Vương Trí Nhàn's Blog, page 62

November 22, 2015

Bàn thêm về sử nhân việc bỏ môn sử ở các trường phổ thông

Cả lời dẫn và bài viết dưới đây 

đã đưa trên trang FB của tôi 22&23-11-15.

Xin giới thiệu lại để các bạn  không dùng FB tiện theo dõi



Lời dẫn

Có nhiều việc trong xã hội hiện nay mọi người bàn một đằng cuối cùng những người có trách nhiệm lại quyết theo một cách khác.

Việc bỏ môn sử cũng vậy, ai cũng thấy là trái lè lè.

Song với một chút tâm lý A. Q. hoặc nói theo dân gian, “ đánh chẳng
được thì tha làm phúc”, tôi nhìn thấy cái lợi của việc này như sau.


Nhưng tôi cho rằng cái lỗi chính ở đây là thuộc về nội dung môn sử mà
người ta đang dạy suốt từ tiểu học đến đại học cùng là các loại sách
tham khảo có tính phụ họa.

Nói nôm na thì với nội dung các bài sử
mà người soạn sách được phép viết và người giáo viên được phép dạy, có
đến thánh cũng không làm cho học sinh yêu môn sử được.

Trong các bộ sử đã viết mấy chục năm nay cũng có những phần rất tốt, học sinh rất cần biết , mọi công dân Việt cũng cần biết.

Nhưng lúc mang ra dạy chúng bị lẫn đi, bị lọt thỏm đi, giữa các kiến thức giả mạo khác.

Hàng giả hiện nay rất đa dạng.

Có khi không đầy đủ không toàn diện không nhấn mạnh cái đáng nhấn mạnh... cũng đã là giả rồi.

Rút cục, cái hy vọng qua môn sử như thế này góp phần vào việc đào tạo
những con người có học vấn có nhân cách những công dân yêu nước theo
nghĩa hiện đại và khoa học nhất của khái niệm yêu nước thời nay… chỉ là
ảo tưởng.

Mà trước mắt nhu cầu viết lại sử đến bây giờ vẫn chưa được đặt ra trong xã hội, chứ đừng nói là được chuẩn bị.

Bởi vậy, theo tôi dù rất đau lòng cũng có thể bảo nhau chấp nhận tạm bỏ môn sử.

Mục đích của việc này là tránh cho lớp trẻ phải học những kiến thức sai lạc.

Nhiều kiến thức sử ở nhà trường hiện nay chỉ có cái vỏ sử. Thực tế nó
là những điều mà người ta muốn nhồi vào đầu các em qua các môn công dân
giáo dục với cách hiểu cổ lỗ và thực dụng về mấy chữ “công dân” cũng như
mấy chữ “giáo dục” đặc trưng cho thời nay.

Vậy thà cứ để các em
học các môn mà chính các em cũng đã hiểu thực chất ấy, rồi đối phó thế
nào qua quýt cho xong, còn hơn là buộc các em lầm tưởng đó là những kiến
thức cần yếu thực sự.

Chấp nhận bỏ sử ! Trong việc giáo dục con em, đã bao chuyện khác chúng ta bất lực, chứ có phải riêng chuyện sử này đâu.





NHỮNG VIỆC LÀM THÌ RẤT KHỔ, KHÔNG
LÀM THÌ SẼ KHỔ HƠN





Cách đây ít lâu tôi từng khuyên các gia đình nghèo là trong tình hình
hiện nay nên lo cho con học xong trung học cơ sở rồi chuyển đi học nghề,
còn hơn là học lên cao.
Đề nghị của tôi lần này cũng ở dạng tương tự.

Câu hỏi còn lại: sau đó ta phải làm gì, chứ chẳng nhẽ lại buông xuôi ?

Suy đi tính lại, tôi thấy hiện nay chỉ còn một cách là cả xã hội lo
học lại sử. Học ở đâu? Học ở các bộ sử mà ông cha xưa đã viết từ Đại
Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án
…của các sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ .. tới các bộ sử
viết trong thời Pháp thuộc như Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải, Việt
Nam sử lược
của Trần Trọng Kim.

Còn nhớ những năm chống Mỹ ở Hà
Nội ông sếp cao cấp trong ngành tuyên truyền là Hoàng Tùng thường cũng
vẫn nói với cánh nhà văn nhà báo chúng tôi, có việc gì cần vẫn phải dùng
bộ Việt Nam sử lược chứ các sách mới viết có dùng được đâu.

Bản
thân tôi làm nghề nghiên cứu văn học, trong hai chục năm gần đây, trong
khi tìm đọc các bộ sử VN do các tác giả nước ngoài viết, mới ngã ngửa
người vì ngạc nhiên hóa ra họ cày xới các bộ sử cũ của ta rất kỹ.

Nói ra thì có vẻ nghịch lý: tôi học người ta cách đọc lại ông cha mình. Thế đấy!

Dần dà tôi hoàn toàn tin rằng để hiểu người Việt, cuốn sách cổ điển mà
thế hệ trẻ cần đọc số một, không phải là Truyện Kiều mà là Đại Việt
sử ký toàn thư
.

Chắc có bạn đọc thắc mắc: dù là sách đã dịch từ
chữ Hán cổ sang chữ quốc ngữ song làm sao mà đọc được cuốn toàn thư
ông vừa nói tới đó.

Tôi sẽ bàn về chuyện này, trong một dịp khác. Hôm nay hãy mời  các bạn đọc lại một bài của tôi

  đưa trên mạng Thời báo Kinh tế Sài gòn 20- 10 -2011

http://www.thesaigontimes.vn/Home/giaitri/tanvan/63862/







CẦN MỘT THỨ SỬ HỌC KHÁC


Từ đầu thế kỷ 20, một
trí thức nổi tiếng là Hoàng Cao Khải trong cuốn Việt sử yếu (viết
năm 1914) đã nhận xét rằng bao đời nay, người Việt mình thường tỏ ra thạo sử
Trung Quốc hơn sử Việt. Từ các sĩ phu và quan lại, tình hình này lan ra đến
đông đảo dân chúng.

Có thể giải thích hiện
tượng này bằng chế độ thi cử ngày xưa. Người ta chỉ cho thi Bắc sử. Và các
trường học - dù là chốn Quốc tử giám của triều đình hay lớp học tự phát của một
ông đồ nghèo ở một làng quê hoang vắng - đâu đâu người Việt cũng hình dung cuộc
đời này qua các trang sử từ đời Trụ Kiệt đến đời Đường Tống...

Trong khi đó thì bên
phần Nam sử, một vài bộ như Toàn thư, Cương mục, Việt sử tiêu án, Lịch
triều tạp kỷ..
. mà ngày nay ta tự hào, thật ra là quá ít ỏi và chưa bao giờ
được mang lưu hành rộng rãi và đưa ra giảng dạy.

Đến thời chúng ta, tình
hình lại đi theo một hướng khác, nhưng kết cục vẫn như xưa.

Những bộ sử thời nay do
Nhà nước chỉ đạo biên soạn. Sự định hướng về dân tộc tỏ ra quá mạnh, thậm chí
tôi còn muốn nói thẳng là lâu nay chúng ta chẳng chú ý gì đến lịch sử các dân
tộc khác, và đó là một nhược điểm, nó hạn chế ngay sự hiểu biết của chúng ta
khi muốn quay về nhận diện chính mình.

Thế nhưng tại sao thanh
thiếu niên cũng như nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc, và qua phim ảnh, thấy thích
sử Tàu hơn sử ta?

Nhiều người cho rằng sở
dĩ như vậy là vì người Trung Quốc có nhiều tiền hơn, làm ra những thước phim
mùi mẫn hơn.

Không, không phải vậy,
hoặc lý do chủ yếu không phải vậy.

Cái lỗi trước hết là ở
chính những cuốn sử đã viết, trong đó hạt nhân là khái niệm sử mà chúng ta đang
sử dụng.

Ở những trang sử Trung
Quốc, không chỉ có những ông vua, khi là minh quân khi là bạo chúa chuyên chế,
như Càn Long, như Tần Thủy Hoàng, mà còn có Tào Tháo gian hùng, Bao Công hiểu
rõ tình đời đen trắng, Kỷ Hiểu Lam chăm chỉ học hành, Bạch Cư Dị sau khi đổi
việc quan được dân chúng lưu luyến đưa tiễn... Đủ loại sắc thái nhân văn khác
nhau nối tiếp hiện ra trong bộ mặt con người Trung Hoa, được vẽ trong những
trang sử ấy. Và đằng sau đó là hình ảnh của cả xã hội trong suốt chiều dài thời
gian mà mặc dù chúng ta khi thì căm ghét, khi thì ghê rợn, song bao giờ cũng
thấy hấp dẫn, đã biết rồi còn muốn biết nữa.

Quay trở lại với những
gì được viết trong các bộ sử Việt Nam, mà khuôn mặt tiêu biểu thì thấy rõ nhất
trong các sách lịch sử đang dùng ở các trường phổ thông và đại học. Đây tôi
không nói về những gì đã xảy ra trong đời sống lịch sử ngàn năm của dân tộc,
tôi chỉ muốn nói cái nó còn được ghi trong sách vở và truyền tụng giữa các đời.

Ở những trang sử ta viết
cho ta, trên cái nền là một ít sự kiện nghèo nàn, không có những con người mà
chỉ có những hình nhân với một vài lời lẽ, hành động đôi khi cũng ấn tượng,
nhưng quá nghèo nàn, đơn sơ. Đọc những trang viết khô khan cằn cỗi đó, thật
không hình dung ra trong hàng chục thế kỷ qua, cộng đồng chúng ta đã ăn ở, sinh
hoạt ra sao, quan hệ với nhau thế nào. Lại càng không thể từ đó rút ra những
gợi ý về kiếp làm người của mình hôm nay. Bởi những bài học mà người viết sử
gửi kèm chỉ là những kiến thức chính trị nông cạn, hời hợt, đến với người ta
theo lối áp đặt gượng gạo.

Sức phản cảm mà nó gây
ra trong lớp trẻ thật ra là điều nhiều người đã thấy từ lâu rồi, chẳng qua tất
cả cố tình làm ngơ vì biết rằng vô phương cứu vãn.

Cái lỗi không phải chỉ
là do mấy người soạn sách giáo khoa. Cái lỗi ở đây là của những người làm sử.
Và suy đến cùng là sự hạn chế, nếu không muốn nói là nghèo nàn, kém cỏi trong ý
thức lịch sử của cả xã hội.

Vấn đề là ở tư duy lịch
sử của người Việt.

Chúng ta là một cộng
đồng mải chinh chiến hơn là xây dựng. Trong quá khứ, chúng ta dành quá ít thời
gian và tâm trí để suy nghĩ về chính mình, tìm sự thật về chính mình... Đó
không chỉ là tình hình có thật trong cuộc sống của người Việt từ lúc khởi
nguyên và kéo dài suốt vài trăm năm gần đây, mà cũng là của thời đương đại.

Trong hoàn cảnh nước sôi
lửa bỏng của chiến tranh và cách mạng, nền sử học vốn rất còi cọc yếu đuối hôm
nay chỉ dồn sức vào làm cho được nhiệm vụ trước mắt là giáo dục mọi người sẵn
sàng ra trận, chứ sức đâu mà đáp ứng nổi cái nhu cầu tự nhận thức, cũng tức là
nhu cầu soi lại quá khứ để xác định tương lai.

Ngay trong cái phần tốt
đẹp nhất của nó, nền sử học mà chúng ta có cho đến hôm nay là một thứ sử học
của tồn tại mà không phải là một thứ sử học dành cho một cộng đồng muốn phát
triển. Tóm lại là vậy.

Cái việc lớp trẻ hiện
nay từ chối sử học thật ra có một tác dụng tích cực.

Đã đến lúc chúng ta phải
nghĩ tới một thứ sử khác, sinh động hơn, có hình ảnh con người nhiều hơn và
nhất là đáp ứng nhu cầu của tương lai mạnh mẽ hơn.



Nghịch lý cuối cùng chỉ
là trong khi những đòi hỏi đã cấp bách lắm rồi, thì những điều kiện cần thiết
không biết bao giờ mới hội tụ đủ.













 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 22, 2015 20:08

November 18, 2015

Trong sự suy đồi của nghề thầy, cả xã hội cùng có lỗi

 Trên báo Tuổi trẻ số ra 4-11-15  có bài viết của một giáo viên mang tên Còn đâu "thương cho roi cho vọt"?

Lâu nay ta thường nghe những
lời xã hội ca thán các giáo viên. Rằng thời nay không còn những người thầy như
xưa. Đờì sống càng đi lên phẩm chất những người đứng trên bục giảng càng sa sút.

Trước các lời bình luận ấy,
không thấy các thầy kháng cự trở lại gì cả - đây tôi nói theo chỗ tôi đọc được.
Có vẻ như các thầy trong bụng cũng chấp nhận.


Nay đọc một bài báo như Còn đâu "thương cho roi cho vọt"? mới thấy mọi chuyện không đơn giản.

Có một đoạn trong bài được đóng
khung như sau:





Ôi
nghề giáo! Cái nghề được coi là cao quý trong tất cả các nghề, giờ cũng chỉ
là cái cần câu cơm... Không có gió, không có khói mà khóe mắt cay cay. Chẳng
biết ngoài kia có ai đồng cảm với tôi không, có ai đó cũng đang trăn trở, có
ai đó cũng đang mỗi ngày đến lớp cho xong trách nhiệm rồi về?


Tôi sẽ không giới thiệu tiếp bài
viết này, mời các bạn đọc ở địa chỉ

 Còn đâuthương cho roi cho vọt” - Tuổi Trẻ Online

Chỉ nghĩ hóa ra nghề thầy cũng lắm cái khổ.

Rồi lan man suy luận, khi cảm thấy nỗi khổ nỗi bất công sẽ kéo dài không biết đến đâu là cùng cũng là lúc người ta dễ buông thả, dễ để cho những hư hỏng lôi kéo.




Sau những đồng cảm như vậy, tôi muốn chúng ta cùng tự hỏi mình:Tại sao nghề thầy suy đồi đi như vậy? 

Ta không thể đòi hỏi ở những người làm nghề này quá nhiều. 

Suy cho cùng, có phần cái lỗi ở họ, nhưng có phần lỗi của hoàn cảnh chung quanh nữa.  

Chính ra là xã hội đã buộc con người ở mọi ngành
nghề khác nhau  trong xã hội hôm nay hư hỏng. 

Quan hư, dân hư, trí thức hư, đến cả lưu manh côn đồ trong xã hội ta  cũng đổ đốn hơn so với các loại lưu manh côn
đồ trong xã hội cũ. 

Nghề thầy cũng không thoát khỏi cảnh đó.


lần tôi đã viết về chủ đề trên trong bài dưới đây và đưa vào tập Nhân nào quả ấy (2002) mời các bạn đọc lại. 

Tôi viết về sự suy đồi của giáo dục chứ không riêng về nghề thầy, nhưng từ giáo dục mà ta hiểu về những người làm nghề. 

Bài viết từ hơn chục năm trước có lẽ vẫn đúng với tình hình hôm nay.

    CHÍNH NHỮNG
NGƯỜI ĐẶT HÀNG CÓ LỖI TRƯỚC.



       Nếu có ai hỏi trong số các sự kiện của
năm 2002 có những chuyện gì đáng nhớ nhất, thì về phần mình, tôi nhớ ngay tới
câu chuyện của một quan chức của Bộ giáo dục. Ông này nhân trả lời một cuộc phỏng
vấn về chất lượng đào tạo, nói rõ ra rằng thực ra hàng năm chỉ khoảng độ ba chục
phần trăm học sinh các lớp của trường phổ thông đáng được lên lớp và đáng được
công nhận là đã  tốt nghiệp, chứ không phải
những con số tám chín mươi phần trăm (thậm chí không ít nơi trăm phần trăm) như
hiện nay.

     Từ lâu, bọn tôi đã biết rằng trình độ dạy và học ở ta rất
kém, các sinh viên đại học ra trường khó kiếm được việc làm, căn bản là vì
không theo kịp trình độ sản xuất hiện thời. 


     Riêng trong phạm vi bậc học phổ thông, từ
lâu chúng tôi đã biết rằng nhà trường bây giờ cho điểm quá dễ, trẻ con ở nhà
chúng thường gọi là điểm của thày cô rất rẻ.

      Mặc dầu vậy, mọi người vẫn  nghĩ rằng có kém thì giáo dục ta cũng kém một
chút thôi, và  đã có sự thông minh ham học
sẵn có của dân mình bù lại. Nay hoá ra toàn ảo tưởng ! Kể cả trong trường hợp  con số mà vị quan chức kia nêu ra không hẳn
đã chính xác 100%, thì tôi vẫn tin rằng, trên nguyên tắc, ông đã nói lên sự thật.  

    Tuy nhiên, người ta lại càng thấy buồn hơn
khi nghe vị quan chức Bộ giáo dục nói trên cho biết  khả năng giải quyết tình hình hiện nay. Theo
ông,  tình trạng trên sẽ không dễ khắc phục,
nói nôm na là không thể giải quyết nổi, vì phụ huynh học sinh thời nay có tâm
lý con cái đi học thì phải giỏi giang, chứ không ai chấp nhận đến 60-70 % ở lại
lớp.

    Cả lần này nữa, vị quan chức kia đã nói
đúng.

    Xin 
tạm phác ra sơ đồ một cách 
nghĩ cách làm về  giáo dục
  phổ biến trong xã hội  như sau:

   ---Lấy lý do ai cũng có quyền được đi học,
chúng ta tổ chức việc học  một cách tuỳ
tiện, trường không ra trường lớp không ra lớp cũng cứ mở,  thầy không ra thầy cũng cứ cho dạy. Trong
hoàn cảnh kinh tế còn yếu kém, chẳng những cơ sở vật chất các trường ở ta khó
khăn, mà chương trình học và nói chung mọi chuẩn mực ở nhà trường cũng bị hạ thấp.


   --- Đáng lẽ phải coi tình trạng nói trên là
đáng xấu hổ, sớm muộn phải tìm cách  khắc
phục thì, trong sự bề bộn của công việc hàng ngày, ta tự ru ngủ rằng mọi chuyện
trong giáo dục đang rất bình thường, và nghĩ ra đủ mọi lý do để chống chế.

     Nếu không có chuyện con cái tốt nghiệp phổ
thông khó vào đại học, hoặc ra trường không cần chạy tiền vẫn đàng hoàng gia nhập
vào bộ máy quan liêu ở các cơ quan nhà nước như thời bao cấp, thì chắc chẳng ai
thắc mắc chuyện chất lượng đào tạo làm gì cho mệt (!) 

   --- Chẳng những chấp nhận một cách dễ dãi,
chúng ta còn thường đòi hỏi quá nhiều ở kết quả học hành của lớp trẻ.

      Những đòi hỏi ấy có một nguyên nhân sâu
xa: sau những năm chiến tranh, bắt đầu nhìn ra thế giới, ai cũng thấy nản vì
trình độ kinh tế mình quá yếu kém. Chỗ để bấu víu để hy vọng chỉ còn là một cái
gì thuộc về đời sống tinh thần, cái phần thông minh sáng láng của con người. Phải
nêu cao cho được tiềm năng trí tuệ của dân 
mình ! Bằng cách nào cũng được miễn là con em mình phải có tiếng là giỏi
!

       Trước nhu cầu  thậm vô lý ấy, các cô giáo thày giáo đã có
cách thích ứng kịp thời. Tức là chẳng có nghiên cứu và cải tiến gì lắm cho phiền
phức, mà chỉ cần “dong công phóng điểm “, làm sao cho có nhiều học sinh lên lớp
học sinh tốt nghiệp trong các kỳ thi (cũng như ngành giáo dục có thêm nhiều tiến
sĩ với lại giáo sư) là được, còn chất lượng đến đâu, có theo kịp trình độ giáo
dục tiên tiến trên thế giới hiện nay cũng như có đạt được những chuẩn mực quốc
tế hay không -- không cần biết. 

      Thích nghe thành tích đang là căn bệnh có
ở nhiều người, chứ không chỉ có riêng ở các bậc làm cha mẹ.

      Hàng ngày chúng ta đã khổ  rất nhiều vì lối làm ồn rầm rĩ trước chút việc
mọn mới làm được.

     Thế nhưng ở khu vực nào cũng vậy, luôn
luôn có một câu hỏi có thể đặt ra: có phải là xã hội vô can trước tình hình ấy
? Hay là sở dĩ tình trạng làm láo báo cáo hay cứ  hồn nhiên phát triển,là vì trong thâm tâm
chúng ta thích nghe chúng, chỉ chấp nhận chúng, thậm chí nói cho đầy đủ là ngấm
ngầm  khuyến khích người ta báo cáo giả để
cùng an lòng ?

      Nói cách khác, từ những thiện chí cùng những
mong mỏi chính đáng, cuối cùng chúng ta tạo ra đủ điều kiện cần thiết để dẫn tới
những kết quả tai hại.

      Trò làm hàng không đủ chuẩn mực trong
giáo dục như thế này,  không gì khác,
chính là đầu mối để đào tạo nên một loại người 
mà nếu đánh giá cho nghiêm khắc 
phải gọi là ở dạng phế phẩm: những học sinh kém khi lên đại học vẫn chỉ
là những sinh viên kém ; rồi khi ra trường chỉ trở  thành những người lao động có lối nghĩ tầm
thường, tay nghề xoàng xĩnh, tinh tướng xoay xoả kiếm chác thì giỏi, mà làm việc
theo nghĩa thực thụ thì không biết.

     Chẳng những thế, cái tâm lý chung sống với
các giá trị  giả, nhắm mắt  bằng lòng với của giả, kiêu ngạo một cách vô
lối, phổng mũi trước những lời khen xã giao, ngại ngùng sợ hãi không dám nhìn
thẳng vào sự thực chỉ vì chúng quá cay đắng... sẽ càng có dịp nẩy nở và di hại
đến các thế hệ tiếp nối. ( Xin nói thêm là cách suy nghĩ chỉ cần ta biết với
ta, bất chấp chuẩn mực
chung đang ngự trị  ở nhiều ngành nghề lĩnh vực, đến mức một nhà
nghiên cứu xã hội học gần đây phải đưa ra khái niệm “chủ nghĩa coi dân tộc mình
là ngoại lệ “ --- xem bài của Mai Huy Bích 
trên tạp chí Xã hội học số 4 (76) -2001. Tạp chí này là cơ quan
nghiên cứu lý luận của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia ).

       Từ chuyện viết sách giáo khoa đến chuyện
tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, từ chuyện chấm điểm đến chuyện tổ chức các kỳ
thi, rồi cơ sở vật chất của nhà trường, rồi lương bổng của giáo viên... chưa
bao giờ công việc giáo dục được báo chí mang ra bàn bạc nhiều như lúc này. Đôi
khi chỉ vài chi tiết lặt vặt trong cuốn sách giáo khoa lớp 1 cũng tốn không biết
bao nhiêu giấy mực.

      Nhưng theo tôi, cái đáng bàn nhất hiện thời  là quan niệm của chính mỗi người chúng ta về
giáo dục, có sòng phẳng với nhau thì mọi chuyện mới có hướng để gỡ dần.

      Đó là liệu  ta có chấp nhận rằng kinh tế non kém  thì việc học hành của con em ta cũng không thể
bằng người  và phải có một sự tính
toán rất thông minh, một cách nghĩ  rất nghiêm túc thì giáo dục mới khá được ?

      Ta có nhất quyết phấn đấu để có một nền
giáo dục đạt tiêu chuẩn quốc tế, hay chỉ nói hội nhập cho phải phép, thích “yên
ngủ “ trong  tình trạng kém cỏi  của mình rồi tự  đặt ra những tiêu chuẩn riêng để lấy lòng
nhau, cốt sao cả hội cả làng cùng vui vẻ?

      Bao giờ thì ta mới  thấy sợ trong cái việc hàng năm  cho “xuất xưởng” đều đều những “mặt hàng” ---
ở đây là những  con người ---không đủ
tiêu chuẩn và thản nhiên để họ đi vào xã hội tương lai  như hiện nay ?










 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 18, 2015 20:41

November 14, 2015

Dân nhập cư Nga đầu thế kỷ XX, dưới con mắt một nhà văn Pháp

 Sáng thứ bảy 17/10 /2015  tại 9B, Phạm Ngọc Thạch, Q.3 TPHCM đã diễn ra
buổi CÀ PHÊ GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI, “cà phê” với TS Phạm Văn Quang, giảng viên khoa ngữ văn trường ĐH Khoa học xã hội và nhan văn TP. HCM ,
 chủ đề: “Suy tư về thời kỳ hiện tại”.

Tôi không có điều kiện để dự buổi tọa
đàm này, nhưng được một bạn trẻ có mặt cho biết, một trong những điều diễn giả
quan tâm là mối liên hệ giữa sự thay đổi trong địa điểm cư trú song song
với  sự thay đổi trong tư duy con người hiện
đại.


Trong thư mời mà tôi nhận được, còn có
đoạn viết mở ra một viễn cảnh rộng rãi hơn:


Thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ chúng ta chứng kiến một thế giới chuyển di
chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Chúng ta coi đó như là đặc trưng của xã
hội thời kỳ hiện tại, và thân phận con người thường trực bị đặt nằm bên lề của
những cơ cấu thiết chế chính thống, để bước vào trải nghiệm một hành trình lưu
lạc. Như vậy, bên cạnh những đặc trưng khác như hiện tượng hủy truyền thống,
hiện tượng bùng phát của toàn cầu hóa và tiêu thụ, thì tình trạng lưu vong-dịch
chuyển góp phần phác họa bức tranh tổng thể của xã hội nhân loại thời kỳ hiện
tại.


Vấn đề thật quá thú vị, không phải nó
chỉ có liên hệ tới cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu bắt đầu từ tháng 10 vừa
qua, mà xem ra còn liên hệ với các vấn đề thuyền nhân VN sau 1975 và lùi về xa
nữa,  các cuộc di dân từ Đông Âu và Nga
sang các nước Tây Âu đầu thế ký XX.


Trước mắt tôi nhận ra những gợi ý
của  nó liên quan tới một chủ đề mà lâu
nay văn học thế giới hiện đại đã đặt ra: chính là nhìn vào nhóm người di cư,
người ta có thể nhận ra đặc điểm của cái cộng đồng lớn mà họ đã từ bỏ, cái dân
tộc mà mãi mãi họ là một bộ phận.


Có một cách để hiểu về một giống cây là
mang nó trồng vào một vùng đất mới, với điều kiện sống và trước tiên là điều
kiện khí hậu mới.


 Với các dân tộc cũng vậy. Trong lịch sử,
không ai có ý thức làm chuyện này, không mấy ai chủ động làm việc di cư chỉ để hiểu mình như thế nào; nhưng khi hiện tượng đã từng xảy ra, tại
sao ta không nắm lấy nó mà nghiên cứu.


Tôi đã có lần may mắn chạm tới đề tài
này khi biên soạn và viết lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết
Đêm của những ông
hoàng do nhà văn Ngô Quân Miện dịch.

 Lần ấy, một cách ngẫu nhiên, tập bản
thảo này rơi vào tay tôi.  Hình như sách
là do  dịch giả tự động gửi tới nhà xuất bản Hội nhà văn từ lâu.
Nhưng vì là "lai cảo", chứ không phải sách do  biên tập viên lên kế hoạch, nên nó bị ghẻ
lạnh.


Trong lúc thiếu bản thảo, tôi tình cờ
đọc và thấy được, nên đề nghị cho in. Để thêm sức thuyết phục cho cuốn sách,
tôi nhận lấy cái việc là tìm hiểu thêm về các vấn đề đặt ra qua cuốn sách, từ đó phát biểu vài cảm nghĩ của một người độc giả Việt.


Bài viết sau đây bạn đọc sẽ đọc đã hình
thành như thế.


Hôm nay đây, giới thiệu nó với các bạn
trên mạng, tôi chỉ muốn đề đạt thêm một vài ý nhỏ :


-- lâu nay ngành dịch ở ta vận hành khá đỏng đảnh và tùy tiện. Nghe nói ở nước ngoài đang có những
cuốn sách này nọ mới nổi tiếng, mới được lăng-xê, ta liền tìm dịch cốt để tạo ra
cảm tưởng chúng ta cũng đang bám sát
văn học nước ngoài, nhất là văn học phương Tây.  


-- nay lối làm việc ngẫu hứng này cần
phải thay bằng sự nghiên cứu lâu dài, mà trước tiên là nghiên cứu các vấn đề
của xã hội ta, từ đó đặt hàng cho bộ phận dịch. Công tác nghiên cứu và giới
thiệu văn học nước ngoài phải bao hàm không chỉ những tác phẩm  có liên quan tới tình hình trước mắt mà cả
kho tàng tác phẩm lâu đời của họ, những tác phẩm của họ ngày hôm qua mà với ta
nay vẫn là mới.


-- nếu như đặt vấn đề một cách toàn diện
như vậy, ta sẽ tránh được lối làm việc một cách chụp giật, đồng thời có cách xử
lý đúng với những tác phẩm dã dịch. Những tác phẩm dịch kém dịch ẩu cần phải
làm lại. Còn những dịch phẩm tốt cần phải tái bản để giúp cho các bạn đọc trẻ
tuổi có cơ hội tiếp cận với chúng.








                                                  QUÁ KHỨ KHÔNG DỄ TỪ BỎ







Lời giới thiệu viết cho cuốn Đêm của những ông hoàng

Nxb Hội nhà văn,2003     




http://songhuong.vn/module,product/de... 







I

   Helen ( tên
gốc là Elena Borisovna ) --  một cô gái
Nga dòng dõi quý tộc -- theo gia đình lưu vong trôi nổi trên đất Pháp đầu thế
kỷ XX, ở đó cô cùng với người chị tạm thời 
trú chân  trong một nhà trọ nghèo
và phải làm những con búp bê để kiếm ít tiền mọn rau cháo qua ngày. Nhưng cuộc
đời vẫn chưa buông tha họ. 

Chỗ chị em Helen sinh sống cũng là khu vực tá túc của
rất nhiều người Nga nhập cư và bởi vậy các cô gái không thể không can dự vào nhiều sinh hoạt cùng các đồng bào
vốn cũng trong cảnh lưu lạc. 

Kết quả các cô bị 
bật ra khỏi cái nơi trú ngụ yên lành để lao vào một trường đời quay
cuồng hỗn loạn hơn. Người chị  đi làm tại
một bệnh viện. Còn Helen nhẫn nhục đi
hát ở một quán ruợu. Trong cảnh cơ nhỡ, cô phải vượt lên trên bao thách thức,
kể cả có những lúc phải cựa quậy phá phách tàn tệ. Song vẫn không thoát khỏi kiếp
làm thuê, không thoát khỏi lầm lạc. Cho đến lúc được một đồng hương khác - một mugic Nga nhờ chăm chỉ làm ăn có tiền
cứu  chuộc - , ông này hứa  đưa cô đi về những miền đất lạ châu Phi. Đời Helen từ ấy mới như được làm lại.      

      Trên đây là mấy câu tóm tắt cuốn truyện Đêm của những ông hoàng(1927), tác giả J. Kessel (1898-1979),
mà tôi đọc được qua bản dịch của Ngô Quân Miện.

     Nói cho đúng ra, giữa vô vàn nhà văn lớn
của thế giới hiện đại  thì tác giả J.
Kessel  mặc dù có cái danh khá to là viện
sĩ Viện hàn lâm Pháp, song cũng chỉ là một tên tuổi tạm gọi là thường thường bậc trung. Các sách giáo khoa văn học không dành cho
ông những chương riêng. Các bộ từ điển văn học chỉ nhắc tới ông một cách sơ sài.

     Vả chăng, nếu có nói về ông, người ta
thường  kể ra những cuốn sách khác như Phi hành đoàn như Gió cát... chứ ít người nhắc tới
Đêm của những ông hoàng. 


      Mặc dầu vậy, tôi vẫn nghĩ rằng đây là một
tiểu thuyết  hay, đáng được những bạn đọc Việt Nam đang bận rộn để công
tìm đọc, ít ra là trên hai phương diện: thứ
nhất
, nó giúp  cho chúng ta hiểu thêm
về dân tộc Nga và những con người Nga vốn có một mối quan hệ với người Việt Nam
trong lịch sử ngót một thế kỷ nay. Và thứ
hai
, nó mở ra cho  chúng ta một cơ
hội để  hình dung thân phận của những
người nhập cư vốn là một hiện tượng lớn trong thế giới đầy xáo trộn 
như thế giới hiện  đại; hiện tượng
này cũng để lại một dấu ấn rõ rệt trong đời sống văn hoá của thế kỷ XX với ý
nghĩa nó tạo ra những mảng sáng tác có sắc thái hỗn hợp kỳ lạ, vui  buồn hoà trộn, hào hứng  bi thảm xen kẽ cạnh nhau, theo những dạng
thức  trước nay chưa ai hình dung được.

 

II

    Nói kỳ lạ thì dân tộc nào trên thế giới
cũng kỳ lạ song người Nga có lẽ là một trong những dân tộc kỳ lạ bậc nhất. Cuộc
sống chìm sâu trong giá rét. Con người chìm sâu trong đời sống nội tâm. Tính cách pha
trộn nửa Âu nửa Á nửa văn minh nửa hoang dại. Luôn luôn mơ t­ưởng vư­ơn ra với thế giới hiện đại với ánh sáng như­ng
lại  luôn bị cái quá khứ trung cổ níu
kéo... Mà làm sao khác được, cái quá khứ ấy lại có vẻ đẹp đẽ hào hùng riêng vẻ
kiêu hãnh riêng. Nếu xem người Nga như một variant
(tạm dịch là một biến thể, một kiểu tồn tại ) của nhân loại, thì  variant
này quá sắc nét  và đầy ấn tượng, nó là
một ví dụ tốt giúp cho người ta hiểu những cái hay cái dở của con người, bất kể
là người của dân tộc nào.

      Charles De Gaulle, một trong những nhân
vật lớn của lich sử Pháp thế kỷ XX, người có thể coi như hiện thân của chủ
nghĩa dân tộc Pháp,  từng có lần viết : Chỉ
có các dân tộc và các cá nhân là vĩnh viễn tồn tại
. Ý ông muốn nói những
đặc tính làm nên một dân tộc là một cái gì rất bền vững. Được hình thành trong
những điều kiện cụ thể, mỗi dân tộc cũng như mỗi con người thường có những nét
độc  đáo kỳ dị mà một lần hình thành thì
sẽ không gì làm cho phai nhạt, tức không sao sửa chữa nổi. Bởi vậy nhìn vào
khoa học xã hội trên thế giới hiện nay, người ta thấy ngoài những  bộ môn cụ thể (lịch sử, địa lý dân tộc học
xã hội học tâm lý học v..v..) lại còn có lối nghiên cứu tổng hợp về từng dân
tộc tạo nên những ngành kiểu như Ấn độ học, Trung quốc học, Nga học...

     Có thể là
những liên tưởng  đã kéo tôi đi quá xa,
song thú thực là  đọc Đêm của những ông hoàng tôi cứ loay hoay
trở lại với những ý tưởng nói trên, bởi lẽ ở đây, con người Nga  được Kessel khắc hoạ rõ nét quá, và có thể
xem như những tài liệu bổ ích cho những ai muốn hiểu người Nga và  đi vào môn Nga học chúng ta vừa nói. Những
ông bác sĩ quen sống với những tư tưởng cao xa phải đi lái xe độ nhật. Những
ông ký giả loại xoàng lo in báo xong thì đi bán rong, ấn những tờ báo tiếng Nga
mình viết vào tay các đồng bào cũng nghèo như mình. Các cô gái di-gan mặc những
bộ váy áo sặc sỡ đi hát ở các cửa hàng và nhận chuốc rượu cho khách lấy tiền
thưởng. Những ông hoàng ăn tiêu theo kiểu bốc giời, đến lúc thất thế chuyên đi
gác cửa hoặc bưng bê thức ăn  song vẫn giữ
lối xài sang, sẵn sàng xỉa ra đồng tiền cuối cùng để chi cho bữa tiệc vui còn
như ngày mai sống thế nào không cần biết. Cộng đồng lưu vong nào thì cũng có
rất nhiều kiếp người xiêu vẹo như vậy, nhưng hình như  với người Nga, trong hoàn cảnh sống trên đất
Pháp  và có được chút  tự do thảm hại, những mẫu người ấy trở nên
hoàn chỉnh hơn bao giờ hết.

   Và ra
chất Nga, đúng tính cách Nga nhất là
trường hợp nhân vật Helen.

   Sẵn một trái
tim nhân hậu song cô gái này lại bị bao thành kiến chi phối. Dễ bị kích động.
Không biết tính toán. Tự trọng một cách quá mức. Vội vã hứa hôn với một thanh
niên đau ốm trong khi chả hiểu  gì mà chỉ
vì thương hại cậu bé. Cam tâm để cho một ông hoàng hết thời chiếm đoạt chỉ vì
tìm thấy trong người kỵ sĩ ấy một hình ảnh hào hùng, và mặc dầu không yêu thậm
chí biết hết tính cách thô lỗ của anh ta, nhưng 
khi đối tác bị tai nạn thì nhận
lấy việc cứu giúp. Luôn luôn sáng suốt nhưng cũng luôn luôn sai lầm và dễ dàng
trượt dài trong những cơn bốc đồng ngẫu nhiên... Helen là thế, dù có tâm
hồn, lại có tài nữa, nhưng hình như cô không biết sống.
Cô gợi cho  người ta cảm giác  kỳ cục, mọi hành động và trước tiên là cách suy nghĩ của cô vừa bất ngờ như
không ai có thể đoán trước, lại vừa hoàn toàn phù hợp với con người cô, cái
dòng máu Nga mà cô mang trong mình, chính những đau khổ mà cô tự chuốc lấy kia
đã là nguồn gốc tạo nên sức sống kỳ lạ mà có lẽ chỉ những người phụ nữ Nga mới
có.

    Ở đây, đọc
Kessel mà tôi như được trở lại với những
trang sách của Tolstoi, của Dostoievski; trong một nhân vật như Helen tôi như bắt gặp cả Natasa trong Chiến tranh và hoà bình lẫn Sonia trong Tội ác và trừng phạt, Nastasia Filippovna trong Chàng ngốc... Những nét tính cách
Nga  mà các bậc thày cổ điển đã dày công
khắc hoạ như một lần nữa được tái tạo qua ngòi bút của Kessel, và chính trong
một hoàn cảnh có vẻ như không điển hình,
cái phần tinh chất trong tính cách ấy 
lại  có dịp bộc lộ rõ rệt hơn bao
giờ hết.




III

        Cái hoàn cảnh thoạt nhìn có vẻ như không
điển hình, nhưng lại là điều kiện tốt nhất để các nhân vật bộc lộ tính cách ở
đây, chính là hoàn cảnh lưu vong mà họ đang sống.

      .... Có những cuốn sách chỉ được nghe kể mà
sao mình cứ  phải nhớ mãi về nó và thầm
ao ước có ngày được đọc nó. Phố mèo câu
 của nhà văn Roumani với tôi, là
một trong những cuốn như thế.

        Lần đầu tiên tôi được nghe nói về tác phẩm này là qua nhà văn Tô Hoài.
Nhân nói về bậc đàn anh Vũ Bằng, Tô Hoài 
kể rằng hồi mới viết văn ông thường được Vũ Bằng cho mượn sách để đọc,
trong đó có cuốn Phố mèo câu cá ( La rue du chat qui pêche của Yolland Foldes )

Theo
Tô Hoài, câu chuyện về đám vua chúa và cả dân nghèo Roumani sang sống ở
Pháp sao mà gần gũi, thật trên trời dưới biển đủ vẻ mà  rút lại cũng trớ trêu nhơm nhếch như mọi kiếp
người.

       Không uống mà say, tôi cũng bị lây
những  ám ảnh tương tự  :

      Người Đông Âu sang sống ở Pháp. Người châu Phi sang sống ở Anh. Trên đất Đức
có cả một bộ phận cư dân người Thổ Nhĩ Kỳ. Còn người Trung Hoa thì có mặt trên
khắp thế giới từ vùng Đông Nam Á vốn cách chính quốc không bao xa tới những
vùng xa xôi mãi bên châu Mỹ. Từ lâu rồi trên thế giới này đã tồn tại một nhân
loại gồm những bầu đoàn thê tử từ giã
mảnh đất chôn rau cắt rốn để đến với những chân trời xa lạ,  và chính trong khi nhìn vào cái nhân loại bị bứt ra khỏi mảnh đất của mình
này, mỗi người bình thường có thể tìm thấy bao nhiêu vấn đề liên quan, thậm chí
có thể nói là  chỉ tới họ  --- những người lưu vong --, cảm giác về kiếp người 
mới  bộc lộ hết chất ám ảnh của
nó.

       Người ta càng thấy rõ điều này hơn khi
đọc Nazim Hikmet (nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ một thời gian dài lưu vong ở Liên xô, người từng viết  câu thơ nổi tiếng
Lưu đày là một nghề rất khổ ), hoặc khi đọc hàng loạt  nhà văn Nga  khác từ Henry Troayat,  Nabokov, tới I.Brodski,  A. Makin cũng như xem  những bộ phim Trung quốc có chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam mấy năm trước 2000, kiểu
như  Người Bắc Kinh ở Nữu Ước, Đi sang châu Âu.

     Và bây giờ đến Đêm của những ông hoàng.

     Hoá ra từ thực tế của  đám dân lưu vong, người ta có thể khai thác
nhiều chủ đề khác nhau :

      Sự lang thang  phiêu bạt như là một định mệnh của con người.

      Sự xa lạ, cái cảm giác của người không tìm thấy mối liên hệ với hoàn cảnh chung quanh, mà  chỉ thấy mình buộc phải sống. 

      Nói như Marcel Proust  “Tôi đến thế giới này như người nước ngoài và  rời khỏi nó cũng như người nước ngoài “  (câu nói cô đọng này
của tác giả Đi tìm thời gian đã mất  được chính A. Makin, nhà văn Nga lưu vong sưu
tầm và trích dẫn trở lại)

      Rồi sự thích ứng. 

      Một điều bất cứ ai,  dù chưa dấn thân vào kiếp sống nơi đất khách
quê người, cũng có thể dự đoán được, ấy là 
sự mưu sinh ở đây cực kỳ khốn khó.

     Bị
dứt ra khỏi mảnh đất quen thuộc cũng có nghĩa là con người rơi xuống bùn đen.
Nơi ăn nơi ở thảm hại. Miếng ăn là chuyện phải lo hàng ngày. Để tồn tại người
ta không có quyền từ chối bất cứ việc gì 
và thường khi để có đồng bạc những người cao sang cảnh vẻ cũng  phải làm những công việc mạt hạng nhất. 

      Thích
ứng ở đây cũng là một biến thể của cái câu mà nhân vật Pavel Korsaguin  trong Thép
đã tôi thế đấy
từng tự  nhủ “Hãy biết sống ngay cả khi cuộc đời trở nên
không thể chịu được nữa!"

      Sau vấn đề miếng cơm manh áo, cái sự tồn tại hay không tồn tại kể ra còn bộc
lộ qua nhiều khía cạnh khác trong tâm lý
của dân lưu vong, mà trực tiếp nhất là
quá trình  hoà nhập của họ với con người và xã hội mà họ mới tới. 

     Trong
một tài liệu nghiên cứu về những người nhập cư, tôi đọc được một nhận xét có vẻ
nghịch lý nhưng suy cho cùng lại rất chính xác, đó là khi phải đến sống ở
những miền đất xa lạ thì sự thích nghi về văn hoá còn khó hơn cả sự thích nghi
về ngôn ngữ
.  So với sự kiếm sống thì
yêu cầu thích  ứng ở đây còn cao hơn một
bậc.

      Có điều, chính trong hoàn cảnh phải vật
lộn để thích ứng ấy, con người có dịp tự chứng tỏ bản lĩnh làm người của. 

      Vượt lên
trên sự hư hỏng buông trôi, ở nhiều người 
bắt đầu nảy sinh  niềm kiêu hãnh
chính đáng: không gì bẻ gãy được họ.



IV

        Trong phạm vi của một cuốn tiểu thuyết
vài trăm trang, cố nhiên câu chuyện được Kessel kể không thể trải ra quá rộng. 

        Trong Đêm của những ông hoàng, các nhân vật người Nga mới chân ướt chân ráo tới Pháp,  tức còn đang trong hoàn cảnh những thích ứng
ban đầu, nên họ cứ  phải vón cục lai với
nhau để vừa trông nhau kiếm sống, vừa
tìm cách an ủi nhau, chia sẻ với nhau 
những kỷ niệm cũ vốn không dễ mà quên.

       Thế nhưng, nhờ ở chỗ biết phác hoạ lại cái hoàn cảnh ấy
một  cách 
sinh động,  cuốn sách lại làm nổi
lên một chủ đề khác: đó là sự gắn bó của con người ta với quá khứ. Thật vậy
trường hợp của những Chuvalov, Fedor, Stephane... nói ở đây chỉ chứng tỏ một điều, dù đi đến chân trời
góc bể nào thì người ta vẫn thuộc về cái cộng đồng mà người ta đã sinh ra. Sau
khi  từ bỏ nền văn hoá từ đó mà mình đã
lớn lên, mỗi cá nhân  càng thấy thật ra
mình đã gắn bó với nó bằng muôn vàn sợi dây vô hình. Nó đã là một bộ phận của
con người mình. 

      Ở đây trí nhớ vừa là
niềm vui vừa làm phiền người ta, quá khứ
vừa là điều tự hào, vừa là thứ muốn quên
đi, để rồi biết ngay rằng không thể quên nổi. 

      Vậy thì, với nhiều người,
hình như việc sinh ra ở đâu là cả  một sự
kiện lớn trên đời, mỗi chúng ta không chỉ thuộc về mình mà còn luôn luôn thuộc về một thế giới khác trong đó mình và
dòng giống mình  là một bộ phận.

     Như trên đã ghi nhận, điều đập mạnh vào ấn
tượng một người đọc như tôi khi đọc  Đêm của những ông hoàng ấy là cái chất Nga
kỳ lạ của tác phẩm. Và điều này lại hai lần kỳ lạ nếu biết rằng nhà văn J. Kessel sinh ra và lớn lên không
phải ở Nga.

     Phải chăng
chỉ còn có cách giải thích chính trong hoàn cảnh sống xa quê hương,  con người ta lại có dịp trở về với cái cội nguồn dân tộc của
mình một cách sâu sắc hơn bao giờ hết ?

      Trên con đường trở thành công dân thế giới, phải chăng những dữ kiện về cội nguồn không níu kéo người ta song vẫn luôn luôn là những nhân tố cần tính tới?

      Phải
chăng đó cũng chính là cái sức hấp dẫn
mạnh mẽ và lý do tồn tại của những tác phẩm văn học viết về dân lưu vong vốn đi
thành một mạch riêng và dường như nhìn vào nền văn học nào cũng có thể  bắt gặp?  





Để hiểu thêm về Phố mèo câu cá

các bạn có thể đọc thêm bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở địa chỉ: 

 http://www.lebadang.org/Items/ItemDet...                                                                      
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 14, 2015 19:24

November 5, 2015

Nguyễn Huy Thiệp và việc "đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất"





 Đọc tập phê bình-tiểu luận" Giăng lưới bắt chim" của Nguyễn Huy Thiệp (2008).
 “Một
người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta”,
Nguyễn Huy Thiệp từng tự nhủ như vậy và đã làm như vậy. Dù rằng cái phần
tự ý thức của tác giả còn nhiều lầm lẫn và nói chung còn là chật hẹp so
với lý luận như nó phải có, song một số bài viết in trong "Giăng lưới
bắt chim" có góp phần thức tỉnh nhiều người: đối với văn học mà chúng ta
tưởng đã quá quen, đã đến lúc cần phải nghĩ khác.




 Xuất phát từ tâm huyết

Trong giới cầm bút Việt Nam thế kỷ 20, ít thấy ai có bước vào nghề kỳ lạ như tác giả Tướng về hưu.
Thoắt cái ông được tôn vinh, rồi thoắt một cái bị nếm những đòn sát thủ
hiểm ác, người yếu bóng vía chắc đã không trụ nổi. Không phải ngẫu
nhiên những bài gọi bằng lý luận hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp ra đời
vào mấy năm 1988 -1992. Tôi ngờ rằng trong những ngày ấy, lý luận đã trở
thành bạn bầu của ông. Nó giúp ông kiểm tra lại sự trong sạch của mình
mà cũng đồng thời là cái neo giúp ông giữ lấy niềm tin để tiếp tục sống
và viết. 

Khoảng đầu 2004, khi trong sáng tác có
sự khó khăn, Nguyễn Huy Thiệp lại trở về với lý luận. Loạt bài này cũng
gây ra bao khó chịu. Song khi đưa vào sách, nhà văn chỉ lược bỏ mấy câu
"nặng tay", ngoài ra vẫn kiên trì những ý tưởng chính. Bởi dường như ông
đã lấy cả mười mấy năm cầm bút ra để bảo đảm.




 Một sự phá cách

Cho
đến nay, với nhiều bạn đọc và một số đồng nghiệp, sự có mặt của văn
xuôi Nguyễn Huy Thiệp vẫn là một cái gì “khạc không ra nuốt không vào”.
Đọc thì có đọc, trong bụng thậm chí là say mê nữa, nhưng vẫn không muốn
chính thức công nhận. Bởi so với thứ văn họ quen đọc và cái họ vẫn viết
thì Nguyễn Huy Thiệp là cả một sự phá cách. Không đi theo những nền nếp
cũ. Liều lĩnh. Cực đoan. Rất nhiều điều người khác chỉ thì thào nói vụng
nói trộm thì ông nói buột ra, và đã nói là không hối hận.

Nhưng đó cũng chính là nhân tố làm nên chỗ mới của Nguyễn Huy Thiệp, kể cả trong các tiểu luận.

“Trừ
đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ
ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với các dân tộc khác,
phải thừa nhận là kém cỏi” (tr. 33). Theo tập quán thông thường, những ý
nghĩ như thế không ai dám viết trên mặt giấy. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã
viết, và nếu như không đồng ý hoàn toàn thì nhiều người đã bắt đầu thấy
sự có lý của nó.

“Văn học (hôm nay - V.T.N. chú)
luôn né tránh một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải
khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảm với chiến
tranh... Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả
năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực
dụng ê chề lọc lõi oái oăm đôi khi đểu cáng” (tr. 272 ). “Văn học giá
trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội không có những tác phẩm
văn học hay, không có những tác phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở
đấy đang bị xói mòn đang bị mất dần đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở
một người nào mà nó ở toàn xã hội” (tr. 284). Vượt lên khá xa ngay cả
với những lời chỉ trích nhăng nhít mà đầy ác ý, những nhận xét như thế
làm nhức nhối lòng người và đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh bậc nhất
cho việc xây dựng đời sống tinh thần hiện nay.




Đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất

Không
ít nhà văn ở ta tự coi mình là những đấng siêu phàm, là lương tâm của
đất nước và trong những ngày tháng này đang lao động cật lực để phục vụ
xã hội giáo hoá nhân dân! Tác giả Tướng về hưu đưa ra cách hiểu thực tế hơn. Những khi bàn về người làm nghề, những chữ xuất hiện dưới ngòi bút ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương
- toàn những “đức tính” khiến người ta ghê ghê. Một lần khác ông nói
toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây trở lại đây ở Việt Nam không
có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng
không phải là nỗi buồn lớn” (nếu lấy lại bản in trên báo thì người ta
nhớ là ông còn nói đến tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm
hấp, quá khích, vớ vẩn…). Nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm
sao mà người ta có thể nói được sự thật về xã hội trong khi sự thật về
chính cái giới của mình thì lảng tránh?” sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.


Không phải vì chán nản trước tình trạng bê bết
của nhiều đồng nghiệp mà ở nhà văn này mất đi niềm tin thiêng liêng vào
sứ mệnh ngòi bút. “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn
nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy. Nó là
con vật nhạy cảm hết sức đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn.
Nó viết không phải vì nó, nó viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi
ích công cộng, một lợi ích văn hoá”. Cái tha thiết muốn vượt lên trên
chính mình thường trực ở tác giả Tướng về hưu đã là yếu tố cứu vãn lại tất cả.






Chỗ giống người của kẻ khác người

Đôi khi Nguyễn Huy Thiệp cũng viết phê bình. Có những bài như Hiện tượng Vi Thuỳ Linh,
ở đó ông cắt nghĩa được hiện tượng thơ trẻ hiện nay trên cơ sở một nét
tâm lý xã hội đang phổ biến. Ngoài ra, nó còn cho thấy ông xa lạ với một
thái độ mị dân, lấy tuổi trẻ ra để doạ người khác. Tuy nhiên, nếu trong
khi nhìn chung nghề văn, vượt lên trên mớ kiến thức chắp vá, Nguyễn Huy
Thiệp vẫn đàng hoàng sáng suốt thì, khi viết về từng đồng nghiệp, trong
phần lớn trường hợp, ông tỏ ra khá tầm thường và tuỳ tiện.Viết như đang
lè nhè giữa một đám chén chú chén anh nào đó. Viết để lấy lòng mọi
người. Viết để trả nợ. Viết để ra vẻ bề trên, ban phát cho các đàn em...
Hình như ông quên mất mình là một nhà văn kiểu mới, nhà văn công dân,
đứng ra đối thoại với cả xã hội. 

Với một tâm lý
làng xã đã ăn vào tận xương tuỷ, nhà văn mình thường chỉ có những mối
quan hệ chật hẹp và dễ sống theo lối kéo bè kéo cánh với nhau. Cái điều
Nguyễn Huy Thiệp đã cảm thấy chán mọi người thì chính ông không thoát ra
nổi. Ở đây không thể nói là đáng tiếc mà là đáng sợ, vì sức mạnh của
hoàn cảnh đã khống chế không trừ một ai, kể cả những người thông minh
nhất.




Đặt mình vào dòng chảy thời đại

Đọc Giăng lưới bắt chim,
trước tiên tôi nhớ Nguyễn Công Hoan với cách nghĩ thực dụng và những
nhận xét kiểu “trong giới không thiếu những người cầm bút nửa đời nửa
đoạn” hoặc “có một dạo, người ta sợ những người là nghề cầm bút như sợ…
hủi” (Xem Đời viết văn của tôi). 

Tôi cũng nhớ tới Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu hồi các ông còn trẻ và đầy khao khát về nghề. Đủ
điều sâu sắc từng đươc các ông nghĩ và nói ở chỗ riêng tư, tuy chỉ nói
đâu để đấy, nói xong nhiều khi lại dặn bọn tôi là đừng có bép xép.

Với
Nguyễn Huy Thiệp, từ nay sự phân thân (hoặc nói nôm na là tính hai mặt)
không còn là định mệnh cho nghề văn ở Việt Nam, như một số người thường
tự biện hộ.

Nhưng đọc Giăng lưới bắt chim tôi còn nhớ tới nhà văn Trung Quốc Vương Sóc. Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
tổng hợp bao nhiêu vấn đề. Tác giả chê văn học Trung quốc đương thời,
ngán văn chương đại chúng. Và ông lật tẩy cả những tượng đài của văn
chương hiện đại, bảo họ là giả dối vụ lợi. Ở Trung Quốc Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
đã gây ra tranh cãi. Còn ở Việt Nam, người ta lặng lẽ đọc nó với bao
thích thú, vừa sung sướng được gặp các ý tưởng mình thường nghĩ, vừa
không sợ tội vạ gì.

Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp cần
cho chúng ta một phần là ở chỗ đó: ông nối nghề văn ở ta với nghề văn ở
cả các xứ sở khác. Trong khi mang nặng cốt cách bản địa, các sáng tác
cũng như tiểu luận phê bình của ông đã là một bằng chứng để những ai vốn
ngần ngại trước con đường hội nhập có thể yên tâm. Bởi chỉ cần trung
thực với chính mình, thì thế giới chẳng xa lạ với ta mà ta cũng chẳng xa
lạ với ai cả.



Nguyên là bài Giăng lưới bắt ... lý luận

đã đưa trên blog này ngày 26-8-2008





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 05, 2015 19:28

Khuôn mặt nhàu nát - Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp

Nếu có một thứ “quả bóng vàng” (hay là “cây bút vàng”) dành để tặng
cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 – và cả nửa đầu
năm 1988 – người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn
Huy Thiệp. Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ Một thoáng Xuân Hương lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ Con gái thuỷ thần lẫn
lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện.

 Với mỗi một truyện ngắn, Nguyễn
Huy Thiệp như đang làm một cuộc phiêu lưu cho ngòi bút mà cũng là tự
phác ra chân dung mình. Cuộc phiêu lưu đó đang tiếp tục nhưng do chỗ mỗi
truyện ngắn đã là một nét vẽ hằn lên rõ ràng, nên người đọc vẫn có thể
vượt qua những khoảng trống để phác ra hình ảnh Nguyễn Huy Thiệp. Khi
một ngòi bút có được cá tính mạnh mẽ thì sự định hình dẫu có đến sớm
cũng là một điều dễ hiểu.







Sự độc đáo kỳ lạ là một yêu cầu nhất thiết với văn học, thế nhưng
một phong cách như Nguyễn Huy Thiệp lại hai lần kỳ lạ, vì nó mang tới
cái chất mà lâu nay trong văn học Việt Nam hơi thiếu: chất kiêu
bạc, tàn nhẫn, cay đắng. Bằng một lối kể thâm trầm của một kẻ vừa trải
đời, vừa chán đời và không còn những hy vọng dễ dãi vào đời, trong Tướng về hưu, tác
giả vẽ ra một khung cảnh ở đó, nếp sống thực dụng lan tràn, trở thành
một thói quen; con người lì lợm lâu ngày đến mức mất hết cảm giác về sự
lì lợm của chính mình; cái tốt bé nhỏ như một cái gì trớ trêu rơi rớt
lại không được việc gì; lương tri vẫn còn trong mỗi người nhưng nó chỉ
đủ sức làm cho người ta nghẹn ngào khi phải đối mặt với những cảnh tha
hóa, bần cùng. Vả chăng, như là sản phẩm của tất yếu, tất cả giản dị,
hồn nhiên, nhiều hành động bột phát lại như đã tính toán sẵn từ trước,
một câu nói buột miệng lại sắc cạnh như một châm ngôn. Con người không
phải muốn làm gì thì làm, và càng giãy giụa, nó càng chứng tỏ mình đã bị
hoàn cảnh khống chế chặt chẽ.





Trong một nét vẽ thoáng qua, có lần Nguyễn Huy Thiệp tả một nhân vật
“mặt nhàu nát vì đau khổ”. Vẻ nhàu nát ấy phải nói cũng là nét chính
trên khuôn mặt văn học của Nguyễn Huy Thiệp mà ta thấy hiện lên qua các
sáng tác – nhàu nát, tê dại, để rồi trở nên hung hãn, táo tợn. Chỉ người
xa lạ với tác phong đám học trò nhạy cảm học đòi làm văn mới dám viết –
tức là “chường mặt mình ra” – như vậy, viết bất chấp mọi lề thói trong
nghề, chỉ tuân theo một luật chơi duy nhất là nói những điều đào sâu
chôn chặt trong lòng. Những sinh thể kỳ dị vốn có sức sống lạ lùng, câu
chuyện về lão Tôn (Tôn Ngộ Không) nứt ra từ đá đã nói rất hay về điều
đó. Về phần mình, mượn cách nói mà chính tác giả đã dùng, văn chương
Nguyễn Huy Thiệp có phần giống “con gái thuỷ thần”, hoặc một thứ con
hoang, kết quả của những cuộc lang chạ đầy đau khổ. Chỉ có điều là phong
cách con hoang dị dạng đó lại biết nói về những nét đặc trưng của cuộc
sống hôm nay đích đáng, mà ta không thể tìm thấy trong bất cứ phong cách
nào khác. Có phải đã đến lúc lối sống, lối nghĩ tự mệnh danh là tinh tế
ý nhị đã trở thành vô nghĩa; mọi điều phải trái xưa nay lấp lửng phải
được nói toẹt cho rõ ràng; mọi sự ngộ nhận phải được đính chính? Và như
vậy thì lối viết lạnh lùng, suồng sã, không cái gì là quan trọng, cái gì
cũng muốn nói tuột ra – lối viết ấy có cái lý của nó.





Trừ một vài cây bút “chuyên đề”, còn đối với phần lớn các nhà văn ta
hiện nay, thực tại lịch sử thường là một cái gì xa lạ. Con người tác
giả, con người bạn đọc thường lo sống sát với nhu cầu hàng ngày. Ai dám
tự nhận biết rõ khuôn mặt lịch sử mà dây vào cho phiền? Ở chỗ mọi người ngại ngùng, Nguyễn Huy Thiệp lại sẵn sàng “lĩnh đủ”.
Sự định hướng trong cách hiểu đời sống trước mắt mạnh mẽ đến nỗi nó chi
phối luôn cách khai thác lịch sử và khơi mào cho những hư cấu, có thể
là bịa đặt mà không dễ gì nghi ngờ. Và thế là trong những thiên truyện
như Kiếm sắc, Vàng lửa, chất dã sử và chất hiện đại có dịp thâm nhập vào nhau, tạo ra những món ăn lạ miệng cho trí tuệ. Sở dĩ một thiên truyện như Tướng về hưu như khắc vào đầu óc ta, một phần vì ở đó, tác giả biết trình bày hiện tại như một cái gì đó đã thuộc về lịch sử, còn trong Vàng lửa, Kiếm sắc, người
viết lại nhìn lịch sử bằng con mắt ngày hôm nay. Biết nhìn hiện tại như
lịch sử thì có thể tránh được những yêu ghét cá nhân vớ vẩn, những run
rẩy vô lối mà đám nghệ sĩ kiêu căng và yếu lòng thường có. Còn biết nhìn
lịch sử như hiện tại thì tuy có thể mang tiếng suồng sã nhưng sẽ tránh
được những cái chắp tay vái dài trước người xưa và biết sử dụng lịch sử
như một phương tiện để hiểu hiện đại (Người sành văn học phương Đông có
thể bảo ở chỗ này, Nguyễn Huy Thiệp muốn học theo bút pháp lạnh lùng hằn
học của nhà viết sử Tư Mã Thiên, nhưng phải hiểu điều đó như một liên
tưởng hô ứng chứ không phải một sự cóp nhặt cụ thể!).






Ở cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp kể Đặng Phú Lân
nghe xong giọng hát cô Cầm “thở dài, trào máu ra từ ngũ khiếu”. Hôm sau
“Lân bỏ đi, không chào chủ quán cũng không hỏi người khách trẻ tuổi với
cô Cầm chủ quán”. Tại sao? Người ta đoán rằng sau những im lặng và cái
hành động giật cục của nhân vật võ biền là mối xúc cảm lớn lao không nói
lên lời.Cách bày tỏ tình cảm kiểu này của nhân vật Kiếm sắc là một
gợi ý tốt giúp chúng ta hiểu mạch trữ tình kín đáo nơi văn Nguyễn Huy
Thiệp. Chắc hẳn trên khuôn mặt nhàu nát kia còn những nét trữ tình ẩn
giấu không dễ mấy ai nhận ra. Chẳng thế mà thỉnh thoảng vẫn bắt gặp
những thoáng rưng rưng của tác giả khi nói về những con người yếu đuối
trước trận cuồng phong của lịch sử, hoặc về nỗi cô đơn của người nghệ
sĩ. Trong phạm vi của một cái gì manh nha hé mở, chúng ta cảm thấy tác
giả muốn đưa hình ảnh cô Cầm ra như là biểu hiện của cái đẹp và sự yếu
đuối, những thứ mãi mãi còn lại trên cõi đời này và càng hiếm lại càng
đáng quý. Giữa cuộc sống nghiệt ngã, phải chăng đây vẫn là một phần lý
do để mỗi chúng ta sống, hy vọng vào cuộc sống? Chính thế! Mà trước hết,
sự sáng tạo văn chương phải được hiểu theo nghĩa đó. Khi cái ác được viết ra, tức là có điều kiện để đẩy lùi nó. Mỗi lần nghệ thuật chiến thắng là một lần cái thiện chiến thắng.




Với thói bi phẫn thường trực, ở cuối Kiếm sắc, Nguyễn Huy
Thiệp viết rằng công việc viết văn phức tạp, nhọc nhằn, lại buồn tẻ nữa.
Nhưng tôi ngờ có lúc Nguyễn Huy Thiệp sẽ thấy mình nhầm! Cái việc oan
nghiệt ấy cũng rất thú vị, dù chỉ là một thứ thú vị kiểu Xi-díp
(Sisiphe). Nếu tác giả không cảm thấy trước, thì làm sao tác phẩm của
anh có được cái hấp dẫn ma quái với bạn đọc như nó đang có?


Bài đăng
trên Văn Nghệ , 1988,

Đã in
trong Những kiếp hoa dại, 1993
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 05, 2015 19:10

October 30, 2015

Con người và xã hội Việt Nam qua truyện Tấm Cám

Người Việt có câu:


Bầu ơi thương lấy bí
cùng


Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn.


Xưa nay mọi người vẫn
cho rằng câu ca dao này nói đến sự đùm bọc lẫn nhau giữa những người nghèo khó.
Thế nhưng đọc nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thấy ông gợi ra ý khác. Ông Trường
cho câu này là lời kêu than của kẻ bị trị với người thống trị. Sống trong một
giàn đấy, tức trên một địa bàn cư trú trong một xã hội, nhưng là khác giống,
khác cấp độ, khác hẳn nhau về vị thế. Nên mới kêu rằng hãy thương lấy chúng tôi
với. Chứ giữa những người nghèo khó, làm gì có sự khác giống mà phải kêu gọi
vậy?

        
Tôi cũng học theo cách đó, thử nhìn khác đi một chút về truyện Tấm Cám.


Đọc lại từ các bài tập đọc ở
tiểu học cho đến cả các giáo trình  dạy về văn học dân gian ở các trường
đại học, thấy người Việt trong các truyện xưa thường được miêu tả như là chịu khó
làm ăn và sống trong tình nghĩa gia đình làng xóm. Và người ta lấy Tấm ra để
làm ví dụ. Tấm tuy bé nhỏ nhưng là người chăm chỉ  nết na, ở với bà
lão thì quán xuyến việc nhà, được làm hoàng hậu rồi mà đến ngày giỗ bố vẫn về
leo cây hái cau.

Tấm trái ngược hẳn với
Cám và mẹ Cám.

Trong cuộc kiếm sống khó
khăn, loại người như mẹ Cám nhìn các đồng loại của mình như kẻ thù,
thấy ai tìm được cái gì hơn mình, liền tìm cách hãm hại.

Do cách kiếm sống kiểu đó,
ở họ hình thành những phẩm chất bẩm sinh đáng sợ. Cả trẻ loại mới lớn
 nứt mắt  cho đến người lớn đều ranh vặt và dối trá. Người ta
 chỉ có thể hiểu được điều này nếu nhớ lại Cuội nhân vật trong một truyện
cổ tích cùng tên. Truyện Cuội cũng thuộc loại truyện lâu đời
nhất như Tấm Cám. Trong tâm thức người Việt, Cuội tự nhiên là
thế, không ai chê cười cả.

  Cám sẵn thói
tàn ác. Bà dì ghẻ không muốn cho Tấm đi hội nên đã trộn gạo vào thóc bắt Tấm
nhặt. Một sự hành hạ tinh vi.

Khi Tấm đã thành hoàng
hậu, về thăm nhà, bà lại  bảo Tấm trèo lên cây cau hái cau cúng bố, rồi
lén chặt cau để Tấm ngã chết tươi.

      Từ bấy trở đi, bao nhiêu
lần Tấm tìm cách tái sinh là bấy nhiêu lần mẹ Cám xui con tận diệt dấu
vết. Nào là làm thịt chim, nào là đốt khung cửi. Cách con người trị nhau ở đây
phải nói là rất dã man. Nhưng nếu không tự dối lòng, ta phải công nhận nó miêu
tả đúng cách quan hệ với nhau của người  phương Đông. Có lần tôi đọc
một tài liệu viết việc tòa án Tiệp điều tra một vụ án mạng có liên quan tới
người Việt. Khi thấy nạn nhân bị chọc thủng mắt, họ kết luận hung thủ chắc chắn
phải là một người Việt khác, không thể là một người Tiệp được, vì hành vi quá
man rợ, không thể có trong thế giới văn minh. 

      Gần đây đọc bài Những
chuyện động trời về người Việt Nam ở Ba Lan
 lại càng thấy rõ điều đó.

 Tại sao lại có sự
miêu tả kỹ càng về mẹ con Cám như vậy?

      
 Khi kể lại cho nhau nghe Tấm Cám, người mình rất rạch
ròi. Trong đầu óc ông cha ta -- và đến lứa chúng ta bây giờ cũng vậy, người
Việt chỉ là Tấm thôi. Chứ còn Cám ấy ư, là người nước nào ấy, chứ không phải
người Việt. Cũng như ta hay hiểu ngẩm với nhau trong lịch sử những Lê Long
Đĩnh, Trần Ích Tắc, thậm chí cả Gia Long, Tự Đức, Trương Vĩnh Ký Hoàng Cao
Khải… cũng không phải người Việt, khi nhận xét cái hay cái dở của người Việt
không ai tính đến họ.

Nay nếu từ bỏ cách xem
xét phiến diện đó, xem các nhân vật đều có ý nghĩa đại diện như nhau, thì phải
nhận Tấm Cám đã  đi khá xa trong việc khái quát tính cách
người Việt.

Bây giờ để trở lại với
nhân vật Tấm, tôi muốn bắt đầu bằng một người Việt khác, người Việt số một
trong tâm thức dân gian. Là nàng Kiều.

 Trong một báo cáo
của các nhà nghiên cứu  nước ngoài tại hội nghị VN học 1998, tôi
 thấy họ nói là Truyện Kiều cũng được truyền  sang  Nhật,  tức có một variant tiếng
Nhật, nghĩa là bản dịch thoát, dịch theo kiểu làm biến dạng chút ít như người
Việt đã làm. 

 Lạ một điều là nhân vật Kiều trong tiếng Nhật lại có nghị
lực chứ không chỉ than khóc khi gặp nghịch cảnh rồi bằng lòng với sự đầu hàng
dễ dàng biết chấp nhận số phận như Kiều ở VN.

      
 Về phương diện bất lực và lối phản ứng thụ động trước cuộc đời, Tấm rất gần Kiều. Động một tí là
giở trò than khóc để sau đó hoàn toàn trông mong vào sự cứu giúp của các thế
lực bên ngoài, tức cũng là trông vào vận may mà số phận run rủi cho gặp. Toát
lên từ cả câu chuyện ta thấy nếu cuối cùng Tấm có hạnh phúc thì phần lớn là nhờ ở hiền gặp lành chứ  không thể gọi nàng  là người biết lo liệu cho cuộc
đời mình.

      
  Cách nghĩ sống bằng cầu xin và ăn may không phải đọc quyền của Tấm.

 Trong khi diễn đạt
những bước đường đời của con người-- cả trong sự lẩn tránh rủi ro lẫn truy cầu
hạnh phúc,  các mẩu truyện dân gian còn cho thấy một nét tâm lý trên
của Tấm rất  phổ biến trong người Việt.

 Bằng chứng có thể
lấy ngay trong Tấm Cám. Hãy nhớ lại đoạn Tấm đánh rơi giày, vua cho
gọi mọi người đến thử. Có phải là một hai người nào đâu mà hầu như là tất cả
đàn bà con gái đi hội đều chen nhau đến để ướm chân vào giày,
người nào người
nấy tự nhủ nhỡ biết đâu chân mình vừa giày thì sao. Ảo tưởng đến thế là cùng!

Trở lên đã nói về
nét  man rợ trong nhân vật mẹ Cám. Oái oăm thay, bên cạnh chỗ khác mẹ con
Cám, ở chỗ này Tấm rất giống họ. Tấm không gây ra thù. Nhưng trong cách báo thù
Tấm cũng man rợ. Nào là xui Cám nhảy xuống hố để đổ nước sôi  cho chết.
Nào là chặt đầu Cám làm mắm gửi về cho mẹ.

Theo chỗ tôi đọc được thì cả nhà văn
Tô Hoài cũng  không muốn chấp nhận cái chi tiết ghê rợn này. 

Trong 
một văn bản Tấm Cám do chính ngòi bút Tô Hoài viết ra, chi tiết cuối cùng bị
tước bỏ.

Riêng tôi thì tôi 
vẫn tin  chi tiết đó là càn vì nói đúng cái chất người của Tấm.

 Cái lý của tôi –
ta phải nhìn vào  sự thống nhất trong tính cách nhân vật.

Cái may của truyện Tấm
Cám
 còn lưu truyền trong dân gian là ở đó nhiều câu đối thoại được ghi
bằng lối nói có vần, khiến cho người kể trong thời hiện đại không thể  tự
ý xoay cau chuyện theo ý mình.

Cuộc đấu của Tấm và mẹ
con Cám diễn ra qua nhiều công đoạn. Khi Tấm trèo cau bị mẹ Cám chặt cau cho,
Cám được đưa vào thay; Tấm  hóa thành chim vàng anh thì bị Cám nghe mẹ bắt
làm thịt  rồi đổ ra vườn. Chỗ lông chim mọc lên hai cây xoan đào, vua rất
thích ngồi dưới bóng cây hóng mát. Cám mang chuyện ấy lại về nhà mách mẹ.
Mẹ Cám bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi.

Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi
vào dệt lúc nào cũng nghe từ khung cửi cất lên những lời đe dọa:



Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị.


Chị khoét mắt ra.





Từ đây đến chỗ xui 
Cám ngồi dưới hố để dội nước sôi cho Cám chết và làm mắm gửi mẹ Cám là chuyện hoàn toàn hợp lô gích.

Có bạn sẽ bảo phải làm
thế mới trừ tiệt được cái ác trong xã hội. Nhưng cũng là ảo tưởng mà thôi, cái
ác trong xã hội Việt chưa bao giờ cạn kiệt và như chúng ta thấy càng sang thời
hiện đại, nó càng bùng phát.

    
  
Với tư cách hậu thế, những
người đọc hiện đại chúng ta không thể tùy ý kể lại chuyện xưa theo ý mình.
 Chẳng những thế nhìn thẳng vào hoàn cảnh sẽ thấy nay là lúc những vấn đề
của người xưa cũng đang ám ảnh  chúng ta. Ví dụ không xa: trường hợp cái ác trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều người mới đầu rất ghét về sau vẫn  say mê ông – và
đây có lẽ là trường hợp duy nhất trong văn học sau 1945, một người viết văn
vượt thoát khỏi sự thù ghét của dư luận chính thống. Tôi ngờ rằng  nếu chỉ
miêu tả cô Tấm hiền hậu thôi, thì nhân vật loại này sẽ chét yểu ngay từ đầu.
Trong cuộc sống của người Việt, cái ác  có mặt khắp nơi. Trước khi bàn
chuyện vượt qua cái ác thế nào, sự ghi nhận đầy đủ nó là cần thiết. “Khi
cái ác được viết ra, tức là có điều kiện để đẩy lùi nó. Mỗi lần nghệ thuật
chiến thắng là một lần cái thiện chiến thắng.
” Đây vốn là một câu tôi đã
viết trong bài Khuôn mặt nhàu nát—tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp,
 và đưa vào sách Những kiếp hoa dại (1993) nay lại muốn  tự trích
dẫn ở đây  mong được bạn đọc chấp nhận.  








MẤY
NÉT VỀ XÃ HỘI VIỆT TRONG TẤM CÁM

 Con người đã vậy,
bây giờ nói về xã hội.

Xã hội trong Tấm
Cám
 có thể quy vào một  đặc điểm chính -- xã hội đó rất hoang dã.
Con người còn trong tình trạng tư duy hái lượm, nhặt nhạnh ở thiên nhiên cái gì
thì có cái đó. Trong lời dì ghẻ dặn Tấm có câu văn vần “Chăn trâu thì chăn
đồng xa—Chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu
”. Rõ là một xã hội trong đó con
người sống thu mình trong lũy tre xanh, ở trong làng thì tạm thời còn có kỷ
cương, chứ ra khỏi làng tha hồ làm bậy. Và sự xui nhau trốn tránh các loại lệ
làng đã là phổ biến.

Ước mơ tận cùng
của  dân đen trong cá làng xóm là có triều chính có vua. Nhưng triều chính
ấy ở cách làng mấy bước chân,  nên dù tha hồ tưởng tượng người ta 
cũng chỉ thấy nó chẳng khác làng quê. Tôi không khỏi thích thú  mỗi khi
nhớ lại mấy câu văn vần:   

Phơi áo chồng tao

Thì phơi bằng sào

Chớ phơi bờ rào

Rách áo chồng tao.

Đấy là khi Cám đã thay
vào vị trí hoàng hậu của Tấm, vào một ngày Cám giặt áo nhà vua thì bị Tấm trong
thân xác chim vàng anh bay đến mai mỉa vậy.

Vợ vua gì mà đoảng đến
độ phơi cả áo vua lên hàng rào? Cung điện gì mà áo vua ở mức lý tưởng nhất cũng
chỉ phơi bằng sào? Đó thật ra chỉ là nơi ở của thủ lĩnh làng xã, chúng ta gọi
là hoàng cung cho sang trọng.  Các danh xưng  của quốc gia là do đi
mượn, các thứ cung điện, triều chính… chỉ là một thứ ấu trùng. Trình độ tổ chức
của xã hội ấy quá thấp.

Có thể tin được điều này
nếu đọc lại các bộ sử cổ mà trước tiên là bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
Nhờ học được người Trung Hoa nên ông cha ta có thể  tạo ra một sinh hoạt
triều chính nối tiếp, nhưng sinh hoạt đó rất thô sơ.  Đọc sử đoạn ghi về
thời Trần có khi  thấy mấy vị hoàng tử tranh nhau cả cái áo, ông nọ bảo
ông kia rằng ngôi vua tao còn nhường cho mày, sao cái áo lại còn đòi. Cũng đời
Trần có chuyện vua ra ngoài thành chơi bị cướp mất cả ấn tín. Hoặc thời Lý đâu
có lệnh là các quan vào chầu không được nhổ quết trầu ra cung đình.

Khi viết những dòng này,
tôi hiện không giữ bên mình  những ghi chép từ  ĐVSKTT , nên
 chỉ ang áng nhớ như trên, dịp khác sẽ dẫn số trang số dòng  chính
xác. 

Nhưng qua mạng tôi có đọc được và sao chép lại một văn bản quý kể về Lê Hoàn, xin
“dán” lại một đoạn; đoạn văn giữ nguyên, chỉ làm giãn các ý ra bằng cách liên tục xuống dòng giúp các
bạn dễ đọc.




Đây là hình ảnh Lê Hoàn
dưới con mắt viên sứ nhà Tống:

“Cuối mùa thu năm ngoái,
đến cõi Giao Châu, Lê Hoàn sai Nha nội Đô chỉ huy sứ là bọn Đinh Thừa Chính đem
9 chiếc thuyền và 300 quân đến Thái bình quán  để đón.


 Từ cửa biển đi vào
biển lớn, lặn lội sóng gió, trải nhiều sự nguy hiểm. Quá nửa tháng đến sông
Bạch Đằng, đi tắt theo một nhánh hải lưu, cứ theo nước thủy triều mà đi.


Phàm những bến đỗ ngụ
lại có 3 gian nhà tranh, có vẻ mới được sửa sang lại, gọi là ‘quán dịch’.


 Đi đến Trường
Châu, gần bản quốc, Lê Hoàn phô trương khoác lác, dốc hết chiến thuyền ra, gọi
là ‘diễu quân’.


Từ đấy rong thuyền suốt
đêm đi đến bờ biển, cách Giao Châu độ 15 dặm có một trạm nghỉ chân 5 gian
lợp tranh đề ‘Mao kính dịch’. Cách thành 100 dặm khua gia súc của dân ra gọi là
‘quan ngưu’, số gia súc chưa đến một ngàn, nhưng lại nói khoe là 10 vạn. Lại
đốc suất dân ở chung với quân lính, mặc áo tạp sắc, chèo thuyền đánh trống reo
hò. Núi sát bên thành hư trương cờ trắng, cho đó là bày thế trận.


 Được một lát đoàn
hộ vệ rước Lê Hoàn đến, mở lễ giao nghênh .


Lê Hoàn ghìm ngựa
nghiêng người, hỏi thăm Hoàng đế xong, cầm cương đi cùng hàng, lúc ấy lấy trầu
cau ra mời, ngồi trên mình ngựa mà ăn, đấy là phong tục mang hậu ý đãi khách.


Trong thành không có nhà
dân, chỉ có vài trăm khu nhà tre lợp gianh, gọi là quân doanh. Phủ thự trũng
hẹp, trên cửa phủ đề ‘Minh đức môn’.


Hoàn xấu người chột mắt,
tự nói rằng năm gần đây vừa mới tiếp chiến với man khấu, rơi từ trên ngựa xuống
nên chân bị thương, nhận chiếu nhưng không lạy.


Sau khi nhận dụ chỉ thì
rải chiếu mở yến tiệc. 


Lại ra sát mép nước,
diễn trò mua vui cho khách.


Lê Hoàn đi chân đất cầm
gậy tre lội nước xâm cá. Mỗi khi trúng một con thì tả hữu hai bên đều hò reo
nhảy múa.


Phàm khi yến hội, những
người vào dự tiệc đều phải cởi đai áo, mũ mão.


Hoàn thường mặc áo hoa
văn sặc sỡ hoặc áo màu đỏ, mũ thì lấy trân châu làm trang sức, có khi tự mình
hát ‘Khuyến tửu ca’ (khúc ca mời rượu), không một ai có thể hiểu lời của bài
hát.


Thường sai bọn hơn chục
người khiêng một con rắn dài vài trượng đến tặng sứ quán, còn nói : ‘Nếu có thể
ăn được thì sẽ làm thịt nó bày cỗ dâng lên’.


 Lại đóng cũi hai
con hổ đem đến tặng, nói để tùy ý quan sát. [Chúng thần] đều từ chối không
nhận.


Quân lính có 3000 tên,
tất cả đều thích trên trán dòng chữ ‘thiên tử quân’, lương thực thì có lúa đủ
dùng hàng ngày, cho vào giã rồi mới ăn. Binh khí thì có cung nỏ, khiên gỗ, thoa
thương, trúc thương, [binh khí] rất yếu không thể dùng được.


Hoàn tính tình thô lược
tàn nhẫn, kẻ thân cận đều là bọn tiểu nhân.


Cho ở bên cạnh một bọn
50 tên hoạn quan tâm phúc.


Thích uống rượu nô đùa,
lấy chỉ lệnh làm vui, phàm bọn thuộc quan nào giỏi việc thì cất nhắc thân cận,
bọn thuộc hạ xung quanh nếu có lỗi nhỏ cũng giết ngay, hoặc nếu không cũng cho
đánh roi từ 100 đến 200 cái.


 Đám phụ tá nếu có
chút gì không vừa ý cũng sẽ phạt trượng từ 30 đến 50 cái, giáng truất làm môn
lại, khi nào hết giận lại gọi về cho khôi phục chức cũ.


Có một cái tháp gỗ, chế
tác thô lậu chất phác, Hoàn mời [bọn chúng thần] lên du lãm
 . Đất nơi ấy không có hàn khí,
tháng 11 còn mặc áo kép phất quạt
“.

    Với
 văn bản này tôi càng thấy tin  ở cách hiểu của mình về xã hội người
Việt trong  Tấm Cám.

    Tài
liệu này tôi chép được từ trang web của nhà nghiên cứu Hán học Quách Hiền, ở
địa chỉ   quachhien.blogspot.com/2010_09_01_arc...

Nhưng trước đó tôi đã đọc được bản dịch
văn bản này trong tạp chí Tri tân ra trước 1945.  Ứng Hoè
Nguyễn Văn Tố một trong bốn nhân vật lừng lẫy một thời Quỳnh Vĩnh Tố
Tốn
 . Là nhân viên của Viện Viẽn đông bác cổ ông đã làm cái công việc
mở lại nhiều trang lưu trữ. Bản  trên Tri tân sau này đã được in lại trong
cuốn sách  Đại Nam dật sử (sử ta so với sử Tàu). Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam xuất bản, H. 1997, nhưng do cả cuốn có lẽ không phải vị các
nhà sử học đương thời nên không ai nhắc tới nó cả, và hình như bạn Quách Hiền
cũng không biết (?)

Tấm Cám vốn
quá quen thuộc với mỗi người Việt bình thường. Điều cuối cùng tôi muốn nhấn
mạnh là  cho đến thế kỷ XX, chúng ta chỉ có cách nhìn nhận một chiều
về  thiên truyện thuộc dạng tối cổ này, và cứ đinh ninh rằng người Việt
hiện lên trong đó là  rất đáng tự hào , xã hội trong đó là muôn ngàn tốt
đẹp, không thấy nó còn chứa chất rất nhiều nội dung mà chỉ trong hoàn cảnh của
xã hội hiện đại ta mới có thể soi dọi khám phá.

Phụ lục

Tháng 10-2012, Cộng đồng
mạng từng có cuộc trao đổi sôi nổi quanh  một bài văn của một nữ sinh Hà
Nội có liên hệ tới truyện Tấm Cám. Chính tôi đã lấy cảm hứng từ cuộc trao đổi
này để viết  nên những dòng suy nghĩ trên đây các bạn vừa đọc.

Để giúp các bạn muốn đọc
lại khỏi mất công, tôi xin đưa vào Phụ lục văn bản nói trên.




              Bài văn điểm 3 của nữ
sinh nhập vai Cám kể chuyện Tấm


 - Với đề bài "hãy nhập vai nhân vật Cám, kể lại chuyện
cổ tích Tấm Cám", một nữ sinh THPT ở Hà Nội đã có bài viết "đặc sắc".






Tôi là Cám, tôi sống với mẹ tôi và con của dượng tôi vì bố nó chết
lâu rồi nên mẹ con tôi nuôi nó. Nhưng tôi cũng không ưa nó lắm vì nó
lúc nào cũng ra vẻ làm chị. Hàng ngày nó cũng khá chăm chỉ vì
việc nhà, tôi thấy cũng cỏn con: cho lợn ăn, chăn trâu, nấu cơm, giặt
quần áo… Tôi thấy ít việc đó nó làm hợp hơn tôi vì tôi còn bận
chọn vải may quần áo và đi làm tóc tai. Tôi đang tuổi đôi mươi mà!

Có hôm mẹ tôi giao cho
hai đứa công việc, mỗi đứa một giỏ để đi bắt đầy giỏ tôm cua. Đứa
nào nhanh chân thì được cái yếm đỏ mẹ tôi mới mua đẹp mê hồn. Nhưng
tôi thì có biết lội ao hồ bao giờ, bẩn hết quần áo mất. Con Tấm
thì cứ tìm tìm mò mò đến bao giờ mới xong? Mình cứ đi hái hoa bắt
bướm tí đã rồi về bắt tôm cua sau. Chiều khi tôi ra thì đã muộn rồi,
thôi thì lừa con ngu kia một phen vậy: 

Chị Tấm ơi chị Tấm

Đầu chị bị lấm

Chị ra ruộng sâu mà gội đầu, không về mẹ mắng đó.




Haha, nó đã tin lời
mình, mình phải nhanh tay đổ hết tôm cua tép giỏ nó sang giỏ của
mình mới được. Về nhà được lấy yếm đỏ, và tôi đã có cái yếm
đỏ. 

Một hôm nọ, tôi thấy con
Cám ít ăn, hay để giành một bát cơm của mình. Tôi với mẹ mới rình
xem con ranh đang làm gì. Tôi và mẹ đã thấy nó gọi là:

Bống bống bang bang

Bống ăn cơm vàng

Cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm

Cháo hoa nhà người


thì có con cá bống
bé lòi lên. Tôi và mẹ tính thịt nó làm bữa bống kho. Hôm sau tôi và
mẹ lừa nó đi chăn trâu xa không thì người ta thu trâu. Rồi tôi và mẹ
tôi bắt con cá bống lên ăn thả ruột lại. Giờ nó hết người làm bạn
nhé! Mình phải giấu xương ở xó bếp không nó biết với được. 

Sắp đến vũ hội, mẹ và tôi chuẩn bị
quần áo giầy dép mới cho tôi thật đẹp để kiếm chồng. Hôm đó tôi và
mẹ chuẩn bị đi, con Tấm cũng đòi đi. Tôi tức quá, tôi suy mẹ đổ hết thóc gạo vào nhau cho nó
ngồi mà sàng mà lọc. Haha, sáng mai cũng chưa xong đâu, rách rưới còn
đòi theo quý tộc hahaha… 

Đang chơi hội vui vua ban lệnh thử
giày, ai đi vừa là vợ vua. Mẹ và tôi cùng thử nhưng giầy con nào mà
bé thế, bố tao cũng không ních vào được. Lựa đằng này đằng kia đau
cả chân, bực cả mình đành thôi. Rồi có một con đến thử rất giống
con Tấm nhưng đẹp hơn, nó chỉ gần bằng tao thôi sao lại vừa giầy nhỉ.
Bực quá! Gọi nó thì đúng nó rồi. Vua đưa nó về tổ chức đám cưới
luôn mới sợ. Con này là con ôsin mà, vua mù rồi.

Đến ngày giỗ bố nó cũng biết
đường vác mặt mà về. Bây giờ oai như cóc rồi, bà sẽ cho mày một
phen.

Độc giả Linh Ngân (giới thiệu)




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 30, 2015 07:30

October 22, 2015

Mối quan hệ giữa kiến thức và nhân cách ở người trí thức Việt

Nguyên là bài  Từ kiến thức đến nhân cách, in lần đầu trên tạp chí Tia sáng, 2000 đã in trong tập phiếm luận của VTN Nhân nào quả ấy, 2002 mới đây 20-10-2015 được đưa lại trên mạng Chúng ta.


 Khi chuẩn bị đưa trên blog cá nhân lần này,  chúng tôi đặt lại đề  bài  để làm rõ   ý chính  và phân đoạn lại,  đặt lại các đầu đề nhỏ  để bạn đọc dễ theo dõi
Tạp Chí Tia sáng số ra
01/2000, có đăng bài viết của Bửu Ý nhan đề “Trí thức anh là ai?”
 Đây là
một câu hỏi lớn, cần được nhiều người tham gia bàn bạc.

Dưới đây, chúng
tôi chỉ xin lưu ý một khía cạnh .

Hà Nội mấy chục năm trước có những người vốn dòng dõi quý tộc hẳn hoi,
song lại thường xấu hổ với dòng dõi của mình hễ ai vô ý nói xa nói gần
rằng thời xưa ông tổ họ hoặc gần hơn, cha anh họ đã từng giữ chức nọ,
chức kia, họ thường sầm ngay mặt lại, khó chịu như bị xúc phạm.

Chỉ
khoảng chục năm nay, người ta mới bắt đầu làm ngược lại. Tức là công
khai chấp nhận giá trị dòng dõi, thậm chí sẵn sàng khoe khoang là họ nhà
mình đã từng có người làm đến thượng thư, tổng đốc...

Đối với hai
chữ trí thức cũng có tình trạng tương tự.

Hồi trước không ít người , dù
hàng ngày lao động trí óc hẳn hoi, song rất ngại khi thấy mình được
liệt vào phần tử trí thức.

Người ta cứ muốn lẫn đi giữa mọi người bình
thường, và sẽ rất vui lòng nếu được gọi chung bằng mấy chữ: cán bộ.

Sự
hãnh diện được là trí thức chỉ vừa đến trong khoảng một hai chục năm qua
(ở đây, tôi chỉ nói trong phạm vi tâm thức dân gian, chứ trong các tài
liệu chính thức, hai chữ trí thức được xác định ra sao, lại là chuyện
khác!).


Trí thức là đảo ngược của lưu manh

Lúc coi thường, lúc xem trọng là vậy, nhưng không phải ngay lập tức người ta đã có cách hiểu đúng với các danh từ được sử dụng.

Từ
điển Hoàng Phê ghi: Trí thức là những người "chuyên làm việc lao động
trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của
mình
”.

Đây cũng là cách giải thích bắt gặp ở nhiều từ điển khác
và phù hợp với cách hiểu thông thường của nhiều người.

Ở chỗ này, có thể
có một sự liên hệ: thường nhiều người chỉ hiểu hai chữ lưu manh và vô
nghề nghiệp, là ăn cắp, ăn trộm...

Song có lẽ nên nói đầy đủ hơn: lưu
manh là cả một lẽ sống tùy tiện, bất chấp chuẩn mực quy tắc đạo lý.

Với
tâm lý lưu manh, người ta có thể làm bất cứ việc gì miễn là có lợi cho
bản thân. Quay trở lại với khái niệm trí thức thì phải nói trí thức
chính là đảo ngược trở lại và như vậy, điều quan trọng ở đây không phải
là trình độ kiến thức cao (ví dụ: từ đại học trở lên) mà là phẩm cách
con người.
Trong nghĩa gốc trong trí thức đã bao gồm nhân cách

 Một trí thức chân chính luôn luôn bị ràng buộc bởi những điều
mà họ tin tưởng.

Với họ, cái chân, cái thiện và cả cái mỹ nữa - quan
trọng hơn cái lợi.

 Lẽ tự nhiên dù vẫn là những con người cụ thể có cá
tính riêng, song người trí thức không bao giờ là kẻ tham bạo, lừa gạt,
lười biếng , hiếu danh, tàn nhẫn... Sự khiêm nhường của họ bắt nguồn từ
những hiểu biết sâu xa về mối quan hệ cá nhân và xã hội, họ nhìn những
người ít học một cách độ lượng và bằng lòng với phần đóng góp thiết thực
của mình trong việc thúc đẩy xã hội tiến tới. Hồi cuối thế kỷ XIX, nhà
văn Nga Tsékhov đã nói: trí thức, đó chính là lương tâm của nhân dân.



Quá trình chuyển hóa từ kiến thức đến nhân cách đó đã diễn ra thế nào?

Đằng
sau một kiến thức cụ thể, thường khi ẩn chứa một nội dung nhân văn nhất
định.

Một phát minh trong kỹ thuật, một định lý mới tìm ra trong toán
lý, hay một quy luật ngày càng được kiểm tra là chính xác trong khoa học
xã hội... mang sẵn trong lòng nó một quan niệm về tính hợp lý của đời
sống hoặc là tiền đề tốt để cho người ta có thêm ý niệm đầy đủ về cái
đẹp, cái thiện.

Ở những người lao động trí óc có đời sống tinh thần lành
mạnh, quá trình đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn mà họ theo đuổi đồng
thời cũng là quá trình để bức tranh thế giới trong họ thêm hoàn chỉnh và
mỗi ngày một ít, cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử với đồng loại ở họ
cũng theo đó mà hình thành nên những nền nếp tốt đẹp.

Tưởng như kiến
thức, bên cạnh vai trò cụ thể trong công việc đã được thăng hoa để tinh
lọc lại làm nên nhân cách, và đây mới là chỗ phân biệt giữa "người đọc
nhiều biết nhiều” với các trí thức thực thụ.
Nay là thời mà  ngoại lệ trở nên phổ biến Đặc điểm của tình hình trí thức VN hôm nay là  đang tồn tại nhiều  ngoại lệ. Trong thời buổi xã hội có nhiều biến động, đang tồn tại loại người tuy có tiếng là trình độ kiến thức bậc
cao, song vẫn không phải là trí thức, tệ hơn nữa một số trong họ sống
như lưu manh, hay nói đúng hơn vẫn để cho tinh thần lưu manh chi phối
cách sống (nịnh trên lừa dưới, bon chen, cầu lợi, ham hưởng thụ, độc ác
tàn tệ với đồng nghiệp...).



Tại sao xảy ra tình trạng như vậy? Ở đây có thể có hai giả thiết:

Trường
hợp thứ nhất
, khá đơn giản: có người nghe rất oai nhưng sự thực kiến
thức là kiến thức giả, chắp vá nhặt nhạnh, đương sự đã đạt tới bằng cấp
qua con đường tà đạo, một số trong họ chẳng qua chỉ là những kẻ lợi
khẩu, dễ lòe người chứ thực ra bên trong trống rỗng.



Lại có trường
hợp thứ hai
, hơi khó lý giải hơn một chút. Ở một số người, kiến thức là
thứ thiệt hẳn hoi, họ giỏi giang, họ sâu sắc song nhìn vào cách sống,
vẫn không phải trí thức.

Tại sao?

Trên nguyên tắc, có học hành là có xảy
ra sự thẩm thấu của kiến thức vào con người để biến thành nhân cách.
Nhưng trong thực tế đấy không phải là quá trình xảy ra đồng đều nhất
loạt ai cũng như ai. Chẳng hạn, có những người vì nhiều nguyên nhân khác
nhau (do di truyền, do giáo dục, hoặc do những bất hạnh gặp phải lúc
nhỏ) mà thói gian manh vụ lợi, sự lừa bịp, lối sống hiện đại chung
quanh… đã ăn vào máu, dù có đọc nhiều hiểu biết rộng đến đâu, vẫn cứ
đường cũ mà đi, niềm tin cũ mà sống.

Cái phần tinh hoa của kiến thức khi
gặp một tâm hồn trơ lỳ thoái hóa... thì dừng lại, không đủ sức lay
chuyển hạt nhân tính cách đã ổn định bên trong. Loại người này đặc biệt
lợi hại.

Họ năng động, họ hấp dẫn, họ có khả năng lôi kéo thuyết phục
chung quanh. Nói chung là họ làm được nhiều việc.

Chỉ hiềm một nỗi, họ
chỉ lo đắp điếm cho gia đình, hoặc tạo ra cái tiếng tăm cái uy thế ghê
gớm cho bản thân cũng như phục vụ cho những mục đích tầm thường. Còn như
bảo rằng họ có ích cho nhân quần xã hội thì vẫn không phải.



Vấn đề đặc thù số một  của giới trí thức Việt Nam

Các vấn đề đặt ra chung quanh khái niệm người trí thúc vốn khá da dạng.


một số nước, người ta nhấn mạnh lương tâm trách nhiệm con người trí thức
trước xã hội.

Ở một số nước khác, người ta thích bàn đến mối quan hệ
giữa tự do và phục vụ, dấn thân và "xây tháp ngà" để làm khoa học.

Riêng
ở Việt Nam, theo ý chúng tôi, trong nhiều trường hợp, câu chuyện nhân
cách vân nổi lên rõ rệt hơn cả.

Một khi người ta còn chưa trở thành
chính cái mẫu người ta muốn theo, thì bàn thêm những việc khác làm gì
cho mệt?!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 22, 2015 08:27

October 19, 2015

Chữ đạo văn kia cũng có ba bảy đường

Một vài khía cạnh tế nhị cần cân nhắc

 khi xem xét hiện tượng đạo văn             










      Trong Nhà văn hiện đại  bản in 1989  của NXB Khoa học xã hội mà tôi đang có trong tay, Vũ Ngọc Phan viết về Vũ Bằng tới 17 trang thì trong đó hơn 4 trang dành để đối chiếu một truyện ngắn của Vũ Bằng là  Em ơi đừng tuyệt vọng (in trong tập Để cho em khỏi khổ) với một thiên truyện Những đêm trắng  của Dostoievski qua đó chứng minh tác giả Việt Nam đã lấy của người làm của mình. Cái sự phỏng theo gần đúng nguyên văn nói ở đây theo Vũ Ngọc Phan nó có hại trước nhất cho tác giả; thứ nữa làm cho người ta thêm khinh nhường thể văn tiểu thuyết xem nó như một trò giải trí.


    Mặc dầu vậy cả Vũ Bằng và Lan Khai vẫn là những tên tuổi không thể bỏ qua, mỗi khi cần nói tới lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.

    Thành thử dù dưới đây trong khi tiếp tục câu chuyện gọi là đạo văn  này còn có thể dẫn ra một vài vụ việc khác kể cả những trường hợp mới xảy ra hôm nay, song điều cần nói ngay ở đây: chúng ta không nên hoảng hốt. Các giá trị vẫn đâu có đấy rõ ràng. Khi mọi chuyện không thể một sớm một chiều kết thúc ngay  được thì cách tốt nhất là  tìm cách lý giải nó và trước tiên tìm cách … chung sống với nó.




Những ranh giới rất mong manh

và những trường hợp trắng án

   Xuân Diệu có lần đã kể từ một câu thơ Pháp ông đã làm ra câu thơ rất hay của riêng mình Cành biếc run run chân ý nhi  ra sao.

   Cũng quanh câu chuyện học người  để làm giàu cho mình này trong những lần trò chuyện riêng với ông, bọn tôi còn bắt chợt  được cái ý mà tuy không nói ra nhưng nó toát lên từ cái nhìn từ ánh mắt nơi ông:

-- Các cậu không biết  học hỏi thì chỉ có thiệt.

--….

-- Người tài là người ăn cắp mà phi tang, thậm chí người ta trông thấy mà vẫn phải chịu.

  Cũng liên quan tới Xuân Diệu, mấy năm trước 1975, còn có một trường hợp nữa, bài Ngọc trai trong vịnh Cô Tô. Nguyên đây là một cái tứ do một nhà thơ khác (tôi nhớ mang máng hình như là Xuân Tửu?)  -- phát hiện, Xuân Diệu thấy hay quá và “cướp luôn”. Nhưng vì bài thơ ông làm hơn hẳn bài thơ của nhà thơ kia, nên không ai thấy chướng, ngược lại đều công nhận đó là cái quyền chính đáng của ông.

     Ngoại trừ những trường hợp trắng trợn mấy chữ đạo văn phải rất cân nhắc trước khi sử dụng là vì vậy. Chúng ta hàng ngày sống suy nghĩ ăn uống đọc sách viết văn giữa đám đông các đồng nghiệp vừa cho vừa nhận vừa thẩm thấu của đời vừa trả lại cho đời, chắc chẳng ai dám nói từ sáng đến chiều mình chỉ nói những câu mà không ai từng nói viết ra những câu mà không ai có thể viết.

     Thành thử cái hiện tượng “chí lớn gặp nhau”  không phải là lời cãi lấy được mà trong nhiều trường hợp vẫn là một sự thực.

     Đến khi một mình một bóng trước trang giấy (bây giờ là cái máy tính) thì lại dễ có cảm tưởng của một ông tướng cầm quân khi ra trận có bao nhiêu binh mã phải sử dụng hết, thường thì mạch văn kéo đi, người trong cuộc mải miết hướng tới cái đích cuối cùng, mà không còn nhớ ý này ý kia  đã hình thành trong đầu óc từ lúc nào, mình đã nghĩ ra nó đầu tiên hay là chộp được từ một người khác.

      Đi vào cụ thể hơn có thể coi là trắng án trong mấy trường hợp:

--một là người đi sau lấy của người khác nhưng đó không phải là những câu những bài  nguyên vẹn 100% mà có biến báo có thay đổi;

--  và hai  là cái sự gọi là lấy của người kia mang lại hiệu quả cao.

      Khi tôi say sưa với một ý của người khác và tìm cách đưa nó vào bài viết của mình (nói cho sang gọi là tìm thấy ở đó một sự kích thích),  mặt khác nó được lắp ghép vào bài của tôi một cách tự nhiên như là chính tôi đã nghĩ ra vậy (không phải là cái áo vải vá mụn gấm mà là áo gấm vá mụn gấm, hơn nữa vá một cách đầy tài năng tới mức không ai biết là vá) –  tôi tin rằng không ai nghĩ tới chuyện gọi tôi là “đạo“ cả.

     Không phải là thiên hạ dễ tính hoặc cánh hẩu bỏ qua cho nhau đâu.        Trong trường hợp này mọi người như cùng công nhận cái chân lý mà văn hào Đức B. Brecht phát hiện và với tôi phải coi là  một trong những ý tưởng thú vị nhất của nhân loại thế kỷ XX:

 Khi có sự tranh chấp thì ruộng đất sẽ  [không thuộc về ai làm chủ nó ngay từ đầu mà] thuộc về ai làm cho nó màu mỡ  và khai thác nó một cách hiệu quả  nhất.

   

Những sự  mô phỏng công khai hay là chuyện xảy ra

trong những giai đoạn  văn học gọi là trứng nước 

  Trừ những thiên tài không kể ai cũng biết rằng việc sáng tác ban đầu là một thứ mô phỏng. Thấy người ta làm thì ta bắt chước. Điều này không chỉ đúng với các cá nhân, mà còn đúng với cả cộng đồng. Ai đã có phen trở lại với văn học Việt Nam thời kỳ mò mẫm tìm đường những năm đầu thế kỷ XX thì biết. Nền văn xuôi mới được hình thành  từ một vài chuyện tức khí: thấy  những sách của người Tàu bán chạy thì nhiều tác giả Việt như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu cũng biến báo ra các truyện đăng báo, trong đó cảnh và người đều  được Việt Nam hóa.

   Có phần thọ hơn là những cuốn sách học theo văn chương Pháp. 

   Lịch sử văn học còn ghi nhiều cuốn sách của Hồ Biểu Chánh được làm theo kiểu các tác tác phẩm của văn học Pháp thế kỷ XIX, cụ thể là của V. Hugo.

   Một ví dụ khác: Đầu kháng chiến chống Pháp trong hoàn cảnh phải kéo nhau lên rừng bắt tay làm ra nền văn học mới, nhiều người lúng túng tìm đường và chỉ còn có cách trông vào một phần là những cuốn sách văn học Nga dịch ra tiếng Pháp. Nhà văn Tô Hoài vớ được một cuốn tiểu thuyết xô - viết nói chuyện du kích chiến tranh đúng kiểu công tác tuyên truyền của mình đang cần. Thế là ông rút gọn và cắt nối lại đôi chút, rồi phỏng dịch ra, gọi tên nó là Lão đồng chí  và cho công bố như chính mình viết ra. Được cái tới khoảng sau 1990 nghĩ lại, ông công khai gọi đó là tác phẩm phóng tác và không lấy vào danh mục sách của mình nữa.

      Chẳng phải chỉ  trong văn học mà cả trong âm nhạc hội hoạ -  và trong văn học thì không chỉ trong sáng tác mà trong nghiên cứu - cũng đã có những hiện tượng rất cần được lý giải một cách độ lượng  tương tự. 

     Thử nhìn vào ngành học nghiêm chỉnh như ngành giảng dạy văn học nước ngoài trong các nhà trường ở Hà Nội sau 1954.  Mới từ Việt Bắc trở về những năm ấy đã ai biết gì nhiều về văn học nước ngoài đâu, song cần dạy thì dạy. Một cách mặc nhiên người giảng dạy văn học Nga thì  lấy sách Nga ra mà giảng, người giảng dạy văn học Pháp thì hơn nhau ở chỗ ai đọc tham khảo được nhiều sách Pháp hơn và có gu hơn trong việc chọn ra ý kiến để đưa vào giáo trình do mình biên soạn. 

     Việc tiếp nhận văn học nước ngoài ở ta là thế, cả nghìn năm sống theo Nho học các cụ ngày xưa cũng chưa biên khảo được một công trình nào về văn học Trung quốc, huống chi ngày nay chúng ta đứng trước những đối tượng mới mẻ hơn vả phải làm việc trong một hoàn cảnh khó khăn hơn, ai lại nỡ trách các nhà nghiên cứu văn học nước ngoài hiện đại.

    Lại như đầu thế kỷ XX,  trong việc tiếp xúc với văn hoá Pháp  văn hoá Việt nam nảy ra một bước ngoặt. Ta bỗng nhận ra  ở ta có những thứ mọi người đều có, riêng ta không có. Bởi vậy nhiều thể loại nghệ thuật mới nảy sinh  chẳng hạn âm nhạc.

      Mà sự khai sinh lúc đầu cũng tuỳ tiện lạ lắm, giá ngày nay thì sẽ bảo ngay là đạo nhạc. Tức là hồi ấy nhiều người dựa vào những bản nhạc Tây rồi soạn lời ta và cho phổ biến. Phong trào lan ra theo chiều rộng một người như Trần Huyền Trân từng sống bằng nghề này.

     Vậy mà chẳng ai lấy thế làm lạ vì ai cũng hiểu  rằng nếu không có những bước tập tành đó thì sẽ không bao giờ có một nền âm nhạc của người Việt.

   Lịch sử còn ghi: Mãi tới cuối những năm ba mươi đầu  bốn mươi của thế kỷ XX một số người mới tính việc sáng tác một số bản nhạc độc lập của mình mà Nguyễn Xuân Khoát Hoàng Quý Lê Thương là những người đi đầu.

     Họ vừa làm vừa ngần ngại không rõ mọi việc sẽ đi đến đâu.

     Bởi vậy có lần (trên Thanh Nghị số ra 16-6-1942),Nguyễn Xuân Khoát đã  nêu vấn đề  Nước Việt nam có thể có một nền âm nhạc được không ?

     Đáng chú ý là ngay trong bài này, cái hiện tượng  bây giờ ta gọi là đi thó của người kia đã được ông lưu ý.

     Nguyễn Xuân Khoát viết 

  “Trong công việc đó ( việc soạn những bài nhạc mới  --VTN chú )  tất nhiên  phải tránh hết sức cái lối mà trong văn thơ ta gọi là lối lột văn (plagiat) nghĩa là  định ý hay bất giác  lấy của người này một đoạn lấy của người kia  một câu, thay đổi đôi chút, chắp nối thành một bài  đọc lên nghe cũng có vẻ kêu lắm nhưng không thể che được mắt người thức giả.” .

     Theo tôi cảm hứng chính trong câu nói trên của Nguyễn Xuân Khoát  không phải là muốn  tố cáo một tội lỗi mà là một lời cảnh tỉnh. Ông như một người đi trước biết điều luôn mồm nhắc nhở chung quanh:Cẩn thận đấy khéo rơi xuống vực; cẩn thận đấy kẻo cầm nhầm của người ta lúc nào mà không hay biết -- ông nói điều đó với đồng nghiệp chung quanh mà như nói với chính ông nữa. 

     Vào khoảng 1973 -1974, trên báo Nhân dân có cuộc thảo luận về làm ăn thật thà. Chúng tôi theo dõi cuộc thảo luận với một nỗi lo. Ai cũng thấy khó;  trong khi không đồng tình với tình trạng gian dối, đồng thời vẫn không hiểu làm sao để ngăn chặn nổi cái căn bệnh có vẻ lặt vặt nhưng toàn dân cùng mắc đó.

     Điều thắc mắc ấy trong tôi chỉ được giải đáp cho đến khi  được nghe Nguyễn Khải kể lại rằng về chuyện này nhà văn Nguyễn Đình Thi có một ý rất hay. Ông Thi bảo “Làm ăn theo kiểu tiểu nông manh mún như ta thì làm sao thật thà được!”

    Có nhiều việc lẽ ra không được làm mà người ta phải chấp nhận;  và ở đây không thể thẳng tay với nhau theo kiểu cạn tàu ráo máng.

     Bởi  truy nguyên đến cùng chỉ vì quá nghèo nên mới làm vậy.

     Trở lại cái việc  hôm nay. Chép bài từ sách  của người  mô phỏng và đẩy quá lên nữa là đạo văn…. bấy nhiêu hiện tượng chỉ có thể nảy sinh trong hoàn cảnh một đời sống văn nghệ có nhiều hạn chế ít  quan hệ với các nền văn nghệ khác -  nói như chữ nghĩa thời nay là  ít được  thông tin.

      Thật vậy sắc thái chủ yếu của cái  hành động gọi là đạo văn là chất tỉnh lẻ: nó thường nảy sinh ở những người không được đào tạo cơ bản tạt ngang tạt ngửa đi tắt trong nghề. Họ thường lợi dụng sự nhốn nháo của hoàn cảnh để hành sự. Nhân cuộc thi ở tỉnh A. họ biết các quan chức tỉnh A cũng ít đọc nên lấy bài ở tỉnh B. mang về dự. Hoặc nhân việc các tài liệu nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước 1975 ít  người có  thế là khi gặp được hoàn cảnh thích hợp  có người mau mắn  chép vội những gì sách báo ở đó đã viết làm sang cho mình. Chẳng qua là một thứ gà què ăn quẩn cối xay mà trong cái trọng tội riêng của từng người, người ta có thể nhận ra tình trạng phát triển chung của một giai đoạn văn nghệ.

     

khi ý thức con người còn khá hồn nhiên 

    Con người, như các công trình nghiên cứu tâm lý ghi nhận, không phải ngay từ đầu đã  tách mình ra khỏi chung quanh. Trong chừng mực mà người nọ còn như lẫn vào người kia, thì chuyện cầm nhầm nhiều khi là chuyện vô ý thức.

     Có lần đọc một cuốn sách tâm lý học, tôi thấy  người ta đưa ra một  ví dụ: nhiều trẻ khoảng năm sáu tuổi đang chơi bóng với bạn tự nhiên cầm trái bóng lên. Nó quên rằng lúc đó trái bóng không thuộc riêng mình nó mà thuộc về cả nhóm bè bạn. Nó  quên và tưởng chỉ  duy nhất có mình trên thế giới này. Nhưng cầm về đến nhà nó lại chợt nhớ ra mà mang chơi tiếp. 

   Cái sự tách mình ra khỏi người khác như vậy là loại phản ứng tâm lý chỉ có ở những cá nhân đã trưởng thành. Mà có khi đã đến tuổi  “cổ lai hy” rồi người ta cũng chưa chắc đã tìm ra mình, nó là tiền đề để mọi sự ấu trĩ hôm qua trở lại.

   Xin phép được kể một câu chuyện riêng: cuối năm 1975, tôi có dịp về một vùng nông thôn Thái Bình. Đêm nằm cạnh ông chủ nhiệm đúng vào buổi Đài tiếng nói Việt Nam đang giới thiệu về Nguyễn Minh Châu. Nghe được mấy câu tôi hào hứng bảo ông chủ nhiệm: “Anh nghe xem, đây là bài tôi viết đấy”. Nhưng mấy phút sau thì cô phát thanh viên sau khi đọc xong bài đổi giọng: “Các bạn vừa nghe bài viết về nhà văn Nguyễn Minh Châu của nhà phê bình văn học Ngô Thảo."

     Những năm ấy tôi và Ngô Thảo đang sống chung trong một cơ quan và chung một tình yêu với Nguyễn Minh Châu. Thành thử tôi không quá xấu hổ vì chuyện nhận vơ đó mà chỉ thầm nghĩ cái chính là mình chưa tách ra khỏi bạn.

    Lúc này mới thấm thía cái trường hợp mà Tế Hanh từng kể:

    Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế

   Đọc câu thơ đồng chí tưởng thơ mình

    Cũng vì chưa tách khỏi nhau  nên trong giới  không khỏi có tình trạng như thế này. Tức là trong cơn say chuyện anh A vừa phát hiện một ý thật hay  nói cho anh B. nghe, hôm sau đã thấy anh B đi khắp nơi rao giảng lại y như chính mình nghĩ ra và đôi khi còn nhanh nhảu đưa luôn lên báo. Là người trong cuộc, một vài lần bị cướp trên tay kiểu đó nhiều khi tôi cũng bực lắm, thề sau này không bao giờ thò ra cái ý nào mới cho mấy đồng nghiệp xấu chơi đó nữa. Nhưng rồi có lúc nghĩ lại, nhờ có người đó gợi chuyện mà mình mới nghĩ được ý đó, vậy thì phải cảm ơn anh ta trước. Còn người nào chỉ đi chôm chỉ đi thuổng sẽ không bao giờ đi hết được cái ý tưởng mà anh ta nhanh tay chôm vội đó. Rồi chỉ đến  lượt mình, mình mới đưa được cái ý mà mình phát hiện lên hết độ căng của nó, nó phải gắn với chính mình.    







 …  và những di luỵ lâu đời để lại 

    Nếu truy đến cùng lại phải thấy ở đây có cả những nguyên nhân lịch sử.

    Trong thời trung đại ở nhiều nước phương Đông như Trung quốc Việt Nam quyền tác giả còn là một khái niệm xa xỉ. Nhiều người làm thơ viết văn xong vì nhiều lý do khác nhau không dám đề tên mình bên cạnh. Mà người xem cũng chẳng lấy đó làm chuyện bận tâm. 

   Tác phẩm lưu truyền như một tác phẩm khuyết danh và cả hai bên người viết cũng như người đọc càng thấy nó trôi nổi càng vui. 

    Cũng nên biết thêm là lúc ấy guồng máy phân phối phát hành chưa hình thành; hoặc nói đúng hơn đã hình thành, song tồn tại theo kiểu tự phát mong manh rời rạc. Cụ thể là việc luân chuyển sách phụ thuộc vào mấy bà bán rong sách từ vùng nọ lan ra vùng kia theo kiểu vết dầu loang. Thường xuyên xảy ra cái cảnh một vị hàn sĩ đang đánh võng trong nhà, nghe có người bán sách đi qua thì gọi vào xem chơi. Nhặt được quyển sách hay hay, họ bỏ vài tiền ra mua. Sau một hồi  vầy vò ấn bản, cắt đầu cắt đuôi dựng lại cuốn sách, hoặc đơn giản chỉ là thêm vài chữ bớt vài chữ, người ấy lại thả nó vào thị trường tự do. 

    Cố nhiên, ở đây không loại trừ trường hợp vị tác giả đến sau kia hồn nhiên xoá tên tác giả đi, hoặc dồn tên người chủ cũ đó vào một chỗ  eo hẹp còn  tên mình thì trương ra thật to. 

    Thì đã sao nào - họ nghĩ bụng. Cả cuộc đời này đã là phù vân đã không đáng trọng, thì mấy cái danh hão gọi là quyền tác giả mà làm gì, cả người được và người mất đều không thấy có điều gì phải vấn vương cả. 

     Nếu biết rằng một cách làm văn chương cách hiểu về quyền tác giả như vậy đã kéo dài trong trường kỳ lịch sử, thì người ta không lạ những chuyện tuỳ tiện còn xảy ra đến ngày hôm nay.




Hãy lấy sự sáng tác của mình để thanh minh cho mình

    Tôi nhớ có đọc ở đâu đó một đoạn có liên quan tới Vũ Bằng. Khi bị người ta bắt quả tang chuyện chép từ sách người, ông thanh minh rằng ờ thấy của người ta hay quá thì chép vào cùng đọc, chứ làm chi mà ồn. 

    Tức ông không lấy thế làm điều, mà hồn nhiên bắt qua chuyện khác.

    Với tư cách là một người đến sau trong văn học, bản thân tôi bắt gặp ở mình một tình cảm lạ. Là sau khi nghe Vũ Ngọc Phan tố như trên thì sức hút  của  các văn phẩm của ông với tôi vẫn không đổi.

      Tôi tự hỏi tại sao mình lại có biệt nhãn riêng với  Vũ Bằng như vậy, trong khi với một hai người cùng lứa, từ ngày biết rằng anh ta đã dựa hơi đã làm hàng giả từ một số văn phẩm nước ngoài… thì tôi cạch mặt không bao giờ muốn đọc của anh ta nữa.

      Lý do, anh bạn mà tôi không tiện nhắc tên trên đây thật ra chỉ được cái giỏi luồn lách, chứ ngay những cái của anh 100%, tất cả cũng chẳng ra gì.

     Trong khi đó, Vũ Bằng lại có hồi  ký Cai với những thể nghiệm về tư duy văn xuôi ảnh hưởng sang cả một loạt nhà văn khác như Nam Cao Tô Hoài; còn có Thương nhớ mười hai gợi lại đời sống một thời Hà Nội thực là Hà Nội thanh lịch.

     Với các bạn có lần "tay đã nhúng chàm", tôi nghĩ chỉ có cách ta sẽ viết hay hơn; sẽ tìm ra một viết của ta, một giọng thơ giọng văn của ta. Rồi thì thiên hạ sẽ quên hết thời ta còn non dại trứng nước.

      Đây là một sự liên tưởng mà tôi lấy từ sách vở.

    Hồi trước 1954, ở Hà Nội tạm chiếm, có lần tôi đã được đọc một thiên truyện của Lê văn Trương mang tên Kẻ đến sau. Truyện viết về một người con gái đã có lần nhỡ nhàng với một người đàn ông khác, nhưng sau nhờ giữ được kín đáo nên vẫn lấy được một tấm chồng tử tế. Người xưa vốn kỹ tính, nên anh chồng này khi phát hiện ra mình là một kẻ đến sau thì đau đớn lắm. Nhưng người vợ đã bằng cái hạnh kiểm nết na hiếu hạnh của người đàn bà thời xưa làm cho người chồng phải nghĩ lại và tự hào rằng mình là người hạnh phúc, chắc chắn là hạnh phúc hơn nhiều đức ông chồng tuy được cái tiếng là kẻ thứ nhất làm chủ thân xác vợ, song người đàn bà ấy lại thiếu mọi tư cách của người vợ, người nữ tướng trong gia đình.



     
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 19, 2015 07:38

October 17, 2015

Cuộc phỏng vấn về tuổi trẻ miền Nam trên tuần báo "Khởi hành" 1969

Trên tờ Khởi hành , tuần báo tồn
tại ở Sài Gòn từ 1969 đến 1973, từng có một cuộc phỏng vấn theo dạng mời
bạn đọc viết chung quanh chủ đề tuổi trẻ miền Nam 1969. Dưới đây là một
số trích đoạn các phát biểu hồi đó, chúng tôi chép lại trong sổ tay cho nên không ghi chính xác xuất xứ từng ý một - rất mong bạn đọc lượng thứ.


Buổi chiều bị dí súng sau lưng đi đào đường đào hố. Buổi tối bị dí súng sau lưng đi mở đường lấp hố.

Mãi mãi tuổi trẻ vẫn là tuổi khốn nạn thiệt thòi nhất. Nắm lấy tay nhau chúng tôi đã khóc.

Như một tác giả nước ngoài đã viết, chiều sâu của chúng tôi là vực thẳm, tuổi trẻ của chúng tôi không có thanh xuân.




Tuổi trẻ vốn hiền lành và chân thành với tôi, qua thi ca, tuổi trẻ được
phơi bày là một tuổi trẻ với đầy vết tích, một thứ tuổi trẻ sống sượng,
già cỗi.

Tuổi trẻ bây giờ bất mãn đã nhiều rồi, nên không còn ao ước gì nữa, vì
sợ rằng nếu ước muốn được thì tuổi mình đã bỏ đi thật xa rồi.

Không khí tôi sống không phải là không khí ao ước.

Bao giờ để tôi có thể hãnh diện về xóm tôi ở?

Nhìn hai chữ tuổi trẻ mà tôi phải thao thức một đêm.



Tuổi trẻ chỉ có hận thù và bất mãn. Hận thù và bất mãn trước hoàn cảnh, sự bất lực của mình.

Trong hiện tại, tuổi trẻ đã bị mạo hoá ( làm giả -- VTN chú )và biến thể dưới nhiều tình trạng đặc biệt.

Từng cho rằng người Việt Nam chỉ đáng là người Việt Nam nếu trong đời đã hơn một lần chạy loạn.

Chúng tôi là những kẻ bị đầu cơ tích trữ lạm dụng chiếm đoạt.



Tuổi trẻ bây giờ phải thức đến suốt một ngàn lẻ một đêm hoạ hoằn mới tìm
cho mình một chỗ đứng khả dĩ vung vãi được hạt giống suy tư về ước mơ
thanh bình cho mọi người cùng hy vọng.

… Tuổi trẻ trở về thành thị để ôm đồm thêm những ngày dài thao thức, trở về thôn quê để phó thác thân mình cho bom đạn vô tri.

Không khí tuổi trẻ bị chôn sống tức tưởi trong hiện thực tan nát của xã hội.

Hư hỏng bên ngoài quyến rũ. Chưa có thời đại nào như bây giờ, tuổi trẻ
đã ngấm ngầm, đã phát hiện sự a dua tột cùng của thời đại.



Sài Gòn bây giờ xô bồ và thác loạn. Sài Gòn không giúp gì cho tuổi trẻ
Việt Nam hôm nay cả. Đã lâu – và hiện tại -- tuổi trẻ như một trang sức
bị lợi dụng.

Tuổi trẻ đã bị xã hội bôi đen bộ mặt ngây thơ tội nghiệp mất rồi. Không
bi quan thì phải lạc quan ở chỗ nào? Chẳng ai muốn hiểu chúng tôi cả.
Mấy ai muốn sống với cái tuổi trẻ như chúng tôi.

Tuổi trẻ là lớp tuổi rất nhiều mặc cảm, nhưng lớp trẻ không có một tiếng
kêu đồng nhất, một hướng đi đích thực. Đang phó mặc cho đời tô điểm
mình. Đang rũ riệt trong khắc khoải. Đang lo âu cho mình khi phải làm
người già.



Tôi là ai? Là một người đi lính, thấy ngạt thở, thấy buồn cười, thấy
tuổi trẻ bị đầy đoạ, thấy tuổi trẻ bị dồn vào thế kẹt, vì thế tôi luôn
phẫn nộ, tôi thích những nhà văn lớn mà phẫn nộ như tôi.







M Thảo  viết trong Quán bệnh   Khởi hành 1969

Mỗi
buổi chiều, khi trời tím lại sau những toà nhà chọc trời, tiếng súng
ngoài xa vọng về, và hoả châu sáng trên những địa hình ven đê thành phố,
hàng nghìn người trẻ tuổi chúng ta đã tới đó ngủ tiếp giấc ngủ chiều
ma quỷ. Xã hội này thù nghịch. Thời đại này bất toàn. Hiện tại này xa
lạ và tương lai kia mịt mùng. Đường tuổi trẻ lầy lội. Trời tuổi trẻ mưa
bay. Và những người trẻ tuổi của chúng ta đã tới gặp nhau, như những
cánh dơi vỗ đập rã rời trong một hầm đá tối thẳm. Họ mới mười bảy thôi.
Nhưng đài trán đã nhăn, chân trời đã mỏi, tròng mắt đã tối, hoài nghi
đã là. Họ mới mười tám thôi. Nhưng ngón tay đã gầy, khối sầu đã lớn,
chủ nhật đã buồn, chăn chiếu đã lạnh. Họ mới hai mươi thôi, nhưng tóc
thôi đựng gió, miệng chẳng nụ cười, hồn không ánh sáng. Và họ tới ngồi
đó trong những quán nhạc kia, những quán nhạc như nơi trú ẩn cuối cùng,
nhận những ca khúc sầu thảm lướt thướt làm tiếng nói của mình, chìm
đắm, nhạt nhoà, trong  một trầm tư không đối tượng.

 [So sánh với một bệnh viện]

Bệnh
viện ấy và quán nhạc kia đều cùng một thế giới. Cái thế giới lặng lẽ
của những người nằm bệnh có khác là ở một nơi, người đau nằm trên
giường, ống thuốc cầm trên tay. Và một nơi người đau ngồi lặng, yếu đau
bằng âm nhạc. Khác nữa một đằng người đau thật có bệnh, và một đằng chỉ
là bệnh tưởng đau.




[Từ đó đặt vấn đề nhận đường khởi hành]

Tuổi trẻ cần phải “trang nghiêm đốt lên với nhau một ánh lửa nhận đường”






Tuổi
trẻ bây giờ già nua trước tuổi. Tuổi trẻ bây giờ là thuốc lá đen, cà
phê đen, nghe nhạc thoát lũ loạn cuồng, bất cần thế sự.

Tuổi trẻ nham nhở -- người ta thường nói nham nhở như cuộc đời. Tuổi trẻ
dao động, băng mình đi trong đêm, nhiều lúc muốn cắt đứt sự liên hệ
giữa gia đình thân hữu.



Tuổi trẻ như những tượng đất sét nung sẵn trong lửa đỏ và biết chạy nhảy theo một khuôn mẫu định sẵn.

Người chúng tôi khoác đầy những bùa chú đỏ đen, khẩu hiệu biểu ngữ, bích
chương điên khùng. Tuổi trẻ tôi ngột ngạt như bị giam hãm trong vòng
vô hình xiết chặt thường xuyên. Lo sợ, thôi thúc, chán nản, tuyệt vọng,
nổi loạn bất mãn, hoài nghi, thảng thốt cả trong giấc ngủ.

Tuổi trẻ của chúng ta như những cây măng non, những cây măng không bao giờ là tre cả.



Tuổi trẻ là những tên đầu óc bờm xờm, áo quần hoa hoét, lượn xe từng đàn
ngoài phố. Là những tên hình dung cổ quái trong cách trang phục, vặn
vẹo uốn éo theo những đĩa nhạc kích động ngoại quốc. Như một con vẹt
chính cống.

Tuổi trẻ là những thằng mặt mày búng ra sữa, nhưng cũng từng đám tụ họp
trong cái không khí suy tư giả vờ, buồn nôn, bày đặt của những quán cà
phê văn nghệ đang mọc dậy ầm ầm nơi thành phố này.

Tuổi trẻ là những tên ngơ ngơ trước mọi giáo điều của người lớn để xuống
đường để đả kích hoan hô. Để tụ họp, để hội thảo,-- nhưng đả kích hoan
hô hội thảo cái gì thì cũng chẳng đi đâu. Những tên bé dại khờ khạo.

Điều tôi ao ước nhất là đến bao giờ mới chấm dứt cái cảnh người tôi nặng
trĩu vì giấy tờ hợp pháp. Tôi mong khi đó tôi có thể đi bất cứ chỗ nào
mà không bị một đôi mắt nghi kỵ thù hằn dò hỏi.

Hầu hết những nguời tuổi trẻ phải chấp nhận một liên hệ định mệnh với
thời cuộc. Lý tưởng thì xa vời. Căn bản thì nghèo đói. Muốn hy sinh cũng
chẳng biết hy sinh làm gì và cho ai.Tuổi trẻ mù loà vì mắt đã mở quá
rộng.

Dù sao đi nữa, tuổi trẻ cũng thiệt thòi nhiều nhất trong bất kỳ một cuộc
chiến nào. Niềm khao khát lên đến cao độ trong thế hệ hôm nay: “cho tôi
yêu một lần để tôi chết một đời”.



Đừng bao giờ đòi hỏi ở tuổi trẻ quá nhiều sự hy sinh khi các bậc đàn anh
vẫn thản nhiên hưởng lạc trên mồ hôi và xương máu của tuổi trẻ.

Văn chương chỉ còn là một thứ chất ma tuý để thoả mãn tuổi trẻ

Tuổi trẻ bây giờ đối với tôi thành một danh từ thê thảm và khốn nạn nhất

Tôi đếm trời xanh bằng cỏ cây héo úa, tiêu điều trên quê hương. Tuổi trẻ
của tôi chạy đi chạy lại dưới giao thông hào, nhìn sự chết qua lỗ châu
mai, qua ánh sáng đèn vàng vọt. Ngoại thương, thù hận, bi phẫn đủ cả.

Đánh giặc như điên. Đánh ở mặt trận với tuổi trẻ có súng. Đánh ở thành
phố với tuổi trẻ loè loẹt hippy. Tuổi trẻ của tôi là phá phách tàn sát.
Mộng cuối cùng của tôi điên cuồng và tê dại.

Tuổi trẻ của tôi miệt mài tháng ngày với lửa đạn, với ngón tay trỏ bao lần siết chặt, để tra tấn để huỷ hoại tuổi trẻ bên kia.

Dưới ánh mặt trời nóng nực của cuộc sống rộn ràng, tôi không muốn tranh
nhân chấp ngã, tôi muốn điếc, tôi muốn câm, tôi muốn đui mù để tôi không
còn nhận thức gì được nữa.

Tôi sống ở Mỹ Thọ. Một thành phố mang một phần nào vẻ buồn tỉnh lỵ. Có
lá me bay, có những con đường xanh mát, và rất nhiều những tà áo học
trò. Đó là hình ảnh ngày xưa, bây giờ thì không còn gì nữa, cây đã trụi
lá trơ cành, đường xá loang lổ vì GMC và những người lính đi uống cà phê
mang theo M16, những người con gái 18 với vành khăn sô mười tám tuổi
rưỡi đi lấy Phi Luật Tân.

--------

Một học sinh chia học trò bạn mình làm 4 nhóm

1. Bàn chuyện thời cuộc: ít

2. Học ở mọi không gian và thời gian: cũng ít

3. Bàn chuyện đánh lộn, trả thù: đông hơn

4. Nói tình yêu, nghệ thuật tán gái: nhiều nhất

Thanh niên nông thôn: Sao cũng được



Bài học đầu tiên là cách sử dụng vũ khi ngoại bang.

Kinh nghiệm đầu tay là nghệ thuật giết người.

Thế hệ cha anh của chúng tôi lại âm mưu đặt lên đầu chúng tôi một hệ thống thủ đoạn nhằm chặn đứng mọi vươn lên cần thiết.





Một bằng chứng trong địa hạt văn nghệ
(là) các văn thi sĩ tiền chiến phá vỡ cầu thang khi đã leo được trên
lâu đài bưng bít, chung quanh có thành quách bao bọc. Chúng tôi hiện
diện, họ không chối cãi. Nhưng họ lại quy ước rằng tiếng nói của họ
đặc quyền độc vãng độc lai. Ngôn ngữ của chúng tôi tắt nghẹn từ lồng
ngực, từ ý niệm hình thành. Chúng tôi bị bịt miệng, bị nhận chìm, bị
chôn sống.

(Nhưng)
chúng ta hãy cúi đầu thú nhận rằng chúng ta đã quá ướt át, mềm yếu,
quá e dè sợ sệt, gầm mặt bước đi âm thầm trong công ước cũ không một
lời phản kháng.

 Được sống là may lắm rồi .

Tuổi
trẻ hôm nay chỉ xin được im lặng và ngủ say. Im lặng để làm lại cuộc
đời, để dưỡng sức, và ngủ say để quên đi tất cả. Tất cả xin khai tử để
giữ vệ sinh cho TQ. Quê hương đã băng hoại quá rồi, xin đừng dẫn
chúng tôi làm băng hoại nữa.

Duyên  Anh Ảo vọng của tuổi trẻ





Nhiều khi đi ngang qua những con đường phố gặp những cậu con trai 15,
17 mà đã bắt chước cà phê thuốc lá, ăn mặc lố lăng, tôi thấy ghê tởm và
khinh ghét họ. Nhưng sau những đêm kinh hoàng vì pháo kích, tôi lại thấy
thương mến họ rất nhiều.

Nhiều đêm nghe còi báo động, giật mình nằm nhắm mắt và chắp tay cầu
Phật. Một phần phó mặc cho định mệnh, một phần cầu khẩn van xin.

Về thành phố, (lính) tủi nhục hơn là vui sướng. Một người bạn 3 năm mới
về phép gặp nói với tôi, họ đang làm tình trên xác chết của mình, của bè
bạn chúng mình.

Hai vòm trời ấy (giữa kiếp lính và những ngày nghỉ phép) -- một bên tê liệt, một bên xô bồ.

Chúng tôi mang tâm sự một kẻ đang bị tróc nã, lúc nào cũng muốn đổi mới và đi tìm.

Tuổi trẻ là gì? Một thằng 8 tuổi, một thằng 9 tuổi, thằng 10, thằng 11,
thằng 14 – chúng nó tụ họp theo mấy cái snask bar ở đường Trần Hưng Đạo.
Một xe Mỹ đến, chúng ùa chạy ra lôi kéo, miệng ô -kê, tay dắt mối cho
điếm. Chúng nó có thể là tuổi trẻ không?



Đã đưa trên blog này ngày 27-6-2011
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 17, 2015 01:48

October 12, 2015

Đi tới cùng của hỗn độn sẽ gặp hư vô




Cách hiểu về hư vô từ một câu chuyện cổ



Trong các các bài khóa
đọc trong sách Quốc văn giáo khoa thư học hồi nhỏ, tôi nhớ có
câu chuyện kể một người đi đôi giày mới vào thành phố. Ban đầu, người đó giữ
gìn rất cẩn thận. Nhưng đến quãng nọ, chợt có một bãi lầy, người đó không tránh
kịp, giày sinh bẩn. Nhân đó, người có giày đâm liều lĩnh, không còn kiêng dè gì
nữa, có lúc thục chân trong bùn.
Có thể bắt đầu từ câu
chuyện trên để hình dung sơ bộ về chủ nghĩa hư vô. Hư vô nói ở đây không phải
là một luận giải triết học mà chỉ là câu chuyện của niềm tin và cung cách cư xử
trong đời sống hàng ngày. Tinh thần hư vô cổ dạy người ta vô vi, siêu thoát,
không làm gì hết, chủ nghĩa hư vô hiện đại thì biện minh cho hành động, nhất là
những hành động xấu. Đấy là khi con người không còn xác định nổi đâu là phải,
đâu là trái nữa. Sự  lương thiện ban đầu đành từ bỏ. Tại hoàn cảnh thôi,
tôi đã không giữ được sự tốt đẹp của tôi nữa, chứ lúc đầu, tôi có muốn thế đâu?
Rút cục, mặc dù biết sục chân trong bùn là không nên, người ta vẫn tìm được
cách để tự biện hộ.


Trong hoàn cảnh cụ thể
của xã hội miền Nam 1954-1975, chủ nghĩa hư vô đã nảy sinh ra sao, quá trình
diễn biến của nó, đặc điểm của nó ra sao -- chuyện khá dài dòng  đòi
hỏi nhiều ngành khoa học cùng tiếp cận lý giải. Dừng lại ở một số quan sát sơ
bộ, trong bài viết này, chúng tôi chỉ nói tới một vài khái cạnh của vấn đề, có
liên quan tới đời sống văn học. Mà dù đã hạn chế như vậy, cũng còn là quá rộng.
Văn học ở các thành thị miền Nam trước giải phóng bàng bạc một thứ chủ nghĩa
hư vô nhẹ nhàng, không được nâng lên thành lý thuyết, song chính vì thế lại khó nhận diện. Bản thân người trong cuộc đôi lúc như lảng tránh, từ chối sự can
thiệp của trí tuệ, không muốn vì cho là không thể dùng trí tuệ để hiểu điều gì
hết. Trong hoàn cảnh đó, tinh thần hư vô càng ma mị biến hóa. Nó mang những
đặc điểm chung của chủ nghĩa hư vô từ trước tới nay, đồng thời lại có những
khía cạnh đặc thù mà chỉ ở miền Nam trước giải phóng, nó mới có một
khuôn mặt như thế.


Sản phẩm phụ của thất
bại


Dưới đầu đề Phố
miền Nam
, Nguỵ Ngữ (một cây bút trẻ thường có truyện đăng ở Văn,
Vấn đề
, trước 4/1975) có dựng lại một câu chuyện khá tiêu biểu: Một quán
cà phê buồn bã, những người đến uống là một tốp lính ngán ngẩm tìm chốn mua vui
mà không sao vui nổi. Tốp lính ngày một chết dần chết mòn. Ngay cái đơn vị mà
họ sống cũng vậy, nó như một cơ thể đang thoái hoá:

Danh hiệu tiểu đoàn vẫn
còn tiếng tăm thiện chiến vẫn còn, còn huy chương, còn áo quần lem luốc, còn
trung tá thượng sĩ, còn tham dự hết trận này qua trận kia, còn được tuyên dương
công trạng, nhưng thực ra, chẳng còn gì cả. Lính trẻ có đứa 17 tuổi, và bọn sĩ
quan hầu hết đều trù bị, có thằng mới 20 tuổi… Bọn già mỏi mệt và bọn trẻ chán
nản.


… Một mặt trận kinh
hoàng đã qua, một đêm hiện tại tai ương không biết để làm gì và này mai chập
chùng chết chóc như một chân trời tai ương đi hoài không hết… Chúng tôi có một
xứ sở quê hương mịt mùng thuốc súng để chiến dấu, có một vốn liếng chung để
chuyền nhau tiêu xài với đám gái : anh sẽ ra đi không mong ngày về… Ngay từ
đầu, trong căn bản, sự chiến đấu của chúng tôi đã nuôi sẵn mầm mống thất bại.


Cảm hứng chính toát ra
qua thiên truyện là nỗi cay đắng trước mọi bế tắc, bất lực.  Cuộc sống cứ
như lả đi, người ta nhìn thấy hết mà chịu, không sao gượng dậy .

Hẳn Nguỵ Ngữ đã có tính
toán khi đặt cho thiên truyện của mình cái tên Phố miền Nam.
Có thể xem đó là một thứ bản vẽ thu nhỏ của xã hội Sài Gòn trước giải phóng,
trong cả chiều rộng không gian lẫn chiều sâu thời gian.

Từ 1954 đến khoảng
1963-1963, bắt tay vào việc đắp điếm một xã hội vừa thoát thai từ vùng tạm
chiếm của thực dân Pháp và mới hoàn hồn sau chiến tranh, nhiều người lòng còn
đầy hy vọng. Một miền Nam độc lập, một miền Nam phồn vinh
-- họ tự mê hoặc như vậy, cái mê hoặc của những người thoát chết. Dần dà vài
năm sau, nỗi hoang mang mới len tới, hãi hùng như một cơn gió đen che mờ cả mặt
mày. Cay đắng thấm vào từng lời, thất vọng nghẹn mãi trong họng, người ta gọi
miền Nam là một quán bệnh, -- chữ của  Mai Thảo -- người
ta nguyền rủa cái thực tế diễn ra trước mắt, mà lại dường như ma quái, ở ngoài
tầm tay của mình, không thể nắm bắt, không thể điều khiển, thậm chí mình cắt
nghĩa cho mình cũng không nổi nữa.

Khởi nguyên là hành
động. Có thể dịch câu nói của Goethe thành ra cái ý: con người là hành động.
Nhưng hành động thì cũng có thể thành công, mà cũng có thể thất bại. Từ xưa đến
nay, gần như chưa bao giờ quan niệm hư vô lại dính liền với một người thành
công. Mà dù lúc đầu họ có xa lánh, chối bỏ, thậm chí chẳng hiểu chủ nghĩa hư vô
ra sao, thì tinh thần hư vô vẫn cứ xâm nhập vào họ, lặng lẽ, dần dà. Thực ra
thì chính họ đã đẻ ra nó, rau nào sẽ nảy sâu ấy, nào phải ai gieo rắc gì nhiều.
Trong sự cầm tù của chủ nghĩa hư vô -- chỉ cần thế thôi, có thể biết họ là người
thất bại.

Vậy thì đối với mọi
người, kể cả những kẻ nhẹ dạ vô tư nhất, ở miền Nam trước đây, quan niệm hư vô
là một thứ điểm thu hút, một trạm dừng của tư tưởng. Tựa lưng vào văn hoá
phương Tây, vận động theo một quan niệm duy lý thuần tuý, đôi lúc người ta thấy
mình cũng làm được một cái gì đấy. Kiếm ra tiền bạc. Xây dựng thêm cửa nhà. Đi
đây đi đó. Kịp đến khi nhìn ngay xuống chỗ đặt chân, thấy chiến tranh vẫn tiếp
diễn, bi thảm ngày một kéo dài, thì mới thấy hình như không phải thế. Càng
thành công, lại càng cảm thấy cái vực thẳm ghê gớm của thất bại. Cái phần không
nắm được là bao la, so với cái phần cầm nắm trong tay. Sự đau đớn hôm qua, lúc
còn chui nhủi trong các vùng tạm chiếm của Pháp, có những khía cạnh như là hợp
lý của nó, ở trong bóng tối thì phải như vậy. Sự thất bại hôm nay mới thật cay
đắng, bẽ bàng, hình như đã tiên liệu hết cả rồi, mà nó vẫn tới. Đã vận dụng đến
mọi liệu pháp có được trong tay, đã tính toán thật chi li, đã làm hết sức mình,
vậy mà vẫn thất bại. Trong sự tách rời ngày càng vô lý giữa thực trạng và ý
nghĩa, giữa nguyên nhân và hậu quả, một khu đất tốt đã được chuẩn bị để chủ
nghĩa hư vô tha hồ hoành hành. Không hư vô sao được, khi sống mà không thể dùng
lương tri để xét đoán cuộc sống? Không hư vô sao được khi cảm thấy hoàn toàn mù
loà tăm tối trên đường. Trong Chuyện tình người lỡ vận(Văn số
188), Tô Thuỳ Yên từng dựng lại cái tâm trạng rã rời đó.

Biết đã trễ nên không
thèm hối hả.


Cuộc tình này như chút
đỉnh khoan dung


Của định mệnh cũng có
lần nới thả


Hạnh phúc này như sóng
rã trên sông





Như yêu lại một người
yêu thất tiết


Xót xa này chan đổ muối
trong lòng


Đời lỡ vận một lần nên
lỡ miết


Chí lớn đành đốn sập đốt
ra than





Trong cái bối rối của
thất bại, người ta tìm tới một trăm lý do khác nhau, mà lý do dễ kiếm nhất và
có sức an ủi nhất là "lỡ vận." Nhưng bài thơ không dừng lại ở đấy.
Sau khi cảm thấy như bị lừa, con người tiếp tục tự lừa mình, nạn nhân biến thành
tội nhân, giả dối, trắng trợn.

Ta cứ coi em như hoàng
hậu goá


Dẫu biết thừa em vốn gái
lê dân


Còn ta đây: một vĩ nhân
tàn tạ


Chẳng làm nên công
nghiệp đáng lưu danh





Ta dắt em đi giữa ngày
tháng rối


Như đôi dư hồn khất thực
co ro


Cả xã hội bu quanh cười
cợt hỏi


Em cứ sắm tuồng đi, ta
nhắc cho





Em
làm khôn còn ta ta giả dại


Ngày
bồn chồn ngày, đêm khắc khoải đêm


Ta
tủi thân thêm một lần vượt ải


Nghề
ngông cuồng tập mãi cũng thành quen.





Chỉ cần một chút hư vô thôi, thì khả năng
xói mòn của nó về các phương tiện lòng tin cũng như sức lực đã đủ làm hỏng
người rồi, nữa đây lại là thứ hàng bày bán công khai, phạm vi gây độc của nó
rộng rãi lắm.




Mất lòng tin, mất phương hướng

Thế giới hỗn tạp không sao phân biệt nổi
đâu là chính đâu là tà. Những kẻ theo chính nghĩa bị lột mặt nạ. Cuộc đời này bị những kẻ xấu thao túng, chúng mặc sức hoành hành. Thất bại, những người tốt cũng
không còn giữ được những gì tốt đẹp của mình nữa. Từ bỏ cuộc chơi là con đường còn lại với người từng trải.

Đó là những triết lý chính rút ra từ các bộ
sách chưởng bán đầy ở Sài Gòn.

Nhưng đó lại là thứ thức ăn tinh thần phổ
biến ở các thành thị miền Nam, từ người trí thức đến người bình dân đều đua
nhau tìm đọc. Người mất lòng tin tìm đọc sách mất lòng tin. Tạng người như thế,
thì cần thức ăn như thế,  không thể nào khác.

Qua các tiểu thuyết lớn của Dostoievski,
chúng ta đều biết có một loại nhân vật rất thích thể nghiệm những cảm giác lạ,
thích vạch trần mình trước mặt người khác,  chẳng những thích tra tấn,
đánh phá tư tưởng người khác theo thói đời, mà còn -- với một tinh thần tỉnh
táo đến lạnh buốt đi -- tìm thấy những sung sướng bệnh hoạn khi bị người khác
tra tấn. Theo cái cách riêng của mình, nhiều người ở miền Nam hôm qua, cũng mắc
chứng bệnh vậy. Không bao giờ như trong thời gian từ 1963 trở đi, người ta đua
nhau nói về thất bại, nói về sự nản lòng. Hơn một sự kiện đặc biệt, việc đó dần
trở thành một sự kiện bình thường, lây lan trong xã hội như một thứ mốt, lây
sang cả những người có đầu óc thông thường và quả đã toát lên sâu sắc ở những
người thành thực. 

Từ những sự kiện lẻ tẻ, người ta còn đi
tới cả khái quát. Đấy là khi lòng tin mất đi ; hoang mang và bế tắc, con người
cũng mất luôn cả phương hướng.

Lấy một Võ Phiến làm ví dụ, ngòi bút có
tiếng là cay độc này có lúc thốt ra ngán ngẩm: "Cái bi kịch của chúng
ta là đánh mất  thần tượng của mình
".

Mai Thảo thì từng nói rất hay vì sự quanh
quẩn tại chỗ: Sống và chết tại chỗ. Hoài nghi cũng tại chỗ mà hoài
nghi. Thay đổi cũng tại chỗ mà thay đổi. Cuộc chạy trốn thất đảm và vô ích
nhất. Vì là cuộc chạy trốn không cùng về trước mặt.


Và về bất lực: Cuộc sống dù ngọt ngào tới đâu cuối cùng rồi
cũng giết chết ở mỗi người mọi khả năng mơ mộng và tưởng tượng. Nghìn cửa ngõ
đã mở cho thiếu đi một cửa ngõ hoang đường
.

Nói cho đúng ra, mỗi người chỉ mất đi
những gì mình ngẫu nhiên mà có. Về mặt niềm tin, cũng chưa bao giờ những người ở các
thành thị miền Nam này có được một niềm tin chắc chắn, hơn nữa, một niềm tin
lớn lao, cao đẹp. Chẳng qua là họ chỉ cảm thấy cuộc sống quá bức xúc, muốn kiếm
tiền thật thoả thuê, muốn xoay xoả cho thoải mái hơn nữa, mà chưa được như ý
muốn. Còn như một số niềm tin mà họ nói rằng đánh mất, thực chất chỉ là những
niềm tin giả tạo, tự nó không có ý nghĩa gì hết. Về mặt này, thiên truyện 
sao côi cút
 của Trần Hoài Thư (in trên Bách Khoa 1974) khá tiêu
biểu. Truyện kể lại trường hợp hai thanh niên trốn lính - một người ham thích
các chuyện chính trị, thường chăm chú đọc báo; còn người kia - kẻ xưng tôi
trong truyện - thì ham thích nghệ thuật, tình yêu. Đến quận lị nọ, tôi theo
người bạn kia đến thăm một nhân vật được miêu tả là "nổi tiếng và người
bạn vẫn hằng kính trọng". Hoá ra, đó là một tên chuyên đi lừa bịp. Đến khi
tôi quay về với nghệ thuật, với tình yêu, thì cũng không gì khác là sự phản
bội: người yêu đã đi lấy chồng. Tôi cay đắng, ẩn trốn.

Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt
Nam, có câu chuyện anh chàng nọ mua phải một đàn ngỗng trời. Đặt cọc vào những điều hão huyền, bi kịch của
hai thanh niên trên đây cũng có phần tuơng tự. Vả không phải chỉ một hai người,
mà gần như cả xã hội  hôm qua cũng nhiều phần như họ, cũng đặt cọc vào
những điều hão huyền, cũng tự lừa mình, và cay đắng bị lừa. Biết bao nhiêu kẻ
thiện ý xây dựng cái xã hội đó, như một Võ Phiến, chống cộng bằng tất cả niềm
tin sẵn có, chống cộng như các tôn đồ trước kia tử vì đạo, rồi ra lại vật
mình vật mẩy kêu ầm lên rằng những lời kêu gọi mà mình đưa ra, bị ném vào quên
lãng. Trong nhiều truyện ngắn truyện dài, các nhân vật lính tráng của Dương
Nghiễm Mậu từ các vùng tiền đồn xa xôi trở về thường nhìn Sài Gòn với con mắt
căm thù và cảm thấy mình bị phản bội. Năm 1960, trong khi những Mai Thảo,
Nguyễn Mạnh Côn lòng còn náo nức hy vọng, thì trong tập truyện ngắn Cũng
đành
, Dương Nghiễm Mậu đã cảm thấy một cái gì đổ nát rạn vỡ. Khoảng mấy năm
1970-71, trong tập Nhan sắc, mượn truyện lịch sử, nhà văn này ngả
sang một quan niệm bất khả tri cho rằng lịch sử nhiều khi là bịa đặt tuỳ tiện, sai
đúng lẫn lộn. Sau hiệp nghị Pari, khoảng 1973-1974, ông lại cảm thấy muốn từ giã
tất cả. Ẩn sau những chống phá quyết liệt, cái mầm hư vô thất bại ở cứ lớn dậy
như một đứa con hoang và ngày càng thắng thế. Trẻ tuổi hơn những Võ Phiến, Mai
Thảo, Doãn Quốc Sỹ, không thể nói là Dương Nghiễm Mậu bị ám ảnh bởi những mặc
cảm sâu xa như các bậc đàn anh. Viết nhiều, viết khoẻ, sống bằng ngòi bút một
cách cần mẫn, không thể nói là ông quá bốc đồng và nói chuyện hư vô cho
sang, cho hách, như một vài cây bút non yếu hơn. Lại nữa, trong khi những Thanh
Nam, Tuý Hồng, Thuỵ Vũ, Duyên Anh loanh quanh hết Huế, Sài Gòn, bôi ra mà viết,
thì ông lăn lộn với lính tráng, bay xuống Cà Mau, Đồng Tháp, lên các vùng tiền
đồn xa xôi, năm 1972, có mặt ở Quảng Trị. Trên nhiều phương diện, ngòi bút
Dương Nghiễm Mậu là nhập cuộc là xông xáo, bởi vậy sự thất vọng, bất lực, mất
phương hướng, mất lòng tin ở  ông mới thêm khả năng lây lan hơn hẳn những
người khác.




Sự khủng hoảng các giá trị

Từ sự thất bại, đến mất phương hướng, mất
lòng tin, đã có một sự về  biến đổi về chất. Thăng hoa lên một lần nữa -
thăng hoa như siêu hình học vẫn gọi - đó là chủ nghĩa hư vô. Từ sau đại chiến
thế giới thứ hai, kinh động trước những hoành hành ghê gớm của thứ dịch hạch
phát xít, cũng như hoang mang trước những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật mang tới, con người châu Âu trải qua một cơn khủng hoảng triền miên và
hết sức nghiêm trọng. Những người duy lý bậc nhất đi đến cùng trên con đường đã
chọn, chợt nhận ra đã rơi vào phi lý lúc nào không biết. Con người lại kết tội
con người. Ý thức bị chính ý thức lên án. Trong sự làm ra thật nhiều của cải,
người ta chợt ghê sợ trước tất cả những gì mà mình đã làm được. Nỗi thất vọng
về chính mình chính là và bao giờ cũng là một nỗi thất vọng ghê gớm. Giá như không có phương tiện xoay sở, rơi
vào bế tắc nên khoanh tay đứng nhìn, thì còn nhẹ nhõm; đằng này do quá thừa mứa,
mà cũng do các chủ thể quá năng động, nỗi thất vọng sau hoạt động ấy mới càng nặng nề. Dễ
chưa bao giờ ngôn ngữ nhân loại biết được những lời lẽ diễn tả sự thất vọng sâu
cay như châu Âu hiện nay.  Những tư tuởng hoài nghi, bi quan đó
giống như một thứ thuốc kháng sinh rất độc, xâm nhập tàn phá mọi cơ thể mọi
miền trên trái đất, càng những cơ thể ốm yếu, như cái đất  thực dân cũ ở
Đông Nam Á, thì sức tàn phá của nó càng ghê gớm.

Trong Thư mở đầu của Vấn
đề
 số 4, Thanh Tâm Tuyền, khi ấy là thư ký toà soạn tạp chí, từng than
phiền:

Tình trạng suy nhược tin thần ở Sài Gòn
đang thành một cơn bệnh nặng.


… Sự suy nhược tinh thần dồn người ta vào
một cơn say thiếu máu, nói như những người lên đồng và múa may trong một xã hội
tuyệt vọng. Người ta sợ phải suy nghĩ, nhất là suy nghĩ một mình.


…Náo động trong bưng bít và thụ động
trong mơ ước đều là những chứng mệnh kiệt quệ của một căn bệnh hiểm nghèo.


Tại sao? Thanh Tâm Tuyền không nói rõ, mà
chỉ mô tả một trang thái có thực. Người nhận lấy việc cắt nghĩa này, không ai
khác, lại là Võ Phiến.

 Đây đó, có lúc Võ Phiến có thấy vấn
đề một cách sâu sắc hơn.

Cái gì làm nản lòng hơn, ở thời chúng ta,
ấy là sự sụp đổ năm lần bảy lượt, liên tiếp các giá trị tinh thần (
V.T.N.
gạch dưới). Dân tộc đang sống theo nền nếp, bỗng một cuộc biến thiên đến,
làm xáo trộn cả chiều hướng văn hoá: những nguyên tắc đạo lý hôm qua coi là
thiêng liêng, hôm nay bị chế giễu tơi bời, những tên tuổi hôm qua coi là hiền
triết thần thánh, hôm nay bị xỉ vả là gieo rắc tư tưởng lạc hậu.


Đúng là trong mỗi giai đoạn lịch sử ở mỗi
xã hội đều thấy hình thành cái đó, các giá trị tinh thần. Muốn biết một xã hội
trưởng thành đến đâu, nó có ổn định vững chắc hay không, phải xem xét hệ thống
giá trị mà nó coi là nền tảng. Khi một xã hội đã tao loạn tới mức những chuẩn
mực cho người ta dựa vào đó mà sống đã sụp đổ, trước sau xã hội đó sẽ tan rã.

Khi nói về chủ nghĩa hư vô, các tài liệu
lý luận Đông-Tây không thể không nhắc tới một nhân vật quan trọng là Nietzsche (1844-1900). Trong bài viết về chủ nghĩa hư vô, Bách khoa toàn thư về triết học của
Liên xô sau khi xác định đó là một hiện tượng xã hội, muốn phủ nhận các giá trị
như lý tưởng, khuôn mẫu đạo đức, văn hoá.v.v… còn dẫn ra nhận xét tóm tắt của
Nietzsche : "Hư vô là những gì cao hơn giá trị, bị mất giá trị. Không mục
đích. Không trả lời cho câu hỏi: để làm gì?". Với Nietzsche, việc sáng tạo
các giá trị là sự kiện cơ bản của lịch sử nhân loại. Theo Nietzsche giá trị
quan trọng hơn mọi sự kiện và việc đáng làm nhất là biến đổi các sự kiện ra giá
trị.

Bởi lẽ trước khủng hoảng, những giá trị
cổ truyền gắn liền với niềm tin vào một đấng tối thượng là Chúa, tức với niềm
tin vào môt cái gì bất tử, nay niềm tin đó không còn nữa, mọi chuyện như hụt
hẫng, mất chỗ bấu víu, và lòng người cũng không sao tìm được sự yên ổn, cố hữu,
Chúa đã chết rồi, lần đầu tiên Nietzsche nói, và về sau, bao nhiêu người còn
nhắc lại. Đi kèm với niềm thảng thốt là một nỗi kinh hoàng lây truyền từ người
nọ sang người kia, từ đó ra đời rất nhiều tác phẩm nói về sự hỗn loạn trong đời
sống hiện đại.

So với sự thịnh vượng của châu Âu sau
cách mạng tư sản, cái thời của Chúa, cái thời của sự ổn định mà xã hội Sài Gòn
sau 1954 gọi là có ít ngày thì cũng rất ngắn ngủi, rất mong manh.

Nhưng không phải vì thế mà người ta không
chia sẻ nỗi cay đắng về chỗ  mất đi những mực thuớc để sống.

Làng xóm bị bom đạn Mỹ cày xới. Thành thị
tập trung dân, những mối quan hệ cũ tan rã, những mối quan hệ mới chưa hình
thành, chỉ riêng những xáo trộn đó đã làm nảy sinh bao khủng hoảng. Trên kia,
chúng ta đã nhắc qua những nhân vật người lính của Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật
Nam từ các tiền đồn trở về căm ghét cuộc sống Sài Gòn ra sao. Chiến tranh trở
thành bình thường, người ta vừa phải sống rất căng thẳng, sống gấp cốt sống lấy
được mà không cần nguyên tắc gì hết, lại vẫn phải lo làm ăn  sinh con đẻ
cái, lo học hành vui chơi giải trí, như mọi kiếp sống bình thường. Nếu không
tranh thủ hưởng thụ đi thì đến bao giờ hưởng thụ. Khi đã phải dùng đến quá
nhiều tiêu chuẩn, những tiêu chuẩn khác nhau để xem xét, thì còn biết sao là
phải là trái nữa? Đại khái, như trong cuộc phỏng vấn về tuổi trẻ Việt Nam đăng
trên báo Khởi hành, một bạn trẻ đã sơ bộ gợi ra sự lúng túng của rất
nhiều người.

Nhiều khi đi ngang qua đường phố gặp
những cậu trai 15, 17 mà đã bắt chước cà phê, thuốc lá, ăn mặc lố lăng, tôi
thấy ghê tởm và khinh ghét họ. Nhưng sau những đêm kinh hoàng vì pháo kích, tôi
lại thấy thương mến họ rất nhiều.


Bắt đầu một cách rất giản dị, nhưng những
lẫn lộn trong tình cảm trên đây là gì, nếu không phải là báo hiệu của một khủng
hoảng thực sự, trên mọi phương diện của cuộc sống. Trong bài điểm lại Những
nét lớn về sinh hoạt nghệ thuật 1970
, Mai Thảo cũng nói đến hiện tượng
trống đánh xuôi kèn thổi ngược: "Trong tiếng súng nổ, cả nước đang sáng
chiều nghe nhạc". Nhân một kẻ nổi loạn trong thành phố rồi tự tử
chết, Dương Nghiễm Mậu cảm khái và tìm cách cắt nghĩa: "Hắn đã chết trong
một xã hội mà kẻ phản bội nói trung thành, kẻ dơ bẩn nói trong sạch, kẻ vô hạnh
nói phẩm giá." Dường như chính Dương Nghiễm Mậu muốn thay mặt những người
đã chết nói một sự thật, nhưng điều đó có nghĩa lý gì, xã hội Sài Gòn hôm qua
đủ bàng quan, lạnh nhạt để nhắm mắt trước mọi sự thực tương tự.

Tóm lại, sự khủng hoảng các giá trị, nói
cách khác là những khủng hoảng những thước đo chung, được mọi người công nhận -
thực chất của nó là khủng hoảng các quan hệ lớn trong xã hội. Giữa cá nhân và
xã hội, mọi mối ràng buộc xộc xệch. Trên phương diện thời gian, hoặc hiện tại
quá mong manh mà quá khứ quá nặng nề, hoặc lấy tương lai làm vật hy sinh cho
hiện tại, đủ thứ so le mà cũng đủ chuyện giả trá, hư nguỵ, không sao kiểm soát
nổi. Mà khi những giá trị này đã được "thả nổi" để "tuỳ
nghi", thì sự hỗn loạn không còn là trong phạm vi nhỏ hẹp nào nữa. Không
phải là từng hành động riêng rẽ, mà là toàn bộ hệ thống hành động của người ta
hỗn loạn. Tưởng là quy vào phạm vi tinh thần rồi mọi sự lúng túng sẽ được gỡ
ra, ngờ đâu, đến tinh thần cũng hỗn loạn, thì sự hỗn loạn mới thật là hoàn
chỉnh, và mở đường cho mọi sự hỗn loạn tiếp tục.



Hành động trong tuyệt vọng


 Hamlét vĩ đại vì tầm vóc của những suy nghĩ mà nhân vật này trải nghiệm trước khi hành động. Tồn tại hay không tồn tại, con người bận tâm tới câu hỏi đó có lúc bị người đời coi là bạc nhược. Nhưng biết sao được? Trong lúc chưa tìm được phương hướng đúng, hành động chỉ thất bại, thậm chí là lầm lỡ thêm.


Trong thời đại bế tắc của mình, các nhân vật tích cực của Tchekhov đều đứng đó bơ vơ, lạc lõng. Còn những kẻ hoạt động ở đây, chính là những kẻ bị lịch sử lên án.

Soi vào hoàn cảnh miền Nam trước giải phóng, tình hình khác hẳn.  Chẳng có ai là chịu đứng tách ra không hành động. Nhưng hành động thế nào bây giờ?

 Trở lại với cái câu của Goethe, mà trên kia tôi đã dẫn khởi nguyên là hành động. Có một điều mà người ta hay quên  chính tác giả Faust  là người từng nhấn mạnh thêm : Sự hoạt động làm tê liệt tư tưởng.

Khi người ta chỉ hành động theo thói quen, hành động một cách mù quáng, thì bản thân hành động không thể đúc kết lại thành tư tưởng đúng đắn, và dần dà đó đã là một thứ hành động vì hành động, hành động như là dấu hiệu của bất lực.

Hãy thử nhìn sự diễn biến của hư vô trong lịch sử.

Trong xã hộị trung cổ, khi hư vô, thường người ta im lặng chịu đựng. Cũng
có một số người nổi loạn, nhưng không mang lại kết quả gì đáng kể, cuối cùng thấy rằng lảng tránh
vẫn còn hơn đầu hàng. Mà lại dễ chịu, lương tâm vẫn yên ổn, vì tự cảm thấy mình trong
sạch ""
Sau khi để cho nhân vật Thuý Kiều của mình đi đến cùng của mọi sự phiêu lưu mà
vẫn không được việc gì, Nguyễn Du chỉ còn có cách tìm niềm vui trong quên lãng,
hoặc ở ẩn giữa triều đình, làm một ông quan bất lực. Câu thơ nghêu ngao vui thú sơn hà - mai là bạn cũ, hạc là người quen vận vào đây là vừa hợp.

Ít nhiều hư vô thuở ấy còn là khả thủ, còn chấp nhận được vì
nó bó hẹp trong phạm vi một hai cá nhân nào đó và không dẫn tới bừa bãi phá phách.

Nay thì ngược lại.

Bên cạnh một thoáng tích cực, một trong
những phương hướng phát triển  của chủ nghĩa hư vô ở các nước phương tây hiện đại là nó hướng người tới sự tự do tùy tiện. Khi tự nhủ rằng Chúa đã chết tức là người ta tự bảo muốn làm gì thì làm. Đến với  các thành thị miền Nam trong chiến tranh, cách nghĩ này thúc đẩy người ta sa chân vào con
đường lỗi lầm. Làm giàu một các bất lương, ăn cắp, giả trá, chém giết nhau cho
hả giận, -- gì người ta cũng dám làm. Khi các giá trị đã không còn để làm mực thước thì một ít lệch chuẩn như vậy phỏng có tội tình gì. Mọi hành động xấu luôn tìm được một hành động xấu
hơn để đối chiếu. Mọi hành động xấu ai cũng biết  --  mà lại không thể và không được
xem xét, lý giải nhất là lên án một cách đúng đắn -- sẽ có sức nẩy nở sinh sôi ghê
gớm.

Mối quan hệ giữa hư vô và hành động liều
lĩnh là mối quan hệ hai chiều, cái nọ dựa vào cái kia để tồn tại. Vả lại, nghề
này thì lấy ông này tiên sư
, suy đi nghĩ lại, đã sa chân vào sai lầm thì
chỉ có hư vô là thích hợp hơn cả. Sự quyến rũ của chủ nghĩa hư vô là ở chỗ nó xu nịnh con người; trong quy chế của nó, người ta được tiếp tục làm mọi điều người ta ưa thích.
Một thứ giao kèo đã được ngấm ngầm thoả thuận, không ai nói ra, nhưng ai cũng
nghĩ, thử giao kèo ký với quỷ sứ. Trong bước lầm than của mình, nàng Kiều của
Nguyễn Du, lòng còn trong sáng, tâm trí còn lúc lúc dậy lên những khao khát
chiêu tuyết, làm lại cuộc đời. Nay những người chân sục trong bùn đã đánh mất
luôn cả cái tâm thành  thuần khiết đó, họ trượt dài trên con đường đã chọn, không hối
hận, không ngại ngần. Cho hay, đến ngày giải phóng, khi một cây bút chống cộng
than tiếc - "giờ đã đến cái quãng sông Tiền Đường của đời mình rồi" -  thì một nhà
văn khác cãi lại ngay:

- Làm sao mà họ có thể tự ví với kiếp đời
cô Kiều được?

Ma đưa lối quỷ đưa đường,
như Nguyễn Du đã miêu tả rất tài tình, cuộc đời con người tài hoa có tên Thuý
Kiều là cuộc đời của một con người bất lực, không sao có được cảm giác hiện
thực về đời sống, không sao tìm ra đường đi của mình. Hoàn cảnh xã hội bấy giờ
đen tối mịt mùng chưa cho phép con người nhận thức được những vấn đề cơ bản của
đời sống. Nay với những người hoàn toàn có điều kiện hiểu rõ sự thực, đã thật giả phân minh, hư vô đồng nghĩa với từ chối trách nhiệm, theo thói quen  mà tự lừa dối, vì cầu an mà buông trôi, vì "đã chót nhúng chàm" mà càng nhắm
mắt chống lại sự thực. Làm sao những người ấy lại có thể tự ví với nàng Kiều
được?

Trong tác phẩm, các nhân vật tuyên bố một
lối sống trắng trợn công khai, đại khái như Tuý Hồng từng "đơn ca":

Sống đâu phải là tạo dựng những kỳ công
và gục xuống trên một cái chết không thường ? Sống đâu phải là đặt ra những vấn
đề và day dứt và thao thức. Vấn đề duy nhất của cuộc sống, chính là sống vậy.


Và sống? Là cảm thấy thiên thu trong mỗi
phút giây. Là cảm thấy thiêng liêng trong từng hành động nhỏ. Như ăn uống năm
ngồi. Như chải đầu soi gương… Sống cuồng nộ bất kham. Sống kích động giãy giụa.
Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn theo gió lốc, trườn mình trong sấm sét,
hào hển, thở dốc, ngất ngư cảm giác.


Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam
là gì, nếu không phải là lời tự thú của một thanh niên trai trẻ dần dần đánh mất cái
phần trong sáng của mình, dấn thân vào tội lỗi? Khoảng cách giữa Dấu
binh lửa
 với các tác phẩm về sau của Phan Nhật Nam (Dọc đường số
một, Mùa hè đỏ lửa
) rất rõ, trước tiên là ở thái độ của nhân vật chính với
cuộc đời. Ở quyển sách đầu, đây đó chúng ta có thể bắt gặp một tâm hồn còn run
rảy, còn khao khát. Ở những  quyển sau, chỉ có một thái độ bốc nhập cuộc liều
lĩnh và nói lấy được.

Nét đặc biệt của văn chương Sài Gòn trước
giải phóng là sách vở rất gần cuộc đời, sống sao viết nấy, viết để thể nghiệm
cuộc sống, và thông báo cho mọi người biết về cuộc sống của mình. Phan Nhật Nam
là như thế mà những bậc đàn anh, Mai Thảo và Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn và
Chu Tử v.v.. cũng làm như thế.

 Loại nhà văn sống công chức hoặc
làm nghề giáo trong thời gian đầu dần dần thưa thớt đi, ngày càng thấy những văn sĩ kiêm áp
phe chạy hàng sách và bản thân việc viết  lách cũng là áp phe. Đề tài
gì cũng viết được, mặt hàng nào cũng biết làm tuần chay nào cũng có nước mắt.
Giày đã bẩn rồi, từ nay chân tha hồ thục trong bùn, nhìn ra mọi người lại cũng
lấm lem cả rồi, sức chống đỡ của cá nhân thì mong manh, mà sức cám dỗ của tội
lỗi thì thật ghê gớm. Tấn kịch của những người viết ở Sài Gòn hôm qua cũng là
thảm kịch của nhiều người ở những nghề khác, của cả xã hội miền Nam.



Bài viết này hoàn thành từ 1980 với tên gọi

 Hành động trong tuyệt vọng

 (Vài nét phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng). 

 Chỉ sửa chữa một số chi tiết trước khi đưa lại như trên. 
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 12, 2015 19:48

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.