Vương Trí Nhàn's Blog, page 57
June 25, 2016
Nhật ký văn nghệ 1969 (III)
ĐI
GẶP THỦ TƯỚNG
Tự
nhiên, toà soạn và phòng Văn nghệ của ông Chính Hữu rộn rập lên một tí. Cô Minh Mẫn cứ tưởng là họ đi
dự hội diễn công binh. Hoá ra không phải. Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp tất cả
những anh em đã từng đi B ra.
Về
sau, NgMChâu kể với tôi.
-
Nói ra thì ông lại nói với thằng Chu, nhưng mà quả thật hôm qua tôi xấu hổ quá.
Giữa bao nhiêu thằng văn nghệ đấy, ông Hồ Phương nhà này đứng lên, chúng tôi đã
đi thế này, chúng tôi đã đi thế kia, chúng tôi đã viết Kan Lịch, để rồi
tặng Thủ tướng một quyển... hé hé hé... Khổ, tôi trông những thằng ĐHCẩm, thằng
Chính Hữu ngồi đấy mà tôi thộn cả mặt.
-
Dân làm văn nghệ, chỉ có bọn hoạ là còn có tí học vấn. Những thằng làm nhạc
cũng bắng nhắng lắm, dở hết chỗ nói.
-
Nhưng mà ông Phạm Văn Đồng thì quý lắm, hiểu lắm. Ông cầm cái kẹo lên, ông ấy
bảo cái kẹo này, nó có thể to, có thể nhỏ, có thể có mùi sôcôla, mùi sữa,
nhưng nó không ngọt nữa thì không phải là kẹo. Các đồng chí làm nghệ thuật cũng
vậy, tư tưởng có thể là 80%, 90%, nhưng nghệ thuật thì phải 100%, 100% mà không
đủ thì không gọi là nghệ thuật được.
-
Làm sao mà những người làm ở xuất bản lại phát hành có thể đánh giá đúng các
đồng chí được. Đó phải là việc của quần chúng chứ. Các đồng chí phải học đi,
không học thì không làm ăn gì được đâu.
Châu bảo tôi:
- Tôi đã định không đi, nhưng sau
tôi thấy không đi không tiện, lại đi thôi.
Rồi chỉ vào quân hàm:
-
Ông xem tôi đã phải chuẩn bị suốt từ trưa đến giờ.
-
Người ta chuẩn bị cả một đời người. Ông có từ trưa đến giờ là lười đấy chứ.
-
Tôi xem đây là một lời ông khen tôi thôi.
...
Một
ngày sau, vẫn Châu:
-
Tôi ngồi tôi nghĩ bây giờ mà Thủ tướng gọi riêng mình lên thôi, mình sẽ kể cho
Thủ tướng nghe. Để chuẩn bị lên, mình đã phải viết trước những điều mình nói ra
thế nào, ông cấp trên của mình thông qua như thế nào, rồi đến ông cấp trên của
cấp trên mình thông qua như thế nào, cuối cùng nó còn lại những cái gì. Đồng
chí nghĩ về cái đó thế nào.
-
Thế đồng chí nghĩ về cái đó thế nào? Thủ tướng sẽ hỏi lại mình nghĩ thế! Châu
nói tiếp. Quả thật ở một nước như nước mình, một người nghệ sĩ đứng trước một
ông lãnh đạo cứ như con chuột đứng trước con voi.
Rồi
chúng tôi lại ngồi nói về tư cách của
một người viết văn.
Đang
ngồi dở một tờ báo QĐND ra, NgMChâu thấy bài của Xuân Miễn.
-
Cứ ông ổng thế này còn hơn người tắc tị như ông Chính Hữu.
Tôi phản đối luôn.
-
Không, không phải. Một người không phải là có tài năng lắm, thì anh làm ít thì
người ta còn thấy anh biết rằng anh không thật có tài, anh phải cố gắng. Và mỗi
bài là một cố gắng. Đằng nay anh cứ ông ổng tuôn ra, tức là anh chẳng biết
điều...
Hôm
sau, ông Châu bảo:
-
Ông nói thế thằng Sách nó giận đấy. Nhưng mà phải thế chứ. Đăng những cái cẩn
thận tức là anh còn tôn trọng tờ báo của anh, tôn trọng bạn đọc. Cái thằng Sách
này ấy mà, nó chưa viết nó đã nghĩ đến chuyện in. Truyện của nó bao giờ cũng
trôi, người ta không chê được nó điểm gì, nhưng người ta cũng không khen nó
điểm gì được. Lắm lúc mình chê thằng Duật hay ông Khải bởi vì mình còn có chỗ
mà chê, vì nó còn có nét mặt.
-
Đã một lần tôi bảo thẳng ông ấy. “Trông anh nhiều lúc, chả biết tình cảm của
anh thế nào cả. Không biết rằng anh vui hay anh buồn”. Còn
về tư cách thằng viết, hôm qua kể
chuyện NXB Giải phóng, tôi mới hỏi ai là giám đốc, đồng chí nhận bài thế nào,
ông ấy hý hửng lắm. NXB Giải phóng in đẹp, giấy tốt, ti-ra cao. Không cần chất lượng lắm, mà lại hậu hĩ nhé. Tôi nghĩ bụng khốn khổ cái thằng viết mà chưa chi đã nghĩ
đến chuyện không cần chất lượng với lại hậu hĩ thì còn sống thế nào được nữa.
Tôi
đã nói đúng điều mình nghĩ: người viết bao giờ cũng phải tự khó tính, tự không
bằng lòng với mình. Cái chuyện văn học nó khắc nghiệt lắm, 10 năm trước người ta
cho ông Lưu Trùng Dương vào sách, chứ năm nay những bài như thế mình nhận được hàng đống.
Sở dĩ văn chương ông Hữu Mai, Hồ Phương bây giờ chán, là vì ông ấy viết đúng
như ông ấy từng viết mười năm trước đây. Tự các ông ấy có nghề nghiệp hơn,
nhưng mà vẫn cứ là không kịp so với tình hình chung.
-
Lắm lúc tôi không hiểu tại sao ông Phương với ông Mai chơi được với nhau. Ông
Mai có vẻ cẩn thận, làm ăn lịch sự đối đãi tử tế lắm kia mà.
-
Cũng thế cả thôi, tất nhiên một phần vì các ông ấy trước cùng ở đơn vị sau nữa vì văn
chương họ ở vào cái độ chừng như nhau. Thực ra, ông Phương chỉ có hơi lỗ mãng
hơn, mà ông Hữu Mai thì lịch sự hơn, nhưng để ý mà xem, câu chuyện của họ chỉ
là đổi xe đổi đài, với lại ông Giáp thế này, ông Dũng thế kia.
-
Nghĩa là nói như ông Khải, cũng là một thứ làm dáng nốt.
BUỔI GẶP CUỐI NĂM GIỮA HAI TỜ VĂN NGHỆ
Báo
Văn nghệ cử một đoàn đại biểu đến thăm VNQĐ chúng tôi. Ông Vũ Tú Nam gọi điện
cho ông Vũ Cao. Trưởng ban trị sự Doãn Trung bảo lại chỉ chết tôi thôi,
cứ đi ba chục người thì tôi bỏ mẹ. Nhưng rồi đâu cũng vào đấy.
Những
câu chuyện ban đầu còn hơi nhạt. Ông Hồ Phương đùa dai nhanh nhách, ông Khải
hỏi thăm Xuân Quỳnh, ông Hoàng Trung Thông lưu ý là xưa nay không bao giờ nghi
ngờ về khả năng hậu cần của bộ đội. Rồi do sự gợi ý của ông Vũ Cao, Hồ Phương buông
lửng một câu mà lúc đầu chính tôi không
hiểu:
-
Tôi vẫn còn hồ nghi về lý do báo Văn nghệ sang bên này đấy nhá.
Hoàng Trung Thông nửa nạc nửa mỡ:
- Hôm nay chúng tôi sang một phần cũng là để tạ
tội vì trong năm chúng tôi đã trót đăng bài Cái gốc
Tức
thì ông Khải:
-
Ông Hoàng Trung Thông nói thế, chính tôi cũng không biết rằng ông nói thật hay
nói giả nữa.
...
Lại một lúc nữa ông Hoàng Trung Thông uống rượu vào, càng mạnh dạn phát biểu.
Ông nói rằng ở đây có một người tỉnh táo
nhất, tên đã đã tỉnh táo rồi, tức là bà Minh Mẫn. Ông chế giễu Ngô Linh
Ngọc:
-- Trong một bài thơ chữ Hán ông này lại nói Quỳnh hoa. Tôi mới bảo chữ Quỳnh đây
là cô Xuân Quỳnh ở báo tôi thôi, chữ Hán người ta phải nói đàm hoa mới là hoa quỳnh.
Lại NgKhải:
-
Cái ông Thông này, cứ càng say tôi mới lại thấy ông ta là thật...
HTThông mặt cứ tái đi, trăn trở mà chưa tìm được câu trả lời, đúng hơn, chỉ lẩm bẩm những câu nhàn nhạt. Phó Tổng biên tập Cẩm Thạnh lo lắm, Nhị Ca cứ lén lấy thêm rượu rồi rót cho ông
Thông, là bà lại gạt đi. Vũ Tú Nam bảo công nhận anh Hoàng Trung Thông là một
nhà thơ đúng đắn. Hoàng Trung Thông công nhận Vũ Tú Nam là một chính uỷ của
chúng tôi. Anh em ở ngoài đùa vào. NgKhải lại kể chuyện vừa rồi, ông gửi cái
đoạn trích Đường trong mây sang
mà báo Văn nghệ trả lại, chính Cẩm Thạnh trả lại kèm
theo cái câu xã giao đồng chí thông cảm cho. “Bà không trả thì tôi cũng định lấy về” mình định trả lời cũng như thế,
nhưng thôi, Khải kể tiếp, nhưng đến khi đưa sang NXB Văn Học thì họ lại hỏi có
cái đoạn nào báo Văn nghệ không đăng
cơ mà. Thế là mình nghĩ bụng giá kể chả gửi nữa cho xong. Ai cũng hiểu ý Khải
muốn nhân dịp này tố Văn Nghệ ăn ở với anh em không ra sao, nhưng bên kia họ cũng khôn
lắm chỉ yên lặng.
Mãi rồi cuối cùng, trong một mạch chuyện nào đó bỗng nhiên ai
vụt ra cái ý Khải đúng là một chính uỷ
sắc sảo, HTThông mới phản công:
-
Ừ, thì ông Khải làm chính uỷ, rồi ông ấy làm chủ nhiệm báo, ông ấy mà làm chủ
nhiệm báo thì ông ấy chỉ đăng của ông ấy thôi, ông ấy không đăng của ai nữa....
Tất
cả mọi người cười ồ lên. Vũ Tú Nam sung sướng:
- Trọng
tài tuyên bố đây là một quả rơ ve không tiền khoáng hậu.
Vừa
lúc đến đoạn kết thúc, mọi người lục tục ra về.
NHỮNG CUỘC “TIỂU KẾT”
NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT CỦA XUÂN DIỆU VÀ NGUYỄN TUÂN
Ngày
tết, bao nhiêu là thứ họp. Riêng tôi, dự ba buổi. Thơ ở Hội, thơ ở báo Văn nghệ, và phê bình ở báo Văn nghệ.
Họp
thơ ở Hội, Chế Lan Viên nhân danh trưởng
tiểu ban thơ đọc đề dẫn. Chúng ta làm việc
đã thấm thía gì so với những người ở ngành khác. Văn nghệ của ta bây giờ vẫn được các đồng chí nước ngoài, ví dụ
các đồng chí Đức cho là chưa vượt quá Bình Ngô đại cáo đâu.
Người ta nói lên
những băn khoăn về thơ hiện nay. Chừng như có một cái gì đó đang chững lại. Thơ
anh em trẻ thế nào? Rất khó nói vượt cách chính xác chỗ nào là mới, chỗ nào là
cũ. Cần phải ào đi trong công việc chứ. Nhưng mà bao nhiêu là khó khăn. Vũ Quần
Phương nói tôi làm câu thơ về mưa bão Đã
hai cơn lụt lớn, lại một lần bão to - thế là người ta không đăng, anh định
nói lụt gì đây, bão gì đây? VQP bảo tôi
muốn các anh hiểu cho, có phải thật là cần có những đề phòng như thế?
Lời
phát biểu của VQP chìm đi, người ta lảng ngay sang những chuyện muôn đời để tưởng
như mọi chuyện đều ổn thoả cả! Nhưng gạt
đi cái phần sự thực, mà chỉ bàn về kỹ thuật khi làm những cái gọi là "thơ suy
nghĩ" với "thơ tình cảm", thì còn có ý nghĩa gì nữa! Chế Lan Viên và Xuân Diệu
thường đôi co với nhau. Xuân Diệu gây sự, trường thơ của tôi khác trường thơ
của anh Chế Lan Viên khác. Nhưng Chế Lan Viên thì cứ gạt đi, không, tôi làm gì
có đường lối riêng. Về thơ chúng ta chung đường lối thôi.
Ở
báo Văn nghệ, hai ông ấy không đến họp. Mà có lẽ chỉ có một ông thì cũng
chán, phải có hai. Hai phong cách sừng sững trong thơ, trong quan niệm và phê
bình về thơ - Tưởng như thiếu đi một người, đời sống văn nghệ sẽ rất buồn.
Báo
Văn nghệ chỉ bàn một lúc về những vấn đề lại còn ít cao thượng hơn. Một
ông kể về cái khổ của những người làm báo. Chuyên nghiệp thì cho rằng các anh
chỉ in những phong trào, ở cơ sở thì cho rằng toàn đăng thơ chuyên nghiệp. Về
mặt báo chỉ phải nhận rằng từng người “giữ gôn” tạo ra những phong cách khác
nhau. Sự thật là báo lúc thì mới quá, lúc thì cũ quá, đến khổ.
Ở
cuộc họp phê bình, Xuân Diệu cũng dự. Hoàng Ngọc Hiến (Đại học sư phạm Vinh) khái quát:
-
Anh Hoàng Trung Thông nói rằng chúng ta đã phát triển những quan điểm của Đảng
trong các bài tiểu luận. Tôi nghĩ rằng
anh Thông nói lịch sự thế thôi, chúng ta chưa phát triển được gì cả, chúng ta
mới làm công việc minh hoạ, mà lại minh hoạt rất tồi, các vấn đề quan điểm các
đồng chí lãnh tụ đã nêu lên. Đáng nhẽ chỉ coi những quan điểm đó là khởi điểm,
thì chúng ta lại coi đó là những điểm cần đi tới.
Hoàng
Ngọc Hiến còn nói thêm:
-- Các
cuộc họp phê bình bây giờ thường chỉ có các nhà văn về hưu tham dự .Tôi rất
kính trọng các nhà văn về hưu, nhưng tôi lại càng kính trọng các nhà văn đang ở
trong cuộc.
Xuân
Diệu chính là người ở trong cuộc chứ còn gì nữa? Ngồi bên cạnh Hoài Thanh, Xuân
Diệu phát biểu:
-
Người đời từ 25 tuổi trở lên đều biết rằng thực tế có phần công khai và có phần
bí mật của nó. Chúng ta ngồi đây, công khai toàn nói những chuyện rất nhiệt
tình, rất hăng, nhưng trong bụng thì lại
đang nghĩ rằng không biết Viện văn học ai lên, bài của mình ra sao... Tôi căm
thù chế độ cũ vì nó làm cho người ta xấu xa, tôi lại càng căm thù chế độ cũ vì
nó để lại cái dối trá mãi tận bây giờ. Những người sáng tác là những người sản
xuất, những người phê bình làm nhiệm vụ khơi mở thị trường. Người sáng tác người
ta dễ xấu, nhưng còn có phần thật của nó; người phê bình xấu thì khổ cho mọi
người khác lắm. Người ta huyênh hoang vừa chôn được người nọ, chôn được người
kia. Sao mà lại có thể chôn nhau dễ dàng như thế được? Chúng ta từng có thành
tích chôn anh Lê Đình Kỵ, mà có chôn được anh ấy đâu. Chao ôi, bây giờ các anh
lại đang làm bia. Những người sáng tác chân chính ta cần gì bia của các anh.
Bia gì ghê bằng bia trên núi. Chỉ sợ sau này thằng bé con đi qua nó hỏi bố nó,
tên ai kia hả bố.... Trời ơi, xấu lắm. Ngay về già với trẻ nữa. Những người như
tôi, năm nay trên 50 tuổi rồi, không có thì giờ mà làm những chuyện xấu nữa.
Người già phải nghĩ chuyện tốt cho mình thì vừa. Đừng tưởng rằng mình được giao
cho quyền hành gì thì bám lấy quyền đó đâu. Đến cả lãnh tụ cũng chẳng bám lấy
quyền mãi được. Như cái ông lù lù bên kia kìa, làm bia cho cả thiên hạ cười.
Anh có thể làm được 10 năm, chứ đến năm 11 thì người ta hạ anh xuống. Tốt nhất
là anh cố làm ăn chân phương...
Cuối
năm ngoái, trong kỳ họp phê bình, Xuân Diệu chỉ phát biểu ngắn, đại ý cái làm
cho các anh bị người ta quên lãng là các anh không thật; phải nói thật thôi, tự
nhiên người ta nghe các anh ngay. Năm nay, có lẽ là do hưng phấn từ mấy câu của
Hoàng Ngọc Hiến Xuân Diệu mới lại đưa ra một khái quát về giới phê bình đến vậy
.
Tôi
không được và có lẽ cũng không phải đi họp nhiều, nhưng luôn luôn cảm thấy
những điều mà người ta bàn trong hội nghị cứ chểnh mảng làm sao ấy. Chả ai nghe
ai cả. Sự thực thì bàn toàn những chuyện là cái phần vỏ ở ngoài -- bên trong, đằng sau, nó là những chuyện
phức tạp hơn, thì không ai động trệ đến -- và thực ra không sao động trệ đến
được.
Trong
những chuyện mà Đỗ Chu và Nguyễn Minh Châu kể lại về buổi họp văn ở nhà xuất bản
Văn học, nhớ nhất là chuyện về Nguyễn
Tuân. Ông vừa bị cướp mất cuốn Tôi đọc do đó từ 1960 tới nay chỉ có Sông Đà
được in. Ngồi một góc với quyển Cát lầy (của Thanh Tâm Tuyền – in
ở Sài Gòn ) trong tay, cuối buổi ông mới phát biểu:
-
Ngày xưa có băm bẩy nhà xuất bản thì tôi không in chỗ này tôi quẳng chỗ khác.
Bây giờ chỉ có một nhà này thôi, chúng tôi không thể chân trong chân ngoài.
Chúng tôi phải lo lắng chăm bẫm cho nó chứ. Tôi cũng không phải là người lười
phát biểu bằng tác phẩm lắm, thế mà các anh xem chín năm nay, tôi không có tác
phẩm nào. Các anh phải nói rõ ra, các anh là người có quyền xuất bản hay các
anh chỉ đã đọc thuê cho người khác.
...
Về sau, Ng MChâu còn kể, ông Tuân nói một câu cũng tội cho ông ấy: “Mà nhắc đến
văn học Việt Nam là không thể không nhắc đến tôi”. Tới đó, NgMChâu tỏ ý đồng tình, đúng
như thế chứ còn gì nữa, rồi nói thêm .
-- Mình như cái ông Tuân ấy, mình viết
thư hẳn lên trên ông Đồng mình xin gặp, chứ ai lại làm thế đau quá đi ấy chứ. Khổ, đến cái
tuổi các ông ấy, tuổi chỉ ngồi mà viết ra mới phải.
Chính
sau này, ông Châu cũng công nhận như bài bút ký Đèn điện Hà Nội... thì
ông Tuân viết hay thật. Lúc bấy giờ là ông ta viết trên lập trường của nhân dân
đấy.
Lần
nào đi về, ông Châu cũng nói rằng thực là vô bổ, nên bớt những cuộc họp ấy đi
thì vừa.
GẶP THỦ TƯỚNG
Tự
nhiên, toà soạn và phòng Văn nghệ của ông Chính Hữu rộn rập lên một tí. Cô Minh Mẫn cứ tưởng là họ đi
dự hội diễn công binh. Hoá ra không phải. Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp tất cả
những anh em đã từng đi B ra.
Về
sau, NgMChâu kể với tôi.
-
Nói ra thì ông lại nói với thằng Chu, nhưng mà quả thật hôm qua tôi xấu hổ quá.
Giữa bao nhiêu thằng văn nghệ đấy, ông Hồ Phương nhà này đứng lên, chúng tôi đã
đi thế này, chúng tôi đã đi thế kia, chúng tôi đã viết Kan Lịch, để rồi
tặng Thủ tướng một quyển... hé hé hé... Khổ, tôi trông những thằng ĐHCẩm, thằng
Chính Hữu ngồi đấy mà tôi thộn cả mặt.
-
Dân làm văn nghệ, chỉ có bọn hoạ là còn có tí học vấn. Những thằng làm nhạc
cũng bắng nhắng lắm, dở hết chỗ nói.
-
Nhưng mà ông Phạm Văn Đồng thì quý lắm, hiểu lắm. Ông cầm cái kẹo lên, ông ấy
bảo cái kẹo này, nó có thể to, có thể nhỏ, có thể có mùi sôcôla, mùi sữa,
nhưng nó không ngọt nữa thì không phải là kẹo. Các đồng chí làm nghệ thuật cũng
vậy, tư tưởng có thể là 80%, 90%, nhưng nghệ thuật thì phải 100%, 100% mà không
đủ thì không gọi là nghệ thuật được.
-
Làm sao mà những người làm ở xuất bản lại phát hành có thể đánh giá đúng các
đồng chí được. Đó phải là việc của quần chúng chứ. Các đồng chí phải học đi,
không học thì không làm ăn gì được đâu.
Châu bảo tôi:
- Tôi đã định không đi, nhưng sau
tôi thấy không đi không tiện, lại đi thôi.
Rồi chỉ vào quân hàm:
-
Ông xem tôi đã phải chuẩn bị suốt từ trưa đến giờ.
-
Người ta chuẩn bị cả một đời người. Ông có từ trưa đến giờ là lười đấy chứ.
-
Tôi xem đây là một lời ông khen tôi thôi.
...
Một
ngày sau, vẫn Châu:
-
Tôi ngồi tôi nghĩ bây giờ mà Thủ tướng gọi riêng mình lên thôi, mình sẽ kể cho
Thủ tướng nghe. Để chuẩn bị lên, mình đã phải viết trước những điều mình nói ra
thế nào, ông cấp trên của mình thông qua như thế nào, rồi đến ông cấp trên của
cấp trên mình thông qua như thế nào, cuối cùng nó còn lại những cái gì. Đồng
chí nghĩ về cái đó thế nào.
-
Thế đồng chí nghĩ về cái đó thế nào? Thủ tướng sẽ hỏi lại mình nghĩ thế! Châu
nói tiếp. Quả thật ở một nước như nước mình, một người nghệ sĩ đứng trước một
ông lãnh đạo cứ như con chuột đứng trước con voi.
Rồi
chúng tôi lại ngồi nói về tư cách của
một người viết văn.
Đang
ngồi dở một tờ báo QĐND ra, NgMChâu thấy bài của Xuân Miễn.
-
Cứ ông ổng thế này còn hơn người tắc tị như ông Chính Hữu.
Tôi phản đối luôn.
-
Không, không phải. Một người không phải là có tài năng lắm, thì anh làm ít thì
người ta còn thấy anh biết rằng anh không thật có tài, anh phải cố gắng. Và mỗi
bài là một cố gắng. Đằng nay anh cứ ông ổng tuôn ra, tức là anh chẳng biết
điều...
Hôm
sau, ông Châu bảo:
-
Ông nói thế thằng Sách nó giận đấy. Nhưng mà phải thế chứ. Đăng những cái cẩn
thận tức là anh còn tôn trọng tờ báo của anh, tôn trọng bạn đọc. Cái thằng Sách
này ấy mà, nó chưa viết nó đã nghĩ đến chuyện in. Truyện của nó bao giờ cũng
trôi, người ta không chê được nó điểm gì, nhưng người ta cũng không khen nó
điểm gì được. Lắm lúc mình chê thằng Duật hay ông Khải bởi vì mình còn có chỗ
mà chê, vì nó còn có nét mặt.
-
Đã một lần tôi bảo thẳng ông ấy. “Trông anh nhiều lúc, chả biết tình cảm của
anh thế nào cả. Không biết rằng anh vui hay anh buồn”. Còn
về tư cách thằng viết, hôm qua kể
chuyện NXB Giải phóng, tôi mới hỏi ai là giám đốc, đồng chí nhận bài thế nào,
ông ấy hý hửng lắm. NXB Giải phóng in đẹp, giấy tốt, ti-ra cao. Không cần chất lượng lắm, mà lại hậu hĩ nhé. Tôi nghĩ bụng khốn khổ cái thằng viết mà chưa chi đã nghĩ
đến chuyện không cần chất lượng với lại hậu hĩ thì còn sống thế nào được nữa.
Tôi
đã nói đúng điều mình nghĩ: người viết bao giờ cũng phải tự khó tính, tự không
bằng lòng với mình. Cái chuyện văn học nó khắc nghiệt lắm, 10 năm trước người ta
cho ông Lưu Trùng Dương vào sách, chứ năm nay những bài như thế mình nhận được hàng đống.
Sở dĩ văn chương ông Hữu Mai, Hồ Phương bây giờ chán, là vì ông ấy viết đúng
như ông ấy từng viết mười năm trước đây. Tự các ông ấy có nghề nghiệp hơn,
nhưng mà vẫn cứ là không kịp so với tình hình chung.
-
Lắm lúc tôi không hiểu tại sao ông Phương với ông Mai chơi được với nhau. Ông
Mai có vẻ cẩn thận, làm ăn lịch sự đối đãi tử tế lắm kia mà.
-
Cũng thế cả thôi, tất nhiên một phần vì các ông ấy trước cùng ở đơn vị sau nữa vì văn
chương họ ở vào cái độ chừng như nhau. Thực ra, ông Phương chỉ có hơi lỗ mãng
hơn, mà ông Hữu Mai thì lịch sự hơn, nhưng để ý mà xem, câu chuyện của họ chỉ
là đổi xe đổi đài, với lại ông Giáp thế này, ông Dũng thế kia.
-
Nghĩa là nói như ông Khải, cũng là một thứ làm dáng nốt.
BUỔI GẶP CUỐI NĂM GIỮA HAI TỜ VĂN NGHỆ
Báo
Văn nghệ cử một đoàn đại biểu đến thăm VNQĐ chúng tôi. Ông Vũ Tú Nam gọi điện
cho ông Vũ Cao. Trưởng ban trị sự Doãn Trung bảo lại chỉ chết tôi thôi,
cứ đi ba chục người thì tôi bỏ mẹ. Nhưng rồi đâu cũng vào đấy.
Những
câu chuyện ban đầu còn hơi nhạt. Ông Hồ Phương đùa dai nhanh nhách, ông Khải
hỏi thăm Xuân Quỳnh, ông Hoàng Trung Thông lưu ý là xưa nay không bao giờ nghi
ngờ về khả năng hậu cần của bộ đội. Rồi do sự gợi ý của ông Vũ Cao, Hồ Phương buông
lửng một câu mà lúc đầu chính tôi không
hiểu:
-
Tôi vẫn còn hồ nghi về lý do báo Văn nghệ sang bên này đấy nhá.
Hoàng Trung Thông nửa nạc nửa mỡ:
- Hôm nay chúng tôi sang một phần cũng là để tạ
tội vì trong năm chúng tôi đã trót đăng bài Cái gốc
Tức
thì ông Khải:
-
Ông Hoàng Trung Thông nói thế, chính tôi cũng không biết rằng ông nói thật hay
nói giả nữa.
...
Lại một lúc nữa ông Hoàng Trung Thông uống rượu vào, càng mạnh dạn phát biểu.
Ông nói rằng ở đây có một người tỉnh táo
nhất, tên đã đã tỉnh táo rồi, tức là bà Minh Mẫn. Ông chế giễu Ngô Linh
Ngọc:
-- Trong một bài thơ chữ Hán ông này lại nói Quỳnh hoa. Tôi mới bảo chữ Quỳnh đây
là cô Xuân Quỳnh ở báo tôi thôi, chữ Hán người ta phải nói đàm hoa mới là hoa quỳnh.
Lại NgKhải:
-
Cái ông Thông này, cứ càng say tôi mới lại thấy ông ta là thật...
HTThông mặt cứ tái đi, trăn trở mà chưa tìm được câu trả lời, đúng hơn, chỉ lẩm bẩm những câu nhàn nhạt. Phó Tổng biên tập Cẩm Thạnh lo lắm, Nhị Ca cứ lén lấy thêm rượu rồi rót cho ông
Thông, là bà lại gạt đi. Vũ Tú Nam bảo công nhận anh Hoàng Trung Thông là một
nhà thơ đúng đắn. Hoàng Trung Thông công nhận Vũ Tú Nam là một chính uỷ của
chúng tôi. Anh em ở ngoài đùa vào. NgKhải lại kể chuyện vừa rồi, ông gửi cái
đoạn trích Đường trong mây sang
mà báo Văn nghệ trả lại, chính Cẩm Thạnh trả lại kèm
theo cái câu xã giao đồng chí thông cảm cho. “Bà không trả thì tôi cũng định lấy về” mình định trả lời cũng như thế,
nhưng thôi, Khải kể tiếp, nhưng đến khi đưa sang NXB Văn Học thì họ lại hỏi có
cái đoạn nào báo Văn nghệ không đăng
cơ mà. Thế là mình nghĩ bụng giá kể chả gửi nữa cho xong. Ai cũng hiểu ý Khải
muốn nhân dịp này tố Văn Nghệ ăn ở với anh em không ra sao, nhưng bên kia họ cũng khôn
lắm chỉ yên lặng.
Mãi rồi cuối cùng, trong một mạch chuyện nào đó bỗng nhiên ai
vụt ra cái ý Khải đúng là một chính uỷ
sắc sảo, HTThông mới phản công:
-
Ừ, thì ông Khải làm chính uỷ, rồi ông ấy làm chủ nhiệm báo, ông ấy mà làm chủ
nhiệm báo thì ông ấy chỉ đăng của ông ấy thôi, ông ấy không đăng của ai nữa....
Tất
cả mọi người cười ồ lên. Vũ Tú Nam sung sướng:
- Trọng
tài tuyên bố đây là một quả rơ ve không tiền khoáng hậu.
Vừa
lúc đến đoạn kết thúc, mọi người lục tục ra về.
NHỮNG CUỘC “TIỂU KẾT”
NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT CỦA XUÂN DIỆU VÀ NGUYỄN TUÂN
Ngày
tết, bao nhiêu là thứ họp. Riêng tôi, dự ba buổi. Thơ ở Hội, thơ ở báo Văn nghệ, và phê bình ở báo Văn nghệ.
Họp
thơ ở Hội, Chế Lan Viên nhân danh trưởng
tiểu ban thơ đọc đề dẫn. Chúng ta làm việc
đã thấm thía gì so với những người ở ngành khác. Văn nghệ của ta bây giờ vẫn được các đồng chí nước ngoài, ví dụ
các đồng chí Đức cho là chưa vượt quá Bình Ngô đại cáo đâu.
Người ta nói lên
những băn khoăn về thơ hiện nay. Chừng như có một cái gì đó đang chững lại. Thơ
anh em trẻ thế nào? Rất khó nói vượt cách chính xác chỗ nào là mới, chỗ nào là
cũ. Cần phải ào đi trong công việc chứ. Nhưng mà bao nhiêu là khó khăn. Vũ Quần
Phương nói tôi làm câu thơ về mưa bão Đã
hai cơn lụt lớn, lại một lần bão to - thế là người ta không đăng, anh định
nói lụt gì đây, bão gì đây? VQP bảo tôi
muốn các anh hiểu cho, có phải thật là cần có những đề phòng như thế?
Lời
phát biểu của VQP chìm đi, người ta lảng ngay sang những chuyện muôn đời để tưởng
như mọi chuyện đều ổn thoả cả! Nhưng gạt
đi cái phần sự thực, mà chỉ bàn về kỹ thuật khi làm những cái gọi là "thơ suy
nghĩ" với "thơ tình cảm", thì còn có ý nghĩa gì nữa! Chế Lan Viên và Xuân Diệu
thường đôi co với nhau. Xuân Diệu gây sự, trường thơ của tôi khác trường thơ
của anh Chế Lan Viên khác. Nhưng Chế Lan Viên thì cứ gạt đi, không, tôi làm gì
có đường lối riêng. Về thơ chúng ta chung đường lối thôi.
Ở
báo Văn nghệ, hai ông ấy không đến họp. Mà có lẽ chỉ có một ông thì cũng
chán, phải có hai. Hai phong cách sừng sững trong thơ, trong quan niệm và phê
bình về thơ - Tưởng như thiếu đi một người, đời sống văn nghệ sẽ rất buồn.
Báo
Văn nghệ chỉ bàn một lúc về những vấn đề lại còn ít cao thượng hơn. Một
ông kể về cái khổ của những người làm báo. Chuyên nghiệp thì cho rằng các anh
chỉ in những phong trào, ở cơ sở thì cho rằng toàn đăng thơ chuyên nghiệp. Về
mặt báo chỉ phải nhận rằng từng người “giữ gôn” tạo ra những phong cách khác
nhau. Sự thật là báo lúc thì mới quá, lúc thì cũ quá, đến khổ.
Ở
cuộc họp phê bình, Xuân Diệu cũng dự. Hoàng Ngọc Hiến (Đại học sư phạm Vinh) khái quát:
-
Anh Hoàng Trung Thông nói rằng chúng ta đã phát triển những quan điểm của Đảng
trong các bài tiểu luận. Tôi nghĩ rằng
anh Thông nói lịch sự thế thôi, chúng ta chưa phát triển được gì cả, chúng ta
mới làm công việc minh hoạ, mà lại minh hoạt rất tồi, các vấn đề quan điểm các
đồng chí lãnh tụ đã nêu lên. Đáng nhẽ chỉ coi những quan điểm đó là khởi điểm,
thì chúng ta lại coi đó là những điểm cần đi tới.
Hoàng
Ngọc Hiến còn nói thêm:
-- Các
cuộc họp phê bình bây giờ thường chỉ có các nhà văn về hưu tham dự .Tôi rất
kính trọng các nhà văn về hưu, nhưng tôi lại càng kính trọng các nhà văn đang ở
trong cuộc.
Xuân
Diệu chính là người ở trong cuộc chứ còn gì nữa? Ngồi bên cạnh Hoài Thanh, Xuân
Diệu phát biểu:
-
Người đời từ 25 tuổi trở lên đều biết rằng thực tế có phần công khai và có phần
bí mật của nó. Chúng ta ngồi đây, công khai toàn nói những chuyện rất nhiệt
tình, rất hăng, nhưng trong bụng thì lại
đang nghĩ rằng không biết Viện văn học ai lên, bài của mình ra sao... Tôi căm
thù chế độ cũ vì nó làm cho người ta xấu xa, tôi lại càng căm thù chế độ cũ vì
nó để lại cái dối trá mãi tận bây giờ. Những người sáng tác là những người sản
xuất, những người phê bình làm nhiệm vụ khơi mở thị trường. Người sáng tác người
ta dễ xấu, nhưng còn có phần thật của nó; người phê bình xấu thì khổ cho mọi
người khác lắm. Người ta huyênh hoang vừa chôn được người nọ, chôn được người
kia. Sao mà lại có thể chôn nhau dễ dàng như thế được? Chúng ta từng có thành
tích chôn anh Lê Đình Kỵ, mà có chôn được anh ấy đâu. Chao ôi, bây giờ các anh
lại đang làm bia. Những người sáng tác chân chính ta cần gì bia của các anh.
Bia gì ghê bằng bia trên núi. Chỉ sợ sau này thằng bé con đi qua nó hỏi bố nó,
tên ai kia hả bố.... Trời ơi, xấu lắm. Ngay về già với trẻ nữa. Những người như
tôi, năm nay trên 50 tuổi rồi, không có thì giờ mà làm những chuyện xấu nữa.
Người già phải nghĩ chuyện tốt cho mình thì vừa. Đừng tưởng rằng mình được giao
cho quyền hành gì thì bám lấy quyền đó đâu. Đến cả lãnh tụ cũng chẳng bám lấy
quyền mãi được. Như cái ông lù lù bên kia kìa, làm bia cho cả thiên hạ cười.
Anh có thể làm được 10 năm, chứ đến năm 11 thì người ta hạ anh xuống. Tốt nhất
là anh cố làm ăn chân phương...
Cuối
năm ngoái, trong kỳ họp phê bình, Xuân Diệu chỉ phát biểu ngắn, đại ý cái làm
cho các anh bị người ta quên lãng là các anh không thật; phải nói thật thôi, tự
nhiên người ta nghe các anh ngay. Năm nay, có lẽ là do hưng phấn từ mấy câu của
Hoàng Ngọc Hiến Xuân Diệu mới lại đưa ra một khái quát về giới phê bình đến vậy
.
Tôi
không được và có lẽ cũng không phải đi họp nhiều, nhưng luôn luôn cảm thấy
những điều mà người ta bàn trong hội nghị cứ chểnh mảng làm sao ấy. Chả ai nghe
ai cả. Sự thực thì bàn toàn những chuyện là cái phần vỏ ở ngoài -- bên trong, đằng sau, nó là những chuyện
phức tạp hơn, thì không ai động trệ đến -- và thực ra không sao động trệ đến
được.
Trong
những chuyện mà Đỗ Chu và Nguyễn Minh Châu kể lại về buổi họp văn ở nhà xuất bản
Văn học, nhớ nhất là chuyện về Nguyễn
Tuân. Ông vừa bị cướp mất cuốn Tôi đọc do đó từ 1960 tới nay chỉ có Sông Đà
được in. Ngồi một góc với quyển Cát lầy (của Thanh Tâm Tuyền – in
ở Sài Gòn ) trong tay, cuối buổi ông mới phát biểu:
-
Ngày xưa có băm bẩy nhà xuất bản thì tôi không in chỗ này tôi quẳng chỗ khác.
Bây giờ chỉ có một nhà này thôi, chúng tôi không thể chân trong chân ngoài.
Chúng tôi phải lo lắng chăm bẫm cho nó chứ. Tôi cũng không phải là người lười
phát biểu bằng tác phẩm lắm, thế mà các anh xem chín năm nay, tôi không có tác
phẩm nào. Các anh phải nói rõ ra, các anh là người có quyền xuất bản hay các
anh chỉ đã đọc thuê cho người khác.
...
Về sau, Ng MChâu còn kể, ông Tuân nói một câu cũng tội cho ông ấy: “Mà nhắc đến
văn học Việt Nam là không thể không nhắc đến tôi”. Tới đó, NgMChâu tỏ ý đồng tình, đúng
như thế chứ còn gì nữa, rồi nói thêm .
-- Mình như cái ông Tuân ấy, mình viết
thư hẳn lên trên ông Đồng mình xin gặp, chứ ai lại làm thế đau quá đi ấy chứ. Khổ, đến cái
tuổi các ông ấy, tuổi chỉ ngồi mà viết ra mới phải.
Chính
sau này, ông Châu cũng công nhận như bài bút ký Đèn điện Hà Nội... thì
ông Tuân viết hay thật. Lúc bấy giờ là ông ta viết trên lập trường của nhân dân
đấy.
Lần
nào đi về, ông Châu cũng nói rằng thực là vô bổ, nên bớt những cuộc họp ấy đi
thì vừa.
Published on June 25, 2016 20:46
June 15, 2016
Nhật ký văn nghệ 1969 (II)
ĐỖ
CHU với RÁNG ĐỎ, TIẾNG VANG CỦA RỪNG, TRONG TẦM SÚNG
Chu
viết xong Ráng đỏ gửi Nguyễn Khải
để in Tác phẩm mới. Tô Hoài bảo lâu
lắm mới có một truyện vừa hay như thế. Khải nói với Chu:
- Lạ quá mày giống y như tao. Bây giờ mày
ở vào cái giai đoạn rất hiếm hoi trong
đời người viết, những giai đoạn loại này thường qua đi rất chóng thôi. Tao, tao
cũng chỉ được có 2 lần, một lần cũng 25 tuổi như mày. Đấy là cái giai đoạn mà
viết bất cứ cái gì cũng đường được. Phải tranh thủ mà viết đi, bỏ qua mọi thứ
vớ vẩn nó ngăn cản công việc, kể cả con gái nữa, nếu cần cũng phải bỏ đi...
Chu tâm sự với tôi:
-- Lắm lúc cũng thấy văn chương chả
ra sao cả, nói thật với mày cái Tiếng vang của rừng đoạn cuối tao chỉ
viết có một lần, thế mà các ông ấy đã khen lấy khen để, tao ngượng quá. Thế thì
còn phải cố đếch gì nữa.
Ng
Khải nghe thế bảo nhưng mà chưa ai dám chê thằng Chu là nó viết ẩu cả. Không
phải là cứ ngồi kỳ cạch rồi nó ra. Những cái viết độ một, hai ngày thế này
mà xong, chính ra mới gọi là truyện vừa đấy.
Chu:
- Tao
cố viết một cái gì đấy, làm sang cho tạp chí chúng mày, chứ lâu nay nó bếch
rếch quá. Cái Ráng đỏ này, cái Chuyện mùa hạ, với cái Trong tầm
súng nữa - đủ một tập truyện vừa rồi đấy. Mấy cái kia làm cho NXB Thanh
niên. Mỗi tập có một vấn đề của nó. Tập Thanh Niên chủ yếu là chuyện bọn cao xạ bây giờ. Tập truyện vừa kia thì hơn. Trong những năm này,
người ta đã đứng vững bằng cách gì? Các thử thách chia đều cho mọi người. Mỗi
người kiểu riêng, nhưng mà họ đều đứng vững. Vậy thì tại sao, phải giải thích
cho được.
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI VIẾT TRẺ Ở CÁC ĐƠN VỊ
Chu nói tiếp về quan hệ mình với đơn vị:
-- Các ông phụ trách Tuyên huấn rồi cũng
hiểu hết thôi, thấy thằng này cũng tích cực làm việc chứ không phải chơi đâu,
chỉ mỗi cái tội làm việc không giờ giấc gì cả. Có ông thương, còn dặn mày không ăn
cơm thì mày phải báo chứ, cuối tháng xuống quản lý mà lấy tiền.
Có ông bảo cố mua lấy
cái áo bông cho nó ấm. Tao nói luôn tôi có 2 m đây rồi, ông cho tôi 1,2 m nữa
nào... Ông kia phải cho đấy. Mua xong cứ mặc thôi. Một ông thủ trưởng trung tá
đứng chơi, lại nói chuyện với ông ấy luôn, mới mua được cái áo bông ấm quá anh
ạ. Ông ấy không nói gì.
Nghĩ
thằng nào ấm ớ nói xem, mắng cho nó bỏ mẹ. Nhưng chả thằng nào dám nói tao cả.
Mỗi
lời bình tán của Chu bay giờ đều được anh em trong tạp chí coi là đáng thưởng
thức. Đỗ Chu có lần vui mồm bảo phải biết nghe ông Châu nói chuyện mới được. Nhiều khi lúc đầu rất nhạt. Có khi
chờ cả ngày mới được một câu hay. Cũng giống như con lật đật, bất chợt nó mới
toe lên được một tiếng, thế là xong việc cả ngày.
Nửa đùa nửa thật, NgKhải nói câu cuối trước khi vỗ đít bỏ đi:
--Thôi
tao lạy mày, mày đừng nói gì về tao cho tao yên thân một tí.
Nhưng những lời đồn thổi về sinh hoạt bê trễ
của Chu thì vẫn đồn đến tạp chí.
Ông Hữu
Mai vốn quen với Phòng không không quân, nên ngồi
góp ý kiến cho Đỗ Chu:
--
Cậu phải sống cẩn thận hơn. Không phải đối phó đâu, mà là xem thực bụng mình
thế nào.
Đỗ
Chu:
-- Đã
mấy lần rồi, kể em cũng liều thật đấy. Một là ông ấy kéo em về làm sử. Em bảo đồng
chí giao nhiệm vụ thì tôi chấp hành chứ tôi không thích làm sử đâu. Hôm nọ ông
ấy đã giao phụ trách tờ tin văn nghệ quần chúng không chịu rồi, bây giờ lại
việc này nữa, nhưng mà không nhận được thật. Ông ấy rử mình, Chu cố lên đi, rồi
năm 1969 năm nay Chu phải phấn đấu vào Đảng nữa. Thế là tôi nói luôn, tôi đề
nghị anh cho tôi phấn đấu lâu dài...
Đến
thế thì Hữu Mai đành chịu.
- Đáng
nhẽ mình phải để lúc khác cơ, nhưng nghĩ là tình anh em, mình mới bảo Chu như
thế... Thế thôi, thế thôi... Chu cứ bình tĩnh.
Sau
Chu kể tiếp với tôi:
-
Mình biết thừa là mình thuộc kế hoạch quý 5 rồi, năm nay có được đâu, ông ấy
nói thế chỉ tổ cho mình chán. Tôi đề nghị chúng ta làm việc với nhau cho sòng
phẳng, việc tôi phấn đấu cứ phấn đấu, anh giao cho thì cứ giao chứ đặt ra kế
hoạch thế này, không được, anh em đâm ngượng không dám nhìn nhau nữa. Thế là
ông ấy thôi ngay.
Việc
thứ hai. Có cậu Kỷ làm sử ở đây, bây giờ xuống đơn vị. Đi bộ đội từ 1953 đến
bây giờ. Chỉ khuyết điểm mỗi tí vớ vẩn mà không được vào Đảng, vẫn thượng sĩ.
Xuống đơn vị thì lại khá, vào Đảng ngay, còn đang chuẩn bị lên tí thiếu uý nữa,
cho nên gọi lên đây mà nó vẫn thích xuống. Thế mà các ông vẫn không đánh giá
đúng nó. Ở đây thì ỏn thót. Kỷ ở đây rồi chủ nhật Kỷ về nhà. Kỷ chưa có xe đạp
phải không. Rồi phải thu xếp chứ, nhưng bây giờ Kỷ hãy dùng cái xe đạp công cái
đã. Cứ y như là mua chuộc nó vậy... Trong khi đó thì lại bảo với đơn vị nó rằng
như thế là cố cho Kỷ lắm rồi đấy, phải từ từ thôi, kết quả là chỗ ngồi của nó ở
Sư đoàn -- làm một thứ bảo tàng gì đấy -- bị súp... Tao mới nói với nó các ông
ấy không đánh giá đúng mày thì mày cứ về đi. Thằng này lúc họp tổ Đảng lại bảo
là Đỗ Chu xui, kết quả là làm khó dễ cho công tác tổ chức...
...
NgKhải
nghe xong cảnh cáo:
--
Như vậy rồi nó cũng hiểu rằng mình là người có trình độ, cho nên mình cứ bỡn
cợt nó mãi thì không được. Sự đối phó, có thể là cách sống hai mặt, lúc đầu như một thủ
đoạn phối hợp cho xong, sau biến thành một thói quen thì nguy hiểm lắm.
NgMChâu:
-- Chính
không phải là anh em cán bộ chính trị mà anh em văn nghệ cũng đã bắt đầu nói
thằng Chu. Hôm nọ, như thằng Kiên sang đây cũng nói thế.
Tôi chỉ biết nói mấy câu vuốt đuôi với Chu. Tao
gặp đã nhiều người, cũng có người ghê gớm bằng mấy, có người cũng có thơ in,
sách in, nhưng ai người ta cũng còn có chỗ lo. Mày chả biết lo cái gì. Chả biết
sợ ai, không hiểu rồi mày ra làm sao.
LƯU
QUANG VŨ
Lâu
lắm Lưu Quang Vũ mới lại lên chơi. Tôi bảo ngay mày phải bỏ cái lối giả dối ấy
đi mới được, lên đây cứ chú chú cháu cháu, còn ra làm sao nữa. Cứ y như hai
người giữ miếng nhau vậy. Vũ phải nhận là đến đâu bây giờ nó cũng phải quanh co đối phó. Rồi Vũ kể
chuyện mình:
-
Thằng Chu bị kêu về tư tưởng đấy. Tao thì người ta chỉ coi là tác phong thôi,
thanh niên Hà Nội mà. Với lại trẻ con. Ngoài ra không ai nói gì cả.
Nhiều lúc tao cũng liều, chỉ cần xin phép là
đi chơi được ngay, nhưng mà chán là đi luôn, không xin, thế thôi. Vừa rồi ở đơn
vị nó làm rất dữ, nó đi kiểm tra từng thằng một. Thằng nào quần ống dưới 20mm
nó bắt chữa lại hết. Phái đoàn kiểm ta, do ông Chủ nhiệm chính trị dẫn đầu.
Nhưng đến chỗ tao, ông ấy lại lờ đi. Cái thằng này, cứ để yên cho nó thì hơn,
càng khắt khe với nó, nó lại càng lung tung. Bây giờ kiểm tra quần áo là nó lại
thửa toàn những thứ ông tuýp về không biết chừng !
-- Giờ nó coi mày như là thằng Chí Phèo,
không ai nó thèm dây.
-- Lâu không thấy xin về Hà Nội, nó lại giục, hay là
nó kiếm lý do công việc gì đấy, để cho mình đi.
Có lần tao mới bịa ra một chuyện. Tao báo với
mấy thằng lính chung quanh, chúng mày có biết không, tao là con cụ Hồ đấy.
Thằng CTV gọi lên. Mình biết rằng cậu
nói đùa thôi, nhưng mà thế không nên.
Khi
nghe kể lại, Ng MChâu bảo như thế là nó còn tử tế lắm đấy!
Đi
với Vũ, tôi còn một lần sợ hết hồn. Ngay trên đường, Vũ
nói huyên thiên những chuyện phạm thượng mà tôi cũng không dám ghi ra ở đây
nữa. Chỉ nhớ nét mặt lạ lùng soi mói của mấy gã đi đường.
-
Sao thằng Chu nó bảo mày nộp đơn xin ra Quân Đội?
- Nộp đơn đâu, thì cũng nói cho được việc. Bực quá, tao mới bảo chúng nó rằng như
vậy, là tôi phục vụ cũng đã đủ cho các anh. Tôi làm phiền các anh mà các anh
cũng làm phiền tôi nữa, nói thật là như thế. Hay là các anh cho tôi ra. Tuy
vậy, tao cũng thấy đi bộ đội là có lợi.
-
Lợi chứ, vào bộ đội mình thấy được những cái tốt nhất trong chế
độ bây giờ. Lại còn có lúc phải ra nước ngoài nữa.
-
Ra nước ngoài thì cần quá rồi. Đi đéo đâu cũng tốt chỉ trừ đừng có vào tù. Đi
bộ đội rồi thì cũng coi như là vào tù chứ còn gì...
-
Lắm lúc tôi thấy bọn Không quân nuôi các
ông thì cũng quá là trái ngược. Không Quân hiện đại mà thơ ông lúc nào cũng tép
cũng tôm, quả mơ quả khế. Không Quân phải thật là kỷ luật chứa sao nổi một tay
phá bĩnh vô kỷ luật hạng nặng như là ông!
-
Thì đúng như thế. Mà lúc nào cũng phải báo cáo lên trên rằng mình đã tiến bộ
đấy nhé. Căn bản thằng ấy là tốt, gia đình bố là cán bộ, mẹ là Đảng viên,
chẳng nhẽ các anh không giáo dục được hay sao ?
Hôm
nọ tao đến Phòng Chính Trị quân chủng, khối ông cứ giả vờ vào lấy cái nọ cái
kia, nhưng mà kỳ thực là để xem mặt mình. Tao nghĩ lúc bấy giờ mà oà lên một
tíếng là các ông phát khiếp.
Nói
thế chứ căn bản các ông phải không được nghe những lời đồn đại mới được...
Không nghe, tự khắc mình trở thành thằng ngoan. Ở trong đơn vị, hiền lành nhé,
nói với ai cũng hết sức thận trong nhé, một điều anh, hai điều anh, nói với con gái
thì quy định là đồng chí, nhưng lại gọi chị... Thế thì còn đéo gì hơn nữa.
...
Dẫu
sao đến VNQĐ, Vũ hơi ngượng. Tháng 4/67, được về nhà một tháng sửa tập thơ, cu
cậu làm luôn một lèo 3 tháng. Rồi đầu năm nay, giả là ngã, phải đi bệnh viện, để ở lại Hà Nội.
Vũ nhận xét về VNQĐ:
--
Nghĩ các ông ấy bây giờ như các ông phán ấy, ông Châu đánh bi-a thì ông Ngữ
đứng ra cửa ngó nghiêng. Ông Ngữ đánh thì ông Châu nhìn đi chỗ khác, chả thèm
xem. Lại cái ông Nhị Ca nữa. Chắc ông ấy cũng buồn, ngày trước tao đến ông ấy
là chú chú cháu cháu, nhờ chú xem hộ cái nọ, sửa hộ cái kia. Bây giờ đến chỉ
chong chóng rồi chạy vào chơi với mày thôi. Lúc nãy ông ấy nhìn tao, con mắt
đúng là như thế đấy.
...
Chúng tôi đi với nhau, những con đường Hà Nội toàn bàng trơ trụi, nhưng hàng
cây cơm nguội ủ rũ. Mùa rét mà được những ngày nồm nồm như thế đi dạo còn gì thú
vị hơn. Vũ buồn một cách chân thành mà nói rằng từ ngày chiến tranh phá hoại
đến bây giờ, xa nhất thì nó mới được đi đến Vĩnh Phúc.
-
Vào khu 4 kỳ này rồi tao sẽ ra thơ cho mày xem. Khi nào tao viết được cái gì
tao biết lắm chứ. Nhất định là sẽ có thơ về Hà Nội. Hà Nội mà chưa ai tả được như
thế bao giờ, trong thơ ấy. Nói chung những người như thằng Bằng nó thế nào, đã
ra thơ nó hết, tao ra tập này chưa phải là tất cả tao đâu, mà mới là phần tao
chơi bời thôi.
NGUYỄN
MINH CHÂU VÀ CĂN PHÒNG MỚI Ở KHU CÔNG TRƯỜNG 800
Ở
cái cơ quan mà tôi mới về gần một năm này, tất cả mọi người đều dị dạng đều đặc
biêt, đều có gì quá khổ. Nguyên những chuyện về họ, hàng ngày, tôi thấy không
bao giờ chán. Như vậy làm thế nào bây giờ đây?
Không
lúc nào ở đây người ta không làm việc. Ông Châu kể, về với con, lắm lúc con đòi kể chuyện, ông ấy
phải bịa ra để kể cho nó. Nghĩ giá kể mình mang những chuyện ấy viết ra, có lẽ
cũng còn khá hơn truyện của thằng Sách, Châu nói thêm. Nhiều lúc con bỏ cả xem
chiếu bóng ngoài bãi để ở nhà nghe bố kể chuyện. Từ hồi vợ chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội
đến nay, ông ta vẫn chưa chịu đi cắt phiếu gạo, bây giờ vẫn không được về Hà
Nội đong gạo, cứ phải đến xin tận trên sở họ chiếu cố. Cứ nghĩ sắp tới phải bỏ
hàng tháng quay về để giải quyết các việc là rụt ngay cổ lại.
-
Mình đeo cái đài đến, trông oai lắm, mặc dù giá nó bắt mở thì mình đéo biết thế
nào vì đài hỏng rồi. Chờ mãi không được, mình phải bỏ đồng hai ra, làm một chục
bánh rán mang vào, ra vẻ ngồi chờ ăn bánh rồi mời nó ăn luôn... Nó giúp mình ghê lắm, cho ngay cái giấy giới thiệu. Không đề rõ tên cửa hàng, để tuỳ mình đến đâu
điều tra là mua được thì mua cơ mà.
... Làm nhà văn lắm
lúc cũng sướng. Mình với vợ mình dọn đến cái công trường 800 ấy. Vợ chưa biết
nếp tẻ thế nào vào ngay cái phòng đầu. Vừa gặp một thằng bạn, thằng này nói
chuyện với một ông Trung tá ở đây, thế là ông ấy cười. Nguyễn Mính Châu viết văn
hả? Thế thì sang đây, sang đây. Ông ấy lấy cho mình một cái kìm xe đạp, tháo các
thứ dây rợ ra. Cái buồng thứ ba lại có cả một cái hiên, để củi nước được.
Nhưng
mà cái khu ấy bây giờ thì bẩn thật. Chỗ này mấy thằng lính hậu cần ở, chỗ kia
mấy cô văn công đi phục vụ lẻ về léo nhéo. Chó rất dị dạng, con nào cũng như đười ươi cả. Cả khu như một thằng mặc quần áo tây, cổ khô
la, mũ cát két rất đang hoàng mà lại chân đất, chân vọc trong bùn...
THÂN PHẬN VĂN NGHỆ
Lại
nói chuyện quan niệm và mong mỏi sáng tác. Cuối năm họp cơ quan, có cái mục
phát biểu về các chủ trương, chính sách của cục đối với văn nghệ.
Hồ Phương: Đừng tưởng ở ngoài nhà xuất bản Văn học nó đối với ta là dễ
đâu, nó lại có cái khó khác chứ !
Xuân Thiều: Nhưng mà vẫn nhiều cái khó chịu. Viết về bộ đội mà cứ cho anh em gọi nhau
mày tao chí tớ là không được với các ông ấy. Mưa cũng thế, không được tả mưa
buồn, mà lại tả mưa tưng bừng trên những nhành lá non tươi kia.
Không biết ai nói
rằng giá bây giờ có một nhà xuất bản dành riêng anh em viết văn quân đội thì hay quá. Nguyễn Minh Châu gạt đi ngay.
-
Tôi cho rằng thế này cũng đã là may lắm rồi. Chứ lại tình trạng viết cái gì
cũng phải đưa nhà xuất bản ấy in thì mới
bỏ mẹ.
NgMChâu
tự hào đúng là có nhiều điểm mình nói với nhau hàng ngày nghĩ ra không chừng sẽ có lúc được việc trong một trang viết nào đó. Châu kể hôm nọ mình nói với Phan Nhân một câu,
sao đó về phải ghi vào nhật ký. "Quân đội xây dựng từ hoà bình chán, thì cũng là để đánh nhau trong thời chiến
này. Còn văn nghệ mình, thời chiến cứ chuẩn bị đi, sau này sẽ ra tác phẩm, tiếc gì mà tiếc.”
Và Châu
bảo nhiều lúc chỉ ngồi ghi nhật ký là thấy thích.
Nhưng
như thế tức công nhận tình hình văn nghệ
hiện nay là khó, loại như NMC là lạc lõng. Mà
thực như thế, không thể nào khác được.
NgMChâu lại kể cảm tưởng sau một lần vào hội trường Ba Đình xem xiếc, gặp rất nhiều cán
bộ Quân sự đi xem. Mình tưởng tượng bọn này có thể nghiến băng tất cả những
thằng như chúng mình, nếu thằng nào dám
liều lĩnh đi ngược dòng chúng nó chứ chơi à? Một thằng bạn cũ, lâu ngày không
gặp nhau, mình mới hỏi nó mấy câu về sinh hoạt mọi thứ bây giờ. Mặc dù nó đối
với mình vẫn rất tốt, nhưng trong câu trả lời vẫn có cái gì như là cần đề phòng ấy...
Chu
thì kể chuyện ở một khẩu đội, một thằng lính mới được một con sáo rất đẹp, nó
huấn luyện cho con sáo ấy biết nói. Cứ đánh xong là trong khói đạn, con sáo
thành mối quan tâm của cả bọn. Không biết hôm nay sáo thế nào rồi. Rơi máy
bay nhé, rơi máy bay nhé - Con sáo hót lên bốn tiếng và người ta gán cho nó
một nội dung như thế. Đến hôm trận địa bị địch giã bom vào mà lại không bắn
trúng của nó cái nào, cả bọn im lặng, không ai chú ý đến con sáo ấy nữa. Bỗng
nhiên con sáo từ đâu lại mò về. Rơi máy bay nhé - Rơi máy bay nhé. Lại hót. Một thằng lính - có lẽ là
cái thằng nuôi con sáo từ lúc từ lúc mới đẻ không biết chừng - ức quá, nó mới
quật cho một phát, con sáo chết tươi ngay.
Tôi nghĩ văn nghệ của mình cũng phải như thế, cũng phải cẩn thận, không có lại
hoá ra con sáo kia hót hỉnh lung tung hết cả lên một cách vô duyên vô vị thì chả còn gì
buồn hơn, mà rồi chả ai người ta thèm ngó ngàng tới nữa cơ.
CHU với RÁNG ĐỎ, TIẾNG VANG CỦA RỪNG, TRONG TẦM SÚNG
Chu
viết xong Ráng đỏ gửi Nguyễn Khải
để in Tác phẩm mới. Tô Hoài bảo lâu
lắm mới có một truyện vừa hay như thế. Khải nói với Chu:
- Lạ quá mày giống y như tao. Bây giờ mày
ở vào cái giai đoạn rất hiếm hoi trong
đời người viết, những giai đoạn loại này thường qua đi rất chóng thôi. Tao, tao
cũng chỉ được có 2 lần, một lần cũng 25 tuổi như mày. Đấy là cái giai đoạn mà
viết bất cứ cái gì cũng đường được. Phải tranh thủ mà viết đi, bỏ qua mọi thứ
vớ vẩn nó ngăn cản công việc, kể cả con gái nữa, nếu cần cũng phải bỏ đi...
Chu tâm sự với tôi:
-- Lắm lúc cũng thấy văn chương chả
ra sao cả, nói thật với mày cái Tiếng vang của rừng đoạn cuối tao chỉ
viết có một lần, thế mà các ông ấy đã khen lấy khen để, tao ngượng quá. Thế thì
còn phải cố đếch gì nữa.
Ng
Khải nghe thế bảo nhưng mà chưa ai dám chê thằng Chu là nó viết ẩu cả. Không
phải là cứ ngồi kỳ cạch rồi nó ra. Những cái viết độ một, hai ngày thế này
mà xong, chính ra mới gọi là truyện vừa đấy.
Chu:
- Tao
cố viết một cái gì đấy, làm sang cho tạp chí chúng mày, chứ lâu nay nó bếch
rếch quá. Cái Ráng đỏ này, cái Chuyện mùa hạ, với cái Trong tầm
súng nữa - đủ một tập truyện vừa rồi đấy. Mấy cái kia làm cho NXB Thanh
niên. Mỗi tập có một vấn đề của nó. Tập Thanh Niên chủ yếu là chuyện bọn cao xạ bây giờ. Tập truyện vừa kia thì hơn. Trong những năm này,
người ta đã đứng vững bằng cách gì? Các thử thách chia đều cho mọi người. Mỗi
người kiểu riêng, nhưng mà họ đều đứng vững. Vậy thì tại sao, phải giải thích
cho được.
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI VIẾT TRẺ Ở CÁC ĐƠN VỊ
Chu nói tiếp về quan hệ mình với đơn vị:
-- Các ông phụ trách Tuyên huấn rồi cũng
hiểu hết thôi, thấy thằng này cũng tích cực làm việc chứ không phải chơi đâu,
chỉ mỗi cái tội làm việc không giờ giấc gì cả. Có ông thương, còn dặn mày không ăn
cơm thì mày phải báo chứ, cuối tháng xuống quản lý mà lấy tiền.
Có ông bảo cố mua lấy
cái áo bông cho nó ấm. Tao nói luôn tôi có 2 m đây rồi, ông cho tôi 1,2 m nữa
nào... Ông kia phải cho đấy. Mua xong cứ mặc thôi. Một ông thủ trưởng trung tá
đứng chơi, lại nói chuyện với ông ấy luôn, mới mua được cái áo bông ấm quá anh
ạ. Ông ấy không nói gì.
Nghĩ
thằng nào ấm ớ nói xem, mắng cho nó bỏ mẹ. Nhưng chả thằng nào dám nói tao cả.
Mỗi
lời bình tán của Chu bay giờ đều được anh em trong tạp chí coi là đáng thưởng
thức. Đỗ Chu có lần vui mồm bảo phải biết nghe ông Châu nói chuyện mới được. Nhiều khi lúc đầu rất nhạt. Có khi
chờ cả ngày mới được một câu hay. Cũng giống như con lật đật, bất chợt nó mới
toe lên được một tiếng, thế là xong việc cả ngày.
Nửa đùa nửa thật, NgKhải nói câu cuối trước khi vỗ đít bỏ đi:
--Thôi
tao lạy mày, mày đừng nói gì về tao cho tao yên thân một tí.
Nhưng những lời đồn thổi về sinh hoạt bê trễ
của Chu thì vẫn đồn đến tạp chí.
Ông Hữu
Mai vốn quen với Phòng không không quân, nên ngồi
góp ý kiến cho Đỗ Chu:
--
Cậu phải sống cẩn thận hơn. Không phải đối phó đâu, mà là xem thực bụng mình
thế nào.
Đỗ
Chu:
-- Đã
mấy lần rồi, kể em cũng liều thật đấy. Một là ông ấy kéo em về làm sử. Em bảo đồng
chí giao nhiệm vụ thì tôi chấp hành chứ tôi không thích làm sử đâu. Hôm nọ ông
ấy đã giao phụ trách tờ tin văn nghệ quần chúng không chịu rồi, bây giờ lại
việc này nữa, nhưng mà không nhận được thật. Ông ấy rử mình, Chu cố lên đi, rồi
năm 1969 năm nay Chu phải phấn đấu vào Đảng nữa. Thế là tôi nói luôn, tôi đề
nghị anh cho tôi phấn đấu lâu dài...
Đến
thế thì Hữu Mai đành chịu.
- Đáng
nhẽ mình phải để lúc khác cơ, nhưng nghĩ là tình anh em, mình mới bảo Chu như
thế... Thế thôi, thế thôi... Chu cứ bình tĩnh.
Sau
Chu kể tiếp với tôi:
-
Mình biết thừa là mình thuộc kế hoạch quý 5 rồi, năm nay có được đâu, ông ấy
nói thế chỉ tổ cho mình chán. Tôi đề nghị chúng ta làm việc với nhau cho sòng
phẳng, việc tôi phấn đấu cứ phấn đấu, anh giao cho thì cứ giao chứ đặt ra kế
hoạch thế này, không được, anh em đâm ngượng không dám nhìn nhau nữa. Thế là
ông ấy thôi ngay.
Việc
thứ hai. Có cậu Kỷ làm sử ở đây, bây giờ xuống đơn vị. Đi bộ đội từ 1953 đến
bây giờ. Chỉ khuyết điểm mỗi tí vớ vẩn mà không được vào Đảng, vẫn thượng sĩ.
Xuống đơn vị thì lại khá, vào Đảng ngay, còn đang chuẩn bị lên tí thiếu uý nữa,
cho nên gọi lên đây mà nó vẫn thích xuống. Thế mà các ông vẫn không đánh giá
đúng nó. Ở đây thì ỏn thót. Kỷ ở đây rồi chủ nhật Kỷ về nhà. Kỷ chưa có xe đạp
phải không. Rồi phải thu xếp chứ, nhưng bây giờ Kỷ hãy dùng cái xe đạp công cái
đã. Cứ y như là mua chuộc nó vậy... Trong khi đó thì lại bảo với đơn vị nó rằng
như thế là cố cho Kỷ lắm rồi đấy, phải từ từ thôi, kết quả là chỗ ngồi của nó ở
Sư đoàn -- làm một thứ bảo tàng gì đấy -- bị súp... Tao mới nói với nó các ông
ấy không đánh giá đúng mày thì mày cứ về đi. Thằng này lúc họp tổ Đảng lại bảo
là Đỗ Chu xui, kết quả là làm khó dễ cho công tác tổ chức...
...
NgKhải
nghe xong cảnh cáo:
--
Như vậy rồi nó cũng hiểu rằng mình là người có trình độ, cho nên mình cứ bỡn
cợt nó mãi thì không được. Sự đối phó, có thể là cách sống hai mặt, lúc đầu như một thủ
đoạn phối hợp cho xong, sau biến thành một thói quen thì nguy hiểm lắm.
NgMChâu:
-- Chính
không phải là anh em cán bộ chính trị mà anh em văn nghệ cũng đã bắt đầu nói
thằng Chu. Hôm nọ, như thằng Kiên sang đây cũng nói thế.
Tôi chỉ biết nói mấy câu vuốt đuôi với Chu. Tao
gặp đã nhiều người, cũng có người ghê gớm bằng mấy, có người cũng có thơ in,
sách in, nhưng ai người ta cũng còn có chỗ lo. Mày chả biết lo cái gì. Chả biết
sợ ai, không hiểu rồi mày ra làm sao.
LƯU
QUANG VŨ
Lâu
lắm Lưu Quang Vũ mới lại lên chơi. Tôi bảo ngay mày phải bỏ cái lối giả dối ấy
đi mới được, lên đây cứ chú chú cháu cháu, còn ra làm sao nữa. Cứ y như hai
người giữ miếng nhau vậy. Vũ phải nhận là đến đâu bây giờ nó cũng phải quanh co đối phó. Rồi Vũ kể
chuyện mình:
-
Thằng Chu bị kêu về tư tưởng đấy. Tao thì người ta chỉ coi là tác phong thôi,
thanh niên Hà Nội mà. Với lại trẻ con. Ngoài ra không ai nói gì cả.
Nhiều lúc tao cũng liều, chỉ cần xin phép là
đi chơi được ngay, nhưng mà chán là đi luôn, không xin, thế thôi. Vừa rồi ở đơn
vị nó làm rất dữ, nó đi kiểm tra từng thằng một. Thằng nào quần ống dưới 20mm
nó bắt chữa lại hết. Phái đoàn kiểm ta, do ông Chủ nhiệm chính trị dẫn đầu.
Nhưng đến chỗ tao, ông ấy lại lờ đi. Cái thằng này, cứ để yên cho nó thì hơn,
càng khắt khe với nó, nó lại càng lung tung. Bây giờ kiểm tra quần áo là nó lại
thửa toàn những thứ ông tuýp về không biết chừng !
-- Giờ nó coi mày như là thằng Chí Phèo,
không ai nó thèm dây.
-- Lâu không thấy xin về Hà Nội, nó lại giục, hay là
nó kiếm lý do công việc gì đấy, để cho mình đi.
Có lần tao mới bịa ra một chuyện. Tao báo với
mấy thằng lính chung quanh, chúng mày có biết không, tao là con cụ Hồ đấy.
Thằng CTV gọi lên. Mình biết rằng cậu
nói đùa thôi, nhưng mà thế không nên.
Khi
nghe kể lại, Ng MChâu bảo như thế là nó còn tử tế lắm đấy!
Đi
với Vũ, tôi còn một lần sợ hết hồn. Ngay trên đường, Vũ
nói huyên thiên những chuyện phạm thượng mà tôi cũng không dám ghi ra ở đây
nữa. Chỉ nhớ nét mặt lạ lùng soi mói của mấy gã đi đường.
-
Sao thằng Chu nó bảo mày nộp đơn xin ra Quân Đội?
- Nộp đơn đâu, thì cũng nói cho được việc. Bực quá, tao mới bảo chúng nó rằng như
vậy, là tôi phục vụ cũng đã đủ cho các anh. Tôi làm phiền các anh mà các anh
cũng làm phiền tôi nữa, nói thật là như thế. Hay là các anh cho tôi ra. Tuy
vậy, tao cũng thấy đi bộ đội là có lợi.
-
Lợi chứ, vào bộ đội mình thấy được những cái tốt nhất trong chế
độ bây giờ. Lại còn có lúc phải ra nước ngoài nữa.
-
Ra nước ngoài thì cần quá rồi. Đi đéo đâu cũng tốt chỉ trừ đừng có vào tù. Đi
bộ đội rồi thì cũng coi như là vào tù chứ còn gì...
-
Lắm lúc tôi thấy bọn Không quân nuôi các
ông thì cũng quá là trái ngược. Không Quân hiện đại mà thơ ông lúc nào cũng tép
cũng tôm, quả mơ quả khế. Không Quân phải thật là kỷ luật chứa sao nổi một tay
phá bĩnh vô kỷ luật hạng nặng như là ông!
-
Thì đúng như thế. Mà lúc nào cũng phải báo cáo lên trên rằng mình đã tiến bộ
đấy nhé. Căn bản thằng ấy là tốt, gia đình bố là cán bộ, mẹ là Đảng viên,
chẳng nhẽ các anh không giáo dục được hay sao ?
Hôm
nọ tao đến Phòng Chính Trị quân chủng, khối ông cứ giả vờ vào lấy cái nọ cái
kia, nhưng mà kỳ thực là để xem mặt mình. Tao nghĩ lúc bấy giờ mà oà lên một
tíếng là các ông phát khiếp.
Nói
thế chứ căn bản các ông phải không được nghe những lời đồn đại mới được...
Không nghe, tự khắc mình trở thành thằng ngoan. Ở trong đơn vị, hiền lành nhé,
nói với ai cũng hết sức thận trong nhé, một điều anh, hai điều anh, nói với con gái
thì quy định là đồng chí, nhưng lại gọi chị... Thế thì còn đéo gì hơn nữa.
...
Dẫu
sao đến VNQĐ, Vũ hơi ngượng. Tháng 4/67, được về nhà một tháng sửa tập thơ, cu
cậu làm luôn một lèo 3 tháng. Rồi đầu năm nay, giả là ngã, phải đi bệnh viện, để ở lại Hà Nội.
Vũ nhận xét về VNQĐ:
--
Nghĩ các ông ấy bây giờ như các ông phán ấy, ông Châu đánh bi-a thì ông Ngữ
đứng ra cửa ngó nghiêng. Ông Ngữ đánh thì ông Châu nhìn đi chỗ khác, chả thèm
xem. Lại cái ông Nhị Ca nữa. Chắc ông ấy cũng buồn, ngày trước tao đến ông ấy
là chú chú cháu cháu, nhờ chú xem hộ cái nọ, sửa hộ cái kia. Bây giờ đến chỉ
chong chóng rồi chạy vào chơi với mày thôi. Lúc nãy ông ấy nhìn tao, con mắt
đúng là như thế đấy.
...
Chúng tôi đi với nhau, những con đường Hà Nội toàn bàng trơ trụi, nhưng hàng
cây cơm nguội ủ rũ. Mùa rét mà được những ngày nồm nồm như thế đi dạo còn gì thú
vị hơn. Vũ buồn một cách chân thành mà nói rằng từ ngày chiến tranh phá hoại
đến bây giờ, xa nhất thì nó mới được đi đến Vĩnh Phúc.
-
Vào khu 4 kỳ này rồi tao sẽ ra thơ cho mày xem. Khi nào tao viết được cái gì
tao biết lắm chứ. Nhất định là sẽ có thơ về Hà Nội. Hà Nội mà chưa ai tả được như
thế bao giờ, trong thơ ấy. Nói chung những người như thằng Bằng nó thế nào, đã
ra thơ nó hết, tao ra tập này chưa phải là tất cả tao đâu, mà mới là phần tao
chơi bời thôi.
NGUYỄN
MINH CHÂU VÀ CĂN PHÒNG MỚI Ở KHU CÔNG TRƯỜNG 800
Ở
cái cơ quan mà tôi mới về gần một năm này, tất cả mọi người đều dị dạng đều đặc
biêt, đều có gì quá khổ. Nguyên những chuyện về họ, hàng ngày, tôi thấy không
bao giờ chán. Như vậy làm thế nào bây giờ đây?
Không
lúc nào ở đây người ta không làm việc. Ông Châu kể, về với con, lắm lúc con đòi kể chuyện, ông ấy
phải bịa ra để kể cho nó. Nghĩ giá kể mình mang những chuyện ấy viết ra, có lẽ
cũng còn khá hơn truyện của thằng Sách, Châu nói thêm. Nhiều lúc con bỏ cả xem
chiếu bóng ngoài bãi để ở nhà nghe bố kể chuyện. Từ hồi vợ chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội
đến nay, ông ta vẫn chưa chịu đi cắt phiếu gạo, bây giờ vẫn không được về Hà
Nội đong gạo, cứ phải đến xin tận trên sở họ chiếu cố. Cứ nghĩ sắp tới phải bỏ
hàng tháng quay về để giải quyết các việc là rụt ngay cổ lại.
-
Mình đeo cái đài đến, trông oai lắm, mặc dù giá nó bắt mở thì mình đéo biết thế
nào vì đài hỏng rồi. Chờ mãi không được, mình phải bỏ đồng hai ra, làm một chục
bánh rán mang vào, ra vẻ ngồi chờ ăn bánh rồi mời nó ăn luôn... Nó giúp mình ghê lắm, cho ngay cái giấy giới thiệu. Không đề rõ tên cửa hàng, để tuỳ mình đến đâu
điều tra là mua được thì mua cơ mà.
... Làm nhà văn lắm
lúc cũng sướng. Mình với vợ mình dọn đến cái công trường 800 ấy. Vợ chưa biết
nếp tẻ thế nào vào ngay cái phòng đầu. Vừa gặp một thằng bạn, thằng này nói
chuyện với một ông Trung tá ở đây, thế là ông ấy cười. Nguyễn Mính Châu viết văn
hả? Thế thì sang đây, sang đây. Ông ấy lấy cho mình một cái kìm xe đạp, tháo các
thứ dây rợ ra. Cái buồng thứ ba lại có cả một cái hiên, để củi nước được.
Nhưng
mà cái khu ấy bây giờ thì bẩn thật. Chỗ này mấy thằng lính hậu cần ở, chỗ kia
mấy cô văn công đi phục vụ lẻ về léo nhéo. Chó rất dị dạng, con nào cũng như đười ươi cả. Cả khu như một thằng mặc quần áo tây, cổ khô
la, mũ cát két rất đang hoàng mà lại chân đất, chân vọc trong bùn...
THÂN PHẬN VĂN NGHỆ
Lại
nói chuyện quan niệm và mong mỏi sáng tác. Cuối năm họp cơ quan, có cái mục
phát biểu về các chủ trương, chính sách của cục đối với văn nghệ.
Hồ Phương: Đừng tưởng ở ngoài nhà xuất bản Văn học nó đối với ta là dễ
đâu, nó lại có cái khó khác chứ !
Xuân Thiều: Nhưng mà vẫn nhiều cái khó chịu. Viết về bộ đội mà cứ cho anh em gọi nhau
mày tao chí tớ là không được với các ông ấy. Mưa cũng thế, không được tả mưa
buồn, mà lại tả mưa tưng bừng trên những nhành lá non tươi kia.
Không biết ai nói
rằng giá bây giờ có một nhà xuất bản dành riêng anh em viết văn quân đội thì hay quá. Nguyễn Minh Châu gạt đi ngay.
-
Tôi cho rằng thế này cũng đã là may lắm rồi. Chứ lại tình trạng viết cái gì
cũng phải đưa nhà xuất bản ấy in thì mới
bỏ mẹ.
NgMChâu
tự hào đúng là có nhiều điểm mình nói với nhau hàng ngày nghĩ ra không chừng sẽ có lúc được việc trong một trang viết nào đó. Châu kể hôm nọ mình nói với Phan Nhân một câu,
sao đó về phải ghi vào nhật ký. "Quân đội xây dựng từ hoà bình chán, thì cũng là để đánh nhau trong thời chiến
này. Còn văn nghệ mình, thời chiến cứ chuẩn bị đi, sau này sẽ ra tác phẩm, tiếc gì mà tiếc.”
Và Châu
bảo nhiều lúc chỉ ngồi ghi nhật ký là thấy thích.
Nhưng
như thế tức công nhận tình hình văn nghệ
hiện nay là khó, loại như NMC là lạc lõng. Mà
thực như thế, không thể nào khác được.
NgMChâu lại kể cảm tưởng sau một lần vào hội trường Ba Đình xem xiếc, gặp rất nhiều cán
bộ Quân sự đi xem. Mình tưởng tượng bọn này có thể nghiến băng tất cả những
thằng như chúng mình, nếu thằng nào dám
liều lĩnh đi ngược dòng chúng nó chứ chơi à? Một thằng bạn cũ, lâu ngày không
gặp nhau, mình mới hỏi nó mấy câu về sinh hoạt mọi thứ bây giờ. Mặc dù nó đối
với mình vẫn rất tốt, nhưng trong câu trả lời vẫn có cái gì như là cần đề phòng ấy...
Chu
thì kể chuyện ở một khẩu đội, một thằng lính mới được một con sáo rất đẹp, nó
huấn luyện cho con sáo ấy biết nói. Cứ đánh xong là trong khói đạn, con sáo
thành mối quan tâm của cả bọn. Không biết hôm nay sáo thế nào rồi. Rơi máy
bay nhé, rơi máy bay nhé - Con sáo hót lên bốn tiếng và người ta gán cho nó
một nội dung như thế. Đến hôm trận địa bị địch giã bom vào mà lại không bắn
trúng của nó cái nào, cả bọn im lặng, không ai chú ý đến con sáo ấy nữa. Bỗng
nhiên con sáo từ đâu lại mò về. Rơi máy bay nhé - Rơi máy bay nhé. Lại hót. Một thằng lính - có lẽ là
cái thằng nuôi con sáo từ lúc từ lúc mới đẻ không biết chừng - ức quá, nó mới
quật cho một phát, con sáo chết tươi ngay.
Tôi nghĩ văn nghệ của mình cũng phải như thế, cũng phải cẩn thận, không có lại
hoá ra con sáo kia hót hỉnh lung tung hết cả lên một cách vô duyên vô vị thì chả còn gì
buồn hơn, mà rồi chả ai người ta thèm ngó ngàng tới nữa cơ.
Published on June 15, 2016 05:48
June 11, 2016
Nhật ký văn nghệ 1969 (I)
NHỮNG
TRANG SỔ TAY CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Tác giả Cửa
sông có một cuốn sổ ghi hàng ngày bằng giấy pơluya mỏng, chữ rất đều. Tôi
mượn xem và chép lại một đoạn:
I.
Con
đường băng qua cánh rừng mà ta đang mở, dưới bom đạn.... Có hàng ngàn người
làm. Toàn là những người còn trẻ, con trai, con gái . Trong ánh đuốc, trong ánh
pháo sáng, trong bóng đêm, chỉ thấp thoáng, nhấp nhô.
Mỗi
người đi mở đường mang trong đời mình một vận mệnh, một niềm mơ ước.
Có
người từ quê đi, có người lang bạt, tới đây.
-
Có người chết vì bom, mồ nằm bên đường.
-
Có anh phụ trách chửi mắng anh chị em như phu
-
Có cô gái chửa hoang phải điều về tổ làm đá.
-
Có anh đào ngũ về làng.
-
Có lũ, mưa. Có sốt rét và có người chết vì sốt rét.
-
Có những đêm liên hoan.
-
Có người yêu nhau - có đêm trăng.
-
Có đêm chị em đốt đuốc đi tìm xác bạn vừa bị hổ vồ.
-
Có anh cưỡng bức một cô công nhân đẹp nhất đội.
Từ
trong cảnh đó, con đường cứ mở ra, vươn ra, và xe ra, người ra. Con đường ra
tiền tuyến đã gần mở .
Họ
lại kéo đi. Vẫn những con người ấy, lại mở một con đường khác. Ôi, đấy là điều mọi người chúng ta đều có biết, mà chưa nói ra, viết ra được.
II
Trong
cuộc chiến đó để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài 20 năm nay, ta rèn cho
dân tộc ta biết bao nhiều đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự
nghiệp của Tổ Quốc... Nhưng bên cạnh đó, 20 năm nay, ta không có thì giờ để
nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp, thì
tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc, vụ lợi, vốn được ẩn kín và
đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu ? Bây giờ ta phải chiến
đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của
từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy
mới lâu dài.
III
Cơ
sở của sáng tác văn học không phải là chính trị mà là triết học, những câu hỏi
thiết yếu nhất, da diết nhất của con người.
Nhà
văn? Xét cho cùng, người đọc đương thời và đời sau đánh giá anh ta, đánh giá
những trang sách của anh ta, khen hay chê, là căn cứ vào người ta có tìm thấy
được hay không trên trang sách ấy tấm lòng ưu ái đối với cuộc đời, sự quan tâm
ít hay nhiều của anh tới vận mệnh của con người, tới niềm hạnh phúc hay nỗi đau
khổ của họ. Niềm suy nghĩ ấy phải được chan hoà trong từng dòng viết, trở thành
một sự khắc khoải dày vò anh, không cho anh sống được yên mà phải viết, phải
chiến đấu bằng ngòi bút.
Người
anh hùng lớn nhất là người anh hùng chưa bao giờ được tuyên dương cả. Con người
vĩ đại nhất là con người bình thường đang đi giữa con số hàng triệu, những
người dân cõng binh sĩ trên mình trong bùn đất mồ hôi và máu trong những nỗi hy
sinh âm thầm, những điều suy nghĩ âm thầm. Họ gánh vác những hy sinh mà cuộc
chiến tranh ái quốc đòi hỏi trong 20 năm nay không một lời kêu ca, không đòi
hỏi trả bằng sự hưởng thụ, cả những tấm bằng khen tượng trưng cho danh dự chính
trị nhất thời.
Ở
trong đám quần chúng ấy, có anh hùng ca của cuộc đời, có bi kịch của cuộc đời.
Mà sở dĩ có anh hùng ca, vì có bi kịch.
Nguyễn
Du có một tài năng lớn nhưng ta chưa ca tụng hết mức rằng Nguyễn Du có một tấm
lòng lớn đã viết nên văn thập loại chúng sinh. Đây là tình thương con người rất
lớn. Bao giờ xưa và nay thì có thập loại chúng sinh, đều có những con người
bình thường của xã hội. Và nỗi không may cùng đức hạnh sáng người của họ như
những viên ngọc bị phủ lấp. Bây giờ cũng cần những bài văn chiêu hồn nhưng
Nguyễn Du chỉ biết gợi lên nỗi bất hạnh mà chưa viết anh hùng ca. Những trang
sách ngày nay phải viết tiếp từ trong hy sinh và bất công, từ trong bùn đen và
máu đập từ trong mất mát và đau khổ, từ cuộc chiến đấu dài 20 năm, từ đó một
đất nước tự do nẩy sinh. Hãy biết ơn những người anh hùng vô danh đã dựng lên
nó. Tác phẩm Việt Nam phải là một tấm bia khắc diện mạo của những người quần
chúng chưa bao giờ được tuyên dương được vẽ lên một cách đầy đủ. Đây là những
người binh sĩ còn sống hay đã mất và bố mẹ họ con họ đều đang đứng bên họ trong
cuộc chiến đấu hôm nay.
MẤY
CUỘC HỌP Ở TẠP CHÍ
Toàn
thể các anh trong Tạp chí bàn về quan điểm của những người viết hiện nay. Nhị Ca cho rằng biểu hiện những cái ngày nay dứt khoát là khó hay rồi (chiến
đấu sao cụ thể bằng những chuyện vợ con gia đình hết sức thiết thực). Xuân
Thiều cho rằng không hiểu sao thường thấy bực bực khi viết, khó chịu không phải
những ông ở trên, mà là một số cán bộ dưới lớp biên tập mới học nghề. Nói hơi
có hiện tượng gì tiêu cực một tí là các ông ấy xoá đi (giá Lêvintan còn sống,
ông ta cũng bị ghép vào tội coi thường
quần chúng sớm. Sao lại chỉ vẽ có phong cảnh?). Xuân Sách lại dẽ dàng, cái
chuyện thấy khó viết là chuyện băn khoăn đời của mỗi người viết. Nó là cái băn
khoăn để lớn lên. Minh Châu thì nói thực hơn. Bây giờ lo về cách viết nhiều hơn
là lo về cái mà mình suy nghiệm, thiết tha, định viết. Và lối viết tiện nhất là
đi vào những cái gì có chất thơ, ngọt ngào, dễ thương, dễ thông cảm.
Ông
Vũ Cao nói những đồng chí cấp trên chỉ mong sao tạp chí lành mạnh, các đồng chí
sống trong sạch, và viết ngày một hay hơn. Tuy vậy, cái điều thực tế là Chủ
nghĩa xã hội hết sức phức tạp, tình hình cán bộ hết sức phức tạp. Đối với mỗi
người, chúng ta phải luôn luôn đặt lại những vấn đề cơ bản về lý tưởng, về chủ
nghĩa xã hội...
Có một lần NgMChâu bảo
riêng với tôi:
- Tình hình gay lắm đấy, có lúc mình chán hết cả việc
viết lách, chỉ muốn ngồi nói chuyện cho nó sướng. Nhìn chung hiện nay, về quan
điểm văn nghệ chỉ có mình đứng riêng ra một góc, còn tất cả những bọn khác nó
vẫn vào cánh với nhau, nó chưa đánh mình đấy thôi, nó đánh mình thì mình chết.
Trước tình hình đó, đáng nhẽ phải bảo nhau đưa ra một cái gì đó có tính chất
chỉ đạo thống nhất, đằng này nay khen cái này mai khen cái kia lộn tùng bậy hết
cả lên, người ta không hiểu sao cả, bỏ hết trận địa đây sau này rồi chỉ có
chết... Có mấy ông chịu trách nhiệm về mặt đường lối, ông Chính Hữu, ông Vũ
Cao, đáng nhẽ phải trả lời dứt khoát một số câu hỏi chính yếu, đằng này các ông
ấy lại cố lờ đi, nhưng mà lờ thế nào được.... Hôm nọ mình đã đì Chính Hữu
một trận rồi. Cuối cùng ông ấy phải bảo: “Rất khó mà thay đổi được quan niệm
của những người đương thời”.
... Lại một lần khác, họp những người viết phê bình cho
tạp chí. Ông Thiệu, giám đốc Thư viện bảo tạp chí đăng nhiều bài hay, ví dụ bài
đọc thơ Sóng Hồng, bài Hòn đất, nhưng lại có những bài chung chung,
không thiết thực, ví dụ bài đọc tập truyện Phù sa, bài Mấy ý nghĩ về
4 năm thơ (cả hai bài này đều của Vương Trí Nhàn)
Có một sự đánh giá nào đấy về thơ bộ đội mới là cần
thiết, việc gì lại dây vào những chuyện chung chung ở bên ngoài. Có bao giờ bộ đội đọc những quyển sách ấy đâu.
Ngay
trong buổi họp, lập tức ông Cao – lúc này đang là Đảng ủy viên Tổng cục - lại
phải có ý kiến. Có một truyện tôi phải báo cáo cho rõ. Tức là không có một nền
văn nghệ nào là nền văn nghệ bộ đội -- Tất cả phải tập trung vào việc xây dựng
nền văn nghệ chung, đóng góp vào nền văn nghệ chung. Một mặt, chúng ta phải
chiếu cố những vấn đề bộ đội. Nhưng mặt khác, có những vấn đề bộ đội ta phải
phát biểu ý kiến với văn nghệ bên ngoài. Nếu ta không làm chuyện đó thì không
được, chính là các đồng chí ở trên cũng mong ta làm truyện đó...
Lúc
ấy, Phan Hồng Giang ngoảnh lại bảo tôi: “Về VNQĐ, sợ nhất những ông này đây.
Nói như ông ấy thì thực dụng hết, bố ai còn dám viết gì nữa”.
MỘT
ÍT CHUYỆN BÊN HỘI
Ng
Khải đi họp BCH Hội nhà văn về. Ông ta lại kể chuyện kỹ về Chế Lan Viên.
- Ông ấy bây giờ ghê lắm. Bạ ai cũng chọc được. Loại như
Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài đành nhịn.
Chế
Lan Viên nói về Hoàng Trung Thông, cái ông này ông ấy không làm cái gì mà cứ
thấy to lên, ngày một to lên. Nhân bàn về tờ tạp chí mới, ông mới đặt vấn đề về
Đặng Thai Mai. Có người muốn mời cụ đứng tên đầu tạp chí nó oai, có người lại bảo thôi để cụ ấy bên Viện. Chế Lan Viên
cho một câu, cụ ấy bây giờ thì như giời ấy. Giời ở khắp mọi nơi, ở đâu mà chẳng
có giời, nhưng đố ai biết giời làm gì. Nhân việc ông Xuân Diệu kèo nhèo về sách
in, rằng tập của ông ấy với tập của Huy Cận cùng gửi đến, mà tập của Huy Cận
thì in năm nay ti- ra 6000, tập của ông ấy thì sang năm mới in, mà 2000
thôi... thế là ông Viên khái quát:
-
Người ta cứ bảo rằng tôi say, mà ông Xuân Diệu tỉnh. Ông Xuân Diệu tỉnh nhưng
ông ấy nói cái riêng, còn tôi say tôi lại nói cái chung.
Chế Lan Viên cũng nói
gì đấy về trường hợp ông Khải.
-
Ông này ông ấy cứ ra từng cuốn một. Một, một cộng với một vẫn là một chứ không
phải là ba đâu..
Mọi khi ông Khải công phẫn mấy rồi cũng lại xuôi chiều như mọi người,
nhưng lần này nổi hung lên:
- Ở
đây không ai nói ông thì tôi phải nói vậy. Ông thì tôi công nhận ông có nhiều
đóng góp với phong trào, nhưng nếu vì thế mà nói rằng ông là số một ở đây thì
không được. Ông khuynh loát tất cả mọi người, bạ ai ông cũng mang ra chế giễu,
bài bác. (Ông Chế xin nói, ông Khải im, ông để tôi nói đã!) Có mặt anh em đây,
ai cũng biết rằng ông cũng có những chỗ keo bẩn, không kém gì mọi người. Anh em
không ai muốn mang chuyện đó ra thôi -- Không ai nói thì tôi phải nói vậy.
Khải
kể tiếp đấy, cứ thế thì ông ấy lại sợ, ông ấy lại im thôi. Cứ phải nói tuột ra,
cứ phải chơi chính sách thật thô bạo, cứ như tôi với ông Hải Hồ này này. Ông ấy
trêu vào mình thì ông ấy thiệt, cũng như mình trêu thằng Đỗ Chu bây giờ để nó
chửi vung lên thì mình thiệt.
Tôi
nhớ đến nét mặt của Nguyễn Khải cái lúc mà ông
ta nghiêm trang. Người ta lại có thể khôn ngoan đến thế ư? Lại có thể
lạnh lùng tàn ác đến thế ư ?
Ở bên
cạnh Khải, không bao giờ tôi cảm thấy ông ấy hết chuyện để nói, hết những điều
đang say mê và suy nghĩ trong lòng.
Chỉ
cần ông ta xem Anna Karênina về là ông ấy có thể kể với bộ phim ấy rất
kỹ lưỡng về chuyện ấy, chỗ nào thực, chỗ nào giả
-- Và tôi hiểu rằng những
cái sự tự tin rành rọt đó gần như không bao giờ tôi có được!
MỖI NGƯỜI MỖI VIỆC
Ngày
15/1, với tư cách người giữ thư viện của tạp chí, tôi đi họp ở Thư viện Quân đội. Lâu nay đã thấy ở đây có
ông Thấu hơi lằng nhằng. Ông ta nhất định không phát cho tạp chí những sách mà ông ta đã phát hiện ra là có
vấn đề ít chút. Khó chịu với loại máy
móc như thế. Nhớ một lần, tôi đi mua sách ngoại văn ở kho 24 Hai Bà Trưng. Tay
Đức, một người giao sách ở đấy thôi, hằm hằm nhìn vào mắt tôi.
-
Các anh mua cái này đã thông qua Tuyên giáo chưa? Sách xấu đấy, cứ bảo là làm
sao mà vẫn ra ngoài, chỉ có các anh mượn lẫn thôi chứ gì nữa. Anh có biết A.
Maurois này là thế nào không ? Người gì thì người, cứ đọc lắm sách xấu vào, rồi
cũng như mạch nước bẩn ấy, nó thấm dần vào, thấm dần vào, ngày một ngày hai, ai
mà biết được...
Bây
giờ lại đến cái ông TVQĐ này nữa – tôi
có cảm tưởng người ta càng phát hiện thêm những sách có vẻ cần phải cấm,
thì người ta càng như là có công lao.
Từ
ngày mới về VNQĐ, tôi đã được nhắc: nói năng gì thì cũng phải cẩn thận, nhất là
mấy ông bên phòng kia, không phải cái gì họ cũng giống như mình cả. Ví dụ quan
niệm lâu nay về vấn đề thể loại. Trợ lý Đại Đồng
xuống các lớp ở các binh chủng vẫn cứ giảng phải tranh thủ viết người
thực việc thực, coi đó là tất cả những gì có được ở một nền văn học. Nhân vụ
gần đây về Cái gốc, Lâm Quang Ngọc bảo thẳng các anh ở Quân Đội nhân dân
có vẻ đánh đòn hội chợ tợn, đánh tranh thù mà lại. Bây giờ thì tôi có dịp rõ cả:
-
Báo cáo các đồng chí, hôm nay chúng tôi cũng báo cáo để rõ thêm là phòng Văn nghệ chúng tôi phải đảm
đương những vấn đề chính mà các đồng chí vẫn bàn đấy. Ơ... Ví dụ như là nắm
tình hình ra đời các sách báo, đọc qua, có gì phát hiện lên trên rồi làm các
công tác về mặt đối ngoại... Khó khăn thì nhiều lắm, nhưng khó nhất vẫn là vấn
đề quan điểm. Tôi thì phải làm cái việc phát biểu một số điểm. Nói thực với các
đồng chí, toàn trên chỉ thị cả, chỉ thị cho đọc Cái gốc, chỉ thị cho đọc
Vấn đề ông chủ nhiệm rồi báo cáo lại. Lúc ra viện Văn học chẳng hạn, rủ
Xuân Miễn thì ông ấy không đi, một mình mình với một đồng chí giáo viên ở
ngoài, nhưng mà lại nghe tiếng anh em xì xào: “Thằng Đại Đồng nó làm cái gì mà
nó phát ngôn thay cho anh em làm Văn Nghệ trong Quân đội. Có những quyển truyện, về nguyên tắc
thì chỉ có tôi đọc thôi, cả các đồng chí giáo viên huấn luyện, đồng chí Phác
Văn, đồng chí Minh Mẫn cũng không được đọc. Tôi vừa có ý định ra trao đổi với
một đồng chí viết trong quân đội - thế mà hôm sau, đã thấy ý kiến đó bay ra đến
ngoài rồi. Cho nên vấn đề đầu tiên cần thống nhất với nhau là vấn đề quan điểm.
Còn về việc phân công chức trách, tôi đề nghị trong số chúng ta ngồi đây, chúng
ta họp với nhau thành một ban là ban gác sách, chúng ta chia nhau ra mà làm.
Bây giờ ngồi một chỗ mà giảng giải với nhau về cái nọ cái kia kể cũng hơi khó,
chúng ta cứ trao đổi với nhau rồi dần dần sẽ nâng cao được trình độ. Mà việc này
cũng phải phối hợp với bên ngoài nữa. Có những quyển lần đầu mình đọc, mình
nghe vui vui không sao cả, đọc thưởng thức mà lại. Sau phải nghiên cứu vào câu
vào chữ thì mới ra được vấn đề. Có những quyển phải nhờ những cơ quan có trách
nhiệm họ điều tra tác giả, xem tác giả thuộc về những phe nào, nhóm nào, như là dò luồng cá đi ấy.
Một
mặt chúng ta phải gác sách xấu, nhưng mặt khác chúng ta phải khơi nguồn cho
những sách tốt phát triển, xuống với quần chúng. Theo tôi thì vừa rồi bộ đội
mình làm thế là tốt, nhưng bên ngoài họ lại dễ cho mình là khắt khe, họ đang
rình xem mình có gì sơ hở là họ chụp xuống, đồng thời thử xem xem, những sách mình
xuất bản, nó thể hiện cả cái phương hướng chiến đấu của mình, ví dụ như phương
hướng người thực việc thực, cái đó dễ bị dìm lắm... Gần đây, bên xuất bản QĐND
có quyển Vì nước vì dân, ghi lại những gương tốt trong bộ đội mình, thế
mà chưa thấy báo nào giới thiệu cả.
...
Họp xong, tôi bảo với các ông ở nhà ra lâu nay mình nói năng tùy tiện quá. Và
từ đây mới bắt đầu hiểu thế nào là cơ quan mình đang sống.
Quả
thật, hôm ấy tôi ngồi với toàn những loại người lòng gang dạ sắt. Một ông ở báo
QĐND – tên là Hoàn thì phải. Mặt dài lưng còng, đầu nghiêng le lé nhìn những tờ
giấy, trông hệt một người công chức mẫn cán. Ông làm việc ở tổ tư liệu bên báo.
Lúc thấy Thư viện nhắc tới một số cuốn sách đề nghị hạn chế lưu hành, ông mới khe
khẽ kêu lên. Thế hả? Thế mà bấy lâu nay chúng tôi không biết, nghĩa là cứ cho
mượn tràn đi. Các ông phóng viên, xuống đơn vị về, mượn hàng mươi lăm quyển sách,
cứ thế rồi đọc thôi mà... Tính ra là con số hàng nghìn ấy chứ, các ông ấy có
đọc riêng đâu, lại còn nhét cho vợ con nữa chứ... Người cho mượn sách cấp thấp
hơn, những người kia thì cấp cao, khó quá...
...
Nghe ông nói tôi mới hiểu các phóng viên báo QĐND phải sống khổ như thế nào.
Thì còn gì là nhà báo nữa.
Một
ông nữa ở nhà xuất bản Quân đội, trông hoạt bát nhanh nhẹn. Ông này ra vẻ thực
lực: “Chúng tôi có phòng kiểm tra nội dung, có 10 người. Tất cả các ấn phẩm các
nơi muốn ra đời được thì phải có giấy chúng tôi cho phép, có xem kỹ thấy ổn thì
chúng tôi mới cho. Thế nhưng bây giờ họ cũng có thể ngoại giao xin được giấy ở
địa phương chẳng hạn, thế là mình chịu. Nhưng đến nơi mà chúng tôi thấy, chúng
tôi có quyền tịch thu và làm lơ mơ là không được đâu.
Các
nhà xuất bản có biếu nhau, bao giờ chúng tôi cũng có đủ sách, rất sớm. Chúng
tôi lại còn liên hệ với bên phát hành sách bên ngoài, họ kiểm mấy chục năm nay rồi, họ có kinh nghiệm, cho nên không cái gì
qua họ được (Ai đó tương ra một câu nói nửa đùa nửa thật: Cái kéo của họ sắc
rồi mà lại, càng lâu càng sắc)
Làm
ăn bây giờ cứ chặt còn hơn chậm. Có bài thơ gì về Cồn cỏ của Vũ Quần Phương lúc
đầu cũng có ý kiến định đưa vào, nhưng đọc kỹ lại thôi, chẳng đưa vào làm gì,
phiền phức lắm.
...
Gây
cho tôi đầy đủ cảm giác nhất là một ông
ở Phòng giáo dục - ông này người Khu 4, mặt đen, môi trề, nhìn không hiểu vui hay buồn. Ông ta ngồi với vẻ đăm đăm lo
lắng một nỗi lo canh cánh bên lòng không
làm sao mà thoải mái được. Sách bây giờ vào nhiều quá. Ở mạn Yên Bái, Trung
Quốc, họ vứt cho mình hàng đống. Nhiều thứ người vào bộ đội, gia đình gửi cho
nữa chứ. Cái tôi lo nhất không phải ở trên này mà là ở dưới ấy cơ, ông bảo vậy.
Cái
này thì tôi cũng nghe mang máng. Có những cô ở Hải Phòng đi TNXP, khám sức khoẻ
mới biết người xâm mình kinh rợn. Một trung đoàn ở Hải Phòng, lúc đầu có độ 100, sau đến 200
người xăm mình như thế. Em họ tôi thằng Giao kể chuyện có lần đơn vị chúng nó
phổ biến với nhau bài hát vàng “Làm trai đời lính em ơi đừng buồn” mãi rồi đơn
vị mới biết. Ông CV đại đội ngù ngờ, phải DV Chính trị viên tiểu đoàn mới biết.
Nhưng
mà làm thế nào, làm thế nào, mỗi người đều có lý của mình, người lính có lý của
họ mà cấp trên lại có lý riêng ... Làm thế nào dung hòa ? Đến đây, tôi không
dám nghĩ tiếp nữa. Khi về nói lại với Vũ Cao thì anh bảo rằng này biết thế
nhưng đừng mang những chuyện đi họp đó kể với bọn Xuân Quỳnh Bằng Việt đấy nhé.
TRANG SỔ TAY CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Tác giả Cửa
sông có một cuốn sổ ghi hàng ngày bằng giấy pơluya mỏng, chữ rất đều. Tôi
mượn xem và chép lại một đoạn:
I.
Con
đường băng qua cánh rừng mà ta đang mở, dưới bom đạn.... Có hàng ngàn người
làm. Toàn là những người còn trẻ, con trai, con gái . Trong ánh đuốc, trong ánh
pháo sáng, trong bóng đêm, chỉ thấp thoáng, nhấp nhô.
Mỗi
người đi mở đường mang trong đời mình một vận mệnh, một niềm mơ ước.
Có
người từ quê đi, có người lang bạt, tới đây.
-
Có người chết vì bom, mồ nằm bên đường.
-
Có anh phụ trách chửi mắng anh chị em như phu
-
Có cô gái chửa hoang phải điều về tổ làm đá.
-
Có anh đào ngũ về làng.
-
Có lũ, mưa. Có sốt rét và có người chết vì sốt rét.
-
Có những đêm liên hoan.
-
Có người yêu nhau - có đêm trăng.
-
Có đêm chị em đốt đuốc đi tìm xác bạn vừa bị hổ vồ.
-
Có anh cưỡng bức một cô công nhân đẹp nhất đội.
Từ
trong cảnh đó, con đường cứ mở ra, vươn ra, và xe ra, người ra. Con đường ra
tiền tuyến đã gần mở .
Họ
lại kéo đi. Vẫn những con người ấy, lại mở một con đường khác. Ôi, đấy là điều mọi người chúng ta đều có biết, mà chưa nói ra, viết ra được.
II
Trong
cuộc chiến đó để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài 20 năm nay, ta rèn cho
dân tộc ta biết bao nhiều đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự
nghiệp của Tổ Quốc... Nhưng bên cạnh đó, 20 năm nay, ta không có thì giờ để
nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp, thì
tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc, vụ lợi, vốn được ẩn kín và
đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu ? Bây giờ ta phải chiến
đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của
từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy
mới lâu dài.
III
Cơ
sở của sáng tác văn học không phải là chính trị mà là triết học, những câu hỏi
thiết yếu nhất, da diết nhất của con người.
Nhà
văn? Xét cho cùng, người đọc đương thời và đời sau đánh giá anh ta, đánh giá
những trang sách của anh ta, khen hay chê, là căn cứ vào người ta có tìm thấy
được hay không trên trang sách ấy tấm lòng ưu ái đối với cuộc đời, sự quan tâm
ít hay nhiều của anh tới vận mệnh của con người, tới niềm hạnh phúc hay nỗi đau
khổ của họ. Niềm suy nghĩ ấy phải được chan hoà trong từng dòng viết, trở thành
một sự khắc khoải dày vò anh, không cho anh sống được yên mà phải viết, phải
chiến đấu bằng ngòi bút.
Người
anh hùng lớn nhất là người anh hùng chưa bao giờ được tuyên dương cả. Con người
vĩ đại nhất là con người bình thường đang đi giữa con số hàng triệu, những
người dân cõng binh sĩ trên mình trong bùn đất mồ hôi và máu trong những nỗi hy
sinh âm thầm, những điều suy nghĩ âm thầm. Họ gánh vác những hy sinh mà cuộc
chiến tranh ái quốc đòi hỏi trong 20 năm nay không một lời kêu ca, không đòi
hỏi trả bằng sự hưởng thụ, cả những tấm bằng khen tượng trưng cho danh dự chính
trị nhất thời.
Ở
trong đám quần chúng ấy, có anh hùng ca của cuộc đời, có bi kịch của cuộc đời.
Mà sở dĩ có anh hùng ca, vì có bi kịch.
Nguyễn
Du có một tài năng lớn nhưng ta chưa ca tụng hết mức rằng Nguyễn Du có một tấm
lòng lớn đã viết nên văn thập loại chúng sinh. Đây là tình thương con người rất
lớn. Bao giờ xưa và nay thì có thập loại chúng sinh, đều có những con người
bình thường của xã hội. Và nỗi không may cùng đức hạnh sáng người của họ như
những viên ngọc bị phủ lấp. Bây giờ cũng cần những bài văn chiêu hồn nhưng
Nguyễn Du chỉ biết gợi lên nỗi bất hạnh mà chưa viết anh hùng ca. Những trang
sách ngày nay phải viết tiếp từ trong hy sinh và bất công, từ trong bùn đen và
máu đập từ trong mất mát và đau khổ, từ cuộc chiến đấu dài 20 năm, từ đó một
đất nước tự do nẩy sinh. Hãy biết ơn những người anh hùng vô danh đã dựng lên
nó. Tác phẩm Việt Nam phải là một tấm bia khắc diện mạo của những người quần
chúng chưa bao giờ được tuyên dương được vẽ lên một cách đầy đủ. Đây là những
người binh sĩ còn sống hay đã mất và bố mẹ họ con họ đều đang đứng bên họ trong
cuộc chiến đấu hôm nay.
MẤY
CUỘC HỌP Ở TẠP CHÍ
Toàn
thể các anh trong Tạp chí bàn về quan điểm của những người viết hiện nay. Nhị Ca cho rằng biểu hiện những cái ngày nay dứt khoát là khó hay rồi (chiến
đấu sao cụ thể bằng những chuyện vợ con gia đình hết sức thiết thực). Xuân
Thiều cho rằng không hiểu sao thường thấy bực bực khi viết, khó chịu không phải
những ông ở trên, mà là một số cán bộ dưới lớp biên tập mới học nghề. Nói hơi
có hiện tượng gì tiêu cực một tí là các ông ấy xoá đi (giá Lêvintan còn sống,
ông ta cũng bị ghép vào tội coi thường
quần chúng sớm. Sao lại chỉ vẽ có phong cảnh?). Xuân Sách lại dẽ dàng, cái
chuyện thấy khó viết là chuyện băn khoăn đời của mỗi người viết. Nó là cái băn
khoăn để lớn lên. Minh Châu thì nói thực hơn. Bây giờ lo về cách viết nhiều hơn
là lo về cái mà mình suy nghiệm, thiết tha, định viết. Và lối viết tiện nhất là
đi vào những cái gì có chất thơ, ngọt ngào, dễ thương, dễ thông cảm.
Ông
Vũ Cao nói những đồng chí cấp trên chỉ mong sao tạp chí lành mạnh, các đồng chí
sống trong sạch, và viết ngày một hay hơn. Tuy vậy, cái điều thực tế là Chủ
nghĩa xã hội hết sức phức tạp, tình hình cán bộ hết sức phức tạp. Đối với mỗi
người, chúng ta phải luôn luôn đặt lại những vấn đề cơ bản về lý tưởng, về chủ
nghĩa xã hội...
Có một lần NgMChâu bảo
riêng với tôi:
- Tình hình gay lắm đấy, có lúc mình chán hết cả việc
viết lách, chỉ muốn ngồi nói chuyện cho nó sướng. Nhìn chung hiện nay, về quan
điểm văn nghệ chỉ có mình đứng riêng ra một góc, còn tất cả những bọn khác nó
vẫn vào cánh với nhau, nó chưa đánh mình đấy thôi, nó đánh mình thì mình chết.
Trước tình hình đó, đáng nhẽ phải bảo nhau đưa ra một cái gì đó có tính chất
chỉ đạo thống nhất, đằng này nay khen cái này mai khen cái kia lộn tùng bậy hết
cả lên, người ta không hiểu sao cả, bỏ hết trận địa đây sau này rồi chỉ có
chết... Có mấy ông chịu trách nhiệm về mặt đường lối, ông Chính Hữu, ông Vũ
Cao, đáng nhẽ phải trả lời dứt khoát một số câu hỏi chính yếu, đằng này các ông
ấy lại cố lờ đi, nhưng mà lờ thế nào được.... Hôm nọ mình đã đì Chính Hữu
một trận rồi. Cuối cùng ông ấy phải bảo: “Rất khó mà thay đổi được quan niệm
của những người đương thời”.
... Lại một lần khác, họp những người viết phê bình cho
tạp chí. Ông Thiệu, giám đốc Thư viện bảo tạp chí đăng nhiều bài hay, ví dụ bài
đọc thơ Sóng Hồng, bài Hòn đất, nhưng lại có những bài chung chung,
không thiết thực, ví dụ bài đọc tập truyện Phù sa, bài Mấy ý nghĩ về
4 năm thơ (cả hai bài này đều của Vương Trí Nhàn)
Có một sự đánh giá nào đấy về thơ bộ đội mới là cần
thiết, việc gì lại dây vào những chuyện chung chung ở bên ngoài. Có bao giờ bộ đội đọc những quyển sách ấy đâu.
Ngay
trong buổi họp, lập tức ông Cao – lúc này đang là Đảng ủy viên Tổng cục - lại
phải có ý kiến. Có một truyện tôi phải báo cáo cho rõ. Tức là không có một nền
văn nghệ nào là nền văn nghệ bộ đội -- Tất cả phải tập trung vào việc xây dựng
nền văn nghệ chung, đóng góp vào nền văn nghệ chung. Một mặt, chúng ta phải
chiếu cố những vấn đề bộ đội. Nhưng mặt khác, có những vấn đề bộ đội ta phải
phát biểu ý kiến với văn nghệ bên ngoài. Nếu ta không làm chuyện đó thì không
được, chính là các đồng chí ở trên cũng mong ta làm truyện đó...
Lúc
ấy, Phan Hồng Giang ngoảnh lại bảo tôi: “Về VNQĐ, sợ nhất những ông này đây.
Nói như ông ấy thì thực dụng hết, bố ai còn dám viết gì nữa”.
MỘT
ÍT CHUYỆN BÊN HỘI
Ng
Khải đi họp BCH Hội nhà văn về. Ông ta lại kể chuyện kỹ về Chế Lan Viên.
- Ông ấy bây giờ ghê lắm. Bạ ai cũng chọc được. Loại như
Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài đành nhịn.
Chế
Lan Viên nói về Hoàng Trung Thông, cái ông này ông ấy không làm cái gì mà cứ
thấy to lên, ngày một to lên. Nhân bàn về tờ tạp chí mới, ông mới đặt vấn đề về
Đặng Thai Mai. Có người muốn mời cụ đứng tên đầu tạp chí nó oai, có người lại bảo thôi để cụ ấy bên Viện. Chế Lan Viên
cho một câu, cụ ấy bây giờ thì như giời ấy. Giời ở khắp mọi nơi, ở đâu mà chẳng
có giời, nhưng đố ai biết giời làm gì. Nhân việc ông Xuân Diệu kèo nhèo về sách
in, rằng tập của ông ấy với tập của Huy Cận cùng gửi đến, mà tập của Huy Cận
thì in năm nay ti- ra 6000, tập của ông ấy thì sang năm mới in, mà 2000
thôi... thế là ông Viên khái quát:
-
Người ta cứ bảo rằng tôi say, mà ông Xuân Diệu tỉnh. Ông Xuân Diệu tỉnh nhưng
ông ấy nói cái riêng, còn tôi say tôi lại nói cái chung.
Chế Lan Viên cũng nói
gì đấy về trường hợp ông Khải.
-
Ông này ông ấy cứ ra từng cuốn một. Một, một cộng với một vẫn là một chứ không
phải là ba đâu..
Mọi khi ông Khải công phẫn mấy rồi cũng lại xuôi chiều như mọi người,
nhưng lần này nổi hung lên:
- Ở
đây không ai nói ông thì tôi phải nói vậy. Ông thì tôi công nhận ông có nhiều
đóng góp với phong trào, nhưng nếu vì thế mà nói rằng ông là số một ở đây thì
không được. Ông khuynh loát tất cả mọi người, bạ ai ông cũng mang ra chế giễu,
bài bác. (Ông Chế xin nói, ông Khải im, ông để tôi nói đã!) Có mặt anh em đây,
ai cũng biết rằng ông cũng có những chỗ keo bẩn, không kém gì mọi người. Anh em
không ai muốn mang chuyện đó ra thôi -- Không ai nói thì tôi phải nói vậy.
Khải
kể tiếp đấy, cứ thế thì ông ấy lại sợ, ông ấy lại im thôi. Cứ phải nói tuột ra,
cứ phải chơi chính sách thật thô bạo, cứ như tôi với ông Hải Hồ này này. Ông ấy
trêu vào mình thì ông ấy thiệt, cũng như mình trêu thằng Đỗ Chu bây giờ để nó
chửi vung lên thì mình thiệt.
Tôi
nhớ đến nét mặt của Nguyễn Khải cái lúc mà ông
ta nghiêm trang. Người ta lại có thể khôn ngoan đến thế ư? Lại có thể
lạnh lùng tàn ác đến thế ư ?
Ở bên
cạnh Khải, không bao giờ tôi cảm thấy ông ấy hết chuyện để nói, hết những điều
đang say mê và suy nghĩ trong lòng.
Chỉ
cần ông ta xem Anna Karênina về là ông ấy có thể kể với bộ phim ấy rất
kỹ lưỡng về chuyện ấy, chỗ nào thực, chỗ nào giả
-- Và tôi hiểu rằng những
cái sự tự tin rành rọt đó gần như không bao giờ tôi có được!
MỖI NGƯỜI MỖI VIỆC
Ngày
15/1, với tư cách người giữ thư viện của tạp chí, tôi đi họp ở Thư viện Quân đội. Lâu nay đã thấy ở đây có
ông Thấu hơi lằng nhằng. Ông ta nhất định không phát cho tạp chí những sách mà ông ta đã phát hiện ra là có
vấn đề ít chút. Khó chịu với loại máy
móc như thế. Nhớ một lần, tôi đi mua sách ngoại văn ở kho 24 Hai Bà Trưng. Tay
Đức, một người giao sách ở đấy thôi, hằm hằm nhìn vào mắt tôi.
-
Các anh mua cái này đã thông qua Tuyên giáo chưa? Sách xấu đấy, cứ bảo là làm
sao mà vẫn ra ngoài, chỉ có các anh mượn lẫn thôi chứ gì nữa. Anh có biết A.
Maurois này là thế nào không ? Người gì thì người, cứ đọc lắm sách xấu vào, rồi
cũng như mạch nước bẩn ấy, nó thấm dần vào, thấm dần vào, ngày một ngày hai, ai
mà biết được...
Bây
giờ lại đến cái ông TVQĐ này nữa – tôi
có cảm tưởng người ta càng phát hiện thêm những sách có vẻ cần phải cấm,
thì người ta càng như là có công lao.
Từ
ngày mới về VNQĐ, tôi đã được nhắc: nói năng gì thì cũng phải cẩn thận, nhất là
mấy ông bên phòng kia, không phải cái gì họ cũng giống như mình cả. Ví dụ quan
niệm lâu nay về vấn đề thể loại. Trợ lý Đại Đồng
xuống các lớp ở các binh chủng vẫn cứ giảng phải tranh thủ viết người
thực việc thực, coi đó là tất cả những gì có được ở một nền văn học. Nhân vụ
gần đây về Cái gốc, Lâm Quang Ngọc bảo thẳng các anh ở Quân Đội nhân dân
có vẻ đánh đòn hội chợ tợn, đánh tranh thù mà lại. Bây giờ thì tôi có dịp rõ cả:
-
Báo cáo các đồng chí, hôm nay chúng tôi cũng báo cáo để rõ thêm là phòng Văn nghệ chúng tôi phải đảm
đương những vấn đề chính mà các đồng chí vẫn bàn đấy. Ơ... Ví dụ như là nắm
tình hình ra đời các sách báo, đọc qua, có gì phát hiện lên trên rồi làm các
công tác về mặt đối ngoại... Khó khăn thì nhiều lắm, nhưng khó nhất vẫn là vấn
đề quan điểm. Tôi thì phải làm cái việc phát biểu một số điểm. Nói thực với các
đồng chí, toàn trên chỉ thị cả, chỉ thị cho đọc Cái gốc, chỉ thị cho đọc
Vấn đề ông chủ nhiệm rồi báo cáo lại. Lúc ra viện Văn học chẳng hạn, rủ
Xuân Miễn thì ông ấy không đi, một mình mình với một đồng chí giáo viên ở
ngoài, nhưng mà lại nghe tiếng anh em xì xào: “Thằng Đại Đồng nó làm cái gì mà
nó phát ngôn thay cho anh em làm Văn Nghệ trong Quân đội. Có những quyển truyện, về nguyên tắc
thì chỉ có tôi đọc thôi, cả các đồng chí giáo viên huấn luyện, đồng chí Phác
Văn, đồng chí Minh Mẫn cũng không được đọc. Tôi vừa có ý định ra trao đổi với
một đồng chí viết trong quân đội - thế mà hôm sau, đã thấy ý kiến đó bay ra đến
ngoài rồi. Cho nên vấn đề đầu tiên cần thống nhất với nhau là vấn đề quan điểm.
Còn về việc phân công chức trách, tôi đề nghị trong số chúng ta ngồi đây, chúng
ta họp với nhau thành một ban là ban gác sách, chúng ta chia nhau ra mà làm.
Bây giờ ngồi một chỗ mà giảng giải với nhau về cái nọ cái kia kể cũng hơi khó,
chúng ta cứ trao đổi với nhau rồi dần dần sẽ nâng cao được trình độ. Mà việc này
cũng phải phối hợp với bên ngoài nữa. Có những quyển lần đầu mình đọc, mình
nghe vui vui không sao cả, đọc thưởng thức mà lại. Sau phải nghiên cứu vào câu
vào chữ thì mới ra được vấn đề. Có những quyển phải nhờ những cơ quan có trách
nhiệm họ điều tra tác giả, xem tác giả thuộc về những phe nào, nhóm nào, như là dò luồng cá đi ấy.
Một
mặt chúng ta phải gác sách xấu, nhưng mặt khác chúng ta phải khơi nguồn cho
những sách tốt phát triển, xuống với quần chúng. Theo tôi thì vừa rồi bộ đội
mình làm thế là tốt, nhưng bên ngoài họ lại dễ cho mình là khắt khe, họ đang
rình xem mình có gì sơ hở là họ chụp xuống, đồng thời thử xem xem, những sách mình
xuất bản, nó thể hiện cả cái phương hướng chiến đấu của mình, ví dụ như phương
hướng người thực việc thực, cái đó dễ bị dìm lắm... Gần đây, bên xuất bản QĐND
có quyển Vì nước vì dân, ghi lại những gương tốt trong bộ đội mình, thế
mà chưa thấy báo nào giới thiệu cả.
...
Họp xong, tôi bảo với các ông ở nhà ra lâu nay mình nói năng tùy tiện quá. Và
từ đây mới bắt đầu hiểu thế nào là cơ quan mình đang sống.
Quả
thật, hôm ấy tôi ngồi với toàn những loại người lòng gang dạ sắt. Một ông ở báo
QĐND – tên là Hoàn thì phải. Mặt dài lưng còng, đầu nghiêng le lé nhìn những tờ
giấy, trông hệt một người công chức mẫn cán. Ông làm việc ở tổ tư liệu bên báo.
Lúc thấy Thư viện nhắc tới một số cuốn sách đề nghị hạn chế lưu hành, ông mới khe
khẽ kêu lên. Thế hả? Thế mà bấy lâu nay chúng tôi không biết, nghĩa là cứ cho
mượn tràn đi. Các ông phóng viên, xuống đơn vị về, mượn hàng mươi lăm quyển sách,
cứ thế rồi đọc thôi mà... Tính ra là con số hàng nghìn ấy chứ, các ông ấy có
đọc riêng đâu, lại còn nhét cho vợ con nữa chứ... Người cho mượn sách cấp thấp
hơn, những người kia thì cấp cao, khó quá...
...
Nghe ông nói tôi mới hiểu các phóng viên báo QĐND phải sống khổ như thế nào.
Thì còn gì là nhà báo nữa.
Một
ông nữa ở nhà xuất bản Quân đội, trông hoạt bát nhanh nhẹn. Ông này ra vẻ thực
lực: “Chúng tôi có phòng kiểm tra nội dung, có 10 người. Tất cả các ấn phẩm các
nơi muốn ra đời được thì phải có giấy chúng tôi cho phép, có xem kỹ thấy ổn thì
chúng tôi mới cho. Thế nhưng bây giờ họ cũng có thể ngoại giao xin được giấy ở
địa phương chẳng hạn, thế là mình chịu. Nhưng đến nơi mà chúng tôi thấy, chúng
tôi có quyền tịch thu và làm lơ mơ là không được đâu.
Các
nhà xuất bản có biếu nhau, bao giờ chúng tôi cũng có đủ sách, rất sớm. Chúng
tôi lại còn liên hệ với bên phát hành sách bên ngoài, họ kiểm mấy chục năm nay rồi, họ có kinh nghiệm, cho nên không cái gì
qua họ được (Ai đó tương ra một câu nói nửa đùa nửa thật: Cái kéo của họ sắc
rồi mà lại, càng lâu càng sắc)
Làm
ăn bây giờ cứ chặt còn hơn chậm. Có bài thơ gì về Cồn cỏ của Vũ Quần Phương lúc
đầu cũng có ý kiến định đưa vào, nhưng đọc kỹ lại thôi, chẳng đưa vào làm gì,
phiền phức lắm.
...
Gây
cho tôi đầy đủ cảm giác nhất là một ông
ở Phòng giáo dục - ông này người Khu 4, mặt đen, môi trề, nhìn không hiểu vui hay buồn. Ông ta ngồi với vẻ đăm đăm lo
lắng một nỗi lo canh cánh bên lòng không
làm sao mà thoải mái được. Sách bây giờ vào nhiều quá. Ở mạn Yên Bái, Trung
Quốc, họ vứt cho mình hàng đống. Nhiều thứ người vào bộ đội, gia đình gửi cho
nữa chứ. Cái tôi lo nhất không phải ở trên này mà là ở dưới ấy cơ, ông bảo vậy.
Cái
này thì tôi cũng nghe mang máng. Có những cô ở Hải Phòng đi TNXP, khám sức khoẻ
mới biết người xâm mình kinh rợn. Một trung đoàn ở Hải Phòng, lúc đầu có độ 100, sau đến 200
người xăm mình như thế. Em họ tôi thằng Giao kể chuyện có lần đơn vị chúng nó
phổ biến với nhau bài hát vàng “Làm trai đời lính em ơi đừng buồn” mãi rồi đơn
vị mới biết. Ông CV đại đội ngù ngờ, phải DV Chính trị viên tiểu đoàn mới biết.
Nhưng
mà làm thế nào, làm thế nào, mỗi người đều có lý của mình, người lính có lý của
họ mà cấp trên lại có lý riêng ... Làm thế nào dung hòa ? Đến đây, tôi không
dám nghĩ tiếp nữa. Khi về nói lại với Vũ Cao thì anh bảo rằng này biết thế
nhưng đừng mang những chuyện đi họp đó kể với bọn Xuân Quỳnh Bằng Việt đấy nhé.
Published on June 11, 2016 18:50
June 9, 2016
Nhật ký văn nghệ 1968
Do không có kinh nghiệm, nên từ những ngày đầu tiên về Văn Nghệ quân đội (2-1968), tôi đã có ghi chép một ít về cuộc sống mới của mình, nhưng những đoạn ấy thường
vừa tản mạn vừa vón cục. Chỉ tới
cuối năm đó, và qua một hai năm sau, tôi mới bắt đầu có được một số đoạn ghi
tạm gọi là mạch lạc, nay chỉnh lý lại cho gọn và thêm vào các tiêu đề nhỏ rồi tạm gọi là nhật ký theo ước lệ và trình ra dưới đây. Khi đưa những đoạn này lên blog, cũng như các đoạn nhật ký
văn nghệ trước, tôi đinh ninh rằng nếu không phải tất cả thì phần lớn các bạn
đều biết đây là chuyện trong quá khứ -- ở đây là gần năm chục năm
trước -- chứ không phải quan sát và suy nghĩ hôm nay của tôi và những người được tôi nói tới.
ĐỖ CHU
Hai ngày 27 – 28 tháng
10, cùng Đỗ Chu về Bắc Ninh. Chu vừa ở chiến trường ra, kể:
- Mới đầu tao định không
đi. Ông Khải ông ấy mắng mỏ ghê quá, nên tao mới phải đi đấy. Đi thì thấy tiếc
thời gian cũ. Ở Hà Nội sống lông bông quá. Vào đến nơi tao gửi thư luôn cho NXB
Thanh Niên. Các ông vứt mấy cái mà tôi gửi tới đi, chỉ giữ lại Vòm trời
quen thuộc với Một vùng phía Bắc thôi (mấy thằng ấy
chúng nó chửi Sông Hồng sắc đỏ của tao ghê quá!)
Tao cũng thấy giống như
ông Châu ấy, đi qua loa thì viết được. Đi kỹ thế này đéo viết được đâu. Thực tế
nó khắc nghiệt lắm, những thứ mình viết lâu nay chỉ toàn nói dối thôi, thằng
nào viết càng hay lại càng thành ra nói dối tợn.
Đánh nhau không phải
chuyện chơi đâu, thằng Mỹ nó có tri thức lắm. Mày tưởng tượng một thằng lính công
tử như thế, nó trông thấy thằng bé mười bảy nhà mình - hai thằng nhìn nhau,
thằng kia nó trông mình bé quá, đứng như trẻ con, nó không nỡ giết. Thế rồi
phải bắn nhau chứ!
Gặp một thằng lính B
chuồn.
- Thủ trưởng đi đâu em
xin đi đấy.
- Tao ra, mày có ra thì
ra.
Thì nó đang khổ sở, bị
bọn giao liên nó hành hạ, nó trông thấy mình vào mua gạo mua thịt dễ dàng muốn
mua bao nhiêu thì mua -- thế thì làm gì chả sướng! Nó giúp mình đủ thứ. Nó bảo
nó lính giữ B40 đấy, bắn một quả B40 trượt cái M113, vẫn thấy tiếc, không phải
không dũng cảm đâu. Đầu đuôi chuồn chỉ có thế này thôi này: nó có một thằng
bạn, thằng này tự nhiên mất tích, đơn vị cho người đi tìm. Không thấy. Ba ngày
sau, trước lúc xuất kích thì thằng kia mò về, về đến nơi thì nó ngã lăn
ra, không làm việc gì được nữa. Đạn bắn nó mất miếng cằm, cả mặt vết thương
toàn dòi; người thì bị những con ve nó móc vào da, bấu không ra, phải tiêm
thuốc tê mới bắt ra hết được. Đấy, chỉ kinh mỗi thế mà thằng ấy trốn.
Mấy hôm trước Nguyễn
Minh Châu kể, thực tế nó không có khuôn khổ nào hết. Một thằng anh nuôi bữa cơm
ra chốt 40 lần. Chính trị viên bảo cậu chuẩn bị nhận huân chương. Đến lần sau
thì nó đảo ngũ. Ai biết được những gì nó gặp trên đường, toàn những xác Mỹ, xác
mình chết vùi xuống rồi bom nó lại cày lên. Kinh quá. Một thằng đảng viên tuyên
truyền thằng khác vào Đảng, cầm cả giấy xin vào Đảng của thằng kia trốn đi.
Hiện nay, lối viết giàu chất thơ là lối viết dễ ăn nhất, tránh lắm chuyện...
Nhưng mà thực tế, ai cũng chán, nhiều người thấy lối viết như của Khải
còn đỡ.
Chiến tranh quá khắc
nghiệt -- quay lại lời Đỗ Chu - Một thằng bắn B40 bị thương, thằng
tân binh vừa được thằng kia chỉ bảo cho cách bắn, bảo xong thì vừa chết. ”Mày
nghĩ xem, đáng nhẽ lúc ấy người ta phải trối trăng những cái gì khác cơ chứ",
Chu trầm ngâm tự hỏi.
Vẫn lời Chu:
- Những ngày này, càng
thấy rung động lớn về đất nước, cái làm cho người ta chiến đấu được là đất
nước. Đất nước mình ghê thật, thằng Mỹ nó có tổ chức thế, mà mình vượt được nó,
tức là mình phải ghê hơn nữa. Dân ta đang tổ chức nhau lại thành một lực lượng
hùng hậu, hết lớp này đến lớp khác, con người làm được mọi chuyện đấy. Thú
thực, ở đằng sau còn hơi hồ nghi, chứ càng ra chiến trường lại càng tin ở chiến
thắng... Con đường mòn Hồ Chí Minh đấy, từ chỗ bé tí tẹo, đến bây giờ thành con
đường lớn, xe pháo kéo đi rầm rầm, nay mai cả tên lửa cũng vào nữa.
- Tao ở nhiều với TNXP.
Chính bọn này, còn khổ hơn bộ đội, nhiều vấn đề hơn bộ đội. Con người ta khao
khát sống, và sinh lực cũng ghê lắm, cái chuyện nam nữ ấy. Một đứa con gái ngủ
với một đứa con giai trong đại đội, có con rồi, nhưng nó khai là nó ngủ với lái
xe. Lái xe thì biết thế nào mà lần, còn thằng kia cứ sống đó, chả làm gì được.
Một bà chính trị viên đại đội hẳn hoi, ngủ với một ông cán bộ đi qua, có chửa
rồi cứ nhận làm đủ các thứ việc cho thai nó ra mà nó không ra, đến lúc đi
xin một cái bà mường thì bà ấy lại cho thuốc bổ thai mới chết chứ. Đến ngày
tháng, chị ấy đẻ, binh trạm bắt nghỉ công tác chờ kỷ luật, thế nhưng cả bọn con
gái trong đơn vị nó khoái, nó giúp đỡ chị ấy mọi thứ, mỗi ngày đến phiên một
đứa giúp đỡ chị ấy, thì coi như là ngày sung sướng nhất đời, cứ như là vừa được
về phép. Đến hôm cả bọn đang đi làm thì bom bỏ trúng doanh trại, chúng nó ùa cả
về, xem thế nào. Hai mẹ con chết bom luôn, không kịp nhận kỷ luật của binh
trạm.
Nhưng mà đi xem thế là
đủ, chiến tranh thế là đủ rồi, mình mà tiếp tục đi xem nữa là có tội đấy!
Nhàn: Từ lâu, anh
Cao đã nói rằng đây là vấn đề của CNXH -- chính CN XH làm cho vấn đề thêm phức
tạp ra.
Chu: Tất nhiên. Đúng như
thế rồi, cái kiểu tổ chức của mình như hợp tác xã cũng là một thứ gom dân, giữ
dân, một thứ ấp chiến lược đấy.
Vậy thì cái gì làm cho
người ta dũng cảm chịu đựng ư? Có đủ mọi thứ rằng rịt. Một cô giáo ở Quảng Bình
dạy học. Bây giờ người ta ăn gạo Chính phủ hết rồi: dân quân ăn với trận địa bộ
đội, thanh niên xung phong ăn với binh trạm, còn cô ấy chả biết ăn vào đâu, cô
ấy vớ va vớ vẩn. Bọn học trò bảo hay là cô về nhà em ăn vậy. Nhưng rồi cô giáo
vẫn làm việc, vẫn dạy học được. Đấy là thứ kỷ luật của đời sống, của cuộc đời,
không ai có thể thay đổi được.
Câu chuyện hàng
ngày giữa mọi người là những vấn đề chính trị, vận mệnh đất nước, chế độ. Vào
những tháng cuối năm 1968 này, tất cả đều chờ đợi những biến chuyển lớn. Phải
viết như thế nào đây? Hình như ở những người cán bộ chính trị thông thường có
khuynh hướng đơn giản hoá, muốn văn nghệ làm một cái bóng của những người ấy,
máy là giật. Nhưng những người nghệ sĩ có lương tâm nhất, để làm được công việc
mà mình tự nguyện noi theo một cách đầy đủ nhất, đã cố vươn tới những vấn đề
lớn ở tận đáy của nó.
TÌNH HÌNH VĂN NGHỆ
Theo Nguyễn Khải, Cái
gốc[của Nguyễn Thành Long] chẳng có gì, nịnh không nên thân, cho nên mới
khổ sở như thế. Tình rừng thì ghê thật, văn chương chữ nghĩa
có thể làm thay đổi được lòng người.Ông Tuân nhiều khi sống bằng những
giai thoại, đó là một cách làm dáng, cố thêu dệt ra những chuyện không đâu vào
đâu. Thật ra, ở những người nghệ sĩ, vấn đề lòng tin là một vấn đề lớn. Trong Tờ
hoa chẳng hạn, có những chỗ lòng tin lung lay (Cũng như trong Con
nuôi trung đoàn của Phù Thăng có những câu xỏ ác liệt: “cùng lá
cờ đỏ, tuỳ tình hình mà thêm khi thì búa liềm, khi thì sao vàng “)
Đáng lẽ không nên làm to
ra, thì người ta lại cố tuyên truyền rằng văn nghệ sĩ là hay cứng đầu, và phải
cẩn thận. Hơi một tí là thấy kêu. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Liễn được giải ở
báo Văn nghệ, nói tới việc một ông chủ nhiệm xoay xở những bì
đường, cũng bị kêu... Và hình như cả truyện ngắn của Xuân Thiều Tâm sự
chiến sĩ quản tượng nữa. Chẳng phải mượn voi để nói người hay sao đó?
Còn Đường trong mây, có phải nghĩa là nói đường lối của đảng dẫn
mọi người vào mây mù v.v....
Bên Văn nghệ, Hoàng Trung Thông mới về làm Thư ký toà
soạn bị ngay mấy vố cũng hoảng.
Khải kể một đoạn đối thoại.
Hoàng Trung Thông: Gay
quá, không biết bây giờ thông qua bài vở bằng cách nào.
Nguyễn Đình Thi: Cứ cho
cậu nào nhát nhất vào ngồi thông qua, chắc là được.
... Khi nghe tôi bảo
“Muốn hay không muốn, chỉ biết văn nghệ sĩ ngại viết, thế là điều không nên”
ông Vũ Cao im, ông Nhị Ca gật gật đầu, còn ông Nguyễn Khải:
-- Giả vờ thôi, chứ nó
vẫn viết đấy.
Nói như Đỗ Chu, chẳng có văn nghệ gì cả đâu. Nó cứ lằng nhằng như thế này
thôi. Một thứ thái cực rồi, người ta đứng trước hai con đường: hoặc là chính
quyền, hoặc là một nền văn nghệ chân chính. Và trong điều kiện lịch sử lúc này,
người ta phải chọn cái cần ngay. Toàn nhân danh đất nước. Đã lấy đất nước mà
nói thì còn ai dám ho he.
Xuân
Quỳnh vừa viết Chuồn chuồn báo bão. Đọc bài thơ cứ có cảm
tưởng là tác giả gọi ra được than phận của chính những người văn nghệ:
gợi ra mọi chuyện lung tung, rồi cũng vì đó mà khổ. Có người (Bằng Việt ?) bảo câu kết “Bão tố lên
rồi mày ở đâu?” hơi ác.
Xuân
Quỳnh cũng nằm trong trường hợp chung của mọi người. Tập thơ mới của
Quỳnh sẽ đặt là Hoa dọc chiến hào. Khổ
thơ cuối bài Tháng năm vốn đầy hoài nghi:
Tình yêu như tháng năm
Cũng mưa nồng nắng lửa
Lòng anh là đầm sen
Hay là nhành cỏ úa ?
Hai câu cuối đã bị đổi
thành
Anh hãy như đầm sen
Anh hãy như phượng đỏ !
... Bọn tôi chỉ mong
tình hình nhẹ nhàng một chút, nới ra một chút. Nới ra để Xuân Quỳnh viết có thể
đặt tên tập là Sóng, mà không sợ là chỉ biết có tình yêu. Nới ra để
ông Chế Lan Viên không cần viết ở cuối bài thơ về anh Trỗi... “Nhằm giặc Mỹ kẻ
thù, ta nổ súng” -.
NGUYỄN MINH CHÂU
Nguyễn Minh Châu
đi chiến trường gần một năm, giờ mới về. Dạo ở nhà, tôi đã nghe Xuân
Thiều kể nhiều chuyện. Thằng ấy là nó tài tử lắm, nó không chịu ở đâu lâu... Nó
có đi hải quân đếch đâu, Kỷ niệm hạm tàu là nó bịa đấy chứ...
Nó phát biểu thì lung tung lắm. Thấy nhà ông gì ở gần cổng thành kia kìa, quét
lại vôi, mới cho một câu: “Tao chỉ thấy thương bát cơm của dân Khu 4 xanh lại
những rau...”. Thế mà nó viết thì bao giờ cũng vừa khéo, ngọt ngào lắm.
Nguyễn Minh Châu
chỉ kể ít chuyện linh tinh.
- Trong những ngày ờ hậu
cứ, chán quá, ngồi đọc đủ thứ. Sao Miền Tây của ông Tô
Hoài viết chán thế! Còn ông Khải, nỗi lo của ông ấy mới thật lạ, trong khi
người ta lo những chuyện mắm muối, thì ông ấy lại lo không biết mấy chục vạn
quân Mỹ sau này về nước sẽ làm những gì.
- Có một cái lớn nhất,
tức là người ta cũng đánh nhau, cũng dũng cảm, nhưng không phải như mình nghĩ ở
nhà. Bây giờ thì chỉ cần viết sao cho lọt.
Thằng lính nó dũng cảm
như thế này. Toàn bộ con người nó là một guồng máy, cái nọ nó ăn sang cái kia,
chằng chịt những dây cua-roa. Thằng làm báo chỉ nói một câu là xong thôi, nhưng
thằng làm văn phải giải thích được lòng dũng cảm của thằng kia, phải cắt nghĩa
được rằng nó hợp lý. Những gì là anh hùng, ghê gớm ở những người khác, đối với
người viết phải được giải thích là bình thường.
- Trước khi thằng lính
đổ máu, nó đã đổ mồ hôi rất nhiều. Đến 90% lính mình bây giờ các thứ trên vai.
Mình trông chúng nó mỗi thằng một cái đòn gánh lại nghĩ giá bây giờ sắp hàng
dọc thì sẽ được một dải đòn gánh suốt từ đây vào Nam Bộ....
- Thống nhất trước sau
cũng chỉ là một ý niệm. Thằng Quang Thọ nó bảo khi nó vào đến trong B, nó trông
anh bộ đội mới thật ra anh giải phóng. Mình thì mình bảo anh đánh lừa anh thôi,
trước sau vẫn thế...
Cái dạo năm 1965, 66,
hồi mình viết Cửa sông, cái chuyện độc lập tự do nó cũng đang còn
mới mẻ, nói thế nào cũng được... Nhưng bây giờ vấn đề nó khác đi rồi.
BƯỚC NGOẶT HÒA BÌNH VỚI
HÀ NỘI
1/11/68. Lại một sự kiện
lớn. Mỹ công bố việc ngừng ném bom miền Bắc hoàn toàn và có hòa đàm. Những buổi
sáng, ông Khải, ông Mai đến, người ta quây quần bàn tán đủ chuyện.
Khải khơi mào:
- Nó như là táo bón ấy,
xón ra một tí là đỏ gay tất cả mặt mũi lên, nhưng mà xón ra được là thích rồi.
Hữu Mai nói như vừa ở
trong Cục ra:
- Thế mới biết càng ngày
càng thấy phục các ông trên, các ông ấy giỏi thật, mình thì mình nhượng lâu
rồi. Vừa rồi xem lại nó chưa ngừng ném bom thì chỉ có thế này thôi này. Đằng
nào cũng thua, nhưng mà chịu ngồi vào bàn đã một lần thua rồi, lại đơn phương
ngừng nữa thì hai lần thua đứt đi còn gì nữa. Mình chỉ cần có thế thôi, còn về
sau thì mình thả cho nó cái gì cũng không ai người ta nói vào đâu được. Ngay
thế giới nó cũng chịu mình đấy nhớ, nó tưởng chỉ ném bom hạn chế là tốt rồi,
mình phải có lại chứ.
Khải lại ngả sang pha
trò
- Bây giờ mặt trận không
biết ai sang nhỉ? Có lẽ chỉ có ông Hiếu. Mình thì có ông nào nữa trên ông Thọ
cơ. Ông Đồng... Bây giờ mà cụ Hồ sang Paris thì cả thế giới nó hoan hô... Thằng
Giôn - xơn phải sang, nó được gặp cụ Hồ là vinh dự cho nó ấy chứ, làm được một
cú lịch sử, giải quyết xong một trong mấy cái bi kịch lớn của nước Mỹ, về chỉ
cần viết cái mê-moa là khối tiền rồi.
Châu:
-- Chắc đọc xong cái
diễn văn ấy về thằng Giôn xơn nghĩ cũng tức hộc máu . Trời sinh Giôn xơn sao
lại còn sinh cụ Hồ.
..
Quốc Viễn bên
Phòng Văn Nghệ kể là nghe đài BBC, thấy nó nói rất nhiều về lời tuyên bố của
Giôn - xơn, về dư luận thế giới.
Sáng nay Vũ Cao, Chính
Hữu đã được gọi lên cục họp. Vậy mà chính thức, vẫn chưa thấy nói gì. Hữu Mai
kể chuyện đứng ở cửa hỏi ông Xuyên, trung tá ở bên nhà thì được trả lời “Không,
đã thấy gì đâu. Đài nó nói đấy chứ. Nhưng mà bên mình làm gì đã có cái gì chính
thức”. Tí nữa vào trong nhà, cái ông hàng xóm ngày ngày vẫn ngật ngưỡng chè
thuốc lá ấy mới ghé tai bảo: “Mấy hôm nay Tổng cục lãnh đạo chuyện ấy ghê
lắm. Chưa có gì thì cấm nói lung tung.”
Nguyễn Khải đệm ngay bây
giờ mà lại còn ngặt nghèo chuyện ấy thì chán thật. Tình hình thay đổi thì cũng
phải nới ra một chút chứ!
Ở các cơ quan khác cũng
vậy. Cơ quan Đài phát thanh chẳng hạn. Ai cũng biết cả, nhưng lại chỉ sợ rằng
người ta tố mình nghe đài địch, nên cứ lờ đi, coi như không biết gì hết. Trong
lúc trò chuyện, bây giờ nhiều khi người ta có cái thói vừa nói chuyện với nhau
xong lại dặn nhau đừng có nói những cái ấy ra --- như vậy là hết sức ngại
nhau sợ nhau phản rồi còn gì ? Nhưng không bàn không xong. Chẳng ai dám nói là
mình biết đầy đủ, biết hết mọi chuyện.
Nguyễn Khải (kể về nhân vật chính của cuốn Hòa Vang mới in): Làm việc với anh Châu lẩy được cái ý
khá hay. Là anh cán bộ miền Nam nó ở trong cuộc rồi, nó đã làm cách mạng
thắng rồi, nên nó không có gì phải giấu mình nữa, thích lắm. Nhân dân miền Nam
phải chống lại địch vì bê bối quá rồi. Theo mình đến nửa đường mà quay về với
nó cũng không được, nó cũng giết sạch. Nhưng đến bây giờ chính tôi (NgK)
vẫn chưa trả lời được câu hỏi này: Tại sao nhân dân miền Bắc không bị nó
đánh trực tiếp mà có thể dũng cảm như thế. Chịu, tôi vẫn chưa giải thích
được, nên tôi cứ lờ đi, hoặc là trong lúc nói chuyện với các ông, tôi cũng cố
gắng xem có cái gì manh nha hiện lên không?
... Lúc sau, cũng những
vấn đề đó, NgMChâu thủng thẳng bảo với tôi. Cứ nói những cái gì
tự anh nghĩ ra thì sẽ tự khắc được chứ còn gì nữa?
CẶP ĐÔI CHÂU KHẢI
Đọc văn học xô
viết, tôi thường nghĩ tới hai trường hợp hai nhà văn Nga I. Ehrenburg và K.
Paustovski. Một người bám rất sát cái làn sóng thay đổi của thời đại đến mức
thành quay quắt. Một người cứ đứng ra ngoài các sự kiện của cuộc đời, “ở cuối
truyện đề năm nào cũng được” lại biểu hiện cái xu thế tiến lên của lịch sử .
Ở đây, cũng có hai
người, họ đều mến nhau, quý nhau, mà lại viết rất khác nhau, đó là Nguyễn Khải
- Nguyễn Minh Châu. Nhiều lần, NgMChâu công nhận Khải là một người thật có tài,
biết cách làm việc, mỗi tác phẩm là kết quả một chuyến đi cụ thể. Biết rất rõ
rằng người ta đang hạn chế, “cái phần mà mình không nên vượt “, đồng thời cố
gắng làm hết sức trong cái chỗ mà mình có khả năng dốc sức ra. Người ta bắt thế
nào thì bắt, mình vẫn gài được cái phần của mình vào trong đó )...
NMChâu nói với tôi,
nhưng cái mà làm cho văn chương sống lâu, còn mãi trong người ta là cái lòng ưu
ái, cái ấy ở Khải hơi thiếu. Sự thực thì văn chương lạ lắm, có khi bệnh chỗ này
mà lại chữa chỗ khác mới khỏi, không phải anh cứ nói tất cả cái hiểu biết của
anh ra, thế là người ta quý đâu. Có khi anh chẳng có gì lạ cả, người ta vẫn
thích.
Tôi cũng phụ họa, đọc Balzac, mệt lắm, đọc mãi không hết được. Còn V.
Hugo chẳng hạn, đọc cứ mê đi, không muốn dứt ra.
- Cậu cứ nghiệm lại
chính cậu thì cậu biết chả gì nữa.
Một khi khác, cũng
NgMChâu bảo, đọc ông Hugo nhiều khi thấy hơi rẻ tiền, ông cứ bố trí từng
khối lổn nhổn. Nhưng mà toàn bộ mà nói, lại thấy ông ấy rất thống nhất.
Cũng từ đó suy ra,
NMChâu cũng không thích ở ông Khải cái chất hùng biện.
- Ông ấy đang say, nhưng mà mình nói thực, say cái món hùng biện
ấy thì gay lắm. Công việc của thằng viết theo Khải là giải thích đời sống,
mà bao giờ đời sống cũng giải thích được, vậy phải giải thích tất cả
trong tác phẩm. Thực ra đâu có phải thế? Có lúc người viết viết bằng một thứ
giác quan thứ sáu, không hiểu sao mình lại viết ra, mà rồi từ đó cứ tuôn
ra, nó là một sự phản ánh cuộc đời hơn là một sự giải thích.
CHUYỆN SAU NGÀY NGƯNG
NÉM BOM
... Ng Khải mới
viết xong Anh hùng thời đại, rồi - không biết đây có phải là
một thói quen của ông ấy - đưa cho khá nhiều người xem. Cảm tưởng chung, vẫn
thấy đầu đề to hơn tác phẩm, trong tác phẩm có những chỗ mà người viết say quá,
bốc quá đi. Có lẽ ông ấy có ý thức trong cái việc sẽ làm một người viết bút ký
chính trị. Bây giờ công việc ấy cũng rất cần thiết. Nhưng liệu có hợp?
Cái việc Mỹ ngừng
ném bom, kéo theo một lô sự kiện về mặt đời sống văn học. Các đoàn kéo vào ầm
ầm trong đó có Hội Nhà văn, báo, nhà xuất bản Văn học. Vĩnh Linh đông quá,
người ta không nhận, trừ có bộ đội và giao thông vận tải, ngoài ra ai
muốn đi phải có lệnh Phủ thủ tướng. Xe của báo Văn Nghệ đi đến
Hà Tĩnh bị tắc đường.
... Nhưng mà cái lớn
nhất, là chuyện tâm lý. Nguyễn Khải nói ngay từ lúc trước ngừng bắn “đi
thì hay lắm, nhưng mà cũng hơi dơ” Tức là lúc gian khổ thì không thấy, bây giờ
yên lành rồi mới lại ló mặt vào.
Người ta đã dự đoán từ
lâu Phạm Tường Hạnh bên Đài TNVN sẽ đi đầu tiên. Bên Hội nhà văn là Tế Hanh. Quả đúng như thế.
Cho đến hôm nay 13/11, vẫn chưa thấy nói gì rằng cơ quan Văn
Nghệ quân đội có thể đi cả. Vì không có xe.
NGUYỄN KHẢI
Tuần vài lần, NgKhải đến
cơ quan, đến theo lối giải trí, theo cái kiểu ông ấy vào mọi phòng, nói đủ mọi
thứ chuyện. Con người thông minh bao giờ cũng chủ động được câu chuyện,
chế giễu được người khác, hoặc lôi người khác vào cái mạch mà mình đang suy
nghĩ, để khơi gợi ở người ta những điểm bổ sung cho mình.
Tôi kể với ông ta
chuyện Mác Các ty. Bà này bảo rằng các trí thức Mỹ cứ định dậy khôn Giôn-xơn,
có biết đâu cái gì mà ông tổng thống ấy ông không biết, chỉ có làm theo cách
nào mới là chỗ ông ấy phải tính. Thế là tí nữa đã thấy ông bô hô ở chỗ
khác, như chính chuyện ấy do ông ta đọc được. Nhưng cũng đã có lần tôi hố to.
Hôm qua 12/11, tôi kể lại một chuyện của Vũ Hạnh ở miền Nam - ông Khải
nghe nửa chừng cho một câu vỗ mặt
- Thôi, ông nên lo viết,
đừng nên kể chuyện. Chuyện của người ta hay thế mà ông kể đâm
lại nhạt đi, mà ông lại cười nữa...
Tôi lặng im.
Một tí nữa, ông ta vừa
xem báo, vừa hát khẽ. Tôi nói đùa: Bây giờ thì ai mà quay ri – coóc- đơ
tiếng nói này lại, thì ông lại giễu người ta đến chết.
- Không, ai dám giễu.
Người ta chỉ giễu người khác khi người ta ở vị trí thua kém hơn. Tôi hay mang
chuyện ông học Nga văn ra trêu vì một chữ cắn đôi tôi cũng không biết... Tôi
giễu người khác cũng vậy. Khi nào mình ở vị trí cao hơn thì mình lại ra
vẻ khiêm tốn. Cho nên ông Thủ trưởng nào kiêu căng với các ông cấp dưới thì
dại.
Có lúc tôi đã ngẩn
ra, vì không biết nói chuyện gì với Ng Khải nữa, thấy ông là lảng.
- Dạo này bạn lờ tôi đi
ghê quá.
Tôi thú thật:
- Có lờ đâu, nhưng mà
chỉ thấy không biết đến nói chuyện gì thôi. Chuẩn bị nói chuyện với anh
độ mươi ngày, đến nơi vừa nói độ vài câu là hết.
Khải im không nói gì.
Với một số người, tôi
chỉ tính nói để mà nói, đang chuyện nọ có thể sọ sang chuyện kia một cách lung
tung không đâu vào đâu cả, mệt quá, tự mình cũng thấy mệt, rồi nói quấy nói quá
gì đấy cho xong. Nói chuyện với Nguyễn Khải, Châu, Đỗ Chu, chỉ đóng vai
nghe thôi, cũng đủ thấy thú.
GẶP MẶT CẤP TRÊN
Thứ năm 14/11, Cục
tuyên huấn - ông Yên và ông Hồng Cư - gặp anh em sáng tác... Tôi nghe thông báo
từ trước nói dứ với Ng MChâu sao không bảo Đỗ Chu đi dự. NgMChâu
cười, đi làm gì, tránh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông Châu này, hôm nọ ông
Hải nói chuyện về tình hình thế giới, ông ấy còn bỏ, lần này NgMChâu đi cho là
may lắm.
... Phần lớn các nhà văn
của tạp chí đều ngồi phía sau lưng ông Yên, riêng ông Châu ngồi ngược
lại. Ông bảo ngồi đây là vị trí cửa tử. Cán bộ chính trị cấp cao bây giờ,
ông nào trông cũng hao hao giống nhau, người béo, cằm hơi chảy xuống, đầu chải
chân phương, và chân thì đi một đôi dép nhựa. Các vấn đề được trình bày không
làm cho một người như tôi ngạc nhiên. Người ta thường kêu về thiếu phương
tiện, nhất là các ông bên điện ảnh, nhiều khi phải làm phim cho cánh Tổng
cục hậu cần, Tổng cục thông tin, hoặc là toàn những hội hè đình đám, chỉ vì họ
có ô tô rước đón. Nguyễn Khải nói về chất lượng, sách nhà xuất bản QĐND xếp khá
dày dặn ở các tủ sách đại đội, vì chẳng có ai xem cả. Không hiểu sao, người ta
rất dễ tự ái. Nhị Ca nhân danh nhà phê bình tạm xếp loại nhà văn theo số lượng bản in từng cuốn sách. Những người
như Hữu Mai, Nguyễn Khải in được đều đặn hơn, vì có thanh thế, loại chân
đất bạt bẹt như Hải Hồ, Xuân Thiều thì hơi khó khăn... Mới hé ra thế, đã lập
tức bị phản ứng lại, sao lại xếp loại người ta như thế. NgMChâu an ủi
Xuân Thiều, mày vẫn hơn tao, tao còn chưa được xếp loại.
vừa tản mạn vừa vón cục. Chỉ tới
cuối năm đó, và qua một hai năm sau, tôi mới bắt đầu có được một số đoạn ghi
tạm gọi là mạch lạc, nay chỉnh lý lại cho gọn và thêm vào các tiêu đề nhỏ rồi tạm gọi là nhật ký theo ước lệ và trình ra dưới đây. Khi đưa những đoạn này lên blog, cũng như các đoạn nhật ký
văn nghệ trước, tôi đinh ninh rằng nếu không phải tất cả thì phần lớn các bạn
đều biết đây là chuyện trong quá khứ -- ở đây là gần năm chục năm
trước -- chứ không phải quan sát và suy nghĩ hôm nay của tôi và những người được tôi nói tới.
ĐỖ CHU
Hai ngày 27 – 28 tháng
10, cùng Đỗ Chu về Bắc Ninh. Chu vừa ở chiến trường ra, kể:
- Mới đầu tao định không
đi. Ông Khải ông ấy mắng mỏ ghê quá, nên tao mới phải đi đấy. Đi thì thấy tiếc
thời gian cũ. Ở Hà Nội sống lông bông quá. Vào đến nơi tao gửi thư luôn cho NXB
Thanh Niên. Các ông vứt mấy cái mà tôi gửi tới đi, chỉ giữ lại Vòm trời
quen thuộc với Một vùng phía Bắc thôi (mấy thằng ấy
chúng nó chửi Sông Hồng sắc đỏ của tao ghê quá!)
Tao cũng thấy giống như
ông Châu ấy, đi qua loa thì viết được. Đi kỹ thế này đéo viết được đâu. Thực tế
nó khắc nghiệt lắm, những thứ mình viết lâu nay chỉ toàn nói dối thôi, thằng
nào viết càng hay lại càng thành ra nói dối tợn.
Đánh nhau không phải
chuyện chơi đâu, thằng Mỹ nó có tri thức lắm. Mày tưởng tượng một thằng lính công
tử như thế, nó trông thấy thằng bé mười bảy nhà mình - hai thằng nhìn nhau,
thằng kia nó trông mình bé quá, đứng như trẻ con, nó không nỡ giết. Thế rồi
phải bắn nhau chứ!
Gặp một thằng lính B
chuồn.
- Thủ trưởng đi đâu em
xin đi đấy.
- Tao ra, mày có ra thì
ra.
Thì nó đang khổ sở, bị
bọn giao liên nó hành hạ, nó trông thấy mình vào mua gạo mua thịt dễ dàng muốn
mua bao nhiêu thì mua -- thế thì làm gì chả sướng! Nó giúp mình đủ thứ. Nó bảo
nó lính giữ B40 đấy, bắn một quả B40 trượt cái M113, vẫn thấy tiếc, không phải
không dũng cảm đâu. Đầu đuôi chuồn chỉ có thế này thôi này: nó có một thằng
bạn, thằng này tự nhiên mất tích, đơn vị cho người đi tìm. Không thấy. Ba ngày
sau, trước lúc xuất kích thì thằng kia mò về, về đến nơi thì nó ngã lăn
ra, không làm việc gì được nữa. Đạn bắn nó mất miếng cằm, cả mặt vết thương
toàn dòi; người thì bị những con ve nó móc vào da, bấu không ra, phải tiêm
thuốc tê mới bắt ra hết được. Đấy, chỉ kinh mỗi thế mà thằng ấy trốn.
Mấy hôm trước Nguyễn
Minh Châu kể, thực tế nó không có khuôn khổ nào hết. Một thằng anh nuôi bữa cơm
ra chốt 40 lần. Chính trị viên bảo cậu chuẩn bị nhận huân chương. Đến lần sau
thì nó đảo ngũ. Ai biết được những gì nó gặp trên đường, toàn những xác Mỹ, xác
mình chết vùi xuống rồi bom nó lại cày lên. Kinh quá. Một thằng đảng viên tuyên
truyền thằng khác vào Đảng, cầm cả giấy xin vào Đảng của thằng kia trốn đi.
Hiện nay, lối viết giàu chất thơ là lối viết dễ ăn nhất, tránh lắm chuyện...
Nhưng mà thực tế, ai cũng chán, nhiều người thấy lối viết như của Khải
còn đỡ.
Chiến tranh quá khắc
nghiệt -- quay lại lời Đỗ Chu - Một thằng bắn B40 bị thương, thằng
tân binh vừa được thằng kia chỉ bảo cho cách bắn, bảo xong thì vừa chết. ”Mày
nghĩ xem, đáng nhẽ lúc ấy người ta phải trối trăng những cái gì khác cơ chứ",
Chu trầm ngâm tự hỏi.
Vẫn lời Chu:
- Những ngày này, càng
thấy rung động lớn về đất nước, cái làm cho người ta chiến đấu được là đất
nước. Đất nước mình ghê thật, thằng Mỹ nó có tổ chức thế, mà mình vượt được nó,
tức là mình phải ghê hơn nữa. Dân ta đang tổ chức nhau lại thành một lực lượng
hùng hậu, hết lớp này đến lớp khác, con người làm được mọi chuyện đấy. Thú
thực, ở đằng sau còn hơi hồ nghi, chứ càng ra chiến trường lại càng tin ở chiến
thắng... Con đường mòn Hồ Chí Minh đấy, từ chỗ bé tí tẹo, đến bây giờ thành con
đường lớn, xe pháo kéo đi rầm rầm, nay mai cả tên lửa cũng vào nữa.
- Tao ở nhiều với TNXP.
Chính bọn này, còn khổ hơn bộ đội, nhiều vấn đề hơn bộ đội. Con người ta khao
khát sống, và sinh lực cũng ghê lắm, cái chuyện nam nữ ấy. Một đứa con gái ngủ
với một đứa con giai trong đại đội, có con rồi, nhưng nó khai là nó ngủ với lái
xe. Lái xe thì biết thế nào mà lần, còn thằng kia cứ sống đó, chả làm gì được.
Một bà chính trị viên đại đội hẳn hoi, ngủ với một ông cán bộ đi qua, có chửa
rồi cứ nhận làm đủ các thứ việc cho thai nó ra mà nó không ra, đến lúc đi
xin một cái bà mường thì bà ấy lại cho thuốc bổ thai mới chết chứ. Đến ngày
tháng, chị ấy đẻ, binh trạm bắt nghỉ công tác chờ kỷ luật, thế nhưng cả bọn con
gái trong đơn vị nó khoái, nó giúp đỡ chị ấy mọi thứ, mỗi ngày đến phiên một
đứa giúp đỡ chị ấy, thì coi như là ngày sung sướng nhất đời, cứ như là vừa được
về phép. Đến hôm cả bọn đang đi làm thì bom bỏ trúng doanh trại, chúng nó ùa cả
về, xem thế nào. Hai mẹ con chết bom luôn, không kịp nhận kỷ luật của binh
trạm.
Nhưng mà đi xem thế là
đủ, chiến tranh thế là đủ rồi, mình mà tiếp tục đi xem nữa là có tội đấy!
Nhàn: Từ lâu, anh
Cao đã nói rằng đây là vấn đề của CNXH -- chính CN XH làm cho vấn đề thêm phức
tạp ra.
Chu: Tất nhiên. Đúng như
thế rồi, cái kiểu tổ chức của mình như hợp tác xã cũng là một thứ gom dân, giữ
dân, một thứ ấp chiến lược đấy.
Vậy thì cái gì làm cho
người ta dũng cảm chịu đựng ư? Có đủ mọi thứ rằng rịt. Một cô giáo ở Quảng Bình
dạy học. Bây giờ người ta ăn gạo Chính phủ hết rồi: dân quân ăn với trận địa bộ
đội, thanh niên xung phong ăn với binh trạm, còn cô ấy chả biết ăn vào đâu, cô
ấy vớ va vớ vẩn. Bọn học trò bảo hay là cô về nhà em ăn vậy. Nhưng rồi cô giáo
vẫn làm việc, vẫn dạy học được. Đấy là thứ kỷ luật của đời sống, của cuộc đời,
không ai có thể thay đổi được.
Câu chuyện hàng
ngày giữa mọi người là những vấn đề chính trị, vận mệnh đất nước, chế độ. Vào
những tháng cuối năm 1968 này, tất cả đều chờ đợi những biến chuyển lớn. Phải
viết như thế nào đây? Hình như ở những người cán bộ chính trị thông thường có
khuynh hướng đơn giản hoá, muốn văn nghệ làm một cái bóng của những người ấy,
máy là giật. Nhưng những người nghệ sĩ có lương tâm nhất, để làm được công việc
mà mình tự nguyện noi theo một cách đầy đủ nhất, đã cố vươn tới những vấn đề
lớn ở tận đáy của nó.
TÌNH HÌNH VĂN NGHỆ
Theo Nguyễn Khải, Cái
gốc[của Nguyễn Thành Long] chẳng có gì, nịnh không nên thân, cho nên mới
khổ sở như thế. Tình rừng thì ghê thật, văn chương chữ nghĩa
có thể làm thay đổi được lòng người.Ông Tuân nhiều khi sống bằng những
giai thoại, đó là một cách làm dáng, cố thêu dệt ra những chuyện không đâu vào
đâu. Thật ra, ở những người nghệ sĩ, vấn đề lòng tin là một vấn đề lớn. Trong Tờ
hoa chẳng hạn, có những chỗ lòng tin lung lay (Cũng như trong Con
nuôi trung đoàn của Phù Thăng có những câu xỏ ác liệt: “cùng lá
cờ đỏ, tuỳ tình hình mà thêm khi thì búa liềm, khi thì sao vàng “)
Đáng lẽ không nên làm to
ra, thì người ta lại cố tuyên truyền rằng văn nghệ sĩ là hay cứng đầu, và phải
cẩn thận. Hơi một tí là thấy kêu. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Liễn được giải ở
báo Văn nghệ, nói tới việc một ông chủ nhiệm xoay xở những bì
đường, cũng bị kêu... Và hình như cả truyện ngắn của Xuân Thiều Tâm sự
chiến sĩ quản tượng nữa. Chẳng phải mượn voi để nói người hay sao đó?
Còn Đường trong mây, có phải nghĩa là nói đường lối của đảng dẫn
mọi người vào mây mù v.v....
Bên Văn nghệ, Hoàng Trung Thông mới về làm Thư ký toà
soạn bị ngay mấy vố cũng hoảng.
Khải kể một đoạn đối thoại.
Hoàng Trung Thông: Gay
quá, không biết bây giờ thông qua bài vở bằng cách nào.
Nguyễn Đình Thi: Cứ cho
cậu nào nhát nhất vào ngồi thông qua, chắc là được.
... Khi nghe tôi bảo
“Muốn hay không muốn, chỉ biết văn nghệ sĩ ngại viết, thế là điều không nên”
ông Vũ Cao im, ông Nhị Ca gật gật đầu, còn ông Nguyễn Khải:
-- Giả vờ thôi, chứ nó
vẫn viết đấy.
Nói như Đỗ Chu, chẳng có văn nghệ gì cả đâu. Nó cứ lằng nhằng như thế này
thôi. Một thứ thái cực rồi, người ta đứng trước hai con đường: hoặc là chính
quyền, hoặc là một nền văn nghệ chân chính. Và trong điều kiện lịch sử lúc này,
người ta phải chọn cái cần ngay. Toàn nhân danh đất nước. Đã lấy đất nước mà
nói thì còn ai dám ho he.
Xuân
Quỳnh vừa viết Chuồn chuồn báo bão. Đọc bài thơ cứ có cảm
tưởng là tác giả gọi ra được than phận của chính những người văn nghệ:
gợi ra mọi chuyện lung tung, rồi cũng vì đó mà khổ. Có người (Bằng Việt ?) bảo câu kết “Bão tố lên
rồi mày ở đâu?” hơi ác.
Xuân
Quỳnh cũng nằm trong trường hợp chung của mọi người. Tập thơ mới của
Quỳnh sẽ đặt là Hoa dọc chiến hào. Khổ
thơ cuối bài Tháng năm vốn đầy hoài nghi:
Tình yêu như tháng năm
Cũng mưa nồng nắng lửa
Lòng anh là đầm sen
Hay là nhành cỏ úa ?
Hai câu cuối đã bị đổi
thành
Anh hãy như đầm sen
Anh hãy như phượng đỏ !
... Bọn tôi chỉ mong
tình hình nhẹ nhàng một chút, nới ra một chút. Nới ra để Xuân Quỳnh viết có thể
đặt tên tập là Sóng, mà không sợ là chỉ biết có tình yêu. Nới ra để
ông Chế Lan Viên không cần viết ở cuối bài thơ về anh Trỗi... “Nhằm giặc Mỹ kẻ
thù, ta nổ súng” -.
NGUYỄN MINH CHÂU
Nguyễn Minh Châu
đi chiến trường gần một năm, giờ mới về. Dạo ở nhà, tôi đã nghe Xuân
Thiều kể nhiều chuyện. Thằng ấy là nó tài tử lắm, nó không chịu ở đâu lâu... Nó
có đi hải quân đếch đâu, Kỷ niệm hạm tàu là nó bịa đấy chứ...
Nó phát biểu thì lung tung lắm. Thấy nhà ông gì ở gần cổng thành kia kìa, quét
lại vôi, mới cho một câu: “Tao chỉ thấy thương bát cơm của dân Khu 4 xanh lại
những rau...”. Thế mà nó viết thì bao giờ cũng vừa khéo, ngọt ngào lắm.
Nguyễn Minh Châu
chỉ kể ít chuyện linh tinh.
- Trong những ngày ờ hậu
cứ, chán quá, ngồi đọc đủ thứ. Sao Miền Tây của ông Tô
Hoài viết chán thế! Còn ông Khải, nỗi lo của ông ấy mới thật lạ, trong khi
người ta lo những chuyện mắm muối, thì ông ấy lại lo không biết mấy chục vạn
quân Mỹ sau này về nước sẽ làm những gì.
- Có một cái lớn nhất,
tức là người ta cũng đánh nhau, cũng dũng cảm, nhưng không phải như mình nghĩ ở
nhà. Bây giờ thì chỉ cần viết sao cho lọt.
Thằng lính nó dũng cảm
như thế này. Toàn bộ con người nó là một guồng máy, cái nọ nó ăn sang cái kia,
chằng chịt những dây cua-roa. Thằng làm báo chỉ nói một câu là xong thôi, nhưng
thằng làm văn phải giải thích được lòng dũng cảm của thằng kia, phải cắt nghĩa
được rằng nó hợp lý. Những gì là anh hùng, ghê gớm ở những người khác, đối với
người viết phải được giải thích là bình thường.
- Trước khi thằng lính
đổ máu, nó đã đổ mồ hôi rất nhiều. Đến 90% lính mình bây giờ các thứ trên vai.
Mình trông chúng nó mỗi thằng một cái đòn gánh lại nghĩ giá bây giờ sắp hàng
dọc thì sẽ được một dải đòn gánh suốt từ đây vào Nam Bộ....
- Thống nhất trước sau
cũng chỉ là một ý niệm. Thằng Quang Thọ nó bảo khi nó vào đến trong B, nó trông
anh bộ đội mới thật ra anh giải phóng. Mình thì mình bảo anh đánh lừa anh thôi,
trước sau vẫn thế...
Cái dạo năm 1965, 66,
hồi mình viết Cửa sông, cái chuyện độc lập tự do nó cũng đang còn
mới mẻ, nói thế nào cũng được... Nhưng bây giờ vấn đề nó khác đi rồi.
BƯỚC NGOẶT HÒA BÌNH VỚI
HÀ NỘI
1/11/68. Lại một sự kiện
lớn. Mỹ công bố việc ngừng ném bom miền Bắc hoàn toàn và có hòa đàm. Những buổi
sáng, ông Khải, ông Mai đến, người ta quây quần bàn tán đủ chuyện.
Khải khơi mào:
- Nó như là táo bón ấy,
xón ra một tí là đỏ gay tất cả mặt mũi lên, nhưng mà xón ra được là thích rồi.
Hữu Mai nói như vừa ở
trong Cục ra:
- Thế mới biết càng ngày
càng thấy phục các ông trên, các ông ấy giỏi thật, mình thì mình nhượng lâu
rồi. Vừa rồi xem lại nó chưa ngừng ném bom thì chỉ có thế này thôi này. Đằng
nào cũng thua, nhưng mà chịu ngồi vào bàn đã một lần thua rồi, lại đơn phương
ngừng nữa thì hai lần thua đứt đi còn gì nữa. Mình chỉ cần có thế thôi, còn về
sau thì mình thả cho nó cái gì cũng không ai người ta nói vào đâu được. Ngay
thế giới nó cũng chịu mình đấy nhớ, nó tưởng chỉ ném bom hạn chế là tốt rồi,
mình phải có lại chứ.
Khải lại ngả sang pha
trò
- Bây giờ mặt trận không
biết ai sang nhỉ? Có lẽ chỉ có ông Hiếu. Mình thì có ông nào nữa trên ông Thọ
cơ. Ông Đồng... Bây giờ mà cụ Hồ sang Paris thì cả thế giới nó hoan hô... Thằng
Giôn - xơn phải sang, nó được gặp cụ Hồ là vinh dự cho nó ấy chứ, làm được một
cú lịch sử, giải quyết xong một trong mấy cái bi kịch lớn của nước Mỹ, về chỉ
cần viết cái mê-moa là khối tiền rồi.
Châu:
-- Chắc đọc xong cái
diễn văn ấy về thằng Giôn xơn nghĩ cũng tức hộc máu . Trời sinh Giôn xơn sao
lại còn sinh cụ Hồ.
..
Quốc Viễn bên
Phòng Văn Nghệ kể là nghe đài BBC, thấy nó nói rất nhiều về lời tuyên bố của
Giôn - xơn, về dư luận thế giới.
Sáng nay Vũ Cao, Chính
Hữu đã được gọi lên cục họp. Vậy mà chính thức, vẫn chưa thấy nói gì. Hữu Mai
kể chuyện đứng ở cửa hỏi ông Xuyên, trung tá ở bên nhà thì được trả lời “Không,
đã thấy gì đâu. Đài nó nói đấy chứ. Nhưng mà bên mình làm gì đã có cái gì chính
thức”. Tí nữa vào trong nhà, cái ông hàng xóm ngày ngày vẫn ngật ngưỡng chè
thuốc lá ấy mới ghé tai bảo: “Mấy hôm nay Tổng cục lãnh đạo chuyện ấy ghê
lắm. Chưa có gì thì cấm nói lung tung.”
Nguyễn Khải đệm ngay bây
giờ mà lại còn ngặt nghèo chuyện ấy thì chán thật. Tình hình thay đổi thì cũng
phải nới ra một chút chứ!
Ở các cơ quan khác cũng
vậy. Cơ quan Đài phát thanh chẳng hạn. Ai cũng biết cả, nhưng lại chỉ sợ rằng
người ta tố mình nghe đài địch, nên cứ lờ đi, coi như không biết gì hết. Trong
lúc trò chuyện, bây giờ nhiều khi người ta có cái thói vừa nói chuyện với nhau
xong lại dặn nhau đừng có nói những cái ấy ra --- như vậy là hết sức ngại
nhau sợ nhau phản rồi còn gì ? Nhưng không bàn không xong. Chẳng ai dám nói là
mình biết đầy đủ, biết hết mọi chuyện.
Nguyễn Khải (kể về nhân vật chính của cuốn Hòa Vang mới in): Làm việc với anh Châu lẩy được cái ý
khá hay. Là anh cán bộ miền Nam nó ở trong cuộc rồi, nó đã làm cách mạng
thắng rồi, nên nó không có gì phải giấu mình nữa, thích lắm. Nhân dân miền Nam
phải chống lại địch vì bê bối quá rồi. Theo mình đến nửa đường mà quay về với
nó cũng không được, nó cũng giết sạch. Nhưng đến bây giờ chính tôi (NgK)
vẫn chưa trả lời được câu hỏi này: Tại sao nhân dân miền Bắc không bị nó
đánh trực tiếp mà có thể dũng cảm như thế. Chịu, tôi vẫn chưa giải thích
được, nên tôi cứ lờ đi, hoặc là trong lúc nói chuyện với các ông, tôi cũng cố
gắng xem có cái gì manh nha hiện lên không?
... Lúc sau, cũng những
vấn đề đó, NgMChâu thủng thẳng bảo với tôi. Cứ nói những cái gì
tự anh nghĩ ra thì sẽ tự khắc được chứ còn gì nữa?
CẶP ĐÔI CHÂU KHẢI
Đọc văn học xô
viết, tôi thường nghĩ tới hai trường hợp hai nhà văn Nga I. Ehrenburg và K.
Paustovski. Một người bám rất sát cái làn sóng thay đổi của thời đại đến mức
thành quay quắt. Một người cứ đứng ra ngoài các sự kiện của cuộc đời, “ở cuối
truyện đề năm nào cũng được” lại biểu hiện cái xu thế tiến lên của lịch sử .
Ở đây, cũng có hai
người, họ đều mến nhau, quý nhau, mà lại viết rất khác nhau, đó là Nguyễn Khải
- Nguyễn Minh Châu. Nhiều lần, NgMChâu công nhận Khải là một người thật có tài,
biết cách làm việc, mỗi tác phẩm là kết quả một chuyến đi cụ thể. Biết rất rõ
rằng người ta đang hạn chế, “cái phần mà mình không nên vượt “, đồng thời cố
gắng làm hết sức trong cái chỗ mà mình có khả năng dốc sức ra. Người ta bắt thế
nào thì bắt, mình vẫn gài được cái phần của mình vào trong đó )...
NMChâu nói với tôi,
nhưng cái mà làm cho văn chương sống lâu, còn mãi trong người ta là cái lòng ưu
ái, cái ấy ở Khải hơi thiếu. Sự thực thì văn chương lạ lắm, có khi bệnh chỗ này
mà lại chữa chỗ khác mới khỏi, không phải anh cứ nói tất cả cái hiểu biết của
anh ra, thế là người ta quý đâu. Có khi anh chẳng có gì lạ cả, người ta vẫn
thích.
Tôi cũng phụ họa, đọc Balzac, mệt lắm, đọc mãi không hết được. Còn V.
Hugo chẳng hạn, đọc cứ mê đi, không muốn dứt ra.
- Cậu cứ nghiệm lại
chính cậu thì cậu biết chả gì nữa.
Một khi khác, cũng
NgMChâu bảo, đọc ông Hugo nhiều khi thấy hơi rẻ tiền, ông cứ bố trí từng
khối lổn nhổn. Nhưng mà toàn bộ mà nói, lại thấy ông ấy rất thống nhất.
Cũng từ đó suy ra,
NMChâu cũng không thích ở ông Khải cái chất hùng biện.
- Ông ấy đang say, nhưng mà mình nói thực, say cái món hùng biện
ấy thì gay lắm. Công việc của thằng viết theo Khải là giải thích đời sống,
mà bao giờ đời sống cũng giải thích được, vậy phải giải thích tất cả
trong tác phẩm. Thực ra đâu có phải thế? Có lúc người viết viết bằng một thứ
giác quan thứ sáu, không hiểu sao mình lại viết ra, mà rồi từ đó cứ tuôn
ra, nó là một sự phản ánh cuộc đời hơn là một sự giải thích.
CHUYỆN SAU NGÀY NGƯNG
NÉM BOM
... Ng Khải mới
viết xong Anh hùng thời đại, rồi - không biết đây có phải là
một thói quen của ông ấy - đưa cho khá nhiều người xem. Cảm tưởng chung, vẫn
thấy đầu đề to hơn tác phẩm, trong tác phẩm có những chỗ mà người viết say quá,
bốc quá đi. Có lẽ ông ấy có ý thức trong cái việc sẽ làm một người viết bút ký
chính trị. Bây giờ công việc ấy cũng rất cần thiết. Nhưng liệu có hợp?
Cái việc Mỹ ngừng
ném bom, kéo theo một lô sự kiện về mặt đời sống văn học. Các đoàn kéo vào ầm
ầm trong đó có Hội Nhà văn, báo, nhà xuất bản Văn học. Vĩnh Linh đông quá,
người ta không nhận, trừ có bộ đội và giao thông vận tải, ngoài ra ai
muốn đi phải có lệnh Phủ thủ tướng. Xe của báo Văn Nghệ đi đến
Hà Tĩnh bị tắc đường.
... Nhưng mà cái lớn
nhất, là chuyện tâm lý. Nguyễn Khải nói ngay từ lúc trước ngừng bắn “đi
thì hay lắm, nhưng mà cũng hơi dơ” Tức là lúc gian khổ thì không thấy, bây giờ
yên lành rồi mới lại ló mặt vào.
Người ta đã dự đoán từ
lâu Phạm Tường Hạnh bên Đài TNVN sẽ đi đầu tiên. Bên Hội nhà văn là Tế Hanh. Quả đúng như thế.
Cho đến hôm nay 13/11, vẫn chưa thấy nói gì rằng cơ quan Văn
Nghệ quân đội có thể đi cả. Vì không có xe.
NGUYỄN KHẢI
Tuần vài lần, NgKhải đến
cơ quan, đến theo lối giải trí, theo cái kiểu ông ấy vào mọi phòng, nói đủ mọi
thứ chuyện. Con người thông minh bao giờ cũng chủ động được câu chuyện,
chế giễu được người khác, hoặc lôi người khác vào cái mạch mà mình đang suy
nghĩ, để khơi gợi ở người ta những điểm bổ sung cho mình.
Tôi kể với ông ta
chuyện Mác Các ty. Bà này bảo rằng các trí thức Mỹ cứ định dậy khôn Giôn-xơn,
có biết đâu cái gì mà ông tổng thống ấy ông không biết, chỉ có làm theo cách
nào mới là chỗ ông ấy phải tính. Thế là tí nữa đã thấy ông bô hô ở chỗ
khác, như chính chuyện ấy do ông ta đọc được. Nhưng cũng đã có lần tôi hố to.
Hôm qua 12/11, tôi kể lại một chuyện của Vũ Hạnh ở miền Nam - ông Khải
nghe nửa chừng cho một câu vỗ mặt
- Thôi, ông nên lo viết,
đừng nên kể chuyện. Chuyện của người ta hay thế mà ông kể đâm
lại nhạt đi, mà ông lại cười nữa...
Tôi lặng im.
Một tí nữa, ông ta vừa
xem báo, vừa hát khẽ. Tôi nói đùa: Bây giờ thì ai mà quay ri – coóc- đơ
tiếng nói này lại, thì ông lại giễu người ta đến chết.
- Không, ai dám giễu.
Người ta chỉ giễu người khác khi người ta ở vị trí thua kém hơn. Tôi hay mang
chuyện ông học Nga văn ra trêu vì một chữ cắn đôi tôi cũng không biết... Tôi
giễu người khác cũng vậy. Khi nào mình ở vị trí cao hơn thì mình lại ra
vẻ khiêm tốn. Cho nên ông Thủ trưởng nào kiêu căng với các ông cấp dưới thì
dại.
Có lúc tôi đã ngẩn
ra, vì không biết nói chuyện gì với Ng Khải nữa, thấy ông là lảng.
- Dạo này bạn lờ tôi đi
ghê quá.
Tôi thú thật:
- Có lờ đâu, nhưng mà
chỉ thấy không biết đến nói chuyện gì thôi. Chuẩn bị nói chuyện với anh
độ mươi ngày, đến nơi vừa nói độ vài câu là hết.
Khải im không nói gì.
Với một số người, tôi
chỉ tính nói để mà nói, đang chuyện nọ có thể sọ sang chuyện kia một cách lung
tung không đâu vào đâu cả, mệt quá, tự mình cũng thấy mệt, rồi nói quấy nói quá
gì đấy cho xong. Nói chuyện với Nguyễn Khải, Châu, Đỗ Chu, chỉ đóng vai
nghe thôi, cũng đủ thấy thú.
GẶP MẶT CẤP TRÊN
Thứ năm 14/11, Cục
tuyên huấn - ông Yên và ông Hồng Cư - gặp anh em sáng tác... Tôi nghe thông báo
từ trước nói dứ với Ng MChâu sao không bảo Đỗ Chu đi dự. NgMChâu
cười, đi làm gì, tránh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông Châu này, hôm nọ ông
Hải nói chuyện về tình hình thế giới, ông ấy còn bỏ, lần này NgMChâu đi cho là
may lắm.
... Phần lớn các nhà văn
của tạp chí đều ngồi phía sau lưng ông Yên, riêng ông Châu ngồi ngược
lại. Ông bảo ngồi đây là vị trí cửa tử. Cán bộ chính trị cấp cao bây giờ,
ông nào trông cũng hao hao giống nhau, người béo, cằm hơi chảy xuống, đầu chải
chân phương, và chân thì đi một đôi dép nhựa. Các vấn đề được trình bày không
làm cho một người như tôi ngạc nhiên. Người ta thường kêu về thiếu phương
tiện, nhất là các ông bên điện ảnh, nhiều khi phải làm phim cho cánh Tổng
cục hậu cần, Tổng cục thông tin, hoặc là toàn những hội hè đình đám, chỉ vì họ
có ô tô rước đón. Nguyễn Khải nói về chất lượng, sách nhà xuất bản QĐND xếp khá
dày dặn ở các tủ sách đại đội, vì chẳng có ai xem cả. Không hiểu sao, người ta
rất dễ tự ái. Nhị Ca nhân danh nhà phê bình tạm xếp loại nhà văn theo số lượng bản in từng cuốn sách. Những người
như Hữu Mai, Nguyễn Khải in được đều đặn hơn, vì có thanh thế, loại chân
đất bạt bẹt như Hải Hồ, Xuân Thiều thì hơi khó khăn... Mới hé ra thế, đã lập
tức bị phản ứng lại, sao lại xếp loại người ta như thế. NgMChâu an ủi
Xuân Thiều, mày vẫn hơn tao, tao còn chưa được xếp loại.
Published on June 09, 2016 20:55
June 6, 2016
Ehrenburg và cuốn hồi ký cuối đời của mình
Khoảng
1965-70, khi tôi mới bước đầu làm quen văn học Nga – xô viết thì cũng là lúc
nền văn học này, sau 50 năm phát triển, bước vào giai đoạn tổng kết, mà một
trong những cách cách tổng kết lôi cuốn nhất là việc các nhà văn dành
nhiều tâm huyết viết hồi ký. Nhờ đó tôi
đã được đọc Chuyện đời
tôi của K Paustovsski, Cỏ lãng quên của V.Kataev, Không ngày nào không viết mấy dòng của Ju.Olesa và nhất là cuốn Con người năm tháng cuộc đời của I.Ehrenburg, một cuốn hồi ký đồ
sộ nó giống như một thứ bách khoa thư của văn học Nga nửa đầu thế kỷ XX.
Sau này tôi đã cùng với các đồng nghiệp khác dịch một số chương
trong cuốn hồi ký nói trên làm
thành tập Những người
cùng thời in ra ở Nxb Văn học năm 1985. Trong
bản in lần đầu này, cuốn sách nhỏ còn được nhà văn Nguyễn Tuân viết cho mấy lời
mở đầu. Tôi hẹn sẽ kể tiếp chuyện này vào một dịp khác, dưới đây là bài giới
thiệu của tôi cho tập Những người cùng thời nói trên và chương mở đầu Con
người năm tháng cuộc đời, nơi
tác giả trình bày quan niệm của mình về hồi ký
Nhà
văn Liên Xô I.G Ehrenburg (1891 – 1967) vốn có một cuộc đời hết sức sôi nổi và
đầy biến động từ trước 1917. Do tham gia hoạt động cách mạng bị lộ, bị đuổi học,
ông đã có dịp qua sống lưu vong ở Pháp, giao du với nhiều nhóm nghệ thuật
đang tập trung ở Paris lúc ấy. Từ những năm
20 trở đi, ông là thông tín viên của nhiều tờ báo Liên Xô, thường xuyên đi lại
giữa các thủ đô lớnTây Âu.
Trước khi về nước tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc,
ông đã có mặt gần như từ đầu đến cuối trong cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha, rồi
có mặt ngay ở thủ đô Pháp khi Paris bắt đầu bị quân phát xít chiếm đóng. Ngay
sau khi đại chiến thế giới thứ hai kết thúc, trên cương vị Phó chủ tịch Ủy ban
bảo vệ hòa bình thế giới, Ehrenburg có dịp
qua thăm nhiều nước: Ba Lan và Tiệp Khắc, Nhật Bản và Ấn Độ, Chi Lê và Hy Lạp,
Thụy Điển và Italia…
Đi tới đâu Ehrenburg cũng tìm hiểu kỹ lưỡng đời sống văn
hóa của con người ở xứ sở mà ông dừng chân. Bạn bè ông là các nhà văn, nhà thơ,
họa sĩ lớn trên thế giới. Nhiều sự kiện trọng đại trong đời sống văn hóa trở
thành việc riêng của ông, cả chuyện bên ngoài sân khấu lẫn chuyện bên trong hậu
trường, ông đều thông tỏ. Bởi vậy, khi Ehrenburg huy động tất cả kinh nghiệm, từng
trải viết ra hồi ký Con người năm tháng, cuộc đời thì trước mắt chúng ta là cả một
quang cảnh rộng lớn của đời sống văn hóa thế kỷ, ở đấy không chỉ có cuộc đời
riêng của ông mà còn có nhiều chân dung con người rất có giá trị. Người viết hồi
ký này vốn có một đầu óc hết sức minh mẫn. Bước đầu làm quen với I. Babel, S. Essenin,
E.Hemingway, những lần gặp gỡ P. Eluard, Brecht, Moravia; một đôi phen cãi nhau
chí tử với Aragon; một dịp khác dẫn J.P Sartre tới thăm một nông trường ở Liên
Xô và trực tiếp làm người phiên dịch trong cuộc trò chuyện giữa Sartre với một
kỹ sư canh nông…
Những sự việc ấy không chỉ được
Ehrenburg kể lại với nhiều chi tiết chỉ một người trong cuộc mới biết mà còn kết
hợp với những nhận xét sắc sảo, nên để lại ấn tượng rất đậm trong lòng người đọc. Sự hiểu biết cặn kẽ của ông với các vấn
đề đặt ra trong đời sống văn hóa Liên Xô cũng như phương Tây, khả năng đặc biệt
cuả ông trong việc phân tích sứ mệnh nghệ thuật và mối liên hệ phức tạp của nghệ
thuật với các hiện tượng xã hội chính trị… đã giúp cho Ehrenburg dựng nên những
chân dung độc đáo của B. Pasternak và A. Fadeev, P. Picasso và V. Maiakovski…
Những
chân dung ấy không chỉ cụ thể sinh động mà còn có sức khái quát sắc sảo.
Trong
khi vẽ nên những chân dung ấy, Ehrenburg đồng thời phát biểu nhiều suy nghĩ của
mình, và dần dà, mỗi lần một ít, phác ra những nét chân dung chính con người
mình.
Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Liên Xô M. Kuznetsov đã
gọi Con
người, năm tháng, cuộc đời là một tiểu thuyết và nghiên cứu tác phẩm của
Ehrenburg trong bối cảnh một ngành tiểu thuyết Liên Xô viết quan trọng là tiểu
thuyết đi sâu vào đời sống nội tâm (xem M. Kuzenetsov – Tiểu thuyết Xô viết, những con đường
và những tìm tòi , M. 1980, trang 136 – 138). Bản thân Ehrenburg đã từng
nói trong chương mở đầu thiên hồi ký của mình:
“Trí nhớ người ta giống như ánh
đèn pha của một chiếc xe đang đi trong đêm, khi thì nó cho thấy hình ảnh một gốc
cây, khi thì một trạm gác, khi thì lại một con người. Nhằm trình bày một cách mạch
lạc và chi tiết về cuộc đời mình, người ta (đặc biệt là các nhà văn) thường lấp
đầy các khoảng trống bằng những dự đoán. Thật khó phân biệt rành mạch đâu là chỗ
hồi ức kết thúc, đâu là chỗ tiểu thuyết bắt đầu”.
Tính chất chủ quan của tác phẩm
là điều ông đặc biệt nhấn mạnh:
“Tôi không phải là người chép sử
vô tư… Đây là cuốn sách viết về mình, hơn là cuốn sách viết về thời đại. Ngay
khi cần miêu tả các sự kiện, tôi cũng không định miêu tả với đầy đủ tính liên tục
về mặt lịch sử, mà chỉ miêu tả nó trong mối quan hệ với số phận bé nhỏ của tôi,
với những suy nghĩ hôm nay của tôi”.
Tính chất chủ quan công khai và
xu hướng tự thú cuồng nhiệt ấy làm cho trang viết của Ehrenburg có cái giọng
như lạnh lùng, thậm chí tàn nhẫn. Khi kể về bản thân, tác giả luôn luôn nói rằng
mình ảo tưởng dễ lầm lẫn, “bề ngoài u ám, song thật ra nông nổi, nhẹ dạ”. Khi viết về người khác, ông thường
trình bày họ như những con người mâu thuẫn, những thực thể phức tạp, hay thay đổi
mà thực ra chỉ thay đổi quanh cái trục tính cách ổn định của mình. Ngòi bút
nghiêm ngặt của Ehrenburg không ngại động chạm đến những chi tiết mà người khác
né tránh. Đây cũng là lý do khiến cho bộ hồi ký của Ehrenburg ngay từ khi mới
in rải rác trên tạp chí Novui Mir, đã là đầu mối của nhiều cuộc tranh luận gay
gắt.
Rất thích sự tinh luyện của tác
giả trong việc dựng nên các chân dung, song nhiều người không thể đồng tình với
ông khi đi vào giải thích các hiện tượng nghệ thuật phức tạp. Mặc dù chủ yếu chỉ
viết về những người đã khuất nhưng nhiều nhận xét của Ehrenburg vẫn làm cho những
người đang sống cảm thấy bị động chạm.
A. Dymchits, một nhà phê bình Xô
Viết rất nổi tiếng, vốn rất quý Ehrenburg thú nhận rằng, sau khi đọc Con
người, năm tháng, cuộc đời thấy tình yêu của mình với tác giả từ nay là
một tình yêu khó khăn. K. Simonov đã cùng đi với Ehrenburg sang Mỹ năm 1946 nói
rằng có nhiều điều ông nhớ khác hắn Ehrenburg, nhưng quyết định im lặng không
tranh luận với tác giả làm gì. Dẫu vậy, ai cũng công nhận quyển hồi ký này có sức
quyến rũ riêng của nó. Nó cung cấp một bức tranh sinh động về đời sống nghệ thuật
nửa đầu thế kỷ XX. Nó cho ta thấy một sự thực là giữa cuộc sống đầy biến động
hôm nay, làm một nghệ sĩ - hơn nữa một nghệ sĩ chân chính, có tư cách - là khó
khăn như thế nào, nhưng cũng thú vị như thế nào! Là sản phẩm cô kết những kinh
nghiệm sống của một con người giàu suy nghĩ, tác phấm cuối cùng của Ehrenburg
thấm nhuần một lòng tin bền chắc vào sức mạnh của con người (đặc biệt là sức mạnh
trí tuệ của họ) và khả năng của con người trong việc hiểu biết thế giới hiện đại.
Bởi vậy, sau khi bảo rằng Con người, năm tháng, cuộc đời có những
trang chủ quan, phiến diện, thậm chí có những chỗ đưa ra một hình ảnh méo mó về
đời sống, hoặc giả dối, che đậy sự thực, song nhiều người vẫn công nhận đấy là
tác phẩm quan trọng bậc nhất trong cuộc đời Ehrenburg: nếu trong toàn bộ những
gì ông đã viết ra chỉ được chọn một cuốn, người ta sẽ chọn Con người, năm tháng, cuộc đời .
B. Polevoi kế rằng đọc hồi ký của Ehrenburg rồi, quay trở lại với những trang
sách trước đây của ông, thấy nhạt hắn đi. Cảm tưởng ấy được nhiều người chia sẻ,
mặc dù ai cũng biết rằng Ehrenburg viết ra thiên hồi ký của mình, khi đã Ở tuổi
70, và sau Con người, năm tháng, cuộc đời tuyệt đối không viết gì thêm nữa.
Trong nguyên bản tiếng Nga, Con
người, năm tháng, cuộc đời là một bộ sách đồ sộ gồm chín quyển, tống cộng
khoảng I.500 trang tiếng Nga khố lớn, làm nên phần chủ yếu của hai tập cuối
cùng trong bộ Tác phẩm 9 tập của Ehrenburg. Tài liệu bề bộn vậy, nhưng thiên hồi
ký lại nhất quán trong một cách viết trong sáng theo kiểu cổ điển. Vừa kể về
mình, Ehrenburg vừa kết hợp kể về người khác. Ai đế lại ấn tượng sâu đậm nhất
trong tâm trí Ehrenburg vào giai đoạn lịch sử nào, ông dành cho người đó một
chương trong phần nói về giai đoạn lịch sử ấy. Cuốn hồi ký do đó, rất dễ theo dõi
và có nhiều chương có thể trích ra, như những chân dung văn học độc lập.
Ngay sau khi bản gốc được in ra ở
Liên Xô Con người, năm tháng, cuộc đời đã được dịch ra nhiều thứ tiếng
khác nhau, trong đó có bản tiếng Pháp do nhà xuất bản Gallimard ở Paris cho in,
bản dịch ấy đã được nhiều nhà văn Viêt Nam tìm đọc từ trước 1975.
QUAN NIỆM CỦA TÔI VỀ HỒI KÝ
Từ lâu, tôi muốn viết về một số
người mà trong đời tôi có gặp; về một số sự kiện mà tôi là kẻ tham gia hay người
chứng kiến. Nhiều lần tôi đã phải xếp công việc lại: khi thì hoàn cảnh ngăn trở,
khi thì trong lòng tôi dậy lên những nghi ngờ. Liệu tôi có tái tạo được hình ảnh
những con người, những khung cảnh đã nhạt nhòa đi cùng năm tháng? Liệu trí nhớ
của tôi có đáng tin cậy? Nhưng bây giờ tôi cứ phải ngồi viết ngay quyển sách
này, không thể trì hoãn được nữa.
Ba mươi năm trời, một trong những
thiên ký sự đi đường, tôi từng viết: "Những ngày hè này, ở Abramtxev (Một điền trang ở thành phố Zugorsko,
tỉnh Moskva, thuộc gia đình Aksakov, ở đó S.T. Aksakov (1791 - 1859) đã đón tiếp
nhiều nhà văn lớn đương thời trong đó có N.V.Gogol VTN chú ), tôi nhìn
lên những cây phong trong vườn và những chiếc ghế bành lặng lẽ. Ở đây Aksakov
đã có thời gian để nghĩ về mọi chuyện. Những lá thư trao đổi giữa ông với Gogol
là một thứ bản kiểm kê không vội vã ghi lại cả lòng người lẫn thời đại. Liệu
chúng ta sẽ để lại sau mình những gì? Hay là chỉ toàn là giấy biên lai "Nhận
một trăm rúp" (viết bằng chữ thường)? Chỗ chúng tôi không có những cây
phong và những chiếc ghế bành; sau khi mệt mỏi vì chạy lăng xăng ở các tòa báo
và hành lang các phòng họp chúng tôi nghỉ trên toa xe lửa hay boong tàu thủy.
Thật ra, mọi việc ở đây có cái lý riêng của nó. Thời gian bây giờ giống như một
chiếc ô tô đua. Và người ta không thể kêu lên với chiếc ô tô đang chạy:
"Dừng lại, ta muốn nhìn ngươi rõ hơn một chút". Chỉ có thể nói về luồng
ánh sáng vút qua từ những ngọn đèn pha của nó. Mà cũng có thể bị ngã xuống dưới
bánh xe ô tô - và đó chính là kết cục."
Nhiều người cùng tuổi với tôi đã
bị những vòng xe của thời gian đè bẹp. Sở dĩ tôi còn sống sót, không phải do
tôi khỏe hơn hoặc nhìn xa thấy rộng gì hơn, mà chỉ bởi lẽ, có những thời, số phận
người ta giống như một thứ xổ số, hơn là những ván cờ với những luật chơi chặt
chẽ.
Tôi cảm thấy mình có lý, khi từ
lâu tôi nói rằng thời đại chúng ta hơi hiếm những chỉ dẫn sống động; ít người
viết nhật ký; thư từ thường ngắn ngủi và thiết thực - "mình vẫn thế, khỏe
mạnh"; các tác phẩm hồi ký cũng ít ỏi. Ở đây có nhiều nguyên nhân và tôi
chỉ muốn nói tới một nguyên nhân mà hình như không phải mọi người đã nhận thức
đầy đủ, đó là chúng ta thường chỉ tranh cãi qua loa với quá khứ của chúng ta để
có thể nghĩ tốt về nó. Trong khoảng nủa thế kỷ, cách đánh giá của người đời về
những con người và sự kiện bao lần thay đổi. Bao câu nói bị ngừng lại giữa chừng,
mọi tư tưởng, mọi cảm xúc, dù không cố ý, vẫn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh. Con
đường đi qua giữa vùng đất hoang, người ta từ những bờ dốc dựng đứng trượt ngã,
rồi lại bám lấy những cành cây nhọn sắc của một khu rừng chết mà trèo lên. Bản
năng tự vệ đôi khi buộc người ta phải lãng quên: không thể tiếp tục đi xa, nếu
luôn luôn nhớ về quá khứ, nỗi nhớ đó nó níu chân ta lại. Từ nhỏ, tôi đã được
nghe câu tục ngữ: “Nhớ lắm chỉ tổ mệt người”, sau đó, tôi càng tin rằng đời
người sẽ rất nặng nề nếu luôn phải kéo lê cả gánh nặng của quá khứ. Ngay cả những
sự kiện làm rung chuyển đời sống các dân tộc, như hai cuộc thế chiến, cũng
nhanh chóng trở thành lịch sử. Các nhà xuất bản ở các nước, giờ đây thường bảo:
“Sách viết về chiến tranh bán không chạy…”. Với các chuyện đã qua, người thì
không thích nhớ lại, người thì không muốn biết tới. Tất cả đều hướng về phía
trước. Điều này cố nhiên là tốt. Nhưng người La Mã không phải hoài công khi thờ
phụng thần Janus (thần canh cửa,
giữ lối ra vào cửa). Không phải như người ta thường nói Janus là kẻ ăn ở
hai lòng, nên có hai bộ mặt. Mà Janus là một vị thần thông minh, một khuôn mặt
của thần hướng về quá khứ, khuôn mặt kia hướng tới tương lai. Ngôi đền thờ
Janus chỉ đóng cửa vào những năm thanh bình, mà trong hàng ngàn năm nay, điều
này xảy ra chỉ có chín lần. Hòa bình ở La Mã là chuyện hiếm hoi. Thế hệ chúng
tôi không giống với người La Mã, nhưng khi nhớ lại những năm ít nhiều yên ổn,
chúng tôi cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Có điều, khác với người La Mã,
chúng tôi cho rằng chỉ nên nghĩ về quá khứ vào thời thiên hạ hoàn toàn thái
bình.
Khi những người chứng kiến yên lặng,
thì nảy sinh huyền thoại. Đôi khi, chúng ta nói “cuộc tấn công vào ngục
Bastille”, mặc dù Bastille không bị ai tấn công, ngày 11 tháng bảy 1789 chỉ là
một ngày bình thường của Cách mạng Pháp; những người dân Paris đột nhập vào nhà
tù một cách dễ dàng, ở đó rất ít tù nhân. Nhưng chính việc chiếm ngục Bastille
trở thành ngày hội dân tộc của nước cộng hòa.
Hình ảnh các nhà văn để lại cho
các thế hệ sau thường mang tính chất ước lệ và đôi khi mâu thuẫn với thực tế.
Cách đây ít lâu, Stendhal còn bị độc giả coi như một người ích kỷ, tức loại người
chỉ tôn thờ những xúc động riêng của mình mặc dù thật ra ông là một người giao
thiệp rộng và rất căm ghét thói ích kỷ. Thông thường người ta cũng cho rằng
Turguinev yêu nước Pháp, ông sống ở đấy khá lâu, lại kết thân với Flaube, nhưng
trong thực tế, ông không thật hiểu và thật yêu người Pháp. Ông coi Zola là dân
ăn chơi đã từng nếm đủ trò tiêu khiển, bằng chứng ông ta đã viết Nana. Có người khi nhớ tới vai trò của
ông trong việc bảo vệ Dreifus, lại nhìn thấy ở ông một nhà hoạt động xã hội, một
diễn giả hết sức nồng nhiệt. Thật ra con người béo tốt và hết lòng lo chuyện
gia đình đó thuộc loại đàn ông đặc biệt đứng đắn, và chỉ trừ những năm cuối đời,
còn nói chung, ông xa lạ với mọi cơn bão tố chính trị làm chấn động nước Pháp.
Đi trên phố Gorki, tôi nhìn bức
tượng đồng kiêu hãnh và lần nào cũng thành thực ngạc nhiên, bởi đây là bia kỷ
niệm Maiakovski; bức tượng không gì giống với con người mà tôi đã biết.
Trước đây, các hình tượng huyền
thoại phải vài chục năm, đôi khi vài trăm năm mới hình thành. Giờ đây, không chỉ
các máy bay nhanh chóng vượt qua các đại dương mà con người cũng trong khoảnh
khắc rời khỏi mặt đất và quên ngay vẻ đa dạng và phức tạp của địa hình. Đôi khi
tôi có cảm tưởng một số tác phẩm đã trở nên nhòe nhạt. Văn học xuất hiện gần
như khắp nơi khắp chốn trong nửa sau thế kỷ XX là có liên quan tới ý muốn biến
thật nhanh ngày hôm qua thành ước lệ. Nhà văn hiếm khi vẽ nên hình ảnh một con
người có thật - một Ivanov Durant hoặc Smith nào đó, nhân vật tiểu thuyết thường
là một thứ hợp kim trong đó trộn lẫn nhiều con người nhà văn đã gặp lẫn những
kinh nghiệm tinh thần riêng, cách hiểu riêng về thế giới của nhà văn đó. Có thể
lịch sử cũng là một nhà tiểu thuyết? Và
đối với lịch sử, những người sống thực là những nguyên mẫu, lịch sử sẽ nhào nặn
họ lại để viết nên những cuốn tiểu thuyết hay có, dở có?
Mọi người đều biết, giữa những
cá nhân cùng mục kích một sự kiện nào đó, câu chuyện mà họ kể lại thường rất
khác nhau. Cố nhiên, dù những nhân chứng đều lương thiện cả, song cuối cùng,
người xét đoán vẫn phải dựa vào khả năng nhìn xa thấy rộng của bản thân. Trong
khi khẳng định rằng mình chỉ miêu tả thời đại một cách vô tư, thật ra những người
viết hồi ký chỉ luôn miêu tả có riêng mình. Nếu chúng ta tin vào hình ảnh
Stendhal, do người bạn gần gũi của ông là P. Mérimé ghi lại, chúng ta không sao
hiểu được vì lý do gì mà một người tầm thường, thông minh và ích kỷ như vậy lại
có thể miêu tả được những dục vọng lớn lao của con người. May thay, Stendhal
còn có nhật ký. Cả V.Hugo, A. Hertxen và I.Turguinev cùng miêu tả cơn bão táp
chính trị bùng lên ở Paris ngày 15 tháng Tám năm 1848, nhưng khi đọc những ghi
chép của họ, chúng ta tưởng như họ nói về những sự kiện khác nhau.
Đôi khi sự khác nhau của các bằng
chứng, rút lại, là do sự không giống nhau của các tư tưởng, cảm xúc. Cũng đôi
khi nó liên quan đến tính hay quên mà thông thường ai cũng có. Mười năm sau cái
chết của Chekhov, những người từng biết rõ ông, Anton Pavlovits, tranh cãi nhau
về chuyện mắt ông màu gì, nâu sẫm, xám hay xanh da trời.
Trí nhớ giữ gìn chi tiết này, nhưng
lại bỏ qua chi tiết khác. Tôi nhớ rât tỉ mỉ một số chuyện hồi tôi nhỏ và mới lớn
lên, mà toàn những chuyện không quan trọng, cũng như tôi nhớ một số người này
và quên bẵng đi một số khác. Ký ức của người ta cũng giống như ánh đèn pha ô tô
đang đi trong đêm, khi thì nó cho thấy một gốc cây, khi một trạm gác, khi một
con người. Nhằm trình bày một cách mạch lạc và chi tiết về cuộc đời mình, người
ta (đặc biệt là các nhà văn) thường lấp đầy các khoảng trống bằng những dự
đoán; thật khó phân biệt đâu là chỗ hồi ức thực thụ kết thúc, đâu là chỗ tiểu
thuyết bắt đầu.
Tôi không định kể một cách khúc
chiết đầy đủ về quá khứ. Tôi vốn thù ghét việc trộn lẫn điều có thực với hư cấu,
vả chăng tôi đã viết nhiều tiểu thuyết, trong đó, những hồi ức riêng tư dùng
làm tài liệu cho những ức đoán khác nhau. Tôi sẽ kể về những con người riêng biệt,
về những năm tháng khác nhau, chúng luân phiên gợi lên trong tôi những suy nghĩ
về quá khứ. Đúng ra, đây là một cuốn sách nói về mình hơn là về thời đại. Cố
nhiên, tôi sẽ kể về nhiều người mà tôi có biết - các nhân vật chính trị, các
nhà văn, các họa sĩ, những người mơ tưởng và những kẻ phiêu lưu, tên tuổi một số
người trong họ đã quen biết với mọi người. Nhưng tôi không phải là một người
ghi sử biên niên một cách vô tư, mà đây chỉ là mong mỏi dựng nên một số chân
dung. Còn những sự kiện, dù lớn lao hay bé nhỏ, tôi cũng định miêu tả chúng
không phải theo trình tự lịch sử của chúng vốn có, mà là trong quan hệ của
chúng với số phận nhỏ bé của tôi, với những suy nghĩ hôm nay của tôi.
Tôi không bao giờ ghi nhật ký.
Cuộc sống lại luôn xáo động, và tôi không còn giữ được thư từ của bạn bè - hàng
trăm lá thư đã bị thiêu đốt khi bọn phát xít chiếm Paris và sau đó nhiều thư bị
hủy hơn là được cất giữ. Năm 1936, tôi có viết tiểu thuyết Cuốn sách dành cho người lớn; so với nhiều tiểu thuyết khác của
tôi, nó có chỗ khác là một số những chương mang tính chất hồi ký. Một ít điều
trong cuốn sách in từ lâu này sẽ được tôi lấy lại.
Một số chương bạn đọc sau đây được
tôi coi là in ra quá sớm vì trong đó kể về những người đang sống hoặc những sự
kiện chưa đủ ý nghĩa lịch sử. Tôi sẽ cố gắng quên đi nghề nghiệp của người viết
tiểu thuyết, nghĩa là tránh cố ý làm méo mó những con người và sự kiện ấy.
Đá luôn luôn lạnh về bản chất,
nó thật khác với thân thể con người, nhưng từ thời tối cổ, các nhà điêu khắc đã
thích lấy cẩm thạch, hoa cương và kim loại - đồng - để khắc họa hình ảnh con
người. Chỉ khi nảy ra ý muốn trang trí cho nhiều hình nhiều vẻ, họ mới tìm tới
gỗ, mặc dù, cố nhiên, gỗ gần với da thịt con người hơn. Đá có sức quyến rũ, bởi
lẽ, làm việc với nó rất khó, thêm nữa, nó lại trường tồn. Trong các viện bảo
tàng thường thấy hàng loạt pho tượng bằng đá, nhiều tượng thật đẹp, dù chúng vẫn
lạnh. Nhưng đôi khi các tượng này nồng ấm sinh động hẳn lên nhờ con mắt của những
người tới thăm bảo tàng. Tôi cũng muốn dùng cặp mắt biết yêu để làm sống lại một
ít đoạn quá khứ đã đông cứng, và để đến gần với độc giả hơn nữa. Bất kỳ quyển
sách nào cũng là lời tự thú, và quyến sách hồi ức thì chính là lời tự thú mà
tác giả không có ý giấu mình dưới cái bóng của các nhân vật hư cấu.
Published on June 06, 2016 01:08
May 29, 2016
Tô Hoài, người mang lại một cách hiểu hiện đại cho thể hồi ký
Những năm 1975 về trước, Tô
Hoài thường bị một số nhà văn cùng lứa tiền chiến gọi là gã dân
ngoại ô tinh quái và văn chương ông thì được mô tả như là một thứ văn
chương thợ thủ công đẽo gọt. Điều đó không phải là không đúng với những
trang sách tác giả Dế mèn viết để
kiếm sống. Nhưng với thể hồi ký thì có khác. Trong thể tài này ông đã đạt
tới một quan niệm hiện đại mà người ta thấy ở các bậc thầy văn chương phương
Tây thế kỷ XX.
Cuộc tự phát hiện đều đều
Cuốn hồi ký đầu
tiên của Tô Hoài mang tên Cỏ dại
(1944) ra đời năm ông mới ngoài hai mươi tuổi. Tự truyện (1973)
cuốn tiếp theo in ra khi ông ở tuổi năm mươi.
Nếu cuốn thứ nhất đã phát hiện ra
khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá khứ ngay khi nó vừa hình thành cũng
như khách quan hoá bản thân, biến mình thành một đối tượng miêu tả thì cuốn thứ
hai cho thấy ông sống kỹ lưỡng biết bao với đời sống quanh mình từ chuyện riêng
tư đến chuyện làm nghề rồi chuyện hoạt động cách mạng -- cái
gì cũng có thể đưa lên trang giấy để trở thành văn chương, sức chứa của đầu óc ông thật hơn người mà sự
chi li tỉ mỉ thì lại ít ai bì kịp. Nên lưu ý thêm Tự truyện --- với mấy mảng chính Một chặng
đường, Hải Phòng, Những người thợ cửi -- được viết ngay trong những năm chiến tranh
khi mọi người đang viết những Mặt trận trên cao, Họ đã sống và chiến
đấu, Đường chúng ta đi,
Dấu chân người lính... Trong cái động có cái tĩnh, dường như trong
kho văn chương của tác giả luôn có một
góc riêng dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được ông quan niệm
như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại.
Tuy nhiên phải đến khi Cát bụi chân ai (1991) và tiếp đó Chiều
chiều (1999 ) ra
đời thì ngòi bút hồi ký của Tô Hoài mới
thật có dịp tận thu những chuyện đã sống qua để rồi dựng lên một bức tranh văn
nghệ độc đáo.
Còn nhớ hồi đó là cuối những năm tám mươi. Mọi người dường như đang phải
mò mẫm tự xác định hướng đi của mình
trong việc thích ứng với cái thời gọi là kinh tế thị trường. Tô Hoài
cũng ở trong số đó. Mà -- mọi người tự hỏi --hình như ông lại là một trong những
người đã ăn lộc quá nhiều của cái thời
bao cấp ấy nữa, ở tuổi bảy mươi, liệu ông sẽ xoay sở ra sao hay sẽ chìm vào quá
khứ. Lẳng lặng, Cát bụi chân ai được viết để rồi gây ra nhiều ồn ào khi
được trích đăng trên báo Tiền phong và in thành sách. Trong lòng bạn đọc
và nhất là trong lòng đồng nghiệp Tô Hoài như vừa tái sinh để trở lại với cái
con người thực chất mà ông vẫn giấu kín.
Điều thú vị là ở chỗ cuốn sách để Tô Hoài tự phát hiện lại này bề ngoài là một cuốn sách quay đầu về với cái cũ.
Cái đời sống sắp tới chẳng có gì là lạ
với tôi. Tôi đã có cái nhìn khác từ lâu
rồi. Thời nào thì tôi vẫn cứ là tôi vậy. Có một quá khứ chưa ai biết của tôi bảo đảm cho điều đó... Tô Hoài không nói hẳn ra song người ta đọc ra
trong trang viết của ông những ý tưởng ấy. Cuốn sách kể lại chuyện cũ hoá ra
lại là một lời tuyên bố về sự gia nhập
của tác giả vào tương lai và như vậy thì mọi sự phân biệt hồi ký với cuộc đời
hôm nay chỉ là một sự ước lệ.
Sự nối tiếp của một
mạch sáng tác dồi dào
Đóng góp của Tô Hoài trong văn xuôi Việt Nam hiện đại gồm hai mảng, một bên là O chuột, Quê
người, Dế mèn phiêu lưu ký, bên kia là Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Mười
năm, Quê nhà...Dù khác nhau không
chỉ về cách khai thác đề tài mà cả chất lượng, song hai mảng vẫn có một sự
thống nhất. Nhà văn này không lôi cuốn chúng ta ở những mảng sống bạo liệt hay
những nhân vật tầm vóc thổi bùng lên những biến động lớn lao. Mà ông ăn ở những
nhận xét tự nhiên về những gì đã gặp đã trải,
và trong nhiều trường hợp, là cái vẻ tầm thường nhếch nhác trong con
người và hoàn cảnh: cuộc sống một làng nghèo, đời sống riêng của những người
ngoại thành có khôn có dại có vui có buồn, hoặc những người dân vùng cao chỉ
vừa ra khỏi bóng tối âm u của cái xã hội
do các loại thống lý phìa tạo cai quản.
Hồi ký của Tô Hoài cũng đi theo cái mạch đó. Ở đây ngòi bút phong tục
của tác giả lại có dịp làm việctưởng như âm thầm nhưng thật ra khá đáo để.
Không cần ra vẻ bao quát với tổng hợp gì cả, ông chỉ nhẩn nha ghi lại nhiều
chuyện tưởng như riêng tư, ấy vậy mà người ở mãi đâu đâu đọc vào lại thấy có
mình trong đó. Đọc lại Cỏ dại rồi lan man đọc sang cả những truyện ngắn
truyện dài Tô Hoài viết cùng thời người ta thấy giữa chúng không có sự phân
cách. Dường như tất cả những anh Thoại anh Quyền Vực thày giáo Câu rồi cô Lụa
cô Ngây.. kia là những hàng xóm của Tô
Hoài, những con gà con ngan được tả trong O chuột là được nuôi trong nhà
Tô Hoài, nghĩa là nếu không đưa chúng vào truyện dài truyện ngắn thì không biết
chừng có lúc ông sẽ đưa chúng vào hồi ký. Một bộ phim truyền hình làm về Tô
Hoài gần đây rất gợi ấn tượng trong cảnh Tô Hoài đi dọc bức tường ngôi nhà của
ông ngoại tác giả. Cũ kỹ xù xì nhưng đằm chắc vững chãi, những bức tường như
thế tượng trưng cho cái cuộc sống mà Tô Hoài vừa nương tựa vào vừa tìm cách
thâm nhập để tìm thấy cảm hứng trong suốt đời viết.
Trong phần đầu Một chặng đường, Tô Hoài có đoạn tả kỹ cái cảnh mình lẽo đẽo đi dọc các chùa,
từ Trầm vào Trăm Gian vừa kiếm ăn vừa
lấy thực tế để viết. Tôi nhớ ngay khi hồi ký mới in ra trên tạp chí Tác phẩm
mới cuối năm 1971, đã có người ( không nhớ là Nguyễn Thành Long hay Nguyễn
Khải ) nhận xét đó là những đoạn rất hay, có điều nó có vẻ không ăn nhập với cả mạch văn và chưa chắc đã là cần cho cuốn
hồi ký của một nhà văn nổi tiếng. Nhưng chính đọc Tô Hoài người ta lại không
bao giờ quên nổi những mảng đời bơ vơ ấy. Trong Chiều chiều có đoạn tác
giả kể lại một ông già với con chó tự bản thân nó đã hoàn chỉnh như một truyện
ngắn. Những chi tiết đời thường ở đây là kết quả của một quá trình sống chăm
chỉ biết điều không nống việc gì lên quá mức bình thường, nhưng không bỏ qua
những chi tiết có sức gợi sức liên tưởng. Bí quyết của việc viết văn là gì nếu
không phải là biến những chuyện vốn chỉ thuộc về riêng tác giả thành chuyện của
những bạn đọc khác nhau.
Tóm lại đặc điểm thứ nhất của hồi ký Tô Hoài là sống đến đâu viết đến
đấy. Thực tế không ở đâu xa, thực tế là ngay chính con người bản thân mình và
chung quanh; băn khoăn mà làm gì, cứ ghi cứ tả cho kỹ là được. Từ 1961, Tô Hoài
đã cho biết :
--- Một
thời gian dài cho tới sau Cách mạng tháng Tám tôi vẫn theo đuổi một lý luận
viển vông như thế này: Đời có gì gò vào truyện đâu, người có ai cốt sống cho li
kỳ đâu, vậy thì viết truyện chẳng cần có truyện, tả người càng nhạt càng hay.
Tất cả chỉ dựa vào kỹ xảo dùng chữ (Một số kinh nghiệm viết văn của tôi
).
Tác giả tự nhận đó là thứ lý luận viển vông song không phải là trong đó
không có một phần cái lý riêng : những cái tưởng như nhạt nhẽo mà tả ra được
cũng là khó và biết đâu ở cái chỗ không ai dám đi vào này, người có tài lại dựng nên cả một văn nghiệp.
Giới văn chương nhìn
từ bên trong
Nếu như ngoài đời đã không ai tách rời được con người nhà văn với con
người bình thường thì trong hồi ký càng là như vậy. Sự hình thành một đời văn
bắt đầu sớm hơn rất nhiều so với thời điểm con người cầm bút cho in những trang
viết đầu tiên và có lẽ chính các nhà văn đã thấy rõ điều đó. Vì thế mà nhiều
tác giả đã lấy đoạn đời thơ ấu mở đầu cho hồi ký của mình. Trong Đời viết
văn của tôi (Nguyễn Công
Hoan), phần viết gọi là Ảnh hưởng dành hẳn để kể về những ngày đi học
khờ dại mà cũng lêu lổng của tác giả, những trang viết cũng hóm nghịch và đầy
thú vị như những trang kể về nghề ở các phần sau. Còn Hồi ký (Đặng Thai
Mai) thì gần như chưa nói gì về con
đường tác giả đi sâu vào việc cầm bút cũng như giới trí thức mà tác giả là một
thành viên; ngược lại lấp đầy mấy trăm trang sách ở đây là sự hình thành của
một tính cách trong thuở ban đầu của nó,
khi một nền văn hoá tàn lụi còn một nền văn hoá khác lại bắt đầu.
Tuy nhiên cái mà người ta trông đợi ở một cuốn hồi ký vẫn là cái
phần liên quan đến nghề nghiệp của tác
giả trên cái nền chung của xã hội mà nghề đó có quan hệ. Có lẽ vì vậy mà trong
khi một số cuốn từ điển tiếng Việt thông thường chỉ giải thích hồi ký là kể
lại những sự việc đã chứng kiến thì có cuốn nói rõ hơn đây là “thể văn thuật
lại theo thứ tự thời gian những sự việc mà tác giả đã trải qua hoặc chứng kiến
một phần nào trong mối liên hệ với thời đại “. (Nguyễn Văn Đạm Từ điển tường
giải và liên tưởng tiếng Việt 1998 ). Nói cụ thể là nếu trước mắt tôi là
một nhà văn thì một cách rất tự nhiên khi đọc hồi ký tôi muốn biết nhà văn ấy
đã đến với nghề ra sao, ông ta gửi đăng bài vở ở báo nào, đã có sách in ở những
nhà xuất bản nào, từ đó quen biết những ai, những nhà văn đồng nghiệp đã để lại
trong ông những ấn tượng như thế nào và bao quát hơn cả là ông nghĩ thế nào về
giới văn chương đương thời vai trò của giới này trong đời sống.
Điều đó lại càng đặt ra với một nhà văn từng trải như Tô Hoài.
Khi mới in ra lần đầu Cỏ dại chưa được gọi là hồi ký. Lúc cần
trích dẫn các nhà nghiên cứu thường chua bên cạnh đầu đề hai chữ lửng lơ hồi
ức nó không hẳn là sự xác định thể loại của tác phẩm.
Đương thời có một cuốn sách cũng có cách viết gần gũi với Cỏ dại và
ra đời trước Cỏ dại ít lâu đó là Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng, thì tác phẩm này lại có khi ghi hẳn hoi là tiểu thuyết và điều đó có cái
lý riêng của nó.
Tại sao như vậy ?
Chẳng những từ trước đến nay không có mà từ nay về sau cũng không có một
văn bản nào quy định thế nào là hồi ký và nhất là ai được viết ra nó song người
ta vẫn hiểu ngầm với nhau nó là một thể loại hết sức cao quý một cái gì chỉ
những nhân vật nổi tiếng trong xã hội
mới có quyền viết.
Theo ý nghĩa này Tự truyện in thành sách lần đầu 1973 mới được chờ
đón như một hồi ký thực sự. Đúng hơn nó đóng vai trò một nhân tố tổ chức toàn
bộ mảng văn xuôi hồi ký của Tô Hoài nói chung nhờ có nó mấy thiên hồi ký viết
về tuổi thơ của Tô Hoài có thêm lý do tồn tại. So với Cỏ dại, Mùa hạ đến mùa xuân đi, Những người thợ cửi thì
mấy trăm trang Một chặng đường (bộ phận nòng cốt của Tự truyện ) có nhieuf trang tả Tô Hoài
hoạt động cách mạng. Song lại còn rõ hơn là phần con người Tô Hoài trong văn
chương. Đi vào hậu trường thì bao giờ chẳng vui nhưng đây là cái vui riêng kiểu
Tô Hoài. Đồng thời với việc háo hức làm nghề, ông nhận ra rất nhanh những sự
nhếch nhác ở mình và các đồng nghiệp.Trong cái khu vực thiêng liêng này lẫn lộn
bao nhiêu cái tầm thường. Nhiều nhân vật quen thuộc trong văn chương như Vũ
Đình Long Vũ Ngọc Phan Nguyễn Bính, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Huyền
Trân... hiện ra gần gũi với tất cả những mưu mẹo kiếm sống những thành kiến cố
chấp cùng những luộm thuộm trong sinh hoạt nhưng lại thực sự là tài hoa là có
đóng góp cho văn học. Đến Cát bụi chân ai thì lại càng rõ là Tô Hoài có
cái mặt hàng riêng của mình. Trên cái nền chung của đời sống mấy chục năm vừa
chiến tranh vừa hoà bình bao nhiêu cuộc đi bao nhiêu đợt sinh hoạt đợt đấu
tranh tư tưởng hồi 1956-57, hình ảnh một
loạt người cầm bút một thời hiện lên với
đủ mọi chuyện vui vầy có thê thảm có như những kiếp người xưa nay vẫn vậy.
Cuộc phiêu lưu thầm lặng
Hãy đối mặt
với thời gian -- Như nó tìm kiếm chúng ta. Câu thơ đó của Shakespeare được Stefan Zweig dùng làm đề
từ cho tập Thế giới hôm qua nhưng có lẽ là đúng cho cả thể hồi ký nói
chung. Nếu không sợ sái, có thể bảo đây là
thể văn nhiều người viết để chuẩn bị xuống mồ (Chateaubriand còn gọi hồi
ký của mình là Hồi ký từ bên kia thế giới
và khi viết
xong, ông đã mang bán nó cho một hội văn
học với điều kiện chỉ được phép xuất bản sau khi ông mất). “Nghĩa tử là nghĩa
tận”, một cái nhìn về quá khứ thường khi được hiểu là đồng nghĩa với một sự
dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật không lấp liếm không e ngại. “Tôi lật con bài
của tôi “-- Khi nói vậy Aragon
chỉ diễn ra thành lời cái điều người khác ấp ủ. Riêng đối với tâm lý người Việt
Nam
thì đòi hỏi lại có phần hơi khác. Nghĩ tới việc viết hồi ký nhiều người hiểu
ngay rằng đấy là một dịp tổng kết đời mình một dịp tính sổ. Có phải ai cũng có
dịp đứng ra mà khái quát về mình đâu ? Nếu biết viết cho đàng hoàng để cho
trang viết lên hết tầm vóc của con người mình thì tức là tạo được khuôn mặt
riêng trước con mắt của hậu thế. Vậy đấy, trong khi sống và làm việc cho bạn
đọc hôm nay thì nhiều người viết đã bắt đầu nghĩ tới việc dựng cho mình một tấm
bia đá và tự cho mình cái quyền nói lên
tiếng nói cuối cùng.
(Chẳng phải ở Việt Nam
mà ở nhiều nước vẫn có những nhà văn mắc bệnh tự mê. Với họ khi viết tự truyện
thì không phải chỉ quan tâm tới việc tái hiện quá khứ...mà
là “dựng lên dấu ấn muôn đời của bản
thân vượt qua thời gian và ký ức cá nhân” --- dẫn theo Đặng Thị Hạnh Một vài gương mặt
văn xuôi Pháp thế kỷ XX -- NXB Đà
Nẵng 2000 ; các trích dẫn từ văn học phương Tây nói trong bài đều lấy từ sách
này )
Nhưng có lẽ chính cái sự gán cho hồi ký một ý nghĩa quá lớn ấy đã khiến
cho mọi người sinh ra ngại ngần nhiều lần tính chuyện bắt tay viết lại đời mình
rồi lại không bao giờ viết nổi. Một cách tự phát, Tô Hoài nghĩ khác. Sẽ chẳng
có gì là sai nếu bảo rằng được ông nói tới trong hồi ký này là những cây bút
thuộc loại nhân vật chính của một thế kỷ văn chương và bối cảnh câu chuyện ở
đây lại là những sự kiện lớn lao cũng tức là cả mảng tài liệu ngổn ngang mà
những ai quan tâm đến lịch sử đều muốn biết. Thế nhưng như chính tác giả đã mấy
lần gài sẵn “Có lẽ xưa nay văn nghệ văn nghẽo vẫn thế bảo là cần thì cần lắm
mà là thường thì cũng thường thôi “ ( Cát bụi chân ai) hoặc “Công việc văn nghệ ngày rộng tháng
dài có có không không cứ đều phảng phất hiu hiu” ( Chiều chiều ), sở
dĩ tôi viết vì tôi đã sống với những chuyện này cả một cuộc đời, chứ thực tình
mà nói, đâu phải là chuyện ghê gớm gì. Cái ý tưởng “viết hồi ký như vẫn viết
văn xuôi “ đã hình thành từ hồi Cỏ dại hoá ra là một sự giải phóng khỏi
mọi ràng buộc. Ông không đặt vào sách quá nhiều ý nghĩa như những người khác.
Con người vốn không biết sợ là gì này đôi khi lấy ngay cả chính bản thân ra để
đùa bỡn.Trong khi mọi người thích đưa ra tiếng nói cuối cùng về đời mình về đời
những con người mà mình đã gặp trong quá khứ, thì ông chỉ cố nói những điều vừa
nghĩ hôm nay, đồng thời để ngỏ khả năng mai kia mình có thể nghĩ khác mà mọi
người càng có thể nghĩ khác. Có cảm tưởng rằng viết hồi ký với tác giả đầy khôn
ngoan này giống như những bước dò dẫm trên chính quá khứ. Ngay trong trang viết
ông vẫn đang đi tìm. Trước mặt ông là một khối mù mờ ông đi vào đó với tấm lòng
rộng mở. Ngay cả quá khứ của mình cũng vậy, -- mà hình như càng là quá khứ của
mình thì càng như vậy, ông phải mò mẫm ông phải kiểm chứng ông phải đuổi bắt. Biết
chắc rằng những định kiến hôm qua vẫn chưa buông tha ngòi bút, ông không hề hứa
rằng mình nói thực tất cả, ông chỉ cố
gắng nói ra điều có thể nói.
Vẻ lung linh chờn vờn của cái thực
Một khía cạnh nữa tạo nên sự hấp dẫn của ngòi bút hồi ký Tô Hoài là ở
quan niệm của ông về cái thực một điều hết sức thiết cốt với hồi ký.
Những ai từng đọc Vợ chồng A Phủ hẳn nhớ một cảnh ở phần mở đầu khi
cô Mỵ bị trói. Văn Tô Hoài giỏi tả những cái lửng lơ “Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra
đã mấy năm.Từ năm nào không nhớ cũng không ai nhớ “. “Trong bóng tối Mỵ đứng im
như không biết mình đang bị trói “. Rồi đến câu “ Buổi sáng âm sâm trong căn
nhà nhỏ“. Âm sâm là gì, không thấy từ điển nào giải thích, nhiều người
chỉ mang máng hiểu, sau khi thầm đoán là do Tô Hoài đặt ra. Nhưng cái hồn của
cảnh thì họ lại cảm ngay được và tin chắc rằng cảnh ấy thì phải dùng đến chữ ấy để tả. Cuộc đời hiện ra
trong văn xuôi Tô Hoài nói chung và của hồi ký Tô Hoài nói riêng thường mờ mờ ảo ảo mà đến Cát bụi chân ai thì
cái mờ mờ ấy đã trở thành một thứ khí hậu của tác phẩm. “Như người ốp đồng
không biết đương còn tỉnh hay đã mê “ --
nói về Nguyên Hồng mà như tác giả đang nói về mình. Sự lan man vốn
là một
cái duyên của văn xuôi Tô Hoài.
Song phải thấy sự lan man ấy có liên quan tới cái chất tập mờ của quá
khứ và ở chỗ đó, Tô Hoài tiếp cận với một quan niệm hiện đại về hiện thực. Một
ví dụ, nhân nói về cuốn tự truyện Vườn bách thảo của Claude Simon, một
nhà phê bình Pháp sau khi bảo rằng hồi
ký là để “ kể về một cuộc đời “, ngay lập tức
nói thêm rằng “ vốn dĩ cuộc đời đã không bao giờ là một
quỹ đạo thẳng tắp có định hướng đều đặn
mà là một mớ bòng bong những mẩu đất và những mảnh vụn luôn luôn được
trí nhớ tổ chức lại và biến đổi đi “.
Một cách tự nhiên Tô Hoài đi gần tới những quan niệm như vậy mà không
hay biết.
Trước khi có cuốn Chiều chiều, từ hơn năm chục năm trước khi đang viết những
truyện ngắn đầu tay Tô Hoài đã mấy lần
lấy cảnh chiều hôm để hình dung ra cuộc đời những là Hết một buổi chiều
lại đến Buổi chiều ở trong nhà. Tới Cát bụi chân ai, cái khoảng
thời gian nhá nhem chạng vạng này còn trở lại nhiều lần. Những buổi gặp nhau ở
cửa hàng cà phê bít tết dốc Hàng Kèn thường bao giờ cũng là vào lúc thành
phố lên đèn. Cho đến những dịp ghé vào
quán Tiểu Lạc Viên hay các hàng quán trên mạn Hàng Buồm, thì thường cũng là sau
một ngày dài họp hành mệt nhọc ( lúc này đang trong đợt học tập ở Ấp Thái Hà ).
Cảnh trời mưa và bóng tối ở đây vốn tiện cho người ta nghĩ ngợi. Có dễ so với
những cái sáng tỏ ban ngày thì cái mờ mờ
ấy của cuộc sống ban đêm lại làm cho những mảng ký ức mông lung và sống động
hơn mà tâm tình trở nên ngổn ngang và bối rối hơn. Cũng như Nguyễn Tuân, Tô
Hoài là người hay hồi tưởng. Hồi tưởng thế nào? Có lần từ người đàn bà mặt buồn
rười rượi trong cửa hàng cà phê Ca, Tô Hoài thấy hao hao như là người con gái
ngày xưa ở nhà gác dốc Cổ Ngư mà sáng nào cậu bé Nguyễn Sen cũng đi học qua.
Nhưng ông chỉ dừng lại ở đó. “Không hỏi có phải trước kia nhà bà ở đầu ô Yên
Phụ tôi lặng im cho mình được đinh
ninh”. Một lần khác đến nhà bà Lâm bán bánh cuốn. Tiếp ngay cái câu
“ Chúng tôi đến một tối ở dưới Ấp về “, là câu “Lại mưa mưa tầm tã ướt lướt
thướt ánh đèn đường nhoè nhoẹt trời mưa hay là ta cứ nghĩ ra như thế “. ( VTN gạch dưới). Đúng
là một ví dụ về sự phân thân trong con
người nhà văn ngay trong lúc viết : Tôi nhớ rằng trong thực tế có chuyện như
thế nhưng cũng không có gì bảo đảm là tôi nhớ chính xác, chẳng qua nó có vẻ
nghe được nên không muốn làm phiền mình
thêm thôi xin cứ ghi vào đây. Bởi suy cho cùng ai dám bảo là mình nắm được sự
thực ? Mà ơ hay, làm gì có sự tách biệt rạch ròi
giữa cái mà người ta coi là sự thực với những điều tưởng tượng ? Ở một
đoạn giữa chương II hồi ký Cát bụi chân ai, Tô Hoài kể lại một câu
chuyện thuộc loại bếp núc nghề nghiệp. ”Nửa
đêm giữa rừng trên cao con suối mơ hồ đưa lại tiếng suối thở dài từ phía Bắc
Mê. Chúng tôi ngồi trước đám củi sưởi. Nguyễn Tuân nói : Tớ tức cảnh được hai
câu ca dao đem về tặng thằng Nguyên Hồng thế này nhé Non xanh gõ hòn đá xanh
Nửa năm nghe tiếng mõ canh Cổng Giời. Trở về tôi viết Pài Lùng cái
ký theo thể kịch đăng báo Văn nghệ đặt hai câu ấy lên đầu bài. Chú thích
nghịch ngợm: Ca dao cũ vùng Bắc Mê. Cho nhớ và như Nguyễn Tuân bảo có
dùng thì nên như thế “. Người thích rành mạch hai với hai là bốn hẳn thắc mắc
thế ra các bố bịa ra cả ca dao à ? Đúng là bịa thật, nhưng có sao đâu, ca dao
nào chẳng do bịa mà có, cốt cuối cùng nghe có vẻ ca dao là được. Đấy cái thực trong hồi ký nó cũng tương tự. So
với những cuốn hồi ký như một mê cung hồi ký mà lại khoác áo phản hồi ký thậm
chí “ hoang đường và đầy khiếm khuyết “của văn học phương Tây hiện đại thì
những Một chặng đường, Cát bụi chân ai Chiều chiều còn thực chán, nhưng đó không còn là cái thực mà nhiều người
vẫn nghĩ.
Nên chú ý một điều là mấy cuốn hồi ký của Tô Hoài (cả trước và sau 1945) trong bản in lần đầu tác giả không ghi
rõ thể loại mà bỏ lửng
và chỉ về sau các nhà biên tập các nhà báo và nhà nghiên cứu văn học mới
bảo nó là hồi ký. Đây không phải là một chuyện sơ ý. Ông muốn để ngỏ mọi
chuyện. Nếu nhiều cuốn sách được gọi là tiểu thuyết của ông cũng là hồi ký thì
các hồi ký thực sự mà ông đã viết pha phách cả những tưởng tượng có gì là lạ.
Hình như Tô Hoài muốn nói “ Viết về đời tôi ư? Thì bao giờ tôi chẳng lấy đời
tôi ra để viết. Lại như bảo đây là chuyện có thực ư ? Vâng thực cả, nhưng
chữ thực kia cũng có năm bảy đường, mỗi người có một sự thực của riêng mình, mà
cả những mơ hồ ảo tưởng của người ta rút cuộc rồi cũng thực nốt “.
Về mặt nghệ thuật mà xét lối viết lửng lơ cũng mang lại những hiệu quả.
Có nhiều người viết vừa cậy tài vừa quen sống trong ảo tưởng khi kể việc xảy ra từ lâu kể cả những gì mình đã sống qua, cứ nói lấy được,
rằng đúng là mình nhớ thế, mình tin chắc như đinh đóng cột là thế. Sống trên
đời mà quá tự tin nhiều khi đã gây ra cái mà ta hay gọi là chủ quan chỉ biết có
mình rất khó chịu. Đến khi cầm bút cái sự chủ quan này còn có thêm một tác hại
nữa là đẻ ra tình trạng áp đặt thuyết lý.
Trong khi khả năng bao quát đời sống không là bao, độ rộng của hiểu biết
và khả năng hình dung ra một hiện thực có thể có, tức sự tưởng tượng chỉ ở mức tầm thường ( kết
quả của một sự ù lì kém cỏi cả trong quan sát trực tiếp lẫn khả năng làm giàu
mình qua sách vở ), thì các ngòi bút chủ quan này lại hay quay ra rao giảng
những khái quát non. Nhân danh nhắc lại việc
cũ, sự viết lúc này chỉ là áp đặt cho bạn đọc cái vốn nông cạn sẵn có. Quá
trình lao động mà mọi người vẫn quen gọi là sáng tạo bị đơn giản hoá. Nó không
giúp cho kẻ cầm bút tự làm giàu thêm
ngay trong công việc - ở đây là viết hồi ký.
Còn cách nghĩ cách viết như của Tô Hoài mang trong nó một tiềm năng lớn.
Thực hiện đến đâu còn là do bản lĩnh từng người song nhìn chung nó giống như
một sự giải phóng.
Một sự phân thân :
trong người có mình
Vậy là sau khi đã có vẻ làm như mọi người rồi thì cách làm của Tô Hoài
vẫn cứ có chỗ khác và phải nói là khác khá xa, nó khiến cho hồi ký Tô Hoài có
một ý vị riêng. Điều này không chỉ đúng với những chi tiết được mang vào tác
phẩm mà còn đúng với cách vận dụng thể loại.Tức là trong nghề hồi ký, Cát
bụi chân ai là cả một thể nghiệm tưởng ngẫu nhiên mà rất hợp quy luật. Lâu
nay cả làng cả xóm nghĩa là cả giới cầm bút Hà Nội đều biết rằng trong đời sống văn học Nguyễn Tuân
và Tô Hoài là hai tính cách hai kiểu nhà văn khác nhau. Cái tài của tác
giả trong Cát bụi chân ai là tìm được cách viết nhờ đó ngòi bút ông tha
hồ tung tẩy đụng đâu cũng ra văn. Ông chiếm lĩnh đối tượng, ông tiêu hoá cái kinh nghiệm già nửa đời
người cùng sống với cụ Nguyễn trong giới văn nghệ một cách ngon lành khiến cho
người ta cảm thấy rằng đã là Tô Hoài thì phải viết về Nguyễn Tuân và phải viết
như vậy thì mới ra Nguyễn Tuân của Tô Hoài. Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi.
Trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân. Cái câu mở đầu này gợi nhớ câu thơ
dịch La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh Ve sầu kêu ve ve một kiểu có sao
nói vậy hơn nữa có một chút gì như là dùi đục chấm mắm cáy. Sau này rải
rác mỗi đoạn một tí Tô Hoài còn nhiều lần kỹ càng kể rằng Nguyễn Tuân chê bai
mình ra sao Nguyễn Tuân bảo rằng mình khó chơi, mình không tin được như thế
nào.Thế nhưng phải xem đấy là một ngón nghề
mà chỉ ai người cao tay trong nghề mới dám vận dụng. Suốt tập hồi ký, Tô
Hoài đã chứng minh đầy sức thuyết phục rằng tất cả những Xuân Diệu Nguyễn Bính
Nguyên Hồng.... và trước tiên Nguyễn Tuân, cái nhân vật Nguyễn kỳ cục ấy, là
một phần của cuộc đời ông. Sống ở Yên Dã Đại Từ và đi chiến dịch. Trở về Hà
Nội tháng 10/1954. Lê la qua những quán
hàng Hà Nội. Trở lại rừng núi Tây Bắc. Tham gia hỏi cung đám giặc lái Mỹ và đón
những cái tết nửa chiến tranh nửa hoà bình... Trước mọi sự việc mỗi người có
cách phản ứng riêng của mình người nọ làm nền cho người kia để trong sự so sánh
mỗi người lại hiện ra sắc nét hơn. Chẵng những thế khi miêu tả những người khác ấy, Tô Hoài dường như còn muốn nói rằng thật ra
những cách nói năng cư xử kia không có gì lạ, mình hoàn toàn cũng có thể nghĩ
và làm như vậy. Mọi con đường đi đến bản thân đều đi qua kẻ khác – cái nhận xét
đúng cho nhiều tập hồi ký đó lại vừa vặn đúng cho Tô Hoài trong Cát bụi chân
ai,Chiều chiều. Và cái điều
nhắn gửi cuối cùng của nhà văn là cái chân lý song đôi, chúng ta mỗi người mỗi
tính không ai giống ai mà đồng thời chúng ta lại lồng ghép lên nhau quyến quyện
với nhau hoặc nói như danh từ vật lý ánh xạ vào nhau, tôi có viết hồi ký
cho riêng tôi đâu, tôi viết cho cả những người sơ thân đã cùng tôi chia sẻ cái
cuộc đời lạ lùng này.
Hình ảnh còn lại của
một đời văn
So với nhiều nhà văn khác kể cả các cây bút cùng thời với mình Tô Hoài
nổi lên ở sự viết nhiều viết khoẻ. Ở đây có yếu tố tự nhiên nó là một thứ của
trời cho riêng ông (người ta hay nói một thứ bản năng), dường như tác giả không
cần cố gắng bao nhiêu mà văn chương vẫn cứ miên man không bao giờ hết. Song cần
nói thêm trong số nguyên nhân có thể cắt nghĩa sự viết mãi được như thế này có
cái nguyên nhân mà một nhà nghiên cứu là Đặng Tiến sau khi đọc Chiều chiều
đã nhận xét “Nói chung kể cả những truyện hư cấu truyện lịch sử Tô Hoài viết
cái gì thì cũng ra tự truyện “. Tức là viết gì thì Tô Hoài cũng kéo nó gần với
mình đặt nó dưới góc nhìn riêng và tiêu hoá nó biến nó thành của mình.
Về việc Tô Hoài là người giỏi quan sát thì xưa nay ai cũng đã thấy. Song
một số người dừng lại ở đó mà bảo rằng
ông nhà văn này hơi thiếu tâm sự, thiếu những điểu ký thác và nâng lên một mức
nữa tức là thiếu tư tưởng nghệ thuật. Tô Hoài cũng có lỗi trong chuyện này: Hoặc do quen tay giỏi thích ứng hoặc do mải
chạy chợ làm hàng, trong văn ông không
khỏi có nhiều trang nhiều đoạn mang tính
cách độn đắp thêm vào cốt nói lấy được. Thế nhưng nhìn toàn bộ những gì ông đã
viết, nhất là đến với mảng văn xuôi đòi hỏi sự xuất hiện trực tiếp của nhà văn
là thể hồi ký, thì người ta phải nói ngược lại. Ông có thế giới riêng của mình.
Và bàng bạc trên những trang viết là một
cách cảm riêng về cuộc đời một niềm tâm sự đau đáu. Hãy nhìn vào một trường hợp
như Chiều chiều. Mấy chương đầu đã giỏi trong kể chuyện và miêu tả, song
phải đến chương cuối kia thì cái triết lý ẩn giấu ở trên mới hiện ra như một ám
ảnh và nhiều chi tiết vui vui ở trên tự
nhiên hiện ra dưới một ánh sáng lung linh khác hẳn. Hoá ra cuộc đời là vậy bảo
nó có bao nhiêu ý nghĩa thì cũng đúng,
mà bảo rằng nó vẩn vơ bèo bọt thì cũng đúng, từ chuyện trên giời dưới bể chuyện
bên tây bên tàu đã thế mà chuyện của một ông lão nhà quê chẳng ra khỏi làng thì
cũng là thế. Chẳng phải là trong Cát bụi chân ai nhiều chỗ tác giả không
muốn giấu mình nữa mà đứng bật dậy phát biểu về sự đời. “Ôi thôi não nùng
trần ai “. “Đầu tôi nặng trĩu mưa gió...”.Đây nữa một câu nằm nhũn
nhặn trong Những người thợ cửi “ Ơ
sao những chuyện buồn khổ đời người lại hay xảy ra vào lúc chiều chiều như thế
này “. Đời đẹp và buồn, tôi nhớ tới điều tâm sự Tô Hoài nói với tôi trong
một buổi tối mùa đông sau khi ngồi với nhau một lúc từ nhà chị Ngọc Trai chúng
tôi cùng đi bộ trên đường Hà Nội,Tô Hoài thì rẽ qua Nguyễn Vinh Phúc còn tôi về nhà ở ngõ Lê Văn
Hưu. Nói gọn lại là đời đẹp và buồn thì
cố nhiên nhiều người đã có ý ấy rồi song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm giác ấy
một cách thấm thía và ông biết truyền nó
sang người đọc theo cái cách riêng của
mình. Và ở chỗ này nhà văn tưởng chỉ dán mắt nhìn vào các mảnh đời lụn vụn thực ra đã vươn tới cái
điều mà các tác giả lớn xưa nay vẫn khái quát.
Một người tự định cho mình nhiệm vụ phải vẽ
được thế giới. Suốt nhiều năm dài ông ta chất đầy chặt không gian những hình
ảnh phố phường xứ sở nhà cửa vật dụng tinh tú và người. Ít lâu trước khi chết, ông khám phá ra rằng cái
mê cung kiên nhẫn của các đường nét đó vạc nên gương mặt của chính mình.
Nói cách khác :
Một nhà văn tưởng có thể nói được rất nhiều
điều nhưng cái ông ta để lại được, nếu gặp may, chỉ là một hình ảnh của chính mình.
Những nhận xét ấy là của H.L.Borges và M.Yourcenar, các nhà văn ở
những phương trời xa lạ, nhưng cũng đúng
với Tô Hoài. Ông lại như vừa tìm thấy
mình trong những năm tuổi già. Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của
ông. Hồi ký là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lý mà ông mơ hồ cảm thấy
và đã theo đuổi suốt đời cả hai có dịp bộc lộ đầy đủ nhất.
2001
Nguyên là bài Tô Hoài và thể hồi ký
đã in trong Vương Trí Nhàn Phê bình và tiểu luận 2009
Bản đưa vào blog lần này có sửa chữa lại một số ý so với bản cũ
Published on May 29, 2016 21:06
May 27, 2016
Nhà văn và việc tổng kết cuộc đời - trường hợp Nguyễn Khải
Hiện thị trường sách
đang chứng kiến sự xuất hiện hàng loạt hồi ký hay tự truyện của các nhân
vật trong các ngành nghệ thuật.
Xin giới thiệu lại với
bạn đọc blog hai viết của tôi xoay quanh chủ đề nhà văn và thể hồi ký,
một liên quan tới Nguyễn Khải và một Tô Hoài. Cả hai đều đã được đưa vào
tập Phê bình &tiểu luận – một
thứ tuyển tập của tôi làm năm 2009
TỔNG KẾT CUỘC ĐỜI
THEO
CẢM QUAN CỦA MỘT THỜI LÃNG MẠN
Một vài nhận xét về tiểu thuyết
Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải
Ở tuổi bảy mươi, một người cha trong một gia đình
xưa nay vốn êm ấm, tự nhiên có bà vợ ngày ngày day dứt trì chiết
ông, nghi ngờ rằng ông không thương yêu gì bà, không hiểu hết công
lao hàn gắn của vợ con, lại có lúc còn lơ mơ nhìn theo
những bóng dáng qua lại ngoài đường. Cái đau ở chỗ ông già nói ở đây vốn là một
người đứng đắn, mẫu mực trong việc chăm sóc cửa nhà. Ông cảm thấy mình “không
xứng” với cái bi kịch mà mình đã rơi tõm vào đó. Con người suy
nghĩ nơi ông – nhân vật vốn là một nhà văn -- nhân cơ hội này nhớ
lại những bước đường vẻ vang của một cuộc đời liên tục
phấn đấu và đã có nhiều thành đạt. Từ thuở còn trẻ, ông đã từng
lập bao kỳ tích trong nghề, và do đó được cả thiên hạ bái phục. Ngoài tài năng
bẩm sinh, ông còn có một cách sống khôn ngoan. Nói chung ông biết bỏ cái nhỏ lo
cái lớn. Ông không màng danh lợi. Giữa lúc mọi người đua chen, ông chỉ lo viết.
Tuy trong bụng thừa hiểu mình tài lớn thế nào, song luôn luôn ông tỏ
ra khiêm tốn bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng mình viết được là do
hoàn cảnh quá thuận lợi. Ông sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận sự phê phán, để
rồi tiếp tục viết như đã viết. Ông lại biết lấy lòng cả những người kém
tài hơn mình. Tóm lại có hàng trăm câu chuyện đủ sức chứng minh ông thường
xuyên đi guốc vào bụng thiên hạ và có cách sống hợp thời. Như thế mà sự rắc rối
lại đổ lên đầu ông là nghĩa thế nào, thật cuộc đời này phi lý quá, ông chỉ còn
có cách phì cười, bái phục đấng tạo hoá đa đoan đã chọn đúng ông để
hành hạ !
Những dấu ấn thời đại
Dù
được gọi là tiểu thuyết hay là gì gì nữa, thực chất của Thượng đế thì cười vẫn là cuốn
sách trong đó một con người mang quá khứ của mình ra để kể với bạn đọc. Câu
chuyện ở đây liên quan tới sự hình thành và bám trụ của một người cầm bút:
nguyên cớ đưa con người này đến nghề văn; những tín điều nghề nghiệp mà hắn --
đại từ mà Nguyễn Khải đã dùng – tuân theo; những mối quan hệ ( quan
hệ với cấp trên, với dư luận, với đồng nghiệp) hắn phải đối mặt. Và tất
cả hiện ra với cái vẻ riêng chỉ thời bây giờ mới có. Ngược với những
kẻ vừa làm vừa xấu hổ, nhân vật ở Thượng
đế thì cười công khai nói rằng sáng tác văn chương là một phần của
công tác tuyên huấn, đến với nghề văn là để phục vụ, người thành công là người
mang cả tâm huyết vào công việc. Theo tác giả, sự tự đồng nhất với những ý niệm
lớn lao là “khuynh hướng cách mạng bẩm sinh của các nghệ sĩ “. Bao
giờ họ cũng là những chiến binh tình nguyện của
cuộc đấu tranh cho quyền tự do dân chủ của con người. Ở chỗ này
phải nhận ngòi bút tác giả có một sự minh bạch, rành rẽ hiếm
thấy. Với Nguyễn Khải, chúng ta có một kiểu định nghĩa về người viết văn thời
nay, và đọc Thượng đế thì cười mới
hiểu làm nhà văn là khó đến mức nào, mỗi người tồn tại được đến ngày hôm nay
thật đã đáng để khâm phục.
Cần thiết cho ai ?
Khi
nhớ lại những cuốn tiểu thuyết viết về lớp người cầm bút trong văn
học Việt Nam trước 1945, người ta có thể kể ra mấy cuốn tiểu
thuyết như Trên đường sự nghiệp của Nguyễn Công
Hoan, Mực mài nước mắt của Lan Khai, Bốc đồng của
Đỗ Đức Thu … Từ sau 1945, tác phẩm viết về chính người viết
hơi hiếm, thay vào đó lại có những hồi ký: Bốn mươi năm nói láo (Vũ
Bằng ), Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan), Cát bụi
chân ai (Tô Hoài )… Trong hoàn cảnh ấy, Thượng
đế thì cười của Nguyễn Khải là một thể nghiệm mới, có liên
quan tới lớp nhà văn chỉ bắt đầu viết từ sau 1945. Như trên vừa nói, giá trị dễ
nhận ra nhất của cuốn sách là ở cái phần tài
liệu. Nó có khả năng giúp cho thày trò trong các nhà trường hiểu rõ
nhiều tác phẩm của Nguyễn Khải lâu nay vẫn được
mang ra giảng dạy. Có điều, văn đàn không phải là một thứ bục giảng ở trường
phổ thông, và so với một ít lời tâm sự thông thường thì những nhu cầu mà người
ta muốn biết về một nhà văn trong một tác phẩm gọi là tổng kết đời mình --
nếu trước mắt ta là một nhà văn thực thụ, nhà văn theo nghĩa cao đẹp nhất của
hai chữ này -- cao hơn, phức tạp hơn nhiều. Trong cái việc đưa bạn
đọc cùng suy nghĩ lại về những bước đi của quá khứ, mỗi người viết tự truyện có
dịp bộc lộ toàn bộ cái bản lĩnh trong suốt cuộc đời người ấy đã thu góp được.
Nếu không có được sự thăng hoa, thì ở đây họ cũng phải có những cố gắng vượt
bậc. Những tài liệu nghiên cứu về lịch sử thể loại cho chúng ta biết rằng thể
tài này đã có từ văn học cổ đại phương Tây, và ngay trong thời trung cổ nó vẫn
tiếp tục tồn tại, nhiều thày tu về cuối đời đã tìm ra cách để ghi chép bước
đường phấn đấu của cá nhân họ trên con đường đến với chúa. Bước sang
thời hiện đại, hồi ký tự truyện lại càng phát triển. Từ chỗ tìm
cách tự đồng nhất với các loại thần thánh và xem đó là con đường duy nhất khiến
mình trở thành chính mình, nhân vật của các hồi ký giờ đây phải đứng vững ở vị
trí của một con người, tức đối mặt với chính giá trị bản thân sẵn có. Nhu cầu
tự nhận thức được đưa lên hàng đầu, mà trong việc này, tư duy phê phán sẽ đóng
vai trò một công cụ hiệu nghiệm. Song cái sự tự phê phán cũng mang lại cho nhân
vật của các cuốn tự truyện thời nay nhiều sự phiền hà. Họ thường xuyên rơi vào
tình trạng bất hoà với mình. Họ biết rằng ở mình có cả những cái rất cao cả lẫn
những cái trần tục. Họ hoang mang, họ lúng túng. Thậm chí yêu cầu tưởng là tối
thiểu – sự tự nhận thức – không thực hiện được, chính mình là ai họ cũng không
biết. Câu hỏi nọ tiếp theo câu hỏi kia. Sự không thoả mãn là một nét đặc trưng làm
nên vẻ đẹp của những con người sáng suốt. Một người nổi tiếng là
khôn, là giỏi thích nghi, thậm chí là quay quắt như nhà văn Nga I. Ehrenburg,
nhiều lần trong tập hồi ký Con người năm tháng cuộc đời, bảo
rằng mình là một người bề ngoài u ám nhưng thực ra lại nông nổi nhẹ dạ. Và
trong khi kể lại nhiều sự kiện bản thân từng chứng kiến, ông nói thẳng rằng
chính ra ông cũng không biết thực chất con người ấy, sự việc ấy là như thế nào.
Một nhân vật lúc trẻ cũng đầy tự hào như L. Aragon về già cay đắng khái quát về
những bát lực của mình. Đại ý ông bảo cuộc đời tôi giống như một trò
chơi đáng sợ mà tôi hoàn toàn thua cuộc. Tôi đã bẻ gãy đã làm hỏng cuộc đời của
mình tới cái mức giờ đây hết bề cứu vãn. Bản thân Elsa Triolet vợ Aragon cũng
thú nhận theo hướng tương tự. Bà tự trách mình, tôi thích đeo đồ nữ trang,
chồng tôi cũng là một thứ đồ nữ trang, -- tôi là một con mẹ trần
tục, một madame tầm thường,vớ vẩn. Những lời thú nhận như thế
không hạ giá nhân vật mà chỉ làm cho người đọc thêm gần với họ và
tìm đọc họ. Khi người viết đặt ra mục đích viết tự truyện để khai phá lại, nhận
thức lại đường đời của mình thì cũng là lúc một cuộc phiêu lưu thực sự mở ra
với cả người đọc.
Đọc
Thượng đế thì cười mà đối chiếu với những yêu cầu này thì thấy
tác giả đi theo một hướng khác hẳn: Nhân vật chính thấy có nhu cầu tuyên bố về
mình, vĩnh viễn hoá mình, nhưng lại e làm thế sẽ mang tiếng là kiêu
căng, nên ngả sang vòng vo kể lể tâm sự. Chiếm vai trò trung tâm trong câu
chuyện là các ca, các trường hợp có liên quan đến sự kiên cường của
nhân vật và sự liên tục của hắn ( xin nhắc lại: chữ dùng
trong nguyên bản) trong việc theo đuổi niềm tin. Đằng sau những chiến công cụ
thể là ý thức rõ ràng của nhân vật về ưu thế của bản thân, cái ưu
thế khiến nhân vật không thấy có gì phải vươn lên mà chỉ cố cúi thấp
xuống cho vừa với hoàn cảnh. Câu chuyện không được tác giả bố
trí thành lớp lang rõ rệt theo một quá trình phát triển cụ thể, mà các chương
chỉ nối đuôi nhau để dần dà đi sâu vào những khía cạnh khác nhau trong quan
niệm sống và phép xử thế của nhân vật. Tức là về mặt bố cục, truyện có tính
chất trích mảng. Thời gian kéo dài theo một cái mạch đều đều, không có những
điểm dừng những bước ngoặt rõ rệt. Không rõ tác giả có cố ý nghĩ thế không,
song qua cách trình bày như hiện nay, cứ thấy toát ra một điều: ông
muốn nói cuộc đời mình không có chuyển biến đáng kể, không có cao
trào, lại càng không có những bước nhầm bước hụt nên không có gì phải hối tiếc.
Nhìn lại nó, trong lòng ông không thấy dội lên những câu hỏi và dù khách quan
đến đâu, ông cũng không thể tìm ra điều gì gọi là đáng trách. Sự ân hận không
có trong kho từ ngữ của nhà văn này. Công thành danh toại, ông thấy không cần
phải che giấu mà còn muốn nói to lên rằng bản thân rất hài lòng rất mãn nguyện
với quá khứ. Bề nào mà xét cũng thật khó lòng nói nhân vật tự truyện ở đây có
cách nghĩ hiện đại, và từ chỗ đứng của đời sống hiện đại mà tâm sự trò chuyện
với bạn đọc.
Đánh giá
chất lượng tác phẩm như một tiểu thuyết
Đến
đây xin tạm rẽ ngang, để đặt ra một câu hỏi: thế nếu
xét Thượng đế thì cười trên phương
diện tiểu thuyết thì tình hình sẽ ra sao ? Xung đột tập
I, lần in thứ nhất 1959, có một đoạn tự bạch, xin trích mấy ý : “Tôi về thôn
X. một thôn công giáo toàn tòng ở miền hạ huyện Nghĩa Hưng Nam Định vào
cuối năm 1956. (…) Lúc đầu tôi chỉ có ý định viết một tập ghi chép. Nhưng trong
khi ghi chép các nhân vật và thể hiện lên với nhiều vẻ phức
tạp của nó, thì tôi gặp một khó khăn lớn là bản thân tôi cũng không
lường được (V.T.N nhấn mạnh) rồi đây những vấn đề đó sẽ giải quyết như
thế nào, số phận các nhân vật đó sẽ giải quyết ra sao. Mà mọi
sự bịa đặt đều chỉ có thể dẫn đến sai lầm, tôi mới tiếp tục viết
thêm những tập sau nữa, hy vọng rằng trong quá trình nghiên cứu tôi
sẽ tìm hiểu được những vấn đề đã đặt ra một cách toàn diện hơn.
“ Theo tôi, đoạn văn này đã nói rất trúng cái tinh thần căn bản của tiểu thuyết
mà một số nhà lý luận như M. Bakhtin, hoặc nhà văn như M. Kundéra nhấn mạnh:
người viết tiểu thuyết không thể áp đặt cho nhân vật những sơ đồ có
sẵn. Mà phải tôn trọng nó, thấy nó là một cái gì nhởn nhơ trước mặt song không
dễ gì nắm bắt được, ngược lại phải lo đối thoại với nó, rổi tìm
hiểu khám phá nó. Cuối đoạn tự bạch nói trên, bằng cái giọng đầy e ngại, nhà
văn tiếp tục tâm sự :“Tuy vậy nay xem lại cả bốn tập viết rải rác
trong hơn một năm thì thấy có nhiều vấn đề còn lơ lửng, con đường đi
tới của một số nhân vật chính còn chưa rõ ràng …“. Theo tôi, cái chỗ mà tác
giả lo lắng đó lại chính là chỗ mạnh, là nhân tố làm nên
chất tiểu thuyết của Xung đột. Còn trong Thượng đế thì cười , suốt mấy trăm trang
sách, cái kẻ được gọi là hắn không hiện ra như một cái gì cần tìm hiểu. Tác giả
quá thuộc hắn, nói đến đâu ông làu làu đến đấy. Rồi sự thương yêu không hề giấu
giếm, sự kính phục dường như không tìm ra lời để diễn tả nổi, cả sự bênh vực đâu
vào đấy – một thứ bênh chằm chằm như lối các bà mẹ thời nay bênh
con, – bao nhiêu tình cảm người viết tiểu thuyết tự nhủ phải tránh cho xa
khi muốn khắc hoạ một nhân vật, trớ trêu thay, lại được Nguyễn Khải khai thác
một cách hồn nhiên, mà về hiệu quả nghệ thuật, hại nhiều hơn lợi. Và thế là cái
lý do khiến cho người ta khó gọi nhân vật chính của Thượng đế thì cười là một nhân vật hồi ký hiện đại như trên đã
trình bày đồng thời cũng là lý do chính khiến cho hắn không trở thành nhân vật
của tiểu thuyết theo những cách hiểu sâu sắc nhất về thể tài này.
Khi mình không phải là
người khác
Trở lại với Thượng đế thì cười như một cuốn hồi ký - tự truyện. Có một sự
việc thoạt nhìn tưởng nhỏ song lại không nên bỏ qua, là câu chuyện bà vợ.
Đây là cái cớ đóng vai trò khởi động cho cả cuốn sách và chừng nào đó ảnh hưởng
tới cả giọng điệu chính trong Thượng
đế thì cười . Thế nhưng thử nghĩ lại một chút: Cái việc người ta khi về
già, trở nên trái tính trái nết, bộc lộ ra lắm vụng về trong cách đối xử của
người thân, chẳng phải là chuyện hiếm hoi. May lắm, chỉ nên hiểu
nó như chút muối mặn làm tăng thêm ám ảnh về cái vô lý của đời thường mà những
ai còn cảm giác thực tế trước cuộc sống đều luôn luôn cảm
thấy và lĩnh đủ. Chắc chắn nó không ghê gớm đến mức khiến cho con
người ta phải “kêu thét lên vì vô lý “ như nhân vật trong
truyện đay đi đay lại. Thế thì tại sao nhà văn dùng đến bao nhiêu
câu chữ như vậy tô đậm cái bi kịch gia đình ? Hay là
ông vốn quen đặt ông quá cao, xem mình có quyền đứng ngoài mọi sự ràng buộc
thông thường mà mọi chúng sinh trong đời phải chịu, và điều này đã
ăn sâu vào tâm trí ông khiến ông không bao giờ nghĩ rằng làm thế lại
gây phản cảm? Từ đây nghĩ rộng ra, tôi có cảm tưởng mối quan hệ giữa
cá nhân và những người chung quanh --- một mối quan hệ mà mọi người
hàng ngày phải đối mặt, người viết hồi ký tự truyện càng phải
đối mặt --, mối quan hệ ấy ở Nguyễn Khải lâu nay chưa được giải quyết cho
ổn thoả và việc đó ảnh hưởng ngay tới sự nhất trí của tác phẩm ông
mới viết. Chúng ta biết rằng trong suốt cuộc đời của mình, nhà văn này vốn thành
thạo cả bút pháp sử thi, nhìn cái gì cũng thấy
thiêng liêng cao cả, và cả bút pháp tiểu thuyết, tiếp cận đời sống
ở cái vẻ suồng sã của nó, trong mỗi tác phẩm việc ông sử dụng cách nào là tuỳ
yêu cầu cụ thể và quả thật ông đã nhào lộn khéo léo đến
mức hai loại tác phẩm dùng hai bút pháp ngược nhau đến vậy cùng sống hoà bình
bên nhau để làm nên một sự nghiệp. Đến Thượng
đế thì cười , thì như trên đã nói, mặc dù cũng có một ít đùa bỡn vui
vẻ, song về căn bản bút pháp chủ yếu được sử dụng
là bút pháp sử thi, nó nhiều phần phù hợp với cảm hứng chung của
tác giả khi muốn nhìn lại đời mình theo cái
cách ở trên chúng tôi đã miêu tả. Thế nhưng có lẽ vì một sự méo mó nghề nghiệp
nào đó nên cây bút tiểu thuyết ở nhà văn vẫn ngọ
nguậy không yên, và điều đó khiến cho có lúc tác phẩm lạc
hẳn sang một cái giọng khác hẳn giọng điệu vốn có. Lại chết một nỗi, mặc dầu đã
tự kiềm chế, song nhà văn vẫn không giấu được một thói quen đã thành
cố tật: với những việc thiết thân của mình hoặc hợp với tạng
mình thì ông nhìn nhận một cách một cách nghiêm chỉnh, và dùng những lời khéo
léo nhất để tán dương; còn những gì không được việc cho mình, hoặc đơn giản là
việc của thiên hạ thì ông xem như trò đùa, thoáng nhìn đã thấy ngay bao điều
đáng mỉa mai giễu cợt. Thành thử người ta có trách rằng ở đây Nguyễn
Khải chưa đủ tỉnh táo và chưa đủ cả cái cận nhân
tình, tức cái bao dung cần thiết, kể cũng
không phải chuyện lạ !
Sự dừng lại nửa
chừng
Từ
nhiều năm nay Nguyễn Khải đã cho in một số tập sách trong đó ông thử trở lại
chuyện cũ để tìm cách chiêm nghiệm bản thân. Quan niệm tổng quát về
quá khứ đã có lần được ông trình bày trong cuốn Chuyện nghề (1999
) “Lắm ngày ngồi đọc lại hay nghĩ lại về những tác phẩm của mình
đã viết trong mấy chục năm qua, nhiều trang viết vẫn còn
làm tôi hãnh diện và có nhiều trang viết đã làm tôi xấu hổ và rất buồn. Những
trang viết chủ quan, kiêu ngạo chỉ khẳng định có một niềm tin, một lẽ sống, rồi
dạy dỗ, rồi lên án, rồi chế giễu tất cả những gì khác biệt với mình, đọc lại
thật đáng sợ. Thế giới như nhỏ lại, nhạt đi, căng thẳng ( …) Tôi rất muốn viết
lại một số trang vì tôi đã từng trải hơn, hiểu đời hiểu người hơn …”
Vừa
mới trả lời bạn đọc như vậy, đến Thượng
đế thì cười , nhà văn lại từ bỏ ngay cái điều định làm, hoặc nói cách khác,
là ông không có nhu cầu đó nữa. Trong mạch hồi ức bề bộn của nhân vật, rất
nhiều chi tiết đã được kể lại, nhằm gây hiệu quả có thực, song cái sự thực sâu
xa nhất về “đương sự“ thì bởi lẽ tác giả không muốn nói, nên với người đọc, vẫn
còn nguyên vẹn là một bí mật. Nhận xét về cách viết của Thượng đế thì cười , một nhà văn đàn anh
của tôi là Nguyễn Kiên vui miệng bảo : “Ban đầu ông Khải cũng muốn đùa bỡn với
mình, nhưng được một lúc thì quên hẳn, lại cứ lối viết xưa nay mà
kéo “. Và như thế, âm hưởng chính toát lên sau các trang sách vẫn là nhiệt
tình tự biểu dương tự khẳng định. Giải thích điều này không khó khăn gì,
nếu nhìn chung ra cả xã hội. Sau mấy chục năm sống mải miết, nay là lúc nhu
cầu trở lại chuyện xưa thức dậy ở nhiều người. Song cũng phải nhận đây là
việc khó, không phải người ta cứ có một quá khứ là đã hiểu được nó một cách
chính xác, dù đấy là quá khứ của chính mình. Vì cái công việc tưởng là dễ ợt
kia đòi hỏi một sự sáng suốt phi thường, làm việc với nó dễ căng dễ mệt, ai
người đã già, già không phải về mặt thể chất mà cái chính là về mặt
tinh thần, chắc chắn không thể chịu nổi. Con người hiện đại để đạt tới sự tự
nhận thức thực sự, phải tự lột trần, tự bỏ phục trang xã hội của mình -- nhiều
người ngại ngần. Con người hiện đại không chỉ nhấn mạnh chỗ
khác so với chung quanh, mà còn tìm kiếm và thử tìm
cách xác định hồn cốt bên trong của mình – nhiều
người dừng lại. Đọc sách,trước mắt người đọc chỉ có hình ảnh của
những tác giả hồi ký - tự truyện như họ muốn, chứ không phải như họ có thật
trong đời. Nguyễn Khải cũng không ra khỏi cái sự thường tình đó. Quá
trình trở lại cái thời lãng mạn ở ông bắt đầu từ vài năm nay,
tới Thượng đế thì cười thì được
hoàn chỉnh.Và cách giải thích tốt nhất ở đây có lẽ là mượn lại câu nói
của nhà văn đồng thời là nhà đạo đức học người Pháp F. La
Rochfoucauld (1613-1680) : Chúng ta quá quen trá hình trước mắt
kẻ khác nên rốt cuộc trá hình ngay với chính mình.
Lời kêu gọi Hãy
đi xa hơn nữa
Sống
ở đời, Đời khổ, Chuyện tình của mỗi người, Một thời gió bụi, Anh hùng bĩ
vận …, tên gọi của một số tác phẩm Nguyễn Khải viết
hơn một thập kỷ nay đã làm chứng cho một ao ước chính đáng nơi ông là muốn đi
tới những khái quát nhân sinh, nó là điểm tới xa hơn sâu hơn so với
các tác phẩm cũ của ông. Trong những tác phẩm thuộc loại viết về sau này (đây
chỉ kể những truyện khá nhất), cuộc đời hiện ra không phải như cái gì tác giả
đã thuộc như lòng bàn tay, mà còn bao điều chính ông chưa biết và không rõ nên
cắt nghĩa ra sao. Ông không ngại đi vào những nghịch cảnh, trớ trêu. Ông biết
thông cảm với nỗi sợ, niềm đau. Ông sẵn sàng dùng lại những chữ như số kiếp,
thân phận … Những nỗ lực này của nhà văn có để lại dấu vết trong Thượng đế thì cười . Thử nhớ lại hình
ảnh bà cụ già ngồi ăn bún với muối hoặc người đàn ông đánh một chiếc xe trâu
chở cái tiểu sành có bộ xương vợ với đứa con nhỏ đi suốt từ Điện Biên về vùng
xuôi. Hôm qua, Nguyễn Khải đã biết những con người ấy, những tình tiết ấy,
nhưng không bao giờ nghĩ tới việc mang chúng vào trang sách. Về già, ông
nhắc tới chúng với niềm hãnh diện: đó là một phần cuộc đời của ông và chính
nhờ thế ông tìm ra cách sống rồi nương theo đó là cách viết.
Không
phải ngẫu nhiên một bài phỏng vấn Nguyễn Khải đầu 2004 có cái tên
gọi khái quát: Cười cho một kiếp nhân sinh. Theo tôi hiểu, chính
nhà văn cũng có lúc muốn xuất hiện trước bạn đọc trong một tư thế như vậy,với
bộ y phục như vậy. Thế nhưng nhìn chung Thượng đế thì cười (mà hẳn tác giả rất lấy làm đắc ý
) vẫn thành công chính ở việc biểu dương một sự nghiệp hơn là chạm vào một vấn
đề bao quát của cuộc đời. Nó mang lại cho tác giả một chút an tâm
cần thiết, chứ không chắc đã giúp cho các tầng lớp bạn đọc lẫn các đồng
nghiệp soi vào đó để hiểu thêm những ngày đang sống, với đủ ngọt bùi chua chát
chúng ta vẫn cảm nhận. nói với người ta về một ít con người trong một thời cụ
thể, chứ chưa đủ sức vươn tới những khái quát về kiếp nhân sinh nói
chung, do đó chưa thuộc vào loại tác phẩm tự nó sẽ còn được đọc lại, như hôm
nay chúng ta đọc lại Số đỏ, Chí Phèo, hoặc gần đây Cát bụi
chân ai. Đáng lẽ có thể đạt tới khả năng lôi cuốn của những
cuốn sách mang tính cách tôi thú nhận là tôi đã sống ( chữ
của P. Neruda), hoặc tôi lật con bài của tôi (chữ của
L.Aragon), song Thượng đế thì cười đã dừng
lại trên cái mạch cũ của một đời văn sớm định hình ở tác giả.
Có những
giới hạn mà cả những đầu óc thông minh nhất trong thời của mình vẫn không thể
vượt qua – cuối cùng chỉ còn có cách nghĩ vậy. Nhưng đặt vào hoàn
cảnh hôm nay, Thượng đế thì cười của Nguyễn
Khải lại có cơ trở thành một lời kêu gọi: cách tốt nhất
để các đồng nghiệp, nhất là các bạn trẻ, thể hiện lòng yêu mến kính
trọng đối với nhà văn hàng đầu này là đi tiếp trên con đường ông đã thấy là
phải, nhưng không đủ sức dấn tới./.
2005
Published on May 27, 2016 02:23
May 20, 2016
Tìm nghĩa khái niệm hiện đại
Bài mở đầu của cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa
trong văn học Việt Nam
nxb Đại học quốc gia
Hà Nội 2005
Những cách hiểu khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau
Hàng ngày chúng ta vẫn
thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí thời sự, trong các
văn kiện chính trị cụm từ “quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá” hoặc “sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác
định. Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên
thế giới, và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của xã hội ta lên một bước làm
cho chúng ta không thua kém những nước đó.
Đây chính là nghĩa thông
thường nhất của hai chữ hiện đại.
Một nghĩa khác của từ là
nghĩa được dùng trong khoa sử học. Ở các trường cấp ba (nay gọi là phổ
thông trung học) học sinh được giảng như sau: Không kể thời cổ đại thì từ Cách
mạng tư sản Anh trở về trước là lịch sử trung đại; từ Cách mạng Anh tới Công xã
Paris (1871) là lịch sử cận đại; sau Công xã Paris, lịch sử bước sang một trang
mới là lịch sử hiện đại. (Gần đây, nhiều sách giáo khoa có sự điều chỉnh,
coi lịch sử hiện đại bắt đầu từ sau Cách mạng tháng Mười Nga.) Đây là phác đồ
chung của lịch sử thế giới. Còn trong từng nước, lại có sự xác định cụ
thể. ở Trung Hoa lịch sử từ chiến tranh Nha phiến 1840 đến 1919 - phong
trào Ngũ Tứ là lịch sử cận đại; 1919 đến 1949 là hiện đại, sau 1949 là đương
đại. Riêng ở Việt Nam, lịch sử cận đại bắt đầu từ khi người Pháp đánh
chiếm nước ta (1858) cho tới 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản Đông
dương. Từ sau 1930 là lịch sử hiện đại.
Những cái mốc để phân
biệt lịch sử vừa nói cũng là mốc thường dùng để phân chia văn học, và trong
nhiều trường hợp trở thành quy phạm có tính chất Nhà nước. Viện Văn học
chia ra các Ban cổ-cận, Ban hiện đại theo tiêu chuẩn này. Khi làm mục lục
các bài viết in ra hàng năm trên Tạp chí Văn học và Tổng
mục lục 40 năm những người biên soạn cũng theo tiêu chuẩn này để sắp
xếp bài vở.
Thế nhưng cũng có những
cách hiểu khác, tồn tại từ rất sớm.
Khi Vũ Ngọc Phan viết Nhà
văn hiện đại (1941) ông kể gộp vào sách những nhà văn mà sự nghiệp nổi
lên từ đầu thế kỷ XX.1
Sau đó mấy năm, trong
bài viết nhan đề Sự tiến triển của văn học Việt Nam hiện đại2,
ông vẫn giữ nguyên cách hiểu như vậy.
Một tác giả khác, Đào
Duy Anh, trong Việt Nam văn hoá sử cương cũng coi văn học hiện
đại là phần văn học dùng chữ quốc ngữ mà đến thế kỷ XX mới trở nên phổ biến và
phát triển mạnh. Hoặc khi làm Biểu liệt kê tác giả tác phẩm cho
cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã chia văn học Việt
Nam theo các thế kỷ và kết thúc bằng mục Hiện đại (Thế kỷ XX).3
Ở đây, cũng nên lưu ý có
những người không dùng tới mấy khái niệm như hiện đại, thế
kỷ XX, song trong các bài viết của mình, vẫn làm toát ra một quan niệm như
vậy. Đó là trường hợp của Lê Thanh hoặc Mộc Khuê, trong các tác phẩm đã
in hoặc các bài đăng báo.
Một thời gian dài, ở ta
quan niệm “văn học hiện đại, tức là văn học thế kỷ XX” này bị coi là sơ lược,
không có triển vọng. Mãi tới gần đây, nhiều người mới quay lại với cách
phân chia ấy chẳng hạn đó là trường hợp bộ Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900-1930 của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng (bản in lần đầu
1988), hoặc công trình nghiên cứu Quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam 1900-1945 của nhóm Mã Giang Lân (in ra năm 2000). Cách phân
chia này, cũng đã được áp dụng với bộ sách giáo khoa văn học dùng cho các
trường Phổ thông trung học in ra năm 2000 (mới được chỉnh lý).
Theo ý chúng tôi trong
nghiên cứu văn học đây là cách hiểu nên được thống nhất sử dụng. Nó hợp
lý bởi lẽ nó không đặt văn học trong sự phụ thuộc một cách máy móc vào các sự
kiện lịch sử mà có chú ý tới tính độc lập tương đối của văn học. Nói cách
khác nó xem xét văn học dưới góc độ văn hoá, tức là những yếu tố có tính chất
lặp đi lặp lại trong sáng tác và phổ biến bao gồm môi trường hoạt động, chủ
thể, nguyên tắc chỉ đạo sáng tác (thi pháp), thể loại... - đây là những
đặc điểm chúng tôi sẽ trở lại ở đoạn dưới. Và bởi lẽ, những đặc điểm của
văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã tồn tại liên tục, nên hai chữ hiện đại với
nội dung xác định của nó đến nay vẫn dùng được. Đặt bên cạnh hàng chục
thế kỷ của văn học trung đại, thì thời gian của văn học hiện đại chưa phải là
dài, những quy luật chủ yếu của nó đang phát huy tác dụng.
Nhân đây xin giới thiệu
một cách giải quyết tương tự. Trên tạp chí Thế giới mới số
ra 8-3-1999 có đăng bài Vài thông tin mới về Hán tự và văn hoá Trung
quốc. Bài báo cho biết trong nghiên cứu và giảng dạy văn học hiện đại
Trung Quốc đang thấy có sự điều chỉnh. Về thời gian, trước
đây lấy mấy cái mốc 1840-1919-1949, nay các công trình nghiên cứu thường nhìn
chung cả văn học thế kỷ XX. Về không gian, trước chỉ khoanh
tròn trong văn học đại lục, nay đưa vào cả văn học Hồng Công, văn học Đài
Loan. Về quan niệm, coi văn học là một thành tố của văn hoá,
muốn hiểu văn học, phải hiểu cả lịch sử phong tục, tôn giáo... Quả thật
là những bước đột phá mà chúng ta nên tham khảo.
Nội dung của hiện đại hoá
Sau khi qui định thời
gian tồn tại của văn học hiện đại như trên, điều quan trọng là cùng nhau xác
định nội dung khái niệm hiện đại, và đi liền với nó là quá trình hiện đại hoá.
Thoạt nghe, ai cũng hiểu
ngay rằng hiện đại là lối làm nghệ thuật một cách mới mẻ, khác hẳn so với lối
cũ của ngày hôm qua. Nhưng trong thực tế nghiên cứu, từ này không có
nghĩa chung chung như thế mà có nội dung cụ thể của nó. Chúng tôi không
đủ trình độ để tìm hiểu hai chữ hiện đại dưới góc độ từ nguyên học, nhất là xác
định được khởi điểm mà từ này lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, trước khi truyền
sang Việt Nam, song có thể mạnh bạo dự đoán: Hiện đại chỉ được
dùng nhiều từ cuối thế kỷ XIX, nó gắn liền với một giai đoạn bột phát của sự
tiếp xúc Đông Tây, khi mà người châu á (mà gần với ta nhất là Trung Hoa) bắt
đầu có ý thức được rằng dù bản thân từng có truyền thống văn hoá lâu đời, song
hiện đang ở giai đoạn trì trệ, bế tắc, có nhiều phương diện có thể gọi là cổ hủ
lạc hậu. Vậy cái lối làm kinh tế cũng như văn chương nghệ thuật mới mẻ,
đáng gọi là xứng với thời buổi ngày nay (hiện đại) phải là gắn liền với phương
Tây, và trở nên hiện đại (hiện đại hoá) là làm theo mẫu hình phương Tây.
Từ đầu thế kỷ khi đề ra yêu cầu xây dựng nền văn hoá mới, các tác giả Văn
minh tân học sách đã nghĩ như vậy. Mà khi làm công việc ghi nhận
thành tựu những năm từ đầu thế kỷ XX trở đi, các tác giả Vũ Ngọc Phan, Đào Duy
Anh, Dương Quảng Hàm... cũng nghĩ như vậy. Nếu xưa kia, cái để ông
cha ta đối chiếu là văn học Trung Hoa, thì ngày nay, cái để con người đầu thế
kỷ trông vào học tập là cách làm văn hoá, cách nghĩ của người phương Tây.
Đây đó hai chữ Âu hoá có bị hiểu sai và việc này đã có người mang ra chế giễu,
song nhìn chung nó được dùng rất nghiêm chỉnh, và giả định một sự học hỏi tích
cực với tất cả bản lĩnh dân tộc vững chãi, chứ không phải là học đòi theo lối
nô lệ.
Sau đây là cách hiểu hai
chữ hiện đại ở một số nước gần gũi và có hoàn cảnh tương tự với Việt Nam.
Khi khái quát về tình
hình văn học ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonêxia, v.v... các tác giả
cuốn Văn học Đông Nam Á nhất trí rằng: Nếu cuộc tiếp nhận văn
hoá Trung Hoa và Ấn Độ là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ nhất, xảy
ra trong khu vực, thì cuộc tiếp xúc với văn hoá phương Tây là cuộc hội
nhập văn hoá lần thứ hai, nó khiến cho văn học hiện đại ở các nước Đông Nam
Á mang một màu sắc mới5.
Riêng với Trung Hoa, vì
đó là một nền văn học luôn luôn có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam nên chúng
tôi muốn dừng lại kỹ hơn một chút.
Ngay từ 1945, trong một
bài viết mang tên Trên đường kiến thiết văn hoá mới ở Trung Quốc - vấn
đề dân tộc hoá, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai đã khái quát “Vấn đề văn hoá ở
Trung quốc khoảng 100 năm nay cũng là một vấn đề nhập cảng: thâu thái những
kiến thức về kỹ nghệ, về khoa học để cải tạo nền văn hoá “ngàn xưa’ của nước
Tàu”. ở một chỗ khác (cũng bài báo trên), ông viết “vấn đề Âu hoá, hiện
đại hoá (modernisation) cũng là một vấn đề lựa chọn. Bất kỳ khoa học xã
hội hay khoa học tự nhiên, bất kỳ về phương diện tri thức hay phương diện kỹ
nghệ, văn hoá mới Trung Quốc sẽ phải góp nhặt trong văn hoá Âu Tây những thành
phần tiến bộ cái tinh hoa có thể áp dụng vào trong tình thế Trung Quốc ngày
nay".6
Trong cách hiểu của tác giả, hai quá trình Âu hoá và hiện đại hoá gần như đã được
đồng nhất.
Thế còn cách hiểu về
hiện đại hoá ở Trung Quốc hôm nay thì sao? May mắn là trong tay chúng tôi có
cuốn Sử học Trung Quốc trước gạch nối của hai thế kỷ (mới in
ra quý III-2000) trong đó có bài Sự hưng khởi và phát triển của hiện
đại hoá ở Trung Quốc.7
Dưới đây là một số đoạn trích từ bài viết kèm theo số trang ở cuối sách trên.
- Những biến cách trong
sự phát triển của Trung Quốc cũng như của thế giới, sự chuyển biến của xã hội
từ chỗ lấy nông nghiệp truyền thống là chủ đạo, chuyển hướng tới một xã hội có
nền công nghiệp hiện đại (...) xu thế lịch sử và tiến trình lịch sử này được
gọi với một cái tên thông thường, đó là hiện đại hoá (tr.321)
- Khái niệm “hiện đại
hoá” và “phương Tây hoá” được coi ngang nhau và điều này đã phản ánh
trình độ nhận thức chung của trí thức Trung Quốc... (tr.325).
- Tuy việc hiện đại hoá
của Trung Quốc lúc đầu là học tập phương Tây, song thực tế lại là giới thiệu và
học tập Nhật Bản (tr.327).
- Từ sau chiến tranh Nha
phiến 1840, người Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện hiện đại
hoá... (tr.347)
Với các học giả Trung
Quốc vậy là hiện đại hoá bắt đầu ngay từ thời kỳ mà lâu nay, theo sự quy định
của môn lịch sử, vẫn gọi là thời cận đại.
Bây giờ, chúng ta hãy
cùng trở lại với một số định nghĩa trong các từ điển. Như trên đã lưu ý,
cách phân chia ở đây là dựa nhiều vào các yếu tố văn hoá, nên nguồn sách vở mà
chúng tôi hướng tới cũng là các từ điển văn hoá học. Một cuốn từ điển
loại ấy, bản tiếng Nga có viết như sau:
- Hiện đại hoá (tiếng
Pháp moderniser). Thuật ngữ văn hoá học dùng để xác định quá
trình vận động từ xã hội tiền công nghiệp dựa trên truyền thống tới một hệ
thống kinh tế và chính trị, cũng như văn hoá tiêu biểu cho sự phát triển của
các nước tư bản (...) Những yếu tố cơ bản của quá trình này là: khả năng sử
dụng những kỹ thuật hiện đại trong những ngành then chốt của sản xuất được đẩy
mạnh; hình thức tiêu thụ được mở rộng, những điều kiện mới (về xã hội, chính
trị, văn hoá) được phát triển; nền sản xuất mới được hình thành. Quá
trình hiện đại hoá bao gồm cả việc nắm vững những kiểu dạng mới của sinh hoạt
tinh thần (kiểu tư duy mới)...
- Hiện đại hoá trong
lĩnh vực đời sống văn hoá: Quá trình vận động phát triển, từ nền văn hoá tiền
công nghiệp tới nền văn hoá đặc trưng cho các nước tư bản phát triển.
Những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá bao gồm: đa dạng hoá các hệ thống tinh
thần và sự định hướng giá trị; thế tục hoá và đa cực hoá các ý thức xã hội và
giáo dục; làm cho ngày càng có nhiều người biết chữ; hình thành văn hoá và ngôn
ngữ dân tộc, đa dạng hoá các trào lưu tư tưởng; phát triển phương tiện thông
tin đại chúng".8
Đây cũng là quan niệm
thấy trình bày trong một số tài liệu tiếng Nga khác mà chúng tôi có điều kiện
đọc, chẳng hạn cuốn Văn hoá học xã hội của B.S. Erasov (1996)
hoặc Đại từ điển Collins về xã hội học (1999). Bản
Collins nhấn mạnh “có một sự đối lập rõ rệt giữa xã hội trước và sau hiện đại
hoá” “nhân tố quyết định của hiện đại hoá là vượt qua, thay thế những giá trị
truyền thống vốn thù địch với mọi biến động”. Hiện đại hoá như vậy là “bao
trùm lên cả công nghiệp hoá”.
Phân biệt với chủ nghĩa hiện đại
Ngoài mấy từ hiện
đại, hiện đại hoá trên sách vở báo chí còn thấy có thuật ngữ chủ
nghĩa hiện đại. Có lẽ cũng nên nói qua về khái niệm này, để tránh
hiểu lầm, và lẫn lộn khi sử dụng.
Đặt trong lịch trình
tiến hoá chung của lịch sử châu Âu thì thế kỷ XX là cả một giai đoạn đa đoan
phức tạp chưa từng có. Trước tiên là những phát minh khoa học (như sinh
học phân tử, thuyết di truyền, vật lý lượng tử và thuyết tương đối của
Einstein; phân tâm học của Freud...) làm đảo lộn nhiều quan niệm
cũ. Rồi đến những thay đổi xảy ra trên phạm vi rộng lớn, như cuộc đại
chiến thế giới thứ nhất, khiến cho tâm lý nhiều người như bị chấn động.
Ngày hôm qua thanh bình yên ả giống như một giấc mơ đã không còn nữa, thay vào
đấy là thời của mù mờ và hỗn độn. Những điều tưởng không bao giờ có thể
xảy ra, nay hiển hiện trước mặt. Những gì mà thế giới cổ điển coi là kỳ
dị thì nay là chuyện thông thường hàng ngày. Sự hiểu biết của con người
với thế giới không phải bao giờ cũng chắc chắn và đáng tin cậy, như bấy lâu
người ta vẫn tưởng. Con người không làm chủ nổi mình, còn nói chi làm chủ
hoàn cảnh! Từ ngạc nhiên đến hốt hoảng, từ náo nức say sưa đến bi quan tuyệt
vọng, từ tự hào kiêu hãnh đến cay đắng bồn chồn - bảng màu tình cảm của con
người nay thật đủ sắc thái, và mỗi loại tâm trạng này, khi được đẩy lên, tuyệt
đối hoá, biến thành một định hướng trong nghệ thuật. Chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa trừu tượng v.v...
một thời gian dài ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các loại
chủ nghĩa này được một số người gộp chung lại là chủ nghĩa hiện đại với
hàm ý suy đồi, tiêu cực, phản hiện thực và phản nhân đạo, gắn liền với giai
đoạn đi xuống của chủ nghĩa tư bản. Nhưng ngay từ khi Liên Xô còn tồn
tại, đã có một xu thế khác nảy sinh và ngày càng được đồng tình, ấy là xem nghệ
thuật hiện đại là một hướng phát triển hợp lý của nghệ thuật ở các nước tư bản:
từng “izm” kia có thể là thiên lệch, quá đáng, song nhìn một cách tổng hợp, lại
có thể công nhận đấy là một bước tiến trong việc nhận thức đời sống.
Không phải là những biến
dạng của chủ nghĩa hiện đại này hoàn toàn xa lạ với các nước phương Đông nói
chung và Việt Nam nói riêng. Sự thực là trong quá trình vận động của
mình, văn học Việt Nam vừa diễn lại nhiều bước đi của các thế kỷ trước, vừa
đồng thời kín đáo tiếp nhận những vang vọng của châu Âu thế kỷ XX. Rất tự
nhiên là ngay từ cuối những năm ba mươi ở nhiều người viết văn Việt Nam đã ngấm
ngầm hình thành một khao khát chân chính: phải thay cách viết cho hợp với không
khí thời đại. Theo họ, cách viết cũ (mặc dù là Âu hoá, nhưng lúc này đã
cũ) dừng lại ở sự nghiêm túc, sự rõ ràng, cũng như sự hài hoà mạch lạc, trong
khi đó thời đại mới yêu cầu sự trực tiếp của cảm hứng, sự bột phát của tư
tưởng, và đôi khi vì thế mà có dẫn tới một thoáng phi lý thì cũng không có gì
quản ngại.9
Nhưng theo chúng tôi tất cả những tìm tòi trên đây của các nhà văn nhà thơ Việt
Nam chỉ dừng lại ở mức những yếu tố làm đậm đà thêm các sáng tác, mà không được
đẩy lên thành các chủ nghĩa. Sự phân cách của văn học ta với văn học thế
giới (trước tiên là phương Tây) thế kỷ XX vẫn còn nguyên vẹn, và khái niệm hiện
đại sử dụng hôm nay ở Việt Nam trên đại thể chưa có dây dưa gì nhiều với những
tìm tòi cực đoan thường thấy trong chủ nghĩa hiện đại.
Sự liên tục của thế kỷ
Cách mạng tháng Tám mang
lại cho lịch sử Việt Nam một bước ngoặt rõ rệt. Sau gần nửa thế kỷ xây
dựng, nền văn học Việt Nam lúc này đã cứng cáp trưởng thành. Giờ đây, nền
văn học ấy tự đặt cho mình một mục đích khác trước, cách tác động tới xã hội
khác trước. Riêng với những người cầm bút, thì từ chỗ là những người lao
động tự do, nay các nhà văn đã trở thành “những chiến sĩ trên mặt trận văn
nghệ”, và hoạt động theo một định hướng tư tưởng thống nhất do Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Đó là một đặc điểm cơ
bản mà khi nghiên cứu văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, xét trên
nhiều mặt, giữa văn học Việt Nam trước và sau 1945 vẫn có một sự liên tục,
đến mức hoàn toàn có lý do chính đáng để xếp cả hai nằm trong một phạm trù
chung là văn học hiện đại. Trong ngôn ngữ học, hai chữ đối lập được dùng
với nghĩa thuần tuý hình thức, tức là lấy cái này đặt bên cái kia để làm nổi
bật sự khác nhau. Mượn thuật ngữ đó của ngôn ngữ học, ở đây chúng tôi
muốn nói chúng tôi không đối lập văn học Việt Nam trước và sau 1945 (đó
là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách đối lập
toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở về trước,
đối lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là một hướng
nghiên cứu cần thiết và có thể nói là có hứa hẹn.
Thử áp dụng cái nhìn văn
hoá học vào nghiên cứu văn học, sơ bộ có thể nhận ra những đặc trưng nhất quán
sau đây của văn học Việt Nam hiện đại, chính nó cũng là những nhân tố tạo nên
sự liên tục của thế kỷ.
1. Sự hình
thành một môi trường văn học thống nhất trong cả nước. Sự sáng tác ở
nước Việt Nam qua các triều đại phong kiến có trồi sụt khác nhau, nhưng nói
chung có tính chất tự cấp tự túc, tác phẩm viết ra không trở thành một sản phẩm
được lưu thông trong xã hội. Xuất bản lúc ấy mang tính cách một thứ hoạt
động tiểu thủ công, manh mún, lặt vặt. Báo chí lại hoàn toàn không
có. Tác phẩm sau khi viết ra sống âm thầm như trong bóng tối, may thì gặp
người tri kỷ, không may thì xếp xó một chỗ. Bước sang thế kỷ XX, cả xã
hội là một mặt bằng liền lặn, sự sáng tạo được đặt trong mặt bằng đó để luôn luôn
lưu thông vận chuyển, từ người viết tới người đọc. Nhờ có máy in, sách
được in ra rồi nhờ có hệ thống phát hành, sách được mang bán, nơi nào có nhu
cầu là sách đi tới. Bước đầu có thể nói tới một lớp công chúng làm nên
một luồng dư luận đa dạng tác động lại sự sangs tạo. Không phải chỉ trong
điều kiện bình thường trước 1945, mà ngay trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp
và chống Mỹ, một môi trường văn chương thống nhất vẫn được duy trì và chính nó
quyết định nhiều đến nội dung của các sáng tác.
2. Sự hình
thành một lớp người làm nghề. Lắng nghe trong văn học đầu thế kỷ
người ta bắt đầu nhận ra một tiếng kêu than hơi lạ: tiếng kêu của những người
sống bằng nghề cầm bút, như Tản Đà, hoặc lớp sau, như Xuân Diệu, Vũ Trọng
Phụng... Một thứ tiếng kêu như thế chưa hề thấy trong văn học Việt Nam từ
thế kỷ XIX trở về trước, đơn giản là vì hồi ấy, những người viết văn làm thơ
chẳng qua rỗi rãi nên thử viết để trình bày vài điều tâm huyết hoặc một ít xúc
động, chứ không ai sống bằng nghề bao giờ. Có người e sợ việc hình thành
lớp người có nghề khiến cho sự sáng tạo của họ trở nên nhàm chán rồi bị thui
chột, song thực ra thì ngợc lại, do sự thúc bách của công việc mưu sinh sức
sáng tạo của nhiều cây bút lại được giải phóng. Từ sau 1945, nghề cầm bút
được quan niệm khác đi, song bộ phận chủ yếu của giới sáng tác thực tế vẫn là
làm việc trong một guồng máy riêng do Nhà nước tổ chức, và bởi họ chỉ làm những
việc có liên quan đến sáng tác nên vẫn có thể nói họ thuộc loại người viết
chuyên nghiệp mà các thế kỷ trước không có.
3. Vai trò
chỉ đạo của một nguyên tắc thi pháp khác trước. Bút pháp của văn học
cổ điển về căn bản là sùng cổ và ước lệ, tức xa lạ với tinh thần thiết thực và
chỉ có quan hệ xa xôi với thực tại đời sống đương thời. Cố nhiên, để văn
chương cử tử sang một bên, cũng còn những áng văn chương cổ ở đó phập phồng
những vui buồn đau khổ của con người. Nhưng nếu muốn tìm những tình cảnh
con người được phác hoạ, những phong cảnh được miêu tả, những phong tục được
khảo sát v.v... chỗ nào rõ chất Việt Nam thì ngay cả ở Truyện
Kiều, hoặc Chinh phụ ngâm cũng không tìm thấy. Có
điều đó không phải là lỗi của người viết, mà là do quy phạm của thời đại quy
định. Về phần nhà văn thế kỷ XX, việc hướng về đời thực, dùng những
phương cách biểu hiện vay mượn từ đời thực lại là những lề luật bắt buộc, và
chính điều này mở ra cho ngòi bút của họ một trường hoạt động rộng rãi.
Một khi các ngành nghệ thuật nghe nhìn dựa trên kỹ thuật hiện đại như điện ảnh
truyền hình phát triển, việc ghi chép đời sống lại do chính văn chương đảm
nhiệm.
4. Hệ thống thể
loại gần với châu Âu. Văn, thơ phú lục là những thể chính trong
sáng tác thời xưa. Chúng có một mục đích chung là cốt để giúp tác giả nói
chí mình (ngôn chí) nói tình cảm mình(mạn hứng), chuyên
chở tư tưởng (tải đạo). Điều đó phù hợp với thi pháp sùng cổ ước
lệ như trên vừa nói. Còn trong văn chương thời nay, người ta thấy nổi lên
những thể tài mới. Kịch nói là thể hoàn toàn ngoại nhập. Tiểu
thuyết thì ngày xưa thấp thoáng cũng có, nhưng theo một quy phạm riêng và ngày
nay ngả hẳn sang quy phạm của tiểu thuyết phương Tây. Nói chung, trong hệ
thống thể loại mới, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo, chính nó, với khả năng phong
phú vốn có, sẽ diễn tả đầy đủ các sắc thái đa dạng của thực tại, kể cả cái
“chất văn xuôi” tức là cái chất phàm tục của đời sống đương thời. Đây
chính là một đặc điểm quán xuyến trong toàn bộ đời sống văn học thế kỷ XX, nó
làm cho hệ thống thể loại có một trọng tâm khác hẳn trước.10
5. Ngôn
ngữ văn học. Một bộ phận lớn của văn học từ thế kỷ XIX trở về trước
được viết bằng chữ Hán. Việc sử dụng một thứ văn tự xa lạ với tiếng nói
thông thường khiến cho các sáng tác lúc ấy chưa đóng góp được nhiều cho sự phát
triển ngôn ngữ dân tộc như lễ ra có thể có. Đến các tác phẩm viết bằng
chữ nôm cũng bị hạn chế, ngày nay đọc lại các tuyện nôm, chúng ta thấy ngoại
trừ những kiệt tác như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm v.v...
thì ở phần lớn trường hợp còn lại, ngôn ngữ văn học thường có phần thô thiển, khi
nôm na, dông dài, khi lúng túng học đòi và không tiêu hoá tốt những ảnh hưởng
của tiếng Hán. Bước sang thế kỷ XX, ngôn ngữ văn học nhờ tiếp thu được sự
trong sáng và khúc chiết của tiếng Pháp, nên trở thành thanh thoát và linh hoạt
hơn hẳn. Điều quan trọng nhất là từ đây, nó hướng về đời thực, muốn có
được cái vẻ tự nhiên và đa dạng của ngôn ngữ hàng ngày. Xu hướng này của
sự tìm tòi vốn đã có từ nửa đầu thế kỷ XX, đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
càng được thúc đẩy mạnh mẽ, nó làm cho tiếng Việt trở nên chắc khoẻ, mà cũng
linh hoạt hơn bao giờ hết và đây chính là đóng góp của ngôn ngữ văn học đối với
ngôn ngữ dân tộc nói chung.
Đến đây, có thể tóm tắt:
a) Khái niệm văn
học hiện đại trong nghiên cứu văn học, theo chúng tôi nên dành để chỉ
văn học Việt Nam thế kỷ XX.
b) Ở đâu kia, ở thời
điểm nào kia, hiện đại có thể có nghĩa khác, nhưng xét chung trong vòng hơn một
thế kỷ nay, một nền văn học hiện đại là một nền văn học xây dựng theo mẫu hình
phương Tây. Cố nhiên ở mỗi dân tộc, việc này được làm theo một
cách riêng, với sự sáng tạo riêng. Nói như Naguib Mahfouz, nhà văn Ai
Cập được giải Nobel văn chương 1988: “Những trào lưu văn hoá phương Tây đã được
chúng tôi tích nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi vào nền văn hoá của
chúng tôi nhuần nhuyễn đến nỗi không phân biệt được nữa. Sự đồng hoá đạt
đến nỗi tưởng như những trào lưu ấy vẫn có ở nước chúng tôi vậy".”11
c) Để chuyển dịch cả một
nền văn học (và rộng hơn cả nền văn hoá) từ mô hình trung đại sang mô hình hiện
đại, cần có cả một quá trình. Đó là quá trình hiện đại hoá văn học khởi
động từ đầu thế kỷ, và đến 1945, coi như đã hoàn thành một chặng cơ bản (Còn
như tới những năm tám mươi, chín mươi, một quá trình hiện đại hoá lại đang xảy
ra, thì đó là một việc khác, có sắc thái khác).
d) Quá trình hiện đại
hoá đồng thời cũng là quá trình trong đó các xu thế dân tộc hoá, và dân chủ hoá
đóng vai trò những định hướng liên tục và ổn định. So với văn học trung
đại, nền văn học Việt Nam hiện đại thực sự trở thành một nền văn học dân tộc,
với nghĩa đầy đủ của từ này. Mặt khác cũng chỉ đến giai đoạn hiện đại,
tinh thần dân chủ vốn sẵn có trong văn chương các thế kỷ trước, mới được hoàn
thiện. Bề nào mà xét thì văn học hiện đại cũng là cả một bước tiến lớn
lao và chúng ta chỉ hình dung ra một cách đầy đủ trong sự so sánh với quá khứ.
2001
Đã in Tạp chí
Văn học 2002 , số 1
1 “Các nhà văn hiện đại mà tôi sẽ nói đến
sau này là những nhà văn có những tác phẩm xuất bản trong khoảng ba mươi năm
gần đây”. Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã
hội, H.1989, tr.11
2 Tạp chí Tiên phong số 3,
16-12-1945, tr. 25-27, in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên phong,
Nxb Hội Nhà văn, 1996, tr.127
3 Bản của Nxb Bốn phương,
S.1951, tr.275-278
5 Lưu Đức Trung chủ biên, Văn học
Đông Nam Á Nxb Giáo dục, 1998, các trang 15-16.
6 Tạp chí Tiên phong, số 4-5 (Nguồn
sống mới) tr.76-80, in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên phong tlđd,
tr.225-227
7 Sách do Viện Thông tin khoa học xã hội,
Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia Việt Nam biên soạn và xuất
bản. Bài Sự hưng khởi... lấy ở tạp chí Lịch sử nghiên cứu viết bằng
chữ Hán, số 5, 1998, tr.150-171. Tác giả bài viết là một giáo sư và một
phó giáo sư khoa Sử, Đại học Bắc Kinh
8 Khoruzhenko K.M. Văn hoá học Từ điển
Bách khoa. ( tiếng Nga ) ,RostovnaDon, Feniks, 1997, tr.313.
9 Tham khảo thêm Trần Thị Mai Nhi Văn
học hiện đại Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, 1994.
10 Xem thêm Trần Đình Hượu: Thực tại
cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trung cận đại, in
trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hoá thông
tin, 1995.
11 Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 12,1989
trong văn học Việt Nam
nxb Đại học quốc gia
Hà Nội 2005
Những cách hiểu khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau
Hàng ngày chúng ta vẫn
thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí thời sự, trong các
văn kiện chính trị cụm từ “quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá” hoặc “sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác
định. Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên
thế giới, và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của xã hội ta lên một bước làm
cho chúng ta không thua kém những nước đó.
Đây chính là nghĩa thông
thường nhất của hai chữ hiện đại.
Một nghĩa khác của từ là
nghĩa được dùng trong khoa sử học. Ở các trường cấp ba (nay gọi là phổ
thông trung học) học sinh được giảng như sau: Không kể thời cổ đại thì từ Cách
mạng tư sản Anh trở về trước là lịch sử trung đại; từ Cách mạng Anh tới Công xã
Paris (1871) là lịch sử cận đại; sau Công xã Paris, lịch sử bước sang một trang
mới là lịch sử hiện đại. (Gần đây, nhiều sách giáo khoa có sự điều chỉnh,
coi lịch sử hiện đại bắt đầu từ sau Cách mạng tháng Mười Nga.) Đây là phác đồ
chung của lịch sử thế giới. Còn trong từng nước, lại có sự xác định cụ
thể. ở Trung Hoa lịch sử từ chiến tranh Nha phiến 1840 đến 1919 - phong
trào Ngũ Tứ là lịch sử cận đại; 1919 đến 1949 là hiện đại, sau 1949 là đương
đại. Riêng ở Việt Nam, lịch sử cận đại bắt đầu từ khi người Pháp đánh
chiếm nước ta (1858) cho tới 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản Đông
dương. Từ sau 1930 là lịch sử hiện đại.
Những cái mốc để phân
biệt lịch sử vừa nói cũng là mốc thường dùng để phân chia văn học, và trong
nhiều trường hợp trở thành quy phạm có tính chất Nhà nước. Viện Văn học
chia ra các Ban cổ-cận, Ban hiện đại theo tiêu chuẩn này. Khi làm mục lục
các bài viết in ra hàng năm trên Tạp chí Văn học và Tổng
mục lục 40 năm những người biên soạn cũng theo tiêu chuẩn này để sắp
xếp bài vở.
Thế nhưng cũng có những
cách hiểu khác, tồn tại từ rất sớm.
Khi Vũ Ngọc Phan viết Nhà
văn hiện đại (1941) ông kể gộp vào sách những nhà văn mà sự nghiệp nổi
lên từ đầu thế kỷ XX.1
Sau đó mấy năm, trong
bài viết nhan đề Sự tiến triển của văn học Việt Nam hiện đại2,
ông vẫn giữ nguyên cách hiểu như vậy.
Một tác giả khác, Đào
Duy Anh, trong Việt Nam văn hoá sử cương cũng coi văn học hiện
đại là phần văn học dùng chữ quốc ngữ mà đến thế kỷ XX mới trở nên phổ biến và
phát triển mạnh. Hoặc khi làm Biểu liệt kê tác giả tác phẩm cho
cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã chia văn học Việt
Nam theo các thế kỷ và kết thúc bằng mục Hiện đại (Thế kỷ XX).3
Ở đây, cũng nên lưu ý có
những người không dùng tới mấy khái niệm như hiện đại, thế
kỷ XX, song trong các bài viết của mình, vẫn làm toát ra một quan niệm như
vậy. Đó là trường hợp của Lê Thanh hoặc Mộc Khuê, trong các tác phẩm đã
in hoặc các bài đăng báo.
Một thời gian dài, ở ta
quan niệm “văn học hiện đại, tức là văn học thế kỷ XX” này bị coi là sơ lược,
không có triển vọng. Mãi tới gần đây, nhiều người mới quay lại với cách
phân chia ấy chẳng hạn đó là trường hợp bộ Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900-1930 của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng (bản in lần đầu
1988), hoặc công trình nghiên cứu Quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam 1900-1945 của nhóm Mã Giang Lân (in ra năm 2000). Cách phân
chia này, cũng đã được áp dụng với bộ sách giáo khoa văn học dùng cho các
trường Phổ thông trung học in ra năm 2000 (mới được chỉnh lý).
Theo ý chúng tôi trong
nghiên cứu văn học đây là cách hiểu nên được thống nhất sử dụng. Nó hợp
lý bởi lẽ nó không đặt văn học trong sự phụ thuộc một cách máy móc vào các sự
kiện lịch sử mà có chú ý tới tính độc lập tương đối của văn học. Nói cách
khác nó xem xét văn học dưới góc độ văn hoá, tức là những yếu tố có tính chất
lặp đi lặp lại trong sáng tác và phổ biến bao gồm môi trường hoạt động, chủ
thể, nguyên tắc chỉ đạo sáng tác (thi pháp), thể loại... - đây là những
đặc điểm chúng tôi sẽ trở lại ở đoạn dưới. Và bởi lẽ, những đặc điểm của
văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã tồn tại liên tục, nên hai chữ hiện đại với
nội dung xác định của nó đến nay vẫn dùng được. Đặt bên cạnh hàng chục
thế kỷ của văn học trung đại, thì thời gian của văn học hiện đại chưa phải là
dài, những quy luật chủ yếu của nó đang phát huy tác dụng.
Nhân đây xin giới thiệu
một cách giải quyết tương tự. Trên tạp chí Thế giới mới số
ra 8-3-1999 có đăng bài Vài thông tin mới về Hán tự và văn hoá Trung
quốc. Bài báo cho biết trong nghiên cứu và giảng dạy văn học hiện đại
Trung Quốc đang thấy có sự điều chỉnh. Về thời gian, trước
đây lấy mấy cái mốc 1840-1919-1949, nay các công trình nghiên cứu thường nhìn
chung cả văn học thế kỷ XX. Về không gian, trước chỉ khoanh
tròn trong văn học đại lục, nay đưa vào cả văn học Hồng Công, văn học Đài
Loan. Về quan niệm, coi văn học là một thành tố của văn hoá,
muốn hiểu văn học, phải hiểu cả lịch sử phong tục, tôn giáo... Quả thật
là những bước đột phá mà chúng ta nên tham khảo.
Nội dung của hiện đại hoá
Sau khi qui định thời
gian tồn tại của văn học hiện đại như trên, điều quan trọng là cùng nhau xác
định nội dung khái niệm hiện đại, và đi liền với nó là quá trình hiện đại hoá.
Thoạt nghe, ai cũng hiểu
ngay rằng hiện đại là lối làm nghệ thuật một cách mới mẻ, khác hẳn so với lối
cũ của ngày hôm qua. Nhưng trong thực tế nghiên cứu, từ này không có
nghĩa chung chung như thế mà có nội dung cụ thể của nó. Chúng tôi không
đủ trình độ để tìm hiểu hai chữ hiện đại dưới góc độ từ nguyên học, nhất là xác
định được khởi điểm mà từ này lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, trước khi truyền
sang Việt Nam, song có thể mạnh bạo dự đoán: Hiện đại chỉ được
dùng nhiều từ cuối thế kỷ XIX, nó gắn liền với một giai đoạn bột phát của sự
tiếp xúc Đông Tây, khi mà người châu á (mà gần với ta nhất là Trung Hoa) bắt
đầu có ý thức được rằng dù bản thân từng có truyền thống văn hoá lâu đời, song
hiện đang ở giai đoạn trì trệ, bế tắc, có nhiều phương diện có thể gọi là cổ hủ
lạc hậu. Vậy cái lối làm kinh tế cũng như văn chương nghệ thuật mới mẻ,
đáng gọi là xứng với thời buổi ngày nay (hiện đại) phải là gắn liền với phương
Tây, và trở nên hiện đại (hiện đại hoá) là làm theo mẫu hình phương Tây.
Từ đầu thế kỷ khi đề ra yêu cầu xây dựng nền văn hoá mới, các tác giả Văn
minh tân học sách đã nghĩ như vậy. Mà khi làm công việc ghi nhận
thành tựu những năm từ đầu thế kỷ XX trở đi, các tác giả Vũ Ngọc Phan, Đào Duy
Anh, Dương Quảng Hàm... cũng nghĩ như vậy. Nếu xưa kia, cái để ông
cha ta đối chiếu là văn học Trung Hoa, thì ngày nay, cái để con người đầu thế
kỷ trông vào học tập là cách làm văn hoá, cách nghĩ của người phương Tây.
Đây đó hai chữ Âu hoá có bị hiểu sai và việc này đã có người mang ra chế giễu,
song nhìn chung nó được dùng rất nghiêm chỉnh, và giả định một sự học hỏi tích
cực với tất cả bản lĩnh dân tộc vững chãi, chứ không phải là học đòi theo lối
nô lệ.
Sau đây là cách hiểu hai
chữ hiện đại ở một số nước gần gũi và có hoàn cảnh tương tự với Việt Nam.
Khi khái quát về tình
hình văn học ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonêxia, v.v... các tác giả
cuốn Văn học Đông Nam Á nhất trí rằng: Nếu cuộc tiếp nhận văn
hoá Trung Hoa và Ấn Độ là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ nhất, xảy
ra trong khu vực, thì cuộc tiếp xúc với văn hoá phương Tây là cuộc hội
nhập văn hoá lần thứ hai, nó khiến cho văn học hiện đại ở các nước Đông Nam
Á mang một màu sắc mới5.
Riêng với Trung Hoa, vì
đó là một nền văn học luôn luôn có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam nên chúng
tôi muốn dừng lại kỹ hơn một chút.
Ngay từ 1945, trong một
bài viết mang tên Trên đường kiến thiết văn hoá mới ở Trung Quốc - vấn
đề dân tộc hoá, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai đã khái quát “Vấn đề văn hoá ở
Trung quốc khoảng 100 năm nay cũng là một vấn đề nhập cảng: thâu thái những
kiến thức về kỹ nghệ, về khoa học để cải tạo nền văn hoá “ngàn xưa’ của nước
Tàu”. ở một chỗ khác (cũng bài báo trên), ông viết “vấn đề Âu hoá, hiện
đại hoá (modernisation) cũng là một vấn đề lựa chọn. Bất kỳ khoa học xã
hội hay khoa học tự nhiên, bất kỳ về phương diện tri thức hay phương diện kỹ
nghệ, văn hoá mới Trung Quốc sẽ phải góp nhặt trong văn hoá Âu Tây những thành
phần tiến bộ cái tinh hoa có thể áp dụng vào trong tình thế Trung Quốc ngày
nay".6
Trong cách hiểu của tác giả, hai quá trình Âu hoá và hiện đại hoá gần như đã được
đồng nhất.
Thế còn cách hiểu về
hiện đại hoá ở Trung Quốc hôm nay thì sao? May mắn là trong tay chúng tôi có
cuốn Sử học Trung Quốc trước gạch nối của hai thế kỷ (mới in
ra quý III-2000) trong đó có bài Sự hưng khởi và phát triển của hiện
đại hoá ở Trung Quốc.7
Dưới đây là một số đoạn trích từ bài viết kèm theo số trang ở cuối sách trên.
- Những biến cách trong
sự phát triển của Trung Quốc cũng như của thế giới, sự chuyển biến của xã hội
từ chỗ lấy nông nghiệp truyền thống là chủ đạo, chuyển hướng tới một xã hội có
nền công nghiệp hiện đại (...) xu thế lịch sử và tiến trình lịch sử này được
gọi với một cái tên thông thường, đó là hiện đại hoá (tr.321)
- Khái niệm “hiện đại
hoá” và “phương Tây hoá” được coi ngang nhau và điều này đã phản ánh
trình độ nhận thức chung của trí thức Trung Quốc... (tr.325).
- Tuy việc hiện đại hoá
của Trung Quốc lúc đầu là học tập phương Tây, song thực tế lại là giới thiệu và
học tập Nhật Bản (tr.327).
- Từ sau chiến tranh Nha
phiến 1840, người Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện hiện đại
hoá... (tr.347)
Với các học giả Trung
Quốc vậy là hiện đại hoá bắt đầu ngay từ thời kỳ mà lâu nay, theo sự quy định
của môn lịch sử, vẫn gọi là thời cận đại.
Bây giờ, chúng ta hãy
cùng trở lại với một số định nghĩa trong các từ điển. Như trên đã lưu ý,
cách phân chia ở đây là dựa nhiều vào các yếu tố văn hoá, nên nguồn sách vở mà
chúng tôi hướng tới cũng là các từ điển văn hoá học. Một cuốn từ điển
loại ấy, bản tiếng Nga có viết như sau:
- Hiện đại hoá (tiếng
Pháp moderniser). Thuật ngữ văn hoá học dùng để xác định quá
trình vận động từ xã hội tiền công nghiệp dựa trên truyền thống tới một hệ
thống kinh tế và chính trị, cũng như văn hoá tiêu biểu cho sự phát triển của
các nước tư bản (...) Những yếu tố cơ bản của quá trình này là: khả năng sử
dụng những kỹ thuật hiện đại trong những ngành then chốt của sản xuất được đẩy
mạnh; hình thức tiêu thụ được mở rộng, những điều kiện mới (về xã hội, chính
trị, văn hoá) được phát triển; nền sản xuất mới được hình thành. Quá
trình hiện đại hoá bao gồm cả việc nắm vững những kiểu dạng mới của sinh hoạt
tinh thần (kiểu tư duy mới)...
- Hiện đại hoá trong
lĩnh vực đời sống văn hoá: Quá trình vận động phát triển, từ nền văn hoá tiền
công nghiệp tới nền văn hoá đặc trưng cho các nước tư bản phát triển.
Những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá bao gồm: đa dạng hoá các hệ thống tinh
thần và sự định hướng giá trị; thế tục hoá và đa cực hoá các ý thức xã hội và
giáo dục; làm cho ngày càng có nhiều người biết chữ; hình thành văn hoá và ngôn
ngữ dân tộc, đa dạng hoá các trào lưu tư tưởng; phát triển phương tiện thông
tin đại chúng".8
Đây cũng là quan niệm
thấy trình bày trong một số tài liệu tiếng Nga khác mà chúng tôi có điều kiện
đọc, chẳng hạn cuốn Văn hoá học xã hội của B.S. Erasov (1996)
hoặc Đại từ điển Collins về xã hội học (1999). Bản
Collins nhấn mạnh “có một sự đối lập rõ rệt giữa xã hội trước và sau hiện đại
hoá” “nhân tố quyết định của hiện đại hoá là vượt qua, thay thế những giá trị
truyền thống vốn thù địch với mọi biến động”. Hiện đại hoá như vậy là “bao
trùm lên cả công nghiệp hoá”.
Phân biệt với chủ nghĩa hiện đại
Ngoài mấy từ hiện
đại, hiện đại hoá trên sách vở báo chí còn thấy có thuật ngữ chủ
nghĩa hiện đại. Có lẽ cũng nên nói qua về khái niệm này, để tránh
hiểu lầm, và lẫn lộn khi sử dụng.
Đặt trong lịch trình
tiến hoá chung của lịch sử châu Âu thì thế kỷ XX là cả một giai đoạn đa đoan
phức tạp chưa từng có. Trước tiên là những phát minh khoa học (như sinh
học phân tử, thuyết di truyền, vật lý lượng tử và thuyết tương đối của
Einstein; phân tâm học của Freud...) làm đảo lộn nhiều quan niệm
cũ. Rồi đến những thay đổi xảy ra trên phạm vi rộng lớn, như cuộc đại
chiến thế giới thứ nhất, khiến cho tâm lý nhiều người như bị chấn động.
Ngày hôm qua thanh bình yên ả giống như một giấc mơ đã không còn nữa, thay vào
đấy là thời của mù mờ và hỗn độn. Những điều tưởng không bao giờ có thể
xảy ra, nay hiển hiện trước mặt. Những gì mà thế giới cổ điển coi là kỳ
dị thì nay là chuyện thông thường hàng ngày. Sự hiểu biết của con người
với thế giới không phải bao giờ cũng chắc chắn và đáng tin cậy, như bấy lâu
người ta vẫn tưởng. Con người không làm chủ nổi mình, còn nói chi làm chủ
hoàn cảnh! Từ ngạc nhiên đến hốt hoảng, từ náo nức say sưa đến bi quan tuyệt
vọng, từ tự hào kiêu hãnh đến cay đắng bồn chồn - bảng màu tình cảm của con
người nay thật đủ sắc thái, và mỗi loại tâm trạng này, khi được đẩy lên, tuyệt
đối hoá, biến thành một định hướng trong nghệ thuật. Chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa trừu tượng v.v...
một thời gian dài ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các loại
chủ nghĩa này được một số người gộp chung lại là chủ nghĩa hiện đại với
hàm ý suy đồi, tiêu cực, phản hiện thực và phản nhân đạo, gắn liền với giai
đoạn đi xuống của chủ nghĩa tư bản. Nhưng ngay từ khi Liên Xô còn tồn
tại, đã có một xu thế khác nảy sinh và ngày càng được đồng tình, ấy là xem nghệ
thuật hiện đại là một hướng phát triển hợp lý của nghệ thuật ở các nước tư bản:
từng “izm” kia có thể là thiên lệch, quá đáng, song nhìn một cách tổng hợp, lại
có thể công nhận đấy là một bước tiến trong việc nhận thức đời sống.
Không phải là những biến
dạng của chủ nghĩa hiện đại này hoàn toàn xa lạ với các nước phương Đông nói
chung và Việt Nam nói riêng. Sự thực là trong quá trình vận động của
mình, văn học Việt Nam vừa diễn lại nhiều bước đi của các thế kỷ trước, vừa
đồng thời kín đáo tiếp nhận những vang vọng của châu Âu thế kỷ XX. Rất tự
nhiên là ngay từ cuối những năm ba mươi ở nhiều người viết văn Việt Nam đã ngấm
ngầm hình thành một khao khát chân chính: phải thay cách viết cho hợp với không
khí thời đại. Theo họ, cách viết cũ (mặc dù là Âu hoá, nhưng lúc này đã
cũ) dừng lại ở sự nghiêm túc, sự rõ ràng, cũng như sự hài hoà mạch lạc, trong
khi đó thời đại mới yêu cầu sự trực tiếp của cảm hứng, sự bột phát của tư
tưởng, và đôi khi vì thế mà có dẫn tới một thoáng phi lý thì cũng không có gì
quản ngại.9
Nhưng theo chúng tôi tất cả những tìm tòi trên đây của các nhà văn nhà thơ Việt
Nam chỉ dừng lại ở mức những yếu tố làm đậm đà thêm các sáng tác, mà không được
đẩy lên thành các chủ nghĩa. Sự phân cách của văn học ta với văn học thế
giới (trước tiên là phương Tây) thế kỷ XX vẫn còn nguyên vẹn, và khái niệm hiện
đại sử dụng hôm nay ở Việt Nam trên đại thể chưa có dây dưa gì nhiều với những
tìm tòi cực đoan thường thấy trong chủ nghĩa hiện đại.
Sự liên tục của thế kỷ
Cách mạng tháng Tám mang
lại cho lịch sử Việt Nam một bước ngoặt rõ rệt. Sau gần nửa thế kỷ xây
dựng, nền văn học Việt Nam lúc này đã cứng cáp trưởng thành. Giờ đây, nền
văn học ấy tự đặt cho mình một mục đích khác trước, cách tác động tới xã hội
khác trước. Riêng với những người cầm bút, thì từ chỗ là những người lao
động tự do, nay các nhà văn đã trở thành “những chiến sĩ trên mặt trận văn
nghệ”, và hoạt động theo một định hướng tư tưởng thống nhất do Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Đó là một đặc điểm cơ
bản mà khi nghiên cứu văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, xét trên
nhiều mặt, giữa văn học Việt Nam trước và sau 1945 vẫn có một sự liên tục,
đến mức hoàn toàn có lý do chính đáng để xếp cả hai nằm trong một phạm trù
chung là văn học hiện đại. Trong ngôn ngữ học, hai chữ đối lập được dùng
với nghĩa thuần tuý hình thức, tức là lấy cái này đặt bên cái kia để làm nổi
bật sự khác nhau. Mượn thuật ngữ đó của ngôn ngữ học, ở đây chúng tôi
muốn nói chúng tôi không đối lập văn học Việt Nam trước và sau 1945 (đó
là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách đối lập
toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở về trước,
đối lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là một hướng
nghiên cứu cần thiết và có thể nói là có hứa hẹn.
Thử áp dụng cái nhìn văn
hoá học vào nghiên cứu văn học, sơ bộ có thể nhận ra những đặc trưng nhất quán
sau đây của văn học Việt Nam hiện đại, chính nó cũng là những nhân tố tạo nên
sự liên tục của thế kỷ.
1. Sự hình
thành một môi trường văn học thống nhất trong cả nước. Sự sáng tác ở
nước Việt Nam qua các triều đại phong kiến có trồi sụt khác nhau, nhưng nói
chung có tính chất tự cấp tự túc, tác phẩm viết ra không trở thành một sản phẩm
được lưu thông trong xã hội. Xuất bản lúc ấy mang tính cách một thứ hoạt
động tiểu thủ công, manh mún, lặt vặt. Báo chí lại hoàn toàn không
có. Tác phẩm sau khi viết ra sống âm thầm như trong bóng tối, may thì gặp
người tri kỷ, không may thì xếp xó một chỗ. Bước sang thế kỷ XX, cả xã
hội là một mặt bằng liền lặn, sự sáng tạo được đặt trong mặt bằng đó để luôn luôn
lưu thông vận chuyển, từ người viết tới người đọc. Nhờ có máy in, sách
được in ra rồi nhờ có hệ thống phát hành, sách được mang bán, nơi nào có nhu
cầu là sách đi tới. Bước đầu có thể nói tới một lớp công chúng làm nên
một luồng dư luận đa dạng tác động lại sự sangs tạo. Không phải chỉ trong
điều kiện bình thường trước 1945, mà ngay trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp
và chống Mỹ, một môi trường văn chương thống nhất vẫn được duy trì và chính nó
quyết định nhiều đến nội dung của các sáng tác.
2. Sự hình
thành một lớp người làm nghề. Lắng nghe trong văn học đầu thế kỷ
người ta bắt đầu nhận ra một tiếng kêu than hơi lạ: tiếng kêu của những người
sống bằng nghề cầm bút, như Tản Đà, hoặc lớp sau, như Xuân Diệu, Vũ Trọng
Phụng... Một thứ tiếng kêu như thế chưa hề thấy trong văn học Việt Nam từ
thế kỷ XIX trở về trước, đơn giản là vì hồi ấy, những người viết văn làm thơ
chẳng qua rỗi rãi nên thử viết để trình bày vài điều tâm huyết hoặc một ít xúc
động, chứ không ai sống bằng nghề bao giờ. Có người e sợ việc hình thành
lớp người có nghề khiến cho sự sáng tạo của họ trở nên nhàm chán rồi bị thui
chột, song thực ra thì ngợc lại, do sự thúc bách của công việc mưu sinh sức
sáng tạo của nhiều cây bút lại được giải phóng. Từ sau 1945, nghề cầm bút
được quan niệm khác đi, song bộ phận chủ yếu của giới sáng tác thực tế vẫn là
làm việc trong một guồng máy riêng do Nhà nước tổ chức, và bởi họ chỉ làm những
việc có liên quan đến sáng tác nên vẫn có thể nói họ thuộc loại người viết
chuyên nghiệp mà các thế kỷ trước không có.
3. Vai trò
chỉ đạo của một nguyên tắc thi pháp khác trước. Bút pháp của văn học
cổ điển về căn bản là sùng cổ và ước lệ, tức xa lạ với tinh thần thiết thực và
chỉ có quan hệ xa xôi với thực tại đời sống đương thời. Cố nhiên, để văn
chương cử tử sang một bên, cũng còn những áng văn chương cổ ở đó phập phồng
những vui buồn đau khổ của con người. Nhưng nếu muốn tìm những tình cảnh
con người được phác hoạ, những phong cảnh được miêu tả, những phong tục được
khảo sát v.v... chỗ nào rõ chất Việt Nam thì ngay cả ở Truyện
Kiều, hoặc Chinh phụ ngâm cũng không tìm thấy. Có
điều đó không phải là lỗi của người viết, mà là do quy phạm của thời đại quy
định. Về phần nhà văn thế kỷ XX, việc hướng về đời thực, dùng những
phương cách biểu hiện vay mượn từ đời thực lại là những lề luật bắt buộc, và
chính điều này mở ra cho ngòi bút của họ một trường hoạt động rộng rãi.
Một khi các ngành nghệ thuật nghe nhìn dựa trên kỹ thuật hiện đại như điện ảnh
truyền hình phát triển, việc ghi chép đời sống lại do chính văn chương đảm
nhiệm.
4. Hệ thống thể
loại gần với châu Âu. Văn, thơ phú lục là những thể chính trong
sáng tác thời xưa. Chúng có một mục đích chung là cốt để giúp tác giả nói
chí mình (ngôn chí) nói tình cảm mình(mạn hứng), chuyên
chở tư tưởng (tải đạo). Điều đó phù hợp với thi pháp sùng cổ ước
lệ như trên vừa nói. Còn trong văn chương thời nay, người ta thấy nổi lên
những thể tài mới. Kịch nói là thể hoàn toàn ngoại nhập. Tiểu
thuyết thì ngày xưa thấp thoáng cũng có, nhưng theo một quy phạm riêng và ngày
nay ngả hẳn sang quy phạm của tiểu thuyết phương Tây. Nói chung, trong hệ
thống thể loại mới, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo, chính nó, với khả năng phong
phú vốn có, sẽ diễn tả đầy đủ các sắc thái đa dạng của thực tại, kể cả cái
“chất văn xuôi” tức là cái chất phàm tục của đời sống đương thời. Đây
chính là một đặc điểm quán xuyến trong toàn bộ đời sống văn học thế kỷ XX, nó
làm cho hệ thống thể loại có một trọng tâm khác hẳn trước.10
5. Ngôn
ngữ văn học. Một bộ phận lớn của văn học từ thế kỷ XIX trở về trước
được viết bằng chữ Hán. Việc sử dụng một thứ văn tự xa lạ với tiếng nói
thông thường khiến cho các sáng tác lúc ấy chưa đóng góp được nhiều cho sự phát
triển ngôn ngữ dân tộc như lễ ra có thể có. Đến các tác phẩm viết bằng
chữ nôm cũng bị hạn chế, ngày nay đọc lại các tuyện nôm, chúng ta thấy ngoại
trừ những kiệt tác như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm v.v...
thì ở phần lớn trường hợp còn lại, ngôn ngữ văn học thường có phần thô thiển, khi
nôm na, dông dài, khi lúng túng học đòi và không tiêu hoá tốt những ảnh hưởng
của tiếng Hán. Bước sang thế kỷ XX, ngôn ngữ văn học nhờ tiếp thu được sự
trong sáng và khúc chiết của tiếng Pháp, nên trở thành thanh thoát và linh hoạt
hơn hẳn. Điều quan trọng nhất là từ đây, nó hướng về đời thực, muốn có
được cái vẻ tự nhiên và đa dạng của ngôn ngữ hàng ngày. Xu hướng này của
sự tìm tòi vốn đã có từ nửa đầu thế kỷ XX, đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
càng được thúc đẩy mạnh mẽ, nó làm cho tiếng Việt trở nên chắc khoẻ, mà cũng
linh hoạt hơn bao giờ hết và đây chính là đóng góp của ngôn ngữ văn học đối với
ngôn ngữ dân tộc nói chung.
Đến đây, có thể tóm tắt:
a) Khái niệm văn
học hiện đại trong nghiên cứu văn học, theo chúng tôi nên dành để chỉ
văn học Việt Nam thế kỷ XX.
b) Ở đâu kia, ở thời
điểm nào kia, hiện đại có thể có nghĩa khác, nhưng xét chung trong vòng hơn một
thế kỷ nay, một nền văn học hiện đại là một nền văn học xây dựng theo mẫu hình
phương Tây. Cố nhiên ở mỗi dân tộc, việc này được làm theo một
cách riêng, với sự sáng tạo riêng. Nói như Naguib Mahfouz, nhà văn Ai
Cập được giải Nobel văn chương 1988: “Những trào lưu văn hoá phương Tây đã được
chúng tôi tích nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi vào nền văn hoá của
chúng tôi nhuần nhuyễn đến nỗi không phân biệt được nữa. Sự đồng hoá đạt
đến nỗi tưởng như những trào lưu ấy vẫn có ở nước chúng tôi vậy".”11
c) Để chuyển dịch cả một
nền văn học (và rộng hơn cả nền văn hoá) từ mô hình trung đại sang mô hình hiện
đại, cần có cả một quá trình. Đó là quá trình hiện đại hoá văn học khởi
động từ đầu thế kỷ, và đến 1945, coi như đã hoàn thành một chặng cơ bản (Còn
như tới những năm tám mươi, chín mươi, một quá trình hiện đại hoá lại đang xảy
ra, thì đó là một việc khác, có sắc thái khác).
d) Quá trình hiện đại
hoá đồng thời cũng là quá trình trong đó các xu thế dân tộc hoá, và dân chủ hoá
đóng vai trò những định hướng liên tục và ổn định. So với văn học trung
đại, nền văn học Việt Nam hiện đại thực sự trở thành một nền văn học dân tộc,
với nghĩa đầy đủ của từ này. Mặt khác cũng chỉ đến giai đoạn hiện đại,
tinh thần dân chủ vốn sẵn có trong văn chương các thế kỷ trước, mới được hoàn
thiện. Bề nào mà xét thì văn học hiện đại cũng là cả một bước tiến lớn
lao và chúng ta chỉ hình dung ra một cách đầy đủ trong sự so sánh với quá khứ.
2001
Đã in Tạp chí
Văn học 2002 , số 1
1 “Các nhà văn hiện đại mà tôi sẽ nói đến
sau này là những nhà văn có những tác phẩm xuất bản trong khoảng ba mươi năm
gần đây”. Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã
hội, H.1989, tr.11
2 Tạp chí Tiên phong số 3,
16-12-1945, tr. 25-27, in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên phong,
Nxb Hội Nhà văn, 1996, tr.127
3 Bản của Nxb Bốn phương,
S.1951, tr.275-278
5 Lưu Đức Trung chủ biên, Văn học
Đông Nam Á Nxb Giáo dục, 1998, các trang 15-16.
6 Tạp chí Tiên phong, số 4-5 (Nguồn
sống mới) tr.76-80, in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên phong tlđd,
tr.225-227
7 Sách do Viện Thông tin khoa học xã hội,
Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia Việt Nam biên soạn và xuất
bản. Bài Sự hưng khởi... lấy ở tạp chí Lịch sử nghiên cứu viết bằng
chữ Hán, số 5, 1998, tr.150-171. Tác giả bài viết là một giáo sư và một
phó giáo sư khoa Sử, Đại học Bắc Kinh
8 Khoruzhenko K.M. Văn hoá học Từ điển
Bách khoa. ( tiếng Nga ) ,RostovnaDon, Feniks, 1997, tr.313.
9 Tham khảo thêm Trần Thị Mai Nhi Văn
học hiện đại Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, 1994.
10 Xem thêm Trần Đình Hượu: Thực tại
cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trung cận đại, in
trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hoá thông
tin, 1995.
11 Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 12,1989
Published on May 20, 2016 01:31
May 13, 2016
Hội nhập văn hoá nhìn từ góc độ lịch sử
(Trò chuyện với Giáo sư Hà Văn Tấn, nhà sử học, nguyên Viện
trưởng Viện Khảo cổ Việt Nam)
Do quen sống trong không khí những năm chiến tranh, những bước hội nhập của VN với thế giới từ đầu 2000 trở đi, với một số người ở Hà Nội, hình như là quá mới mẻ,
chưa hề có tiền lệ trong quá khứ. Song quan sát sự hình
thành và đặc điểm của bất cứ nền văn hóa nào, người ta đều thấy ở đó không chỉ có sự vận động nội tại mà còn có vai
trò trọng đại của yếu tố hội nhập. Với văn hóa Việt Nam cũng
vậy.
Trong sự định hướng
cho công cuộc tiếp xúc làm ăn trước mắt với thế giới, rất cần trở lại với các bài học rút ra từ lịch
sử tiếp xúc, giao lưu, cộng hưởng....của văn hóa ta với các nền văn hóa khác.
Xuất phát từ phương hướng suy nghĩ đó, chúng
tôi đã có cuộc trao đổi ngắn với giáo sư sử học Hà Văn Tấn. Bài phỏng vấn được
thực hiện từ 2002, nhưng theo chúng tôi đã bao quát đầy đủ các vấn đề
của hội nhập văn hóa hôm nay.
Những ý nghĩ thường đến với ông khi nghe nói đến
chuyện hội nhập văn hóa?
Cách đây 4.000 năm, trên khu vực
lãnh thổ ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, có một nền văn hóa được hình
thành, gọi là văn hóa Phùng Nguyên. Qua những hiện vật mà chúng ta đào được –
nhất là một loại đồ dùng nghi lễ gọi là nha trương – có thể thấy lúc đó,
xứ sở này đã chịu sự xâm nhập của các yếu tố Ân – Thương của Trung Quốc cổ đại.
Khi khảo sát văn hóa Đông Sơn, chúng tôi lại thấy có những cái búa mà gốc gác của
nó phải kể là từ Trung Á tới. Trên phương diện khảo cổ học, thì chuyện giao
lưu, hội nhập là chuyện tự nhiên, không ai lấy đó làm lạ cả.
Ở những giai đoạn lịch sử về sau, xứ
ta nhiều lần bị xâm lược. Nhưng theo gót kẻ chiếm đóng, bao giờ cũng có văn hóa
cùng tới. Quá trình tiếp biến (hoặc giao thoa) văn hóa có hai
loại, một là tiếp biến tự nguyện và một là tiếp biến cưỡng bức. Tiếp biến kiểu gì, thì trong giao lưu, nền
văn hóa nội địa cũng sẽ trở nên giàu có và truyền thống sẽ hiện ra đa dạng hơn.
Có người
còn nói trong lịch sử, đôi khi, cái ngoại nhập lại có trước và cái ta tưởng là thuần túy bản địa lại
có sau. Đó có phải là ngụy biện ?
Không ngụy biện một chút nào cả!
Không phải bao giờ lịch sử cũng rành mạch rõ ràng như ta tưởng. Ví dụ, giờ đây
thấy chị em rủ nhau mặc váy, nhiều người cho là đánh mất bản sắc, bởi họ nghĩ
váy là của châu Âu hay Trung Hoa, Ấn Độ gì đó, còn phụ nữ Việt Nam mặc quần mới
là... dân tộc. Song nên nhớ văn hóa quần thật ra lại của phương Bắc, chính ở
các nước Đông Nam Á, nguyên sơ là mặc váy. Ca dao cũ còn ghi lại sự thực đó:
Cái thúng mà thủng
hai đầu
Bên ta thì có, bên
Tàu thì không
Lại có
người nói cái truyền thống như nó vốn vậy (bao gồm cả yếu tố bản địa lẫn yếu tố
ngoại nhập) không nhất thành bất biến, và khi nói trung thành với truyền thống
thi cần hiểu là trung thành với tất cả những phương diện khác nhau của truyền
thống?
Có lẽ là như thế! Truyền thống
không đơn nhất, cũng như lịch sử không phiến diện, chỉ có một sắc thái nào đó.
Mỗi khi có người hỏi giai đoạn nào trong lịch sử là tiêu biểu cho dân tộc Việt
Nam, tôi thường trả lời là theo tôi, lịch sử Việt Nam bao gồm tất cả những giai
đoạn mà nó đã có, không nên tách ra giai đoạn này là giàu chất Việt Nam hơn, mà
giai đoạn kia là ít chất Việt Nam hơn.
Trong quá trình phát triển, truyền
thống không phải là mục đích. Nó chỉ là cơ sở để ta đi tới. Và bao giờ truyền
thống cũng có nhiều mặt, nên tiếp tục truyền thống đồng thời cũng có nghĩa sự lựa
chọn.
Có những
giai đoạn Việt Nam đóng cửa, không chỉ nhà cầm quyền mà cả những người dân thường
cũng không muốn tiếp nhận gì hết từ các nền văn hóa xa lạ. Đấy có phải là một
chỗ yếu của truyền thống giao lưu ở ta?
Khi có sự đụng độ giữa hai dân tộc, có chiến
tranh dĩ nhiên có sự co lại.
Suốt thế kỷ XIX, sự co lại không muốn tiếp xúc
ở ta là quá rõ. Phải tới đầu thế kỷ XX,
sự giao lưu mới bùng lên mạnh mẽ.
Tương tự như vậy, thời gian 1945-75,
chúng ta phải bảo nhau tự hạn chế mọi tiếp xúc lại để đánh giặc cái đã; nhưng rồi
sau giai đoạn ấy, lại tới giai đoạn tiếp xúc sôi động hiện nay. Bảo ta chỉ biết
đóng cửa là không đúng, mà bảo ta quá cởi mở cũng không đúng.
Liệu có cần phải nhắc nhở nhau là hãy thận trọng,
kẻo sẽ làm mất bản sắc ngàn đời của văn hóa dân tộc?
Cần chứ! Khuynh hướng xa rời bản sắc
vẫn là nguy cơ thường trực. Vì học đòi
mà xa rời, lại cũng vì tự ti, mà sự xa rời cuồng dại hơn.
Có điều, không phải vì sợ mất bản sắc mà đóng thật chặt cửa. Vấn đề đặt
ra là: khi tiếp xúc với ngoại giới, mỗi một dân tộc phải tìm ra những phương
cách tốt nhất, đồng thời vừa thu hút cái
hay, vừa loại bỏ cái dở.
Nhưng
nhìn vào thực tế giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều người đang kêu là quá lộn xộn ?
Cái đó không thể tránh khỏi. Để thoát ra khỏi cái
tình thế entropy trước mắt, giới trí thức có thể có một vai trò nào đó,
mà xã hội cần khai thác.
Có những kinh nghiệm gì có thể rút ra được,
khi quan sát quá trình giao lưu tiếp nhận văn hóa ở các nước châu Á ?
Một dân tộc như người Nhật họ lạ
lắm. Trong tiếp xúc với nước ngoài, họ hầu như không có chút mặc cảm nào hết. Họ
sẵn sàng bảo: “Chúng tôi chẳng có gì sáng tạo cả! Chúng tôi chỉ học Trung Hoa”.
Có điều, cách học của họ rất hay, nên tiếp xúc với ai họ cũng biết tự làm cho nền
văn hóa của họ giầu có hơn lên. Từ thời Minh Trị, họ cũng rất thông minh khi tiếp
xúc với văn hóa phương Tây. Nhờ vậy nếu hỏi ở châu Á này nước nào biết giữ gìn
bản sắc hơn hết, thì người ta cũng lập tức nghĩ đến Nhật.
Trung Quốc cũng vậy. Từ thời cổ người Hán, khi bành trướng ra các khu vực
ở phía Tây, đã biết chấp nhận những nền văn hóa ở xa họ và sự cởi mở ấy cũng đã
trở thành truyền thống ở họ.
Bước sang thế kỷ XIX, ở Trung Hoa nổi
lên vấn đề tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Giai đoạn này của họ lại càng cần
được chúng ta nghiên cứu kỹ.
trưởng Viện Khảo cổ Việt Nam)
Do quen sống trong không khí những năm chiến tranh, những bước hội nhập của VN với thế giới từ đầu 2000 trở đi, với một số người ở Hà Nội, hình như là quá mới mẻ,
chưa hề có tiền lệ trong quá khứ. Song quan sát sự hình
thành và đặc điểm của bất cứ nền văn hóa nào, người ta đều thấy ở đó không chỉ có sự vận động nội tại mà còn có vai
trò trọng đại của yếu tố hội nhập. Với văn hóa Việt Nam cũng
vậy.
Trong sự định hướng
cho công cuộc tiếp xúc làm ăn trước mắt với thế giới, rất cần trở lại với các bài học rút ra từ lịch
sử tiếp xúc, giao lưu, cộng hưởng....của văn hóa ta với các nền văn hóa khác.
Xuất phát từ phương hướng suy nghĩ đó, chúng
tôi đã có cuộc trao đổi ngắn với giáo sư sử học Hà Văn Tấn. Bài phỏng vấn được
thực hiện từ 2002, nhưng theo chúng tôi đã bao quát đầy đủ các vấn đề
của hội nhập văn hóa hôm nay.
Những ý nghĩ thường đến với ông khi nghe nói đến
chuyện hội nhập văn hóa?
Cách đây 4.000 năm, trên khu vực
lãnh thổ ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, có một nền văn hóa được hình
thành, gọi là văn hóa Phùng Nguyên. Qua những hiện vật mà chúng ta đào được –
nhất là một loại đồ dùng nghi lễ gọi là nha trương – có thể thấy lúc đó,
xứ sở này đã chịu sự xâm nhập của các yếu tố Ân – Thương của Trung Quốc cổ đại.
Khi khảo sát văn hóa Đông Sơn, chúng tôi lại thấy có những cái búa mà gốc gác của
nó phải kể là từ Trung Á tới. Trên phương diện khảo cổ học, thì chuyện giao
lưu, hội nhập là chuyện tự nhiên, không ai lấy đó làm lạ cả.
Ở những giai đoạn lịch sử về sau, xứ
ta nhiều lần bị xâm lược. Nhưng theo gót kẻ chiếm đóng, bao giờ cũng có văn hóa
cùng tới. Quá trình tiếp biến (hoặc giao thoa) văn hóa có hai
loại, một là tiếp biến tự nguyện và một là tiếp biến cưỡng bức. Tiếp biến kiểu gì, thì trong giao lưu, nền
văn hóa nội địa cũng sẽ trở nên giàu có và truyền thống sẽ hiện ra đa dạng hơn.
Có người
còn nói trong lịch sử, đôi khi, cái ngoại nhập lại có trước và cái ta tưởng là thuần túy bản địa lại
có sau. Đó có phải là ngụy biện ?
Không ngụy biện một chút nào cả!
Không phải bao giờ lịch sử cũng rành mạch rõ ràng như ta tưởng. Ví dụ, giờ đây
thấy chị em rủ nhau mặc váy, nhiều người cho là đánh mất bản sắc, bởi họ nghĩ
váy là của châu Âu hay Trung Hoa, Ấn Độ gì đó, còn phụ nữ Việt Nam mặc quần mới
là... dân tộc. Song nên nhớ văn hóa quần thật ra lại của phương Bắc, chính ở
các nước Đông Nam Á, nguyên sơ là mặc váy. Ca dao cũ còn ghi lại sự thực đó:
Cái thúng mà thủng
hai đầu
Bên ta thì có, bên
Tàu thì không
Lại có
người nói cái truyền thống như nó vốn vậy (bao gồm cả yếu tố bản địa lẫn yếu tố
ngoại nhập) không nhất thành bất biến, và khi nói trung thành với truyền thống
thi cần hiểu là trung thành với tất cả những phương diện khác nhau của truyền
thống?
Có lẽ là như thế! Truyền thống
không đơn nhất, cũng như lịch sử không phiến diện, chỉ có một sắc thái nào đó.
Mỗi khi có người hỏi giai đoạn nào trong lịch sử là tiêu biểu cho dân tộc Việt
Nam, tôi thường trả lời là theo tôi, lịch sử Việt Nam bao gồm tất cả những giai
đoạn mà nó đã có, không nên tách ra giai đoạn này là giàu chất Việt Nam hơn, mà
giai đoạn kia là ít chất Việt Nam hơn.
Trong quá trình phát triển, truyền
thống không phải là mục đích. Nó chỉ là cơ sở để ta đi tới. Và bao giờ truyền
thống cũng có nhiều mặt, nên tiếp tục truyền thống đồng thời cũng có nghĩa sự lựa
chọn.
Có những
giai đoạn Việt Nam đóng cửa, không chỉ nhà cầm quyền mà cả những người dân thường
cũng không muốn tiếp nhận gì hết từ các nền văn hóa xa lạ. Đấy có phải là một
chỗ yếu của truyền thống giao lưu ở ta?
Khi có sự đụng độ giữa hai dân tộc, có chiến
tranh dĩ nhiên có sự co lại.
Suốt thế kỷ XIX, sự co lại không muốn tiếp xúc
ở ta là quá rõ. Phải tới đầu thế kỷ XX,
sự giao lưu mới bùng lên mạnh mẽ.
Tương tự như vậy, thời gian 1945-75,
chúng ta phải bảo nhau tự hạn chế mọi tiếp xúc lại để đánh giặc cái đã; nhưng rồi
sau giai đoạn ấy, lại tới giai đoạn tiếp xúc sôi động hiện nay. Bảo ta chỉ biết
đóng cửa là không đúng, mà bảo ta quá cởi mở cũng không đúng.
Liệu có cần phải nhắc nhở nhau là hãy thận trọng,
kẻo sẽ làm mất bản sắc ngàn đời của văn hóa dân tộc?
Cần chứ! Khuynh hướng xa rời bản sắc
vẫn là nguy cơ thường trực. Vì học đòi
mà xa rời, lại cũng vì tự ti, mà sự xa rời cuồng dại hơn.
Có điều, không phải vì sợ mất bản sắc mà đóng thật chặt cửa. Vấn đề đặt
ra là: khi tiếp xúc với ngoại giới, mỗi một dân tộc phải tìm ra những phương
cách tốt nhất, đồng thời vừa thu hút cái
hay, vừa loại bỏ cái dở.
Nhưng
nhìn vào thực tế giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều người đang kêu là quá lộn xộn ?
Cái đó không thể tránh khỏi. Để thoát ra khỏi cái
tình thế entropy trước mắt, giới trí thức có thể có một vai trò nào đó,
mà xã hội cần khai thác.
Có những kinh nghiệm gì có thể rút ra được,
khi quan sát quá trình giao lưu tiếp nhận văn hóa ở các nước châu Á ?
Một dân tộc như người Nhật họ lạ
lắm. Trong tiếp xúc với nước ngoài, họ hầu như không có chút mặc cảm nào hết. Họ
sẵn sàng bảo: “Chúng tôi chẳng có gì sáng tạo cả! Chúng tôi chỉ học Trung Hoa”.
Có điều, cách học của họ rất hay, nên tiếp xúc với ai họ cũng biết tự làm cho nền
văn hóa của họ giầu có hơn lên. Từ thời Minh Trị, họ cũng rất thông minh khi tiếp
xúc với văn hóa phương Tây. Nhờ vậy nếu hỏi ở châu Á này nước nào biết giữ gìn
bản sắc hơn hết, thì người ta cũng lập tức nghĩ đến Nhật.
Trung Quốc cũng vậy. Từ thời cổ người Hán, khi bành trướng ra các khu vực
ở phía Tây, đã biết chấp nhận những nền văn hóa ở xa họ và sự cởi mở ấy cũng đã
trở thành truyền thống ở họ.
Bước sang thế kỷ XIX, ở Trung Hoa nổi
lên vấn đề tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Giai đoạn này của họ lại càng cần
được chúng ta nghiên cứu kỹ.
Published on May 13, 2016 19:48
May 10, 2016
Một số trích dẫn lý luận về giao lưu và tiếp nhận văn hóa
Vấn đề giao lưu và tiếp nhận văn hóa thường chiếm một vị trí trọng yếu trong các tài liệu lý luận văn hóa, nhưng ở ta nó lại ít được chú ý. Do không trực tiếp đọc được sách Anh Mỹ, tôi chỉ giới hạn trong các tài liệu tiếng Nga và tiếng Việt, song trong phạm vi một bài trên blog, vẫn muốn giới thiệu dưới đây một số đoạn ghi chép đã thu hoạch được và chỉ đạo tôi khi đi vào tìm hiểu quá trình văn hóa này ở VN
Trích từ cuốn sách tiếng Nga: Lịch sử những tư tưởng lý luận trong dân tộc học Mỹ I.P. Averkieva Nxb Nauka 1989.
I Trường phái tiến hoá trong dân tộc học Mỹ XIX- đầu XX
tr 29 Cuối cùng, nên biết rằng kinh nghiệm của nhân loại phát triển theo những con đường gần như giống nhau.
tr 30. .. Công lao chủ yếu của Morgan là tư tưởng cho rằng mọi dân tộc lạc hậu đều có thể tiến bộ.
tr 39 ở những nơi có tồn tại mối quan hệ địa lý, mọi bộ tộc - ở một mức nhất định - đều tham gia vào sự tiến bộ của các bộ tộc khác. Tất cả các phát minh và sáng chế tự nó sẽ trở nên phổ biến.
II. Trường phái lịch sử 1910-1040
tr 78 Văn hoá được F.Boas (1858 -1942) xem xét như sự phối hợp ngẫu nhiên của các yếu tố, như kết quả của khuếch tán và tiếp biến văn hoá. Phương pháp lịch sử được ông hiểu như sự theo dõi một cách chặt chẽ những sự khuếch tán và sự vay mượn những yếu tố cụ thể của văn hoá hay các thành tố của nó.
tr 78 dẫn Boas "không có gì cường điệu khi nói rằng không có một dân tộc nào mà phong tục của họ lại không chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác"
Theo Boas mỗi một dân tộc đều có khuynh hướng tiếp thu những yếu tố của các nền văn hoá xa lạ, nhưng thiên tài của mỗi dân tộc là ở chỗ chế biến nó, làm cho nó thích hợp với truyền thống của mình. Đấy là thực chất cách hiểu của Boas về tiếp biến
Boas còn có mấy luận điểm:
- cơ sở sự phát triển văn hoá, của các xã hội giống nhau
- vậy là có những quy luật chung
- nhưng trong những trường hợp cụ thể, có vô số những ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên chính là cái tất nhiên của mọi xã hội.
văn hoá "trong một mức độ lớn được xác định bởi những ngẫu nhiên bên ngoài, chứ không phải bắt nguồn từ cuộc sống nội tại của dân tộc" (tr 97)
Những phương thức hội nhập và tự bảo tồn nền văn hoá bài viết của KisdekovaV.V. tạp chí Những vấn đề văn học t. Nga , 1990, s 3
Hội nhập là đặc trưng, tính nội tại, điều kiện sống còn của văn hoá, nhất là khi cái bất biến bị lung lay trong quá trình xây dựng một trật tự mới
hội nhập = từ cái xa lạ trong hệ thống của nền văn hoá dân tộc khác biến thành cái của mình
Bành trướng cũng là một hình thức hội nhập văn hoá.
Tiếp biến- acculturation Theo bản dịch phần Văn hoá và văn minh trong Encyclope'die universalis
Văn hoá như một theo đuổi sự hoàn hảo nó chi phối chúng ta bởi những phương tiện và hiểu biết
Anh: cultural change - trao đổi văn hoá
Tây Ban Nha: transculturation - di [chuyển] văn hoá
Tiếp xúc văn hoá không được hiểu như di chuyển các yếu tố của một nền văn hoá sang một nền văn hoá khác, mà lại như một quá trình phản ứng liên tục qua lại giữa các nhóm văn hoá khác nhau.
Tiếp biến để chỉ tổng thể những phản ứng qua lại đó. Nó thay đổi tuỳ theo đó là "cấy ghép" của cả xã hội hay chỉ một số
- tuỳ thiện cảm hay ác cảm
- tuỳ số lượng tham gia mỗi bên
- tuỳ mức hai bên vốn gần nhau hay xa nhau
- tuỳ địa điểm.
Bao giờ cũng có chống đối của văn hoá nội địa với văn hoá chinh phục
- có chọn lựa (do văn hoá nội địa chọn) có các tiếp nhận, các từ chối hình thành văn hoá lai
- có sự đồng hoá hoàn toàn
- có phản ứng "sốc"
Tái lý giải
Một quá trình mà nhờ đó những ý nghĩa cũ được đem gán cho các yếu tố mới hoặc nhờ đó, những giá trị mới thay đổi ý nghĩa văn hoá của các hình thức cũ.
Trong thực tế văn hoá là một xây dựng tổng thể, lúc nào cũng "tự khởi thảo"
Quá trình tiếp biến phải được nắm bắt trong chiều lên xuống của chúng như những tổng thể giải văn hoá và tái tổ chức văn hoá.
Văn hoá mới đang phát triển không thể được xem xét như một tổng thể những cái rời rạc cả cũ lẫn mới ghép bừa vào nhau mà phải nói đến những tổng hợp sống động sự xuất hiện của những nét văn hoá chưa từng có.
Mutations -- đột biến: những "đổi lốt"; sự xuất hiện những giống loại hoàn toàn mới bằng cách lai giống các nền văn hoá giao nhập.
Không có các nền văn hoá nói chung mà chỉ có các cá thể vốn mang văn hoá khác nhau tiếp xúc với nhau.
Trong cấy văn hoá, người ta đề cao:
- khái niệm thích nghi
- khái niệm chín mùi (thay đổi sẽ tốt, nếu người ta cho nó thời gian)
- khái niệm chức năng -- mọi thiết chế đều có chức năng
Mọi sửa đổi là vô ích nếu người ta không đổi hệ thống giá trị.
NHỮNG GHI CHÉP TỪ TẠP CHÍ NGƯỜI ĐƯA TIN UNESCO
bản tiếng Việt của TTXVN
Tính tất yếu của giao lưu tiếp nhận
S. Averintsev (nhà văn hóa Nga): Sự tác động của một nền văn hoá, đối với một nền văn hoá khác, tự bản thân nó chẳng bao giờ mang tính xâm lược cả. Một nền văn hoá "thuần nhất" ắt cũng phi lý như một chuỗi những cuộc hôn nhân, loạn luân trong cùng một gia đình, tất yếu sẽ dẫn đến thoái chủng. Một trong những thước đo tính độc đáo của một nền văn hoá là khả năng hấp thụ một cách sáng tạo những ảnh hưởng bên ngoài.( NĐT số 7/90)
-Quá khứ khác bản sắc lịch sử. Không thể có chúng ta mà không có chúng (họ). Không thể có cái tôi nếu không có kẻ khác.
-Không một định nghĩa nào về bản sắc mà không tính đến quá khứ, nhưng một định nghĩa chỉ dựa trên việc trở lại với một bản sắc đã mất của quá khứ, là hoàn toàn ảo tưởng (số 7/90).
Văn hoá cùng nghiã với sự hoàn thiện con người. Giao thoa không phải là di chuyển mà là phản ứng (số 11/89).
- Tôn giáo (nhân tố) giúp tôi hiểu biết kẻ khác và kẻ khác hiểu tôi. Nhân tố đó cũng giúp người ta chống lại "mọi khối kín mít tự lấy làm đủ và tự mãn trong những không gian tự tạo ra đó".
- Bắt chước, không phải nghệ thuật, không phải dấu hiệu sự chín chắn về văn hoá (11/90).
Tại sao các dân tộc lại khó chấp nhận nhau đến vậy?
Federice Mayor (người từng nhận xét “sáng suốt và cay đắng thường đi với nhau”):
- Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác.
[Có lẽ bởi vậy] Chính những dân tộc láng giềng, những chính phủ láng giềng lại khó hiểu nhau nhất bởi vì họ mặt đối mặt trước với nhau và mỗi bên có xu hướng khép mình lại trong các truyền thống của mình, và khinh rẻ các truyền thống các bên kia.
Trong con người ta, có những phần sợ hãi, hoài nghi và khinh rẻ lẫn nhau (số 10/89).
Kẻ khác = kẻ ta chưa biết= kẻ thù
Chấp nhận kẻ khác, ở một mức nào đó, là xét lại ta là phủ nhận ta chỗ hắn bắt đầu là chỗ chung cục của ta. (số 10/89)
- Đoạn tuyệt là điều không thể tránh khỏi và là thông thường với tất cả những ai xẻ mình giữa hai nền văn hoá (3/91)
José Marti: Nước nào chỉ buôn bán với một nước, sẽ đi tới cảnh nô lệ
Marcel Mauss: Không có một nền văn minh nào xứng đáng với cái tên gọi của nó lại không có những sự chán ghét những sự khước từ đối với những yếu tố của các nền văn minh mà nó tiếp nhận (dẫn theo F. Braudel)
Trường hợp của các nước Nam Mỹ
Công thức của C.Fuentes: [Khi triếp xúc với văn hóa phương Tây] văn hoá bản địa không mất đi, cũng không chiến thắng. Nó sống sót.
(Về thái độ đối với văn hóa ngoại lai) Tôi không lo sự xung đột, mâu thuẫn, bằng những vấn đề sinh ra từ nghi kỵ, lo sợ kẻ khác, lo sợ cái xa lạ với chính mình (số 1/92)
Kết quả của hội nhập
Naguib Mahfouz (nhà văn Ai Cập, Nobel văn học 1988) Những trào lưu [văn hoá phương Tây] đã được chúng tôi tích nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi, vào nền văn hoá của chúng tôi nhuần nhuyến đến nỗi không phân biệt được nữa.
Sự đồng hoá khi hoàn thành, hiện ra tự nhiên đễn nỗi tưởng như những trào lưu (châu Âu) ấy vẫn sẵn có ở nước chúng tôi vậy. (số 12/89 )
Trích từ cuốn sách tiếng Nga: Lịch sử những tư tưởng lý luận trong dân tộc học Mỹ I.P. Averkieva Nxb Nauka 1989.
I Trường phái tiến hoá trong dân tộc học Mỹ XIX- đầu XX
tr 29 Cuối cùng, nên biết rằng kinh nghiệm của nhân loại phát triển theo những con đường gần như giống nhau.
tr 30. .. Công lao chủ yếu của Morgan là tư tưởng cho rằng mọi dân tộc lạc hậu đều có thể tiến bộ.
tr 39 ở những nơi có tồn tại mối quan hệ địa lý, mọi bộ tộc - ở một mức nhất định - đều tham gia vào sự tiến bộ của các bộ tộc khác. Tất cả các phát minh và sáng chế tự nó sẽ trở nên phổ biến.
II. Trường phái lịch sử 1910-1040
tr 78 Văn hoá được F.Boas (1858 -1942) xem xét như sự phối hợp ngẫu nhiên của các yếu tố, như kết quả của khuếch tán và tiếp biến văn hoá. Phương pháp lịch sử được ông hiểu như sự theo dõi một cách chặt chẽ những sự khuếch tán và sự vay mượn những yếu tố cụ thể của văn hoá hay các thành tố của nó.
tr 78 dẫn Boas "không có gì cường điệu khi nói rằng không có một dân tộc nào mà phong tục của họ lại không chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác"
Theo Boas mỗi một dân tộc đều có khuynh hướng tiếp thu những yếu tố của các nền văn hoá xa lạ, nhưng thiên tài của mỗi dân tộc là ở chỗ chế biến nó, làm cho nó thích hợp với truyền thống của mình. Đấy là thực chất cách hiểu của Boas về tiếp biến
Boas còn có mấy luận điểm:
- cơ sở sự phát triển văn hoá, của các xã hội giống nhau
- vậy là có những quy luật chung
- nhưng trong những trường hợp cụ thể, có vô số những ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên chính là cái tất nhiên của mọi xã hội.
văn hoá "trong một mức độ lớn được xác định bởi những ngẫu nhiên bên ngoài, chứ không phải bắt nguồn từ cuộc sống nội tại của dân tộc" (tr 97)
Những phương thức hội nhập và tự bảo tồn nền văn hoá bài viết của KisdekovaV.V. tạp chí Những vấn đề văn học t. Nga , 1990, s 3
Hội nhập là đặc trưng, tính nội tại, điều kiện sống còn của văn hoá, nhất là khi cái bất biến bị lung lay trong quá trình xây dựng một trật tự mới
hội nhập = từ cái xa lạ trong hệ thống của nền văn hoá dân tộc khác biến thành cái của mình
Bành trướng cũng là một hình thức hội nhập văn hoá.
Tiếp biến- acculturation Theo bản dịch phần Văn hoá và văn minh trong Encyclope'die universalis
Văn hoá như một theo đuổi sự hoàn hảo nó chi phối chúng ta bởi những phương tiện và hiểu biết
Anh: cultural change - trao đổi văn hoá
Tây Ban Nha: transculturation - di [chuyển] văn hoá
Tiếp xúc văn hoá không được hiểu như di chuyển các yếu tố của một nền văn hoá sang một nền văn hoá khác, mà lại như một quá trình phản ứng liên tục qua lại giữa các nhóm văn hoá khác nhau.
Tiếp biến để chỉ tổng thể những phản ứng qua lại đó. Nó thay đổi tuỳ theo đó là "cấy ghép" của cả xã hội hay chỉ một số
- tuỳ thiện cảm hay ác cảm
- tuỳ số lượng tham gia mỗi bên
- tuỳ mức hai bên vốn gần nhau hay xa nhau
- tuỳ địa điểm.
Bao giờ cũng có chống đối của văn hoá nội địa với văn hoá chinh phục
- có chọn lựa (do văn hoá nội địa chọn) có các tiếp nhận, các từ chối hình thành văn hoá lai
- có sự đồng hoá hoàn toàn
- có phản ứng "sốc"
Tái lý giải
Một quá trình mà nhờ đó những ý nghĩa cũ được đem gán cho các yếu tố mới hoặc nhờ đó, những giá trị mới thay đổi ý nghĩa văn hoá của các hình thức cũ.
Trong thực tế văn hoá là một xây dựng tổng thể, lúc nào cũng "tự khởi thảo"
Quá trình tiếp biến phải được nắm bắt trong chiều lên xuống của chúng như những tổng thể giải văn hoá và tái tổ chức văn hoá.
Văn hoá mới đang phát triển không thể được xem xét như một tổng thể những cái rời rạc cả cũ lẫn mới ghép bừa vào nhau mà phải nói đến những tổng hợp sống động sự xuất hiện của những nét văn hoá chưa từng có.
Mutations -- đột biến: những "đổi lốt"; sự xuất hiện những giống loại hoàn toàn mới bằng cách lai giống các nền văn hoá giao nhập.
Không có các nền văn hoá nói chung mà chỉ có các cá thể vốn mang văn hoá khác nhau tiếp xúc với nhau.
Trong cấy văn hoá, người ta đề cao:
- khái niệm thích nghi
- khái niệm chín mùi (thay đổi sẽ tốt, nếu người ta cho nó thời gian)
- khái niệm chức năng -- mọi thiết chế đều có chức năng
Mọi sửa đổi là vô ích nếu người ta không đổi hệ thống giá trị.
NHỮNG GHI CHÉP TỪ TẠP CHÍ NGƯỜI ĐƯA TIN UNESCO
bản tiếng Việt của TTXVN
Tính tất yếu của giao lưu tiếp nhận
S. Averintsev (nhà văn hóa Nga): Sự tác động của một nền văn hoá, đối với một nền văn hoá khác, tự bản thân nó chẳng bao giờ mang tính xâm lược cả. Một nền văn hoá "thuần nhất" ắt cũng phi lý như một chuỗi những cuộc hôn nhân, loạn luân trong cùng một gia đình, tất yếu sẽ dẫn đến thoái chủng. Một trong những thước đo tính độc đáo của một nền văn hoá là khả năng hấp thụ một cách sáng tạo những ảnh hưởng bên ngoài.( NĐT số 7/90)
-Quá khứ khác bản sắc lịch sử. Không thể có chúng ta mà không có chúng (họ). Không thể có cái tôi nếu không có kẻ khác.
-Không một định nghĩa nào về bản sắc mà không tính đến quá khứ, nhưng một định nghĩa chỉ dựa trên việc trở lại với một bản sắc đã mất của quá khứ, là hoàn toàn ảo tưởng (số 7/90).
Văn hoá cùng nghiã với sự hoàn thiện con người. Giao thoa không phải là di chuyển mà là phản ứng (số 11/89).
- Tôn giáo (nhân tố) giúp tôi hiểu biết kẻ khác và kẻ khác hiểu tôi. Nhân tố đó cũng giúp người ta chống lại "mọi khối kín mít tự lấy làm đủ và tự mãn trong những không gian tự tạo ra đó".
- Bắt chước, không phải nghệ thuật, không phải dấu hiệu sự chín chắn về văn hoá (11/90).
Tại sao các dân tộc lại khó chấp nhận nhau đến vậy?
Federice Mayor (người từng nhận xét “sáng suốt và cay đắng thường đi với nhau”):
- Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác.
[Có lẽ bởi vậy] Chính những dân tộc láng giềng, những chính phủ láng giềng lại khó hiểu nhau nhất bởi vì họ mặt đối mặt trước với nhau và mỗi bên có xu hướng khép mình lại trong các truyền thống của mình, và khinh rẻ các truyền thống các bên kia.
Trong con người ta, có những phần sợ hãi, hoài nghi và khinh rẻ lẫn nhau (số 10/89).
Kẻ khác = kẻ ta chưa biết= kẻ thù
Chấp nhận kẻ khác, ở một mức nào đó, là xét lại ta là phủ nhận ta chỗ hắn bắt đầu là chỗ chung cục của ta. (số 10/89)
- Đoạn tuyệt là điều không thể tránh khỏi và là thông thường với tất cả những ai xẻ mình giữa hai nền văn hoá (3/91)
José Marti: Nước nào chỉ buôn bán với một nước, sẽ đi tới cảnh nô lệ
Marcel Mauss: Không có một nền văn minh nào xứng đáng với cái tên gọi của nó lại không có những sự chán ghét những sự khước từ đối với những yếu tố của các nền văn minh mà nó tiếp nhận (dẫn theo F. Braudel)
Trường hợp của các nước Nam Mỹ
Công thức của C.Fuentes: [Khi triếp xúc với văn hóa phương Tây] văn hoá bản địa không mất đi, cũng không chiến thắng. Nó sống sót.
(Về thái độ đối với văn hóa ngoại lai) Tôi không lo sự xung đột, mâu thuẫn, bằng những vấn đề sinh ra từ nghi kỵ, lo sợ kẻ khác, lo sợ cái xa lạ với chính mình (số 1/92)
Kết quả của hội nhập
Naguib Mahfouz (nhà văn Ai Cập, Nobel văn học 1988) Những trào lưu [văn hoá phương Tây] đã được chúng tôi tích nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi, vào nền văn hoá của chúng tôi nhuần nhuyến đến nỗi không phân biệt được nữa.
Sự đồng hoá khi hoàn thành, hiện ra tự nhiên đễn nỗi tưởng như những trào lưu (châu Âu) ấy vẫn sẵn có ở nước chúng tôi vậy. (số 12/89 )
Published on May 10, 2016 07:56
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
