Vương Trí Nhàn's Blog, page 59

April 4, 2016

Con người và tư tưởng thời bao cấp (I)

  Từ 5-2015, một  cuộc triển lãm dựng lại không gian văn hóa thời bao cấp đã thu hút được nhiều bạn trẻ. Đầu tháng tư 2016, nhà
văn hóa Pháp L' Espace có cuộc triển lãm các bức ảnh của một phóng viên thường trú Pháp tại Hà Nội: “Việt Nam những năm 80“.

      Nhân đây xin giới thiệu lại bài viết của tôi về một cuộc triển lãm tương tự  mang tên Cuộc sống  Hà Nội 1975-86 từng được tổ chức tại
Bảo tàng dân tộc học 2006. Bài đã in trên blog này ngày
15-7-2011




Một cách làm sử

   Mặt nghệt ra 
như mất sổ gạo. Một yêu anh có 
may ô -- Hai yêu anh có cá khô để dành -- Ba yêu rửa mặt bằng khăn---
Bốn yêu anh có cái quần đùi hoa.
Những câu ca dao tục ngữ ấy được dịch hẳn ra
tiếng Anh rồi được kẻ nắn nót cẩn thận trên những bức tường lớn, dưới đó là
mấy gian trưng bày các hiện vật theo một
cách thức mà trong điều kiện ở Hà Nội này 
phải gọi là “hoành tráng”. 

Đó là một căn hộ thu nhỏ với những vật dụng
phổ biến một thời, kể cả cái hố xí được ngăn lại để nuôi lợn. 

Đó là một cửa
hàng  gạo có kèm theo thông báo tháng này
bán gạo thế nào.

 Rồi một cửa hàng bách hóa với biển hiệu rỉ nát và những bao
thuốc cũ mèm, tưởng như sắp mốc đến nơi.

  
   

     Bộ
sưu tập Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp
đã trình diện như thế tại bảo tàng có uy tín số một hiện nay, Bảo tàng dân tộc
học.

     
Một định hướng lớn của bộ môn lịch sử - văn hóa thời hiện đại là đi vào
những chuyện có vẻ không có gì đặc biệt, nói theo  nhà nghiên cứu F. Braudel, “những cấu trúc
của sinh hoạt đời thường“.

     
Một lần tôi đọc tờ báo chuyên về điểm sách của Nga, được biết bên Moskva
họ cho dịch cả những cuốn kể chuyện nước Đức thời Hitler, người dân thường đọc
sách gì, xem phim gì, đi làm bằng phương tiện gì, học sinh học sử ở trường ra
sao,  mơ ước về tương lai ra sao. Còn bản
thân người Nga cũng làm những cuốn tương tự, trình bày riêng về từng giai đoạn
như các  thập kỷ sáu mươi, bảy mươi thế
kỷ XX.

    Mà
chẳng phải đến thế kỷ XX  người ta mới
làm vậy. Trung quốc, ngoài các bộ chính sử kinh điển, lại sớm có từ lịch sử ăn mày, lịch sử lưu manh, tới lịch sử trò chơi, lịch sử tuyển chọn người đẹp tiến cung (bản tiếng Việt mấy cuốn
này đều đã in ra từ mấy năm trước). 

    Còn
ở mình thì sao? Cách hiểu về sử quá cổ lỗ. Lịch sử thường chỉ dành riêng cho
những chuyện quen gọi là thiêng liêng, và quá khứ thì cứ bị quấn vào hiện tại,
để rồi người viết lúng túng như gà mắc tóc, làm khoa học cũng cũng vật vờ mà
làm chính trị cũng nửa vời kiểu ăn theo, chẳng đâu vào đâu.

     Giở
lại cuốn Từ điển tiếng Việt của Văn
Tân do NXB Khoa học xã hội cho in năm 1977, thấy mặc dù đã nói tới hiện tượng móc ngoặc đến những người chuyên nghề phe phẩy, song hai chữ bao cấp vẫn chưa có mặt. 

    Người ta cũng
có thể quan sát thấy tình trạng tương tự ở các từ điển  từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài (chẳng hạn
từ điển Việt Hán) cùng xuất hiện trong thời gian trên. Mãi đến từ  điển Hoàng Phê  mới thấy bao cấp  được định nghĩa đầy đủ.

      Từ
nhiều năm nay trong xã hội đang tồn tại một tình trạng sinh hoạt tinh thần có
thực -- những vấn đề có ý nghĩa nhận thức như “ta đang là gì ?”, “ở vào tình
trạng như thế nào? “ không được xã hội xem trọng; mỗi khi cần thay đổi, các nhà quản lý các cấp chỉ
thích bàn nên làm thế này thế nọ mà không chịu nghĩ lại xem bắt đầu từ đâu, dân
mình đang có những chỗ hay chỗ dở ra sao. 

     Nói chung nhiều lúc thích sống về
phía trước hơn là quay lại chuyện cũ.

     Mà khi người ta không tự hiểu mình, không
có sự đánh giá đúng đắn về quá khứ thì mọi hành động lao tới phía trước rất dễ
sai lệch.

     Xét trên mặt bằng chung đó, phải nói phòng trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp là một nỗ
lực khai phá mở ra một hướng nhìn lại
quá khứ  rất có triển vọng. Nhờ sự  gợi ý và giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế
(1), lần 
đầu tiên có một cách tổng kết lịch sử 
theo cung cách rất hiện đại. Nhân triển lãm người ta có thể nghĩ lại về
cách sống một thời, từ đó liên hệ với sự phát triển của con người trong hoàn
cảnh  của nền kinh tế thị trường hôm nay.


    

Mọi chuyện có từ bao
giờ


 hay là một ít sự kiện “ đã thuộc về lịch sử “

        Sẽ là
không thừa nếu “chính danh “ một chút, tức tìm cách gọi đúng tên sự vật trước
khi bàn về sự vật đó.

      
Về mặt thời gian, lẽ ra, cuộc trưng bày trên Bảo tàng dân tộc học phải
mang cái tên là Cuộc sống Hà Nội thời hậu
chiến


       Còn nếu muốn đi vào thực chất kiểu sống những năm ấy, thay cho bao cấp, người ta có thể dùng những chữ
khác như thời trì trệ, hoặc nói như
tên một tác phẩm của Lê Lựu, thời xa vắng.
Bề nào mà xét thì cũng phải có cái nhìn bao quát từ chiến tranh chống Mỹ, và
lùi lại cả giai đoạn từ sau 1954 trở đi.

      Trong cái mạch chung đó, giai đoạn sau
từ 1975  cho tới 1986 chỉ là một phân
đoạn --- tuy là phân đoạn chín nhất, bộc lộ một cách đầy đủ nhất bản chất của
một giai đoạn phát triển xã hội.

    
Những ai từng đọc các bộ lịch sử Liên xô cũ hẳn nhớ, chủ nghĩa Cộng sản
thời chiến từng được giải thích khá kỹ 
và tinh thần của nó còn chi phối tới khi nhà nước sụp đổ. Ở Trung quốc,
những quan niệm cơ bản đã được thể nghiệm từ thời Diên An để sau 1949 triển
khai  ra toàn đại lục rộng lớn, kể cả Bắc
Kinh Thượng Hải.

     
Còn đối với nhiều người dân Hà Nội, thì đó là cả một câu chuyện khá dài.

    
Trong hồi ký Cát bụi chân ai (1991 ),
Tô Hoài từng  kể về không khí Thủ đô sau
1954 :

       “
Chín năm ở rừng, không có lương, quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt
cũng lấy ở kho từng miếng, cơ quan sắm dao kéo húi đầu cho nhau. Trở lại thành
phố, khó đâu chưa biết, nhưng thức ăn hàng hóa ê hề. Chiều chiều, uống bia Đức
chai lùn  bên gốc liễu nhà Thủy tạ. Nhà
hàng Phú Gia vang đỏ vang hồng vang trắng vỏ còn  dính rơm như vừa lấy ở dưới hầm lên. Áo khoác
da lông cừu Mông Cổ ấm rực, người ta mua về 
phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung quốc thôi thì thượng vàng hạ cám. Kim
sào, kim khâu, chỉ mầu, củ cải, ca la thầu sắng xấu mỳ chính xe đạp cái xe trâu
cao ngồng. Ca xi-rô ngọt pha vào bia cho 
những người mới tập tọng uống bia. Bắt đầu được lĩnh lương tháng. Không
nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng la cà hàng quán được. Có cảm tưởng cả loài
người tiến bộ  đổ của đến mừng  Việt Nam Điện Biên Phủ “(2)       

      
Nhưng cái giai đoạn thoải mái  mà
Tô Hoài tả đó chỉ ngắn ngủi chốc lát. Hàng hóa nhiều không phải vì làm ra mà vì
mới tiếp quản thành  phố sẵn của kho đem
bán. Nguồn hàng không phải tự mình làm ra ấy cạn rất nhanh. Và cái câu mà một
tờ báo lấy làm đầu để “ màu thời gian xám ngắt “ ( Tiền phong chủ nhật 17-6-06 ) bắt đầu từ đây (3)

      
Trước tiên là  sự thiếu thốn.

     
Nhiều mặt hàng thiết yếu sản xuất ra không đủ, phải bán nhỏ giọt mà là
nhỏ giọt theo kiểu người thời nay khó tưởng tượng được. Sách Kinh tế Việt nam 1945-2000 có chụp lại
thông báo của Sở thương nghiệp Hà Nội 11-1956, 
trong đó nói rõ các đại lý diêm được “ nâng mức bán lẻ từ một đến năm
bao “, tức là mỗi người được mua năm bao sau một lần xếp hàng. Đây nữa, một ít
con số mà tôi “ làm cái sái nhì “ lấy lại từ cuốn sách vừa dẫn. 

     Trên công báo
1955, có ghi  mỗi công nhân viên về
nguyên tắc mỗi năm được cấp 5-7 mét vải. 

     Đầu 1955, sinh đẻ được cấp 5 mét diềm
bâu  khổ 70mm, 30 kg gạo ; văn phòng  phí gồm 1,5 thếp giấy /tháng / người. Bình
quân 10 người / tờ báo Nhân dân, một
tờ Cứu quốc. Quạt điện cấp cho các
vị  từ cấp  Thường vụ Ban thường trực Quốc Hội, Bộ Thứ
trưởng, các chuyên gia nước ngoài, các đoàn ngoại giao. 

    Cũng diện Bộ Thứ trưởng
được dùng điện đèn, điện quạt  tùy yêu
cầu ( tr.665 )

      Sự
thiếu thốn này kéo theo cả một quy trình sống mà người ta phải thích ứng.
Khoảng trước sau 1960, bắt đầu có chế độ sổ gạo áp dụng cho toàn dân. Rồi tiếp
sau đó, dường như tất cả nhu yếu phẩm đều có phiếu, như phiếu mua pin cho máy thu thanh  – mà hồi đó người Hà Nội quen gọi là đài --,
phiếu mua phụ tùng xe đạp. Có hai điều không cần phải nói ai cũng biết 1/  định lượng cung cấp cho đại bộ phận các thành
viên xã hội ngày mỗi giảm 2/  chất lượng
các nhu yếu phẩm ngày một kém. Điều này đã được một cán bộ thương nghiệp  nhẩm thành bài vè Nhất gạo nhì rau – Tam dầu tứ muối – Thịt thì đuôi đuối  -- Cá biển mất mùa – Đậu phụ chua chua – Nước
chấm nhạt thếch -- Mì chính có đếch – Vải sợi chưa về -- Săm lốp thiếu ghê –
Cái gì cũng thiếu
( tr 412). Tất cả cứ thế 
mà trượt dài cho đến giai đoạn hậu chiến.

    

Thích
hợp nhưng để lại nhiều di lụy


    Thời bao cấp (75-86 ) luôn được biết đến như
một thời gian khó với cơ chế quản lý 
kinh tế xã hội không thích hợp.
 

     Trong bản giới thiệu  trước khi dẫn vào triển lãm Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp có ghi như vậy.  Xét theo lẽ phải thông  thường, có thể  thấy  điều đó là đúng. Làm sao mà quản lý xã hội
kiểu đó là thích hợp được ?

    
Nhưng nên nhớ điểm xuất phát của chính sách này là hoàn cảnh “thời
chiến “, một cuộc chiến tranh chúng ta luôn luôn ở thế yếu và phải có những nỗ
lực vượt bậc. Tất cả cho tiền tuyến. Thóc
không thiếu một cân – quân không thiếu một người.
Những khẩu hiệu đó được
hiểu  chính xác đến từng chữ. Người ở hậu
phương lúc này như sống theo ăn theo. Thế thì 
có thiếu cũng là bình thường !

    Vả
chăng, để tiến hành chiến tranh, xã hội cần phải kết lại thành một khối rắn
chắc, mà muốn thế, cần ghép mọi người vào tổ chức, nói theo một danh từ của
lịch sử, là “ đoàn ngũ hóa “ họ. Việc phân phối theo kiểu bao cấp chỉ là kết
quả của một quá trình lớn  lao hơn : Tất
cả những gì thuộc về con người phải được quản lý.

    Nếu
nhìn nhận liền cả một quá trình như thế thì có thể  thấy rằng không phải cái cơ chế quản lý kinh
tế  mà ta gọi là bao cấp ấy là không thích hợp,  mà có thể nói nó là một cái gì hết sức thích hợp mới đúng. Tương tự như
câu chuyện hợp tác hóa. Chắc chắn là không có hợp tác hóa không thể  đánh Mỹ được.Tại sao vậy ? Bởi có hợp tác hóa
thì mới dễ dàng huy động được những sản phẩm mà nông dân sản xuất được để tiếp
tế cho chiến trường. Có  hợp tác hóa
mới  dễ đưa người đi bộ đội.

     Đó
không phải là một kiểu quản lý khôn ngoan và có hiệu quả ư ? Tất nhiên rồi.
Nhưng không thể có cách nào khác.

     Ra
đời  trên cơ sở  một cơ chế sản xuất bị kìm hãm, quy trình bao
cấp sau đó quay trở lại củng cố sự kìm hãm đó, tức  làm cho tình trạng trì trệ càng thêm trì trệ. 

      Cái được rất nhiều, nhưng cái mất còn lớn hơn nữa. Và cái đáng sợ nhất là không
ít người coi cách quản lý đó là duy nhất thích hợp nên không nghĩ đến chuyện
làm khác đi, thậm chí hủy bỏ, khi  hoàn
cảnh đã thay đổi. Bởi nó tiếp tục duy trì có tới cả chục năm sau chiến tranh,
nên cuộc trưng bày mới được khuôn vào quãng 
thời  gian 75-86 nói trên. Lúc này
cái chế độ bao cấp đã đạt đến mức “ cổ điển” của nó. 

     Người ta sống trong đó như
cá trong nước, nghĩa là tự nhiên thuần thục, và đành lòng  chấp nhận tất cả. 

     Chỉ lấy ví dụ về lương, đây
là con số đưa ra trong cuốn sách Kinh tế
Việt Nam1955-2000 cách tính toán mới
phân
tích mới
(Trần Văn Thọ chủ biên,
nhà xuất bản Thống kê 2000) :
so  với 
năm 1978, thì mức lương năm1980 chỉ bằng 51,1%   và năm 1984 chỉ còn 32,7%. (4).

      Sự vô lý đã
lên đến mức  không cách gì bào chữa được
nữa.




Những sự
gậm nhấm thường trực 


    Tiếu
lâm Việt nam nổi tiếng với các loại truyện có liên quan tới miếng ăn, từ thày
đồ ăn vụng mật tới anh chàng sang nhà bố vợ, nhờ con gà vướng dây mà gắp lia
lịa. Với rất nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, với Đói của Thạch Lam hoặc Một
bữa no
của Nam Cao … người ta đã thấy văn chương tiền chiến có nhiều tác
phẩm cảm động đi vào miêu tả những liên hệ của con người với miếng ăn. Hồi ký Từ 
bến sông Thương
của Anh Thơ kể hồi kháng chiến chống Pháp,  có lần tác giả bắt gặp Xuân Diệu đang trên
đường vào Khu Bốn.  Hỏi  tại sao vào, mới biết ra ở Việt Bắc thiếu cái
ăn quá, tác giả Thơ thơ “ du “ Thanh
Nghệ để tìm cách cải thiện sức khỏe.

    Mối
quan hệ giữa con người và miếng ăn vốn đặc trưng cho mỗi thời đại.

   
Tháng mười 1954, khi Hà Nội mới giải phóng, tôi ở vào tuổi 12. Trong số
những  kỷ niệm liên quan tới sự kiện này,
có việc một hôm chính quyền bán theo giá rẻ gần như cho không mỗi hộ một kg
đường. Cả cái xóm nghèo Thụy Khuê chúng tôi háo hức chờ đợi. Và ở tuổi 12, tôi
được theo người lớn đi xếp hàng từ bốn giờ sáng. Quý lắm, hể hả lắm,  mỗi lần nói tới giải phóng Thủ đô lại nhớ cân
đường mua rẻ.  

     
Gần mười năm sau, mùa hè 1963, trong những ngày học Đại học sư phạm
Vinh, một lần lớp Văn II B  của tôi lên
huyện miền núi Nghi Lộc giúp dân thu hoạch lúa. Để động viên, cấp trên phát
chúng tôi mỗi người một lạng đường gói vào tờ giấy báo. Xin phép gạt nỗi xấu hổ
ra một bên để thú thực là ngay trong buổi họp, nhiều sinh viên, trong đó có
tôi, đã  giở cái gói mỏng teo đó ra, liếm
sạch, vừa liếm vừa nhìn nhau cười, vì không ai bảo ai mà ứng xử giống nhau thế
!

     
Đúng như một trong những câu ghi trên tường cuộc triển lãm này đã xác
định, trong suốt cái thời gian khó đó, có những lúc cái sự ăn trở thành tất cả đối với con người. Từ
sáng đến tối chỉ nghĩ chuyện ăn. Ăn là thiêng liêng. Ăn là  dấu hiệu chứng tỏ mình đang được sống. Thay
cho câu “ tôi tư duy vậy tôi tồn tại “, điều tâm niệm của con người lúc này
là  “tôi còn được ăn, vậy tôi tồn tại “.

      
Ngoài sự ăn, trong may mặc, đi lại, và cả trong vui chơi giải trí nữa,
con người   lúc ấy cũng ở vào tình trạng
tương tự.  Những câu nhại Kiều  “ Bắt  ở trần phải ở trần ---  cho may
ô mới được phần may ô
“  lan ra như
cỏ dại, câu này chết đi, câu khác lại được truyền tụng.

     Nói
rằng thiếu thốn  còn quá đơn giản, phải
nói  sự thiếu thốn lúc ấy  đã lên đến mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng.
Hơn nữa, sự thiếu thốn  triền miên ấy đã
in dấu vào  tâm lý mọi người  và  trở
nên một cách nghĩ thường trực,  nhìn bên
ngoài  có chút gì kỳ quái, thế mới đáng
sợ.

     
Lại nhớ Ngô Tất Tố có bài tiểu phẩm kể Làm no hay là cái ăn trong những ngày nước ngập. Trong số những
người phát biểu cảm tưởng sau khi xem trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp, cũng có người có cái ý nghĩ tương tự
như nhân vật Ngô Tất Tố,  tức là nói
đến  khả năng vượt lên trên sự đói, với một
chút tự hào. 

      Tuy nhiên, nếu có muốn cười thì thật ra nhiều người chúng ta
thường đã phải giấu đi những giọt nước mắt. 


     
Vâng, làm sao khỏi ứa nước mắt, khi nghĩ tới những sáng kiến hồi đó.
Nuôi lợn ngay trong các căn hộ 20 mét của các chung cư. Lộn cổ áo sơ mi và “tích kê“ những chỗ ống quần dễ rách. Nhặt mảnh  phim về kết thành làn. Thu góp từng cái ruột
bút bi viết hết để mang về bơm lại. Lộn trái phong bì để sử dụng thêm lần nữa … 

      Nhiều chuyện lắm và có những chuyện bây giờ phải diễn giải ngọn ngành mới hiểu
nổi.

     
Bảo rằng đó là tiềm năng sáng tạo được bộc lộ thì cũng đúng. Nhưng tôi
cứ thấy tủi cho chữ sáng tạo thế nào. Sáng tạo liều, sáng tạo quẩn, sáng tạo
lấy được …, chắc còn có thể mệnh danh cho sự sáng tạo ấy bằng nhiều chữ nghĩa
xót xa khác.




( còn một kỳ nữa )








 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 04, 2016 19:42

March 28, 2016

Nghiên cứu văn hóa, có rộng thì mới có sâu




Tạp chí Văn hóa Nghệ An số ra 1-5-2015 đã in bài Nghiên cứu văn hóa từ góc nhìn của Vương Trí
Nhàn


 http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/nghien-cuu-van-hoa-tu-goc-nhin-cua-vuong-tri-nhan

Dựa trên cơ sở bài đó, tôi viết lại thành bài “tự
phỏng vấn” sau đây, xin được coi như một thứ “tự thú” nghề nghiệp. Cảm ơn
bạn Phan Thắng về một số câu hỏi gợi ý.





Đòi
hỏi tự nhiên của nghề nghiệp





--
Ông đã đến với nghiên cứu văn hóa như thế nào
?

 Từ hè1982, bên Thông tấn xã Việt Nam cho
ra tờ báo tuần khổ nhỏ Thể thao và văn
hóa, v
ới hai anh Hữu Vinh và Hà Vinh làm nòng cốt. Các anh ở đấy rất thạo về
văn hóa phương Tây và được phép mang những kinh nghiệm học được ở phương Tây để
đổi mới cách làm báo.  Báo chí Hà Nội hồi
đó, kể cả tờ Văn Nghệ của Hội nhà văn, mang nặng tính chất công báo và tình trạng
đông cứng này đã tồn tại suốt những năm chiến tranh. Nguyễn Quân, một người bạn
tôi học ở Đức về, có tư duy khá hiện đại, cũng từng công nhận
là TT&VH góp phần mở ra cả một giai đoạn của báo chí văn nghệ Hà Nội.  Đang loay hoay tìm đường chúng tôi tìm thấy ở
tờ báo này một môi trường để học hỏi. Tôi được viết theo cách của mình, bằng thứ
ngôn ngữ báo chí hiện đại mà tôi học được qua các bài dịch hoặc viết lại từ báo
chí nước ngoài.

 Mấy năm đầu, làm với TT&VH tôi chỉ giữ
trang văn học. Chợt xảy ra một công việc. Từ năm 1991, bên Viện khoa học xã hội  “chạy” được một đề tài cấp nhà nước là chương
trình nghiên cứu về văn hóa do Nguyễn  Hồng
Phong làm chủ nhiệm, trong đó có đề tài Đề cương văn hóa Việt nam trong giai
đoạn mới (KX 04-17)
. Tô Hoài được phân công quản đề tài này. Ông chọn Hoàng
Ngọc Hiến, Ngọc Trai và tôi làm chân rết. Trong thời gian làm thư ký cho đề tài,
tôi có dịp đọc tàm tạm một số sách từ lý luận văn hóa nói chung tới các
công  trình nghiên cứu về văn hóa VN trước
đây. Bản thân tôi đã viết được một tiểu luận hơn trăm trang đánh máy mang tên Sơ bộ tìm hiểu di sản văn hóa Việt Nam
(đã đưa lên trang blog của tôi).




                -- Sao đến nay nó không được in ấn?

Sự thực là nó còn yếu. Hồi
ấy, tôi chỉ mới vỡ lòng về văn hóa VN. Thứ 
lý luận văn hóa tôi dùng lúc đó cũng là các tài liệu nghiên cứu văn hóa
Anh Mỹ,  dịch ra tiếng Nga – và đây là chỗ
“tự mở đường” của tôi, song việc học hỏi đâu có là chuyện ăn xổi vài năm như thế
được.

Vả chăng, tôi cũng tự biết
cái tạng của mình. Tôi không đi theo lối hàn lâm dù là rất coi trọng các tài liệu
hàn lâm. Tôi chỉ làm những thứ người ta gọi “cò con”.  Sẵn các tri thức tích lũy được từ thời gian
làm việc trong nhóm Tô Hoài, lại được các anh ở báo TT& VH cổ vũ, -- nói
theo ngôn ngữ trong nghề là “có tờ báo trong tay” – tôi mạnh dạn xông lên viết
các bài phiếm luận về văn hóa, ngoài TT&VH gửi đăng cả trên Tuổi trẻ, Nông thôn ngày nay, Người đại biểu
nhân dân, Thời báo kinh tế Sài gòn
… và sau này đã tập hợp lại một phần
trong hai cuốn sách Nhân nào quả ấy
(2004) và Những chấn thương tâm lý hiện đại
(2009).

Từ đó trở đi, việc học hỏi
lý luận văn hóa vẫn được tôi theo đuổi đều đều. Tôi cho rằng ngay khi viết về
những vấn đề thời sự như bạo lực lễ hội, sự vô cảm trong con người... các nhà
báo cũng phải có một cái khung lý thuyết chắc chắn thì bài viết mới sâu sắc được.




Đằng
sau thói hư tật xấu là các khía cạnh


 làm nên tính cách dân tộc




-- Đến khi nào thì ông bắt đầu các
bài viết trong mục
Thói hư tật xấu người Việt, cái chuyên đề  nó
đã mang lại cho ông sự nổi tiếng cùng rất nhiều tai tiếng?


Khi viết riêng về các nhà văn, tôi đã mang tiếng là chỉ
thạo về việc nhìn ra thói xấu cùng những non kém của đồng nghiệp. Khi nhìn
chung ra cả xã hội, tôi cũng cứ chứng nào tật ấy. Thế thì làm sao mà dám đi vào
nghiên cứu văn hóa như tôi định làm.

May quá một lần, tôi tìm được những gợi ý.

Trong khi ước ao đi tới một sự khái quát về văn hóa
VN, ngoài việc đọc lý luận chay, tôi thường 
tìm đọc các cuốn lịch sử văn hóa nước ngoài, lấy đó làm mẫu để học theo.
Có một điều thú vị là mở đầu các cuốn lịch sử văn hóa ấy, các tác giả ngoại quốc
thường dành khá nhiều tâm lực cho việc trình bày lý luận chung về văn hóa và ở
đó tôi tìm được điểm tựa cho các lý lẽ mà tôi mới chỉ nhận biết theo cảm tính.
Lần ấy tôi tìm được cuốn Đại cương lịch sử
văn hóa Trung Quốc
Ngô Vĩnh Chính và Vương Miện Quý chủ biên,  Lương Duy Thứ và các đồng sự VN lo việc dịch
ra tiếng Việt , nxb Văn hóa—thông tin 
H.2004. Ở  bộ sách này, tôi đọc được
cả một chương mang tên Tinh hoa  và căn bã của văn hóa Trung quốc, trong
đó nêu lên một khái quát: “Đương nhiên văn hóa Trung quốc có mặt ưu tú nhưng
cũng có mặt lạc hậu thậm chí thủ cựu thối nát
.” (Sđd
tr 22).


Trong phần viết 
về ảnh hưởng của triết lý tới  dân tình, phong tục, các tác giả này có
đoạn viết liên quan tới toàn bộ tính cách dân tộc Trung Hoa:

--  Tinh thần nhân văn thành thục quá sớm của
triết học cổ đại Trung Quốc, sự lan tràn của luân lý đạo đức, cách nhấn mạnh
quá đáng tới sự hài hòa và trung dung, tất cả những đặc điểm đó cũng đem lại
nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho dân tộc ví như thiếu tinh thần mạo hiểm, vượt khó,
năng lực tự lập tự giải quyết mọi việc .thấp kém, tập quán tư duy thiên về hình
như thượng [
một thuật ngữ nay ít dùng; thời trước nó
được xem là tương đương với khái niệm siêu hình học
],
các quan niệm truyền thống mang tính tuần hoàn phong bế… Rồi sự hình thành tính
cách dân tộc nội khuynh, bảo thủ thuận tòng, không tranh đấu…Những điều đó cần
thẳng thắn nhìn nhận (sđd, tr 83).


Từ
lúc nhồi được cái thứ đó vào đầu, tôi thêm cả quyết trong việc dành hẳn thời gian và sức lực cho mục tìm hiểu thói hư tật xấu với phần công việc khó khăn mà hấp dẫn: 

+ Phải vượt lên trên những biểu hiện cụ thể để tìm tới  những đặc tính tổng quát, nó nằm trong cách sống cách nghĩ của người mình. 

+ Phải tìm cách giải thích cho được sự hình thành các tính cách đó ở cộng đồng, chính việc này mở đường cho từng cá nhân suy nghĩ, khơi gợi năng lực tự nhận thức ở họ rồi cùng họ mỗi người tính chuyện tự thay đổi.

--Tức
là ông đã được giải phóng về mặt tư tưởng?


Tôi
cũng định nói như vậy. Nên nhớ là tôi đi vào con đường nghiên cứu văn hóa một
cách nghiệp dư. Phần lớn các nhà nghiên cứu hiện thời thiên về tìm cách
nói  một chiều, nói tốt, nói theo hướng
ca ngợi hết lời đối với văn hóa VN. Hóa ra họ chỉ minh họa các ý tưởng mà người
ta đặt hàng cho họ. Do không bị bó buộc vào một nhiệm vụ nào được giao – đúng
ra là không kiếm sống, kiếm danh vị và lợi lộc từ công tác nghiên cứu, -- tôi cảm
thấy mình có được chút tự do tối thiểu. Nhưng tôi vẫn bị cái lý luận chính thống
về văn hóa đương thời khống chế. Giờ đây do nhìn rộng ra các nền văn hóa khác và  tìm được những cơ sở lý luận khác, tôi mới thực
sự tự do với nghĩa đi trên một con đường riêng tôi thấy đúng đắn nhất. 

--
Nhiều lần ông đã bị ăn đòn vì loạt bài 
thói hư tật xấu này.


Về
chuyện bị đám đông ném đá thì không nói làm gì. Tôi còn bị cả bạn bè và các đồng
nghiệp chê bai, hiềm khích, bác bỏ.

Tôi
nhớ khoảng những năm 90, đọc các phác thảo của một người nay trở thành giáo sư
đầu ngành của giới nghiên cứu văn hóa, tôi có bảo với ông mấy ý:

*  chỗ kiểm tra để biết một hướng nghiên cứu có
đúng hay không là đối chiếu nó với thực tiễn.

*
bởi lẽ văn hóa là cái làm nên nội lực của một cộng đồng cho nên, với bức tranh
văn hóa như anh miêu tả, thì tôi nghĩ là dân VN sẽ không có một cuộc sống khó
khăn bế tắc như hiện nay.

*
Anh cho phép tôi đi tới cùng của sự suy nghĩ nhá. Với một dân tình như hiện nay
bức tranh văn hóa mà anh vẽ ra thậm chí có tác dụng ru ngủ họ, làm hại họ.
Nghĩa là nguy hiểm cơ đấy.

Ông
ta giận tôi lắm. Sau khi gọi điện xỉ vả tôi là dân nghiên cứu nghiệp dư mà đã
ti toe,  không đọc nhiều sách bằng ông
nên không thể nói liều. Không bao giờ ông muốn nhìn mặt tôi nữa.

Những
cú đòn như vậy có mang lại  chút nào tích
cực?


 Ồ có chứ. Tôi phải cảm ơn
các ông như ông bạn quý đó. Nghĩ đến họ, tôi lo nghiên cứu các vấn đề cần viết
một cách kỹ lưỡng hơn, để viết  thuyết phục
hơn.  Không chỉ văn hóa học mà đây cũng
là lúc tôi phải trở lại với sử học, dân tộc học, ngôn ngữ học, và nhất là  xã hội học...Có rộng mới có sâu. Cái ý tưởng
mà lần đầu tôi dọc được từ một bài viết của cụ Đặng Thai Mai, giờ càng thấy
đúng.




Một mảnh đất hoang

-- Theo ông, đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ của cái mà ông gộp
chung lại là văn hóa học  là gì và được
xác định như thế nào?


Hồi đầu cách mạng ta có Hội
văn hóa Cứu quốc, tập hợp mọi trí thức khoa học xã hội và tự nhiên trong đó có
các nhà văn nghệ. Tới 1948, Hội này còn mở Đại hội lần II. Nhưng sau đó Hội Văn
hóa này -- nghe nói là thuộc quyền ông Trần Huy Liệu cai quản -  gần như tự giải tán. Trong bàn tay lèo lái của
ông Tố Hữu, văn học và các ngành nghệ thuật khác tách ra thành Hội Văn nghệ VN
sau đó thành các Hội mỹ thuật, âm nhạc ...riêng. Riêng văn học bị tách ra khỏi
khối văn hóa mà đặt trọng tâm vào việc làm công tác tư tưởng mà đầu mối cao nhất
phụ trách toàn bộ là ông Trường Chinh. 
Lâu dần, chất tư tưởng át đi cả văn hóa. Mà việc nghiên cứu tổng quát về
văn hóa sau này có được tổ chức thì cũng quá yếu ớt, chỉ minh họa cho các ý tưởng
từ trên dội xuống.

 Thành ra người nghiên cứu văn hóa hiện nay như
đứng trước một cánh đồng hoang. Tôi chỉ là một cá nhân đơn thương độc mã trên
đường, không chịu trách nhiệm với ai, vả chăng cũng đang mầy mò, nên chẳng biết
nói gì ngay về những cái gọi là đối tượng,
phạm vi, nhiệm vụ
mà nhiều người đặt câu hỏi. Chỉ biết rằng từ lịch sử văn
hóa tới mối quan hệ văn hóa VN và nước ngoài, từ phong tục tập quán văn chương
nghệ thuật tới các vấn đề chính trị xã hội …chả cái gì mà tôi thấy không cần
thiết. Trong nhiều cuốn nghiên cứu văn hóa từng quốc gia từng cộng đồng riêng,
tôi thấy người ta đều dành rất nhiều giấy mực cho việc tổ chức xã hội, việc quản
lý quốc gia…Làm sao mà bây giờ tôi lại dám đề nghị rằng nhiệm vụ của các nhà
nghiên cứu văn hóa VN cũng bao gồm cả những việc đó. Có đề nghị cũng không ai
làm. Vì những người quản lý  xã hội không
muốn ai nghiên cứu về họ, từ xưa đến nay ở VN là vậy, lâu dần nó thành một vùng
cấm, ở ngoài văn hóa.

-- Thiếu xót lớn
nhất của nghiên cứu văn hóa ở ta thời nay là gì?


Là không chịu làm cái việc mà xã hội cần là giúp vào
việc tự nhận thức của cộng đồng,  mà lại
loanh quanh làm những việc vá víu lặt vặt. 


-        
phải là tình hình bên Tàu bên Nga có thời cũng vậy?


Đúng mà cũng không đúng. 

Đúng khi họ đang trong cái thời của nền chính trị cổ hủ và chúng ta thì chỉ biết cái phần nhìn qua trên bề mặt. Còn không đúng ở chỗ khoa nghiên
cứu văn hóa của họ vốn có bề sâu lịch sử, và từ lâu đã phát triển tương xứng với tầm cỡ quốc gia của họ. Bây giờ người ta lại làm khác rồi. Những cái vớ vẩn có thể vẫn còn. Nhưng cái phần hiện đại hóa môn khoa học này thì lại diễn ra tới mức những người nghiên cứu ở một xứ sở tách rời thế giới và không có tiềm lực như chúng ta không bao giờ tưởng tượng nổi. Rút lại, thấy ta, cả hôm qua lẫn hôm nay, chẳng giống ai cả.

-- Trở lại câu
chuyện lý thuyết. Một công việc như  phê
bình văn hóa tất nhiên phải dựa trên các cơ sở lý thuyết. Trên thế giới, văn
hóa học đã hình thành và phát triển hơn 100 năm rồi với nhiều trường phái khác
nhau, ở ta chậm hơn nhiều nhưng cũng đã có từ nhiều chục năm nay. Và chúng ta
cũng đã tiếp thu nhiều lý thuyết văn hóa khác nhau từ bên ngoài vào. Tại thời
điểm hiện tại, ở nước ta, công việc nghien cứu văn hóa nên có sự lựa chọn lý
thuyết như thế nào để có thể nói là khả dĩ phù hợp nhất?


Văn hóa học, các lý thuyết
về văn hóa, nhân học văn hóa... Trong giới
nghiên cứu người ta sử dụng nhiều  cái
tên khác nhau,  mỗi khái niệm có xê xích
chút ít, song chúng ta không cần phải 
quá lo lắng khi lo học.   Tôi chỉ không 
đồng tình với những người cho rằng ở ta đã có sự chuẩn bị về lý thuyết,  văn hóa học đã được vận dụng làm nền tảng cho
các công trình nghiên cứu. Tôi thấy chúng ta toàn học lỏm học mót rồi về chọe
nhau. 

Nhìn ra nước ngoài là thấy rõ. Như trên đã trình bày, ở
nước Nga xô viết cũng như ở Trung quốc một thời văn hóa đều bị gộp vào công tác
tư tưởng, lúc đó ở họ quan niệm sử học thì cổ lỗ mà nhìn chung gần như không có
xã hội học văn hóa học gì hết.

Sau khi có những
thay đổi, các nhà nghiên cứu cho du nhập thẳng những quan điểm lý thuyết của
Anh- Mỹ, nơi mà lý thuyết về văn hóa phát triển đến những đỉnh cao và có ảnh hưởng
khắp thế giới.

Tôi nói điều này là dựa trên hai cuốn sách đang có
trong tay:

1/Trung Hoa văn
hóa sử
của  Phùng Thiên Du, Hà Hiểu
Minh, Chu Tích Minh hai tập thượng hạ Thượng
hải nhân dân xuất bản xã
, 2005.

2/ Văn hóa học
thế kỷ XX
. Bách khoa toàn thư. Nxb Sách
tổng hợp 
thuộc quỹ hỗ trợ khoa học
và văn hóa Sankt- Peterburg 1996.

 Nga và Trung quốc
đã vậy, họ đã thành khẩn học hỏi cái tiên tiến nhất của thế giới, bất chấp rằng nó từ phương Tây lại. Tôi nghĩ rằng chúng ta cũng chẳng có sự lựa chọn
nào khác.

-- Tính cấp thiết
của việc du nhập lý luận văn hóa mà ta hoàn toàn xa lạ này là gì?


Là ở đó, tất cả các thuật ngữ khái niệm đều có một ý
nghĩa khác so với cách hiểu của chúng ta hôm nay. Đó là một. Thứ hai, thật bất
ngờ, chỉ với những định hướng của nó, ta mới gỡ ra được những vướng mắc cơ bản
đang níu kéo ta lại.

 Ví dụ, các nhà nghiên cứu văn hóa hiện nay quá tin tưởng
vào thuyết tương đối văn hóa. Theo thuyết này, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa
riêng, các nền văn hóa này đều bình đẳng với nhau. Ta dùng lý luận này để đề
cao tính độc đáo của văn hóa ta, từ đó chấp nhận cả những cổ hủ lạc hậu trong
văn hóa cổ truyền. 

Trong khi đó, bên cạnh lý thuyết tương đối, người ta còn nói
tới sự tiến hóa về văn hóa. Mỗi nền văn hóa phải tiến triển theo những quy luật
chung. 

Quá trình tự hoàn thiện một nền văn hóa đi kèm với sự cộng sinh tiếp biến
các nền văn hóa ngoại lai. Nghịch lý bắt đầu xuất hiện ở chỗ  trong một số trường hợp chính yếu tố ngoại
lai lại có ý nghĩa quyết định chứ không phải yếu tố bản địa


Nếu đi theo hướng
này ta sẽ hiểu hơn và làm tốt hơn công việc tự đánh giá gia tài quá khứ và cũng
như mang lại cho sự hội nhập quốc tế những hiệu quả thực sự.

Học theo những cái đúng, bất kể nó có nguồn gốc từ đâu

Ngoài
lý thuyết, hiện tại, ở nước ta, hoạt động  nghiên cứu văn hóa  nói chung nên tập trung vào những vấn đề nào,
những mặt nào, lĩnh vực nào ?


Tôi
hơi ngại dùng hai chữ tập trung.Tôi muốn nói những việc không thể bỏ qua. Trong
nghiên cứu có những công việc mà thiếu nó thì mọi việc khác đều vô nghĩa. Như
là nghiên cứu lịch sử văn hóa. Nếu sớm có những người tách ra khỏi cái ngổn
ngang trước mắt để đi vào lo tìm hiểu lịch sử văn hóa Việt, mọi việc trước mắt
sẽ sáng rõ hơn.


khi đi vào  lịch sử, thì nhớ phải có một
quan niệm về văn hóa rộng rãi, trong đó đặt mỗi nền văn hóa trong cái văn mạch
chung mà người ta gọi là địa - văn hóa. Riêng tôi lúc này đây tôi nghĩ rằng nếu
có thời gian thì nhất thiết phải để công sức vào tìm hiểu lịch sử quan hệ văn
hóa của ta với các nền văn hóa khác như văn hóa Trung Hoa,văn hóa Đông Nam Á và trong thời cận hiện đại là văn hóa phương Tây.

Sao
lại đề ra quá rộng như vậy?


 -- Không phải là rộng, đúng việc thì phải
vậy. Khi nhìn sang ngành sử, tôi được biết rằng ta chỉ lo nghiên cứu sử ta.
Khoa nghiên cứu lịch sử ngoại quốc hiện nay ở ta chỉ ở mức độ rất sơ lược. Ta lấy
cớ là ta còn nghèo hãy nghiên cứu mình trước đã.  Thực tế là ta thích ngầm nói với thiên hạ tự
ta là đủ, ta chẳng kém cạnh ai cả. Trong khoa nghiên cứu văn hóa cũng vậy.  Ở trên tôi đã nói, ngoài việc  tìm đọc các thứ lý luận chay,  còn phải học cách nghiên cứu văn hóa của người
nước ngoài đối với chính nền văn hóa của họ. 
Ai sẽ bắt đầu bây giờ, nếu không là các bạn trẻ.

Nhân
đây, tôi có một đề nghị với cả những người nghiên cứu văn hóa lẫn những người
quản lý việc này nói chung.

--
Điều gì vậy?


Hiện
nay  các học giả quốc tế đang rất quan
tâm đến Việt Nam và họ đang có  nhiều
phát hiện. Nhưng tất cả những thành tựu của họ lại xa lạ với  giới khoa học xã hội nước ta. Về phần mình,
sau khi nói rằng VN có một nền văn hóa
vô cùng rực rỡ không kém một ai, các nhà nghiên cứu VN có thói quen cho rằng chỉ
ta là mới hiểu được ta. Với các thành tựu của người nước ngoài, ta chỉ sử dụng
một vài tên tuổi làm nền và giúp vào việc minh họa cho quan niệm của người
trong nước. Ngoài ra nếu không đả kích thì cũng lờ tịt. 

Với khu vực lý thuyết có những tài liệu người ta đã cho tiền để in, mình cũng dịch qua loa  rồi sau đó xếp xó.

Thêm một ví dụ nữa. Đầu những năm 2000, có một cuốn
Bách khoa toàn thư văn hóa học thế kỷ XX đã được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt.
Nhưng trong mạch sách công cụ đã được in ở Nga nó chỉ là loại xoàng. 

Với các vị
gọi là quyền uy, những người đang cầm chịch về nghiên cứu văn hóa ở ta việc dịch
in lý thuyết văn hóa học ở ta quyết định 
cho dịch  cuốn Bách khoa nói trên
là đương nhiên.

 Họ tự coi là đã cởi mở lắm.

 Nhưng với tôi, mặc dầu là người chen ngang vào nghiên cứu văn
hóa , tôi phải tìm ra cách đi khác.

Tôi
thiết tha mong các đồng nghiệp đang đi vào nghiên cứu văn hóa nhất là các bạn
trẻ học lấy ngoại ngữ, trực tiếp đọc vào các lý thuyết mới về văn hóa mà ở trên tôi nói, đồng thời với việc  đọc các tài liệu nghiên cứu lịch sử và văn
hóa Việt Nam của người nước ngoài. Từ đó các bạn sẽ tìm ra con đường đi của
mình, phương pháp thích hợp với mình.

Sở
dĩ tôi muốn nói điều này cả với các nhà
quản lý công tác nghiên cứu bởi lẽ sau. Các cán bộ trẻ không thể làm việc một
cách nghiệp dư tài tử như tôi. Họ phải gắn bó với những yêu cầu, những đơn đặt
hàng của nhà nước. Để lập danh. Mà cũng để kiếm sống. Nếu trong các bài giảng
trong nhà trường, các thầy giáo không sử dụng các tài liệu này; nếu trong các
công trình nghiên cứu ban đầu là các luận án thạc sĩ, tiến sĩ, không có yêu cầu
bắt buộc phải tham khảo các tài liệu này, thì các nhà nghiên cứu trẻ sẽ không
bao giờ tự động tìm đọc cả. Nếu như chỉ thỉnh thoảng báo chí có được một vài
bài viết ngả sang cái hướng này thì nhanh chóng chúng cũng bị quên lãng.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 28, 2016 07:39

March 23, 2016

Phạm Thị Minh Thư: Đọc Vương Trí Nhàn và đôi điều suy nghĩ

Bài
viết này đã in trên báo
Văn
Nghệ 2006

Mười năm trước đờì sống văn học
thể hiện cả trên báo giấy, mà thời nay có mấy ai sau khi đọc còn  lưu giữ báo bao giờ
(?!) 

Tôi  cũng không có bản gốc của tác giả trong tay, chỉ căn cứ vào một bản cũ, sơ bộ chỉnh lý những lỗi in và đưa lại trên blog  này với ý nghĩ là có thể có một số bạn đọc
nào đó quan tâm. 


 Nhân đọc lại, với tư cách người được nói tới, tôi thành thực cảm ơn Phạm Thị Minh Thư.

 Còn đây là đường link  của bài Nguyễn Du như một thi sĩ 

 mà ở đoạn cuối PTMT ,có nhắc tới 

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012...


Tôi không thường xuyên
tiếp xúc với Vương Trí Nhàn nên không rõ gương mặt ông trong mọi lúc còn ở
những lần đã biết nếu mắt ông không nhìn xuống thì cũng là nhìn ngang, ông
trong mấy tấm ảnh chân dung anh Hữu Bảo chụp mắt nhìn cũng đều như vậy.


Nhiều lần đọc tập chân
dung văn học  Cây bút, đời người (CBĐN) tôi đã nghĩ: Nếu gương
mặt ông mang một đôi mắt với cách nhìn khác, trực diện lơ đãng hay “chiếu
tướng” soi mói một chút chẳng hạn… hẳn Vương Trí Nhàn sẽ viết văn xuôi, sẽ có
một tiểu thuyết hay với những nhân vật kiểu Nhị Ca, Tế Hanh. Họ là kiểu người
độc đáo nhưng cũng rất dễ bị bỏ qua nếu không có một cảm quan văn xuôi tốt.

Trên phương diện một nhà phê bình bảo Nhị Ca có gì đóng góp đáng nhớ thật khó,
vậy thì có gì để viết về ông? Chỗ dừng của nhà phê bình cũng là điểm bắt đầu
của nhà văn trong Vương Trí Nhàn.

Hãy nghe ông lý sự:

“Nhận ra một sự thật – ở
đây là nhận thức thấu đáo bản chất một tính cách – luôn luôn là thú vị. Nhưng
nếu như trong quá trình nhận thức ấy, bản thân mình có sự tự vượt lên, tức 
ban đầu hiểu về người ta thế này, sau lại nghĩ khác đi, nghĩ sâu hơn và tìm ở
người mình quen những khía cạnh mới, thì sự thú vị lại càng tăng lên gấp bội.”,


và:

“ Trong sự gắng gỏi để
sống, bắt đầu từ bản năng thích ứng, con người đó dần dà hun đúc cho mình những
lý lẽ để tin theo, và bởi lẽ sự gắng gỏi quá lớn, cuộc sống giành được phải qua
quá nhiều dụng công, nên cái chất ngọc hun đúc được kia, cũng không phải bình
thường, mà là một cái gì độc sáng, quái lạ”. 

Đây là kiểu lý do để
xuất hiện một truyện ngắn, một nhân vật tiểu thuyết?...Và quả là từ cuộc đời
tưởng quá đỗi tẻ nhạt,  Vương Trí Nhàn đã
dựng nên một Nhị Ca bản lĩnh, độc đáo, ấn tượng đến khó thể quên nổi “… ông sau
giờ làm việc, ngất ngưởng cái mũ vải trắng trên đầu hòa nhập một cách tự nhiên
vào đường phố Hà Nội, và sau 1975 là đường phố Sài Gòn, hòa nhập vào đó, để rồi
mất hút đi với cuộc đời riêng trong đó hết sức thỏai mái. Ong bảo tôi nếu còn
khỏe, sau Nhà thờ Đức bà Paris ông rất muốn dịch tập Decaméron ( tức Mười ngày) của Boccacio, một cuốn sách
ca ngợi hạnh phúc trần tục ngay trong cuộc đời chúng ta đang sống.”

Không hiểu tại sao tôi
thấy các câu văn này rất khó tách khỏi nhau, và cứ thấy trước khi mất hút chỗ
mà Nhị Ca dừng lại thanh thản nhìn ngắm lần cuối sẽ là cái khỏang vắng thanh
bình đầy ánh sáng dưới chân tượng Đức bà trên quảng trường Công xã Paris.

Còn Tế Hanh?

“…mỗi con người là một
thế giới không cùng, và nói chung là chúng ta sẽ thất vọng khi muốn tìm hiểu
quá kỹ về một người nào đó”,bên cạnh một Tế Hanh Thơ, nhân vật văn học cùng tên
của Vương Trí Nhàn lại có một đóng góp mới. “Nó” cũng khiến ta chợt nhận ra
trong cái lơ lửng của đời sống hình như mình đã lỡ dịp cảm nhận sâu sắc một ai
đó?...

Không chỉ có những trang văn xuôi rất hay mà cấu trúc tập sách mô tả chân dung
một thời nhiều cuộc đời đã muộn, không thể khác ở nửa nước cũng là một cấu trúc
văn xuôi hay. Sau một Nghiêm Đa Văn lông bông nửa vời và bất lực là Nguyễn Khải
nghiêm chỉnh, triệt để và thành đạt; tiếp theo Tế Hanh “dáng đi chậm rãi, tay
quờ quờ như là đang đi men tường” thỉnh thỏang lại tạt qua cơ quan Hội đứng ở
ngòai “vẫy một người nào đó ra thầm thì một câu rồi đi” ắt phải là một ông
Nguyễn Tuân thấy ngọn núi trên dãy Hòang Liên Sơn cao hơn một mét vì có mình ở
trên. 

Thật khó đảo lộn trật tự
các chân dung. Nhưng trong khi đã viết hết về Xuân Diệu ở phần của Xuân Diệu
thì cái câu rất “độc” về ông “loay hoay giữa những bài thơ thù tạc và những bài
nói chuyện đi theo lối mòn, Xuân Diệu nhuộm tóc cố làm ra trẻ, ham ăn ham uống
, lúc chết mỡ quấn vào tim” lại được “hạ” giữa những lời bàn về Tô Hòai. 

Nghĩa là gọn ghẽ mà ràng
rịt, mỗi chân dung là một chương sách vừa độc lập lại vừa mang tính kế thừa và
phát triển trong cái tòan thể của nội dung và hình thức. 

Có nhạc điệu của câu và
có nhạc điệu của tòan bộ tác phẩm. Tôi nhiều lần bất chợt đọc đi đọc lại những
đọan nào đó trong tập sách, thích thú lắng nghe những âm thanh vang vọng từ nó.
Ở phần viết về Lưu Quang Vũ, đang ào ạt tuôn ra hết câu này tới câu khác về tâm
trạng, hòan cảnh, thời cuộc, con người, rồi về thơ Vũ, Vương Trí Nhàn đột ngột
dừng lời để… Vũ Quần Phương “khái quát”, Xuân Quỳnh “thông cảm”,và…Bằng Việt
“chép miệng”! 

Đâu phải các phía của
con người Lưu Quang Vũ mà ba nhà thơ này “đóng góp” Vương Trí Nhàn không rành,
cái “hợp âm” độc đáo này có mặt thuần túy vì vẻ đẹp hình thức. 

Có thể nói ám ảnh về
hình thức rất thường trực trong nhà phê bình họ Vương. Là người nói rất nhanh,
tiết tấu văn ông cũng cho cảm giác này, nó là thứ văn rất đồng ốp - quà tặng
của một tâm hồn sôi nổi, một trí tụê nhanh nhậy ham vận động, nhưng… họa mi cứ
hót mãi thì tai nào nghe rồi cũng nhàm, vậy là xuất hiện: lời một người bạn gái
nói với chị Đông Mai về Xuân Quỳnh, mẩu đàm thọai giữa “tôi” và nữ sĩ, vài trăm
chữ Trần Đình Nam viết về thầy Nghiêm Đa Văn, lại sổ tay, nhật ký trích của
người này người khác…cứ thế, linh họat và chính xác những “âm thanh sống” được
đưa vào rất “ngọt”. Nó thay đổi và cộng thêm những cảm giác mới.

Phải nói phẩm chất văn xuôi càng lúc càng nổi trội đã thêm vào những độc đáo
quyến rũ riêng biệt cho ngòi bút phê bình lý luận vốn sắc sảo tinh tường, cũng
cân bằng lại những nóng lạnh nơi con người ham việc sôi nổi và không phải là
không dễ bị thời cuộc cuốn theo.

Và những lúc buột khỏi nó ông thường làm hỏng nhạc điệu hoặc tính độc đáo của
câu văn. Tôi rất lấy làm tiếc cho hai căn bệnh: sợ bị hiểu nhầm, và phê bình là
phải có ích. Trang 37 Cây bút, đời người
đọan: “…Vũ Quần Phương khái quát:

-- Nổi lên ở Vũ là một cái gì rất đau đớn, thấy cuộc đời cay cực mà vẫn yêu đời
và quyết bám lấy cuộc đời thô nhám này.

Xuân Quỳnh - khi đó còn là một người hàng xóm, một đồng nghiệp - Xuân Quỳnh
thông cảm:

-- Giá kể Vũ thích một cái gì đó thì có thể Vũ cũng làm được. Đằng này Vũ không
thích gì hết, đấy mới là điều đáng sợ.

Với bản tính chừng mực , đi sát với một quan niệm trung dung, Bằng Việt chép
miệng:

-- Ông Vũ này, lúc chiều đời quá lúc khinh bạc quá, đều là không phải. Thực ra,
cuộc sống luôn luôn là một cái gì cân bằng, phải chăng…”

Phải chi ông bỏ phần chua thêm sau hai chữ Xuân Quỳnh!

Cũng như ở “Lời dẫn”, nếu bỏ câu sau cùng: “Và trên hết cả, tôi hy vọng không
chỉ những người được tôi nói tới mà các bạn văn khác và nói chung tất cả những
ai quan tâm đến đời sống văn học đương đại có thể tìm thấy ở những trang sách
sau đây những điều bổ ích.”, ông sẽ không thừa, dáng dấp lời kết cũng hiện đại,
đẹp hẳn.



*

Sau Cát bụi chân ai” và Chiều chiều một người bạn nói với tôi:
“Không ai viết về Tô Hòai hay bằng Tô Hòai.”

 Bạn nói thật đúng, nhưng xuất hiện “Cây bút,
đời người” mới thấy Tô Hòai đâu có viết rằng mình “ Loanh quanh một hồi hóa ra
chưa thóat khỏi chỗ xuất phát ban đầu?”.

?...

Tới đây có thể Vương Trí Nhàn sẽ cười khì: Không nhìn ra thêm được điều gì thì
viết để làm gì? Đành là thế, nhưng “nói thêm” mà chưa “nói hết”. Kém lạnh lùng,
thiếu một chút xoi mói cần thiết để nhìn Tô Hòai như chỉ là một nhân vật Vương
Trí Nhàn đã để tuột một cơ hội thành công như đã làm được với Xuân Diệu. Phải
chăng vì Xuân Diệu đã chết mà Tô Hòai thì đang hiện diện, có khi lại vẫn cùng
ông trong việc này việc nọ?

Cận nhân tình, phiền phức là hai chữ Vương Trí Nhàn hay dùng, cả quan niệm ứng
xử lẫn nỗi ngại ngần này của ông trong đời sống thường nhật đều “làm khó” nhà
phê bình khi ông “đụng” tới những “nhân vật” phức tạp, sắc cạnh. May là với
trường hợp Nguyễn Khải ông đã kịp “sửa sai” bằng bài viết rất sòng phẳng, đáo
để: “Một vài nhận xét về Thượng đế thì
cười
của Nguyễn Khải”.  Kể như ông đã
hòan chỉnh chân dung nhà văn!



*

Trong Lời dẫn của CBĐN Vương Trí Nhàn
có nói đến việc các họa sĩ vẽ chân dung có thói quen trở đi trở lại với những
khuôn mặt đã quen, mỗi lần đưa ra một phác thảo khác, và mong tập sách của mình
được đối xử theo cách như vậy.

Tôi nghĩ, nếu thực sự
đưa ra được những chân dung mới thì việc trở đi trở lại này xuất phát từ nhu
cầu muốn khai phá tiếp bản thân sau đó là đối tượng quan sát, nghiên cứu.

Phải dồi dào cảm xúc và
có một trí tụê luôn vận động mới ham muốn và có lối làm việc này.

Đọc lại những chân dung
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu trong tập Cánh bướm và đóa hướng dương in trước đó
3 năm thấy ngay thành quả của những nỗ lực vận động cảm xúc và trí tụê, cái sau
nào cũng sắc cạnh, phong phú vượt bậc. Điều cần nói ở đây là tác giả nên dứt
khóat hơn trong ý định “chường mặt” với thiên hạ, như thế ông sẽ bớt được những
“vận động trung gian” đi thẳng tới một chân dung hòan chỉnh, như đã làm với
Xuân Diệu.



*



Gần đây trên các mục nhàn đàm, tạp bút, rồi suy ngẫm thời sự Vương Trí Nhàn có
nhiều bài viết hay khi bàn về hội nhập, lo lắng, sốt ruột trước nhiều điều chả
ra thế nào, chả giống ai trong đời sống hôm nay. Dẫn lối tới điều này hay mở
rộng từ đây ông thường có nhiều phân tích, suy ngẫm và bàn sọan lý  thú,
độc đáo về phần lý tính, sự trưởng thành của một con người. Khi làm bổn phận
công dân nhà phê bình đóng góp tòan những tích cực. Nhưng sự tham dự theo chiều
ngược lại đã không được thế! Lấy bài Nguyễn
Du như một thi sĩ
làm ví dụ.

Thọat tiên ông tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của thơ chữ Hán Nguyễn Du, phân tích
con người nhà thơ trên hành trình đi sứ, thấy Nguyễn Du đã nghĩ đến những vấn
đề khá trừu tượng, siêu hình của đời sống.

Phần thơ được viết ra
trong tâm thế này được Vương Trí Nhàn coi là sản phẩm của sự trưởng thành, nó
có tác dụng thức tỉnh con người buộc con người phải đặt lại nhiều vấn đề của
đời sống. Dễ dàng đồng ý với phân tích này. Nhưng không chỉ thế, để nhấn mạnh
ông đã đặt “phía này” của Nguyễn Du bên một “phía khác”, ấy là truyện Kiều và
ông đã… không ổn. Quá sốt ruột với một xã hội còn nhiều cảm tính ông soi xét
lại sự cảm thụ Kiều của nhiều thế hệ người đọc, tìm ra từ sự cảm thông yêu quý
nàng Kiều một thái độ coi trọng cái đẹp cảm tính hơn lý tính. Theo ông, cuộc
đời Kiều thật nhiều lầm lẫn, phần hấp dẫn nhất của cuộc đời này là tình, một
thứ tình “ma đưa lối quỷ dẫn đường” thiếu sự hướng dẫn của lý trí…

Thử hỏi có cái cụ thể nào không âm vang trong nó những vấn đề của trừu tượng và
có trừu tượng siêu hình nào lại không phải tìm một hình hài cụ thể mà đậu
xuống?

Càng sâu thì càng trong
và rõ nét. Đề cao tính siêu hình trừu tượng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, Vương
Trí Nhàn sao không một lần thả lỏng, “xóa” mình đi để nhập vào thế giới của
những câu thơ: Hoa để tặng người mình sợ, Tối điên cuồng xứ tối phong lưu?...
Vào đó rồi ông sẽ thôi bàn nhiều đến ý thức, lý tính; sẽ không viết: “Thậm chí
ngay cả khi Nguyễn Du thú nhận sự bất lực rơi vào tuyệt vọng thì thơ ông vẫn có
khả năng thúc đẩy sự suy nghĩ trong ta và kéo ta về phía ánh sáng của trí tụê”,
cũng chả đặt câu hỏi: “Liệu có thể nói cái phần bên trong rắn rỏi khỏe mạnh lão
thực mới là phần chính trong con người Nguyễn Du, rằng nếu thế ông sẽ trẻ trung
mãi mãi…” Thưa nhà phê bình, không phải là “Thậm chí ngay cả khi” mà hai trạng
thái ông đã đề cập là bình đẳng liên tục luân phiên không thể tách rời trong
cái “vỏ” cụ thể hữu hạn, một Nguyễn Du sinh ở làng Tiên Điền, làm quan triều
Nguyễn…

Cũng như, bi kịch của
Kiều không phải là chuyện của bao nhiêu phần trăm lý tính, cảm tính trong con
người là cân bằng, vừa đủ; Tối điên cuồng
xứ tối phong lưu
, những đau đớn dài dặc lấp lánh của nàng, vẻ khả ái mê hoặc
và quyến rũ vĩnh viễn của nàng tôi nghĩ đều khởi từ nguồn này.

Còn như bán mình chuộc cha, rơi vào tay Mã Giám Sinh, Sở Khanh, rồi gặp Vãi
Giác Duyên, Từ Hải âu cũng chỉ là những việc đời mà Nguyễn Du hay nàng Kiều thế
tất phải trải trong cái khúc làm người cụ thể, hữu hạn. Cả khúc đoàn viên nữa,
nó cũng là một “việc thơ” “ẩm ương” cụ thể mà cuối một lộ trình hòan hảo thi
tài… ắt phải “dính”…







8.2006

P.T.M.T 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 23, 2016 08:57

March 20, 2016

Thi sĩ của gió hoang cỏ dại

Một ý nghĩ tội lỗi thường vẫn đến với tôi mỗi
khi nghĩ về nền văn chương mà các đồng nghiệp già có trẻ có góp phần làm ra sáu
bẩy chục năm nay. Đại để đó là một thứ văn học dân gian, tự phát, mỗi ngòi
bút vốn liếng mỏng manh tính chuyên nghiệp thì ít mà nặng về có gì viết nấy, còn
như khả năng tự cải tạo tự thuần hóa, khả năng gia nhập vào lịch sử lâu dài,
khả năng đó rất thấp. 




Song sau khi nói vậy, phải lưu ý thêm một sự
thực: hình như cảm thấy rất rõ cái chất hoang dại trong mình, nhiều người
 lại rất chịu khó che đậy bằng những học đòi nông nổi, từ đó làm nên một
thứ nửa mùa dang dở. “Van em em hãy giữ nguyên quê mùa", cái câu thơ
Nguyễn Bính bấy nay vẫn vọng về trong tâm trí mỗi người  như một mong mỏi
vô vọng.


Trong hoàn cảnh ấy thỉnh thoảng mới thấy một cây
bút thật sự hoang dại xuất hiện, như trường hợp Đồng Đức
Bốn (30/3/1948-14/2/2006). Trong khi một số người khác hoang dại nửa vời
thì Bốn thật sự  như mọc lên ở bãi cỏ đầu làng, hoang dại trong mọi khía
cạnh của mình. Hoang dại thô mộc mà lại là hoang dại của thời chuyển đổi từ trung cổ lên hiện đại. Hoang dại như mớ "rau láo nháo" mà
thời nay thỉnh thoảng các chợ ven đô còn bán, -- trong khi những mặt hàng mới ra lò bên Mỹ bên Úc thì được
 các loại siêu thị và các cửa hàng xách tay cho quảng cáo khắp nơi.

 Một đặc
điểm nữa của Bốn là xuất hiện muộn và chỉ vụt lên trong một thời gian ngắn rồi
lại tắt đi rất nhanh. 


Cái chết ập tới đúng mười năm trước đã khiến anh có vẻ
như bị lãng quên rất nhanh. 


Nhưng riêng tôi vẫn cảm thấy đây không chỉ là
một hiện tượng thơ không nên bỏ qua trong văn học hậu chiến. 


Ngày
nay không ai viết như Bốn nữa, song tôi tin cái tinh thần hoang dại mà thơ Bốn bộc lộ trong chúng ta không bao giờ hết nó chỉ đang tìm cách ngụy trang để có mặt trong các cây bút mới.  Khi không có được sự tự thuần hóa bài bản, chúng ta cứ còn là hoang dại mãi. Sự che đậy ở ta càng ngày mỗi tinh vi song vì thế chúng ta lại không bắt được cái mặt mạnh của nó như Bốn đã làm; mà chỉ khiến cho cái  mặt kém cỏi của nó còn đó và  hiện ra trong  sự hiện đại giả vờ đang chi phối chúng ta .





I

Nhân bàn về một cuốn tiểu
thuyết có ý nhưng đọc không hay, không in được, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bữa nọ chợt
nói với tôi một nhận xét :

   --- Ây viết
văn xuôi là cái chuyện tốn chi tiết lắm.

     Ôi điều đó thì đúng quá rồi, người không
viết văn xuôi cũng đã hình dung được phần nào! Song hôm nay tôi vẫn muốn dẫn
câu nói kia ra đây, để  nhân thể bàn về  chi tiết trong thơ.

     Tiếp theo Bùi Ngọc Tấn, chúng ta có thể dự
đoán là làm thơ thì không vất vả thế, ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà
văn xuôi thường phải chịu,-- sức ép ấy không mạnh, và người ta đỡ lo hơn. Thế
nhưng xin đừng ngộ nhận là không quan trọng. Ngược lại – không phải cốt nói một
điều giật gân hoặc để trộ đời, khi bảo với nhau: chính vì  ít,  mà
chi tiết trong thơ lại càng quan trọng. Qua các chi tiết đã có thể thấy ngay diện
mạo một con người.

Tôi càng thấy rõ hơn điều này khi đọc Ðồng Ðức Bốn (dưới đây viết
tắt là Ð Ð B).

Thử làm một cuộc thống kê những từ ngữ thường xuyên trở đi trở lại
trong thơ Bốn. Toàn những rạ
rơm, cây cải, hoa dong riềng, bờ tre, bụi dứa, mùa sen, vườn cau, bụi tầm xuân,
múi bưởi đào, dây tơ hồng, mảnh sành, gai rào


Thiên nhiên ở đây là chớp
bể mưa nguồn,
 là bèo dạt mây trôi rồi con gió chen ngang, rồi gió giông
bão tố


Còn con người thì quẩn quanh với những việc chăn trâu đốt lửa, lên chùa, đón
hội, đánh bạc
; hết tìm cái vu vơ họ lại tính chuyện không đâu, mà dù có bán buồn mua vui thì chẳng qua cũng chỉ chín xu đổi lấy một hào.

Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào khoe là vừa đưa được chi
tiết xe hồ lô trộn bê tông vào thơ và ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm. Ðưa
được một vài chữ Hán lạ hoặc vài tiếng Anh đọc theo âm Việt, người ta thấy thơ
mình sang hẳn lên. Học mót được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học, hý hửng
như tìm được miền đất mới. 

Theo những cách tính toán kiểu ấy thì Ð Ð B và những người yêu thơ
Ð Ð B hẳn xin chịu. Hình như anh đã làm một cuộc vận động ngược, tức là luôn
luôn tìm cách trở lại với những từ ngữ đã quá quen thuộc của đời sống.

Vả chăng trong cuộc trở lại ấy, điều quan trọng là người ta tìm thấy cái gì.

Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ nhiều bài thơ của
Ð Ð B: 

Cổ sơ. Cũ kỹ. 

Quê mùa. Hoang dại.


Ðể hiểu anh hơn, hãy thử đặt anh bên cạnh nhà thi sĩ được coi là quê hơn ai
hết: Nguyễn Bính. Trong cuộc phiêu lưu kiếm sống giữa thị thành, tác giả Tâm hồn tôi, Mười hai bến nước, Mây
Tần 
luôn luôn cho người ta
thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình ông sống nền nếp và phong lưu lắm, bản thân
ra dáng con nhà lắm, chẳng qua bây giờ thất cơ lỡ vận nên mới khổ thế.

 Trong một bài thơ như Thanh
đạm
, người ta còn được chứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng
”cây nguyệt nằm suông mãi, tôi xin đàn người nghe“. Một bằng chứng nữa là dù
được tiếng chân quê hơn đời, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn nhiều chữ
Hán, ở đó nhan nhản những mộng
viễn hành, bức ngọc thư, hàn vi, lữ hành, tha hương, chung tình, đa đoan, tràng
giang, giang hồ
 rồi lại cả vinh quy, ngự uyển, với mỹ nữ, lãnh
cung 
nữa.



Ð Ð B thì khác. Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường xuyên trở lại,
mà nó là một phần của hiện tại quanh anh. Nhất là nó chẳng có gì rực rỡ là bóng
lọng, là cao sang quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ. 

Trăng trong thơ ÐÐB là trăng
gày trăng cong
, sào là sào
gẫy
, diều là diều đứt
dây. 


Con người xưng tôi trong thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không
quê. 

Dường như anh sẵn sàng nói rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi
người cả.

Trong nhiều trường hợp, hoang dại ở đây xem như đồng nghĩa với lang thang, mất
gốc, không vào khuôn khổ nào, một tình trạng trì trệ không nảy nòi lên được về
chất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng. 

Nó, cái sự hoang dại trọn vẹn ấy, có mặt trong thơ Ð Ð B khắp mọi
chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng có phần không giống ai, dù chẳng ở ai không
có.

Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình Nói
chuyện với cỏ dại
. Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy, thì
cảm giác hoang huỷ bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại. Nó ở những câu thơ nghe hơi
rờn rợn Chân đạp đât đầu đội
trời – ở đâu không có con người thì đi,
 nó
lại ở cả những câu thơ tự nhiên nhi nhiên kiểu như củ khoai nướng để cả chiều thành
tro 
hoặc mẹ ra bới gió chân cầu. 

Một lần tả cảnh lũ lụt, ÐÐB viết “ Ối mẹ ơi đê vỡ rồi – Mộ cha liệu có
lên trời được không".
 Ðằng
sau lối nói lu loa, là lời thú nhận về sự bất lực vô phương cứu chữa của tình
thế.

Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa: Ngậm ngùi thịt
chó bánh đa 


Chiều nay lại thấy bà già xin ăn, hoặc Chợ
làng mở dưới gốc đa Nhà quê đem mấy con gà bán chơi 
mà cứ thấy bùi ngùi.

Xa vắng hiu hắt ngang trái bơ vơ, cái không khí ấy bàng bạc trong
Ð Ð B, bất kể nông thôn hay thành phố.



II


Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture(
mà ngày nay ta dịch gọn là văn hoá), trước khi có nghĩa dạy dỗ mở mang khai hoá
giáo hoá ( Theo Ðào Duy Anh, Pháp Việt từ điển ), còn có một nghĩa gốc là cày
cấy trồng trọt thâm canh, làm kỹ một việc gì đó.

 Hãy nhìn vào các thứ cây ăn quả hiện nay. Thoạt đầu đó là
những thứ cây dại phải qua bàn tay tác động của con người rồi những đặc tính
xấu của chúng mới bị hạn chế những ưu thế của chúng mới được phát huy đầy đủ.

Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về khẩu vị, mà còn liên quan
đến nhận thức của loài người về khả năng của mình. Sau bao thành công trong
việc lai ghép hoặc biến đổi mã di truyền, tạo ra các thứ giống cây mới có nhiều
ưu thế, thì con người ở đâu cũng không quên một sự thật –, ấy là trong khi thua
kém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt, thì các giống hoa dại quả dại lại có
hương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoang
dại kia vẫn đầy sức cám dỗ. 

Oái oăm là ở chỗ ấy !

Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng hiện đại thì chất
hoang dại vẫn còn một phần nằm mãi trong tâm trí chúng ta, mỗi khi bắt gặp nó,
ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản lai diện mục của mình.

Các nhà nghệ thuật cảm thấy điều này rất rõ. 

Trong nghệ thuật hội hoạ thế kỷ XX, có hẳn những trường phái khai
thác vào cái hoang dại nguyên sơ của thế giới, lấy nó đối lập với những tìm tòi
duy lý, người ta mệnh danh những trường phái này là hoang dã, ngây thơ...

Tuy không phổ biến song ở ta một số người đã có ý đi vào cái hoang dại đó.

 Chỉ có điều nhà văn VN vốn không mạnh về bề dày văn hoá, nên
đi vào hoang dại trước tiên không do tìm tòi lâu dài, mà như là ngẫu nhiên bắt
gặp: Không thể đến với sách vở hàn lâm thì trở về với nó. Chợt nhận ra từ lâu
nó đã thuộc về mình mà không hay biết, nhưng nay nó là cả một xu thế hiện đại
thì tội gì không theo. Nếu khôn ra, gán thêm cho nó một ít màu sắc lý luận thì
càng oai.



Về phần mình, ÐÐB đến với hoang dại như là không có con đường nào khác. Một lần
tìm thấy là anh khơi mãi vào cái mạch ấy để tạo ra một nguồn thơ riêng, đến
mức, gần đây, người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại. Nhưng dù có thế
thì cũng chẳng sao.

Nếu được đi tới cùng trên mạch suy nghĩ của mình, tôi còn muốn nói, qua anh, đã
thấy manh nha một dạng nhà thơ mà chỉ thời nay mới có.

Chúng ta biết rằng thi sĩ cũng là những mẫu người chịu sự quy định chặt chẽ của
thời đại. Theo sự quan sát của tôi, có thể tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ
hiện thời: 

1) thi sĩ giáo huấn 

2) thi sĩ hùng ca

3) thi sĩ ngây thơ như trẻ nhỏ, biết nhìn ra chất thơ ở chỗ người
đời bỏ qua 

4) thi sĩ hóm hỉnh, giỏi pha trò 

5) thi sĩ dự phóng, nhìn thấu lẽ đời vv.. và vv..

Không hẳn những sự định danh trên đây đã chính xác, song chắc là trong chân
dung các thi sĩ hiện thời không ít thì nhiều có mấy cái đó. 

Mà Ð Ð B thì không rõ vô tình hay cố ý, nhưng đúng là cứ trật ra
khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đã tự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn
chỉnh ấy, để gần như đứng một mình. 

Tung tẩy phá phách làm tình làm tội người khác thế nào không biết,
nhưng đó là chuyện ngoài đời, còn vào đến thơ, cái tôi của Bốn là một cái tôi
hậm hụi bất lực. Dường như không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý. Cũng
như chẳng biết cư xử ra thế nào cho phải. Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn,
mà mình thì cũng chẳng hơn gì, lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới
đời, khiến cho nó trở nên tốt hơn vừa ý mình hơn. Giữa vô vàn những lo toan –
lo nghèo lo đói lo khổ lo không được "hiện đại", – lại thêm còn cái
lo nữa, lo lạc lõng, không ai nghe mình. 

Mấy chữ mồ côi thường xuất hiện. Trăng mồ côi. Bão mồ côi.Cây mồ côi. Mà con người đến chết vẫn
có thể tiếp tục mồ côi 

Trở về với mẹ ta thôi- 

Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ

Tâm lý mồ côi đó là gì nếu không phải là tình trạng người ta mất
đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần, không có cái để tin yêu và kính trọng
?!

Trước một đời sống ngổn ngang và có thể nói là tàn bạo nữa, con người trong thơ
Ð Ð B như vậy là đang đi dần tới một thái độ tạm gọi là vừa phải: không huớ lên
hớn hở một cách trẻ con, mà cũng không lảng đời kệ đời; không tự nhấc mình vượt
lên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum, hoặc cười cợt vô trách nhiệm, mà cũng
không làm bộ làm tịch, ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâu
sắc. 

Thơ chỉ có vậy, nên đành là một lời tự an ủi.



III



Bây giờ ta hãy cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát mà Ð Ð B đã hình thành
riêng cho mình. Chỉ xét riêng thời nay đã thấy không ít những bậc thày kỳ tài
còn in dấu trên thể thơ này. Duyên dáng tự nhiên là lục bát của Tản Ðà. Cổ kính
chắc chắn đường bệ đấy là lục bát của Huy Cận trong Lửa thiêng.Và người mà ở
trên đã nói, Nguyễn Bính. Trong các tập thơ của mình, Nguyễn Bính mang lại cho
lục bát khi thì một vẻ ỡm ờ, khi thì đoan trang, và bao giờ cũng tràn đầy nhạc
điệu. Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra ( Em van anh đấy anh đừng
yêu em ), lẫn những câu đùa đầy dụng công ( Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh
buồm ), người ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo, dù đã khéo
đến mức tự nhiên.



Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc, từng đôi câu sáu tám không vang lên
một cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn – cái lối ấy chỉ mới có từ hồi
sau 1945. Nguyễn Ðình Thi và nhiều người khác đã tham gia vào quá trình này, ở
đây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là Xuân Quỳnh. Vốn rất tự nhiên
trong việc bẻ vần ghép chữ, mà không hiểu sao, trong một đôi khi sử dụng lục
bát, Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang, ví dụ bài Về những thói quen của chị
mở đầu bằng mấy câu như sau “ Con sông quen chảy xuôi dòng Mùa mưa nước lũ quen
dâng từ nguồn Bên bồi thì cứ bồi luôn Còn bên lở vẫn lở thường quanh năm “. Ôi
lục bát gì mà đuồn đuỗn thế này ! Sau tôi mới hiểu chính là Xuân Quỳnh đã cố ý
làm thế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đã nhàm chán của một thể thơ quá phổ
biến.



Trở lại với ÐÐB, phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những câu ngang phè,
đại loại:

Rét lòng khát ngọn lửa nhen

Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi ?


Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc lục bát theo
kiểu trôi tuồn tuột, mà phải dừng lại ngẫm nghĩ, cũng tức là nhà thơ đạt được
cái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn.

Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ Ð Ð B không có được cái sự liền mạch, mà hình
như do từng mảng ghép lại, mỗi mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền. 

Viết cái gì thì cũng vậy mà làm thơ càng dễ vậy, kỵ nhất là cái
lối câu nọ gọi câu kia, đưa đẩy chuyển tiếp kết quả thành một thứ thuận miệng
giống như người quen chân đi mãi, nhiều khi vẫn đi đấy mà không biết mình đi
đâu. 

Trong một thể như lục bát điều đó càng dễ xảy ra. Không có kết
cấu, nó qúa tự do, nhưng cũng chứa đầy cạm bẫy trong cái tự do đó. 

Do một sự may mắn nào đó, Ð Ð B có duyên sớm ngộ thấy cái sự mòn
mỏi của nó, nên cố tìm cách tránh. Lục bát ở đây không nhịp nhàng nối tiếp mà
cứ giật cục như cái gì ngắc lại nghèn nghẹn nơi cổ. Thứ lục bát đó tôn thêm cảm
giác quê mùa hoang dại chung của thơ Ð Ð B mà đoạn trên đã nói. 

Nói cho to tát cũng tức là ở nhà thơ này có một sự quyến quyện
giữa nội dung và hình thức, hoặc nói theo chữ nghĩa đang thịnh hành tức là sự
nhất quán của thi pháp.



IV


Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ ( tên đầy đủ là Thuỵ Khuê ), một vùng ngoại ô
phía bắc Hà Nội, đàn ông thì đi làm Nhà
da, Máy giặt, Bia Ô mền 
( Bia
Hà Nội hiện nay ) hoặc công nhân Xe
điện,
 còn đàn bà chuyên hàng
quà, bán rong các phố, quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi, ngoài ra là sắn
luộc  khoai luộc v.. v...

Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm.

Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, phố phường Hà Nội chưa đầy bụi và
ngạt khói xe máy như bây giờ. Khoai luộc chảy mật đặt trên mẹt của dân làng
Thuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là bụi bẩn, nên ai trông cũng
thèm, cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Ðào cũng gọi mua.

Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó, với cái gốc con nhà nghèo, tôi nhớ một món
khoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ. Khoai luộc mới sôi thì đã vớt ra và đổ
vào nước lạnh, bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột, nên gọi là khoai sượng. Cố nhiên là chỉ những thứ khoai còn
nhỏ, những củ nhách củ kẹ, bán nắm bán mớ, mới được dùng để làm loại quà rẻ
tiền này. Song có lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng, ngai ngái
ngầy ngậy gần với khoai sống.

Không hiểu sao, khi đọc thơ ÐÐB tôi lại hay nhớ tới thứ khoai sượng nay đã
tuyệt chủng kia.

Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo Ð Ð B đi nhiều nếu xem việc anh khai thác yếu
tố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật, một cách ranh ma đổi mốt
nhằm câu khách, mà không thấy rằng cái chính ở đây là một cách nhìn nhận, một
cách bắt lấy cái thần của đời sống.

Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn, bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu

Trong con mắt người làm thơ, cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê,
cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau, xe cúp dàn hàng ngang mà đi đấy,
nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách.

 Giữa đường Bà Triệu ồn ào, nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát
lên một chút gì đó tịch mịch xa vắng. Bởi vậy, cái chuyện cô đơn ngay giữa đám
đông là không tránh khỏi và cảm tưởng cuối cùng được cô kết lại bằng cái câu
rất sái:

 Xong rồi chả biết đi đâu, 

Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương.

Thế nghĩa là gì ? Dù đã chuyển sang thời hiện đại, song cảnh tượng ở đây chỉ là
một biến thể của những chăn trâu đốt lửa với lại bắt gió chân cầu đã nói ở
trên. Chua xót. Bế tắc. Cầm bằng đến đâu thì đến. Mà hoang dại vẫn hoàn hoang
dại.



V

Rút lại thì tôi muốn bảo Ð Ð B là một giọng thơ dân gian hiện đại.

 Dân gian là một khái niệm rất rộng.

 Là một cảm giác dang dở về đời sống.

 Là sự lạc quan tất yếu thành ra một thứ bản năng. 

Lại cũng là một nỗi buồn xa vắng khôn nguôi. 

Là sự hoà quyện giữa hy vọng và thất vọng.

 Là lòng ham sống là ý chí vươn lên đấu tranh cho đời sống
ngày một tốt đẹp. 

Mà lại cũng là một sự hư vô buông xuôi gần như đồng nghĩa với tự
cho phép muốn làm gì thì làm –, con người thì bao giờ cũng thế thôi, quá bận
tâm đến họ làm gì cho mệt. 

Bởi vậy dân gian là trong sáng vô tư, nhưng cũng là hư hỏng đàng
điếm tuỳ tiện “ chí phèo “.... 

Ðấy đại khái dân gian có lắm sắc thái như vậy, và chúng ta còn
đang nỗ lực để hiểu thêm về nó.



Riêng về Ð Ð B, tôi cảm thấy trong cái vẻ đều đều gióng một của mình, anh vẫn là một tính cách pha
trộn. 

Trong giọng thơ này, cái già
cỗi mệt mỏi
 tồn tại ngay bên
cạnh cái trẻ trung, cái
ham muốn  bồng bột nẩy
nở đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy, để rút lại nhường chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm.

Vừa chấp nhận đầu hàng, bỏ qua tất cả, mà lại vừa tham lam càm quắp, cò kè tính toán,
vơ véo nhặt nhạnh, 
níu kéo
lấy một cái gì lúc nào cũng có thể mất.

Hình như sự chấp nhận nửa vời như thế đang là cái cách mà nhiều người đương
thời, trước một đời sống đầy bất trắc, tự phát tìm đến để tự vệ ?! 

Người ta thường chê tôi là cái gì cũng chỉ “cảm thấy “ với “ hình
như “, song chuyện đời là thế, lần này tôi vẫn không dám khẳng định, mà lại chỉ
dừng lại ở “ cảm thấy” và “ hình như “ như cũ. 

Chỉ biết rằng đôi lúc rỗi rãi trong tâm trí thường vẫn quẩn lên
vài câu thơ ÐÐB. Gạt đi cái phần ngang ngược thô thiển nó là điều không thể
khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thể như tác giả, thơ Bốn đôi khi là
cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống, lẫn thấm thía cả cái vô nghĩa của đời
sống.



Làm đất đất phải nở hoa 

Làm tôi, buồn cái người ta vẫn buồn 

Với câu thơ bâng quơ nghe như một tiếng thở dài đó, dường như Ð Ð
B đã thú nhận: chẳng qua anh cũng chỉ như mọi người. Mà làm sao khác được cơ
chứ ! Luật đời đã định !

Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình, người thi sĩ đã
giúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót quên lãng và mặc
dầu vẫn sống đủ với nó, song hầu như lại chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ về
nó. 

Cuộc đời thì ngắn mà mỗi chúng ta thì bơ vơ lắm.



Viết
và in báo từ 7/2005

Đã
đưa vào tuyển tập Phê bình & tiểu luận,
2008
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 20, 2016 21:42

March 19, 2016

Cuốn sách mới về ông Lư Thoa

“Dân chủ là chế độ chính trị khó nhất vì nó đòi phải có dân
trí thật cao; mà ta thường quên nâng cao dân trí của chính mình khi nắm được chủ
quyền”

Đoạn trên được dẫn từ lời giới thiệu của nhà nghiên cứu Bùi
Văn Nam Sơn dành cho cuốn Jean – Jacques  Rousseau, NXB Đại học Quốc Gia TPHCM,
2016.


Will và Ariel Durant, tác giả cuốn sách này, vốn được biết ở
Việt Nam từ trước 1975 qua các bản dịch của Nguyễn Hiến Lê.

Thực chất của cuốn sách mới in lần này chỉ là một chương
trong bộ sách dài của tác giả mang tên Lịch
sử văn minh
(The Story of Civilization).

Chỉ riêng Rousseau đã chiếm trọn một tập trong bộ  sách gồm 11 tập này.

Và cuốn tiểu sử Rousseau mà chúng ta đang có trong tay chỉ gồm
có năm chương trong số 35 chương của tập 10.

Tuy vậy, tôi có cảm tưởng là những dòng viết về chính trị được
trích dẫn ở trên giống như là viết riêng cho chúng ta ngày hôm nay. Dân chủ lâu
nay được xem như là một thứ chìa khóa vạn năng, trong khi cách hiểu dân chủ thì
chẳng ai giống ai. Trong khi xem xét dân chủ, ta quên liên hệ nó với những điều
kiện khác. Nhất là nhận xét cuối cùng, khi đã nắm được chủ quyền, thì các quốc
gia thường quên lãng đối với việc nâng cao dân trí… Những nhận xét đó như được
dành riêng cho chúng ta hôm nay.

Trong mặt bằng về sách dịch, lâu nay ở ta tỉ lệ sách văn nghệ
thường cao hơn cả.  Người ta thích chọn
những sách dễ hiểu và độc giả thì  chỉ
xem  đó như một phương tiện giải trí. Một
hai chục năm nay, sự hữu ích của sách được đặt nặng hơn.  Sự bùng nổ 
của các loại sách học làm giàu sách quản lý kinh tế là bước thay đổi đầu
tiên.  Các sách về xã hội, thì chính trị
từ tốn hơn. Trong cơn khát muốn được hội nhập về tư tưởng với thế giới, chúng
ta thường thiên về các sách chính trị hiện thời trong khi không chú ý đến các
tác phẩm đã trở thành kinh điển trong lịch sử.

Để định hướng lại sách dịch, trường hợp cuốn sách về ông Lư Thoa mà chúng tôi nói trong bài
này là một sự gợi ý rất có sức thuyết phục.

Tôi muốn nói lời cảm ơn với những người góp phần làm nên  cuốn sách vừa được xuất bản. Trước tiên nó đặt
vấn đề chúng ta phải suy nghĩ trước khi bàn nhau hành động, phải trở lại với lịch
sử trước khi tìm cách giải quyết các vấn đề hôm nay và phải nhìn rộng ra thế giới
chứ không nên coi các vấn đề xã hội cơ bản chỉ có riêng ở quốc gia mình, cộng đồng
mình.

Ở trang 95 của cuốn sách, Will và Ariel Durant có nói tới một
luận văn của Rousseau: Luận văn về nguồn
gốc và những cơ sở về sự bất bình đẳng của con người.
Bản luận văn viết
ngày 12/6/1754. Bài luận văn này thực ra là bài thi của ông hưởng ứng cuộc thi
do Hàn lâm viện Dijon tổ chức tháng 11/1753. Câu hỏi đặt ra cho cuộc thi là nguồn
gốc của sự bất bình đẳng giữa con người là gì, điều này có được luật thiên nhiên cho phép không?

 Trong cái việc trở lại
với lịch sử ở đây, có thể nhận ra cách 
mà xã hội giúp cho các tư tưởng được hình thành. Đó là phải có một cơ chế
đóng vai trò “ làm mồi”, cơ chế này tung ra những đề tài để cho bất kỳ mọi người
có thể tham gia và mọi tư tưởng chỉ được công nhận tức được coi là đáng làm
theo nếu huy động được sức suy nghĩ của toàn xã hội. Tôi nghĩ đến những cách
lưu hành tư tưởng ở xã hội ta hôm nay và việc áp đặt chúng trong đại chúng. Hai
cách hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng cái nào có hiệu quả hơn thì  chúng ta đều biết.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 19, 2016 03:04

March 16, 2016

Sự tự phát hiện lại của Nguyễn Khải trong "Một thời gió bụi"




THỬ
NHÌN LẠI SÁNG TÁC  CỦA NGUYỄN KHẢI


DƯỚI
GÓC ĐỘ”VĂN HỌC HẬU CHIẾN”
 



 Nếu
có dịp trở lại với đời sống văn nghệ được phản ánh trên mặt báo bốn chục năm
qua, người ta thấy rằng tên tuổi của Nguyễn Khải thường được nhắc nhở, các tác
phẩm  của ông lần lượt từ
Cách mạng (1978) Gặp gỡ cuối năm (1982) Thời gian của người (1985 ) thường ở vào trung tâm chú ý của dư luận.

    Mấy tác phẩm vừa kể, trong khi làm tốt công việc phục vụ giáo dục chính trị, lại đánh trúng vào
tâm lý người đọc đương thời, nhất là tầng lớp cán bộ đã có đóng góp trong chiến
tranh. 


    Đọc ông, người ta cảm thấy hả hê khi cảm thấy đời mình có ý nghĩa. Người ta yên tâm làm ăn kiếm sống.

     Nhưng còn đối chiếu với lòng người ở một xã hội hậu chiến thì
sao? Tôi cảm thấy  việc này không nằm
trong  sự quan tâm của Nguyễn Khải.

     Trước các vấn đề sâu xa nhất và do đó nhức nhối nhất, ở ông
 không có cái tự phát như Lê Lựu, càng
không có cái tâm huyết  như Nguyễn Minh
Châu, Dương Thu Hương. 



     Khó lòng gọi ông là một nhà văn chăm chú tham gia vào các
vấn đề nằm sâu trong tâm lý con người đương thời, lý do là vậy.


    Tuy nhiên trong 40 năm ấy, ở Nguyễn Khải cũng có chuyển biến, đặc biệt là vào khoảng đầu những
năm chín mươi và lưu lại là tập truyện ngắn
Một thời
gió bụi (1993). 

     Ở đây, những vấn đề thời
cuộc, dưới cái dạng dân sự của nó, được
ông chú ý nhiều hơn. 


    Văn ông lúc này không có cái giọng  tự bằng lòng với mình, nó kéo dài suốt hơn mười
năm cuối đời của ông kể cả trong cuốn hồi ký
Thượng đế thì cười (2002). 

     Riêng tác phẩm được đọc nhiều nhất
của ông
Đi tìm  cái tôi đã mất (2007)của ông thì lại phải tính ở phạm trù
khác.


    Nếu muốn tìm hiểu sự chuyển biến trong cách nhìn cách nghĩ của giới
viết văn 40 năm qua, -- chứ không phải của Nguyễn Khải nói riêng - trường hợp
Một thời gió bụi là một bằng
chứng đáng để nghiên cứu kỹ lưỡng. Đó cũng là lý do tôi giới thiệu lại bài viết  dưới đây, dù nó đã được viết từ 1993  và đưa trên blog này lần
đầu 7-2009.











Cùng
với sự chuyển biến của thời cuộc, một trong những cây bút hàng đầu của
văn học ta đang chứng tỏ sức sống bằng cách thay đổi. Ngậm ngùi, đau xót
ư? Đúng. Nhưng cần thiết - chính tác giả cũng hiểu rằng không còn con
đường nào khác!

Đâu
là nơi bộc lộ tài năng của người viết văn xuôi? Trong khi không ít
người bảo là ở sự tả, thì Nguyễn Khải cho là ở sự kể. Mỗi lần nhà văn
trổ tài kể chuyện là một dịp ông đưa ra một câu chuyện sinh động, y như
chuyện này là chuyện riêng của gia đình hoặc bạn bè ông, nhân vật là
những người quen biết rất lâu của ông. Ông đã sống kỹ với họ, và hiểu
rằng chỉ kể về họ thì mới nói lên được một ít lẽ đời.

Đã
có một thời, trong giới viết văn, người ta thầm thì với nhau rằng những
ai thích đánh đu với Nguyễn Khải thế nào cũng có lúc được ông ấy đưa
vào truyện! Câu nói đùa suồng sã chẳng qua chỉ muốn lưu ý là ở Nguyễn
Khải, khoảng cách giữa đời thực và trang viết không xa lắm, ngòi bút ông
đủ sức tiêu hóa được mọi kinh nghiệm sống hằng ngày.

Về
giọng điệu, Nguyễn Khải vốn nổi tiếng với một lối văn nhanh, linh hoạt,
nó là bằng chứng của một cách nhìn đời sành sỏi, cái nháy mắt láu lỉnh
ẩn hiện sau các trang viết. Từ hồi chuyển qua Gặp gỡ cuối năm, Thời gian
của người
, ông lại có xu thế sử dụng một lối văn rất gần khẩu ngữ, song
lời kể của tác giả và tiếng nói của các nhân vật đan xen, các dòng ý
thức - ở dạng sơ khởi - xâm nhập vào nhau, đối thoại với nhau. Niềm khao
khát từng ám ảnh Nguyễn Khải - khao khát diễn tả cho được cái ngổn
ngang bề bộn của cuộc sống hôm nay - tìm thấy ở lối văn vừa dân gian vừa
hiện đại này một trợ thủ đắc lực.

Bấy nhiêu đặc điểm làm nên bút pháp Nguyễn Khải còn thấy rõ trong Một thời gió bụi.
Những truyện được viết vào những năm tác giả trên dưới 60 và được in ra
vào năm ông 63 tuổi này lại có những sắc thái mới mà người ta chưa bắt
gặp bao giờ. Trước mắt chúng ta là một sự thích ứng vừa tự nhiên, vừa
khó khăn, đồng thời là một sự phát hiện lại mình, nếu có thể nói như
vậy.


Những mặt người khác lạ

Từ
những năm 70 về trước, nhắc tới Nguyễn Khải là người ta nhớ tới cả loạt
truyện, ở đó, ngự trị một loại nhân vật đặc biệt, những con người vừa
khôn ngoan vừa khỏe mạnh, việc đời làm dễ như chẻ tre, lại tỉnh táo biết
điều, lý sự thẳng băng, cười giễu ai cũng được, quát thét mắng mỏ ai
cũng phải chịu.

Tới đầu những năm 80, cũng là từ cái mốc Gặp gỡ cuối năm
-
lần đầu tiên loại nhân vật nói trên ở Nguyễn Khải tỏ ra có chút mệt
mỏi. Họ thường ngồi một chỗ, nhìn rộng ra chung quanh, suy xét, nghiền
ngẫm. 

Lúc cảm thấy hết nỗi đời lắm vẻ cũng là lúc ở họ bao trùm một cảm
giác sảng khoái, tự lấy làm đắc ý, hóa ra, trong sự diễn biến của lịch
sử, mình đã chọn được chỗ đứng thích hợp, đã có những cống hiến không ai
có thể xem thường, còn thôi từ nay về sau, việc đời là của các thế hệ
kế tiếp (Lối
nghĩ đó còn thấy thấp thoáng trong hình ảnh ông Ba Quốc Hội, nhân vật
chính của Hai ông già ở Đồng Tháp Mười, thiên truyện viết từ 1982, song
tác giả vẫn gạn lấy rồi xếp vào giữa cuốn sách Một thời gió bụi).

Nhắc lại những chuyện trên để thấy đến Một thời gió bụi,
ngòi bút Nguyễn Khải đã có những bước thay đổi không ai tin nổi. 

Xưa
kia loại người vụng dại, thất thế, do không may mà lệch bước, tự biết có
lỗi lầm mà không sao nhúc nhích thay đổi được chính mình, loại nhân vật
ấy thường chỉ được tác giả mang ra đùa cợt, và khá lắm thì đóng vai trò
phụ trợ, chứ làm sao mà ngồi ngay chiếu giữa trong sách của Nguyễn
Khải. Nay thì ngay thiên truyện mở đầu của Một thời gió bụi đã mang tên Anh hùng bĩ vận,
và trong hàng loạt truyện tiếp theo, cái chất bĩ ấy còn được khai thác
đến cùng: ở truyện này, một ông già tử tế, nhân hậu bị những người thân
đành hanh, hãnh tiến ruồng bỏ (Chuyện tình của mỗi người); ở
truyện kia, người chủ gia đình vốn quen lối sống phải chăng mang màu
sắc công chức bị vợ con "vật ra" mà nhiếc móc ngay giữa bữa cơm khách (Đổi đời). 

 Vả chăng, vấn đề không phải chỉ là mối quan hệ với hoàn cảnh chung
quanh, vấn đề cuối cùng ở đây là nhiều nhân vật của Nguyễn Khải mất hết
lòng tự tin cuồng nhiệt vốn có, bỗng dưng cảm thấy mình lạc lõng ngay
giữa môi trường quen thuộc, "như
người vừa ở tù ra" (trang 185), đụng vào việc gì cũng hỏng, nói ra điều
gì cũng thấy ngớ ngẩn không hợp, họ biết ngay là mình đã hết thời. Với
họ, giờ đây, sống tức là nhẫn nhục cam chịu, dù có "chết ngay từ lúc
đang sống" (tr 200) thì cũng không được buồn nản!

Nói
rằng như vậy, diện nhân vật của Nguyễn Khải được mở rộng, e quá ư đơn
giản. Trong việc kể lại cuộc đời những người già yếu, cũ kĩ, bị hoàn
cảnh gạt sang một bên, rõ ràng ngòi bút chỉ biết sát sao riết róng của
Nguyễn Khải hôm qua đã trở nên khá chừng mực, thuần hậu, cận nhân tình.
Và cận nhân tình hơn cả là những truyện ở đó tác giả kể về những người
vì tốt quá, biết điều và tự trọng quá, nên khổ (Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức, Năm tháng đã qua đi). Những kiếp sống như cây cỏ lam lũ qua ngày mà vẫn không làm sao thoát khỏi đủ thứ tai vạ rình rập (Đời khổ). 

Ở chỗ này, ngòi bút Nguyễn Khải thường khi gợi ta liên tưởng đến những
bậc thầy truyện ngắn trong quá khứ. Ta dễ dàng nhớ tới Hồ Dzếnh với việc
lặng lẽ chiêm nghiệm lẽ đời ngay từ cuộc sống những người thân chung
quanh. Nhất là nhớ tới Thạch Lam, và phần nào đó, G. de Maupassant, với
lối kể chuyện cô gọn, có vẻ như dửng dưng - cốt để làm nổi tính chất
định mệnh - song nhiều khi chỉ qua một hai câu bâng quơ đã đủ thấm thía
một nỗi xót xa thông cảm với những con người "thấp cổ bé họng" (giữa nhân vật chị Vách và mẹ Lê của Thạch Lam không khỏi có nhiều nét gần gũi). 

 Cuộc sống bao giờ cũng đủ thứ sắc thái khác nhau và văn học có quyền
khai thác bất kỳ loại tính cách nào cũng được. 

Song, những tác phẩm
nghiêng hẳn sang phía thông cảm với những bất lực yếu đuối của con
người, thường vẫn dễ ở lại trong tâm trí ta hơn, ta cảm thấy nó đang đi
về hướng nhân bản.



Một thế giới khác

Theo cách diễn giải của Nguyễn Khải, sở dĩ một nhân vật như Tú (trong Đổi đời)
và nói chung nhiều nhân vật khác của ông lúng túng, lạc lõng, lý do là
vì đã bị "mất phương hướng trước những biến đổi tự phát của thời cuộc"
(tr33).

Có lẽ đã
được viết ra theo lối bột phát song nhận xét ấy lại bộc lộ cho thấy,
trong thâm tâm Nguyễn Khải, chừng mực nào đó, cả ý niệm về hiện thực
cũng đã thay đổi.

Công
bằng mà nói, so với các tác giả khác, thì ở một số tác phẩm trước đây,
thế giới trong Nguyễn Khải đã lắm vẻ phức tạp. Nhưng suy xét kĩ thấy đấy
là một sự phức tạp rất... đơn giản. 

Nói thế giới lúc ấy vẫn có cả bóng
đêm và ánh sáng chẳng qua là một cách nói ước lệ, nói cho sang, thực ra
bấy giờ lúc nào nó cũng chan hòa ánh sáng, mọi việc rành rẽ dứt khoát,
thiện ác, tốt xấu phân tuyến rõ ràng, còn con người thì phần lớn như
những vị thánh, chỉ chăm lo có mỗi một việc là biến cải thế giới chung
quanh theo niềm tin của mình. 

Nay, với các nhân vật, và với chính Nguyễn
Khải nữa, đất dưới chân lay chuyển. Đồng tiền ngự trị. Thói vụ lợi tha
hồ hoành hành. Mọi con người như tự khác mình đi "người ngợm, nghề nghiệp lẫn lộn lung tung cả"
(tr208). Nhưng điều đáng sợ nhất chưa phải ở đấy!

 Đáng sợ nhất là thế
giới ấy chập chờn ẩn hiện, ta rất dễ nghĩ sai về nó.

 Một dự đoán vừa rất
có lý - như linh tính của tác giả về nhân vật Khôi trong Người của làng
pháo -
vài ba ngày sau đã hóa ra một nhận xét nông cạn lỗi thời. 

Một
niềm tin sâu xa từng theo sát người ta trong cả cuộc đời - như niềm tin
của nhân vật chính trong truyện ngắn Một thời gió bụi, và vẻ êm đềm thơ
mộng của quê hương, và khả năng bao dung che chở của một nông thôn ngàn
năm náu mình trong im lặng - phút chốc biến thành ngớ ngẩn giả dối. 

Vùng
nông thôn ấy, cũng như cả thế giới trong Nguyễn Khải vùn vụt biến cải,
chỉ có điều khác: xưa nó vận động theo cái hướng người ta đã định trước
cho nó; còn nay nó diễn biến thế nào thì lại nằm ngoài lối suy nghĩ
thông thường, cũng tức là nằm ngoài sự kiểm soát vốn được tiếng là khôn
ngoan của lớp cán bộ như tác giả.



Cái trẻ của tuổi già

Một điều tự nhiên ai cũng biết là các nhà văn, cũng như người thường, không dễ từ giã chính mình. Qua Một thời gió bụi,
ta thấy Nguyễn Khải cũng vậy. Trong những nhận xét sắc sảo thật ra vẫn
chưa hết hẳn cái lanh chanh khoe khôn cũng như trong giọng kể, không
khỏi có những thoáng hờn dỗi, mình khôn ngoan như thế này, biết điều như
thế này, cúc cung tận tụy như thế này, mà khổ, mà lạc lõng, thì ra
chung quanh nhầm rồi, đời không có mắt rồi, thật tội nghiệp quá!

May thay, những âm hưởng đó, chỉ là âm hưởng phụ. 

Cảm hứng chủ đạo chi phối Một thời gió bụi vẫn
là cảm hứng rằng dẫu sao cũng phải nhìn thẳng vào sự thực, đúng như lời
tác giả tự dặn ở cuối cái truyện ngắn tự thú mang tên Anh hùng bĩ vận "Hãy cười lên để tiễn biệt một thời vừa tới, cho dầu cái thời đang tới ấy không phải là thời của mình" (tr 22).

Từ
góc độ bản thân tác giả mà xét như vậy là ông chấp nhận sự bất lực, sự
lạc lõng, tóm lại là ông đã già? Cái đó có. Nhưng hãy trở lại với cái
cuộc đời mà ông luôn luôn miêu tả với tình cảm nước đôi vừa cười cợt vừa
bực bội. 

Liệu có phải là nó đang hư hỏng đi không? 

Không! Chính là tác
giả cũng nói: không. 

Tuy khó chịu với nó, nhiều lúc công khai lên án vẻ
tàn bạo của nó, song, với tư cách nhà văn, ông vẫn phải công nhận là nó
có gì đó thiết thực hơn, hợp lý hơn cái mô hình mà xưa nay ông theo
đuổi. 

Và điều quan trọng nhất tương lai thuộc về nó - tác giả chua chát
thừa nhận, một sự thừa nhận tố cáo thế yếu của một con người song lại
phát lộ chỗ mạnh thực sự của một ngòi bút. 

Rút cục lại, nhìn kĩ vào thế
giới hiện diện trong văn Nguyễn Khải hôm nay cùng con mắt nhìn đời mà
tác giả cho là phải có, thì lại có thể nói ngòi bút Nguyễn Khải, trong Một thời gió bụi,
vẫn có cái phía nào đó khá chắc khỏe, do đó cũng là trẻ nữa. 

Bởi lẽ,
đây là cái trẻ của một người dù đã bước sang tuổi già vẫn gắng sức cưỡng
lại cái quán tính bảo thủ nằm sẵn trong chính mình, tỉnh táo nhìn ra
hướng phát triển của hiện thực, một cái trẻ trong nhận thức - chứ không
phải trong cảm tính, lại càng không phải trong cơ bắp thuần túy - nên
vẫn có thể bảo đó là một vẻ trẻ trung thực thụ, mà người ta, dù ở lứa
tuổi nào, cũng cảm thấy gần gũi.



Đã in trong Cánh bướm và đóa hướng dương 1999




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 16, 2016 01:13

March 14, 2016

Thơ Nguyễn Duy những năm chín mươi




LỜI DẪN:

Nên trở lại với  từng chặng đường của văn học sau 1975.

Nghiên cứu văn học không phải chỉ là đưa ai lên  xếp hạng ai trước .

 Mà nghiên cứu văn học cần nhất là rút đúc kinh nghiệm trong quá khứ.



 Nhiều lần tôi đã bỏ qua những tập thơ tuyển hoặc những kỷ yếu hội thảo rất có giá trị chỉ vì ở đó bài hay lẫn với bài dở, có nhiều bài dở được chọn chỉ vì vai vế hay đơn giản tác giả chính là người có chức quyền hoặc chi tiền cho những xuất bản.

Đối với các tác giả đang sống cũng vậy.

Dân làm nghiên cứu phê bình ở dạng "nghiệp dư", "tự do" chúng tôi thường cũng tự nhận thấy mình đã bất công khi nhìn lại đời sống văn học hậu chiến mà chỉ nói đến Nguyễn Huy Thiệp Bảo Ninh Dương Thu Hương, hoặc Lê Lựu Nguyễn Minh Châu ...

Tại sao? Chỉ vì các tác giả khác không thật nổi lắm.

 Nhưng  người ta càng có lúc trồi lúc sụt anh càng phải đi vào bàn với người ta chứ. 

Tại sao anh lạ lờ đi luôn thể ?! 

Tôi có ngẫm nghĩ và thấy một lý do như sau:

-- nền văn học của chúng ta thường không được tổng kết một cách công bằng, hơn nữa một cách cụ thể. 

-- Các giải thưởng xét không nghiêm minh và dựa vào quá nhiều tiêu chuẩn khác nhau, trong đó tiêu chuẩn nghệ thuật  thường khi không được đặt ở vị trí đúng mức.

--  Do ý muốn tìm tới một cái nhìn toàn diện và cũng để đoàn kết,  chúng ta có một bảng xếp hạng  cái hay lẫn với cái dở và những người có một thời gian nào đó nổi lên  cứ bị lẫn đi.

Thêm một lý do nữa, tạm gọi là bệnh quan liêu. 

Khi nhìn lại 40 năm văn học hậu chiến, chúng ta có thói quen gộp cả lại một giai đoạn. Chúng ta chỉ thích ghi nhận những ai liên tục nằm ở trung tâm chú ý mà quên rằng sự sáng tác ở ta vốn rất bấp bênh, đỏng đảnh, làm gì có người lúc nào cũng ở hàng đầu.

Trên đường  ghi nhận các bước đường đã qua của văn học hậu chiến, tôi thấy cần tách ra những khoảng thời gian ngắn, mỗi khoảng  có khi bảy tám có khi mười năm, nhận ra ở đó những đặc điểm riêng về hoàn cảnh, tình hình sáng tác  thì rồi gộp cả lại may ra mới tìm được khuôn mặt của lịch sử 40 năm.

   Tôi nêu lại mấy ý nghĩ này để  thú nhận sự bất lực của mình. Tôi đã không còn sức để làm việc đó. Việc có thể làm lúc này là giới thiệu lại một số suy nghĩ của mình mười lăm hai  mươi năm trước 

,có liên quan tới trường hợp một  nhà thơ ở thời điểm mà tôi cho là cao trào sáng tạo của tác giả.

   Dù không chắc rằng cách phân tích và đánh giá trong bài này nay vẫn đủ sức thuyết phục, tôi vẫn muốn đưa lại ở đây để may ra có thể dùng làm tài liệu cho các bạn đang muốn tổng kết "bốn mươi năm văn học". Và nhất là gợi ra một cách làm việc.

    BỐN MƯƠI NĂM thưa các bạn thời gian đó dài lắm. Vì cái gọi là "những năm tiền chiến huy hoàng"  chỉ kéo dài có khoảng mười lăm năm; Thi nhân Việt Nam , tập sách làm nên tên tuổi Hoài Thanh thật ra có cái tên là Thi nhân Việt Nam 1932-41. Và không ít công sức của các nhà nghiên cứu  trong nước và hải ngoại đã bỏ ra, vậy mà  chưa biết bao giờ chúng ta mới tổng kết được hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975.





những tài năng "tinh hoa phát tiết" từ những tác phẩm đầu tay và cuộc
đời tiếp sau của con người đó trong nghệ thuật là một chuỗi ngày mỏi mòn tẻ
nhạt. Lại có những cây bút phải qua thời gian mới tìm thấy lại mình, sự trưởng
thành muộn màng nhưng chắc chắn. Nguyễn Duy là một trường hợp như thế: Ở ngưỡng
cửa của tuổi 50, anh mới cho in một tập thơ có lẽ là đều tay hơn cả, chín hơn
cả trong đời thơ của mình.

Người
làm thơ ấy đã được biết tới rộng rãi trong những năm từ 1975 về trước, với mấy
bài thơ quen thuộc như Tre, Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, thường có mặt
trong các tuyển tập và đã đưa vào sách giáo khoa học sinh phổ thông. 

Nhưng đúng
như người bạn vong niên của tác giả là nhà văn Nguyễn Quang Sáng (trong bài
viết in ở cuối tập Mẹ và em) đã nhận xét, thơ Nguyễn Duy hồi ấy còn non
nớt, mà tác giả thì còn trong cơn trăn trở tìm tòi. 

Cuộc tìm tòi này kéo dài
liên tục qua các tập Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đường
xa
(1990). 

Giờ đây, với hai tập Về (1994) và Bụi (1997) từ chỗ pha giọng, chập chững, mày mò,
nhà thơ đã đi tới một giọng thơ có nhiều phẩm chất thuần nhất. Dân dã mà hiện
đại, từng trải dạn dày song lại run rẩy tinh tế, cay đắng ngậm ngùi ngay trong
khi cười cợt đắm say, lam lũ dông dài mà vẫn có những nét cao sang riêng, thơ
Nguyễn Duy những năm 90 gợi ra cảm tưởng một bản sắc đã chín, đã định hình ở đó
có tất cả những phóng túng nồng nàn, lẫn những ngang trái khó chịu mà đã yêu
thơ anh người ta phải chấp nhận.




Bao
dung nên giàu có


Ở những tập thơ trước, Nguyễn Duy đã tự giới thiệu như một người hay đi. Một cách
hình tượng, bạn bè bảo muốn miêu tả  Duy thời ấy, phải dùng đến một câu của Nguyễn Tuân  "như một con ngựa sung sức, nếu không
được buông vó trên đường dài, thì ở trong tàu, lúc nào cũng nghe cái tiếng gõ
lộp cộp của nó, nó đòi đi". 

Đến những năm gần đây, lẽ tự nhiên là Nguyễn
Duy vẫn hay đi lắm, giang hồ phiêu bạt đủ chốn, song cái ấn tượng toát lên từ
thơ không phải là sự đi nhiều mà là sự từng trải. 

Dù viết về chuyện gì - cát
trắng Quảng Trị, mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long hay chỉ phác ra mấy nét
sinh hoạt phố xá Sài Gòn, các bài thơ đều thống nhất ở cái tâm trạng riêng của
tác giả.

 Trước chuyện khiêu vũ chẳng hạn: với tư cách là một cựu chiến binh,
một người "chân đất", những tưởng anh sẽ nhìn lại cái cảnh
"khoan nhặt vô thường ríu rít tít mù loảng xoảng" này bằng cặp mắt xa
lạ, chối bỏ. 

Hoặc cũng có thể - như thái độ quay ngoắt 180 độ thấy ở nhiều
người - lại ngả sang mốt tân thời, hết lời ca ngợi, cho như thế mới là văn minh
lịch sự!

 Nguyễn Duy của những năm này đã vượt qua cả hai thái cực nông nổi như vậy. 

Với tầm nhìn rộng rãi hơn, anh hiểu ngay rằng, thật ra, cả thế gian là một cuộc
khiêu vũ, và chính nhà thơ trong anh cũng thường phải làm một cuộc nhảy nhót
đầy nhọc nhằn.

"Vũ trường giấy trắng cô đơn anh khiêu vũ giấc mơ 

 Không bắt đầu từ đâu, không kết thúc nơi nào". 

Một cách tương tự, tâm
trạng quán xuyến trong anh khi ngồi xem cuộc thi "hoa hậu vườn nhà
ta" là "mắt vui vui khúc ruột buồn buồn".

Bài thơ đọng
lại ở mấy câu

"Hậu hoa hậu còn gập ghềnh lắm 

 Được cũng thương mà thua
cũng thương". 


Nhờ cái nhìn bao dung như vậy, bản thân Nguyễn Duy đã
giàu lên khá nhiều. Giờ đây đến với anh, người ta không chỉ gặp những cơm bụi,
cát, rau muống, rau tập tàng, cánh cò phiêu bạt... - tức những mảnh đời buồn
buồn tủi tủi, mà còn có dịp cùng anh lắng nghe chuông chiều Dresden, nhận ra
một Mặt Danube đỏ nhừ như say khướt bên cạnh một Danube xanh muôn
thuở của Budapest. 

Rồi ảo giác, rồi áo trắng má hồng, rồi pháo tết...
bao nhiêu là vẻ đời - có khi sặc sỡ, có khi thơ mộng, lại nhiều khi đẹp đẽ
đấy mà thê thảm đấy - hiện lên như trong ống kính vạn hoa. 

Song dù quay cuồng
hỗn loạn đến đâu thì với Nguyễn Duy, thế giới này vẫn có cái gì đó cận nhân
tình, và có cái vẻ đáng yêu riêng của nó.

 Ngay việc vận dụng hình thức - tức
việc chọn chữ, đặt câu, hình thành nhịp điệu trong thơ anh, cũng đều xuất phát
từ một cách nhìn đời, một mỹ cảm nhất quán như thế cho nên cái cảm hứng chính
mà tác giả muốn làm lây truyền thêm thấm thía, khi đến với bạn đọc.




Chữ
lạ, người lạ


Sự
tìm tòi không phải là nhu cầu của riêng ai. Đọc nhiều tập thơ xuất bản dăm bảy
năm gần đây, người ta nhận thấy một ý hướng chi phối người làm thơ là họ đều
muốn cục cựa, thay đổi, mỗi người mò mẫm một cách, những mong có được cách diễn
đạt thích đáng về một thế giới mà họ đều cảm thấy là đang thay đổi.

 Hiềm một nỗi
là đọc một số tập thơ loại đó, thấy người viết cứ miên man tìm kiếm, mỗi lúc
một kiểu, mỗi bài một hướng, không tạm dừng lại ở hẳn một chỗ nào, làm rõ một
giọng nào, kết quả là cả tập thơ vừa bề bộn vừa tẻ nhạt, đơn điệu ngay trong
những tìm tòi hỗn loạn thường trực.

Ở tập thơ này, Nguyễn Duy có cách tìm khác. Sau khi dò ra mạch, anh dừng lại khai
thác đến cùng. Nhờ thế hai tập gần đây có được sự nhất trí mà ở những tập thơ của
nhiều người khác, người ta thấy thiếu.

Trước
tiên là ở khu vực chữ nghĩa. 

"Thơ là sự do dự giữa chữ và nghĩa",
"chữ bầu lên nhà thơ", "sự say mê sáng tạo ngôn từ phải là sự
say mê đầu tiên của một nhà thơ" - những tuyên bố lớn lao, không phải là
mục đích Nguyễn Duy theo đuổi, song có thể anh cũng không ngại gì sự thách thức
của những khái quát kiểu ấy, đơn giản là vì nếu không có điều kiện để quan tâm
tới mọi khía cạnh của vấn đề hình thức thì cũng có một số phương diện của nó
được anh chăm sóc tỉ mỉ, và gắng tìm tòi một cách xử lý riêng. 

Nói cụ thể hơn,
trong nhiều sự đắm đuối đôi khi đến mức đồng bóng mà con người này nhận lấy và
cho phép nó thả cửa hành mình, có sự đắm đuối đi tìm những chữ lạ, những chữ
méo mó, oái oăm, song lại diễn tả được hết cái trạng thái kỳ cục của sự vật. ở
đây đại khái có thể thấy hai loại. 

Một là có những chữ mọi người đã dùng
nát ra rồi, nay được Nguyễn Duy sử dụng lại, song nhờ sử dụng một cách thích
đáng lại tạo hiệu quả kỳ thú. 

Hai là có những chữ đọc lên ngờ ngợ, không
rõ tác giả bịa ra hay nhặt ở đâu không ai biết, song lại được dùng đắc địa,
người ta không ai cãi nổi. Tổng hợp cả hai loại này là cả một bản hợp xướng của
những chữ lạ: 

"ngấp nga ngấp ngoáng kêu ma", 

"đàn kêu tang tảng
tàng tang
",

 "ỡm ờ dở dói dồn ghe dạt bèo",

 "phang anh xất
bất xang bang sao đành
" v.v... 

Có nhiều bài thơ như các bài Nợ nhuận
bút, Trở gió, Em đi, Gió
gần như câu nào cũng có một chữ lạ đặc kiểu Nguyễn
Duy như vậy. 

Đã bao nhiêu người tả gió, nhưng đến Nguyễn Duy, người ta mới bắt
gặp một thứ "hội hóa trang" của gió, hết gió cong queo lại gió
tuây huây, gió loang toang, gió vùng vằng,
rồi đến gió rờn rợn và cả
gió tâm thần nữa. 

Ngày của anh là ngày ngun ngủn, trăng là trăng
rỗng tuếch
(trong một câu thơ đẹp một vẻ đẹp cổ điển Đêm suông rỗng
tuếch trăng tà),
mây là thứ mây tướp, thời gian thì trôi thườn
thượt
và con người nếu không là rơm rạ, không hóa đá, thì
cũng lẫn với ma, cùng là các loại người đi như xác chết trôi giữa
đường. 


Đến đây, lại càng thấy rõ trong một nền thơ, cuộc khiêu vũ ngôn từ
trải ra trên cả một vũ trường hết sức rộng rãi, có người chỉ nhảy theo nhịp cổ
điển, có người thích lao vào những thể nghiệm hoàn toàn mới.

 Về phần mình,
Nguyễn Duy ở vào giữa hai đám chúng sinh đó. Tìm đến đâu anh vận dụng ngay đến
đó. Sở dĩ đôi khi anh đưa ra những chữ lạ, không phải vì anh bị chúng quyến rũ,
hoặc ham chơi quá, sẵn sàng "thể nghiệm để thể nghiệm", mà đơn giản
chỉ vì phải những chữ ấy mới diễn tả hết cái vẻ riêng của thế giới anh quen
hình dung. Chữ vẫn trong tay anh sai khiến.




Vẻ
cao quý riêng


Những
người có quen Nguyễn Duy thường tỏ vẻ thú vị, khi đối chiếu con người anh với thơ
anh. Bề ngoài đó là con người lùn mập, mặt vuông, bàn chân bè, bàn tay chai
sạn, mái tóc ổ rơm. Hình như đó là một thứ ngoại hình không thơ chút nào. Giải
thích tình trạng ẩn tướng thú vị này, hình như (?)  nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã bình luận một cách
thân ái "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy
là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó".

Nói
thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý, điều ấy nhiều người có thể chia sẻ. Song
"chữ quý kia cũng có ba bảy đường" - tôi tưởng nên nói rõ ở đây không
có sự tương phản nào hết. Ngược lại cái quý và cái lạ của thơ Nguyễn Duy là nó
mang được hình hài của đám đất hoang đã nuôi dưỡng nó. Đó là một vẻ cao quý
riêng, không lẫn với sự cao quý thông thường chúng ta vẫn gặp.


lần, nhân tả một đám học trò, Nguyễn Duy bột phát đưa ra một "tuyên
ngôn" về cái đẹp: "đẹp như là không đâu vào đâu". 

Quả
thực, đọc thơ Nguyễn Duy rất hay bắt gặp những gì bâng quơ bất chợt, những gì
hồn nhiên mà đẹp như vậy. Mà trước tiên là giọng thơ.

 Nhịp thơ lúc này không
có cái cân xứng cổ điển. 

Luôn luôn nó có cái vẻ "Vó câu khấp khểnh bánh xe
gập ghềnh" thế nào đó. 

Ở đây người ta không bắt gặp cái ngân vang tuyệt
vời trong thơ Đường mà về sau còn thấy vang vọng kín đáo trong Thơ mới 1932-41. 

Ở đây,
thường khi người ta bắt gặp những trái khoáy ngang phè, những nghịch phách
tương phản, mà chỉ trong âm nhạc hiện đại mới thấy, để rồi được đẩy lên, gợi
một cảm giác vừa khó chịu, vừa thú vị.

Bên
cạnh thơ tự do, ai cũng biết Nguyễn Duy khá "ăn chịu" với thơ truyền
thống, thơ lục bát. 

Song có thứ lục bát của ca dao Bắc bộ nuột nà óng ả, lại có
thứ lục bát của câu đố, của xẩm, dông dài, tàng tễu, ở đó con người thường
thích cười cợt và chỉ thỉnh thoảng mới thoáng qua một chút rưng rưng để rồi lại
tự giấu đi rất nhanh sau tiếng cười. 

Thơ Nguyễn Duy chính là ngả sang loại lục
bát thứ hai này, nó hợp với cốt cách bình dân, bụi bặm của thơ anh, mặt khác,
lại tạo được cái vẻ đẹp kỳ dị mà chỉ thơ hiện đại mới chấp nhận.




Cuộc
trở về không ảo tưởng


Từ
nhiều tập trước, trong thơ Nguyễn Duy đã láy đi láy lại mô-típ trở về. Sau khi
chìm nổi cùng đám đông, những phút cô đơn là những phút con người này trở lại
với những giá trị cội nguồn. Dù ở đâu, thì với thi sĩ, làng quê xưa cũng là một
cõi nhớ. Nó là đối trọng của thành thị. 

Nó có chút gì đó trong sáng thanh sạch
mà càng từng trải người ta càng khao khát. Chỉ có điều cần nói là nếu ở một số
người (và ở chính Nguyễn Duy trong các tập trước), trở về hàm nghĩa một sự lý
tưởng hóa cảnh điền viên thì giờ đây, trong cuộc trở về này, nhà thơ vẫn giữ
được vẻ tỉnh táo cần thiết. 

Làng quê nói riêng, quá khứ nói chung, chỉ là một
bộ phận hợp thành của cái thế giới kỳ cục, -- như quả sầu riêng "vừa thủm vừa
thơm", --  mà tất cả chúng ta đang phải sống. 

Song bởi lẽ nó là cuộc đời của
mình, những kỷ niệm của mình, nên người ta vẫn có thể yêu nó bằng một tình yêu
hồn nhiên nhất. Sớm mai đánh bệt trước thềm - Đứ đừ phun khói thuốc lên tận
trời -
bài thơ Thuốc lào phác ra một tư thế hiền triết, song là cái
hiền triết dân dã, đi gần tới một thứ lão thực giản dị đáng yêu.




thể thấy rõ tâm thế trở về của Nguyễn Duy bộc lộ rõ hơn cả trong mấy bài thơ ở
cuối tập như Vợ ơi, Nợ nhuận bút, Mời vợ uống rượu, Rơi và nhặt. Trong những bài này chúng ta bắt gặp một Nguyễn Duy tình nghĩa, có trước có sau, có lúc mê muội đắm
đuối, song cuối cùng, vẫn biết trở lại với cái gì thật là của mình. 

Có đến hai
lần, nhà thơ nói đến mái tóc ngả bạc trên vai người vợ. 

Có cảm tưởng ấy là
những lúc con người này đang trải nghiệm tất cả: thời gian đang trôi, cuộc đời
mỗi người đang ngắn lại, những ngày qua có đủ vui buồn, mà những ngày sắp tới
đây như chén rượu kia cũng sẽ có đủ ngọt ngào cay đắng. Song được sống đã là
một điều thiêng liêng rồi và anh tự nhủ mà cũng là nói với chúng ta: hãy biết
trân trọng niềm thiêng liêng ấy.



Nguyên là bài  

 in trong Cánh bướm và đóa hướng dương,1999 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 14, 2016 01:52

March 7, 2016

Dấu hiệu của mệt mỏi và thiếu khát vọng sáng tạo








  Trong cuộc gặp gỡ tại báo Người đô thị đầu xuân vừa rồi

 ( xem đường link ,http://nguoidothi.vn/vn/news/chuyen-h... )  

nhà nghiên cứu  Nguyễn Minh Hòa - Trưởng khoa Đô thị học Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn TP. HCM - cho biết nhiều đồng nghiệp của ông còn không có
cảm hứng nghiên cứu.


 Học trò của ông cũng vậy, nhiều người không còn ham
học, ham đọc sách [ tức là không còn ham sống theo cái nghĩa tốt đẹp nhất của sự sống. VTN]



  Từ góc độ nghiên cứu văn chương tôi thấy hoàn toàn chia sẻ với anh Hòa. Cái cảm giác ấy đã đến với nhiều người trong giới viết văn trở về từ chiến tranh, bao gồm ở cả mấy thế hệ và kéo dài từ mấy chục năm nay. 

Trong lúc chưa triển khai nghiên cứu đầy đủ và  có được sự lý giải  cần thiết  với hiện tượng này, tôi mới chỉ tìm cách ghi nhận nó. 

Bài viết đã in trên TT&VH  từ những năm chín mươi và đã đưa trên blog này ngày 25-9-2010 .

 Lẽ ra lại còn phải  liên hệ nó với hiện tượng văn chương suy thoái hiện nay, nhưng tôi chưa làm được mà  chỉ  đưa lại dưới đây, chưa kịp sửa chữa thêm bớt gì hơn.



Từ bóng đá tới văn chương 




     Các nhà bình
luận bóng đá thường dùng một cụm từ để, trong một số trường hợp giải
thích sự thất bại của một đội bóng : các cầu thủ thiếu khát vọng chiến
thắng.

      Thú thực là lúc đầu nghe họ nói thế, bản thân tôi cũng lạ và thấy
một chút gì đó khó hiểu : chiến thắng, hay thành công, thành đạt, là cái
đích của mọi hoạt động. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần, nó còn
liên quan trực tiếp đến công ăn việc làm, thu nhập, tiền thưởng.

       Người đời thường chỉ thiếu năng lực chứ mấy ai thiếu khát vọng ?


      Trên sân cầu thủ
như người mất hồn lờ vờ, uể oải. Vẫn biết họ có mặt mà không hiểu họ
làm gì trong chín mươi phút thi đấu. Hình như chưa đá đã tính rằng không
có cách gì đá thắng. Thấy mình bất lực. Ngại va chạm. Khiếp nhược đến
mức thấy bóng cũng không dám sút, người nọ đun đẩy người kia.

   
Thậm chí đôi khi trước mắt chúng ta là một đội bóng cứ chạy loạn cả
trên sân, song nhìn kĩ, chỉ là một sự liều lĩnh trong tuyệt vọng. Và
người ta chỉ có cách bảo là ở họ đang thiếu hẳn khát vọng chiến thắng.





      Mượn chuyện bóng đá để bàn thêm
những nghề khác, hẳn có người cho là thô thiển. Song, ở đây, cái để
chúng ta quan tâm tới hiện tượng là phần thực chất của nó. Bóng đá chẳng
qua là một ví dụ, ta hiểu thêm về các hoạt động sáng tạo. Vậy thì, một
căn bệnh thấy rõ ở bóng đá như trên đây vừa miêu tả có lẽ cũng có thể
giúp cho việc bắt mạch chính xác hơn cái hiện trạng khó khăn đang ngự
trị ở một số lĩnh vực sáng tạo khác trong đó có có văn chương.

         Trong xã hội hiện đại, như các nhà vật lí lí thuyết thường nói, không có gì là không thể xảy ra.





Hơi thở vô hình và chất kết dính

      Trong
qúa trình hành nghề, một người viết văn thường thấy dậy lên trong lòng
mình nhiều ao ước – chưa làm đã ao ước, càng làm càng ao ước thêm. Nếu
biết làm việc một cách hợp lí, người ta sẽ cảm thấy những ao ước ấy
không hẳn xa vời, mà gần gũi như với tay là chạm được đồng thời lại vẫn
thiêng liêng đến mức nếu không đạt tới, thì xem ra đời mình chẳng còn
chút ý nghĩa nào nữa.

      Và đó chính là khát vọng.

   
   Có cái khát vọng tự nhiên, khát vọng được trình bày, bộc lộ và trong
chừng mực nào đó, đóng góp tiếng nói nhỏ bé của mình cho nhân quần xã
hội.

       Có cái khát vọng hòa nhập, khát vọng muốn được thông cảm, được chia sẻ được làm dịu bớt những điều sôi nổi trong lòng.

       
Trong quá trình viết, lại nảy sinh cái khát vọng muốn tìm tòi và tự
hoàn thiện về mặt nghệ thuật, nói cho văn hoa là là khát vọng xây nên
một tòa lâu đài bằng ngôn từ, chưa ai trông thấy bao giờ mà lại mĩ lệ
đến mức những người khó tính nhất cũng phải trầm trồ khen ngợi !





        Dù nhiều bộ mặt như thế nhưng
khát vọng vẫn chốt lại ở một điểm: nó không phải là ao ước viển vông mà
bao giờ cũng là kết qủa một sự suy tính sâu xa. Nó nằm trong tầm tay
của người hiểu biết công việc, và trở nên nguồn sức mạnh thúc đẩy người
đó nỗ lực dẫn tới.

         
Rồi ra, nó sẽ là cái hơi thở vô hình tồn tại bên trong sách đến mức mãi
về sau, mỗi khi tiếp xúc với tác phẩm, người đọc vẫn cảm nghe được hơi
thở của nó.

        
Ngay cả khi người viết thiếu một chút may mắn trong lao động nghệ
thuật, tác phẩm không trở nên hoàn thiện để rồi không có được số phận
tốt đẹp như tác giả mong muốn, thì cái phần khát vọng mà người viết đã
đặt vào nó vẫn tồn tại và luẩn quẩn sau các dòng chữ.

          Có thể nói một cách chắn không có ngoại lệ rằng khát vọng chính đáng bao giờ cũng tìm được cách biểu hiện tác phẩm.

       
Ngược lại một khi các trang sách không đủ sức lôi cuốn người đọc, trước
mặt họ chỉ thấy một khối rời rẽ, nhợt nhạt … thì có phần chắc là họ
đang phải tiếp xúc với những ngòi bút thiểu năng, thiểu lực, không có
lấy một chút tha thiết tối thiểu cần thiết cho một công trình sáng tạo.

      
 Điều này sẽ được minh hoạ rõ qua một số tác phẩm đang ra đời hôm nay.
Câu chữ cẩu thả, mạch truyện chắp vá; lời thơ sáo mòn, người viết làm
việc vội vã, hình như chỉ cốt viết cho xong …

       
Bấy nhiêu căn bệnh đã được nói trên báo chí một phần, song so với những
cái đã nêu, thì cái phần được giấu đi còn trầm trọng hơn gấp bội.

        
Nếu được đi vào hậu trường của đời sống văn học, người ta đại khái còn
được biết thêm rằng nay là lúc sinh hoạt chuyên môn trong những người
cùng giới khá lểnh loảng, nhà văn thường chỉ lo viết hơn là lo làm việc
đều đặn để tích luỹ chuẩn bị cho sự viết ; hơn thế nữa, có ngồi vào bàn
cũng lo viết ù một cái cho thật nhanh, vì bao nhiêu thời gian và tâm
huyết còn dành cho việc xoay xoả cốt bán tác phẩm với giá cao nhất.

         
Đã có nhiều ý kiến khác nhau được nêu lên nhằm biện hộ và lí giải hiện
tượng này, song, nếu muốn quy về tận gốc, có lẽ phải nói tới con người
nhà văn với những khát vọng đang mất dần ở họ.


   Đất bạc mầu -- bình ắc quy, lâu không “ sạc “

     “Tại sao anh lại thờ ơ với những ý tưởng nảy sinh trong tác phẩm của anh, đấy là điều tôi không hiểu nổi!”


           Trên đây là một nhận xét mà nhà văn Nga K. Paustovski viết bên lề tập bản thảo của học sinh trường viết văn Gorki.

     Sự thờ ơ mà cụ Pau
nói ở đây, không khác gì, chính là một sự thiếu khát vọng chúng ta đang
bàn. Thờ ơ với những ý tưởng nảy sinh, thờ ơ với từng quyển sách, thờ ơ
với cả nghề văn v.v… những thang bậc khác nhau đó là trên cùng một
hướng vận động.

       Và chúng tôi cũng nghĩ như tác giả Bông hồng vàng -
sự thờ ơ ấy, là một cái gì lạ lùng, hiếm khi thấy ở một người làm nghề
sáng tạo trước kia, và có lẽ, chỉ đặt vào hoàn cảnh xã hội hiện đại,
người ta mới nhận rằng nó đã xuất hiện.

      
Tạm làm một sự so sánh: theo cách nhìn thông thường thì đất là một thực
thể vô tận và bền vững, ổn định, có bỏ công ra cấy trồng là có thu
hoạch. Nhưng theo các nhà nghiên cứu nông nghiệp, nay là lúc đất có thể
trở nên thoái hoá, bởi đã bị khai thác quá công suất, hoặc bởi sự lạm
dụng các loại phân hoá học.

      
Cũng tương tự như vậy,  một người viết văn sẽ trở nên trơ lì, thờ ơ,
thiếu khát vọng khi giải quyết không tốt mối quan hệ với hoàn cảnh.

      
Nhìn một cách bao quát, có thể bảo chưa bao giờ sự sáng tác văn chương
lại được xã hội hoá cao độ như hiện nay. Sự bình thản trong nếp sống nếp
nghĩ thời xưa chỉ còn là chuyện trong kí ức.

        
Sang thời hiện đại, sáng tác đồng nghĩa với gấp gáp vội vàng, hôm qua
nhân danh phục vụ,  hôm nay thì để thoả mãn cái tính hiếu thắng không
chịu thua kém ai trong kinh tế thị trường.

         
 Người ta vẫn hay nói và thực sự vẫn nhớ như chôn vào ruột về những tác
động to lớn mà văn học có thể mang lại cho cuộc sống.

          Nhưng cái tác động này cần dựa trên một chất lượng ra sao – chuyện ấy đang bị tha nổi.

           Luôn luôn chỉ có một thứ cần nghĩ tới là sự có mặt. Mà đã như vậy, thì chuyện xồ bồ viết lấy được là khó tránh khỏi.

          
Có những nhà văn mải miết đến mức không còn học hỏi tiếp nhận thêm, đại
khái giông như cái bình ắc quy, chỉ lo phát điện mà không “ sạc - giê
”, thành thử cằn cỗi lúc nào không biết.

         
Lại nữa, tuy nỗ lực chủ quan, nhưng việc duy trì khát vọng lại phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa nhà văn với môi trường, với dư luận.

       
Một người không thể cứ viết một cách đầy tâm huyết và có sự chuẩn bị kĩ
lưỡng cho sáng tác khi những nỗ lực chính đáng của anh ta không được xã
hội đánh giá đúng. Và chắc chắn anh ta sẽ sớm nản lòng khi nhìn ra
chung quanh thấy những đồng nghiệp khôn vặt, láu cá lại tọa hưởng vinh
hoa phú quý.

        
Nói như cách nói của các nhà xã hội học, bấy giờ cá nhân sẽ rơi vào
tình trạng cô độc, cảm thấy mọi chuyện phi quy tắc, phi chuẩn mực và
thực sự là tuy vẫn nói ra miệng đầy đủ chuyện không ngoan đúng mực,
nhưng trong thâm tâm anh ta đã không còn tin ở chính mình. Nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn có từng diễn tả rất hay cái thực trạng tinh thần kiểu đó trong
mình : “ Bỗng dưng tôi mất hẳn lòng say mê được trình bày những điều
mới lạ trong sáng tạo. Chẳng hiểu bắt nguồn từ đâu, chỉ cảm thấy một sự
mơ hồ trục trặc, một cái gì đó lệch đi trong đời sống tinh thần của
mình. Nói chung, hình như tôi không còn bị cám dỗ bởi những giấc mơ nữa
”. ( Dần theo Anh Ngọc Từ thơ đến thơ ).



Niềm tin vu vơ , niềm tin mù quáng
     Những
trường hợp Trịnh Công Sơn nói ở đây còn là bệnh nhẹ, ở một số nhà viết
văn hôm nay, quá trình này kéo dài và đã thở nên nặng nề hơn. Và bệnh
càng nặng thì các đương sự càng cảm thấy mình bình thường, cách làm ăn
của mình là có lí, không còn muốn nghe ai phải trái bàn bạc gì nữa.






         Sau khi bảo rằng đời sống
văn chương gần đây chỉ có nền không có đỉnh, loanh quanh ở mức làng
nhàng, một nhà văn đã nêu ra lí do để biện hộ : là trong lịch sử, vẫn có
những thời điểm như thế : Chẳng những ở ta, mà ngay ở bên Tây, bên Tàu
cũng có khi dăm bảy năm liền chẳng lẩy ra được tác phẩm nào đáng kể. vậy
cứ bình tĩnh không nên sốt ruột.

           Đây phải chăng cũng là một gợi ý để chúng ta yên tâm chịu đựng sự thiếu khát vọng ở một số cây bút hiện thời ?

        
Ví dụ nếu ai có dịp đọc lại thời kỳ 1932 – 1945 sẽ thấy mấy năm từ sau
1940, nhiều người sáng tác cũng tự nhiên cảm thấy khốn quẫn, mệt mỏi
hẳn. Nhà thơ Thâm Tâm từng có bài Vọng nhân hành trong đó nói tới hai dạng nhà văn bất lực lúc bây giờ: Một bên là Thằng bó văn chương ôm gối hận, còn bên kia Thằng thí cho nhàm sức võ sinh.

        
Cái tài của Thâm Tâm là ông biết chỉ ra rằng bên cạnh sự cằn cỗi bế
tắc,  thì nhiều khi thì chính do thiếu khát vọng mà con người cứ làm
lung tung cả lên, cốt giải tỏa cái sức sẵn có và đỡ trống trải trong
lòng.

         Tuy nhiên cũng cũng phải nói thêm là lịch sử không bao lặp lại hoàn toàn, ở hai thời điểm khác nhau.

        
Xưa nhiều người viết khi gặp bế tắc, thường trốn vào im lặng, bẻ bút mà
thề là không dính dáng gì đến văn chương chữ nghĩa nữa. Nay có hiện
tượng nhiều người không viết được gì nhưng lòng vẫn nặng, không chịu rút
lui, ngược lại, chằng bám lấy danh hiệu nhà văn để hưởng chút ưu đãi
của xã hội. Hoặc xưa cũng có hiện tượng viết liều viết ẩu, nhưng những
người có sống qua thời ấy cho biết thật chưa bao giờ sự làm sách làm báo
hỗn loạn như bây giờ.


         
Đáng chú ý là trong khi mải miết một cách vụ lợi, một số người loại này
lại có hy vọng rất vu vơ tin rằng cứ làm đại đi không biết chừng có lúc
vớ được những chú cá lớn. Nói cách khác, họ thích tin vào những phép
màu, nó khiến cho người ta có thể có được những kiệt tác để đời mà không
cần tốn sức lực. Mà những ao ước vu vơ ( kể cả lòng tin vào những phép
màu đột nhiên xuất hiện ) thì khác xa với những khát vọng lớn lao cũng y
như các tay chơi nghiệp dư khác hẳn với những cây bút làm nghề có trình
độ và có bản lĩnh.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2016 02:48

March 3, 2016

Trả giá ắt là đau đớn

Tại sao văn học ta rơi vào tình
trạng lúng túng như hiện nay?


Hỗn loạn âm tính và hỗn loạn dương tính.

Vai
trò của tỉnh táo hiểu biết. 


Hãy bắt đầu bằng cách tự phê phán.

       

Cũng như nhiều
đồng nghiệp đang cầm bút, tôi thường lẩn mẩn nghĩ ngợi về vị thế của nhà
văn trong xã hội hiện thời và tình hình văn học nói chung. Các ý nghĩ
đến rồi lại đi, rời vụn, mâu thuẫn, lúc thế này lúc thế khác. 


Bản thân
tôi mỗi khi nghĩ xong điều gì cũng thích tự phản bác; trong tâm trí luôn
luôn có những cuộc đấu khẩu mà sự thắng bại khó lòng xác định rành
mạch. 


Dưới đây tôi thử ghi lại một số ý nghĩ loại đó dưới dạng đối
thoại, những mong tìm thấy sự đồng cảm.






- Có phải là văn học hiện thời đang mất giá, và nếu đúng như thế thì lỗi tại ai?
- Theo tôi biết, một người như nhà văn Tô Hoài rất hay nói về điều này.


    Đại khái ông bảo hơn nửa thế kỷ
cầm bút, tình cảnh chưa bao giờ tang thương như bây giờ: sách ra loạn
xạ, hay dở lẫn lộn, đầu sách có tăng, nhưng số in từng cuốn ngày mỗi
giảm. Nhuận bút thì thê thảm không ai tưởng tượng ra nổi.

     Trong một thiên truyện mang tên Anh hùng bĩ vận (trong tập Một thời gió bụi,
NXB Lao Động 1993), nhà văn Nguyễn Khải kể chuyện một xã anh hùng nay
tụt hậu. Nhân đó, ông chạnh lòng nghĩ tới nghề văn, cảm thấy thân phận
mình thật cũng chẳng khác những người dân làm cói ở xã N. nọ . Ý tưởng  chính của ông được cô đúc lại trong câu“Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì... tội nghiệp quá”.

 
Nói chung, tôi cũng thấy mọi chuyện xảy ra đúng như các bậc đàn anh ấy
đã nói. Khác chăng là khác ở cách cắt nghĩa tại sao lại có thảm trạng
ấy.

    Và tiên trách kỷ, hậu trách nhân, tôi
thấy có phần lỗi ở những người làm văn học. Chúng ta nên tự soát xét
lại, nên thấy rằng có thời gian ta đã được chiều chuộng quá, giờ phải trả giá, sự trả giá bao giờ cũng đau đớn, song khách quan mà xét tình cảnh hiện nay là đáng với số đông người cầm bút chúng ta, ở đây chẳng có gì là oan uổng cả.




- Anh
không giở trò chơi trội đấy chứ ? Trong khi cả những người ở các ngành
khác cũng thông cảm với chúng ta thì anh lại tự túm ngực chửi mình.
Chẳng nhẽ anh không thấy hồi trước xã hội ta rất trọng đãi văn chương.
Còn hiện nay, sự quan tâm của xã hội đến chúng ta suy giảm hẳn, vì thế
mới xảy ra những cảnh xé rào viết bậy?


-
Tôi biết có một thời cả xã hội cùng đọc mấy quyển sách xoàng xĩnh mà
đến nay, không ai buồn đọc lại nữa. Dĩ nhiên là hồi ấy, mấy nhà văn thời
danh là những cái tên thường xuyên được nhắc nhở trên cửa miệng mọi
người, còn bây giờ thì có bao nhiêu thú vui khác thu hút họ, nói tới văn
chương, mặt họ dửng dưng không chút xúc động.

   Nhưng tôi cho như thế là phải. Chả nên tiếc những “ngày oanh liệt” hôm qua làm gì. Thà không có còn hơn sự thương cảm nông nổi bốc đồng của một thời ấu trĩ. Cái đích mà văn học cần phải chinh phục lớn hơn nhiều.

     Tôi cũng cho rằng nên sớm từ bỏ cái ý nghĩ là trong giới chúng ta có nhiều người tài ba mà chưa được đối xử xứng đáng.

    
Tôi muốn nói ngược lại, trong chúng ta nhiều cái tên nghe khá kêu, mà
thực chất không có gì, rồi đây sẽ bị lãng quên rất nhanh. Nói chung,
công việc chúng ta làm được  mỏng mảnh, đạm bạc, và nhiều của giả.

   
Trong một xã hội khép kín thì một ít giá trị dang dở được ngộ nhận,
được đồng nhất với chân tài, đó là điều dễ hiểu. Nhưng trong xã hội cởi
mở hôm nay, sự sụt giá lại là dễ hiểu nốt. Chỉ những ai quen sống bám
vào sự ngộ nhận mới luyến tiếc thời xưa cũ.




- Tôi
không ngờ anh lại nhẫn tâm đến thế! Anh không làm được gì, nên tưởng
chung quanh ai cũng tay trắng như mình, và muốn lộn xộn bát nháo cho
“bình đằng” cả một lượt.


-
Tôi tự nhận thấy mình chưa tồi tàn đến mức trắng trợn, hư vô. Tôi chỉ
muốn mọi người cùng nhìn vào một sự thực, là những cái chúng ta làm được
chưa bao nhiêu; thành tựu  hôm nay thua kém cả ông cha, chứ đừng nói
không là gì, so với thế giới.

   
Tôi biết khi xuất phát, nhiều ngòi bút ở ta có tài, song do thiếu công
phu tu luyện, do phải tự đốt cháy lên ngay lập tức để tồn tại.

    Nên những cái các anh các chị ấy làm ra lắm khi nham nhở, bất thành nhân dạng.

    Trong
một thời gian dài nhiều tác phẩm có giá trị trong quá khứ không được in
lại, sách hay của thế giới bị cấm cửa, không được dịch, nên thứ hàng
tầm tầm ấy có giá, thậm chí được tố lên là những tác phẩm có sức sống
lâu bền.

   
Song không thể bằng lòng với những giá trị dang dở đó, không thể hãnh
diện theo kiểu “cứ chân đất mà đi vào lịch sử” mãi được.



- Anh
không nên có cái giọng giễu cợt vậy. Chính anh cũng biết sở dĩ chúng ta
chưa làm được nhiều là do hoàn cảnh quá khó khăn. Để chúng ta có thể
ngày một hoàn thiện, xã hội phải ưu ái hơn, giúp đỡ chúng ta nhiều hơn.



- Đồng ý, nhưng có
nhiều cách giúp. Nghiêm khắc, yêu cầu cao cũng là giúp, mà dễ dãi, bỏ
qua cho nhau mọi yếu kém cũng là giúp. Trong hai cách này, cách thứ hai
chỉ có hại chứ không có lợi. Tiếc thay, đây lại là cách nhiều người
chúng ta mong đợi - những người không sống nổi với cơ chế thị trường và
luôn luôn nghĩ về thời bao cấp với nhiều tiếc nuối.
- Anh hãy nói rõ hơn ý nghĩ của mình.


- Chẳng có gì là rắc
rối cả. Tôi chỉ muốn bảo sở dĩ nhiều người chúng ta nản lòng và muốn
trốn chạy khỏi đời sống cạnh tranh hôm nay vì thực lực quá yếu.

   Mà sở dĩ chúng ta yếu ớt như vậy, vì được chiều chuộng quá - vâng, chiều chuộng thật sự, chứ không phải khinh bỉ như có người đã nói.

   
Trước những thành phẩm xoàng xĩnh của chúng ta, xã hội đã quá rộng
lượng. Hi vọng nhiều, chờ đợi nhiều, mà chiếu cố lại càng nhiều nữa.

   
Sự chiều chuộng ấy, hôm qua là cần, nhưng giờ đây, nghĩ lại, nó là yếu
tố khiến chúng ta giẫm chân tại chỗ, bé nhỏ, còi cọc, không lớn lên
được.




- Anh nói gì lạ
vậy, tôi không tin. Để những ưu tiên về tinh thần sang một bên hãy nói
một việc liên quan trực tiếp đến mọi người - chuyện trả công, trả nhuận
bút. Không phải hôm nay mà từ mấy chục năm nay, nhuận bút vẫn bị coi là
quá thấp, khiến không ai sống nổi với nghề văn.


- Quá thấp, đồng ý. Nhưng là thấp so với một số tác phẩm có giá trị. Còn với đa số các tác phẩm xoàng xĩnh, thứ hàng phổ biến từ tay chúng ta, thì nhuận bút vậy đã là khá cao,
chả thế mà, khi phát hiện ra điều này, khối người không chịu bỏ công
viết kỹ nữa, chỉ mải chạy theo đầu sách, bôi số trang ra thật nhiều.
Chất lượng kém đi thì nhuận bút ngày càng thấp, tưởng cũng không có gì
lạ.

    Rộng
hơn câu chuyện nhuận bút, tôi muốn nói về sự kiếm sống, về thu nhập của
nghề viết. Theo tôi quan sát trong những năm qua, có một loại người rất
tài trong việc khai thác cái gọi là uy thế nhà văn, tận dụng nó để nuôi
nấng bản thân và gia đình.
- Dù sao cũng chỉ có vài trường hợp cá biệt.


- Không đúng, mỗi người – những người còn đang
bám chặt  vào nghề -- đều có cái cách kiếm tiền của mình , chỉ có điều
không trúng những quả đậm như một vài “cao thủ” kia thôi.




- Chưa bao giờ chúng ta phè phỡn no nê như... như những người nắm các đầu mối kinh tế.

- Chỗ này tôi cũng thấy như anh. Về sự hưởng thụ, nói chung nghề của ta
thật thanh đạm. Nhưng nếu có dịp xem những người làm kinh tế xoay xở mới
biết, họ lao tâm khổ tứ, họ năng động kinh khủng. Còn chúng ta, một
thời gian dài, chúng ta ỷ vào năng khiếu, nên viết quá dễ dãi. Ứng với
thứ lao động uể oải, cầm chừng của giới viết văn từ trước đến giờ, thì
sự hưởng của chúng ta là rất xứng đáng.



- Anh không điên đấy chứ? Nghề cầm bút xưa nay vẫn được mệnh danh là một nghề sáng tạo cao quý.


- Vâng. Trên lý
thuyết thì vậy, nhưng trong thực tế thì không hẳn. Lúc đi họp cần phát
biểu trước bàn dân thiên hạ, hoặc lúc tụ bạ vui vầy nhiều người trong
chúng ta thích hô lên thật to rằng mình đau đời lắm, tâm huyết lắm, rằng
mình thường xuyên suy nghĩ lao lung, vất vả nặng nề như người mẹ mang
thai. Nhưng khi cầm đến bút thì lại cẩu thả qua quýt, suy nghĩ hời hợt
cốt cho xong chuyện để có bản thảo mang bán. Không gì khác, chính sự
loạn xạ trong đời sống văn học hôm nay, là hậu quả trực tiếp của cách
sống chúng ta đã sống hôm qua, nó là một sự trả thù man dại mà cũng tất yếu nếu có thể nói như vậy.



- Suy diễn. Thành kiến. Độc ác. Tôi không hiểu được những điều anh nói.


- Mọi chuyện đâu có
khó thấy đến như thế, chẳng qua các anh không muốn thấy thôi. Ở trên tôi
đã nói trong nhiều năm, chúng ta xúm vào khen những cuốn sách quá xoàng
xĩnh. Sự hỗn loạn bắt đầu từ đấy.




- Những
tác phẩm ấy có thể còn thô sơ non nớt, chưa được chau chuốt, thậm chí
có thể chưa hay, nhưng chân thành muốn phục vụ, muốn có ích ngay -- thế
là được rồi, anh còn đòi hỏi chi nữa?


- Nhưng bảo rằng chúng là những tác phẩm chói sáng tuyệt vời, thì là không được, là gây mầm hỗn loạn.

    Hơn nữa vấn đề không phải là chót tôn vinh... nhầm một hai cuốn sách nào đó, chuyện ấy muốn quên đi cũng dễ.

     Vấn đề là một thời gian dài các tiêu chuẩn nghệ thuật thực sự bị xem thường, chúng ta dễ dãi nâng đỡ nhau, chiếu cố nhau, lại càng hào phóng trong việc khen tặng nhau.
Nhiều cuốn sách không đáng in cũng in. Nhiều người viết văn đáng lẽ chỉ
nên ghé gẩm qua văn chương một chút, song cũng vào tận chiếu giữa, và
do chỗ không có sự đào thải, nên vĩnh viễn ngồi đó toạ hưởng kỳ thành.
Nghĩ tới họ, người đọc đâm ngán. Mà trước tiên, là nhiều anh em cùng
nghề cũng thấy ngán, người đã viết từ trước thì cùn mòn cẩu thả đi,
người mới cầm bút thì cảm thấy lớp người đi trước không có gì đáng
trọng, và nghề viết không công bằng đẹp đẽ như người ta vẫn nói. Gặp lúc
thuận tiện, là họ xốc tới, viết ào ào, in ào ào, rồi nhân đó, chửi vung
cả lên, vênh váo rằng mình có bạn đọc không kém ai hết.
- Hay
lắm, anh đã bắt đầu chạm đến cái đời sống văn học hẩu lốn hôm nay đấy.
Chắc là thấy mọi chuyện nhốn nháo thế, anh thích lắm, hả dạ lắm!



- Không hẳn. Tôi cũng chả thích gì văn học thương mại. Cũng như nhiều người tôi thấy một số tác phẩm ám chỉ
hiện nay được viết với một lý tưởng thẩm mỹ tầm thường, tay nghề quá
thấp nên biến thành những vụ trả thù hèn hạ. Nhưng văn học hôm nay vẫn
có cái này mà tôi cho là khả thủ. Nó không tự tìm cách che giấu thực
chất của mình. Có gì dơ bẩn, nó đã phô hết. Thành ra trong đối xử, có
cái tiện.

     Đại khái, sự hỗn loạn hôm qua là một thứ bệnh đang ủ, lại che che giấu giấu, nên có thể gọi là một sự hỗn loạn âm tính, còn sự hỗn loạn hôm nay cứ chường hết cả ra, nên là một thứ hỗn loạn dương tính. Đã gọi là bệnh thì đằng nào cũng dở, nhưng nghĩ cho cùng, bệnh như hôm nay dễ chữa hơn.




- Thật
khó hình dung một người gần trọn đời người gắn bó với đời sống văn học
sinh động của chúng ta như anh, mà ăn nói lại hồ đồ như vậy! Tôi ngờ
rằng, không ai trong giới cầm bút đồng tình với anh cả. Trong ý nghĩ của
số đông những cây bút loại trên dưới năm mươi như anh nhất là trong tâm
khảm các bậc đàn anh, lớp trên nữa, thời gian trước đây là một thời
gian văn học phát triển hài hoà, tự nhiên nền nếp, cái thời lãng mạn như
Nguyễn Khải đã gọi...


- Đó chỉ là bề ngoài. Cái nền nếp tĩnh lặng mà người ta hay nói chỉ là giả tạo.




-... Trong
thời gian ấy chúng ta đã đào tạo được những nhà văn đáng tin cậy, những
ngòi bút lao động nghiêm túc mà bây giờ không sao có nổi. Tôi không thể
tin những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, hoặc hai người mà anh đã nêu lúc đầu,
Tô Hoài, Nguyễn Khải, cùng là nhiều anh chị em khác, lại có liên quan
đến cái mà anh gọi là đời sống hỗn loạn trước đây, dù chỉ là hỗn loạn
“âm tính”.


- Trong bốn người anh nêu lên, tôi chỉ xin nói về một người đã mất.

      Muốn cho công bằng, người ta phải nhận Xuân Diệu là một nhà thơ
lớn và bây giờ tôi vẫn nghĩ thế. Song trong thời gian cuối đời có nhiều
bài, ông dùng lý trí để viết. Uy tín Xuân Diệu lớn quá thành thử mấy
chục năm sự lỗ mỗ không đều của thơ Xuân Diệu không ai dám viết.

   Tưởng rằng đó là việc riêng của tác giả Thơ thơ.  Có biết đâu rằng mặc dù là một thứ lao động cá thể, song sự sáng tạo trong văn học vẫn tồn tại như một sự nghiệp chung.

   
Anh không thể viết tốt nếu cái nền chung quanh quá tồi. Khi cái nền
chung này xao động, không ổn định, hơn nữa bị phá hoại, thì anh cũng
không ngồi yên mà viết được nữa kia.Kể cả khi người ta là Xuân Diệu.



- Tóm lại anh thấy tất cả đều có lỗi .


- Cũng gần như thế.
- Không ai thoát khỏi số phận chung của chúng ta vốn bắt đầu từ  hôm qua?


- Nhiều người có vẻ
nổi lên trên cái nền kém cỏi ấy, song, suy cho cùng vẫn không ra thoát,
vẫn lãnh đủ phần trách nhiệm và thực tế là cả những đau đớn ê chề khi
cái nền chung ấy thay đổi.



- Vậy bắt đầu phải làm gì?


- Một số người thích kêu to lên để chung quanh thương hại, hoặc ngồi than thở.

 
Một số khác mất hết lòng tin, cho rằng xã hội đã chả cần mình, mình
cũng chả cần xã hội nữa, tóm lại là muốn làm gì thì làm, đến đâu thì
đến.

    Riêng
tôi, tôi không tin rằng mọi chuyện hỏng hết, mà cần phải đóng góp vào
việc vượt qua cái thời điểm xót xa hôm nay. Công thức muôn đời vẫn là: hãy tự cứu lấy mình.

   
Có điều trong việc tự cứu này, đầu tiên phải nhận thức cho sòng phẳng,
tự biết mình là ai, chỗ mạnh chỗ yếu của mình là gì, mình mười phần tốt
đẹp mà bị rẻ rúng hay thật ra mình cũng hư hỏng nốt.

     Chỉ bao giờ ta hiểu rõ rằng sự lạc hậu ở ngay chính mình, thì lúc đó, ta mới có cơ khá lên được.

    
Đây là một công việc khó, rất cần đến sự sáng suốt, sự tỉnh táo hiểu
biết, tóm lại cần đến trí tuệ là điều mà trớ trêu thay, văn học ta lâu
nay vẫn từ chối.

     Ở nước nào cũng vậy, ở xã hội ta, cả thời phong kiến lẫn thời Pháp thuộc cũng vậy, văn nhân đồng nghĩa với người có học vấn (chứ không phải chỉ có năng khiếu)
nhưng mấy chục năm nay, ở ta, hai khái niệm ấy bị tách rời, và tôi cho
rằng, cả trong những năm bao cấp, lẫn trong những năm kinh tế thị trường
gần đây, văn học ở ta phát triển khó khăn, lý do là ở sự tách rời ấy!




- A
ha! Thế là thò đuôi khỉ rồi nhé! Nói xuôi nói ngược một hồi, cuối cùng
hoá ra anh muốn đề cao ngành lý luận phê bình của mình. Thế nhỡ các nhà
văn ở ta thích quan niệm rằng nếu một người không có năng khiếu, thì có
đọc đến vài vạn quyển sách chăng nữa, cũng chẳng viết nên một câu thơ
cảm động lòng người - mà trong thực tế sáng tác vẫn vậy, thì anh nghĩ
sao, liệu anh còn cảm thấy có quyền bàn bạc với mọi người, và anh có còn
tin ở cái đơn thuốc của anh nữa không?


-
Vâng, tôi biết nhiều nhà văn ở ta tuy không nói ra, nhưng vẫn nghĩ
bụng: lý luận phê bình đánh đấm lắm chỉ tổ bị ghét, mà có xúm vào khen
thì cũng không có gì để giới sáng tác trọng.

  
Gần đây, người ta lại còn hay bảo tự mình các nhà văn ở ta vốn rất hồn
nhiên, trong sáng, chẳng qua giới lý luận phê bình nhiễu sự hay đưa ra
các thuyết vơ vẩn, nên đời sống văn học mới nảy sinh một vài vấn đề
không lành mạnh.

   Và người ta e dè, ngần ngại muốn gạt cánh phê bình sang một bên.

   
Biết thế nên dạo này một số anh em viết phê bình cũng chẳng buồn viết
nữa, hoặc ngồi chơi xem các nhà văn nhà thơ tâng bốc lẫn nhau, hoặc quay
về nghiên cứu văn học quá khứ. Nhưng có làm gì cái số phận riêng mấy
cây bút phê bình chúng tôi, điều quan trọng là lối thoát của cả nền văn
học, và trong việc này, nếu phải nhắc lại ngàn lần tôi vẫn nhắc rằng
chúng ta không thể thiếu sự tỉnh táo, sáng suốt, không thể thiếu lý tính được.




In lần đầu trên tạp chí Tác phẩm mới 1993 —

Tác phẩm mới là tiền thân của tạp chí Nhà văn.




Bài viết đã đưa vào các tập Những kiếp hoa dại 1993

Buồn vui đời viết 1999




VIÉT THÊM 10-5-2012




 
1/ Nói văn học lúng túng hoặc mất giá có lẽ còn nhẹ. Gần đây nhất đã có
những ý kiến phát biểu cho rằng đang tồn tại một nguy cơ là  sự biến mất của báo chí văn nghệ ( phát biểu của Tổng biên tập báo Văn Nghệ Nguyễn Tri Huân tại một hội nghị, cuối  tháng 4-2012)  

     Biến mất tức chết đi? Nói
thế e hơi quá. Tôi cho rằng báo chí văn nghệ nói riêng, các sáng tác
văn học nói chung sẽ chẳng bao giờ chết, nhưng nó trở nên biến dạng, cái
tốt đẹp thì cùn mòn suy thoái, còn những gì hư hỏng tha hóa thì lại
phát triển. Một bộ mặt kỳ dị, đó là điều xưa nay chưa từng có mà chỉ hôm
nay mới xuất hiện.

     Trước
tình hình đó, đã có nhiều ý kiến phát biểu nhằm giải thích, biện hộ. 
Nhưng phần lớn nặng về những lời phàn nàn, đại khái cho rằng xã hội đã
không biết người biết của, bỏ phí lực lượng sáng tác văn chương như một
ngành nghề tốt đẹp lương thiện.

   
Ý chính của tôi hai mươi năm trước, và nay tôi vẫn nghĩ thế: chính ra
xã hội lâu nay đã quá rộng lượng. Được yêu chiều quá nên chúng ta sinh
hư.

    
Giới cầm bút không có quyền trách xã hội quay lưng lại với với mình khi
mình chỉ là thế - nhạt nhẽo, vật vờ, nông nổi, dễ dãi.




2/
 Về cuộc kiếm sống của những người cầm bút. Ở đoạn giữa bài tôi có viết
 “Về sự hưởng thụ, nói chung nghề của ta thật thanh đạm”.

   Nói thế chỉ đúng với tình hình cũ.

   
Hiện nay, nhiều cây bút sống khá đầy đủ, nếu không nói là vương giả.
Lợi dụng sự mở ra của cơ chế thị trường họ đi rất sâu vào việc chiều
nịnh bạn đọc. Trong thâm tâm, lớp người này  ngầm hiểu dẫu sao nghề văn
như họ đang làm vẫn là tối ưu với họ. Họ kêu chẳng qua theo thói quen.
Chính ra là họ rất bằng lòng với ngày hôm nay.

     
Sự xuất hiện của thứ văn chương này âu cũng là do hoàn cảnh đưa đẩy.
Nhưng không phải vì thế mà họ có quyền nhận là văn chương thứ thiệt, là
sự trả lời cho những mong mỏi thiết tha của chúng ta.




3/
 Làm sao để thay đổi ?  Đã qua rồi cái thời bảo nhau cứ làm đại, may ra
biết đâu lại có tác phẩm hay (!).Việc bàn bạc để tìm lối thoát cho văn
chương bao nhiêu cũng là không đủ. Chỉ hiềm một nỗi, sự bàn bạc cũng
đang trở nên hỗn loạn.

  

  
  Có một thứ phê bình xét theo nghĩa hẹp, mà hiện nay ta vẫn hiểu – phê
bình là thấu hiểu sáng tác là tuyên truyền cho sáng tác là góp phần đưa
sáng tác đến với công chúng …Thứ phê bình đó  đang phát triển quá mức.
Tất nhiên là không thể trông chờ và hy vọng vào họ được.

   

    
Khi nhấn mạnh phê bình lý luận, tôi muốn nói đến cái phần tự ý thức,
cái hàm lượng trí tuệ của cả giới cầm bút nói chung. Và muốn nói đến 
hoạt động phê bình theo nghĩa rộng , bao gồm cả công tác nghiên cứu khoa
học xã hội, cả những người làm văn học sử lẫn giới làm công tác giới
thiệu văn học nước ngoài… Số phận văn chương chân chính gắn liền với sự
phát triển đúng đắn của bộ phận này.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 03, 2016 19:17

February 26, 2016

Chỉ phát triển khi biết tự phê phán




Bài
trả lời phỏng vấn 
Thời báo kinh tế Sài Gòn số ra
11-2 2016, người thực hiện là nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên. 




 Đầu
đề trên là  của TBKTSG. Đầu đề ban đầu mà  chúng tôi đề nghị là 
Trí
thức và công cuộc phát triển ở VN hôm qua và hôm nay.




Phía sau sự sắc sảo, đầy tính phản biện trong các phiếm
luận văn hóa đề cập đến tính cách người Việt hiện đại, người đọc nhận thấy ở
ông mối ưu tư, đôi khi cay đắng, về sứ mệnh, đời sống, danh phận người trí thức
trong lịch sử lẫn hiện tại.Qua sách báo, blog, Facebook, có vẻ như nhà phê
bình văn học, phê bình xã hội tuổi ngoài 70 này vẫn đang kiếm sự đồng cảm, chia sẻ
của người đọc – trong điều kiện xã hội đang cần một sự thức tỉnh để thay đổi và
phát triển…








Trong
khoảng 20 năm trở lại đây, từ lĩnh vực chuyên môn bình văn học, ông có sự
chuyển hướng sang phê bình văn hóa, phê bình xã hội. Thưa ông, điều gì đã xảy
ra?


Sở
dĩ tôi chuyển từ phê bình văn học sang phê bình văn hóa, xã hội là vì muốn có
thêm sự tiếp xúc rộng rãi hơn với bạn đọc và muốn tham gia vào việc tìm hiểu
bàn bạc các vấn đề mà cộng đồng đang quan tâm. Nghiên cứu văn học hiện nay bị
hạn chế vì kiến thức các nhà nghiên cứu được trang bị quá hạn chế, phương pháp
được sử dụng quá cũ. Tôi có may mắn không bị ràng buộc vào một nhiệm vụ cụ thể
nào đó, luôn có thời gian rãnh rỗi để lo học thêm biết thêm. Mà ở thời này các
ngành khoa học xã hội đang bùng nổ và có khả năng giúp cho chúng ta nhìn sâu
vào cuộc sống của chính xã hội mình, nên càng làm bản thân càng thấy bị lôi
cuốn.




Chỉ nhìn ở phạm vi lịch sử văn hóa
Việt Nam, thì trong mỗi giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi phương
thức sống và hình thái văn hóa nói chung, xáo trộn các giá trị sống thì thường
xuất hiện những lớp học giả tiến bộ với sứ mệnh phản tỉnh xã hội. Ví dụ như hồi
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có Mai Viên Đoàn Triển, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, muộn hơn, có Phan Khôi với những tác phẩm đăng báo khoảng thập
niên 1920-1930,  Đào Duy Anh với cuốn Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Nguyễn
Văn Huyên với Văn minh Việt Nam
(1944) hay ở đô thị miền Nam những năm 1960-1970, có cây bút Nhất Thanh – Vũ
Văn Khiếu…





Cái
ý mà bạn nói, “mỗi giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi phương
thức sống và hình thái văn hóa nói chung, xáo trộn các giá trị sống thì thường
xuất hiện những lớp học giả tiến bộ với sứ mệnh phản tỉnh xã hội”, theo tôi
thấy thì rất hiếm có trong xã hội Việt Nam từ thế kỷ XIX về trước. 

 Thời phong kiến ta chỉ có những trí thức góp
phần vào việc quản lý xã hội chứ không có những nhà tư tưởng lấy việc nghiên
cứu về sự phát triển xã hội làm nhiệm vụ. Theo nghĩa ấy khả năng tự nhận thức
của xã hội là rất thấp, sự  trì trệ của xã
hội là kéo dài.

Tới
khi người Pháp xâm lược, và hướng xã hội VN vào quỹ đạo phát triển của thế giới,
họ mới đưa lịch sử và xã hội ta thành một đối tượng nghiên cứu. Thừa hưởng thành quả nền giáo dục
phương Tây, một lớp trí thức Việt Nam kiểu mới ra đời. Hồi đó các nhà trí thức này rất bị thành
kiến và điều đó kéo dài tới tận ngày nay. Người ta không tính cái phần
nghiên cứu chủ yếu của các trí thức đó mà chỉ  xem một
số  đề nghị cụ thể của họ là có lợi cho
người Pháp. Và khi mà một số người như Phạm Quỳnh tham chính  thì họ bị xóa sạch mọi đóng góp đã có từ
trước.

 Nên nhớ là  các nhà trí thức mà
bạn vừa nêu từ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Nhất Linh … đều là những
người mà trước 1975 bị  coi như người có tội hoặc chí ít là đã không
tích cực tham gia vào công cuộc giành
lại độc lập, tác phẩm của họ không hề được đưa vào nhà trường để giảng dạy cho
bọn thanh niên mới lớn chúng tôi. 

Chỉ trong hoàn cảnh hiện nay khi đất nước
chính thức đặt vấn đề về phát triển, tác phẩm và tư tưởng của họ mới được khôi
phục nhưng sự nghiên cứu và phát triển còn rất hạn chế.

Quá
trình tự nhận thức xã hội mà gắn liền với nó là việc hình thành lớp trí thức mới này diễn ra suốt từ cuối thế kỷ XIX đầu
XX. Ngày nay, qua độ lùi thời gian, khi nhìn nhận lại quá trình hoạt động của
Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu, chúng ta thấy có sự khác biệt. 

Phan Bội Châu từ một người chủ trương hành động, chỉ sau khi
bị bỏ tù thì người chiến sĩ ấy mới trở thành một trí thức nhưng vai trò trí
thức thức của ông ở giai đoạn 1925-1940 không được giới sử học ghi nhận. 

Còn
Phan Châu Trinh thì ngay từ đầu đã chú trọng đến đời sống tinh thần của quốc
dân. Ông đặt cuộc giải phóng dân tộc trên nền tảng của một cuộc cách mạng xã
hội, cách mạng văn hóa vì cho rằng, chỉ có qua con đường đó mới tìm được độc
lập thực sự cho dân tộc.

 Những  quan niệm sáng suốt  đó của 
cụ Tây Hồ  được những nhà trí thức
đầu thế kỷ XX ở ta tiếp tục theo đuổi.

Trước
1945, ngoài danh sách ở trên bạn vừa nói, tôi còn muốn đặc biệt chú ý đến vai
trò quan trọng của những nhà báo, nhà trí thức của nhóm Thanh NghịTri Tân như
Nguyễn Văn Tố, Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Văn
Hiền, Đinh Gia Trinh hoặc các nhân vật ở Nam Bộ như Phan Văn Trường, Nguyễn An
Ninh… Trong khi tiếp nhận phương Tây một cách sáng tạo, họ đã chuẩn bị cho một
nước Việt nam phát triển theo nghĩa hiện đại.

Ngoài
ra, không bao giờ được phép quên Trần Trọng Kim. Ở Trần Trọng Kim, đôi khi
chúng ta chỉ quan tâm tới khía cạnh chính trị mà bỏ quên sự nghiệp văn hóa của
ông. Những công trình như hai cuốn Nho giáo Việt Nam sử lược  là những
đóng góp vào tự nhận thức của dân tộc.

Sau
nữa – và đây là điều bây giờ chúng ta có thể nói được rồi – các trí thức ở miền
Nam trước 1975 cũng có vai trò tiếp nối rất xứng đáng. Tôi vừa mới mua được một
cuốn sách về ngành luật nó bổ sung cho quan niệm của tôi về trí thức, đó
là  cuốn Lịch sử nghề luật sư ở Việt Nam 
của Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa do nhà tổng hợp của TP Hồ Chí Minh
xuất bản. Quan niệm của cuốn sách bộc lộ ngay trong phần bố cục: phần I (84 tr)
nói về nghề luật thời Pháp thuộc, phần II (74 tr) nói về  nghề luật thời Quốc gia VN 1949-55 và Việt
Nam Cộng Hòa 1955-75 phần III (98 tr)  nói
về nghề luật thời Cách mạng. Nghĩ về đời sống tinh thần của miền Nam trước
1975, tôi nhớ tới từ các nhà giáo trung học cho đến các giáo sư đại học, các
chuyên viên nghiên cứu khoa học xã hội  trong đủ các bộ môn bao gồm lịch sử xã hội học,
pháp luật kinh tế.  Tôi thường tìm sách
của Nguyễn  Phương và Cao Văn Luận,  Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng
và Nguyễn Hiến Lê, Trần Ngọc Ninh và Vũ Quốc Thúc ... Chính họ đã mở đầu cho
việc vận dụng các kinh nghiệm phát triển của VN trong thế giới hiện đại mà đến
nay với chúng ta còn khá thích hợp.

Với
những sự chuẩn bị như thế, dần dần  dân
tộc đã  có một sự thức tỉnh thực sự, từ
đó dẫn tới một sự phát triển theo nghĩa hiện đại. Có điều lịch sử VN nửa cuối
thế kỷ XX là sự lặp lại lịch sử các thế kỷ trước. Trong chiến tranh, con người
mải hành động hơn suy nghĩ, xã hội lo đạt tới những mục đích trước mắt mà không
nghĩ nhiều về chuyện phát triển, và trí thức cũng được đào tạo theo khuynh
hướng đó. Ngày nay, ngay đến quan niệm về phát triển xã hội còn phải đang bàn
bạc chưa ngã ngũ ra sao thì việc đào tạo con người nói riêng và trí thức nói
chung xoay sở sao kịp.




 Sự  trì
trệ của xã hội VN thời phong kiến,  mà như
ông vừa nói biểu hiện rõ là sự thiếu vắng 
một tầng lớp trí thức cơ bản và 
việc không  đào tạo được những
nhân vật lớn có vai trò mở đường về tư tưởng,  theo ông xuất phát từ đâu?





 Như trên vừa nói, trong suốt thời phong kiến,
từ khi Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền giành độc lập cho tới nhà Nguyễn là một sự trì
trệ kéo dài, không có chuyển biến nào đáng kể, chưa hề có sự thức tỉnh bao giờ,
chỉ có chuyện đám người này lên, đám người kia xuống, rồi “được làm vua thua
làm giặc” ai thắng sẽ được công nhận, cứ xem sự tiếp nối từ  nhà Lý sang nhà Trần là đủ thấy rõ. Một đặc
thù riêng của sinh hoạt chính trị trong xã
hội Việt Nam, đó là lớp tinh hoa cầm quyền căn bản được hình thành những người
có công đánh ngoại xâm tức là các thủ lĩnh quân sự và cứ thế kéo dài đến khi có
một cuộc ngoại xâm mới thì lớp khác lại lên, người mở đầu tạo sự nghiệp mới cho
cả một dòng họ. Trong quá trình quản lý đất nước họ dành rất ít thời gian nếu
không nói rằng không bao giờ xem xét quyền lực dưới góc độ văn hóa, như một vấn đề văn hóa. 

Tập san Nghiên cứu Huế do nhà sử học Nguyễn Hữu Châu Phan thực hiện, ở số 1-1999, tr. 220 có dẫn lại nhận xét của vị sứ thần Anh Crawfurd qua thăm Việt Nam và có tiếp kiến triều đình vào năm 1822. Crawfurd có nhận xét về vua Gia Long như sau "Quan điểm của nhà vua  là một quan điểm hẹp hòi, ích kỷ độc tài; và chính quyền  mà nhà vua thiết lập thực sự là một chính quyền quân sự chuyên chế và áp bức bậc nhất, khó ngòi bút nào có thể mô tả được". Trước đó ông ta đã khái quát "Tài cán nhà vua thích hợp cho việc chiếm lại đất nước hơn là cai trị đất này."Tôi học được ở đây một điều: phải  xem văn hóa quản lý đất nước như là một tiêu chuẩn khi nhìn nhận và đánh giá những nhà cai trị. Đó là tiêu chuẩn chung cho mọi mọi quốc gia mọi xứ sở, chúng ta cũng không thể khác.




      Cứ  cho
là như ông vừa nói  xã hội VN từ XX về
trước là xã hội chỉ lo tồn tại . Những gì đã xảy ra trong một  xã hội như vậy?





Là người ta không nghĩ
tới sự phát triển.  Sau cái công thức bao
quát ấy là hàng loạt hậu quả khác. Chiến tranh qua đi, tiếp theo là những thời
kỳ hậu chiến tăm tối, con người quá  mệt
mỏi nên chỉ lo hưởng thụ, rồi là lo đền ơn đáp nghĩa. Người ta không tính
chuyện sống  khác đi mà chỉ bằng lòng được
sống như cũ.




Nhưng
xã hội này vẫn có nền văn hóa của nó, và dân tộc này vẫn có cốt cách riêng, đó  là điều 
thế giới ngày nay ai cũng phải công nhận.





Nếu bảo rằng mỗi xã hội
tồn tại được đều có nền văn hóa của mình 
thì phải nói thêm ở ta đó là thứ văn hóa để tồn tại chứ không phải văn
hóa để phát triển.

  Ngay từ
thời trung đại, một cộng đồng muốn tồn tại cũng phải có những hồn cốt và những
thiết chế  văn hóa của mình. Nhưng trong
điều kiện VN, ta chỉ cần giữ được nền văn hóa cổ truyền trong việc tổ chức làng
xã  cộng với sự vay mượn ở mức tối thiểu
những kinh nghiệm tổ chức quốc gia ở nước láng giềng phương bắc là đã đủ để tồn
tại như cái mức chúng ta đã thấy.

Tiếp tục câu chuyện về xã
hội chỉ lo tồn tại. Khi sự suy nghĩ bị hạn chế ở mức đơn giản nhất thì người ta
 không nghĩ tới  chuyện tự nhận thức mình,   không
đặt ra những câu hỏi “mình là gì, thế giới này là gì”, “mình sẽ sống sao trong
thế giới này”. Quan hệ  với  các dân tộc khác cũng rất khó khăn. Thấy kẻ
khác từ nơi xa tới liền coi như kẻ thù, không cần tiếp thu và học ai khác, hoặc
có học thì cũng chỉ lo học lỏm học mót, rồi liệu mà sống với nhau.  Hệ quả là  chúng 
ta rất khó phát triển theo cái nghĩa mà cả thế giới người ta vẫn hiểu.

 Trong một xã hội như thế, giới ưu tú không thể
phát triển, cái giới ưu tú ấy nếu có cũng còi cọc và luôn bị phá vỡ cấu trúc. Đến
lượt nó, sự phát triển kém cỏi của giới trí thức lại làm cho cộng đồng cứ trì
trệ mãi.

   Do sự
quy định ngặt nghèo của thực tại, mối quan hệ giữa tình trạng yếu kém của giới
trí thức với những khó khăn về phát triển trong quá khứ ngày nay cũng đang lặp
lại. Trí thức ngày nay không bước qua được sự giằng níu của áo cơm và đám đông
hỗn độn. Anh ta không đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần để suy tư về sự tồn
tại, về trời đất, về các vấn đề nhân sinh, sự phát triển xã hội để kéo xã hội
đi lên.




 Những
khó khăn trong phát triển hiện nay như ý ông nói  là thuộc về bản thân xã hội lẫn thực trạng
của giới trí thức.
Giờ ta hãy bàn về từng điểm một.
Nếu hành trang phát triển của người
Việt trong thời toàn cầu hóa cần thêm vào một thứ gì đó và bớt đi một thứ gì
đó, thì theo ông, đó là những gì?





Trước
khi bắt tay hành động, cần đề cao sự suy tư,và khuyến khích những tìm tòi đời
sống tinh thần.  Trên con đường khó khăn
của sự  tự nhận thức nghiêm chỉnh, cần từ
bỏ cái tự kỷ trung tâm luận, từ bỏ cái thói quen bằng lòng một đời sống đơn
giản, tự phát thấp kém mà bấy lâu chúng ta cố khoác lên nó cái áo đôn hậu, tự
nhiên. Và chúng ta cần thay đổi hẳn quan niệm về văn hóa. Văn hóa không phải là
cờ đèn kèn trống, lễ hội, ngắm nghía thưởng ngoạn mà là chỉnh đốn cách quản lý
quốc gia, truy vấn về hồn cốt, lối sống, lối nghĩ của chúng ta để thay đổi.
Chúng ta đã nghĩ sai, nghĩ phiến diện về văn hóa và hành xử sai với văn hóa quá
lâu rồi.




Thế
còn giới trí thức?
Nhìn sang Fukuzawa Yukichi (nhà khai
minh Nhật Bản, tác giả của cuốn Khuyến
học) hay mới đây là Bá Dương (học giả Trung Quốc, tác giả Người Trung Hoa xấu lậu)… có thể thấy
vai trò của trí thức trong phản tư, phản biện văn hóa, phong tục, tâm tính cộng
đồng là rất lớn, có khi nhờ đó mà khai sáng, thay đổi cả vận mệnh một dân tộc.  Làm sao để người trí thức Việt Nam  cũng có được vai trò đó.





  Chỉ có
thể phát triển nếu  biết tự phê phán
,
cái mà chúng ta mong muốn xem như tinh thần chung chi phối cả xã hội thì cũng
phải được xem như yêu cầu với chính mình.Tác động của chúng ta tới cộng đồng
không phải thu hẹp lại ở những tô vẽ theo đuôi có tính cách mị dân mà phải thực
sự đóng vai người mở đường về tư tưởng. Tiếp sau quá trình tự nhận thức để nhận
ra những hạn chế, việc tìm cách tự đào tạo lại chắc chắn sẽ mở ra nhiều thách
thức nhưng cũng mang lại cho người trí thức niềm tự hào sâu xa: chúng ta phải
trở thành những người có ích theo đúng cái cách của mình.







 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 26, 2016 05:37

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.