại
khác hẳn nhau. Một điều có thể chắc chắn hơn; xưa nay những cây bút gây cười ở
ta, thường khi là những cây bút mang được căn cốt dân tộc đặc sắc. Hồ Xuân
Hương, Tú Xương xưa đã thế, mà Tú Mỡ cũng thế. Không phải ngẫu nhiên, bên cạnh
các bài thơ trào phúng đậm đà phong vị dân gian, Tú Mỡ còn là tác giả của những
truyện thơ phỏng theo ngụ ngôn, cổ tích, và bản thân ông từng viết chèo, viết
kịch dân ca.

Chính điều này cũng là nhân tố khiến cho Tú Mỡ sống chết
với nghề cầm bút và có được vị trí nghề nghiệp vững chãi.

Nguyên hồi đó là khoảng những năm 1931-1932, sau những ngày
du học ở Pháp về, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bắt gặp một nét chủ yếu trong
không khí thời đại: cái phong
thương sầu bi 
kiểu Tuyết hồng
lệ sử 
và cả Tố Tâm nữa
-  đã quá đủ; nay là lúc người ta đang khao khát một đời sống tinh thần
thiết thực và khỏe mạnh. Và thế là ông bắt tay làm lại tờ Phong hóa 
một trong những mục đích là tạo ra được tiếng cười vui vẻ cho xã hội. Điều đáng
lưu ý là trong công việc khá tâm huyết này, một người chủ trương Âu hóa như
Nhất Linh nghĩ ngay đến người bạn cũ là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, và xem Tú Mỡ Hồ
Trọng Hiếu là một thành viên chủ chốt trong cái văn đoàn của mình. Ở đây Nhất Linh có sự nhạy cảm tự nhiên: ông hiểu rằng trong
đời sống, không thể thiếu tiếng cười; rằng có nhiều chuyện nghiêm túc, không
thể có cách nói nào khác, ngoài cách thông qua tiếng cười. Mà để khiến cho đông
đảo công chúng cùng cười, rất cần có những con người có được nét căn bản văn
hóa dân tộc chắc chắn, bao gồm cả vốn liếng Hán học lẫn văn hóa dân gian. Chính
Tú Mỡ đã đáp ứng được nhu cầu đó, ngòi bút của ông mang tới cho các trang báo Phong hóa, Ngày
nay 
những tiếng cười hồn nhiên không gì thay thế nổi.



Một
phương diện thường bị quên lãng


























Một điều đáng tiếc với Tú Mỡ cũng như với đa số bạn đọc
chúng ta, là từ sau khi in ra lần đầu cuốn Dòng nước ngược (toàn
bộ ba tập) của ông ở cả Hà Nội cũng như Sài Gòn gần như không được in lại. Kế
đó, trong những tài liệu nghiên cứu phê bình văn học xuất bản sau 1945 ở Hà
Nội, Tú Mỡ thường chỉ được giới thiệu như một nhà thơ đả kích kẻ thù (hoặc về
sau, thơ trữ tình hài hước viết cho thiếu nhi), còn cái phần cười vui, cười chế
nhạo những lố lăng rởm đời lại ít được nói đến. Đã đành thơ "phản phong
phản đế", thơ đả kích Việt gian bán nước là phần công lao to lớn của Tú
Mỡ, và những phần thưởng cao quý ông được nhận sau những bài thơ này là rất
xứng đáng. Song đã đến lúc nên nhìn nhận tài năng trào phúng của Tú Mỡ một cách
toàn diện và khôi phục lại cả những bài thơ chế giễu sự đời của ông - trong số
này, có một ít bài được tác giả viết với cả tâm hồn nghệ sĩ dung dị và dễ mến.
Cũng như những tác phẩm hài hước chân chính, những bài thơ hay nhất của Tú Mỡ
thầm bảo với chúng ta rằng hãy biết sống một cách lành mạnh, vừa chấp nhận, vừa
vượt lên những ngang trái còn đầy rẫy chung quanh, và một trong những công cụ
chủ yếu, để chống lại sự đông cứng của đời sống, chính là hài hước.








Hai bài trên đây đều đã in trong tập Cánh bướm và đóa hướng
dương
 ( 1999)                























 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 26, 2016 21:22

July 21, 2016

Nhật ký văn nghệ 1969 (VI)

 NGƯỜI
TRÍ THỨC CỦA LỚP TRẺ?

Bằng
Việt gặp tôi lúc đầu đã có những vấp váp. Mà là lỗi tại tôi, ai đời cứ tô hô
lên “muốn trao đổi lý luận về thơ ca”. Bằng ghét, cho rằng tôi có phần đắp thêm
vào cái mình không có. Phải một buổi đi nói chuyện dưới cơn mưa nhẹ mới xong.



Cái
tay Bằng Việt ấy, bây giờ, lại đến với bọn tôi với đủ thứ chuyện luyên thuyên.
Tình yêu với cô Tâm, tình yêu của hai nghệ sĩ lớn? Sự tung  phá ra trong sáng tạo, làm sao trong mình có
nhiều mạch khác nhau nhất. Thơ không thể nông nghiệp lạc hậu mãi, mà phải công
nghiệp, công nghiệp hoá.

Ra
đời tập thơ đầu, Bằng Việt được mọi người quý mến lập tức. Bây giờ thì ai cũng
biết, bên VNQĐ cũng nói đến luôn. Đến nỗi, một hôm, ở tòa soạn, ông Hà Trì bảo
tôi, tại sao lúc nào cũng thấy nói đến Bằng Việt như thế. Rồi tôi chẳng biết trả
lời thế nào cả.

Chàng
Bằng Việt ấy được Đỗ Chu rất quý.  Chu vốn
sắc sảo chưa có biết sợ ai bao giờ. Nhưng Chu lại rất quý Bằng. Chủ nhật, bọn
tôi đến chơi, kéo đi uống cà phê. Bằng nói chuyện thì thật thà quá, cái gì cũng
hỏi đi hỏi lại. Chu mới kể chuyện vợ ông thủ trưởng ở đơn vị mặt sao cứ đen không ai muốn nhìn, Bằng liền hỏi lại.

- Nó đen như thế nào?

-
Đen như cái ấy con chó. Nói thế thì mày hiểu.

Rồi
người ta lại bàn nhau về cái điên của thời đại và những cái không điên, hướng
đi của lịch sử và biểu hiện cụ thể nó như thế nào. Tôi ngồi nghe mà cười thầm:
hai nền văn hoá, hai nhánh lớn của văn hoá là đây. Một bên thì học luật ở Kiev Liên
Xô về, lúc nào cũng nghe những Betthoven, Apolinaire, một bên là hương cỏ mật,
phù sa, thịt chuột. Thế mà họ vẫn  hoà hợp với nhau - lạ thật.

Bằng cho Chu xem khá nhiều những
đoạn nhật ký. Chu sẽ mang những cái đó vào cuốn truyện sắp tới về Hà Nội: một
nhà thơ và một vũ nữ người yêu đi công tác xa. Có lần X.Quỳnh đã
bảo cái ông Bằng này  chả  dấu được ai cái gì.




NHÂN MỘT
BÀI VIẾT CỦA NG KHẢI

Thường
thì Chu bông lơn, đùa cợt và ở khía cạnh đó,  biết mang lại niềm vui cho mọi người. Nó kể chuyện rất có duyên, cứ đi đâu
về là lại vô ủng chuyện. Nhưng thỉnh thoảng lại thấy trong những lời đùa
cợt đó, có lồng vào những ám chỉ. Ví dụ như chính Nguyễn Khải rất thích thú khi thấy Đỗ Chu
phát hiện ra rằng ông Nhị Ca một tai lớn, một tai nhỏ. Có thế mà chả ai nhìn
ra, thằng nhà văn là thế đấy, Khải bảo. Nhưng rồi chính Nguyễn Khải tự thú rằng bị Chu
lỡm, ông Nhị Ca tai rất đều, không tai nào khác tai nào cả. Tai cụp tai xoè tai to
tai nhỏ chẳng qua để nói tai của nhà phê bình không chính xác.

Và hôm nay thì Chu giận dữ.
Cu cậu mới đọc xong bài viết của Khải Về
vai trò tình cảm trong sáng tác nghệ thuật.
Cuối năm ngoái ông Đồng nói trước
Đại hội văn nghệ Hiểu biết khám phá sáng
tạo
 phục vụ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội ...  Sau đó Xuân Diệu đã có bài viết  Ra đi từ
bài nói chuyện của đồng chí Phạm Văn Đồng.
Bây giờ đến lượt Nguyễn Khải viết
“những thu hoạch” của mình. Hôm nọ X Quỳnh gặp tôi đã nói sơ sơ rằng ở ngoài
người ta kêu lắm... lẽ ra anh Khải không nên viết thế.  Chu thì bảo:

- Tao mà
gặp ông ấy tao phải nó cho ông ấy một trận. Này, đọc xem này, giống y như giọng
lưỡi cái hôm ở Đại hội văn nghệ toàn quốc, nghĩa là cứ như bố người ta ấy. Bao
giờ ông ấy viết ông ấy cũng tính toán xem chừng bọn cán bộ chính trị ở đơn vị
nó đọc như thế nào, bao giờ ông ấy cũng phải tính để nói đúng như ý của bọn nó.
Thế thì người viết là cái người gì mà lại cứ phải rào đón thế. Này là đoạn đi
thực tế này... này là đoạn tự kiểm điểm này... Chớ có quên thanh minh, không có
người ta lại bảo mình kiêu căng. Thế thì là cái gì. Tư cách của anh hèn kém lắm.

Ng M
Châu cũng ngồi đấy. Tôi bảo anh phải lên tiếng đi chứ, Châu chỉ cười, thằng này nó nói đúng đấy. Tối,
NgMChâu nói thêm với tôi:

-- Dạo
lâu rồi tôi ngồi nói chuyện với ông Khải, tôi cũng đã nói rất kỹ về cái tính cơ
hội với những hạt thuỷ ngân. Thuỷ ngân nó là kim loại nhưng nó ở chất nước, nó
long la lóng lanh, đập vào nó một cái, nó thành ra trăm ngàn hạt rất nhỏ, bắn
tung ra các nơi, nhưng nếu bây giờ mà cần ấy mà, nó cũng tập họp lại ngay được.


Không biết
Chu nói bịa hay nói thật, một lần các ông đang ngồi với nhau, ông Khải nói để
thử đội cái mũ của thằng Chu, mũ đi B từ chiến trường về , rồi nhìn mọi người
hỏi:

- Trông
giống thằng gì nào?

Người
thì giống Nhật, người thì giống Tàu lai Tây. Chu cho một câu:

- Giống
một thằng cơ hội.

Hôm sau,
Chu còn nói thêm với tôi:

- Tao
cho rằng cái ông Khải thông minh thế, đáng nhẽ ông ấy còn làm thêm được nhiều
việc nữa, ông ấy hỏng vì ông ấy cứ nghĩ đến vợ con nhà cửa ông ấy thế thôi.

Một lần,
đến nhà NgKhải, bà vợ ông ấy đếm cá khô, con và chồng đọc sách. Hình như bà ấy
cũng hơi tủi thân.

- Cả nhà
đọc sách , con tôi thì phải đếm cái này. 

       Sau ông Khải nói lại:

- Trăm sự
thì cũng là để kiếm tiền thôi. Có lúc ngồi đếm cá thế thì mới có lúc khác ngồi
mà đếm tiền.

 Nhưng có phải để kiếm sống, người ta có quyền làm
gì cũng được?




KHÔNG THỂ
THEO ĐUÔI QUẦN CHÚNG

Văn xuôi
tạp chí họp, Chu lại phát biểu. Trong khi một số người khác thắc mắc những cái
rất vớ vẩn, viết cái chết như thế nào, tôi cho hai nhân vật cùng yêu một cô con
gái, bây giờ ghen cũng dở mà không ghen cũng dở... thì Chu phát biểu thẳng vào
những chuyện cần thiết:

-- Tôi
thấy chúng ta nên tập trung vào những vấn đề chính thôi, còn hai nhân vật kia
ghen hay không ấy à dễ lắm, tôi cứ cho một người có lệnh đi B một cái, thế là
khỏi ghen tuông gì cả. Như anh Vũ Cao nói vừa nãy, cũng chẳng có pháp luật nào
ghi rõ ràng là chúng ta được nói cái gì mà không được nói cái gì. Tự chúng ta
làm lấy hết thôi. Tôi xin nói như thế này: chúng ta phải nâng cao trách nhiệm của
người viết.

Trước
khi có một phần trách nhiệm với các anh trên những trang báo bây giờ, thì tôi
cũng đã từng là độc giả của các anh. Tôi nhớ hồi ấy tôi thích lắm, còn bây giờ
đọc tạp chí không thích bằng. Thế thì tại sao? Tất nhiên, bây giờ không có
báo hay nên báo mình người ta cũng đọc, nhưng cũng không thể vì thế mà chúng ta
có quyền tự mãn được. Chúng ta phải viết tốt hơn nhiều nữa. Để viết cho tốt, có
nhiều yêu cầu, nhưng tôi cho rằng có một yêu cầu mà chúng ta không thể quên được
tức là chúng ta phải dũng cảm. Không thể tự mình nát mình, cũng không thể sợ
bóng sợ gió ai cả. Làm gì có một nước tốt như nước mình, ông thủ tướng cũng
quan tâm đến văn nghệ như thế. Vậy thì chúng ta phải làm tốt hơn. Người viết
không nên quên rằng mình có quyền thuyết phục người đọc . Dù đó là một đồng chí
đại tá, đồng chí thiếu tướng hay đồng chí nào đi nữa, thì khi đã cầm đến quyển
sách của ta, tức là anh ấy cũng muốn ta nghe một lời tâm sự - vậy thì chúng ta
không có quyền bỏ qua cái khả năng ấy.

Hôm nọ trong
lúc nói về bài ông Khải, Chu còn nói thêm một ý liên quan đến đoạn trên. Sao
anh viết anh lại cứ lo quần chúng giới này thế này, giới kia thế kia. Phải xem
chính bộ phận quần chúng tiên tiến nhất, phải xem ngay trong giới sáng tác của
anh ấy. Tôi viết chính là cho những người bạn bè tôi ở đây nữa.




NGƯỜI TỪ
CẤP TRÊN

Tối chủ
nhật 13-4 tôi rẽ qua nhà Vũ Quần Phương ở ngõ Tức Mặc, thì nghe tiếng cười ran
rỉnh, vào thì thấy  Trần Việt Phương ở đấy.
Tôi đã biết tiếng ông này từ hồi học Chu Văn An, ông ấy mà nói chuyện thì cả
trường mê tít. Trước đây ít hôm ở nhà Bằng, tôi đã nghe có tập thơ của một tay
trí thức nào đấy, 2 tập, một tập thơ chính trị, một tập thơ tình yêu, thì ra
cái ông này. VQPhương nêu lên một số bài khen là có nhân văn. Bằng cũng dẫn những
câu rất thích. Họ uống nước, ăn kẹo, đưa nhau về nhà, đến tận 12g đêm. Tối thứ
tư, tôi đang đứng trên ban công nhà 96 phố Huế với Vũ, thấy Bằng đứng với ông ta ở
ngoài, lại kéo lên mẻ nữa.

- Thơ
tình yêu thì nhất Apollinaire rồi. Ông này chủ trương nói cho hết, nói toàn những
thứ chưa ai biết bao giờ.

 - Ông Tagor thì đồ sộ thật... Năm ba mấy tuổi
ông ấy mới tự tay lựa chọn được một tập thơ, Thơ Dâng. Bản dịch tiếng
Pháp của A. Gide cũng rất giỏi, có chỗ người ta bảo còn khổ công hơn cả bản dịch
tiếng Anh nữa.  Anh Huy Cận có đấy, mình
mượn thì được. Để hôm nào mình mượn cho Bằng đọc.

- Nhiều
vấn đề sử của mình bây giờ đang bàn.  Từ thơ
Cao Bá Quát có thể nhìn ra cái chất của dân tộc trong văn học. Thế giới nó thích
ông Cụ nhà mình lắm, thằng Pháp thì nó nhìn ra từ lâu rồi. Cái chuyện của ông Cụ,
tức là mang truyền thống lịch sử của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa Mác Lênin
trong chính trị, bây giờ trong nghệ thuật phải có một thế hệ cùng làm thì mới
làm được. Lại nói chuyện sử, bây giờ các anh ấy đối chiếu, ví dụ như lúc Bác đặt
là Việt Nam cộng sản Đảng, Quốc tế cộng sản đặt là Đảng Cộng sản Đông Dương, vậy
thì ai đúng, theo nguyên tắc hẳn quốc tế đúng, nhưng ngày càng có có nhiều ý kiến là Cụ đúng. Hay
là năm 1943, Quốc tế cộng sản giải tán, thật ra thì từ năm 1941, Cụ đã chuyển
sang Việt Minh rồi...

Hôm ấy,
mọi người ngồi đến 12 giờ khuya. Trần Việt Phương lại đạp xe về phố Quan Thánh.
Lúc ra cửa, Vũ dặn hôm nào anh Phương cho Vũ xem thơ với. Nghe Vũ kể hôm sau,
ông ta mang thơ đến và ngồi nói chuyện suốt một buổi chiều. Nhưng mà ngay từ
lúc chia tay đêm trước, Vũ đã bảo với tôi:

- Tao phải
bảo con Quỳnh với thằng Bằng mới được, dạo này chúng nó đú đởn với thằng kia
nhiều quá. Đéo tin thằng ấy được, biết đâu nó là do ông Đồng sai đi, ông Đồng sủng
ái thằng ấy lắm, thằng ấy trước đã chơi lân la với bọn Huy Cận, Xuân Diệu, bây
giờ lại lân la với bọn mình. Cứ là tránh xa nó ra, bọn chính trị bao giờ cũng
phe phái, tao nghe nói TW mình cũng nát như tương. Lúc ông Nguyễn Chí Thanh chết,
bọn này sung sướng lắm. Nó đéo thương nhau như mình thương ông đại tướng đâu.

- Nhưng
nghe đâu cái ông Thanh cũng ghê lắm.

- Ừ, là
hãy nói chuyện thế. Thuở nhỏ, tao phục nhất là ba loại người: nhà chính khách,
nhà bác học với lại bọn nghệ sĩ. Bây giờ thì chỉ hai loại sau thôi, còn loại thứ
nhất thấy ghê ghê, không chơi được với nó, nó đánh nhau để nó lên thì tất có thằng
đổ, mình dính vào thằng lên cũng chết mà dính vào thằng đổ thì nó có thể bắt
mình nữa kia.

... Hôm
sau, tôi bàn thêm chuyện này với Chu, Chu bảo thằng Vũ nghĩ thế cũng là phải.
Không dây dưa gì với bọn nó cả.

 TVP mượn 
tập thơ Vũ về và mang trả đúng thời hạn đã  hứa. Vũ kể:

- Lão ấy
đến chậm có 10 phút mà xin lỗi tao mãi.

- Lão ấy
bảo đã đọc hết thơ tao, đọc cả cho ông Đồng nghe. Như trong tập Thơ ba năm lấy hai bài của tao, ông Đồng thích  bài Tầng năm hơn là Những con đường.

Vũ đưa
ra quyển Hương cây đầy những chữ đỏ phê bên mép trang giấy và những
khuyên tròn. Thì ra,TVP đã chuẩn bị một tập để tặng Vũ bằng cách ghi vào nhiều nhận xét rất tinh tế, về từng chữ, về trình bày, về cả những cái chấm
trong đó và nhận xét chung:

- Trong
tập có những cái có và những cái thiếu. Những cái đã có làm cho người ta sung
sướng. Những cái thiếu cũng không làm cho người ta buồn vì người ta chỉ ngạc
nhiên không hiểu tại sao mà có.

Nhưng mà
người ta càng thấy cấp thiết một cái hơi thơ thứ hai. "Một nhà thơ không biết chết
cho đúng lúc thì nhà thơ đó không đáng sống" Jean Corteau đã bảo thế.

Như vậy
là Vũ được một quyển, Bằng Việt được lão tặng cho một quyển khác. Tôi chỉ bảo thế
tức là lão dăng bẫy chúng mày rồi, lão ấy đã chuẩn bị từ trước.

- TVP
đưa tao xem tập thơ. Lúc đầu tao cũng chỉ khen chung chung, lão ấy buồn lắm, sau
không nói gì. Tao bảo thơ của anh hơi khô, lão ấy bảo, chỉ thèm một khả năng
như của mình thế này này. Lão ấy còn cho biết ông Đồng có đọc bọn trẻ, ông ấy bảo 80% văn nghệ
mình bây giờ là công sức của anh em trẻ.

TVP hẹn
hôm nào đến nhà lão ấy chơi. Lão ấy sẽ đọc cho một bài thơ mới viết về Liên xô
và Trung quốc bắn nhau. Tao bảo em cũng chẳng hiểu sách vở gì. Lão ấy bảo thế
thì được, cứ đến, cần cái gì lão ấy cũng cung cấp, cả sách vở lẫn tin tức. Hôm
nào sẽ gặp anh Tô một buổi nữa.

Nhiều lần,
Vũ chợt nghĩ, khéo lão này được cấp trên giao cho nhiệm vụ phải đi điều tra bọn
trẻ hay sao ấy. Nhưng rồi Vũ cũng tự hào. Như thế nào đi nữa, thì cũng chứng tỏ
rằng mình cũng nổi tiếng, nó phải nể mình, và mình làm được việc.

...
Trong một buổi sáng mưa, ngồi nói chuyện, Vũ sẽ có thể tự hào mà thốt lên:



- Mình
cũng vẫn chưa tự kiêu bằng bọn trước. Hồi trước Xuân Diệu cùng với Huy Cận ra
Nxb Xuân Huy. Rồi Xuân Diệu đề tựa cho Huy Cận: Thi sĩ với mái tóc như túm lông chim lông
cò... Anh đi trong đời. Và từ ngay loài người có Huy Cận. Loài người nhớ, chứ không phải nhân dân với Tổ quốc nữa.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 21, 2016 00:58

July 18, 2016

Nhật ký văn nghệ 1969 (V)

BUỔI ĐẦU GẶP VŨ

Hồi tết
Lưu Quang Vũ phải theo đơn vị đi biểu diễn, rồi trở về, nằm viện. Anh em đến
thăm đông đủ. Tất cả đều quý Vũ. Riêng Quỳnh nói với tôi mấy ý:


- Quý
thì quý, nhưng không tin thằng ấy được. Nó trẻ nhất trong bọn này mà nó già quá
cơ. Lúc nào cũng thấy nó thở dài, buồn.

- Sợ nhất
là không biết lúc nào nó thật, lúc nào nó giả nữa. Tôi bị nó giễu nhiều bận rồi
cho nên bây giờ tôi cũng cạch.

- Tôi
cho rằng có những chỗ mà chúng mình không bao giờ vượt qua được. Lòng tin, chế
độ, Đảng, lãnh tụ. Nhưng khi bốc lên, Vũ nó phớt hết.

Rồi Vũ sẽ
đi đến đâu?

Tôi quen
Vũ đầu 1967, khi đến chỗ anh Chính Hữu Phòng
văn nghệ, rồi kéo nhau về nhà Vũ chơi. Dạo ấy nhà đi vắng cả. Tôi lại đang theo
Đoàn Kịch Quân đội về sơ tán ở 18 Trần Hưng Đạo nên đi bộ sang rất tiện. Hai đứa
nấu nướng ăn uống với nhau, Vũ luôn luôn khoe những chỗ mắm mà ông bố Vũ mang về:
“Bố tôi dân khu 5, mẹ tôi mới chính là người Hà Nội.” Những buổi tối ngủ nhà Vũ,
thức đến 2-3 giờ, hai đứa phanh ngực ra hứng gió, đến nhà ga uống cà phê. Những
tối Đoàn kịch đi biểu diễn vắng, tôi gọi nó đến, lấy bánh cuốn lên ăn, chị Thức
đi biểu diễn về, cười : “Hôm nay chỉ lo Nhàn ở nhà một mình buồn, có bạn đến
chơi thích quá còn gì”.

Tôi tự hỏi
có cái gì để đến với các bạn. Tài năng thì... Nói ra chỉ tội nghiệp. Có lẽ chỉ
còn lòng tốt. Nhưng hồi đó, sao thấy Vũ gần mình thế. Vũ kể chuyện một lần vào
một ga nhỏ, thấy mấy thằng học sinh sơ tán ngồi ăn, trông nhếch nhác quá không
chịu được. Phải bỏ đi ngay, không thì phát khóc mất.  Chúng tôi nói chuyện về những người đàn bà tội
nghiệp ,về tình yêu đầu tiên, về những ngày đi học thanh bình. Đọc nhật ký của
Vũ nữa, trong nhật ký toàn thấy chuyện đi chơi, chuyện học vẽ, chuyện buồn.
Nhưng cũng thấy nổi lên là một cậu học trò ngỗ ngược. Mãi mới vào Đoàn, vì coi
khinh mọi người, và có lý lẽ hẳn hoi rằng không phải mình không hoà vào họ, mà
là mình cao hơn họ. Khinh ghét tất cả bọn cán bộ ở lớp... Rất thân với các cô
con gái, khi học với các bạn ấy tự nhiên  chuyên cần hẳn lên. Chính Vũ còn cáu giận khi nghe
một người bạn tỏ ý chán ghét tất cả mọi thứ chung quanh. Do Vũ còn nhớ rất nhiều
những ngày kháng chiến trên Phú Thọ nên
không bao giờ chấp nhận một thứ hoàn toàn hư vô chủ nghĩa như thế. Ngày máy bay
Mỹ ném bom, cũng là ngày Vũ nghĩ mình phải đi bộ đội, chưa học hết chương trình
phổ thông đã xin đi.

Tôi bảo
Chu:

- Tao rất
thích đọc nhật ký của nó.

 Quả thật, tôi đã mang những tập nhật ký đó lên
Hương Ngải, lúc nào buồn lại dở ra đọc lại, nó như một lời thúc giục mình phải
sống thẳng thắn, đàng hoàng. Chu bảo:

- Nhưng
mà đéo thật đâu. Tao cũng viết nhật ký rồi tao biết, chẳng qua nó  là một thứ vuốt ve mình.

Tháng
3/67 Vũ được về Hà Nội nghỉ một tháng để chữa tập thơ. Uyên đến chơi, còn để mảnh
giấy ở cửa “Về thì sang U. chơi nhé”.  Vũ
mãi không đi, chỉ bảo là tao tranh thủ ở chơi thêm. Nói với đơn vị rằng phòng
văn nghệ trưng dụng thêm. Mãi một hôm, đang ngồi nhà Vũ thì ông Chính Hữu đến.
Tôi thấy mình ngồi đấy cũng hơi dại mặt. Cái điều mà thoáng một cái, bọn tôi hiểu
ngay, thì ông Chính Hữu cứ nói đi nói lại vài lần. Và sau đó, Vũ phải về đơn vị.

Tháng hai
năm nay Vũ được về Hà Nội làm gì đấy, lại rốn ở thêm. Một hôm gặp nó ở nhà Lâm
Quang Ngọc, thấy nó bảo, nó ngã xe đạp, đã đi rồi, vẫy Uyên thế nào lại ngã, lộn
cả xe đạp... Tôi về xin cho một cái giấy đi khám bệnh ở 354. Không ngờ sau đó lại
có tin Vũ vin vào cái giấy khám bệnh đó để không về đơn vị. Đơn vị điện lên
báo các đơn vị trên này rằng Lưu Quang Vũ lại đào ngũ rồi. Ông Đại Đồng hấp tấp
đến NXB Văn học đề nghị hoãn việc in tập thơ của Vũ. Rồi Vũ phản kháng viết thư
đến ông trợ lý văn nghệ quân chủng, nói Đại Đồng không ra thế nào. Ông Thuận định
mang đi kiện. May mà đâu lại vào đấy. Chẳng kiện cáo gì nữa, ông Thuận nhượng bộ,
nói trước hết là lỗi của Vũ, ông Thuận lại đi gặp văn công phòng không không
quân... Trong cái lôi thôi hồi ấy, còn dính cả Đỗ Chu. Ng Khải cho Đỗ Chu một
trận, cho là Đỗ Chu lá mặt lá trái, đi với Vũ thì nói rằng cứ kiện đi, lão Đại Đồng
không ra gì,  lúc có ông Đại Đồng ở đấy
thì lại chửi Vũ. Khi nghe ông Thuận kêu con bị bọn trẻ lôi kéo, tôi thoáng có ý nghĩ cái
ông Thuận này ghê lắm, chơi
với Vũ cũng phải cẩn thận. Nghĩ thế, để rồi yên lặng, chỉ nhìn mọi việc từ xa.

Tôi bắt
gặp một cảm giác là lạ ở mình, một cảm
giác như là thầm ghen với Vũ. Vũ nó được
ấp ủ từ rất sớm trong một không khí văn nghệ thật sự. Nó viết được cũng là phải.
Hình như khá nhiều anh em quen cũng bảo thế. Quả thực, trong Vũ có bao nhiêu kỷ
niệm, Vũ là đại diện của những người nghệ sĩ cũ, giữa lớp thanh niên bây giờ, trong
đó có cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Vũ kể chuyện ngày nhỏ có lần Vũ theo ông Tuân đi
viết Sông Đà. Một hôm, trên một chiếc
thuyền, ông Tuân chỉ ánh lửa trong rừng:

- Cháu
có biết nó có cái chất gì không?

- Chất
sơn dầu.

- Đúng,
đúng, nó là cái chất sơn dầu.

Vũ kể ông
Tuân đúng là một người rất thạo chuyện chuẩn bị đi xa, con người sống trên đường
suốt đời đấy. Trong túi không bao giờ thiếu một cái gì cần cho các chuyến đi.

Vũ đã từng
học vẽ ở ông Nguyễn Văn Tỵ, Mai Văn Hiến. Vũ đã có thơ đăng từ năm 10, 11 tuổi,
thơ làm ấy chép vào một quyển riêng, tự Vũ trình bày bìa. Và Vũ sớm biết uống
trà, hút thuốc lá, pha cà phê phin. Vũ kể chuyện thì cứ lăn ra mà cười: Một
gánh chèo ở địa phương lên diễn ở trên này, hát những bài hát cũ nhất: hội ca cầm là hội ca cầm, (theo điệu
hành vân...), trong đó có những câu: chúc
các cậu các mợ kiếm nhiều lời, mặc quần pijama , như quan ba quan tư
... Rồi
Vũ kể cả chuyện hồi người ta đấu nhân văn giai phẩm, ở cái phòng lớn  51 Trần Hưng Đạo. Vũ trèo cây pổi ngoài sân xem,
thấy người ta cãi nhau loạn xị lên, hái được ổi không thèm cho những người đang
thắng thế, mà mang cho những ông bị đấu kia...

Bây giờ
đây, trong phòng của Vũ, còn thấy bầy những bức tranh Vũ học từ nhỏ, như học
theo hoa huệ của Tô Ngọc Vân, như minh hoạ một công chúa Ấn Độ... Và cả những
tranh hơi cũ một tí, tranh người đàn bà khoả thân, tranh nào gái ngực cũng xệ
xuống, ngồi đánh dương cầm. Vũ vẫn còn thích những cái như thế lắm.




THỜI CỦA
ĐẠI CHÚNG

Tôi vừa
đi khai mạc trại kịch về. Ông Đại Đồng mở một lớp học, chẳng những dạy về văn
chương mà lại nhồi nhét cả triết học mỹ học 
thêm. Nghe ông ta nói chúng ta sẽ học những con đường đi vào phạm trù mỹ
học, rồi lại  hứa hẹn đào tạo những nhà
viết kịch cho nhân dân, cho đất nước, chú ý tính binh chủng... thì thấy rằng
ông ấy chẳng hiểu gì cả.

- Ban phụ
trách lớp gồm có đồng chí Đào Hồng Cẩm, kịch tác gia quân đội (sau một ông cán
bộ lên phát biểu cái gì kịch gia nhỉ?), tôi Đại Đồng, trợ lý văn học - kịch bản
- hội hoạ của phòng văn nghệ...

- Tất cả
chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Tôi  nhân
danh bí thư chi bộ phòng văn nghệ đã trực tiếp trao nhiệm vụ cho các đồng chí đảng
viên và chấp hành chi đoàn. Chúng tôi nguyện làm những chiến sĩ tốt, trước khi
làm một người văn nghệ sĩ.

...

Nhìn những
cậu học viên non choẹt chưa đủ bản lĩnh làm người , tôi ngờ rằng chưa thể nào
có những kịch tác gia được. Người ta cứ đào tạo lớp nọ lớp kia đào tạo hàng loạt
trong khi  không  bứt ra nổi một hai người đứng được.

Thế có
phải là hơi quá không? Nhưng mà quả thật ở những lớp này có những chuyện làm
chúng tôi không chịu nổi. Đỗ Chu kể về ông Minh Giang ở trại viết dưới Láng.
Sáng bốn giờ ông ta đã không ngủ rồi, cho nên độ năm giờ là đi lay từng màn. Dậy,
dậy cậu, dậy tập thể dục. Chúng mình ở cơ quan vẫn thế đấy mà. Trước khi làm
người viết mình hãy làm nguời chiến sĩ tốt cái đã. Hơn một giờ học trò đấu hót
chán mới tính chuyện nghỉ mà chiều, hai giờ  ông đã gọi rồi. Chu kể từng nói thẳng vào mặt.

- Hơi một
tí anh cứ lo nghệ sĩ, nghệ sĩ. Chúng tôi không ngại  thứ nghệ sĩ gì cả. Chúng tôi phấn đấu thành một
thứ nghệ sĩ của Đảng. Anh phải để cho chúng 
tôi viết một tí chứ, lúc cơn viết lên chúng tôi thức cả đêm ấy chứ. Đằng
này anh cứ nhằng nhằng theo chúng tôi, chúng tôi không hiểu anh muốn gì.

 Sang nội dung, ông ta lại gọi mọi người lại:

- Bây giờ
các đồng chí về đây viết cho xuất bản, tôi cũng xin trình bày một số ý kiến về
cơ quan chúng tôi. Bên chúng tôi chặt chẽ lắm, không thể như những nhà xuất bản
ở ngoài. Chúng tôi bao giờ cũng phải bảo đám tính Đảng, tính dân tộc, tính nhân
dân, nó là cái yêu cầu riêng của  chúng
tôi.

Chu lại
đốp:

- Tôi
nghe tôi hiểu rồi đấy, nhưng tôi xin nói với anh thế này,  không riêng gì nhà các anh có các tính ấy, nó
là cái tính chung trong đường lối văn nghệ của Đảng. Nếu  các anh có gì khác người thì các anh phải nói
trước mặt cấp trên đi đã.

Giọng  Minh Giang cố ra vẻ nghiêm trang, đứng đắn mà
lại hóa giả tạo. Con người của cặp, của túi dết...Con người của trích dẫn và những
lời lẽ được truyền đạt riêng.  càng ra vẻ
kin kín hở hở càng thấy không thật ... Nhưng người ta đang giữ quyền sinh quyền
sát với mọi cây bút ở đây.

Minh
Giang cũng không tha tôi:

- Hôm
nay tôi đọc bài điểm sách viết về cuốn Hàm
Rồng
của anh Nhàn rồi. Quyển ấy trước khi đưa sang nhà Văn học cũng đưa cho chúng tôi rồi đấy, nhưng mà văn Hoàng Văn Bổn ấy
mà, mới đọc thì hay, đọc kỹ thì thấy tự nhiên chủ nghĩa quá đi, không sao mà in
được. Riêng về cách làm phê bình ấy mà, tôi thấy giá kể trước khi có ý kiến
riêng anh nên đưa cho quần chúng ở đơn vị đọc thì tốt hơn, anh em cũng góp ý kiến
thêm.

Tôi đành
nói nhũn:

- Anh
tính chúng tôi làm thế nào được, viết chong chóng cho đủ bài ấy mà. Với lại người
viết phê bình bây giờ cốt sao phát biểu cho rõ ràng những ý kiến của mình, nếu
cứ nghe người nọ người kia thì cuối cùng như cái chợ, chả đâu vào đâu. Khen một
tí chê một tý, còn ra sao nữa.

- Thế
hoá ra anh thấy không cần nghe ý kiến quần chúng à?

- Sao lại
không nghe? Chẳng qua tôi không hỏi ý kiến của anh thôi. Mà cũng chỉ hỏi một số,
chứ  ai cũng hỏi thì rồi cả năm cũng chẳng
xong bài phê bình. Trong nội bộ ban biên tập tạp chí chúng tôi,  phải trao đổi với nhau chứ. Bên tôi cũng là một
tờ báo đứng đắn, các anh ấy cũng là những cán bộ chính trị vững vàng, cho nên ý
kiến họ góp cũng không phải là không quần chúng đâu.

Tôi nghĩ
thêm về cái  gọi là tính quần chúng của
loại người như Minh Giang. Không, không thể theo được. Không cứ phải quan hệ với
một lô xích xông những người khác nhau mới gọi là có quan điểm quần chúng. Mà
thời nay quần chúng thường chỉ là những cái bung xung, bọn cơ hội cứ lợi dụng
cái đó để mà phát biểu những quan điểm riêng. Các ông to nhất Trung quốc kia
kìa, chẳng phải là lợi dụng quần chúng sao!

Thời buổi
hiện nay trên nhiều tờ báo thấy đăng toàn thơ những người đâu đâu ấy, những bài
thơ thật xoàng, dưới cái đề mục Thơ bộ đội hoặc Thơ công nhân. Chẳng nhẽ quần
chúng chỉ thích hợp với thứ ngô khoai sắn,  chưa bóc vỏ, chưa chế biến ấy sao?

Nhưng
thôi, còn phải rất lâu nữa, chúng ta mới giải quyết được các  vấn đề tưởng ai cũng thống nhất đó. Ng MChâu có
lần  đã “đì” Chính Hữu về chuyện này thì
ông nhà thơ trưởng phòng ấy trả lời:

- Rất
khó mà lay chuyển được quan niệm của những
người đương thời.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 18, 2016 01:41

July 16, 2016

Con người Thạch Lam



Bài này lúc đầu ở dạng tài liệu và lẽ ra phải có tiêu đề Một ít tài liệu về Thạch Lam (2) tiếp theo phần (1) đã đưa ngày 6-7-2016.

Nhưng trong quá trình làm việc, tôi thấy như thế không đủ; phải thêm vào các tài liệu “mộc” một ít suy nghĩ của mình. Những bài tôi viết về trước là nghiêng về tác phẩm nhà văn(xem Phụ lục). Nay muốn đưa ra cách hình dung ra con người Thạch Lam, tạm ghép lại như sau.

TỪ LỜI KỂ CỦA NGUYỄN ĐÌNH NGHI

Những nét vẽ phác đầu tiên về Thạch Lam, với tôi, đến từ đạo diễn sân khấu, con trai Thế Lữ:

- Thạch Lam lạ lắm, người to, khoẻ, khoẻ như Tây đen. Hồi ấy có cuộc thi đấu xảo (hội chợ triển lãm), ông Thạch Lam bóp còn hơn Tây cơ mà.

Nhưng đây là người rất là tinh tế và có một đời sống nội tâm sâu sắc.

Hàng ngày, ông đến làm việc ở toà soạn, thường là đi bộ hay xe tay. Mặc dù anh em có người như Hoàng Đạo nhà rất giàu -- Hoàng Đạo lấy vợ con quan, Thạch Lam vẫn chẳng chịu đến nhờ vả xin xỏ.

Sức kiềm chế của Thạch Lam có lẽ là thật lớn. Ông uống rượu khoẻ, càng uống, mặt càng nhợt đi, và khi say rồi, thì nằm gục xuống, chứ không nói nhảm.

Trong đời sống hàng ngày, Thạch Lam rất... coi thường phụ nữ. Hình như ông thấy họ không ra sao. Chỉ có thương hại, chứ không phải quí.

Chỉ có một người phụ nữ làm thay đổi ý nghĩ đó của Thạch Lam, đó là bà Lê Đình Quỳ.

Không rõ đầu đuôi thế nào, nhưng Thạch Lam lấy một người vợ là cô đầu. Ông cũng hút thuốc phiện nữa. Và bị lao nên chết sớm.

Trong trí nhớ của một người như Thế Lữ, Thạch Lam là một nhà văn rất chịu đọc. Ông thường viết những bài nhỏ ở báo, ký tên T.L, đôi khi chỉ là lối Qua báo chí nước ngoài mà sau này người ta sẽ tiếp tục.

Bố tôi (Thế Lữ) quý Thạch Lam lắm. Có lần lâu ngày mới gặp nhau, bố tôi đưa tay ra ôm, rồi vuốt má Thạch Lam cơ mà.




NHỮNG MÂU THUẪN GIỮA NỘI TÂM VÀ BỀ NGOÀI Ở THẠCH LAM

QUA BÀI VIẾT CỦA ĐỖ ĐỨC THU

Đỗ Đức Thu từng có tác phẩm đầu tay được giải thưởng khuyến khích của Tự Lực văn đoàn. Có tài liệu còn nói về sau ông gia nhập văn đoàn này viết nhiều truyện ngắn đăng trên báo Ngày Nay.

Mối quan hệ Thạch Lam với chung quanh do Đỗ Đức Thu phác họa (http://www.vannghesi.net/Articles/Mat...) gồm hai mặt. Bề ngoài tác giả Gió đầu mùa như có cái vẻ thu mình lại, ngay trong giới làm văn làm báo của mình ông cũng đơn độc và Đỗ Đức Thu đã dùng tới một chữ mà ngày nay ít dùng – quả giao; thành ngữ Hán Việt có câu cô độc cô quả là với nghĩa này.

Nhưng về mặt nội tâm đó lại là một hình ảnh khác, Thạch Lam hiện ra như một con người tha thiết với đời. Không giao du thì thôi, bạn bè với ai, Thạch Lam “nghe” được bạn cả trong im lặng.

...ngay khi còn sống, Thạch-Lam đã ít được người đồng thời biết tới, ngoài ra qua mấy tờ tạp chí hàng tuần, mang vào cuộc đời một tư tưởng của một nhà văn mới, một tâm hồn tha thiết với văn chương và đã định trước cuộc sống của mình bằng ngòi bút. Hình như Thạch Lam sống với văn chương, với sách vở báo chí nhiều hơn sống với người cùng thời. Những người biết Thạch Lam, cả đến các văn hữu một thời, đã gán cho Thạch Lam cái tiếng quả giao, và tỏ ý chê trách cái thái độ họ cho rằng Thạch Lam kiêu kỳ khủng khỉnh.

Sự thực không phải thế, Thạch-Lam rất giàu tình cảm, chỉ vì trường đời đã tạo cho Thạch Lam cái thái độ dè dặt, bắt Thạch Lam phải sống đời con ốc thu mình trong một vỏ kín bưng.

Vì cái tâm hồn phong phú, cái đời tâm tưởng dồi dào ấy, Thạch Lam đã có lần sống cởi mở với thế nhân, sống hoang toàng rộng rãi để chịu những thương tích làm giảm dần lòng tin tưởng ở người đời.

Tránh sao khỏi điều đó, khi một tâm hồn thanh tú -, một con tâm mà một hơi gió, một ánh trăng đều rung động nổi -- phải trực tiếp đụng chạm với những khắc nghiệt của cuộc đời thực tế.



...Thạch-Lam rất thận trọng trong việc giao du. Bè bạn có thể đếm trên bàn tay. Thỉnh thoảng mới có người lui tới cái nhà cạnh Tây Hồ. Khách phần nhiều yên lặng như chủ: đó là những người có thể ngồi im lặng hàng giờ cạnh khay chè đã đạt đến cái thuật “đối diện đàm tâm” của các bậc túc nho.




Với người đã vậy, còn với khung cảnh? Hà Nội của Thạch Lam hàng ngày thì là một thành phố mới thoát ra khỏi cái cốt cách một đô thị buôn bán nhỏ trung đại, nhiều ngõ ngách, nhiều ngôi nhà bé nhỏ và luôn có bóng dáng của những người Tầu.

Tuy vậy, đời sống Thạch-Lam không phải thu vào trong lớp nhà chật hẹp. Có thể nói chỗ ở của Thạch Lam là tất cả Hà-Nội, tất cả vùng thủ đô. Thạch Lam đã hiểu rõ cả cảnh lẫn người, đã mến yêu với mối tình tha thiết của người con dân yêu đất nước.

Ngày ngày sau công việc ở tòa báo, Thạch-Lam thường lang thang các phố, hoặc một mình hoặc với một vài người bạn. Họ im lặng đếm bước giữa cái đám người đông đúc mà tâm hồn thường đơn lẻ như đi trong sa mạc hoang vu. Thỉnh thoảng họ dừng chân ngắm một vài cửa hàng, hay một cảnh lạ mắt.

Mấy chữ “Bách thảo đường” ở đầu phố Hàng Đường, nét chữ đẹp như cắt, và cái biển“marchand de chinoiseries”[nhà buôn người Hoa] ở phố Hàng Bồ, đến nay vẫn còn, là những tác động đã cấu tạo nên cuốn Hà-Nội băm sáu phố phường, nhất là về đêm, khi đời sống dồn vào những căn nhà cửa đóng im ỉm, thành phố lặng lẽ dưới ánh điện lạnh lùng, chiếu mấy cảnh binh hoặc phu xe kéo, Thạch-Lam có cảm tưởng Hà-Nội là của mình và đã tạo nên các đoạn văn giá trị.

Thạch Lam thường lang thang cho tới hai ba giờ sáng rồi về trước chợ Đồng Xuân, xem họp những phiên “chợ xanh”. Đó là nông gia các vùng lân cận mang thực phẩm vào cung cấp cho thành phố. Rau đậu, bầu bí, hoa quả mới hái còn đẫm hơi sương, bầy la liệt đầy một khu trước chợ, đủ các màu xanh rờn dưới ánh đèn nhợt nhạt. Thạch Lam ngắm không chán mắt, ra uống cốc chè nóng pha đường ở “hàng nước cô Dần” lững thững trở về viết lên giấy những ý tưởng đã thai nghén trong ngày.


Sự đối lập “xanh vỏ đỏ lòng” giữa bề ngoài lặng lẽ và bề trong đằm thắm ở Thạch Lam mà Đỗ Đức Thu vừa miêu tả được cũng được nhà văn Thế Uyên ghi nhận. Tác giả Tiền đồn vốn là con một người chị gái của Thạch Lam, nên biết rõ tính cách người chú của mình. Cách Thạch Lam đối xử với người trong gia đình cũng là cách ông đối xử với văn giới.Trong cuốn Những người đã qua Thế Uyên kể:

“..một hôm chú đi vắng, tôi lẻn vào phòng lục chồng báo Tarzan ra xem trộm và bị bắt gặp. Hậu quả cuộc đột nhập này, theo lời mẹ tôi là chú yêu cầu bà “Từ giờ sang thăm tôi thì chị để chúng nó ở nhà”. Vì lời yêu cầu này, nên “chúng nó” gồm tôi và [Duy ]Lam thuộc lòng từng viên gạch sứt đường làng, từng ngõ ngách ngôi đình, nhưng không biết gì về bên trong cổng tre, kể cả khuôn mặt ông chú khó tính. Có một lần ông hỏi mẹ tôi và các cháu, và khi mẹ tôi trả lời chúng nó đang nghịch ngoài kia, ông trách, sao chị không cho chúng nó vào. Lần đó dĩ nhiên chúng tôi được vào, vào lần chót vì ông qua đời trong ngày vì bệnh lao.

Theo lời mẹ tôi và thím tôi Thạch Lam là một người khó tính và yếu ớt ,thích suy nghĩ và sống theo một nếp sống yên tĩnh. Hình ảnh rõ rệt nhất tôi xây dựng về ông là một người yếu đuối, mắt sâu, trầm tĩnh, ít nói, tâm hồn đa cảm và tế nhị.




QUAN NIỆM SỐNG NHÂN BẢN CỦA THẠCH LAM

QUA HỒI ỨC CỦA VŨ BẰNG

Nếu những người nói về Thạch Lam ở trên chỉ là bạn thì Vũ Bằng trong những lời ca ngợi của mình, ở vào cái thế để người ta tin hơn. Do say nghề làm báo, ông đã có lúc coi Tự lực văn đoàn như kẻ thù và tìm mọi cách để hạ nhục. Riêng Thạch Lam, Vũ Bằng vốn có ấn tượng “là một người lạnh lẽo, ít nói ít cười, mà đối với nhãn quan của tôi (tức VB) lúc bấy giờ một người như thế, là một người thâm hiểm “– thì cái chuyện nói tốt cho Thạch Lam là một chuyện khó. Thế mà ngòi bút đó đã có những phục thiện, nhận xét của ông về Thạch Lam không dừng ở tình cảm mà mang đậm chất trí tuệ.



...trong những lúc đi chơi la cà ban đêm với nhau ở ngoài đường, tôi thấy anh hay nói một câu đại khái là “Xét cho cùng ở đời ai cũng khổ, người khổ cách này, người khổ cách khác. Bí quyết là tìm cái vui trong cái khổ. Vì sống, chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường sự sống”.

Ngay lúc đó, nghe anh nói, tôi không mấy lưu ý, và tôi nghĩ rằng Dostoievsky đã nhiều lần nói lên cái tư tưởng đó rồi. Nhưng sau này khi anh mất đi, ngồi nghĩ ngợi thấm thía về câu nói đó, tôi thấy quả Thạch Lam là người yêu sự sống hơn cả ai ai.




Tổng kết lại, Vũ Bằng có lần phải thốt lên những lời sau đây, đủ hiểu Thạch Lam có sức chinh phục như thế nào.

“Trong nhóm Phong hóa Ngày nay, muốn nói đến một người tôn trọng nhân bản thực sự, một người yêu thương đồng bào xót xa từ tâm can tì phế thương ra thì, người ấy chính là Thạch Lam.”

Cũng như một đoạn bên dưới:

Về phương diện văn chương cũng như về phẩm cách ta phải nhận là, trong làng văn, Thạch Lam quả là một người độc đáo. Có tài lại khiêm nhường, người nhỏ mà lòng nhân ái lớn

Trong những câu này tôi muốn lưu ý kỹ hơn cả ở hai chữ nhân bản nhân ái. Một thứ danh xưng mà người ta chỉ dùng cho các nhà văn cổ điển.

Tôi muốn dừng lại ở đây, mời các bạn đọc kỹ bài của Vũ Bằng do Triệu Xuân sưu tầm với cái tên do chính Triệu Xuân đặt Quan hệ Thạch Lam và Vũ Bằng thời ấy(*) http://www.trieuxuan.info/?pg=tpdetai... 28-6-12 và ở thời điểm 7-2016 này còn được nhiều trang mạng đưa lại.

Nhưng trước khi dừng, không thể không nhắc tới một ý thiết cốt mà Vũ Bằng rút ra, sau những lần lang thang với Thạch Lam.



Tôi nhớ có một đêm cùng anh đi thơ thẩn ở đường Hàng Bông, Thợ Nhuộm trông sang nhà pha Hỏa Lò. Xa xa, có tiếng khóc tỉ tê vọng lại. Chúng tôi đi đến chỗ tiếng khóc đó xem sao thì thấy một đứa bé đeo một cái hộp thiếc ngồi co ro ở trong xó tối. Hỏi tại sao, thằng bé nói: “Cháu đi bán phá sa (đậu lạc rang), được hơn hai hào cả thảy, vừa định về nhà thì có đứa đến đánh cháu và cướp hết cả tiền của cháu” - “Nhà cháu ở đâu?” - “Nhà cháu xa lắm, ở tận đường Hàng Bột. Nhưng dù gần cháu cũng không dám về, vì cha cháu mất sớm, mẹ cháu đi lấy chồng, bố ghẻ cháu ác lắm, cháu mà về ông ấy giết cháu chết!”.

Móc trong túi còn hơn hai hào, Thạch Lam đưa cả cho thằng bé và ân cần bảo nó về ngay kẻo ở nhà mẹ đợi.

Đi một quãng đến Hội chợ, tôi nói với Thạch Lam: “Tôi ngờ thằng bé này nói láo. Hình như đã có một đêm đi hát ở Khâm Thiên về, tôi cũng thấy nó khóc và nói y như thế - và người bạn cùng đi với tôi bị lừa”

- “Vậy ư? Nhưng bị lừa hay không, theo tôi, cái đó không quan hệ lắm. Điều cần là mình làm một việc xét ra phải làm, theo ý của mình, còn người thụ hưởng việc phải đó muốn thực thi việc phải đó ra thế nào, tùy họ. Nghĩa là khi nào mình thấy việc gì phải làm thì cứ làm, kết quả ra sao không cần lắm. Rất có thể nhiều người cho tôi hành động như thế là “nối giáo cho giặc”, nói một cách khác là lòng tốt, ở vào trường hợp đó, không ích gì, hành động của tôi không giải quyết được vấn đề gì dứt khoát. Có thể quan niệm như thế là phải, nhưng tôi có quan niệm về sự sống của tôi. Đúng hay không, tôi không biết. Nhưng óc tôi nghĩ như thế, tôi cứ nói thực với anh như thế”.


Câu chuyện của Vũ Bằng cho thấy Thạch Lam đã vững vàng đến như thế nào trong quan niệm làm người của mình. Trong khi theo đuổi cái khao khát sự tận thiện tận mỹ của con người cổ điển, ông đã đạt tới cái bình tĩnh bao quát của con người hiện đại, với nghĩa chỉ lo hành động mà không đặt thêm quá nhiều ý nghĩa cho hành động ấy.

Ở chỗ này, có cảm tưởng Thạch Lam đã gặp nhà văn Nga Chekhov. trong hai bài viết về Thạch Lam, tôi đã dẫn ra hai đoạn văn các đồng nghiệp dùng để miêu tả Chekhov mà tôi thấy cũng đúng với Thạch Lam:

Ý nhị nhưng buồn rầu, tốt bụng nhưng lạnh lùng, vị kỷ nhưng nhạy cảm với nỗi đau khổ của con người, Chékhov cống hiến đời mình cho văn học và y học, làm say mê lòng người nhưng lòng mình lại buồn chán.

Trong sự khách quan kỳ diệu của ông, đứng trên tất cả mọi nỗi phiền muộn hay hân hoan, Chékhov đã thấu triệt và nhìn hết mọi sự vật. Ông có thể hiền từ quảng đại mà không yêu, ông có thể mẫn cảm và thân ái mà không quyến luyến, ông có thể là người gia ơn mà không mong sự trả ơn.

Đối với con người Việt Nam hôm nay thực dụng và luôn bị ám ảnh bởi những mục đích trần tục, thì cách nghĩ cách cư xử của Thạch Lam có vẻ khó hiểu. Nhưng kinh nghiệm riêng của tôi thì lại ngược lại. Trong cuộc đời cũng như trong văn chương, loại người tương tự như Thạch Lam không thiếu.


Để chúng ta có thể hiểu thêm, có một loại người như Thạch Lam, tôi trích thêm ở đây một đoạn từ FB Hà Huy Khoái 28-6-2016.

ÔNG NỘI (bài 1).

Ông Nội tôi sinh năm 1860. Cũng như Bà Nội, với tôi, ông là con người của ngày xưa, và của lịch sử nữa. Đỗ Đầu Xứ Nghệ Tĩnh năm 18 tuổi, tham gia Phong trào Cần Vương theo Cụ Phan Đình Phùng, rồi phiêu bạt trốn truy nã, rồi trở về quê dạy học. Cha tôi bảo Ông theo nghĩa quân, nhưng chẳng có võ nghệ gì, được bổ chức Tả Tướng quân. Nghe thì “oai” thế, nhưng với ngôn ngữ ngày nay thì là Thư ký của cụ Phan.

Cuộc đời Ông đúng là cuộc đời gian truân của “trai thời loạn”. Cố của tôi mất sớm. Cụ cũng đỗ đạt, làm quan, nhưng nghe nói không bỏ được cái tính “lãng tử”. Thường uống rượu ngâm thơ với bạn bè. Lại thích cưỡi trâu đi chơi (chẳng biết có phải vì bắt chước Lão Tử không nữa), rồi bị cảm, mất sớm. Vậy nên Ông tôi mồ côi cha từ năm 6 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi, 15 tuổi đã phải dạy học kiếm ăn. Lại vào cái thời “sự học ngày nay đã chán rồi”, nên chuyện về Ông tôi mà cha tôi kể lại, nghe cứ như chuyện mấy Nhà Nho bất đắc chí trong sách Nguyễn Tuân hoặc Ngô Tất Tố. Tôi biết về Ông nội, một phần qua lời kể của Cha tôi, một phần qua bài “Thiếu niên cảnh thuật” Ông để lại trong Gia phả, kể về cuộc đòi mình.

Cứ như lời Cha tôi thì việc chính của các cụ bạn bè với Ông tôi là uống rượu, bình thơ. Thời đó, các cụ uống ít, mỗi người một cái chén “hạt mít”, chứ không dùng “cốc vại” như bây giờ. Thức nhắm chẳng có gì, may ra được mấy quả trám đen mà dân Hương Sơn quê tôi trồng khá nhiều. Đêm đêm các Cụ ra bờ sông, ngồi với mấy cô phường vải, đặt thơ cho các cô hát đối đáp. Bởi thế nên quê tôi mới nổi tiếng với những khúc hát phường vải, mà đa phần là do các cụ Nho học làm ra.

Là người có chữ trong làng, nên Ông tôi hay giúp người ta theo kiện khi bị mấy ông quan địa phương ức hiếp. Viết hộ họ đơn từ, bày cho họ lý lẽ. Nhiều khi phải cho họ tiền để theo kiện nữa. Có lần Ông giúp một người mà trong làng không ai ưa. Người ta bảo: “Ông giúp nó, nhưng rồi sau này nó đối với ông chẳng ra gì đâu”. Ông tôi cười:”Tôi biết chứ. Nhưng phàm là con người thì ai chẳng có cái xấu. Người ta tốt với mình thì quý quá rồi, còn người ta xấu với mình thì lẽ thường thôi, sao phải bận tâm. Bây giờ nó đáng được giúp, thì giúp thôi!”
.

Loại người này thuộc về một nền văn hóa hấp thu được cả những tinh hoa của phương Đông và phương Tây, cố nhiên là có bám chặt vào cái gốc biết điều vừa phải của văn minh làng xóm Việt Nam xưa. Còn nền văn hóa chúng ta ngày nay, thì nhiều phần ngược lại, mà sự cắt nghĩa thì hình như chúng ta không định làm.



PHỤ LỤC

Hai bài viết chính về Thạch Lam của tôi là

Thạch Lam cốt cách một trí thức mới

Thạch Lam tìm vào nội tâm tìm vào cảm giác

đã in trong cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa và

được GS Trần Hữu Dũng đưa lên mạng

http://www.viet-studies.info/VTNhan/V...

Ngoài ra còn các bài lẻ đã đưa trên blog của tôi

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Cái đẹp trong văn Thạch Lam

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Thạch Lam và phận nghèo của xứ sở

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Thạch Lam và mối đồng cảm với người nước ...

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Thạch Lam ( phần II )

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Thạch Lam (phần I)

VƯƠNG-TRÍ-NHÀN: Các nhà văn làm báo tết






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 16, 2016 03:54

July 5, 2016

Một ít tài liệu về Thạch Lam (1)






Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) có lẽ là nhà văn thành công nhất trong việc tổ chức công việc cho cả cuộc đời. Số lượng trang viết dồi dào ở ông  đi liền với khả năng tập trung vào những đề tài chọn lọc cùng là khả năng đi tới cùng của các dự định.

        Khoảng trên chục năm trước khi mất, biết  rằng thời cuộc thay đổi nên sự đọc của mọi người là rất khó khăn,  ông chỉ tập trung vào việc làm sách. Ông vẫn viết đều, nhưng chỉ viết rồi để đấy, không cần tính chuyện xuất bản. Một người sống bằng nghề viết sách như ông thừa hiểu xuất bản nghĩa là phải chinh phục bạn đọc đương thời, tức phải  thỏa hiệp, trong khi tác phẩm của ông là để dành cho bạn đọc về sau, mà không cần thỏa hiệp gì và thỏa hiệp với ai hết.



 Ở vào cái tuổi cũng sắp phải kết thúc đời viết của mình, tôi mới nhận ra bài học trên và ngao ngán nhận ra mình  quá nghiệp dư trong công việc, trước hết là lan man tùy tiện.



Thế nhưng "rằng quen mất nết đi rồi".



Mỗi năm vào dịp tháng bảy, cùng với Nguyễn Tuân tôi lại nhớ tới ngày sinh của  Thạch Lam và theo thói quen, lại trở lại với những gì mình đã viết, để xem có gì nên giới thiệu với các lớp bạn đọc trẻ, hoặc trở lại với những gì mình có mà chưa có dịp trình làng. Quan trọng không kém, cần trở lại với những gì thiên hạ mới viết, kể cả những cái viết từ lâu mà mình không biết, nay mới được các nhà nghiên cứu khác tìm thấy.









Thạch Lam qua nét vẽ Đinh Cường





Theo hướng đó, tôi đã tìm lại bài viết của Nguyễn Tường Giang để đưa vào blog này ngày 4-7.



Phần tài liệu về Thạch Lam tôi đưa hôm nay gồm có 1/hai bài báo nhỏ trên Ngày nay một về Andersen nhà văn và một nghề dịch, 2/ trích đoạn các bài viết của Vũ Bằng, Đỗ Đức Thu, Trương Chính về Thạch Lam. Cả hai bài trong mục 1/ in dưới đây đều do Thạch Lam viết theo tài liệu lấy từ báo Pháp đương thời. Trong lưu trữ của tôi, còn có bản đánh máy phóng sự Một tháng ở nhà thương,  hai cuốn viết cho thiếu nhi Hạt ngọc, Quyển sách, nhưng lâu nay tôi  theo dõi không hết việc in lại sách của Thạch Lam nên không rõ có cần đưa lại trên mạng hay không.


























                  NHÂN TÀI NƯỚC NGOÀI: ANDERSEN









Andersen là một nhà văn người Đan Mạch, nổi tiếng khắp hoàn cầu. Những tác phẩm của ông được toàn thể trong nước hoan nghênh. Có một điều đặc biệt là những truyện ông viết, toàn là những truyện cổ tích, truyện trẻ con, lưu hành trong dân gian Đan Mạch. Văn ông rất giản dị, đơn sơ và trong trẻo.



Trong (ở) nước ta, các truyện cổ tích hay cũng nhiều, mà chưa có nhà văn nào để ý đến.








Cách đúng một trăm ba mươi năm nay, ở Odensée là kinh đô xứ Fionie (Đan Mạch) có một người thợ đóng giầy tên là Andersen, nghèo khó đến nỗi không có tiền mua một chiếc giường để nằm và hôm cưới chàng, chàng đã phải cùng vợ mới nằm trên một tấm vải phủ áo quan cũ rách mà chàng đã mua được bằng một giá cực rẻ ở một nhà tầm tầm. Thế mà chính người khốn nạn ấy sinh được một người con đã làm vẻ vang cho nước Đan Mạch. Người con đó tên là Hans - Christian.



Ngay khi còn măng sữa, Hans - Christian đã mồ côi cha. Mẹ chàng thiếu cơm ăn. Christian tìm cách giúp đỡ mẹ. Chàng đi lang thang các cánh đồng để mót lúa. Bọn thợ gặt trước còn mắng chửi, sau dùng đến roi vọt đánh đuổi chàng. "Một đứa trẻ có chí khí không bao giờ ngã lòng". Chàng nhớ đến lời thánh dạy như vậy.



Hồi ấy, Christian chưa đầy mười hai tuổi. Cậu bé nghĩ cách đặt những câu hát để hát cho người nhà quê nghe. Cậu làm những câu hát giản dị quê mùa và đã cảm hoá được những người quê mùa cục mịch ấy khiến họ phải say mê. Vì thế cậu được đi mót lúa ở các cánh đồng. Không những thế, bọn thợ gặt còn bó cho cậu những lượm lúa nho nhỏ để cậu mang cho đỡ mệt. Nhưng cô gái nhỏ còn đèo thêm vào những túm hoa nội để mang về tặng mẹ cậu. Thế là cậu Christian thoát chết.



Nhưng cả những điều kể trên chỉ là những điều truyền tụng về đời nhà thi sĩ trẻ tuổi. Thực truyện ra còn đáng buồn hơn.



Vì bồ côi cha sớm, con người thợ đóng giầy nghèo khổ kia trước hết định đóng kịch độ thân. Chàng rời bỏ quê hương tìm đến Copenhague, trong túi chỉ có một món tiền nhỏ. Những ông chủ nhà hát chàng tìm đến đều không nhận chàng, vì thấy chàng gầy còm quá. Chàng xoay ra học hát. Mới bước đầu, đột nhiên chàng bị mất giọng. Sau cùng chàng nghĩ đến cách học nhảy. Lại một lần thất bại.



Xoay sở chán, chàng quay ra làm thơ. Những nhà văn đuợc đọc tập thơ đầu của chàng, mang lòng mến chàng và cho chàng vào trường theo học. Lớn hai mươi tuổi đầu, chàng phải ngồi cùng bàn với những trẻ mười hai tuổi. Ít lâu sau, chàng xuất bản tập thơ thứ nhất được hoan nghênh nhiệt liệt. Hoàng đế Đan Mạch giúp tiền chàng ăn học và chàng đi du lịch Âu châu.



Trong khi đi du lịch, chàng gặp nhà văn hào Lune; ông này kể cho chàng nghe những truyện đẹp đẽ mà chàng thuật lại cho độc giả nghe. Vì thế cuốn "Sách những hình ảnh không có hình ảnh" rất phổ thông trong dân chúng; những câu truyện thuật trong sách rất lanh lẹ, ý vị như ngụ ngôn của La Fontaine, sâu xa như truyện của Nodier, ngộ nghĩnh như văn của Hoffman, đã khiến chàng trở nên bất tử.



Người Đan Mạch Hans - Christian Andersen là một danh sĩ dị thường trong làng văn của tất cả các thời đại và của hết thảy mọi xứ.









Nguyên văn tiếng Pháp  in trên Illustré


















NGHỆ THUẬT DỊCH VĂN





Dịch văn nước ngoài là một nghệ thuật, cũng khó khăn và ích lợi như sáng tác. Khó khăn, bởi vì tất cả mọi người ai cũng biết những điều trở ngại mà người dịch gặp phải khi muốn dịch một áng văn ngoại quốc sang tiếng nước nhà; ích lợi, vì sự dịch làm giàu cái kho văn chương chung của nhân loại, và có thể làm hồi sinh lại được một nền văn chương bằng cách gia nhập những cái của quý của văn nước ngoài. Chúng tôi trích dịch dưới đây một vài đoạn trong bài "Nghệ thuật dịch văn" của Vladimir Weidlé. trong báo Nouvelles Littéraires.

*

Càng ngày người ta càng nhận biết những trở ngại mà người dịch phải vượt qua, những trách nhiệm nặng nề mà người dịch phải gánh lấy, và cái tính cách bấp bênh ở công việc của họ. Người ta lại càng ngày càng được nghe nói rằng, trong lý thuyết, thì dịch văn là một công việc không thể có được, tuy rằng một quan niệm như thế vẫn không có ảnh hưởng gì trong sự thực hành. Ông Levis May, người nước Anh dịch Anatole France, kể chuyện lại rằng một hôm ông phàn nàn với nhà danh sĩ về sự không thể dịch được. "Ông nói rất phải, nhà danh sĩ trả lời. Và nên nhận rằng, biết được cái chân lý ấy là điều kiện thứ nhất để thành công trong nghệ thuật dịch văn."

Nhưng mà, cái vấn đề dịch văn vẫn có, và người ta nhận thấy trong lúc tìm để giải thích thế nào là dịch "không sai lầm", dịch "đúng". Tất nhiên, công việc dịch rất giản dị trong trường hợp một tác phẩm khoa học, hay một tác phẩm có ích lợi thực hành; tất cả mọi người đều hiểu lúc ấy thế nào là dịch đúng. Nhưng sẽ không được như thế nữa trước một tác phẩm nghệ thuật. Ở đây, không còn một cái chuẩn đích hợp lẽ về giống nhau nữa. Dịch từng chữ một không đủ...

... Shelley đã nói: "Muốn chuyển tác phẩm của một thi sĩ ở tiếng nước này sang tiếng nước khác, cũng tựa như muốn ném một bông hoa tím vào lò để phân cái chất mùi thơm và màu sắc".  Một bài thơ, tức là bài không thể dịch được, người ta chỉ có thể sáng tạo lại, theo hình ảnh và giống nguyên văn. Khi một chân thi sĩ dịch văn thơ của một chân thi sĩ khác, cái  kết quả của công việc đó là của thi sĩ này cũng như của thi sĩ kia... thơ của Omar Khayyam đã "Anh hoá" dưới ngòi bút của Fitzgerald, nhà văn này có thể coi như là tác giả của chính thức của những bài "Rubaiyat" tiếng Anh. Cũng thế, một bài thơ  Beaudelaire dịch bởi Stefan George sẽ thành một bài thơ của Stefan, mà vẫn không vì thế hết còn là một bài thơ của Beaudelaire...

Nhưng, nếu một bài thơ, mà cái gì cũng cốt ở lời văn, cái gì cũng là lời văn, chỉ có thể dịch được bằng một cách sáng tạo mới, những tác phẩm khác (như tiểu thuyết), có thể dịch được, bởi vì cái cốt yếu và những nguyên liệu xây dựng lên còn quan trọng hơn cái vỏ bọc bằng lời văn. Người ta lại nhận thấy, nếu bỏ không nói đến cái tính chất thuần ly tao, một điều lạ này: những nhà văn khó dịch nhất không phải là những đại văn hào nhất.

...

Công việc của người dịch văn là một công việc bạc bẽo, nhưng rất cần. Trong lịch sử của các nền văn chương, công việc đó có thể là một chức vụ to tát. Chúng ta có thể rất dễ dàng tin chắc như thế khi nghĩ đến Plutarque dịch ra tiếng Pháp bởi Amyot, Montaigne - bản dịch ra tiếng Anh của Fiorio, mà Shakespeare đã tìm nguồn cảm hứng... Sự quan trọng của công việc dịch không phải chỉ ở chỗ đứng môi giới làm cho một tác giả ngoại quốc được nhiều người đọc thưởng thức hơn, nhưng chính còn ở chỗ một tác phẩm chỉ nhờ vì dịch mà nhập vào một hoàn cảnh văn chương mới, và chỉ nhờ vì dịch mà có một ảnh hưởng dồi dào hơn. Không có những bản dịch - và dẫu ví dụ tiếng Anh phổ thông khắp hoàn cầu - Shakespear chỉ ở trên đảo của ông ta. Và không một ai trong chúng ta ở lục địa, sẽ nhớ rằng mình đã đọc ngày còn trẻ "những cuộc du kịch của Gulliver"... Không phải là một việc giống nhau, khi đọc một tác phẩm hay ở tiếng nước ngoài, dẫu cho ta biết rõ tiếng ấy, hay đọc ở tiếng mẹ đẻ. Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta có một sự hiểu biết rõ ràng hơn, nhưng chính là ở trường hợp sau mà chúng ta lấy làm hẳn của mình.

Văn chương là một món hàng mà hình dáng và hương vị thay đổi khi vượt qua một biên giới, và bởi lẽ đó, những sự trao đổi văn chương càng có nhiều kết quả nếu càng không giống những sự trao đổi về thương mại. Một bản dịch thật hay, hay chỉ nhận được, bao giờ cũng là một  sự làm giàu của cái gia tài văn chương chung; Sự dịch văn đó cho chúng ta thấy những trạng thái chưa ai biết của nguyên văn, khai những nguồn ảnh hưởng mới, và có thể làm sống lại một nền văn chương bằng cách  tiêm nhiễm cái sức mạnh của một tài năng ngoại quốc, nó sẽ sống ở đấy một đời sống  mới... Sự hoạt động mạnh mẽ của các nhà dịch văn và các nhà xuất bản chúng ta thấy bây giờ, như vậy chỉ có thể rất ích lợi, nếu biết cẩn thận trong công việc, và cốt nhất là biết chọn lựa những tác phẩm và đừng nhầm lẫn những giá trị của một nền văn chương với những sản phẩm của một kỹ nghệ viết văn, làm việc cho một thị trường quốc tế...


Vladimir Weidlé



Thạch Lam trích dịch



(còn nữa)







 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 05, 2016 23:09

July 4, 2016

Nguyễn Tường Giang: Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam

Bài viết sau đây là của người con trai thứ hai trong gia đình Thạch Lam và sinh mấy ngày trước khi ông qua đờì. Bài được viết cuối năm 2013 và lần đầu in trên Giai Phẩm Xuân Người Việt, Giáp Ngọ 2014.

Khi tra trên mạng, tôi chỉ nhận được con số phổ biến bài, tính đến ngày 4-7-2016, là 229. Ở trong nước, bài chủ yếu được in trên mấy trang mạng chuyên về trà và các loại mỹ nghệ phẩm trong đó có một trang cuả cơ sở Ba Mẫn chuyên cho thuê bàn ghế, chén đĩa, cổng hoa.

Nghĩ rằng bài viết giúp ta hiểu thêm cả không khí văn học thời tiền chiến, lẫn những phôi pha trôi nổi đã đến với các giá trị đạm bạc nhưng cao quý trong những năm chiến tranh cũng như hậu chiến, nhân ngày sinh của hai ông Thạch Lam 7-7 và Nguyễn Tuân 10-7, tôi xin được phép giới thiệu lại,kèm theo là một ít ghi chú nhỏ đưa ở cuối bài.




Tôi vẫn thường tưởng tượng một cảnh gặp gỡ như vậy giữa Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Mẹ tôi khi còn sống không bao giờ (và có lẽ cũng vì tôi không hỏi) nói về cái buổi Nguyễn Tuân đến nhà tặng Thạch Lam một bộ đồ trà.

Trời mới vừa hửng sáng, đám sương mù dầy đặc từ đêm hôm trước như có linh hồn của một người yêu công việc thấy được ánh sáng đầu ngày đã vội vàng tản mát trên mặt nước Hồ Tây, như những người thợ cần mẫn vội vã đến nơi làm việc. Phía trong làng hoa Yên Phụ, những người trồng hoa đã bắt đầu gánh sản phẩm của những ngày lao động vội vã đi về phía đê Yên Phụ rồi tản mát đến các khu họp chợ để phân phát hương thơm và mầu sắc cho những thiếu nữ mộng mơ. Trên đê Yên Phụ lúc đó, người phu xe cũng vừa ngừng chạy, đặt hai cái càng xe xuống mặt đường. Một người đàn ông tầm thước mặc đồ âu tây trắng, đội mũ phớt trắng chậm rãi bước khỏi xe. Ông cẩn thận ôm trên tay một cái bọc vải mầu nâu gụ, dặn dò thời gian người phu xe trở lại đón rồi thong thả đi xuống đê, rẽ vào con đường làng nhỏ ngược chiều với những gánh hoa đủ mầu sắc. Qua cái đình có vẽ hình một con hổ vàng vằn đen, phía trước đình là một cái ao dài và nhỏ còn vương lại mấy lá sen tàn, ông nhẹ nhàng đẩy cánh cổng gỗ của căn nhà đầu tiên trên đường. Đó là một căn nhà tranh vách đất nằm bên cạnh Hồ Tây, một bụi tre khẽ lay động trước nhà và ông nhìn thấy phía bên nhà ngó ra hồ những cành liễu rũ xuống lấp lánh lá còn ướt sương. Ông đứng trước cửa nhà bằng tre, khẽ gọi: chị Lân, chị Lân. Cánh cửa hé mở, một người đàn bà nhỏ nhắn vấn tóc trần thò đầu ra: à anh Tuân, anh đến chơi sớm. Nhà tôi đang ở phòng viết, mời anh vào chơi. Người đàn ông bước vào nhà, để cái bọc vải trên mặt bàn bằng gỗ, cũng vừa lúc đó chủ nhân ở căn phòng nhỏ bước ra. Chủ nhân người gầy, cao, nét mặt thanh tú, đôi mắt sâu và lông mày rậm. Hai người bắt tay nhau: anh ngồi chơi, lâu không thấy anh tới tưởng anh lại đi giang hồ đâu xa. Hai người ngồi xuống hai chiếc ghế mây ở hai đầu bàn, người khách mở gói vải bầy ra mặt bàn một bộ đồ trà và một hộp trà nhỏ: xin chị cho một ấm nước sôi. Chủ nhà tò mò ngắm nghía bộ đồ trà: một cái ấm trà mầu đỏ chu sa, một cái đĩa bàn lòng chảo bằng sứ men trắng dưới lòng đĩa có vẽ hình những con kỳ lân với những cái đuôi dài quấn vào nhau, tựa như một tấm bản đồ cổ. Một cái chén tống và một chén quân có cùng một họa hình như cái đĩa bàn, còn một chén quân khác vẽ cảnh bốn người ngồi trong thuyền ngoạn cảnh bên bờ nước có những tảng đá lớn có một cái cây nhỏ vươn ra. Trên thành chén quân này có bẩy chữ Tầu, ắt hẳn là một câu thơ. Chủ nhân cười hỏi: không biết đây có phải là bộ đồ trà trong “những cái ấm đất” và “chén trà trong sương sớm” chăng. Tôi nào có nghi ngờ những điều anh viết đâu. Khách biết là chủ nhân chỉ hỏi đùa, ông vẫn cảm cái ơn tri ngộ của một người bạn văn cùng nòi tình khi viết những lời phê bình cảm động cuốn truyện ngắn ông mới in. Tôi cũng có việc sắp phải đi xa nên đến cùng anh uống vài chén trà từ biệt. Cũng xin để tặng anh bộ đồ trà của gia đình. Khi nào anh uống trà sẽ nhớ đến Nguyễn này. Một cái hỏa lò đã được mang lên cùng một cái ấm đồng, than trong hỏa lò đã đỏ lửa, bọt than nổ tí tách. Khách mở hộp trà Thiết Quan Âm mới tìm mua được hôm qua rồi khéo léo và từ tốn pha trà. Hai người im lặng thưởng thức trà rồi nhẹ nhàng nói những chuyện văn chương chữ nghĩa. Họ có nhiều chuyện để nói với nhau bởi đó là hai nhà văn cùng tuổi, cùng thời, cùng nổi tiếng vì những bài viết sâu sắc và tinh tế về nghệ thuật ẩm thực và những thú vui tao nhã xưa và nay. Cả hai cùng mới dứt bỏ được ả phù dung, một người vừa in Ngọn Đèn Dầu Lạc, người kia đã có trong tay bản thảo Mười Năm Đèn Lửa. Phải chăng họ là Bá Nha Tử Kỳ của Văn Chương.

Tôi vẫn thường tưởng tượng một cảnh gặp gỡ như vậy giữa Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Mẹ tôi khi còn sống không bao giờ (và có lẽ cũng vì tôi không hỏi) nói về cái buổi Nguyễn Tuân đến nhà tặng Thạch Lam một bộ đồ trà. Chỉ có lần thấy mẹ tôi bầy cái ấm trà và cái đĩa có ba chén trà men trắng vẽ hình lam xanh trên bàn thờ vào một ngày giỗ Thạch Lam, bà nói với chúng tôi: cái ấm trà và mấy chén trà này do nhà văn Nguyễn Tuân tặng cậu, hồi còn sống cậu quý lắm. Tôi nhớ đó là những ngày chúng tôi đã vào ở trong Nam và tôi mới chập chững ở ngưỡng cửa trung học, mới bắt đầu lạc lõng vào thế giới văn chương tiền chiến, biết đôi điều về Thạch Lam và Tự Lực Văn Đoàn. Tôi vẫn chưa bao giờ tự hỏi và tìm hiểu bộ đồ trà này lưu lạc ở đâu, từ ngày Thạch Lam mất đi, ngày 27 tháng sáu năm 1942, ba ngày sau khi tôi ra đời. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi chỉ nán ở lại căn nhà cây liễu cạnh Hồ Tây đôi ba tháng, bà tôi vì thấy cảnh nheo nhóc của ba đứa cháu nội, cho người đón chúng tôi về trại Cẩm Giàng và giao cho mẹ tôi làm quản gia cho trại. Ở đây ba chị em chúng tôi đã sống những ngày tháng êm đềm cho tới khi phong trào toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Lúc đó bà nội tôi đã xuất gia, khi ở chùa, khi về thăm trại. Khi phong trào tiêu thổ kháng chiến được phát động, gia đình tôi đã theo đoàn người tản cư chạy ngược lên miền bắc, dần dà đến trú ngụ ở một làng nhỏ và rất nghèo vùng Nhã Nam, Yên Thế. Trong những ngày đầu của cuộc tản cư gia đình tôi được cho ở tạm trong một căn buồng nhỏ, gần gian chứa thóc của một gia đình miền quê tốt bụng. Theo lời chị tôi kể, một hôm mẹ tôi trở lại Cẩm Giàng để xem xét tình hình, khi trở về thì căn buồng chúng tôi tạm trú đã bị cháy hết, những di tích kỷ niệm của gia đình như hình ảnh, sách vở và những trang bản thảo của Thạch Lam đều tan thành tro bụi. Gia đình chúng tôi đã sống hơn ba năm ở cái làng Đìa heo hút, tôi nhớ là cả gia đình chui rúc trong một căn lều nhỏ, là nơi chủ nhà ngày trước dùng để cất những dụng cụ nhà nông. Căn lều mái tranh vách đất, cửa liếp lỏng lẻo, những ngày mưa mái nhà bị dột và tôi hay ngồi nhìn những bong bóng do nước trên mái gianh nhỏ xuống cái rãnh ngoài cửa liếp. Tôi không nghĩ lúc đó mẹ tôi mang theo bộ đồ trà mỏng manh dễ vỡ, mặc dù mẹ tôi vẫn có một cái tay nải mầu nâu nhưng tôi chưa bao giờ mở ra xem trộm. Tôi tự hỏi nếu mẹ tôi có bộ đồ trà quý giá đó, bà có chịu bán đi cho một người giầu có trong làng để qua cơn nghèo túng, bữa đói bữa no, cơm ăn trộn khoai trộn sắn của chúng tôi hay không. Cho đến khi bà nội tôi dò hỏi và tìm được gia đình tôi, khi theo người dẫn đường trở về Hải Phòng, ngày nghỉ đêm đi, tôi còn nhớ có những đêm nấp trong bãi tha ma thấy những viên đạn lửa như ma trơi bay ngang dọc trên đầu. Ở Hải Phòng rồi dọn về Hà Nội cho tới khi di cư vào Nam, gia đình tôi thay đổi chỗ ở ít nhất cũng bốn năm lần, lần nào cũng chỉ sống trong một căn buồng bé cỏn con, tôi chưa một lần nhìn thấy bộ đồ trà.

Cái ấm trà và những cái chén trà, trong khoảng thời gian dài hơn một giáp tuổi đã lưu lạc ở đâu. Những người có thể soi sáng vào cái phần đời còn u tối của chúng giờ đây đã không còn nữa, những thắc mắc, tìm tòi về những kỷ niệm, biến cố liên quan đến một con người bao giờ cũng được nhớ tới một cách muộn màng. Phải chăng khi mẹ con chúng tôi dời bỏ trại Cẩm Giàng với những ngày tháng êm đềm, bà nội tôi, người đã bỏ bao nhiêu công lao tạo dựng một nơi chốn để con cháu có những ngày tụ họp, nghỉ ngơi, đã trở về để nhìn thấy căn nhà thân yêu một lần chót, đã vội vã thu vén những kỷ vật của gia đình, bà đã nhìn thấy bộ đồ trà của đứa con bà yêu thương nhất nhưng mệnh yểu, bà đã bỏ những di vật đó trong cái tay nải nâu sòng của một người xuất gia. Từ đó, bộ đồ trà của một thời dĩ vãng đã lách cách đi theo bà nội tôi, ẩn náu dưới những mái chùa Đào Xuyên, Bối Khê vùng Hưng Yên để trốn tránh bộ đội Việt Minh đang tìm dấu vết gia đình Nguyễn Tường Tam, rồi về Thành yên ổn trong ngôi chùa Hai Bà Trưng phường Đồng Nhân, Hà Nội, nơi tôi đã được ăn oản ăn chuối cúng Phật hơn hai tháng trời, vì cái mạng cao số phải nương nhờ cửa Phật để người thân được độ trì, rồi cùng theo đoàn người di cư vĩ đại vào miền Nam. Bà tôi lúc tạm trú ở chùa Văn Thánh Thị Nghè, chỉ cách nơi gia đình tôi trú ngụ có một cái cầu rất ngắn, và cũng có lẽ đó là lúc bộ đồ trà được giao lại cho mẹ tôi, để cái linh hồn của Thạch Lam mỗi lần giỗ tết, sống lại cái quá khứ ở Hồ Tây.

Tôi thừa hưởng cái ấm trà và bộ chén trà từ ngày mẹ tôi mất. Hàng năm anh tôi vẫn làm giỗ Thạch Lam và nhiều năm chúng tôi cũng không quên để bộ đồ trà trên bàn cúng. Chúng tôi vẫn coi ngày giỗ là ngày tụ họp trong gia đình và họ hàng thân quen, và sự gặp gỡ bây giờ lại là ngày chúng tôi nhắc nhở nhiều đến mẹ chúng tôi hơn là Thạch Lam. Chúng tôi hay nhắc nhở tới những thức ăn cúng bà sửa soạn một cách chu đáo và ngậm ngùi, như bà đang sửa soạn bữa ăn hàng ngày cho Thạch Lam và không bao giờ bà quên mua một bó hoa cẩm chướng để tưởng nhớ người xưa. Chúng tôi cũng không quên rót đầy hai chén trà để lên bàn cúng và cái ấm trà hiện diện như một phần đời của Thạch Lam. Tại sao tôi lại được giữ bộ đồ trà, có lẽ là khi mẹ tôi mất đi, anh tôi vẫn còn độc thân và vợ tôi đã sinh cho bà ba đứa cháu nội. Tôi có đôi lần mang cái ấm trà ra ngắm nghía, nhất là sau khi đã đọc khá nhiều lần cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân. Khi đọc đến đoạn văn: “Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức mầu gan gà. Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy”, tôi cũng tò mò nhìn vào lòng cái ấm đất xem có mấy lớp cao và cũng có lần úp ấm trà xuống bìa một cuốn sách để xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm có cắn sát vào mặt bằng của bìa sách hay không, và đôi lần cầu kỳ hơn, thả cái ấm trà vào chậu nước xem có nổi đều, cân nhau không triềng như Nguyễn Tuân đã mô tả trong truyện Những Chiếc Ấm Đất. Vào khoảng năm 1974, tôi nhờ một người bạn thông chữ Hán đọc dùm hai cái triện chữ Tầu ở trôn chiếc ấm và sung sướng như bắt được vàng khi biết đó đúng là cái ấm trà hiệu Thế Đức. Một người sưu tầm đồ cổ đến xem cái ấm trà và cái đĩa cùng ba cái chén uống trà, đã trả giá bằng số lương hai tháng làm việc của tôi như một bác sĩ trong nhà thương, nhưng một vật kỷ niệm trong gia đình, lại là một cổ vật đã được đưa vào văn chương, tôi sao đành lòng rời xa.

Tôi bây giờ đã trên tuổi bẩy mươi, cái tuổi cổ lai hi, mới ngẫm nghĩ rằng mọi việc trên đời, từ sống chết, danh phận, giầu nghèo đến tình nghĩa vợ chồng, cha con, bằng hữu, đều có thể buộc vào chữ nghiệp, chữ duyên. Bộ đồ trà đối với tôi, nếu có linh hồn, hẳn phải nợ nần nhau lắm. Cuộc tao loạn nước mất nhà tan năm 1975, gia đình tôi vì may mắn đã di tản trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, nhưng ra đi với hai bàn tay không đã là một ân sủng của đất, trời. Những năm tháng đầu tiên trên xứ người, phải bắt đầu lại bằng những bước tập tễnh trong đời sống, dĩ nhiên tôi không bao giờ bận tâm đến bộ đồ trà. Chỉ trong một tích tắc đồng hồ quyết định, những của cải vật chất, những sách vở quý giá còn phải bỏ lại huống chi những vật mong manh như một bộ đồ trà. Sách báo tôi in, bản thảo của nhiều truyện ngắn chưa đăng báo, giấc mơ văn chương tôi hằng ấp ủ, bây giờ đều tan như bọt nước. Cái gánh nặng gia đình trước mặt đã giữ chặt đôi chân tôi trên mặt đất, xích vào cái thực tế của một đời người. Không định trước, một người chị họ đã sống lâu trên đất Pháp cùng người bạn trai cho biết sẽ đến thăm tôi, sau khi ghé qua Hoa Thịnh Đốn. Lúc đó gia đình tôi đang cư ngụ ở một tỉnh nhỏ vùng tây nam tiểu bang Nữu Ước trong cảnh giúp đỡ của họ đạo Tin Lành, và cũng trên đường người chị muốn đến thăm thác Niagara. Một sự ngạc nhiên không bao giờ tôi có thể nghĩ tới, là trong những tặng vật chị mang đến cho tôi lại có bộ đồ trà, cái ấm trà và bộ chén trà tôi đã quên bẵng đi như đã quên những vật thân yêu khác. Qua những thư từ liên lạc, hồi đó còn rất khó khăn, với anh tôi và với gia đình bên ngoại, không thấy ai nhắc nhở tới bộ đồ trà tôi đã bỏ lại trong nhà. Có thể nào trong những ngày tháng hốt hoảng của một thành phố không có tương lai, mẹ vợ tôi đã mang về những đồ đạc, sách vở tôi để lại và trong khi phải đốt hoặc bán chợ trời những cuốn sách chuyên môn hay văn nghệ, những dụng cụ y khoa, bà đã vì một lý do nào đó giữ lại bộ đồ trà di vật của gia đình tôi để trao lại cho anh tôi. Trong những ngày vật đổi sao dời, bị tước đi tất cả những công lao vun xới cùng tự do và nhân phẩm của một con người, bà chị dâu đã phải bươn chải bán dần những tài sản ngoài chợ trời để lo cho lũ con mọn và người chồng trong trại học tập, bộ đồ trà vẫn bám lấy gia đình chúng tôi, như một phần thân thuộc của Thạch Lam. Có thể trong hoàn cảnh của một tương lai mờ mịt, không có hy vọng gì về một cuộc sum họp, người chị dâu tôi đã gói ghém bộ đồ trà kỷ niệm trong gia đình, chuyển đi qua một đại dương cách trở, cái ranh giới giữa kìm kẹp và tự do, như một lời trăn trối. Bộ đồ trà phải lìa bỏ quê hương ấy chắc cũng có lúc đau lòng, trong khi phải lưu lạc nửa vòng trái đất từ Sài Gòn qua Ba Lê đến Hoa Thịnh Đốn, rồi dừng lại ở một tỉnh nhỏ heo hút chỉ có dăm ba người đồng hương, cái đĩa bàn đựng chén trà, như một người mẹ muốn che chở mấy đứa con, đã vỡ đi một góc. Tôi nhìn những mảnh sứ vụn rời rạc của chiếc đĩa, đau như có ai cắt vào tay. Vợ chồng tôi đi tìm mua năm bẩy loại keo dán đồ sứ, loay hoay cả nửa ngày trời để gắn lại những mảnh vỡ và nghĩ rằng đã có bao nhiêu sự đổ vỡ trong đời không có gì hàn gắn được.

Cái ấm đất và bộ chén trà từ đó lại lẽo đẽo theo tôi hơn một nửa đời người. Hơn một nửa đời người của tôi đã dành cho một nơi cư trú không phải là đất nước quê hương, và cái chênh của ngày tháng dễ đến năm mười năm lại ngả về phần đất này. Trong cái khoảng thời gian đếm dài trên con số nhưng lại rất ngắn trong phần linh hồn, tôi đã phải dời nơi ăn ở ít nhất cũng nhiều hơn những ngón trên một bàn tay, bộ đồ trà đã có lúc được gói trong những mảnh vải xé, trong giấy nhật trình hay được bầy trong tủ kính ở phòng ăn phòng khách. Tuyệt nhiên, nếu tôi nhớ không lầm, chưa có lần nào tôi dám mang ra hầu tiếp bạn bè hoặc pha một ấm trà uống một mình. Có một cái gì thiêng liêng đâu đó, như âm hồn bao nhiêu người xưa cũ còn quẩn quanh đã khiến tôi biến một vật gia dụng thành một món đồ thờ. Vả chăng, giữa những tháng ngày vật lộn vì mưu sinh ở xứ người, bạn bè cũ mới, mấy ai có thể nhàn rỗi ngồi nhâm nhi chút hương thơm của trà, bàn chuyện lễ nghĩa ở nơi mà người ta có thể biến thời gian thành hiện kim. Cũng có một khoảng thời gian khá dài, sau khi đã quân bình được cuộc sống, tôi cũng sa đà vào những cái vụn vặt của thú uống trà. Tôi cũng đi tìm mua những ấm trà được tạo dáng khác nhau, những ấm trà có khắc rồng khắc phượng thay đổi mầu sắc khi chất nước sôi thấm vào cái phần da thịt của ấm, tôi cũng la cà ở các trà thất khi du lịch ở Trung Hoa để cố tìm những hương vị trong trí tưởng và khi đến Hàng Châu, thủ phủ trà, tôi đã dám tiêu pha mua mấy lượng Ngự Trà, nếu so sánh theo cân lượng, chắc cũng xấp xỉ với giá vàng cùng thời. Nhưng không có gì bằng là có một người bạn được gọi là tri kỷ để có thể cùng ngồi thưởng thức một ấm trà nhỏ trong một ngày tuyết rơi, thì hỡi ơi, không lẽ tôi lại là cái người tri kỷ của chính tôi. Cái ấm trà và bộ chén trà trong những năm gần đây, thật sự tôi cũng không biết đã ẩn nấp ở đâu trong nhà. Cái tủ kính để trưng bầy mấy bức tượng quý bằng thạch cao, đồ trang trí pha lê và những ấm trà tôi sưu tập, vợ tôi đã đem cho người con gái mới mua nhà. Vợ tôi, như mọi người phụ nữ đảm đang khác, có cái tài tình là cất giữ những món đồ quý giá ở những nơi mà không sao tìm ra được. Cũng đã khá lâu, kể từ khi cứ năm bẩy tháng lại nghe tin một người bạn cũ hay một người trạc tuổi mình lặng lẽ ra đi, ở cái tuổi mà mỗi buổi sáng thức dậy đã là một hạnh phúc cuộc sống tặng cho riêng mình, tôi đã có lần tụ họp bốn đứa con để bàn về cái sự chia phần những hiện vật còn lại ở trong nhà, dăm ba cái đồng hồ cũ có tên hiệu, mấy thùng rượu vang của các vùng sản xuất danh tiếng, năm mười bức tranh của một số họa sĩ Việt Nam còn sống hay đã chết, các bức tượng bằng sứ hay thạch cao… Riêng có bộ sưu tập những phác họa của Nguyễn Gia Trí và bộ đồ trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, tôi luôn luôn muốn giữ lại để góp một phần nhỏ trong những di vật cho một viện bảo tàng hay nhà lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn, khi các cơ sở này được thành lập và quản trị bởi những người yêu văn hóa nghệ thuật và có thiện tâm.

Tôi sẽ không có cơ hội cặm cụi viết những dòng chữ về cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam để có dịp nhìn lại và tìm hiểu về món kỷ vật đã có cái duyên theo tôi trên một nửa thế kỷ, nếu cách đây khoảng một tháng Nguyễn Tường Thiết, người anh họ tôi, đã không gọi tôi hỏi han về bộ đồ trà này. Thiết nói với tôi: cái ấm đất Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam là một chuyện thú vị lắm chứ, sao ông không viết vài hàng về nó. Thiết cho tôi biết lần đến thăm tôi cách đây hơn nửa năm, chủ yếu để nhìn tận mắt cái ấm đất mà Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ tả trong truyện ngắn của ông, nhưng lại vì những chuyện đâu đâu quên đi không hỏi tới. Đối với tôi, cái ấm đất và bộ chén trà nhiều khi không còn hiện diện, mà chỉ là những kỷ niệm liên hệ đến cha tôi, mẹ tôi, căn nhà tranh ở Hồ Tây và người văn sĩ tài hoa Nguyễn Tuân một lần đến thăm, một thời nào đó đã xa, đã xa xôi lắm như chỉ có trong giấc mơ. Vợ tôi, sau cả ngày lục lọi, cuối cùng cũng tìm ra cái ấm trà và bộ đĩa chén để trong một cái túi nhựa giấu sâu trong giá sách, mà thời buổi này chẳng còn mấy ai có thì giờ để đọc một cuốn sách in. Tôi nhìn thấy bộ đồ trà, lòng ngẩn ngơ như gặp lại một người bạn cố tri nhớ mà không muốn gặp. Đã từ lâu tôi đã quên đi những thú uống trà, nghe nhạc, đọc sách. Cái giấc mộng văn chương một đời người tôi tơ tưởng, giờ đây thật lòng tôi chỉ muốn quên đi. Tôi chỉ muốn giữ gìn sức khoẻ để sống nốt cái đời của một người già cả, bệnh hoạn, không còn muốn làm phiền đến cả chính mình. Nhưng cái đĩa bàn đựng chén trà sau những lần di chuyển hay vì những đường hàn gắn đã quá lâu, lại phơi bầy những mảnh vụn ngổn ngang. Trong khi vợ tôi loay hoay vá lại những mảnh vỡ, tôi tò mò ngắm nhìn những họa hình trong lòng đĩa và trên thành chén, mấy cái chữ Tầu ở trôn đĩa và chén có vẻ giống nhau, và bảy chữ Hán in trên một cái chén quân lạc điệu chắc hẳn là một câu thơ, tôi chợt tự hỏi không biết cái xuất xứ của các vật nhỏ nhắn, xinh đẹp và cổ xưa này. Nhân có một người bạn trẻ thông thạo chữ Hán, đã từng cho tôi coi những bài thơ làm bằng tiếng Hán của anh, tôi vội vã gói cái ấm đất và bộ chén trà đến nhờ anh đọc dùm. Anh cho tôi biết đôi điều về cái chất đất sét đặc biệt có trộn cát ở huyện Nghi Hưng vùng Giang Tô, nơi đã sản xuất những ấm trà Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần. Hai chữ Nội Phủ ở trôn đĩa và chén là sản phẩm đồ sứ men lam Huế (bleus de Hué) đặc thù của thời kỳ mạt Lê/Trịnh Sâm qua nhà Tây Sơn và kéo dài đến mấy triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn Gia Long. Tôi độ chừng những cổ vật này cũng đã có số tuổi trên dưới hai thế kỷ, đã được nâng niu nhẹ nhàng bởi những ngón tay khéo léo của dòng họ Nguyễn Tuân, và một ngày nào đã xa, cụ tú Hải Văn Nguyễn An Lan đã ngồi uống trà, khề khà kể những chuyện vang bóng một thời cho người con cả tài hoa, người con đã mang trong người dòng máu giang hồ như một chứng tích của gia đình, Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân, một người cầu kỳ và khinh bạc, Thạch Lam, một người trầm lặng và khó tính, tôi vẫn không hiểu hoàn cảnh nào đã đưa hai người văn sĩ tài hoa của hai dòng bút pháp khác biệt đến với nhau. Giữa tháng sáu năm 1940, Thạch Lam viết bài phê bình cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân trên báo Ngày Nay. Nhà thơ Đinh Hùng, một người bạn trẻ thường xuyên có mặt ở nhà Thạch Lam, chỉ gặp Nguyễn Tuân ở đó có một lần, ắt hẳn cái giao tình giữa hai người không phải chỉ đếm bằng những lần gặp gỡ. Mười lăm năm sau cái chết của Thạch Lam, tháng bẩy năm 1957, giữa cái thời văn nghệ miền Bắc đang sôi động về vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cái thời mà những tác phẩm văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam bị coi như cấm kỵ và phản động (một người bạn tôi gặp ở Hà Nội năm 1994, hiệu trưởng một trường nữ trung học nổi tiếng, đã kể cho tôi nghe khi còn ở đoàn thanh niên Tiền Phong, chỉ vì chép tay truyện Dưới Bóng Hoàng Lan của Thạch Lam mà bị kiểm thảo nặng nề), Nguyễn Tuân đã vì lý do nào viết bài ca tụng văn chương Thạch Lam. Rồi ba mốt năm sau, năm 1973, Nguyễn Tuân đề tặng Thạch Lam bài tùy bút Giò Lụa của mình và một tháng sau viết về Cốm, phải chăng sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, ông chợt động lòng nhớ đến người bạn xưa của Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường.

Cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, cuối cùng, như hai người tri kỷ cùng im lặng thưởng thức cái hương vị của một ấm trà ngon, chính là chứng cớ lặng lẽ cho một tình bạn âm thầm và sâu xa, mãi mãi giữ kín ở trong lòng.

10:50 tối ngày sáu tháng mười năm 2013



Một số chi tiết liên quan tới

mối quan hệ Thạch Lam- Nguyễn Tuân


1/ Với Vang bóng một thời (1940) Nguyễn Tuân xuất hiện hơi muộn, trong khi Tự lực văn đoàn lúc này đã đến độ chín và hoạt động tương đối khép kín. Nhưng theo chỗ tôi nghe được từ những người thạo về văn học tiền chiến, khi nhìn ra các nhà văn bên ngoài văn đoàn của mình, từ Nhất Linh Khái Hưng trở đi chỉ phục có Nguyễn Tuân.

2/ Trong thời gian chủ trì tờ Ngày nay, khoảng 1939-1940, Thạch Lam có biệt nhãn với nhiều cây bút mới nổi trong thời gian đó, bất kể họ thuộc dòng phái nào. Trên một chuyến tàu Hà Nội – Hải Phòng , ông ngẫu nhiên bắt gặp Hồ Dzếnh, sau đó đã có bài giới thiệu Chân trời cũ. Thạch Lam cũng đã có một bài viết ngắn về Nguyên Hồng sau Những ngày thơ ấu. Riêng bài viết về Nguyễn Tuân của ông thì mới đây thôi, khoảng 1984-85, còn thấy in lại. Tôi hiện không có trong tay nên không thể trích ra đây được bài này, chỉ nhớ có một ý độc đáo, trong đó Thạch Lam nói rằng chính đức nhẫn nhịn hy sinh mới là một đặc tính ẩn sâu trong lớp người Việt tinh hoa từng thấm nhuần phần tốt đẹp nhất của văn hóa phương Đông và ông đã tìm thấy điều này trong truyện Ngôi mả cũ.

3/ Từ 1956, 1957, khi nhà xuất bản Hội nhà văn ở Hà Nội được thành lập, những người phụ trách liền có kế hoạch in lại một số tác phẩm tiền chiến, nhờ thế mà lớp trẻ năm ấy ở tuổi 14-15 chúng tôi mới được đọc Nước giếng thơi của Nguyễn Bính, Quê mẹ của Thanh Tịnh, Giăng thề của Tô Hoài. Vang bóng một thờiTruyện ngắn Thạch Lam (tuyển tập) cũng ra đời trong dịp này, một của chính Nguyễn Tuân, một do Nguyễn Tuân viết lời giới thiệu.

Sau lần ra mắt đó, mãi tới khoảng 1985 ở Hà Nội, Thạch Lam mới được in lại, và bài viết của Nguyễn Tuân về ông thì được đưa vào trong hầu hết các tài liệu nghiên cứu. Nên biết thêm là tuy không được in, nhưng tác phẩm Thạch Lam vẫn được bạn đọc thủ đô những năm đó, nhất là lớp trẻ học sinh sinh viên âm thầm tìm đọc. Hồi đó chưa có photocopy, nên câu chuyện một bạn trẻ nào đó ngồi chép lại cả truyện Dưới bóng hoàng lan chắc là chuyện có thật, bản thân tôi trong năm cuối học Đại học Sư phạm Hà Nội cũng đã ngồi chép Cô hàng xén trên mấy trang giấy xấu chỉ có ở Hà Nội trước chiến tranh để đọc đi đọc lại. Vì sao ư, vì tôi nhìn thấy trong nhân vật Tâm bóng dáng người chị thân yêu của mình. Khác với Nhất Linh Khái Hưng ..., Thạch Lam vẫn được các cuốn lịch sử văn học coi như một tác giả đáng mến mộ nhất của sinh hoạt văn học 1930-45. Theo chỗ tôi nhớ, hầu như chưa bao giờ Thạch Lam trở thành đối tượng để các nhà nghiên cứu phê phán trong khi họ đua nhau hạ xuống đất đen Tự lực văn đoàn.

4/ Nguyễn Tuân vốn được ngưỡng mộ sau những bài viết rất nhanh ngay sau cái chết của Tản Đà và Vũ Trọng Phụng; mấy năm trước khi qua đời, chính ông có lần nói với tôi là về già không sao có nổi cái bút lực như lúc trẻ viết về hai tác giả trên. Bài viết về Thạch Lam không có được cái xuất thần như thế. Nhưng nó vẫn được nhắc nhở vừa để cho thấy cái thuỷ chung như nhất của Nguyễn Tuân, vừa là một bằng chứng khẳng định tài năng bền vững với thời gian của Thạch Lam.Trong bài viết trên của Nguyễn Tường Giang, tôi thích nhất cái câu khái quát “Nguyễn Tuân, một người cầu kỳ và khinh bạc, Thạch Lam, một người trầm lặng và khó tính, tôi vẫn không hiểu hoàn cảnh nào đã đưa hai người văn sĩ tài hoa của hai dòng bút pháp khác biệt đến với nhau”. Nhưng đây là cả một câu chuyện dài, tôi không đủ sức để nói ngắn gọn ở đây được.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 04, 2016 18:23

June 27, 2016

nhật ký văn nghệ 1969 (IV)




“VỠ BỜ”
II  DƯỚI MẮT ANH EM TẠP CHÍ

Ông Thi,
ông Tô Hoài sang bên này nói chuyện. Tôi là cái loại không được dự.

        Sau này,
NgMChâu nói lại, nghe cái lúc Tô Hoài lão ấy nói thì mới biết lão ấy khôn. Nhưng mà thằng
viết cứ như thế thì không viết được. Toàn nghĩ chuyện lẩn với lách.

- Câu mà
ông ấy nói tôi nhớ nhất chỉ là nghề văn là nghề biết huy động sức mình một cách
đúng đắn nhất.

NgĐThi
cho in Vỡ bờ trên Hà Nội mới. Lâu nay, tờ báo này mới lại có vẻ đắt
khách như thế. NgKhải giải thích đúng là lâu nay toàn thấy những đánh nhau giết
nhau, người cứ cứng đơ đơ ra, bây giờ lại thấy nói chuyện yêu nhau, tự tử, thì
thả nào người ta chả thích.

Có cái
chuyện Phượng chết. Người ta nói đùa với nhau, thế này thì sẽ thấy một đám biểu
tình trước Hội nhà văn. Phải trả lại sự sống cho chị Phượng - Nguyễn Đình Thi
là tên giết người!  Nhớ lại  một chuyện tương tự trong tiểu thuyết cổ điển,
Khải dựng lên một chuyện vậy. Rồi Khải kể, đến bà vợ tôi, lâu nay có thèm đọc cái gì bao giờ
đâu, thế mà bây giờ cũng đọc. Thế là ông Châu tương cho một câu, đúng thật ai cũng thấy  trong đám biểu tình ấy có vợ
ông Khải. Cái câu Nguyễn Đình Thi là tên giết người! là của bà ấy đấy.

Đến một
bữa cơm mấy hôm sau, mới thấy NgV Phú thông bảo: Phương không chết, đang được cứu
đấy... NgMChâu ra vẻ thạo đời, mình đã bảo kiểu tiểu thuyết của ông Thi phải thế
mà. Có mỗi nhân vật mồi mà chết nữa thì còn gì. Cái thằng Khải nó chẳng xem ma
gì, nó cứ nói hoáng thế !

Cái băn khoăn nhất, là ông Thi viết thế nào đây? Ng Khải nói tiếp:

- Cái
ông này giỏi thật, bận bao nhiêu việc mà vẫn viết thế đấy, cứng không? Phen
này các ông nhà mình không kêu bận nữa nhé! Ông ấy còn có chân trong Uỷ ban
Văn hoá do ông Đồng làm trưởng ban nữa đấy. 
Lúc đầu phân công Tố Hữu chủ trì, nhưng về sau thế nào lại ông Đồng phải
làm. Chuẩn bị ý kiến cho những loại ấy thì không có lơ mơ được.

Rồi
buông một nhận xét:

- Cái
ông này ông ấy viết, mình cứ cảm thấy khít khìn khịt, nghĩa là hiểu biết vừa
đúng như ông ấy có.

Mai Ngữ
phụ họa:

- Viết cứ
như thợ nề chăng dây xây tường ấy, cứ theo dây mà xây thôi .

Sau khi
bảo rằng nhân vật ông Thi đờ đẫn như thằng ma làm, tác giả muốn dắt đi đâu thì dắt, NgM Châu nói về cách viết trong Vỡ bờ:

- Viết cứ
như người chạy mưa ấy, cái gì cũng loáng thoáng, chạy mưa thì ai biết quần áo
thế nào... Giá kể ông bỏ bớt những đoạn nông dân với lại cách mạng đi, còn toàn
Phượng thôi có khi còn đọc được.

Tôi thích cách ví von của Châu quá:

- Nhưng
vẫn là người chạy mưa chứ .

Rồi mỗi
người ngồi đấy còn thêm một câu nữa:

- Cái chất
Văn học của ông ấy hơi ít...

- Nhưng
mà ông ấy có lối viết riêng của ông ấy đây. Có cái chất dung dị...

      - Dung dị đồng nghĩa với sơ lược.

- Ông ấy
đặt kế hoạch ra: tuần này, phải viết được chương thứ mấy, tuần kia phải viết đến
chương thứ mấy. Xong hết !

Đến Khải:

- Nhưng
mà quan niệm tiểu thuyết như của ông
Thi, ông Nguyên Hồng là quan niệm cũ rồi. Toàn là sự kiện năm tháng, cứ thế mà
kéo, nhân vật thì người nào cũng nói như người nào. Thế thì là kiểu gì? Tiểu thuyết  bây giờ nó phải có cái ý thật rõ mới được. Viết
như ông ấy tôi đếch sợ.

Trước
kia, đã nhiều lần người ta bàn về hai quyển Vào
lửa Mặt trận trên cao
của Ng Đ Thi. Khải từng bảo ông ấy cứ viết tiểu
luận với lại làm thơ thì không sao. Đằng này ông ấy lại đi viết hai quyển kia
thì mình không sợ. Châu biện hộ tất nhiên, bây giờ mới thấy để chuẩn bị cho Vỡ bờ tiếp tục  ông ấy phải làm thế.
Lúc ấy mà không tung hai quyển kia ra, thì bây giờ không chết à ? Trong lúc người
ta đánh Mỹ, anh toàn nói những chuyện đâu đâu ấy !

Ngày nào
NgM Châu cũng tìm Hà Nội mới để đọc Vỡ bờ. Tưởng là ông ta  mê lắm, nhưng một hôm tôi cầm quyển sách qua phòng báo thì ông ấy gọi lại.

- Vào
đây, vào đây tôi chỉ cho ông xem. Này, cái đoạn một nhân vật đọc một bài thơ
trên báo Cứu quốc mà giác ngộ... Xì... Hoá ra cũng một duộc cả. Trước
kia cứ tưởng ông ấy viết tiểu thuyết bằng tay trái của ông ấy thôi. Hoá ra tay phải rồi. Đến
bây giờ cũng tay phải nốt.




NG KHẢI
NÓI VỀ HỘI

Trong lớp
kháng chiến,  Ng Khải là người duy nhất  lọt vào thường vụ Hội. Có thể dự đoán đấy là
do gợi ý từ cấp trên chứ các vị  thường vụ
cũ cũng chẳng quý ông này lắm. Có cái gì họ cứ bàn riêng với nhau và ném cái nhìn về phía Khải, ngụ ý cu cậu cứ như
anh Trạch Văn Đoành mới ở bên Ba di về, chả đâu vào đâu cả.

... Thỉnh
thoảng, Khải lại xì ra ít chuyện các ông ấy nói về nhau. Ví dụ như bây giờ ông Mai, ông Nguyễn Công Hoan thì chả
làm gì nữa rồi. May ra chỉ còn Thi, Tô Hoài. Nói riêng với Khải, bao giờ Thi cũng bảo Tô Hoài đuối lắm. Không nói được cái chung. Và văn viết sai mẹo cả. Còn
Tô Hoài chê văn Nguyễn Đình Thi là văn học trò. “Nói chung văn của mình bây giờ,
cổ quá”, câu ấy của Tô Hoài là ám chỉ Thi đấy. Nhưng mà chả cứ ông Thi,   -- Khải
nói tiếp -- cái ông Tô Hoài ấy, văn chương cứ như người chạm trổ, suốt đời thi
thút, thì thụt, thì không hiểu thế nào mà ra văn chương được. Hầu như ông ta làm việc theo giờ giấc,
theo cái lối thủ công. Hầu như ông ta rất ít cố gắng đi vào cái hướng hiện đại,
mặc dù ông ta hiểu biết nhiều. Bởi vì -- Khải không nói ra nhưng người nghe  phải hiểu -  như văn Khải mới là hiện đại.


Cũng có
khi Ng  Khải nói nghiêm chỉnh. Nhân chuyện Bằng Việt, định xin chuyển từ Viện luật sang báo Văn
nghệ
,  Khải bảo sang
thì tốt thôi, nhưng tôi khuyên ông là có lẽ cứ ở bên kia thì hơn. Tôi sở dĩ mấy
lâu nay còn sống được là bởi vì tôi cứ ở bên tạp chí thôi, thỉnh thoảng tôi
sang chơi, động có chuyện là tôi chuồn thẳng.

      Rồi Khải nói tiếp:

- Bây giờ
tình hình các hội ở ngoài còn đang nhốn nháo lắm, đến các ông đầu còn nhốn nháo
thay đổi nữa là ở dưới. Giá kể ông đang ở Hải Phòng, Quảng Ninh cơ thì bảo nên
về ngay TW . Nhưng đã ở đây rồi, quen biết cả, muốn họp đâu thì họp, cần gì nữa.
Còn cứ ở cơ quan cũ sắp xếp công việc để có thời gian thì rồi cũng được Hội cho giấy giới thiệu đi thực tế chỗ nọ chỗ kia. Bây giờ người ta đang cần
người đi thay quá ấy chứ... Có chí thì chả sợ. Độ vài bốn năm nữa, ra tập thơ nữa rồi
hãy về.

- ...

- Nói thật
như tôi ấy mà, đứng được hơn 10 năm trong nghề, cũng đã là tốt lắm rồi. Phải cẩn
thận chứ. Tình hình gay lắm, mấy hôm vừa rồi viết cái Đường trong mây,
có những nhân vật thích lắm, có mấy chương thử giải thích tâm lý của người ta những
ngày đầu chiến tranh, vậy mà mang đọc cho mấy ông, ông nào cũng kêu. Rồi chính tôi
cũng sợ. Bây giờ mình mà không biết giữ mình, khó lắm, rồi bao nhiêu thù oán từ lâu nhân lúc mình có phốt họ
mới lôi ra cả thể.

 Hôm nọ ông Tố Hữu ông ấy bảo tôi rằng chuẩn bị
về mà gánh công tác tổ chức thay thế mấy ông cũ. Nhưng tôi tự bảo về làm gì? Mình nghĩ bụng ở
ngoài, cứ viết tốt là được, tác phẩm hay sẽ được quần chúng mến ngay thôi. Như
ông Tịnh nhà này này, dứt khoát ra ngoài thì không bằng ông Tế Hanh rồi. Khốn
nạn, làm thằng nhà văn mà không viết được thì có ra cái gì, lúc nào cũng sợ bị
người ta di chuyển. Cái ông Trọng Hứa đấy, lúc nào cũng nhăn nhó, cứ y như quả
ba lông, nay chỗ này mai chỗ khác. Khi nào tôi không viết được nữa, tôi về biên
tập, tôi về Hội muốn làm gì cũng được. Bây giờ hãy cứ ở đây, thấy cái gì sai
là nói liền, chẳng ai làm gi tôi sốt.




QUANH TỜ TẠP CHÍ MỚI

Tạp chí Tác
phẩm mới
của Hội nhà văn xuất bản. Chuẩn bị mãi mà lúc ra cũng không lấy
gì làm ấn tượng lắm. Đăng một bài thơ của Sỹ Hồng, mà chính tôi khi làm ét cho Nhị
Ca biên tập phần thơ đã không chọn. Khải kể tôi cũng không hiểu ông Chế Lan
Viên bây giờ thế nào nữa, ông ấy cứ khen nức nở những bài mà có lần tự tay tôi
loại đi rồi.

 Bằng Việt nhìn ra vấn đề thế hệ:

- Mình
đã nói từ rất lâu rồi, mình chỉ viết cho thế hệ mình xem thôi mà. Mình
không  sực được thơ ông ấy, thì một phản
đề rất đơn giản là các ông ấy cũng không sực được thơ mình nữa.

Khải vẫn trở lại ý cũ:

- Tôi ở
báo tôi biết, các ông ấy vẫn chiếm nhiều nhất trên báo, nhưng thực tế thì đổ cả
rồi. Ông Xuân Diệu thì chết từ mấy năm trước, ông Chế Lan Viên cũng đang chết dần
dần trong lòng người đọc. Gần đây, đi đâu cũng thấy người ta kêu Chế Lan Viên.

Nói về
khen chê của các ông ấy, lắm lúc tôi cũng không hiểu sao cả. Chế Lan Viên khen mãi
những Một bàn chân của Lữ Giang. Ai đó
từng bảo ông nào cũng chỉ thích những thứ mình không có. Tô Hoài không thể nào chịu được Lưu Quang Vũ,
còn ông Khương Hữu Dụng thì mới, mới, mới nữa.

        Lâu nay, Khải đã bảo bọn ở ngoài nó tinh lắm. Vậy mà  Tô Hoài sẽ viết bài khen Hồ Phương trên Tác phẩm
mới
về quyển  Kan Lịch. Với Tô Hoài có thể nói Kan Lịch là một thứ Đất nước đứng lên đấy.

Những
ngày này họ sống thế nào, thực hay giả, họ đã mòn đi cả rồi, hay sự thực là họ
vẫn sống động hơn như thế?




CÂU CHUYỆN
TRẺ GIÀ 

NgM Châu vừa viết xong bài tiểu luận Nói chuyện
với một bạn đọc
định đưa Tác phẩm mới . Đúng là một thứ “truyện ngắn tiểu luận”, giống như kiểu  Trước đèn  đọc Ngô Tất Tố của Nguyễn Tuân từng in trên tạp chí Văn nghệ từ hồi 1961-1962. Nhưng rồi
thấy Tác phẩm mới có những bài về Người tốt việc tốt, thì ông ta lại dụt. Phải  xem lại thôi, bốc quá, Châu tự nhủ.

- Giữa
lúc ngưòi ta giả, mà mình thật quá thì mình thành hấp chứ gì?

 Xuân Quỳnh kể chuyện, Quỳnh vừa được gọi đến dự cuộc đón tiếp
hai nhà văn Liên xô. Cho toàn những đàn bà con gái ra tiếp. Bà Anh Thơ chưa đến
đã lấy các thứ quà chiến tranh ra tặng. Đây lược máy bay. Đây mảnh thư nọ thư kia, khiến tay
Marian Tkasov chạy cuống lên gác để lấy các thứ biếu lại. Lúc nói chuyện thì họ
bảo cái gì cũng gật gù các đồng chí nói cho chúng tôi suy nghĩ, nghiên cứu, còn chính mình chẳng đặt được vấn đề gì cho nó cả. Một câu làm XQ giận nhất là cái câu của bà Anh Thơ:

- Ở nước
tôi ai bây giờ cũng tươi trẻ cả. Thơ của chị Hằng Phương cũng trẻ như thơ của  Xuân Quỳnh.

 Quỳnh bình thêm:

-  Nói thế thì mất cả thể diện. Bao nhiêu năm nay
mà thơ vẫn giống nhau. Thế thì còn cái chó gì nữa!

Chán văn
nghệ, thì chủ yếu là thấy chán các ông lớn tuổi, không hiểu các ông ấy thế nào,
nhưng cứ nắm hết các tờ báo thế thì bọn trẻ cũng chịu.  Tôi nghe Hà Minh Đức kể lại
chuyện một hôm Lê Đình Kỵ nhờ Hà Minh Đức nói chuyện với Xuân Diệu – với tư cách
trực tờ TPM, rằng Kỵ nó muốn viết về Xuân Quỳnh.

- Cái cậu
Kỵ này chẳng bao giờ có mức độ gì cả. Cái độ vài phân thì cậu ấy tính ra hàng
mét. Hoa dọc chiến hào đã có chị Anh Thơ viết đấy rồi, còn cần gì nữa.

Một người
như thế “bắt gôn” phê bình, tất nhiên sẽ hạn chế những bài của anh em trẻ. Nghe
đâu cái hôm họp phê bình ở NXB, Xuân Diệu còn bảo mười năm nữa những Khái Vinh, Mai Liên
cũng không ra được một quyển sách phê bình như Xuân Diệu.

Trước
kia, tôi cứ  nghĩ sang thời cách mạng, tất cả đang trẻ lại làm gì có người bảo thủ ? Bây giờ
quả thật đã có người bảo thủ đấy. Ai già vẫn già. Làm sao mà đến lúc mình già, mình không rơi
vào cái tình trạng như thế.

Đang thời
buổi của những điều nhảm nhí! Thường đầu cứ rối tung cả lên vì bao nhiêu những người
mà tôi gặp. Trước hình dung họ một đường nay họ một nẻo. Biết rằng đúng phải như thế, mà vẫn ngạc nhiên.

Vũ thì
chán tất cả:

- Tao thấy
bây giờ chỉ có gái và ăn là sướng nhất. Không ăn thì không hòng làm cái gì.
            -- ...


- Ngày trước tao ước ao thèm nghe đủ chuyện, bây giờ toàn chuyện đáng xấu hổ cả. Dạo ấy tao ngây thơ thế
không biết. Bây giờ đi nói chuyện với con Uyên hay là ngồi chơi với thằng Định
nhà tao còn hơn.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 27, 2016 02:36

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.