Vương Trí Nhàn's Blog, page 63
October 6, 2015
Tính cách thương mại của nền văn chương Sài Gòn trước giải phóng.
I.
Lối sản xuất hàng loạt
- Người
trong này làm ăn khiếp thật. Viết cũng khiếp!
- Sao
thế?
- Vào
nhà một cây bút thời danh hồi trước, giờ di tản theo Mỹ, thấy ở phòng làm việc
một quang cảnh rất lạ: mười máy chữ sắp hàng giăng giăng. Mười tác phẩm đang
viết dở, viết lách cứ như là làm cặp, làm giấy, bằng nhau chăn chắn, cái nào
cũng như cái nào, giá kể đóng hộp được, thì không còn làm sao mà phân biệt nổi
nữa.
Câu
chuyện trên đây, tôi nghe được từ tháng 5.1975. Giữa Sài Gòn hoa lệ, hàng hoá ê
hề, chúng tôi sớm nhận ra sách vở cũng là một thứ hàng hoá. Cũng bày bán la
liệt. Cũng màu sắc loè loẹt, mà lại đơn điệu, giống nhau, lẫn vào nhau, rất khó
phân biệt. Dù rằng câu chuyện thuật lại trên đây, không phải hoàn toàn chính
xác với nghĩa của từng chữ, song nếu hiểu theo nghĩa khái quát
một chút, thì đúng như vậy. Có sự sản xuất hàng loạt tác phẩm. Có lối viết,
lối "hành hạ máy chữ" ghê gớm, như chạy đua theo thời gian, như để
đuổi bắt một điều gì đấy ở phía trước dù sau một thời gian nghĩ lại, thì chẳng
có mục đích nào khác, ngoài… đồng tiền.
Kể làm
sao hết "tên tuổi" của những người viết truyện nhật báo ở Sài Gòn
truớc đây. Từ những giọng văn thật thà đơn giản, đến những cây bút kiêu kỳ, bay
bướm, đài các. Từ những kẻ sở trường về văn, về truyện, tới những người trước
đó làm việc ở một ngành sản xuất có vẻ tuỳ hứng bất thường là thơ… Tóm lại là hầu
như phần lớn các "văn sĩ thời danh" ở Sài Gòn trước đây đều tham gia
đội ngũ "những người viết truyện nhật trình". Gọi họ là "tài
giỏi" thì sao bằng nhận xét đích danh là họ đã làm ăn khá dễ dãi, chiều
theo thị hiếu, làm xói mòn khẩu vị người đọc về rất nhiều phương diện. Trong
những ngành kinh tế, sự sản xuất hàng loạt phải được khuyến khích, nhưng ở văn
chương thì thật là không thể tha thứ. Trong số lớn trường hợp, nó chỉ đẻ ra
"những đứa con" giống nhau như lột, chúng chen chúc nhau, lẫn lộn với
nhau, tới mức chính những kẻ đẻ ra chúng cũng không nhớ cả thẩy là bao nhiêu
nữa.
Thử
hình dung ra mấy khâu trong công việc "sản xuất văn chương" trên đây:
- Thứ
nhất là điều tra thị hiếu, điều tra thị trường. Phác thử xem lúc này người đọc
đang thích đọc gì? Với nếp sinh hoạt vật chất hiện nay, thì sinh hoạt tinh thần
sẽ có những nhu cầu gì? Viết loại truyện gì sẽ ăn khách?
- Thứ
hai: sản xuất thử, sản xuất chào hàng, đồng thời dùng quảng cáo (bao gồm các
phương tiện thông tin hiện đại, các nguồn báo chí, phát thanh…) để lăng xê
mốt, kích thích và mời gọi người đọc, người xem.
- Thứ
ba: sản xuất theo quy trình đã được nghiên cứu, có tham chiếu nhu cầu người
đọc. Và bây giờ mới thật sản xuất hàng loạt, sản xuất thật nhanh, để làm nên một hiện
tượng, tạo ra một thứ thời trang thật sự.
Và cũng phải sản xuất thật nhanh,
thật nhiều, để tới tấp đổ về người đọc, làm cho người ta đón nhận, không kịp
phản ứng chi hết, phải vơ cho vội, đọc cho xong.
Nếu
chậm, nếu để cho người đọc nhẩn nha suy nghĩ trên tác phẩm ấy ư? Một là sẽ bộc
lộ các thứ nhược điểm của mình. Hai là bị các đối thủ cạnh tranh, có những món
thời trang khác ăn mất khách.
Những
ví dụ về sự sản xuất hàng loạt không sao nêu hết. Mai Thảo với những truyện
tình không thể nào gọi cách nào khác hơn là "rẻ tiền". Duyên Anh với
loạt truyện viết cho trẻ em mà nhân vật trở đi trở lại nhiều lần là Trần Đại. Những
"quái kiệt" nổi tiếng khác trong văn giới: Tuý Hồng, Thuỵ Vũ. Cuối
cùng "văn chương công nghiệp" được hoàn thành với những cái tên Dung
Sài Gòn, Nguyên yêu, Đạt cô đơn, loại sách về Hít-le, về thế chiến thứ hai và
về các nữ hoàng dâm dật. Dễ thương vừa ăn khách, có ngay Dễ ghét
bổ sung. Nối tiếp sau Bày con trai, dĩ nhiên có Bày con gái, đối
nhau chan chát. Và cứ đà ấy mà "thừa thắng xông lên" thì không biết
người ta còn sản xuất ra những gì, nhưng cam đoan các "sê - ri" mỗi
ngày một dài, một nhiều tập hơn. Chợ trời văn chương đã là một lĩnh vực chứng
minh đầy đủ quy luật giá trị trong chế độ tư bản: sản xuất chỉ làm được việc
lấp đầy chỗ trống mà chính nó tạo ra một cách
cố ý.
2.
Những sản phẩm của quảng cáo
Có thể
nói cuốn sách từng làm sôi nổi dư luận Sài Gòn một thời, cuốn Làm thế nào để
bán một tổng thống, là một tác phẩm rao giảng quyền uy của quảng cáo trong
xã hội tư bản hiện đại. Rải rác, có thể ghi nhận được một vài câu thú vị:
Trong nửa đầu thế kỷ XX, cái khuôn cũ kỹ về
người anh hùng đã bể ra từng mảnh. Người ta đã tạo ra một khuôn mới, để cho mẫu
người mới có thể bán được. Những anh hùng hiện đại có thể được sản xuất ra hàng
loạt và tung ra thị trường một cách dễ dàng. Trong thực tế, những nét tính làm
cho một người (đàn ông hay đàn bà) được ca ngợi, trên quy mô quốc gia, cho
chúng ta thấy sự không mới của con người.
- Nó
(quảng cáo) đặt lại vấn đề về quan niệm chân lý của chúng ta... Hình thức thay
thế nội dung, trở thành nội dung. Phương tiện trở thành cứu cánh nội tại.
…
Khi nghe người ta đã làm áp - phe cả trong chính trị, đã coi nguyên thủ một nước,
cũng như một món hàng cần phải lo liệu bán cho trót lọt, thì chuyện buôn bán
văn chương, dùng quảng cáo để chỉ đạo thị trường văn chương, cũng là chuyện dễ
hiểu. Mỗi ngày, người ta lại tìm thêm được những liệu pháp mới để bán sách.
Nhìn cung
cách làm ăn một thời của những người thuộc nhóm Sáng tạo người có kinh nghiệm văn học dễ thấy ở đây cách kết bè kéo
cánh thành phe nhóm, thao túng dư luận, và đưa nhau… lên tận mây xanh của thời
tiền chiến. Người nọ suy tôn người kia. Cả nhóm là những nhân vật mở đường của
lịch sử văn học một thời. Trong khi Nguyễn Sĩ Tế, Trần Thanh Hiệp ca ngợi Thanh
Tâm Tuyền, Thanh Tâm Tuyền cũng không tiếc lời khen thơ Tô Thuỳ Yên, và Mai
Thảo thì trân trọng xác định ý chí tiên phong của.. cả bọn.
In
sách, giới thiệu trên báo, mang thơ phổ nhạc đại khái đây là cách họ lăng xê
một số, gọi là tên tuổi mới. Lập tức, một người xưa nay ít được biết tiếng, vụt
trở thành thời danh, đi đến đâu cũng thấy có người nhắc đến tên tuổi. Cố nhiên,
ở đây có vấn đề thuộc về cái thị hiếu chung, cái gu của công chúng, họ
dễ dàng chạy theo mốt, sẵn sàng thích nhà văn nọ, nhà thơ kia để làm le,
làm phách, dù trong thâm tâm họ chẳng hiểu gì cả. Và càng những triết gia điên
chữ, cuồng chữ, càng những nhà thơ ấm dầu, lập dị, họ càng thú vị.
Nói như tác giả Làm thế nào để bán một tổng
thống:
Trong địa hạt quảng cáo, những vấn đề gai góc
không phải do sự thiếu liêm sỉ của những người gạt gẫm chúng ta, mà do sự thích
thú của chúng ta muốn bị gạt.
Tuy
nhiên, những mánh khoé trên đây khi vào tay bọn con buôn văn hoá, mới thật sự
phát huy hết ma lực của nó. Đó là thời kỳ Lệ Hằng nổi lên "chói lọi" một
hai tháng lại ra một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang, in rất trang trọng. Là
thời kỳ của Dung Sài gòn, Võ Hà Anh, Thu híppi v.v… In thật nhiều, thật đẹp,
sách ra thật dồn dập, phối hợp các ngành báo chí, phát thanh mở những chiến
dịch tuyên truyền, rốt cuộc các món hàng văn hoá đã được quảng cáo lăng - xê
cũng thành một thứ hàng rất thông dụng, đến tay nhiều bạn đọc trẻ tuổi, ngự trị
trong nhiều tủ sách gia đình, đánh dấu sự nghiệp văn chương thì ít, mà chứng
nghiệm cho sức mạnh của quảng cáo thì nhiều hơn. Quảng cáo đã thật sự chi phối
dư luận, tạo ra nhu cầu rộng ở thị trường, và dọn đường không phải cho những
tác phẩm hay, mà là những tác phẩm người ta đã bỏ vốn kinh doanh và cần kiếm
lời.
Bây giờ
thì chính các phe nhóm văn chương cũng phải bàng hoàng vì… hậu sinh khả uý,
những con buôn văn hóa đã giỏi hơn các nhà văn. Kênh kiệu, đài các, khinh bạc
như Mai Thảo, cũng chưa thể nghĩ ra lối chào khách như tự xưng là những Nguyễn Yêu,
Đạt cô đơn, và đề ở bìa sau mấy chữ Đạt cô đơn là ai ? thật to. Viết khoẻ như Duyên Anh cũng chưa bao
giờ làm nên một chiến dịch lớn, như người ta đã làm với Lệ Hằng và đang định
làm với Đỗ Thị Khôi Nguyên. Bề ngoài, họ lên tiếng mạt sát những kẻ hậu sinh
kia là… "quảng cáo"? Nhưng mạt sát đấy mà lại bắt chước đấy: cách làm
ăn "công nghiệp" kia cũng đã lan sang giới cầm bút hạng trên, vốn có
một thời đầy mộng ước. Trên Văn, trên
Vấn đề, cũng như trên Khởi hành, đã bao nhiêu "đứa con
hoang" của Mai Thảo được quảng cáo theo lối như vậy? Và bao nhiêu tác phẩm
của Tuý Hồng và Thanh Nam, của Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng… tất cả, gần
như tất cả, còn có lối quảng cáo nào khác? Không làm ra mô - đéc, thì làm ra vẻ
điên loạn, kỳ dị. Đó là trường hợp của mấy người, những Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện, những "nhà thơ", "nhà triết học" hũ nút, hoặc Nguyễn
Hữu Hiệu cuồng chữ về sau.
Tóm
lại, cả trong lối khoa trương "không biết ngượng" nhưng lại vẫn là
lặt nhặt, "cò con" của từng người viết, cho tới cách tồn tại chỉ bằng
quảng cáo, duy nhất nhờ quảng cáo, chúng ta bắt gặp một hiện tượng mới trong
sinh hoạt tinh thần: văn chương hoàn toàn trở thành hàng hoá, hơn nữa, một thứ
hàng công nghiệp, hàng chợ trời, chạy theo thời trang và sống khỏe bằng sự đắp
đổi thời trang. Qua một số trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy chiêu thức chủ
yếu của những kẻ làm quảng cáo: bề ngoài mơn trớn, vuốt ve thị hiếu công chúng,
bề trong là một thái độ khinh rẻ con người, lợi dụng con người. Nghiên cứu tình
hình thị trường văn nghệ Sài Gòn trước đây, chúng ta thường bắt gặp những
"cơn lốc", những vụ "bùng nổ" của thị hiếu: đột nhiên trong
một thời gian nào đó, rất nhiều người lao mình săn đuổi cuốn sách này, tập nhạc
kia. Nào đâu có phải sự ham thích văn chương lành mạnh? Không, chẳng qua đó chỉ
là những dấu hiệu chứng tỏ tình trạng triền miên khủng hoảng của một xã hội.
Trong cái bế tắc chung về mọi mặt đời sống, văn chương đã thật sự bị biến thành
vật hy sinh rẻ rúng.
3.
Rẻ, dễ làm, chiều khách hay là những đặc điểm của hàng hoá văn chương
Chợ
trời văn chương có những đặc điểm riêng ví như, nó rất chiều người. Nó chạy
theo những thị hiếu tầm thường của người đọc. Vậy mà nó lại khá giống nhau, nó
đơn điệu đến như là… vô tính. Cho nên, thật giả khó phân, sau một món hàng ăn
khách, rất nhiều thứ hàng giả dược sản xuất hàng loạt.
Những
đẵn mía được tiện từng khẩu nhỏ vừa miệng người ăn. Những trái cóc gọt vỏ, có
sọc que tay cầm cho sạch. Những bộ quần áo nhiều màu sặc sỡ lơi lả mời chào. Đó
là kỹ nghệ phục vụ. Khai thác bằng mọi cách các mặt thị hiếu ở con người, tìm
cách tô vẽ rồi chiều theo những thích thú, cái đó đã trở thành phong cách sống
ngự trị cả một xã hội. Thì dĩ nhiên, nó cũng trở thành cái phong cách của văn
chương.
Và đó
chính là bi kịch của văn hoá trong xã hội tư bản chủ nghĩa hôm nay nói chung.
Đến cái xã hội tao loạn, hỗn hào ở miền Nam trước ngày giải phóng, nó lại
hiện ra, vừa hài hước, vừa bi thảm không kém đâu hết.
Như
trên đã nói, vào những năm 56-60 có những kẻ còn hy vọng ở một nền nghệ thuật
có vai trò nhận thức, chứng nghiệm cho một thời đại. Đây đó, còn đuợc nhắc tới
một thứ lý luận chống lại thứ nghệ thuật "chiều lòng người, non nớt, giả
tạo" và khao khát một ngày có thể "nắm chắc sự thật của con người thế
hệ", xác nhận "sự đắc thắng
của trí thức, trí tuệ con người thế hệ trước đời sống, trước sự vật". Khốn
nỗi, chính kẻ hô hào một thứ nghệ thuật như vậy lại đi đầu trong việc sản xuất
ra một thứ nghệ thuật đề cao buông thả, khơi gợi dục tính cùng những bản năng
thấp kém với thứ bút pháp văn chương ve vuốt, chiều đãi thị hiếu hạ đẳng. Rốt
cuộc, thứ nghệ thuật "đánh dấu rực rỡ sự đi qua, sự có mặt, tác động
ghê gớm của con người trước xã hội, trước sự vật" lại là những sản
phẩm kiểu như Mười đêm ngà ngọc, Để tưởng nhớ mùi hương, Sống chỉ một lần!…
Cả
những ngòi bút chống cộng như Võ Phiến cũng phải hoà mình theo cơn lốc dục
tình, và trong nhiều truyện ngắn, tạp bút tạp luận (ký Võ Phiến) nhiều mẩu tin
tức thời sự (ký tên Trang Tiên, Thu Thuỷ), chúng ta bắt gặp một sự pha phách
những chữ nghĩa ý tưởng của tính dục đôi khi rất lố. Còn nói chi đến các cây
bút mới vào nghề. Đất chật, người đông - muốn tìm được chỗ len chân họ phải đi
xa hơn trong việc chiều người, chài khách. Có khi họ cố ý làm ra vẻ trâng tráo,
miễn sao gây được sự chú ý. Một người như Lệ Hằng đã có lúc thú nhận: viết để
trả thù đời, để trút tất cả những hằn học từng phải chịu dựng hàng ngày lên mặt
giấy. Khi tìm ra được cái kế để sinh nhai - tức viết thật khiêu khích, thật mùi
mẫn- thì con người nạn nhân hôm trước đã tự mình biến thành tội phạm, góp thêm
một giai điệu trong bản nhạc điên loạn.
Rút
lại, dù không kể những Dung Sài Gòn, Thu híp-py, hãy tính từ Mai Thảo, Võ Phiến
tới Lệ Hằng, Trần Thị Ng H. đã thấy một xu thế chung. Của cải văn chương làm ra
có vẻ nhiều, nhưng thật ra cùng theo một kiểu, bị hướng dẫn bởi một thứ mốt
nhất định. Chúng vừa sặc sỡ, lại vừa đơn điệu, và ngày càng trở nên giống nhau.
Cộng với lối sản xuất hàng loạt, văn phẩm càng ngày càng mất đi phần cá tính sâu đậm của từng người viết. Vào quãng
1974 đầu 1975, người ta đã nói tới những trường hợp người đọc cầm đến quyển
sách như một thứ đồ vật, nghĩa là không cần biết tên tác giả là ai, sách ai thì
cũng vậy, mua để đọc trong chốc lát, rồi liệng đi. Quả thật, cái gọi là tác
phẩm văn chương cũng giống những sản phẩm không tên, không nhãn hiệu, không
giấy bọc - những sản phẩm tự do mà người ta thấy bán đầy ở các chợ trời. Thật
giả khó phân. Sau một món hàng ăn khách, rất nhiều hàng giả được sản xuất tiếp
tục.
Làm sao
khác được, đấy là cái lô gích tất yếu, cái đích phải tới đối với thứ lý luận
nghệ thuật chối bỏ lương tri, không chịu công nhận chức năng phản ánh đời sống,
chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật. Khi người ta đã xem đồ dùng như một
thứ ký hiệu, và mua xe theo mốt, may sắm để giải thoát một ẩn ức khó chịu… thì
cố nhiên, sách vở chỉ có thể đóng vai trò rẻ rúng hơn: một thứ đồ dùng trong
chốc lát, một cách đùa chơi, một vật trang hoàng cho vui mắt. Chưa bao giờ Sài
Gòn lại lắm những "văn nhân" "thi sĩ", như trong thời kỳ
văn chương trở thành hàng hoá tiêu thụ này.
4. Văn chương mới, kiểu "nhà văn" mới
Về
chính bản thân những người viết, người làm ra các sản phẩm văn chương, trên đây
chúng ta cũng đã nói tới một số khía cạnh. Nhà văn đẻ ra tác phẩm, nhưng tác
phẩm lại làm nên nhà văn. Từ nguyên lý đó mà suy, có thể hình dung ra sự hình
thành lẫn số phận cả một lớp người viết, đám nhân công chủ yếu sản xuất ra các
sản phẩm nói trên. Không một kẻ nào giải thoát cho nổi, guồng máy thương mại đã
quay lạt mềm buộc chặt, dù có giãy giụa mấy người ta vẫn bị cuốn hút vào đó. Sự
biến cải đến dần dần, đến lúc nhìn lại mình, thì đã hoàn toàn thay đổi.
Mối
quan hệ giữa người cầm bút và tác phẩm bị tha hoá. Những tập bài mà người ta
giao cho các báo hàng ngày nào phải là nơi gửi gắm tâm sự riêng tư? Không, đó
chỉ là một thứ hàng làm theo đơn đặt sẵn, hơn nữa, thứ hàng người ta nhắm mắt
làm cho qua chuyện, để kiếm sống, khi làm xong, tự mình cũng thấy không ra làm
sao, ngán ngẩm đến mức không muốn nhìn thấy mặt mũi nó nữa. Gọi là của mình đó,
mà như của ai và thực sự đã là của những ai khác. Những kẻ làm nghề phát hành,
tác quyền nắm đến năm, sáu mươi phần trăm, những kẻ đó mới thật sự là chủ nhân
của cả nền văn chương. Trong con mắt họ, giới cầm bút chỉ là loại làm thuê viết
mướn, một thứ nhân công rẻ mạt. Sự nhẫn nại của người cầm bút lúc này chỉ là
nhẫn nại làm theo những yêu cầu có sẵn. Giá rẻ mạt, nhưng hàng cần nhiều, nên
càng cần phải viết, để kiếm sống. Và vì sự nhạt nhẽo của những sản phẩm đã làm
ra như vậy, người ta lại càng phải "làm tới,", để góp nhiều cái nhạt
làm nên một ấn tượng đậm, lấy nghề viết làm sinh kế lâu dài.
Mối
quan hệ giữa những người viết cũng không tránh khỏi tính cách thương mại. Đại
khái, đó là mối quan hệ của những kẻ cùng làm công cho một ông chủ, phải tìm
cách hất cẳng nhau mới sống nổi.
Những người theo dõi tình hình chợ trời chữ
nghĩa hôm qua, có thể tìm đủ thí dụ: hoặc là cái quảng cáo sau đây, từng làm
cho Văn Quang điếng người:
Bạn đã từng say mê đọc
nhà văn quân đội Văn Quang. Bạn đã nô sức chờ xem phim Chân trời tím
phỏng theo tác phẩm của Văn Quang. Đầu tháng lương này bỏ ra 300 để đọc người
đã dạy Văn Quang viết: Thế Phong!
Hoặc là
mối tình nghĩa của những người cộng tác với Nguyễn Đình Vượng. Khi ông chủ còn
hấp hối, cả Mai Thảo lẫn Nguyễn Xuân Hoàng cùng nặng lời thề thốt là sẽ đứng
bên nhau, duy trì tờ Văn suốt đời.
Nhưng chỉ đâu hơn tháng sau, Mai Thảo đã ném Nguyễn Xuân Hoàng ra khỏi cửa và
còn gây chuyện với một người mà Mai Thảo đã loại từ trước là Trần Phong Giao.
Bao nhiêu lá thư ngỏ. Bao nhiêu vụ kiện nhau. Rồi chuyện cùng tranh nhau dịch
một tác giả nước ngoài đang ăn khách. Rồi chuyện đạo văn, ăn cắp tài liệu
nghiên cứu ở miền Bắc. Mặc dù tỏ vẻ khinh thường các thứ giải thưởng, người ta
vẫn ngấm ngầm gian lận trong các kỳ làm giải thưởng, để xoay lấy tí lưng vốn…
Những mối quan hệ "tuyệt vời"
này, thỉnh thoảng lại được đưa ra ánh sáng, mang lên sách báo, đến nỗi người ta
ghê sợ về tình trạng sống của giới cầm bút, một người lâu ngày mới về miền Nam,
như ông Trần Văn Khê, về Sài Gòn năm 1974, đã có lần phải kêu lên như vậy.
Đến
đây, mới thấy hết ý nghĩa thật sự của mấy chữ "tự do" mà những người
cầm bút ở Sài Gòn từng nhắc đi nhắc lại. Không, bề ngoài thì hình như họ không
bị ràng buộc gì hết, họ chỉ bị chi phối bởi một thứ: đồng tiền. Nhưng chỉ cần
như thế đã đủ lắm rồi, vì dụng ý của kẻ chi tiền cho cả xã hội miền Nam
này là như thế nào, thì còn ai không biết.
So với
hồi còn ở vùng tạm chiếm Hà Nội, dưới ách quân đội viễn chinh Pháp, thì ông chủ
mới lúc này khá lịch sự, tế nhị, không mấy khi ra lệnh trực tiếp, không cấm
đoán này nọ, lại còn khuyến khích làm ăn tự do nữa. Nhưng sau độ năm năm, mười
năm nhìn lại mà xem, sao tất cả đều không ra khỏi một xu thế chung? Sao có một
sợi dây ràng buộc nghiệt ngã, mà càng ngày người ta càng thấy nó thắt chặt? May
lắm, người ta chỉ còn được cái tiếng tự do hão, mà sự thật là "tự do"
ảo tưởng, lảng tránh, "tự do" trong địa ngục. May lắm, người ta chỉ
còn tự biện hộ được bằng cách nhìn vào chung quanh: Trông xem, có phải một mình
tôi đâu?
Khi
nhận ra rằng cả guồng máy xã hội đã chạy, trong cái guồng máy ấy gần như các
đồng nghiệp không ai là không góp mặt, thì cũng là lúc người ta có thể xoa tay
bằng lòng với mình. Mô tả cái tình trạng thương mại của văn chương Sài Gòn hôm
qua, cũng là bước đầu để giúp cho chúng
ta hiểu sự hoành hành, phát triển chủ nghĩa hư vô là chủ đề chúng tôi sẽ đề cập
trong một bài viết tiếp.
Viết
lần đầu 1976. Sửa lại
1980
Lối sản xuất hàng loạt
- Người
trong này làm ăn khiếp thật. Viết cũng khiếp!
- Sao
thế?
- Vào
nhà một cây bút thời danh hồi trước, giờ di tản theo Mỹ, thấy ở phòng làm việc
một quang cảnh rất lạ: mười máy chữ sắp hàng giăng giăng. Mười tác phẩm đang
viết dở, viết lách cứ như là làm cặp, làm giấy, bằng nhau chăn chắn, cái nào
cũng như cái nào, giá kể đóng hộp được, thì không còn làm sao mà phân biệt nổi
nữa.
Câu
chuyện trên đây, tôi nghe được từ tháng 5.1975. Giữa Sài Gòn hoa lệ, hàng hoá ê
hề, chúng tôi sớm nhận ra sách vở cũng là một thứ hàng hoá. Cũng bày bán la
liệt. Cũng màu sắc loè loẹt, mà lại đơn điệu, giống nhau, lẫn vào nhau, rất khó
phân biệt. Dù rằng câu chuyện thuật lại trên đây, không phải hoàn toàn chính
xác với nghĩa của từng chữ, song nếu hiểu theo nghĩa khái quát
một chút, thì đúng như vậy. Có sự sản xuất hàng loạt tác phẩm. Có lối viết,
lối "hành hạ máy chữ" ghê gớm, như chạy đua theo thời gian, như để
đuổi bắt một điều gì đấy ở phía trước dù sau một thời gian nghĩ lại, thì chẳng
có mục đích nào khác, ngoài… đồng tiền.
Kể làm
sao hết "tên tuổi" của những người viết truyện nhật báo ở Sài Gòn
truớc đây. Từ những giọng văn thật thà đơn giản, đến những cây bút kiêu kỳ, bay
bướm, đài các. Từ những kẻ sở trường về văn, về truyện, tới những người trước
đó làm việc ở một ngành sản xuất có vẻ tuỳ hứng bất thường là thơ… Tóm lại là hầu
như phần lớn các "văn sĩ thời danh" ở Sài Gòn trước đây đều tham gia
đội ngũ "những người viết truyện nhật trình". Gọi họ là "tài
giỏi" thì sao bằng nhận xét đích danh là họ đã làm ăn khá dễ dãi, chiều
theo thị hiếu, làm xói mòn khẩu vị người đọc về rất nhiều phương diện. Trong
những ngành kinh tế, sự sản xuất hàng loạt phải được khuyến khích, nhưng ở văn
chương thì thật là không thể tha thứ. Trong số lớn trường hợp, nó chỉ đẻ ra
"những đứa con" giống nhau như lột, chúng chen chúc nhau, lẫn lộn với
nhau, tới mức chính những kẻ đẻ ra chúng cũng không nhớ cả thẩy là bao nhiêu
nữa.
Thử
hình dung ra mấy khâu trong công việc "sản xuất văn chương" trên đây:
- Thứ
nhất là điều tra thị hiếu, điều tra thị trường. Phác thử xem lúc này người đọc
đang thích đọc gì? Với nếp sinh hoạt vật chất hiện nay, thì sinh hoạt tinh thần
sẽ có những nhu cầu gì? Viết loại truyện gì sẽ ăn khách?
- Thứ
hai: sản xuất thử, sản xuất chào hàng, đồng thời dùng quảng cáo (bao gồm các
phương tiện thông tin hiện đại, các nguồn báo chí, phát thanh…) để lăng xê
mốt, kích thích và mời gọi người đọc, người xem.
- Thứ
ba: sản xuất theo quy trình đã được nghiên cứu, có tham chiếu nhu cầu người
đọc. Và bây giờ mới thật sản xuất hàng loạt, sản xuất thật nhanh, để làm nên một hiện
tượng, tạo ra một thứ thời trang thật sự.
Và cũng phải sản xuất thật nhanh,
thật nhiều, để tới tấp đổ về người đọc, làm cho người ta đón nhận, không kịp
phản ứng chi hết, phải vơ cho vội, đọc cho xong.
Nếu
chậm, nếu để cho người đọc nhẩn nha suy nghĩ trên tác phẩm ấy ư? Một là sẽ bộc
lộ các thứ nhược điểm của mình. Hai là bị các đối thủ cạnh tranh, có những món
thời trang khác ăn mất khách.
Những
ví dụ về sự sản xuất hàng loạt không sao nêu hết. Mai Thảo với những truyện
tình không thể nào gọi cách nào khác hơn là "rẻ tiền". Duyên Anh với
loạt truyện viết cho trẻ em mà nhân vật trở đi trở lại nhiều lần là Trần Đại. Những
"quái kiệt" nổi tiếng khác trong văn giới: Tuý Hồng, Thuỵ Vũ. Cuối
cùng "văn chương công nghiệp" được hoàn thành với những cái tên Dung
Sài Gòn, Nguyên yêu, Đạt cô đơn, loại sách về Hít-le, về thế chiến thứ hai và
về các nữ hoàng dâm dật. Dễ thương vừa ăn khách, có ngay Dễ ghét
bổ sung. Nối tiếp sau Bày con trai, dĩ nhiên có Bày con gái, đối
nhau chan chát. Và cứ đà ấy mà "thừa thắng xông lên" thì không biết
người ta còn sản xuất ra những gì, nhưng cam đoan các "sê - ri" mỗi
ngày một dài, một nhiều tập hơn. Chợ trời văn chương đã là một lĩnh vực chứng
minh đầy đủ quy luật giá trị trong chế độ tư bản: sản xuất chỉ làm được việc
lấp đầy chỗ trống mà chính nó tạo ra một cách
cố ý.
2.
Những sản phẩm của quảng cáo
Có thể
nói cuốn sách từng làm sôi nổi dư luận Sài Gòn một thời, cuốn Làm thế nào để
bán một tổng thống, là một tác phẩm rao giảng quyền uy của quảng cáo trong
xã hội tư bản hiện đại. Rải rác, có thể ghi nhận được một vài câu thú vị:
Trong nửa đầu thế kỷ XX, cái khuôn cũ kỹ về
người anh hùng đã bể ra từng mảnh. Người ta đã tạo ra một khuôn mới, để cho mẫu
người mới có thể bán được. Những anh hùng hiện đại có thể được sản xuất ra hàng
loạt và tung ra thị trường một cách dễ dàng. Trong thực tế, những nét tính làm
cho một người (đàn ông hay đàn bà) được ca ngợi, trên quy mô quốc gia, cho
chúng ta thấy sự không mới của con người.
- Nó
(quảng cáo) đặt lại vấn đề về quan niệm chân lý của chúng ta... Hình thức thay
thế nội dung, trở thành nội dung. Phương tiện trở thành cứu cánh nội tại.
…
Khi nghe người ta đã làm áp - phe cả trong chính trị, đã coi nguyên thủ một nước,
cũng như một món hàng cần phải lo liệu bán cho trót lọt, thì chuyện buôn bán
văn chương, dùng quảng cáo để chỉ đạo thị trường văn chương, cũng là chuyện dễ
hiểu. Mỗi ngày, người ta lại tìm thêm được những liệu pháp mới để bán sách.
Nhìn cung
cách làm ăn một thời của những người thuộc nhóm Sáng tạo người có kinh nghiệm văn học dễ thấy ở đây cách kết bè kéo
cánh thành phe nhóm, thao túng dư luận, và đưa nhau… lên tận mây xanh của thời
tiền chiến. Người nọ suy tôn người kia. Cả nhóm là những nhân vật mở đường của
lịch sử văn học một thời. Trong khi Nguyễn Sĩ Tế, Trần Thanh Hiệp ca ngợi Thanh
Tâm Tuyền, Thanh Tâm Tuyền cũng không tiếc lời khen thơ Tô Thuỳ Yên, và Mai
Thảo thì trân trọng xác định ý chí tiên phong của.. cả bọn.
In
sách, giới thiệu trên báo, mang thơ phổ nhạc đại khái đây là cách họ lăng xê
một số, gọi là tên tuổi mới. Lập tức, một người xưa nay ít được biết tiếng, vụt
trở thành thời danh, đi đến đâu cũng thấy có người nhắc đến tên tuổi. Cố nhiên,
ở đây có vấn đề thuộc về cái thị hiếu chung, cái gu của công chúng, họ
dễ dàng chạy theo mốt, sẵn sàng thích nhà văn nọ, nhà thơ kia để làm le,
làm phách, dù trong thâm tâm họ chẳng hiểu gì cả. Và càng những triết gia điên
chữ, cuồng chữ, càng những nhà thơ ấm dầu, lập dị, họ càng thú vị.
Nói như tác giả Làm thế nào để bán một tổng
thống:
Trong địa hạt quảng cáo, những vấn đề gai góc
không phải do sự thiếu liêm sỉ của những người gạt gẫm chúng ta, mà do sự thích
thú của chúng ta muốn bị gạt.
Tuy
nhiên, những mánh khoé trên đây khi vào tay bọn con buôn văn hoá, mới thật sự
phát huy hết ma lực của nó. Đó là thời kỳ Lệ Hằng nổi lên "chói lọi" một
hai tháng lại ra một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang, in rất trang trọng. Là
thời kỳ của Dung Sài gòn, Võ Hà Anh, Thu híppi v.v… In thật nhiều, thật đẹp,
sách ra thật dồn dập, phối hợp các ngành báo chí, phát thanh mở những chiến
dịch tuyên truyền, rốt cuộc các món hàng văn hoá đã được quảng cáo lăng - xê
cũng thành một thứ hàng rất thông dụng, đến tay nhiều bạn đọc trẻ tuổi, ngự trị
trong nhiều tủ sách gia đình, đánh dấu sự nghiệp văn chương thì ít, mà chứng
nghiệm cho sức mạnh của quảng cáo thì nhiều hơn. Quảng cáo đã thật sự chi phối
dư luận, tạo ra nhu cầu rộng ở thị trường, và dọn đường không phải cho những
tác phẩm hay, mà là những tác phẩm người ta đã bỏ vốn kinh doanh và cần kiếm
lời.
Bây giờ
thì chính các phe nhóm văn chương cũng phải bàng hoàng vì… hậu sinh khả uý,
những con buôn văn hóa đã giỏi hơn các nhà văn. Kênh kiệu, đài các, khinh bạc
như Mai Thảo, cũng chưa thể nghĩ ra lối chào khách như tự xưng là những Nguyễn Yêu,
Đạt cô đơn, và đề ở bìa sau mấy chữ Đạt cô đơn là ai ? thật to. Viết khoẻ như Duyên Anh cũng chưa bao
giờ làm nên một chiến dịch lớn, như người ta đã làm với Lệ Hằng và đang định
làm với Đỗ Thị Khôi Nguyên. Bề ngoài, họ lên tiếng mạt sát những kẻ hậu sinh
kia là… "quảng cáo"? Nhưng mạt sát đấy mà lại bắt chước đấy: cách làm
ăn "công nghiệp" kia cũng đã lan sang giới cầm bút hạng trên, vốn có
một thời đầy mộng ước. Trên Văn, trên
Vấn đề, cũng như trên Khởi hành, đã bao nhiêu "đứa con
hoang" của Mai Thảo được quảng cáo theo lối như vậy? Và bao nhiêu tác phẩm
của Tuý Hồng và Thanh Nam, của Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng… tất cả, gần
như tất cả, còn có lối quảng cáo nào khác? Không làm ra mô - đéc, thì làm ra vẻ
điên loạn, kỳ dị. Đó là trường hợp của mấy người, những Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện, những "nhà thơ", "nhà triết học" hũ nút, hoặc Nguyễn
Hữu Hiệu cuồng chữ về sau.
Tóm
lại, cả trong lối khoa trương "không biết ngượng" nhưng lại vẫn là
lặt nhặt, "cò con" của từng người viết, cho tới cách tồn tại chỉ bằng
quảng cáo, duy nhất nhờ quảng cáo, chúng ta bắt gặp một hiện tượng mới trong
sinh hoạt tinh thần: văn chương hoàn toàn trở thành hàng hoá, hơn nữa, một thứ
hàng công nghiệp, hàng chợ trời, chạy theo thời trang và sống khỏe bằng sự đắp
đổi thời trang. Qua một số trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy chiêu thức chủ
yếu của những kẻ làm quảng cáo: bề ngoài mơn trớn, vuốt ve thị hiếu công chúng,
bề trong là một thái độ khinh rẻ con người, lợi dụng con người. Nghiên cứu tình
hình thị trường văn nghệ Sài Gòn trước đây, chúng ta thường bắt gặp những
"cơn lốc", những vụ "bùng nổ" của thị hiếu: đột nhiên trong
một thời gian nào đó, rất nhiều người lao mình săn đuổi cuốn sách này, tập nhạc
kia. Nào đâu có phải sự ham thích văn chương lành mạnh? Không, chẳng qua đó chỉ
là những dấu hiệu chứng tỏ tình trạng triền miên khủng hoảng của một xã hội.
Trong cái bế tắc chung về mọi mặt đời sống, văn chương đã thật sự bị biến thành
vật hy sinh rẻ rúng.
3.
Rẻ, dễ làm, chiều khách hay là những đặc điểm của hàng hoá văn chương
Chợ
trời văn chương có những đặc điểm riêng ví như, nó rất chiều người. Nó chạy
theo những thị hiếu tầm thường của người đọc. Vậy mà nó lại khá giống nhau, nó
đơn điệu đến như là… vô tính. Cho nên, thật giả khó phân, sau một món hàng ăn
khách, rất nhiều thứ hàng giả dược sản xuất hàng loạt.
Những
đẵn mía được tiện từng khẩu nhỏ vừa miệng người ăn. Những trái cóc gọt vỏ, có
sọc que tay cầm cho sạch. Những bộ quần áo nhiều màu sặc sỡ lơi lả mời chào. Đó
là kỹ nghệ phục vụ. Khai thác bằng mọi cách các mặt thị hiếu ở con người, tìm
cách tô vẽ rồi chiều theo những thích thú, cái đó đã trở thành phong cách sống
ngự trị cả một xã hội. Thì dĩ nhiên, nó cũng trở thành cái phong cách của văn
chương.
Và đó
chính là bi kịch của văn hoá trong xã hội tư bản chủ nghĩa hôm nay nói chung.
Đến cái xã hội tao loạn, hỗn hào ở miền Nam trước ngày giải phóng, nó lại
hiện ra, vừa hài hước, vừa bi thảm không kém đâu hết.
Như
trên đã nói, vào những năm 56-60 có những kẻ còn hy vọng ở một nền nghệ thuật
có vai trò nhận thức, chứng nghiệm cho một thời đại. Đây đó, còn đuợc nhắc tới
một thứ lý luận chống lại thứ nghệ thuật "chiều lòng người, non nớt, giả
tạo" và khao khát một ngày có thể "nắm chắc sự thật của con người thế
hệ", xác nhận "sự đắc thắng
của trí thức, trí tuệ con người thế hệ trước đời sống, trước sự vật". Khốn
nỗi, chính kẻ hô hào một thứ nghệ thuật như vậy lại đi đầu trong việc sản xuất
ra một thứ nghệ thuật đề cao buông thả, khơi gợi dục tính cùng những bản năng
thấp kém với thứ bút pháp văn chương ve vuốt, chiều đãi thị hiếu hạ đẳng. Rốt
cuộc, thứ nghệ thuật "đánh dấu rực rỡ sự đi qua, sự có mặt, tác động
ghê gớm của con người trước xã hội, trước sự vật" lại là những sản
phẩm kiểu như Mười đêm ngà ngọc, Để tưởng nhớ mùi hương, Sống chỉ một lần!…
Cả
những ngòi bút chống cộng như Võ Phiến cũng phải hoà mình theo cơn lốc dục
tình, và trong nhiều truyện ngắn, tạp bút tạp luận (ký Võ Phiến) nhiều mẩu tin
tức thời sự (ký tên Trang Tiên, Thu Thuỷ), chúng ta bắt gặp một sự pha phách
những chữ nghĩa ý tưởng của tính dục đôi khi rất lố. Còn nói chi đến các cây
bút mới vào nghề. Đất chật, người đông - muốn tìm được chỗ len chân họ phải đi
xa hơn trong việc chiều người, chài khách. Có khi họ cố ý làm ra vẻ trâng tráo,
miễn sao gây được sự chú ý. Một người như Lệ Hằng đã có lúc thú nhận: viết để
trả thù đời, để trút tất cả những hằn học từng phải chịu dựng hàng ngày lên mặt
giấy. Khi tìm ra được cái kế để sinh nhai - tức viết thật khiêu khích, thật mùi
mẫn- thì con người nạn nhân hôm trước đã tự mình biến thành tội phạm, góp thêm
một giai điệu trong bản nhạc điên loạn.
Rút
lại, dù không kể những Dung Sài Gòn, Thu híp-py, hãy tính từ Mai Thảo, Võ Phiến
tới Lệ Hằng, Trần Thị Ng H. đã thấy một xu thế chung. Của cải văn chương làm ra
có vẻ nhiều, nhưng thật ra cùng theo một kiểu, bị hướng dẫn bởi một thứ mốt
nhất định. Chúng vừa sặc sỡ, lại vừa đơn điệu, và ngày càng trở nên giống nhau.
Cộng với lối sản xuất hàng loạt, văn phẩm càng ngày càng mất đi phần cá tính sâu đậm của từng người viết. Vào quãng
1974 đầu 1975, người ta đã nói tới những trường hợp người đọc cầm đến quyển
sách như một thứ đồ vật, nghĩa là không cần biết tên tác giả là ai, sách ai thì
cũng vậy, mua để đọc trong chốc lát, rồi liệng đi. Quả thật, cái gọi là tác
phẩm văn chương cũng giống những sản phẩm không tên, không nhãn hiệu, không
giấy bọc - những sản phẩm tự do mà người ta thấy bán đầy ở các chợ trời. Thật
giả khó phân. Sau một món hàng ăn khách, rất nhiều hàng giả được sản xuất tiếp
tục.
Làm sao
khác được, đấy là cái lô gích tất yếu, cái đích phải tới đối với thứ lý luận
nghệ thuật chối bỏ lương tri, không chịu công nhận chức năng phản ánh đời sống,
chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật. Khi người ta đã xem đồ dùng như một
thứ ký hiệu, và mua xe theo mốt, may sắm để giải thoát một ẩn ức khó chịu… thì
cố nhiên, sách vở chỉ có thể đóng vai trò rẻ rúng hơn: một thứ đồ dùng trong
chốc lát, một cách đùa chơi, một vật trang hoàng cho vui mắt. Chưa bao giờ Sài
Gòn lại lắm những "văn nhân" "thi sĩ", như trong thời kỳ
văn chương trở thành hàng hoá tiêu thụ này.
4. Văn chương mới, kiểu "nhà văn" mới
Về
chính bản thân những người viết, người làm ra các sản phẩm văn chương, trên đây
chúng ta cũng đã nói tới một số khía cạnh. Nhà văn đẻ ra tác phẩm, nhưng tác
phẩm lại làm nên nhà văn. Từ nguyên lý đó mà suy, có thể hình dung ra sự hình
thành lẫn số phận cả một lớp người viết, đám nhân công chủ yếu sản xuất ra các
sản phẩm nói trên. Không một kẻ nào giải thoát cho nổi, guồng máy thương mại đã
quay lạt mềm buộc chặt, dù có giãy giụa mấy người ta vẫn bị cuốn hút vào đó. Sự
biến cải đến dần dần, đến lúc nhìn lại mình, thì đã hoàn toàn thay đổi.
Mối
quan hệ giữa người cầm bút và tác phẩm bị tha hoá. Những tập bài mà người ta
giao cho các báo hàng ngày nào phải là nơi gửi gắm tâm sự riêng tư? Không, đó
chỉ là một thứ hàng làm theo đơn đặt sẵn, hơn nữa, thứ hàng người ta nhắm mắt
làm cho qua chuyện, để kiếm sống, khi làm xong, tự mình cũng thấy không ra làm
sao, ngán ngẩm đến mức không muốn nhìn thấy mặt mũi nó nữa. Gọi là của mình đó,
mà như của ai và thực sự đã là của những ai khác. Những kẻ làm nghề phát hành,
tác quyền nắm đến năm, sáu mươi phần trăm, những kẻ đó mới thật sự là chủ nhân
của cả nền văn chương. Trong con mắt họ, giới cầm bút chỉ là loại làm thuê viết
mướn, một thứ nhân công rẻ mạt. Sự nhẫn nại của người cầm bút lúc này chỉ là
nhẫn nại làm theo những yêu cầu có sẵn. Giá rẻ mạt, nhưng hàng cần nhiều, nên
càng cần phải viết, để kiếm sống. Và vì sự nhạt nhẽo của những sản phẩm đã làm
ra như vậy, người ta lại càng phải "làm tới,", để góp nhiều cái nhạt
làm nên một ấn tượng đậm, lấy nghề viết làm sinh kế lâu dài.
Mối
quan hệ giữa những người viết cũng không tránh khỏi tính cách thương mại. Đại
khái, đó là mối quan hệ của những kẻ cùng làm công cho một ông chủ, phải tìm
cách hất cẳng nhau mới sống nổi.
Những người theo dõi tình hình chợ trời chữ
nghĩa hôm qua, có thể tìm đủ thí dụ: hoặc là cái quảng cáo sau đây, từng làm
cho Văn Quang điếng người:
Bạn đã từng say mê đọc
nhà văn quân đội Văn Quang. Bạn đã nô sức chờ xem phim Chân trời tím
phỏng theo tác phẩm của Văn Quang. Đầu tháng lương này bỏ ra 300 để đọc người
đã dạy Văn Quang viết: Thế Phong!
Hoặc là
mối tình nghĩa của những người cộng tác với Nguyễn Đình Vượng. Khi ông chủ còn
hấp hối, cả Mai Thảo lẫn Nguyễn Xuân Hoàng cùng nặng lời thề thốt là sẽ đứng
bên nhau, duy trì tờ Văn suốt đời.
Nhưng chỉ đâu hơn tháng sau, Mai Thảo đã ném Nguyễn Xuân Hoàng ra khỏi cửa và
còn gây chuyện với một người mà Mai Thảo đã loại từ trước là Trần Phong Giao.
Bao nhiêu lá thư ngỏ. Bao nhiêu vụ kiện nhau. Rồi chuyện cùng tranh nhau dịch
một tác giả nước ngoài đang ăn khách. Rồi chuyện đạo văn, ăn cắp tài liệu
nghiên cứu ở miền Bắc. Mặc dù tỏ vẻ khinh thường các thứ giải thưởng, người ta
vẫn ngấm ngầm gian lận trong các kỳ làm giải thưởng, để xoay lấy tí lưng vốn…
Những mối quan hệ "tuyệt vời"
này, thỉnh thoảng lại được đưa ra ánh sáng, mang lên sách báo, đến nỗi người ta
ghê sợ về tình trạng sống của giới cầm bút, một người lâu ngày mới về miền Nam,
như ông Trần Văn Khê, về Sài Gòn năm 1974, đã có lần phải kêu lên như vậy.
Đến
đây, mới thấy hết ý nghĩa thật sự của mấy chữ "tự do" mà những người
cầm bút ở Sài Gòn từng nhắc đi nhắc lại. Không, bề ngoài thì hình như họ không
bị ràng buộc gì hết, họ chỉ bị chi phối bởi một thứ: đồng tiền. Nhưng chỉ cần
như thế đã đủ lắm rồi, vì dụng ý của kẻ chi tiền cho cả xã hội miền Nam
này là như thế nào, thì còn ai không biết.
So với
hồi còn ở vùng tạm chiếm Hà Nội, dưới ách quân đội viễn chinh Pháp, thì ông chủ
mới lúc này khá lịch sự, tế nhị, không mấy khi ra lệnh trực tiếp, không cấm
đoán này nọ, lại còn khuyến khích làm ăn tự do nữa. Nhưng sau độ năm năm, mười
năm nhìn lại mà xem, sao tất cả đều không ra khỏi một xu thế chung? Sao có một
sợi dây ràng buộc nghiệt ngã, mà càng ngày người ta càng thấy nó thắt chặt? May
lắm, người ta chỉ còn được cái tiếng tự do hão, mà sự thật là "tự do"
ảo tưởng, lảng tránh, "tự do" trong địa ngục. May lắm, người ta chỉ
còn tự biện hộ được bằng cách nhìn vào chung quanh: Trông xem, có phải một mình
tôi đâu?
Khi
nhận ra rằng cả guồng máy xã hội đã chạy, trong cái guồng máy ấy gần như các
đồng nghiệp không ai là không góp mặt, thì cũng là lúc người ta có thể xoa tay
bằng lòng với mình. Mô tả cái tình trạng thương mại của văn chương Sài Gòn hôm
qua, cũng là bước đầu để giúp cho chúng
ta hiểu sự hoành hành, phát triển chủ nghĩa hư vô là chủ đề chúng tôi sẽ đề cập
trong một bài viết tiếp.
Viết
lần đầu 1976. Sửa lại
1980
Published on October 06, 2015 19:39
October 5, 2015
Một ít kỷ niệm trên con đường tìm đọc và viết về văn học miền Nam 1954- 1975
Ở Hà Nội trước sau 1975, sách báo Sài Gòn
không những hiếm mà còn coi như quốc cấm, chỉ một số cán bộ nghiên cứu được cấp
trên coi là có kinh nghiệm trong đấu tranh ta địch và vững vàng về chính trị mới
được đọc.
Thành thử lúc đầu tôi mò mẫm vào đây,
ngoài thói thường thích tìm trái cấm , thì cũng chỉ dừng lại ở nhu cầu
tự học của bản thân, chứ không mấy khi tính chuyện có thể viết gì đó về bộ phận
văn học này.
Nhưng nghề đời anh em mới vào nghề thường thế,
không đọc thì cố tìm đọc, đọc rồi thì lại táy máy muốn viết.
Viết
như mọi người thì không thể.
Mà
viết như mình nghĩ thì không được in.
Nhưng hồi đó tôi mới ngoài ba mươi tuổi nên
còn hăng hái lắm.
Trong mấy tháng nửa cuối 1976, hoàn cảnh
lại càng như thúc tôi phải viết. Hoàn cảnh đó là sau 30-4, báo chí cũ ở Sài Gòn
cũ dẹp hết, thay vào đó là các báo từ
trên R về trong đó có thanh thế hơn cả là
hai tờ Sài gòn giải phóng, Văn Nghệ giải phóng.
Bài
vở thiếu. Có hai cách khắc phục. Một là huy động hết công suất đám nhà văn nhà
thơ đã mệt mỏi với chiến tranh. Hai là hạ thật thấp chất lượng. Dở mấy cũng in,
miễn là không sai chính trị.
Vậy mà vẫn không đủ.
Một ví dụ về việc báo chí hồi ấy phá bỏ
mọi nguyên tắc để có bài là trường hợp
thơ Lưu Quang Vũ. Khoảng 1971, sau vụ thoái ngũ, Vũ không được in. Tới 1974,
thì nhân bài Vòng trắng vòng đen, thơ
Phạm Tiến Duật mới làm cũng bị các báo khước từ.
Thế
là hai nhà thơ thuộc loại xuất sắc bậc nhất của Hà Nội thời chiến đều bị treo giò.
Duật thì nhân vụ dẫn Nguyễn Đình Thi vào tận
B1, luồn lách qua khỏi cái đận này rất nhanh.
Vũ bí hơn nhiều. Sau khi Xuân Quỳnh và
Vũ lấy nhau, có nhiều bài thơ của Vũ
phải lấy luôn tên của Quỳnh mới được in trên báo Văn Nghệ,
nhưng mọi việc còn dè dặt lắm, vì giới
viết văn Hà Nội như cái làng nhỏ, chuyện một nhà mọi nhà khác đều biết.
Từ sau 30-4, lệnh ấy coi như không có.
Vũ thả cửa viết cho các báo, nhờ thế cả
gia đình sống tạm đủ. Tiếp đó Vũ sẽ về
làm tạp chí Sân khấu của Xuân Trình và chuyển hẳn sang viết kịch.
Quay trở lại việc của tôi. Ở Hà Nội, bọn
tôi đang chỉ là cây bút hạng hai, năm viết một hai bài cho báo Văn Nghệ đã khá rồi. Nay ở Sài Gòn , anh Lê Quang
Trang phụ trách phần phê bình và tin tức văn nghệ của Văn Nghệ giải phóng bảo tôi viết gì thì viết. Tôi thích lắm
nhưng vì vốn viết chậm, nên cũng chỉ làm được có vài bài trong đó có bài về văn
học xô viết những năm chiến tranh và mấy mẩu nhỏ linh tinh khác.
Trong lúc bơ vơ, nỗi ham muốn viết về văn học
Sài Gòn lại thức dạy.
Tôi tính cho mình theo mấy bước. Trước
tiên , viết như mình biết, giữa lúc này mà đề cao mấy ông thì không được rồi. Nhưng cũng phải tránh xa cái lối phê phán rằng
đó là văn chương “phản động”, là “những trang viết lầm lạc về tư tưởng của bọn
biệt kích văn nghệ.”
Còn
cách nào bây giờ?
May quá chính sự phong phú của văn nghệ Sài
Gòn mấy năm 1972-74 cho tôi một lối thoát.
Nếu
ở Hà Nội, tôi chỉ đọc Bách khoa và Văn thì lúc cuối 1976 tôi
còn được đọc rộng ra Vấn đề, Thời Tập , Khởi hành. Và quan trọng hơn, nếu ở Hà Nội tôi chỉ đọc cái phần sáng tác tương
đối nghiêm chỉnh với nghĩa luận đề thì khi lúc này giữa đất Sài Gòn tôi hiểu
cái thực tế đời sống văn học hơn.
Còn nhớ khi vào gặp gỡ một số gia đình trí
thức, không nhớ rõ là ai nhưng đúng là có một
người đã nói với bọn tôi:
-- Ở Sài Gòn này người ta không trọng giới
văn chương lắm đâu!
Người nói chỉ nói kiểu tạt ngang. Nhưng tôi
thì cứ nhớ mãi. Chúng tôi phải cái tội hay quan trọng hóa văn nghệ. Nay bài học
vỡ lòng là vậy. Thì viết.
Trước 1975, trên các
tuần báo tạp chí chuyên về văn chương ra
ở Sài Gòn tờ nào cũng luôn có các bài kiểm điểm tình hình văn nghệ. Vì đây là
chỗ trong nghề người ta nói với nhau – chứ không phải là diễn đàn để uốn nắn
chỉ đạo nhau -- nên chê cũng không quá mà tự khen cũng không quá như dân Hà Nội
bọn tôi.
Từ các bài vở loại này, tôi tìm ra chủ đề
và sớm bắt tay vào bài viết đầu tiên gần bốn ngàn chữ là bài .
Lúc cầm bài anh Lê Quang
Trang chỉ đổi hai chữ thương mại thành chợ trời, rồi cho in luôn.
Qua
mấy năm sau, về Hà Nội, các vấn đề của văn học Sài Gòn còn tiếp tục ám
ảnh tôi. Lúc này tôi chọn một thể tài khác có tính chất nghiên cứu hơn. Trước
sau tôi viết được hai bài nữa một là Chiến tranh hàng hóa văn chương và một
bài nữa phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng,
mang tên Hành động trong tuyệt vọng.
“Dẫu
sao thì so với cái giọng chung , mình còn nhẹ nhàng chán – tôi tự nhủ vậy “ và, dù mang đến Tạp chí Văn học của Viện Văn, chỉ nhận được những cái lắc đầu, song vẫn hy vọng rằng có lúc được in.
Khoảng 2007- 2009, khi mới về hưu, tôi
được Hội nhà văn VN cho tiền để in một tuyển tập của riêng mình. Tiền rót qua
nhà xuất bản chứ tôi không được cầm. Cũng chỉ là số tiền mọn, đủ in có 500 bản, nhưng đã là sướng lắm rồi!
Tôi đã
nhân đây xem lại các bài viết của mình và chia các bài chọn lọc này thành
bảy cụm nhỏ, trong đó ban đầu có cả một cụm mang tên Văn học
SG trước 1975, gồm ba bài vừa nói ở trên,
cộng với các bài tôi viết về sau.
Nhưng rồi tự tôi thấy phải bỏ phần này đi.
Lý do chính là vì tôi thấy cả cụm còn chênh vênh quá. Ba bài tôi viết khoảng
1975-1980 ấy làm lộ rõ cái phần lạc hậu so với tình hình nghiên cứu nói chung cũng như so với chính
nhận thức của tôi.
Tuy có ý thức rằng mình phải viết khác mọi
người song nhìn kỹ, hóa ra hồi ấy tôi vẫn khó lòng thoát khỏi không khí chung của cả giới.
Cái giọng của tôi lúc ấy vẫn là
giọng của kẻ tiểu nhân đắc thắng, chỉ biết nhìn văn học miền Nam trong thế bế tắc và tìm
cách vạch vòi những chỗ bất cập, hơn là đặt mình vào địa vị của các đối tượng được nói tới, rồi ghi nhận những đóng góp của họ trong lịch sử văn học dân tộc.
Mặt khác, có một số chi tiết tôi tìm hiểu không kỹ, chỉ nghe thoáng đã viết, mà không kiểm tra lại -- rõ nhất là cái đoạn tôi
nói về quan hệ giữa các nhà văn với nhau.
Sẵn thiên kiến của người Hà Nội thì gán ghép
cho người Sài Gòn như vậy.
Trong cách sử dụng chữ nghĩa, đôi khi tôi đã chẳng khác là bao so với những đồng nghiệp được giao cho nhiệm vụ chuyên môn đánh văn học miền Nam mà trong thâm tâm, tôi thấy xa lạ.
Ngoài ra cũng phải nhận hồi ấy cả trong
cuộc đời lẫn trong văn chương, quan niệm của
bọn tôi còn mang nặng tính cách trung cổ, với văn nghệ chỉ huy đã quá ngán, nhưng nói tới tính cách thương mại thường là không cần ai bảo đã tự nguyện toát ra cái ý chê bai.
Chúng
tôi đâu biết rồi từ sau 1975, văn học cả nước cũng chuyển sang một thứ văn hóa
đại chúng học mót phần hiện đại phương Tây. Học không xong, mà lối làm ăn kiểu con buôn chạy vặt diễn ra còn tệ hại hơn .
Tóm lại mấy bài này nhiều cái dở quá. Chỉ là cái thứ để đọc một thời chứ không phải thứ sau này đọc lại. Nay muốn in vào sách tất phải sửa mà tâm thế của tôi lúc này chưa theo kịp.
Đó là những suy nghĩ đã chi phối tôi cho tới 2007 .
Từ thuở tôi viết được mấy bài báo ấy tới
nay đã gần bốn chục năm.
Quá
trình nghiên cứu về văn học Sài Gòn được khởi động khá sôi nổi ở cả trong nước cũng như ở hải ngoại. Chỉ hiềm một
nỗi theo tôi nó vẫn chưa đạt tới cái quy mô cũng như chiều kích cần thiết.
Ở Sài Gòn, nó bị khuôn vào cái khung phê
phán chẳng mềm đi bao nhiêu sau mấy chục năm.
Ở Hà Nội, cậy thế “trung ương" "con cả”, mọi người có mạnh bạo hơn, nhưng
lại không có ai thực hiểu biết để đặt ra các vấn đề văn học Hai mươi năm ấy ( 1954-1975),
như tầm vóc của nó phải có.
Để lại ấn tượng rõ nhất trong tôi là một
số bạn trẻ, trong sự bế tắc của việc viết
lách, chỉ muốn tìm tới một số đóng góp nghệ thuật của các bậc đàn anh, thế thôi.
Như tôi có viết trong một bài báo trên
blog này 12-2014, bài Nhân một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 , ngay ở hải ngoại, việc tổng kết này vẫn còn lúng túng lắm.
Một điều thấy rất rõ là căn bệnh của
nghiên cứu văn học ở trong nước với ở hải ngoại lại có chỗ giống nhau một cách
bất ngờ.
Cả hai thường mải đi vào định giá hiện tượng đơn lẻ nhà văn A. thế này, nhà văn B.thế kia..., hơn là phân tích toàn
bộ đời sống văn học trong cái xu thế mà nó phải vận động theo.
Việc thiếu khả năng bao quát để đặt sự việc trong hoàn cảnh lịch sử khiến cho nghiên cứu và sáng tác văn học trở thành câu chuyện riêng của mấy người làm nghề hơn là vấn đề của cả xã hội.
Dù viết về văn học miền bắc hay miền
nam, chúng ta thường chọn chỗ dễ để làm. Các
cây bút phê bình thành công nhất thường lấy điểm ở phần đi vào các cá nhân, các
phong cách. Còn phần đặc tính chung của cả nền văn học bị lướt bỏ rất nhanh.
Trong hoàn cảnh ấy, tôi có những suy tính
khác và nẩy ra ý công bố lại những bài mà mình đã viết gần bốn chục năm trước.
Ít ra thì trong loạt ba bài ấy, tôi đã muốn chỉ ra một vài luồng lạch chung văn học đã men theo; đã đặt văn học trong cái thời mà nó ra đời; đã sơ bộ nhìn nó như là sự nối tiếp của văn học tiền chiến ; và đã bước đầu đi tìm một cái xu thế tư tưởng nó ngấm ngầm chi phối con người VN trong chiến tranh và để lại ảnh hưởng cho tới thời nay.
Trong phạm vi những gì đưa lên blog, nghĩa
là một dạng đưa để tham khảo, tôi nghĩ
các ý kiến của tôi sau đây không chừng vẫn sẽ là
những gợi ý cho các bạn khác, còn những
thiếu sót của nó thì chắc các bạn cũng lượng tình tha thứ. Biết đâu nhờ đưa ra công khai tôi sẽ dễ thấy hơn thực chất của các vấn đề đã nêu, rồi chờ có dịp thì sửa lại và phát triển tiếp.
Xem bài tiếp
TÍNH CÁCH THƯƠNG MẠI CỦA NỀN VĂN CHƯƠNG SÀI GÒN
TRUỚC GIẢI PHÓNG .
không những hiếm mà còn coi như quốc cấm, chỉ một số cán bộ nghiên cứu được cấp
trên coi là có kinh nghiệm trong đấu tranh ta địch và vững vàng về chính trị mới
được đọc.
Thành thử lúc đầu tôi mò mẫm vào đây,
ngoài thói thường thích tìm trái cấm , thì cũng chỉ dừng lại ở nhu cầu
tự học của bản thân, chứ không mấy khi tính chuyện có thể viết gì đó về bộ phận
văn học này.
Nhưng nghề đời anh em mới vào nghề thường thế,
không đọc thì cố tìm đọc, đọc rồi thì lại táy máy muốn viết.
Viết
như mọi người thì không thể.
Mà
viết như mình nghĩ thì không được in.
Nhưng hồi đó tôi mới ngoài ba mươi tuổi nên
còn hăng hái lắm.
Trong mấy tháng nửa cuối 1976, hoàn cảnh
lại càng như thúc tôi phải viết. Hoàn cảnh đó là sau 30-4, báo chí cũ ở Sài Gòn
cũ dẹp hết, thay vào đó là các báo từ
trên R về trong đó có thanh thế hơn cả là
hai tờ Sài gòn giải phóng, Văn Nghệ giải phóng.
Bài
vở thiếu. Có hai cách khắc phục. Một là huy động hết công suất đám nhà văn nhà
thơ đã mệt mỏi với chiến tranh. Hai là hạ thật thấp chất lượng. Dở mấy cũng in,
miễn là không sai chính trị.
Vậy mà vẫn không đủ.
Một ví dụ về việc báo chí hồi ấy phá bỏ
mọi nguyên tắc để có bài là trường hợp
thơ Lưu Quang Vũ. Khoảng 1971, sau vụ thoái ngũ, Vũ không được in. Tới 1974,
thì nhân bài Vòng trắng vòng đen, thơ
Phạm Tiến Duật mới làm cũng bị các báo khước từ.
Thế
là hai nhà thơ thuộc loại xuất sắc bậc nhất của Hà Nội thời chiến đều bị treo giò.
Duật thì nhân vụ dẫn Nguyễn Đình Thi vào tận
B1, luồn lách qua khỏi cái đận này rất nhanh.
Vũ bí hơn nhiều. Sau khi Xuân Quỳnh và
Vũ lấy nhau, có nhiều bài thơ của Vũ
phải lấy luôn tên của Quỳnh mới được in trên báo Văn Nghệ,
nhưng mọi việc còn dè dặt lắm, vì giới
viết văn Hà Nội như cái làng nhỏ, chuyện một nhà mọi nhà khác đều biết.
Từ sau 30-4, lệnh ấy coi như không có.
Vũ thả cửa viết cho các báo, nhờ thế cả
gia đình sống tạm đủ. Tiếp đó Vũ sẽ về
làm tạp chí Sân khấu của Xuân Trình và chuyển hẳn sang viết kịch.
Quay trở lại việc của tôi. Ở Hà Nội, bọn
tôi đang chỉ là cây bút hạng hai, năm viết một hai bài cho báo Văn Nghệ đã khá rồi. Nay ở Sài Gòn , anh Lê Quang
Trang phụ trách phần phê bình và tin tức văn nghệ của Văn Nghệ giải phóng bảo tôi viết gì thì viết. Tôi thích lắm
nhưng vì vốn viết chậm, nên cũng chỉ làm được có vài bài trong đó có bài về văn
học xô viết những năm chiến tranh và mấy mẩu nhỏ linh tinh khác.
Trong lúc bơ vơ, nỗi ham muốn viết về văn học
Sài Gòn lại thức dạy.
Tôi tính cho mình theo mấy bước. Trước
tiên , viết như mình biết, giữa lúc này mà đề cao mấy ông thì không được rồi. Nhưng cũng phải tránh xa cái lối phê phán rằng
đó là văn chương “phản động”, là “những trang viết lầm lạc về tư tưởng của bọn
biệt kích văn nghệ.”
Còn
cách nào bây giờ?
May quá chính sự phong phú của văn nghệ Sài
Gòn mấy năm 1972-74 cho tôi một lối thoát.
Nếu
ở Hà Nội, tôi chỉ đọc Bách khoa và Văn thì lúc cuối 1976 tôi
còn được đọc rộng ra Vấn đề, Thời Tập , Khởi hành. Và quan trọng hơn, nếu ở Hà Nội tôi chỉ đọc cái phần sáng tác tương
đối nghiêm chỉnh với nghĩa luận đề thì khi lúc này giữa đất Sài Gòn tôi hiểu
cái thực tế đời sống văn học hơn.
Còn nhớ khi vào gặp gỡ một số gia đình trí
thức, không nhớ rõ là ai nhưng đúng là có một
người đã nói với bọn tôi:
-- Ở Sài Gòn này người ta không trọng giới
văn chương lắm đâu!
Người nói chỉ nói kiểu tạt ngang. Nhưng tôi
thì cứ nhớ mãi. Chúng tôi phải cái tội hay quan trọng hóa văn nghệ. Nay bài học
vỡ lòng là vậy. Thì viết.
Trước 1975, trên các
tuần báo tạp chí chuyên về văn chương ra
ở Sài Gòn tờ nào cũng luôn có các bài kiểm điểm tình hình văn nghệ. Vì đây là
chỗ trong nghề người ta nói với nhau – chứ không phải là diễn đàn để uốn nắn
chỉ đạo nhau -- nên chê cũng không quá mà tự khen cũng không quá như dân Hà Nội
bọn tôi.
Từ các bài vở loại này, tôi tìm ra chủ đề
và sớm bắt tay vào bài viết đầu tiên gần bốn ngàn chữ là bài .
Lúc cầm bài anh Lê Quang
Trang chỉ đổi hai chữ thương mại thành chợ trời, rồi cho in luôn.
Qua
mấy năm sau, về Hà Nội, các vấn đề của văn học Sài Gòn còn tiếp tục ám
ảnh tôi. Lúc này tôi chọn một thể tài khác có tính chất nghiên cứu hơn. Trước
sau tôi viết được hai bài nữa một là Chiến tranh hàng hóa văn chương và một
bài nữa phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng,
mang tên Hành động trong tuyệt vọng.
“Dẫu
sao thì so với cái giọng chung , mình còn nhẹ nhàng chán – tôi tự nhủ vậy “ và, dù mang đến Tạp chí Văn học của Viện Văn, chỉ nhận được những cái lắc đầu, song vẫn hy vọng rằng có lúc được in.
Khoảng 2007- 2009, khi mới về hưu, tôi
được Hội nhà văn VN cho tiền để in một tuyển tập của riêng mình. Tiền rót qua
nhà xuất bản chứ tôi không được cầm. Cũng chỉ là số tiền mọn, đủ in có 500 bản, nhưng đã là sướng lắm rồi!
Tôi đã
nhân đây xem lại các bài viết của mình và chia các bài chọn lọc này thành
bảy cụm nhỏ, trong đó ban đầu có cả một cụm mang tên Văn học
SG trước 1975, gồm ba bài vừa nói ở trên,
cộng với các bài tôi viết về sau.
Nhưng rồi tự tôi thấy phải bỏ phần này đi.
Lý do chính là vì tôi thấy cả cụm còn chênh vênh quá. Ba bài tôi viết khoảng
1975-1980 ấy làm lộ rõ cái phần lạc hậu so với tình hình nghiên cứu nói chung cũng như so với chính
nhận thức của tôi.
Tuy có ý thức rằng mình phải viết khác mọi
người song nhìn kỹ, hóa ra hồi ấy tôi vẫn khó lòng thoát khỏi không khí chung của cả giới.
Cái giọng của tôi lúc ấy vẫn là
giọng của kẻ tiểu nhân đắc thắng, chỉ biết nhìn văn học miền Nam trong thế bế tắc và tìm
cách vạch vòi những chỗ bất cập, hơn là đặt mình vào địa vị của các đối tượng được nói tới, rồi ghi nhận những đóng góp của họ trong lịch sử văn học dân tộc.
Mặt khác, có một số chi tiết tôi tìm hiểu không kỹ, chỉ nghe thoáng đã viết, mà không kiểm tra lại -- rõ nhất là cái đoạn tôi
nói về quan hệ giữa các nhà văn với nhau.
Sẵn thiên kiến của người Hà Nội thì gán ghép
cho người Sài Gòn như vậy.
Trong cách sử dụng chữ nghĩa, đôi khi tôi đã chẳng khác là bao so với những đồng nghiệp được giao cho nhiệm vụ chuyên môn đánh văn học miền Nam mà trong thâm tâm, tôi thấy xa lạ.
Ngoài ra cũng phải nhận hồi ấy cả trong
cuộc đời lẫn trong văn chương, quan niệm của
bọn tôi còn mang nặng tính cách trung cổ, với văn nghệ chỉ huy đã quá ngán, nhưng nói tới tính cách thương mại thường là không cần ai bảo đã tự nguyện toát ra cái ý chê bai.
Chúng
tôi đâu biết rồi từ sau 1975, văn học cả nước cũng chuyển sang một thứ văn hóa
đại chúng học mót phần hiện đại phương Tây. Học không xong, mà lối làm ăn kiểu con buôn chạy vặt diễn ra còn tệ hại hơn .
Tóm lại mấy bài này nhiều cái dở quá. Chỉ là cái thứ để đọc một thời chứ không phải thứ sau này đọc lại. Nay muốn in vào sách tất phải sửa mà tâm thế của tôi lúc này chưa theo kịp.
Đó là những suy nghĩ đã chi phối tôi cho tới 2007 .
Từ thuở tôi viết được mấy bài báo ấy tới
nay đã gần bốn chục năm.
Quá
trình nghiên cứu về văn học Sài Gòn được khởi động khá sôi nổi ở cả trong nước cũng như ở hải ngoại. Chỉ hiềm một
nỗi theo tôi nó vẫn chưa đạt tới cái quy mô cũng như chiều kích cần thiết.
Ở Sài Gòn, nó bị khuôn vào cái khung phê
phán chẳng mềm đi bao nhiêu sau mấy chục năm.
Ở Hà Nội, cậy thế “trung ương" "con cả”, mọi người có mạnh bạo hơn, nhưng
lại không có ai thực hiểu biết để đặt ra các vấn đề văn học Hai mươi năm ấy ( 1954-1975),
như tầm vóc của nó phải có.
Để lại ấn tượng rõ nhất trong tôi là một
số bạn trẻ, trong sự bế tắc của việc viết
lách, chỉ muốn tìm tới một số đóng góp nghệ thuật của các bậc đàn anh, thế thôi.
Như tôi có viết trong một bài báo trên
blog này 12-2014, bài Nhân một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 , ngay ở hải ngoại, việc tổng kết này vẫn còn lúng túng lắm.
Một điều thấy rất rõ là căn bệnh của
nghiên cứu văn học ở trong nước với ở hải ngoại lại có chỗ giống nhau một cách
bất ngờ.
Cả hai thường mải đi vào định giá hiện tượng đơn lẻ nhà văn A. thế này, nhà văn B.thế kia..., hơn là phân tích toàn
bộ đời sống văn học trong cái xu thế mà nó phải vận động theo.
Việc thiếu khả năng bao quát để đặt sự việc trong hoàn cảnh lịch sử khiến cho nghiên cứu và sáng tác văn học trở thành câu chuyện riêng của mấy người làm nghề hơn là vấn đề của cả xã hội.
Dù viết về văn học miền bắc hay miền
nam, chúng ta thường chọn chỗ dễ để làm. Các
cây bút phê bình thành công nhất thường lấy điểm ở phần đi vào các cá nhân, các
phong cách. Còn phần đặc tính chung của cả nền văn học bị lướt bỏ rất nhanh.
Trong hoàn cảnh ấy, tôi có những suy tính
khác và nẩy ra ý công bố lại những bài mà mình đã viết gần bốn chục năm trước.
Ít ra thì trong loạt ba bài ấy, tôi đã muốn chỉ ra một vài luồng lạch chung văn học đã men theo; đã đặt văn học trong cái thời mà nó ra đời; đã sơ bộ nhìn nó như là sự nối tiếp của văn học tiền chiến ; và đã bước đầu đi tìm một cái xu thế tư tưởng nó ngấm ngầm chi phối con người VN trong chiến tranh và để lại ảnh hưởng cho tới thời nay.
Trong phạm vi những gì đưa lên blog, nghĩa
là một dạng đưa để tham khảo, tôi nghĩ
các ý kiến của tôi sau đây không chừng vẫn sẽ là
những gợi ý cho các bạn khác, còn những
thiếu sót của nó thì chắc các bạn cũng lượng tình tha thứ. Biết đâu nhờ đưa ra công khai tôi sẽ dễ thấy hơn thực chất của các vấn đề đã nêu, rồi chờ có dịp thì sửa lại và phát triển tiếp.
Xem bài tiếp
TÍNH CÁCH THƯƠNG MẠI CỦA NỀN VĂN CHƯƠNG SÀI GÒN
TRUỚC GIẢI PHÓNG .
Published on October 05, 2015 23:02
October 2, 2015
Nguyễn Du như một thi sĩ
Bài viết này được lần đầu trên Phụ san Thơ (19+20) của báo Văn nghệ, Hà Nội, số ra ngày
19-2-2005. Đã được đưa trên Talawas 15-3-05 với một vài chi tiết
sửa chữa và bổ sung. Tiếp đó in lại trên tạp chí Gió O với Lời giới thiệu sau.
Trong số những
cây bút phê bình lý luận Việt Nam hiện đại, Vương Trí Nhàn là một người từ mấy
chục năm nay đã tạo được một giọng điệu riêng khó lẫn. Ông không phải là người
tiếp cận thật sâu một vấn đề gì đó và triển khai nó đến tận cùng, mà thường vấn
đề gì cũng lướt qua một cách nhẹ nhàng, nhưng lại có những nhận xét khá thâm
thúy. Cách đây hơn 40 năm, qua thơ chữ Hán Nguyễn Du, tôi đã từng cố gắng gợi ý
với bạn đọc hình ảnh một con người trằn trọc suy tưởng - đối
lập với con người hành động của loại nhà nho tế thế nói chung
- nhằm tìm cho mình lời giải về mọi băn khoăn, hoài nghi mà cuộc đời trầm
thống thường xuyên đặt ra như muôn nghìn dấu hỏi, giằng xé tâm can mình (xin
xem Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán trên
mạng Gió-o tháng 4-2006). Triển khai ý tưởng trên, ở một khía cạnh mới, Vương
Trí Nhàn trong bài viết này đã nâng vấn đề con người suy nghĩ của
Nguyễn Du lên bình diện một con người đi tìm sự tự do, mở rộng tầm vóc mình
trong không-thời gian, thông qua sự đối diện với sách vở, cuộc đời và lịch sử,
mà thơ chính là phương cách tốt nhất để nhà thơ thể hiện sự tự do của mình,
cũng là cái ý thức tự giác về lý do tồn tại của chính mình. Nhờ đó thơ ông đã
sống mãi với đời, luôn luôn lấp lánh trong đó một chủ nghĩa nhân đạo vượt lên
khỏi màu sắc “thương” là lẽ thường tình của thế nhân, mà mang màu sắc “hiểu”,
mặt khác còn đặt ra cho người đọc những vấn đề có tính nhân loại, điều hiếm gặp
trong thơ văn truyền thống Việt Nam. Là người tâm đắc với những kiến giải nói
trên, xin mượn diễn đàn Gió-0 đưa bạn đọc đến thẳng với bài viết vốn không dài
của nhà phê bình, để sau khi thưởng lãm, bạn đọc tự giành cho mình quyền phán
xét.
Hà
Nội 11-4-2006 Nguyễn Huệ Chi
Lý do để sống
“Trong tư thế xếp bằng trên chiếu trải
giữa nền đất, ông ngồi trước một ấm nước chè xanh và một ngọn đèn vặn
nhỏ bằng hạt đậu. Lúc này ông không hề để mắt ngó qua đến sách vở, cũng
chả hút thuốc vặt, mà chỉ so vai lại, thu cả hai bàn tay vào lòng như
một người suốt cả đời luôn cảm thấy rét, hai con mắt lim dim nhìn xuống
chiếu đang nghĩ.“
Mở đầu một bài viết về Nam Cao, Nguyễn
Minh Châu từng vẽ ra hình ảnh tác giả Chí Phèo như vậy. Đoạn văn thật đã
bắt trúng cái thần của con người, và giúp người ta hình dung cách làm
việc kiểu tư duy nghệ thuật của Nam Cao.
Nhưng tôi ngờ rằng, trước Nam Cao khá lâu -
tính ra có đến già một thế kỷ -, có một người nữa còn thích hợp hơn với
cái cảnh ngồi giữa màn đêm, nghĩ ngợi sự đời, người đó là Nguyễn Du.
Dù là lúc sống thanh bần giữa mảnh đất
Nghi Xuân quê hương, hay khi chạy loạn dạt xuống Thái Bình; khi làm chức
quan cai bạ ở Quảng Bình, hay khi giữa đường đi sứ, dừng lại ở những Hồ
Nam, Hàng Châu, An Huy, Sơn Đông… xa lạ mấy đi nữa, thì ông vẫn thường
một mình một bóng như vậy. Và cái tư thế ngồi nghĩ trong đêm đó gợi cho
chúng ta thấy hình ảnh một loại nghệ sĩ xưa nay hiếm, song lại đáng được
coi là cái phần tự hào của nền văn học dân tộc.
Do sống trong một đất nước có lắm gian nan
nên phần lớn người nghệ sĩ trong xã hội Việt Nam trước tiên là những
người hành động.
Chẳng phải đến nửa cuối thế kỷ XX, với tư cách là những
công dân tham gia hai cuộc chiến tranh liên tiếp, các văn thi sĩ mới tự
nguyện sống theo cái tâm niệm
“Thà một cây chông trừ giặc Mỹ
- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương”.
Mà ngay trong các thế kỷ trước, con người
hành động cũng chiếm một phần lớn trong số những người làm thơ có tên
trong lịch sử.
Nguyễn Trãi tồn tại trước hết như một người tham gia cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, sau đó là một quan chức trong vương triều Lê. Không
kể cái tên Quân trung từ mệnh tập đã nói rõ ý nghĩa những bài văn của
ông, mà ngay những nét tâm tình bộc lộ trong thơ, xa gần cũng có liên
quan đến trách nhiệm công dân mà ông tự nguyện đảm nhận.
Nguyễn Công Trứ
mải miết làm bằng được các công việc được Minh Mạng, Thiệu Trị giao
phó. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng thơ văn để dạy đạo đức cho mọi người mà
cũng là kêu gọi mọi người cầm gươm đánh giặc.
Đặt bên cạnh những tiếng
nói sôi nổi đó thì Nguyễn Du có vẻ hơi “lạc đội hình”: Là con người của
những suy tư, ông mải nghĩ hơn mải sống, đúng hơn với ông, nghĩ là hình
thức tốt đẹp nhất của sự sống. Nghĩ bằng thơ, cố nhiên.
Một câu thơ có
vẻ bâng quơ khi tả hoa sen: Hoa để tặng người mình sợ (Hoa dĩ tặng sở
uý) cứ buộc người ta phải nhớ, bởi có cái gì đó vượt ra ngoài lối thơ đèm đẹp
thông thường để hứa hẹn với người ta rằng ở đây sẽ có những suy nghĩ
thâm trầm về sự đời.
Khi đã như vậy, chỉ có thơ mang lại cho
ông niềm vui và ý muốn làm việc, nó cũng là lý do để ông sống trên đời
này. Không thấy nói trong khi làm quan ông có được chính tích gì đáng
kể. Có vẻ như ông là một vị quan khá xoàng. Ngoài thơ, gần như ông chỉ
còn là con người thừa, con người vô dụng.
Cuộc tìm tòi của chính mình và về chính mình
Tâm lý ổn định vốn là một đặc điểm thường
thấy ở những con người hành động. Chẳng hạn như Nguyễn Trãi. Lý tưởng ở
ông rõ ràng. Niềm tin của ông mạnh mẽ. Nhiều bài thơ của ông có cái tên
ngôn chí. Mà chí với người xưa không chỉ đơn giản là lòng quyết tâm, ý
muốn thực hiện bằng được một việc gì đó, như ngày nay chúng ta vẫn hiểu.
Trong phạm vi đạo Nho, thực ra nó có một nghĩa cụ thể: khao khát muốn
làm cái gì đó cho đời và nhất là sống đúng theo những chỉ dẫn của thánh
hiền. Trước khi là nhà thơ, người xưa vốn không quên mình là nhà Nho, và
trước khi hành động, họ được giáo dục theo một lý tưởng chặt chẽ.
Bản thân Nguyễn Du từng biết đến cái thứ
chí đó. Tráng sĩ đầu bạc bùi ngùi ngẩng nhìn trời hùng tâm sinh kế mờ
mịt cả hai (Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên – Hùng tâm sinh kế lưỡng
mang nhiên) [1] . Cái hùng tâm theo nghĩa cổ điển đã từng là một trong
hai mối quan tâm lớn của đời ông. Thế nhưng nhìn chung đời Nguyễn Du thì
thấy ngay thực tế là cái tráng khí đó ngày càng phai nhạt và một trong
những đặc điểm làm nên chỗ khác của cả tập thơ chữ Hán của ông so với
các nhà nho chính hiệu: ở đây không có bài nào được gọi là ngôn chí cả.
Ông vẫn mê mải đọc sách, đọc bất cứ lúc nào có thể được:
Ở chốn tha hương thường soi gương xem vẻ mặt
Thì giờ đi trên đường gió bụi, một nửa là đọc sách
(Tha hương nhan trạng tần khai kính
Khách lộ trần ai bán độc thư)
Song cái nghĩa quân thân mà những người
như Nguyễn Trãi tự nguyện mang nặng trên vai, ông không san sẻ. Tự ông
trút nó đi tự lúc nào, trút đi để chuốc lấy những băn khoăn lớn hơn nặng
nề hơn và khó xác định hơn - băn khoăn sống sao cho ra một con người.
Cảm động thay lúc cùng đường vẫn được trăng đến thăm
(Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến)
Tóc bạc rồi dù có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi
(Bạch phát hùng tâm không đốt ta)
Ngọn cỏ bồng lìa gốc trước luồng gió tây thổi mạnh
Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi đâu
(Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp
Tất cánh phiêu lưu hà xứ quy)
Những câu thơ trên đều trích trong Thanh Hiên thi tập.
Từ những bài thơ làm trong mười năm gió bụi này, người ta đã thấy cảm
giác bao trùm trong Nguyễn Du là bất lực và vô vọng.
Trong khi các nhà
thơ chủ trương thi ngôn chí cùng là văn dĩ tải đạo thường khuyên con
người ta phải sống như thế này, phải cảm nhận đời sống theo kiểu kia -
và sản phẩm thơ ở đây giống như những câu trả lời - thì Nguyễn Du hầu
như triền miên sống trong băn khoăn; ông không tìm ra ý nghĩa cuộc đời.
Từ đấy, động cơ chi phối thơ ông về sau sẽ là cuộc tìm tòi của chính
mình và về chính mình. Thơ nhiều khi hiện ra như những lời cật vấn,
những câu hỏi siêu hình, trừu tượng, nó làm cho những gì ông viết ra có
cái giọng khác đời, còn ông thì đạt tới tầm vóc của một kẻ sống hết tầm
người, sống để đối diện với những vấn đề của cả nhân loại.
Và, trong thâm tâm, Nguyễn Du biết điều đó.
Không biết hơn ba trăm năm sau
Thiên hạ ai người khóc Tố Như
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như)
Mấy câu thơ ấy thuộc loại được nhắc nhở
nhiều nhất mỗi khi nói tới Nguyễn Du. Nhiều người chỉ thấy đấy là lúc
ông thương cảm cho số phận của mình. Nhưng tôi tưởng ở đây còn có một
cái gì khác, một niềm riêng tây nằm ở mãi trong tiềm thức nhà thơ. Trước
một tài năng bị nhiều thiệt thòi (phần lớn thơ Tiểu Thanh đã bị đốt)
ông hình dung ngay ra tương lai của mình và chỉ nói tới tiếng khóc.
Nhưng đằng sau chữ khóc ở đây phải chăng còn có chữ biết? Bởi người ta
chỉ khóc về những người mà người ta biết và cảm phục. Thành thử, có thể
chính Nguyễn Du chưa cảm nhận đầy đủ, song ở ông đã ẩn sẵn cái ý thức
sâu xa về sự có mặt của mình trong tương lai, một cách “ở lại với lịch
sử”. Trong một hoàn cảnh mà xã hội cứ muốn kéo người ta xuống – chế độ
phong kiến vốn nổi tiếng với những ràng buộc kiểu đó, trước hết là ràng
buộc về tư tưởng –, có thể nói đây là một sự vượt ngoài thông lệ.
Từ lối gián cách cần thiết tới một sự giải phóng
Một phần đáng kể thơ chữ Hán của Nguyễn Du là thơ đi sứ.
Đi sứ thời tác giả Truyện Kiều
sống là gì? Là rơi vào đơn độc, là xa gia đình và môi trường quen thuộc
hàng năm liền, là cắt đứt mọị giao thiệp cảm tính hàng ngày để phải
đóng vai người đại diện cho đất nước ở một xứ sở xa lạ…
Có nhớ lại hoàn
cảnh địa lý và phương tiện đi lại, nhớ lại tình trạng tâm lý phổ biến
của con người hai trăm năm trước, mới hiểu tại sao với người xưa, việc
đi sứ lại trở nên đáng sợ như vậy. Nhưng với những con người đã tự khẳng
định thì đây lại là một cơ hội tốt. Cơ hội dứt bỏ cái mè nheo phiền
phức hàng ngày. Cơ hội lùi ra xa để nhìn mọi chuyện. Cơ hội vượt lên cái
đời sống trần trần ai cũng thấy, để sống với một đời sống bao quát hơn
mà cũng là tinh tuý hơn.
Nguyễn Du chính là một người khai thác
những cuộc đi sứ theo ý nghĩa ấy và đây là điều bộc lộ khá rõ trong thơ
đến mức không giấu được ai.
Ngay từ lần xuất bản đầu tiên 1958, những
người chuẩn bị cho việc in thơ chữ Hán Nguyễn Du là Bùi Kỷ, Phan Võ,
Nguyễn Khắc Hanh đã nhận xét: khi ở trong nước, “Nguyễn Du thường
than thở là tiếu đề tuẫn tục nghĩa là phải chiều theo đời cả tiếng cười
tiếng khóc cũng không được tự do, nhưng lúc này là lúc ở nước ngoài,
cười tha hồ cười, khóc tha hồ khóc, Nguyễn Du muốn nói ra cho sướng
miệng hả lòng cho nên văn khí trong phần này xem ra khảng khái hùng
tráng” [2] .
Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII
nửa đầu thế kỷ XIX cũng cho rằng trong lúc đi sứ, nhà thơ mới “có thể
nói điều mình muốn nói” [3] .
Quả thật trong việc đi sứ - để dùng lại
thuật ngữ của khoa nghiên cứu văn học ngày nay -Nguyễn Du có dịp sử dụng
sự gián cách để lạ hoá đời sống. Những tiềm năng trong ông được đánh
thức. Những ràng buộc quen thuộc bị gạt bỏ, ông như tìm tới một bậc tự
do mới cho sự suy nghĩ của mình. Người nghệ sĩ trong ông vượt lên tưởng
như không bị một giới hạn nào ngăn cản.
Hai chữ cổ kim vốn đã xuất hiện
trong Nam trung tạp ngâm giờ đây lại luôn luôn thấy lặp lại trong Bắc
hành tạp lục.
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam – tôi muốn nói cả thơ hiện
đại – có một hồn thơ đi xa rộng trong không gian thời gian như Nguyễn
Du.
Giá như được sống trong thế giới hôm nay, ông sẽ thích cái lý luận
về thời gian lớn của nhà triết học Nga M. M. Bakhtin.
Đi cụ thể hơn vào cuộc Bắc hành của người
từng viết Kiều.
Trong khi thơ đi sứ của nhiều người khác chỉ tồn tại
trong hình thức thù tạc tầm thường hoặc những cuộc đấu trí mang tính
cách giai thoại, hoặc cùng lắm là những bài thơ sụt sịt nhớ vợ nhớ con
và mong sớm gặp lại gia đình, làng xóm quê hương - thì với Nguyễn Du, tình hình có phần
ngược lại.
Ông sống với con người và cảnh vật xứ người một cách hết
lòng, không chỉ suy nghĩ về hiện tại mà còn thường xuyên trở lại với quá
khứ; không chỉ xót xa với hoàn cảnh khốn khổ của những người dân thường
như ông già hát rong ở Thái Bình, hoặc bốn mẹ con một người hành khất
(là những bài thơ lâu nay được các nhà nghiên cứu dành cho quá nhiều sự
ưu ái), mà còn đặt mình vào tình thế của những nhân vật kỳ vĩ, hội tụ
các vấn đề lớn của đời sống, như Khuất Nguyên, Kinh Kha, Tô Tần, Nhạc
Phi, Tần Cối… để nghĩ về những vấn đề khá trừu tượng.
Một đặc điểm của
lịch sử Trung Hoa là ở đó có nhiều nhân vật đa dạng. Tôi trung vua hiền
có, mà kẻ gian giảo xảo quyệt cũng rất nhiều, cái gì ở đây dường như
cũng cực đoan cũng quá đáng.
Lịch sử lại sớm được ghi chép thành những
khuôn mẫu, đồng thời mở ngỏ khả năng để người đời sau đánh giá lại.
Như
nhiều nhà Nho Việt Nam, Nguyễn Du sớm được tiếp xúc các mẫu người đã ổn
định đó qua sách vở.
Ông không bằng lòng với cách giải thích thông
thường.
Trước đối tượng nào ông cũng nghĩ và buộc mọi người cùng nghĩ
với mình .
Bậc thánh vì danh hay vì thực nào ai biết?
(Thánh nhân danh
thực hữu thuỳ tri?)
Xưa nay ai là người có thể phá bỏ cuộc mê này?
(Kim
cổ thuỳ năng phá thử mê?)
Hồn ơi hồn ơi hồn làm thế nào?
(Hồn hề, hồn
hề, nại hồn hà?).
Những câu hỏi như vậy luôn luôn được đặt ra. Lịch sử
với ông không còn là cái tất yếu không thể cưỡng lại mà là cái lẽ ra nên
khác và luôn luôn có thể khác.
Nhiều người đã nói tới việc Nguyễn Du dùng
những nhân vật lịch sử Trung Hoa để liên hệ tới hoàn cảnh của mình,
tương tự như việc ông dùng cốt truyện mượn từ Thanh Tâm tài nhân,
câu chuyện về mấy chị em Kiều để miêu tả xã hội Việt Nam.
Nhưng có lẽ ở
đây còn có thể nói tới một cái gì xa rộng hơn: những câu thơ hay nhất ở
đây dường như đã chạm tới những vấn đề của nhân loại.
Trong một nhận
xét tạt ngang, nhà nghiên cứu Phan Ngọc có lần nói rằng văn hoá Việt Nam
có phần nhẹ chất nhân loại mà nặng chất dân tộc, và đó là một nhận xét
đúng.
Bởi vậy, một khi thơ chữ Hán Nguyễn Du, bằng con đường riêng của mình, góp
phần vào việc bổ sung cho cái mặt thiếu sót đó, chúng ta lại càng thấy
trân trọng!
Cũng như cái chất siêu hình mà các sáng tác của Nguyễn Du
đạt tới không phải là một điều đáng xấu hổ, như một ít nhà nghiên cứu
nghĩ, mà thực ra đáng tự hào. Ở nước nào cũng vậy, người ta thường vẫn
ghi nhận phẩm chất đó như là một dấu hiệu chứng tỏ một nền thơ đã trưởng
thành.
Cảm thông và thức tỉnh. Thử làm một cuộc đối chiếu
Xưa nay nói đến Nguyễn Du, mọi người nghĩ ngay tới Truyện Kiều mà người đọc quen gọi gọn lại là Kiều .
Trong một cuốn sách tập hợp các bài viết về Nguyễn Du in ra gần đây [4] , phần viết về Kiều
lên tới 815 trang trong khi phần viết về thơ chữ Hán chỉ vẻn vẹn có 128
trang.
Tiếp tục làm cuộc thống kê thuần tuý số lượng thế này, người ta
thấy ở sự cảm thụ của các cây bút nghệ sĩ như Hoài Thanh, Xuân Diệu lẫn
những chuyên gia như Nguyễn Lộc, tỷ lệ cũng là tương tự. Giáo trình của
Nguyễn Lộc dành số trang viết về Kiều năm lần lớn hơn số trang viết về
thơ chữ Hán.
Trong hoàn cảnh ấy thì một số nhận xét viết trong Lời nói đầu bộ Nguyễn Du toàn tập in ra gần đây là một sự đính chính cần thiết.
Theo như Mai Quốc Liên, người viết Lời nói đầu này, thì đừng vì đã có Kiều mà ra lòng rẻ rúng thơ chữ Hán. Bên cạnh Kiều phần thơ này cũng là một toà lâu đài sang trọng. Tỉ mỉ ra còn phải nói “Truyện Kiều
là diễn âm, lỡ tay mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là sáng
tác và nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du” [5] . Nói
cách khác, nếu ở Kiều người ta mới thấy tấm lòng và tài năng, thì tới thơ chữ Hán, người ta thấy được cả tầm vóc, bản lĩnh Nguyễn Du.
Trong phạm vi tìm hiểu còn nông cạn của
mình, tôi cũng có cảm tưởng như Mai Quốc Liên và muốn nói rõ hơn cái
phần tâm huyết do đó là cái phần chân dung của Nguyễn Du trong thơ chữ
Hán bằng cách thử làm một cuộc đối chiếu:
Kiều được nâng niu do giá trị của tác phẩm
đã đành, nhưng còn xuất phát từ hai khía cạnh làm nên truyền thống cảm
thụ của nhiều thế hệ người đọc ở ta: một là dễ nao lòng trước những gì
đau xót gợi ra thái độ cảm thương và hai là coi trọng cái đẹp cảm tính
hơn là cái đẹp lý tính.
Không phải ngẫu nhiên, nói về Kiều, nhiều
người nghĩ ngay đến tiếng khóc.
Xuân Diệu bảo đó là tiếng khóc vĩ đại.
Trong số những bí mật cần được lý giải về khả năng phổ biến của Kiều,
đấy chính là yếu tố thứ nhất.
Song phải thấy ngay rằng sự cảm thương
(hay rộng hơn là cảm thông) nói ở đây là hồn nhiên tự nhiên. Nguyễn Lộc
khi phân tích nhân vật chính của Đoạn trường tân thanh nhiều lần
dùng đến hai chữ ý thức, bao gồm từ “ý thức về cuộc sống” cho tới “ý
thức làm người”, và riêng với đoạn cuối tác phẩm thì cho rằng nàng Kiều
thuộc loại tuyệt vời ý thức [6] .
Bởi lẽ với nhiều người chúng ta, Kiều
là một con người lý tưởng, nên sự tôn vinh như thế thật dễ hiểu. Ta muốn
dành cho Kiều mọi thứ tốt đẹp.
Nhưng tôi tưởng nếu xem ý thức như một
sự thấu hiểu có vận dụng đến sự xét đoán phân tích bằng tư duy, thì làm sao có thể
nói là Kiều đạt tới cái trình độ cần thiết ấy cho được?!
Thử nghĩ lại mà xem, chẳng phải nghĩ tới
Kiều là người ta nghĩ đến những lầm lẫn của nàng? Trước chuyện gia đình
bị vu oan, nàng không bao giờ thử ngồi suy xét xem đầu đuôi mọi chuyện
thế nào, vì đâu đến nông nỗi đó, mà chưa chi đã nghĩ ngay đến chuyện bán
mình chuộc cha.
Cũng vậy, nhìn chung cả cuộc đời Kiều, cái phần hấp dẫn
nhất là tình, nhưng đó là thứ tình thiếu sự hướng dẫn của lý trí.
Ma
dẫn lối quỷ đưa đường – lại tìm những lối đoạn trường mà đi, khi khái
quát vậy, Nguyễn Du quả đã bắt trúng cái thần của nhân vật, và ông đã
diễn tả Kiều theo cái cách đó bằng tất cả tài năng kỳ diệu của mình.
Chẳng phải là với nhiều người chúng ta, những đoạn Kiều gần gũi nhất là
những đoạn buồn: Là đoạn khái quát cuộc đời Đạm Tiên? Là đoạn Kiều trao
duyên lại cho em? Là đoạn Kiều nhớ nhà?…
Những vấn đề tư tưởng ấy lại thấm cả vào mỹ cảm và nghệ thuật. Xét về vẻ đẹp thì quả thật Truyện Kiều
là một cái gì chín đầy rực rỡ. Nhưng phải nói thêm, ngay trong việc vận
dụng thể lục bát, cái đẹp ở đây nhiều khi đã như lạ lùng ma quái. Trong
Văn chương Truyện Kiều in lần đầu năm 1945, Nguyễn Bách Khoa tức
Trương Tửu từng có sự cảm thụ tinh tường nét đặc sắc này của tác phẩm
[7] . "Ghê gớm thay là cái điệu thơ lục bát nó triền miên cuốn người ta
theo cái tâm hồn sầu thảm và làm lan toả mãi mối cảm thương trước một
hoàn cảnh bất lực. Với việc đưa lục bát lên đến tuyệt đỉnh, Truyện Kiều an ủi chúng ta nhưng cũng giữ chúng ta trong một sự cam chịu không cưỡng lại nổi."
Ở chỗ 3.254 câu Kiều dừng lại, thì thơ chữ
Hán bắt đầu.
Mấy chữ tuyệt vời ý thức, mà Nguyễn Lộc nói, nên dành cho
thơ chữ Hán.
Giọng thương cảm vẫn còn, nhưng nó chỉ giúp vào việc làm
tăng hiệu quả của cái phần suy nghĩ chỉ có ở những người thông thạo sách
vở. Cảm quan hoài nghi kín đáo nhưng bàng bạc khắp nơi, một thứ hoài
nghi lành mạnh.
Lời kêu gọi toát lên từ những dòng thơ Phản chiêu hồn,
Độc Tiểu Thanh ký: Hãy nhìn rộng ra cả thế giới. Hãy biết đến những gì ở
ngoài mình, ở ngoài xứ sở của mình nữa. Khóc một chút thôi rồi hãy lau
nước mắt mà nhìn vào sự thực...
Cố nhiên, vốn xa lạ với thứ thơ thuyết
giáo dạy dỗ mọi người, Nguyễn Du không nói những câu bắt đầu bằng chữ
hãy ấy với người đọc, song chính là từ các câu thơ người đọc nhận ra
những gì mà tác giả tha thiết. Thậm chí ngay cả khi Nguyễn Du thú nhận
sự bất lực rơi vào tuyệt vọng thì thơ ông vẫn có khả năng thúc đẩy sự
suy nghĩ trong ta và kéo chúng ta về phía ánh sáng của trí tuệ.
Vẻ đẹp trong thơ vốn có nhiều sắc thái
khác nhau.
Trong Kiều có vẻ đẹp của Long lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc non phơi bóng vàng,
lại có vẻ đẹp của những câu thơ đơn
giản kiểu như:
Mai sau dù có bao giờ.
Song ở Kiều loại thứ nhất nhiều
hơn.
Còn loại thứ hai thì phải đến thơ chữ Hán mới thật là có một sự
trình diện liên tục:
Ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được
(Song ngoại hoàng hoa tú khả xan);
Hoa để tặng người mình sợ
(Hoa dĩ
tặng sở uý);
Lúc múa may quay cuồng điên dại nhất là lúc đẹp nhất
(Tối
điên cuồng xứ tối phong lưu)...
Nhìn chung lại, nếu Kiều khai thác mối
cảm thông giữa người với người, thì thơ chữ Hán chọn cách tác động của
sự thức tỉnh.
Kiều an ủi ta, còn thơ chữ Hán làm phiền ta, buộc ta phải
đặt lại nhiều vấn đề của đời sống.
Kiều là du xuân, là tiếng khóc nhớ
nhà, là những cảnh đầy ải không rõ nguyên nhân tại sao.
Thơ chữ Hán là
chuyến đi xa đơn độc, là con người đối diện với sách vở, với thời gian
và lịch sử. Kiều gợi không khí của những ngày ê chề buồn bã, mộng thực
lẫn lộn.
Thơ chữ Hán là những đêm không ngủ suy xét sự đời.
Người làm
thơ trong Kiều thủ thỉ tâm sự vỗ về bạn đọc.
Người làm thơ trong thơ chữ
Hán đòi hỏi chất vấn chúng ta, buộc chúng ta đối mặt với cuộc làm người
vất vả mà thú vị.
Nhưng chính vì vậy thơ chữ Hán là sản phẩm của sự
trưởng thành. Chủ nghĩa nhân đạo thường được hiểu một cách giản dị: chia
sẻ với nỗi đau khổ của con người. Tóm lại là một chữ thương.
Trong thơ
chữ Hán, Nguyễn Du đã đi gần tới một thứ chủ nghĩa nhân đạo khác - chủ
nghĩa nhân đạo của sự hiểu.
Đó là một quan niệm chỉ trong thời hiện đại
mới được nẩy nở đầy đặn. Và nó lại cũng chính là thứ chủ nghĩa nhân đạo
cần cho chúng ta hôm nay hơn cả. Chữ tâm đối với Nguyễn Du lúc này không
còn là một thứ sụt sùi thương cảm, để che giấu sự bất lực; tâm đã biến
thành cái hích đầu tiên buộc đầu óc chúng ta làm việc, bước đầu tiên để
giúp con người sống đúng tầm người.
Tiếng rền của núi
Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh từng thử đếm và thấy trong 65 bài ở Thanh Hiên thi tập
có đến mười bảy lần nhắc đến mái đầu bạc. Tiếp tục lối thống kê ấy,
người ta có thể nhận ra nhiều chi tiết cho thấy sự già dặn ở con người
Nguyễn Du. Trong thơ ông người ta gặp những ngày lạnh hơn những ngày
nóng, gặp mùa thu mùa đông nhiều hơn mùa xuân mùa hè, gặp ánh trăng gợi
những ý tưởng hư vô xa xôi nhiều hơn mặt trời thôi thúc người ta chen
cạnh với đời.
Những đêm không ngủ của Nguyễn Du mà phần trên đã nói cũng phụ hoạ thêm cho cảm giác đó:
Suốt đêm nghĩ ngợi thao thức không ngủ
Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng suông
(Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung)
Đêm khuya, băn khoăn một mình đối bóng
Nằm trên giường nghe mưa tầm tã mà sốt ruột
(Trùrướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh )
Không chỉ già trước tuổi, Nguyễn Du còn
hiện ra như một người thâm trầm lặng lẽ sống nhiều với nội tâm. Ta có
thể đoán hàng ngày, có vẻ như ông là người ít nói ngại nói. Người ta có
lúc đã nghĩ nhầm về ông. Một nhà nghiên cứu tả ông như “một kẻ tuỳ thời,
ích kỷ, nhút nhát thích an nhàn, mơ giàu sang, sợ biến cố và tranh đấu”
[8] .
Chỉ có thơ chiêu tuyết cho ông. Một bài như Phản chiêu hồn cho thấy một cách nghĩ quyết liệt hiếm có:
Thành quách vẫn như cũ nhưng nhân dân đã khác rồi
(Thành quách do thị nhân dân phi)
Đời sau ai ai cũng là Thượng Quan
Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La
(Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La)
Thượng Quan là kẻ chuyên môn gièm pha. Còn
Mịch La là tên con sông Khuất Nguyên tới trẫm mình. Ai cũng là Thượng
Quan, đâu cũng Mịch La, nghĩa là cuộc đời này hỏng hết rồi!
Trong thơ
xưa nói chung ít khi thấy một lối nói đến kiệt cùng chi lý, nói trăm
phần trăm, nói không chừa một chỗ nào để lùi.
Lỗi phạm quy của Nguyễn Du
là cố ý!
Nên để ý thêm là dưới con mắt của các sử gia từng viết Đại nam chính biên liệt truyện,
thì Nguyễn Du là người ngạo nghễ tự phụ [9] .
Thời phong kiến, những
người có chính kiến riêng, tức là những người trẻ trung tươi mới trong
cách nghĩ, thường bị ghép cho cái tội đáng ghét ấy. Nguyễn Du cũng ở
trong số này chăng?
Ta vốn có tính yêu núi. Trong bài Tiềm sơn đạo trung in trong Bắc hành tạp lục,
vụt lên một câu thơ lạ vậy. Trong nguyên văn chữ Hán Túc hữu ái sơn
tích, chữ tích ở đây có nghĩa là một thứ tật, một thói quen đã bền chắc
như là một sự nghiện ngập, và muốn cho chính xác phải dịch thành Ta vốn
nghiện núi. Tôi cho rằng đây là một trong số những câu thơ đáng nhớ vì
có ý nghĩa thông báo về tác giả. Hoá ra Nguyễn Du không phải chỉ là cát
vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia; mà hình ảnh gợi đúng về ông phải là những
ngọn núi, núi đơn độc, núi vượt lên trên sự bằng phẳng. Và thơ Nguyễn Du
là một thứ tiếng rền của núi!
Liệu có thể nói cái phần bên trong rắn rỏi
khoẻ mạnh lão thực mới là phần chính trong con người ông? Nếu thế thì
còn có thể nói là ông trẻ trung mãi mãi.
-------
[1]Thơ trích trong bài đều lấy từ Thơ chữ Hán Nguyễn Du do Lê Thước Trương Chính biên soạn, NXB Văn học, 1965
[2]Dẫn theo Hoài Thanh, Tâm tình Nguyễn Du
qua một số bài thơ chữ Hán, 1960. Chính Hoài Thanh sau khi dẫn đã viết
thêm “Nhận xét này rất đúng».
[3]Sách dẫn trên, bản của NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp 1978, tr. 43
[4]Nguyễn Du. Về tác giả và tác phẩm, Trịnh Bá Đĩnh biên soạn, NXB Giáo dục, bản in 2003.
[5]Dẫn theo bản in lại trong sách Nguyễn Du. Về tác giả và tác phẩm, tr. 120
[6]Nguyễn Lộc, sđd, tr. 98
[7]In lại trong Nguyễn Bách Khoa, Khoa học văn chương, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu NXB Văn hoá thông tin, 2003
[8]Ý của Nguyễn Bách Khoa tức Trương Tửu, Trương Chính dẫn lại trong Lời giới thiệu Thơ chữ Hán Nguyễn Du, xem sách này tr. 30
[9] Dẫn theo Nguyễn Lộc, tr .17
Đã in trên blog này ngày 7-12-2004
và đưa lại vào tuyển tập Vương Trí Nhàn -- Phê Bình và tiểu luận, 2009
Published on October 02, 2015 06:48
September 17, 2015
Đời sống ra sao thì văn chương như vậy ( bài tiếp)
QUÀ VẶT
& CÂU CHUYỆN VỀ SỰ TIẾN HÓA
Yên Ba: Trong một bài phiếm luận, anh đã nói đến văn hoá quà vặt. Trong văn học cái sự “quà vặt hóa” này diễn
biến ra sao?
Vương Trí Nhàn: Phần trên tôi đã
nói chính những người Trung quốc cũng
công nhận họ phải đi theo quy luật chung
mọi nền văn hóa trên thế giới. Bất chấp việc xã hội ta các nhà văn ta có muốn
hay không ở VN cũng vậy. Nó sẽ trải qua mọi bước suy đồi mà các nền văn học đều
có, thậm chí nếu ở VN sự suy đồi ấy có thê thảm hơn cũng là tự nhiên.
Nay đang
là thời hậu chiến. Nhà nước thì cố gắng giữ lấy nền văn hóa hàn lâm nửa mùa theo kiểu “văn
dĩ tải đạo”. Nhưng nay là lúc nội lực của các nhà văn đang cạn kiệt mà cơ quan
chỉ đạo cũng không còn kỳ vọng nắm cổ văn nghệ một cách quyết liệt như cũ. Miễn là nhà văn đừng có lớn tiếng phản đối là
được, ngoài ra người ta sẵn sàng chấp nhận họ là một đám công chức loàng xoàng,
nuôi báo cô qua ngày. Nhiều người cầm bút hiểu và chấp nhận. Một mặt nhênh nhang làm
hàng giả ăn lương. Mặt khác lầy phầy chơi bời hoặc ngồi chửi đổng. Công chúng cũng vậy. Công
chúng đã mất hết khả năng săn tìm những giá trị lớn, bao gồm cả văn học cổ
điển. Nay công chúng phần lớn chỉ thích
cái thứ gì chiều nịnh họ giải khuây cho họ giúp họ lảng tránh những vấn đề
trước mắt .
Văn hóa quà vặt ra
đời là vậy.
Đại khái, có thể
kể ra những dấu hiệu chính của một nền
văn học được làm theo kiểu quà vặt.
-- Có khả năng đáp
ứng một cách linh hoạt những yêu cầu xã hội nhưng nhìn kỹ sản phẩm làm ra toàn
những thứ lụn vụn không có giá trị thực.
-- Sự nhạy cảm
không đi kèm với một khả năng suy nghĩ sâu sắc. Một sự sáng tạo thường trực
nhưng trình độ lại loàng xoàng. Giống như các loài sinh vật bậc thấp, đẻ nhiều
đẻ khỏe để rồi mỗi kiếp sống lại là sớm nở tối tàn...
Một mặt phải công
nhận là đời sống văn hoá có vẻ nhộn nhịp, sôi nổi, sặc sỡ, song mặt khác lại cứ
có chút gì như là làm cho vui thưởng thức cho vui, chứ không phải là cái gì
thiết yếu không có không được. Và cũng không thiếu những cái độc hại -- độc hại theo tiêu chuẩn nhân bản nhân văn chứ không phải theo con mắt các nhà chính trị.
Tại sao lại nẩy sinh khuynh hướng quà vặt đó?
“Bao lần đất
nước đứng lên – Bởi vì đất mỏi cho nên đất nằm”. Câu thơ này Xuân Sách làm để khái quát quá trình cầm bút của Nguyên Ngọc. Nó không đúng với tác giả Đất nước đứng lên vì tới nay ông vẫn còn hăng hái lắm dù chỉ là
hăng hái trong các hoạt động xã hội chứ không phải chuyên về sáng tác. Nhưng sự mỏi mệt ấy lại là bước đường phải tới của cả nền văn chương tuyên huấn cứng quèo hôm qua. Mượn thuật ngữ của tâm lý học, đây chính là một
dạng của stress. Trước áp lực quá lớn của đời sống hiện đại, người ta
sinh ra lảm nhảm không tự biết mà cũng không cần biết. Mệt quá,
cho phép mình ngả ngốn chơi bời rồi tự biện hộ cho mình rằng như thế là tự do,
là dám chống đối.
Xu thế quà vặt là
kết quả của một phức hợp tâm lý mà tôi tạm diễn tả như sau: Một mặt mọi người
ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy có ngay một cái gì đấy, với người
viết nó là chuyện khẳng định thành
tựu tài năng, mà với bạn đọc nó là nhu
cầu tiếp nhận hưởng thụ văn chương. Mặt khác, trình độ khả năng thì có hạn,
không những nhà văn chưa thể làm một cái gì gọi là lớn lao mà chính bạn đọc
cũng chưa thấy cần phải có cái lớn lao đó. Tinh thần thực dụng đã chi phối tất
cả. Chúng ta luôn dễ dãi với nhau, không phải chỉ là chuyện khen tụng vuốt ve
nhau trên báo chí, mà trong rất nhiều chuyện lớn nữa. Ví dụ đưa một tác giả vào
cho học sinh học ở nhà trường rất dễ dãi. Cả những cái không đáng là văn chương
cũng được giới thiệu trang trọng. Tôi là người phản đối đưa văn học sau năm 1945
vào giảng dạy ở nhà trường một cách quá mức. Ở ta có thói quen là đưa văn
chương vừa in ráo mực vào trường học, lấy cớ rằng muốn văn chương phục vụ chính trị cần đưa cái mới vào cho kịp
thời. Tôi đáp lại: Hãy giảng dạy văn học cổ điển nhiều hơn nữa, còn với thứ văn
chương vừa viết ráo mực, cần phải có độ lùi, có thử thách. Các nhà văn muốn lớp
trẻ đọc, thì đến mà nói chuyện với họ
thuyết phục họ, đừng bắt họ phải học.
Có
vẻ như anh rất thích tìm ra mối liên hệ giữa văn chương và đời sống, thích giải thích văn chương bằng
đời sống.
Đó là một hướng suy nghĩ cần thiết, “Văn học
ta tầm thường bởi đời sống ta quá tầm thường “-- bản thân tôi những năm gần đây luôn luôn bị ám ảnh bởi cái
ý tưởng đơn giản đó.
Thời tôi bắt đầu
cầm bút tức năm chục năm trước, văn chương khô hạn trong xu thế khổ hạnh. Nay
thì văn chương bung ra, bề ngoài thực lắm đề tài lắm giọng điệu, xem kỹ hóa ra
lại một thứ công thức mới. Nhưng đó không phải tội riêng của văn chương, nó là cái
hướng vận động của đời sống Nhiều người
bây giờ sống vội quá, ham làm giàu, ham hưởng thụ, buông thả bừa bãi cho
đó là mới là đang tiến kịp trào lưu thế giới. Khuyến khích nhau làm giầu là
cần, nhưng cần hơn là bảo nhau đừng làm để mà làm, mà phải đặt yêu cầu cao với
những thứ đang làm, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và tìm cách đạt được chuẩn
mực quốc tế. Tại sao hàng Tàu tràn ngập phố xá cửa hàng xứ mình? Là do họ làm rẻ và tốt hơn, còn hàng ta
vừa đắt vừa xấu. Văn chương, phim ảnh mình mới ít mà đã lạm phát. Sản xuất lắm
phim làm gì, trong khi phần nhiều phim chẳng ra phim. Làm thơ cũng thế, dịch
sách cũng thế.
Sự dung tục vốn sẵn trong văn hóa dân gian là bộ phận nòng cốt của văn hóa ta. Kiểu như thời
Trạng Quỳnh thi vẽ với sứ Tàu thì chấm
mười ngón tay vào mực mà vẽ thành mười con giun rồi cười đắc chí. Nay lối láu cá đó lại trở thành
phong cách thời đại. Ngồi ở hàng nước, mấy cậu thanh niên nói tục xong rồi cười
hô hố với nhau; trên ti vi cũng thi nhau cười những cái không đáng cười. Bệnh
dung tục bộc lộ từ trong cách làm việc
lẫn cách ăn nói, quan hệ và rõ nhất
trong khẩu vị thưởng thức những khi vui chơi giải trí. Đạo diễn Nguyễn
Đình Nghi hồi còn sống thường than phiền với tôi rằng sân khấu hiện nay không
thể phát triển được bởi vì không có một không khí sân khấu thực sự. Người ta đi
xem kịch buồn cười lắm, khán giả nhiều nơi vừa xem, vừa cắn hạt dưa và nói
chuyện, càng những đoạn nhố nhăng thì
càng có nhiều tiếng cười thích thú. Làm sao có thể đề cao những khán giả ấy
được, và với những khán giả ấy, làm sao
có thể đòi hỏi sân khấu đi lên? Chuyện gì cũng coi như chuyện đùa ư? Đó là cái chết ! Tôi không muốn đùa theo kiểu
ấy được, tôi luôn nghĩ rằng phải nghiêm túc trong công
việc, nghiêm túc còn chẳng ăn ai, nữa là vẩn vơ đùa bỡn. Ai bảo tôi là mắc cái bệnh là quan trọng hoá, tôi xin
chịu.
Phải anh muốn nói
rằng mọi thứ văn chương văn hóa sặc sỡ hiện
nay chẳng phải là một điều đáng tự hào ?
Trước tiên tôi “đọc” thấy lối tự hào đó trong
tâm lý của những người trong cuộc. Khi của cải làm ra chẳng có gì hơn, người ta
quay về tự ca tụng. Rồi sự tự hào này lại được các ông chủ văn nghệ công nhận.
Họ phải công nhận vì văn nghệ thành công tức là họ có thành tích; trong sự dắt
dẫn, họ đã có công lớn. Xin nói tiếp về mối liên hệ giữa văn chương và đời
sống Hãy nhìn vào sự sản xuất nói chung. Hàng hoá chúng ta làm ra nhiều, nhưng không
có cái gì độc đáo mới lạ càng không bao giờ theo kịp nhu cầu con người hiện đại.
Nhà xây nhiều nhưng không có nổi một khu phố đẹp. Chung quanh các con đường
giao thông huyết mạch xứ sở, các thành phố phình ra và cả nước gợi ra hình ảnh
con người có bộ ruột khổng lồ. Tất cả cứ làng nhàng mà tồn tại bên nhau. Cách
làm ăn này này cũng chi phối cả sự sản xuất tinh thần. Các điệu múa giống nhau.
Các tượng đài lặp đi lặp lại. Các tiết mục sân khấu đều kết thúc có hậu . So
với sức ta cái ta viết ra không phải là
ít, nhưng khi làm không nghĩ chuyện lâu dài, nghĩ đến những việc có thể tác
động lớn, thật sự có ích cho xã hội. Nói
riêng trong khi viết phê bình, các đồng
nghiệp của tôi thường chỉ cãi nhau quanh
một vài chuyện linh tinh, rồi bẻ câu, bẻ chữ, mà không đặt ra những vấn đề lớn của văn học để
cùng suy nghĩ và giải quyết. Tầm nhìn của một con người của một cây bút quá hạn
hẹp. Thường tôi bị tẩy chay vì hay chê quá, nói cho lịch sự là đòi hỏi cao quá cầu toàn quá. Nhưng, một cách tổng quát, tôi
cho văn chương thời nay không chỉ kém văn chương thế giới mà ngay trong phạm vi
nước mình mà nói với nhau thôi, các nhà văn thời nay kém xa các thế hệ đi trước.
Thật là một điều oái oăm nhưng tôi có cảm tưởng chính cái mà con người hiện nay
thiếu, là lý tưởng, là sự ao ước, là sự tự tin, tin rằng nếu cố gắng và làm
việc theo phương hướng đúng, chính mình và những người quanh mình có thể vươn
tới những đỉnh cao chứ không phải lúc
nào cũng lờ đờ lẹt đẹt như thế này. Bởi thiếu đi cái khát vọng lớn là vấn đề
của cả phong trào chung nên trên đại thể chúng ta đang trở nên tầm thường. Và nếu bây giờ còn có
người ham học ham làm thì mọi sự chăm
chỉ, chịu ngồi vào bàn, chịu viết chịu in, rồi cũng đến trở nên vô nghĩa. Trong số các quy luật sinh học, tôi nhớ có cái
quy luật này liên qua tới tiến hóa: đó phải là sự tiến hóa của cả quần thể.
Không thể có tiến hóa ở từng cá thể riêng lẻ.
& CÂU CHUYỆN VỀ SỰ TIẾN HÓA
Yên Ba: Trong một bài phiếm luận, anh đã nói đến văn hoá quà vặt. Trong văn học cái sự “quà vặt hóa” này diễn
biến ra sao?
Vương Trí Nhàn: Phần trên tôi đã
nói chính những người Trung quốc cũng
công nhận họ phải đi theo quy luật chung
mọi nền văn hóa trên thế giới. Bất chấp việc xã hội ta các nhà văn ta có muốn
hay không ở VN cũng vậy. Nó sẽ trải qua mọi bước suy đồi mà các nền văn học đều
có, thậm chí nếu ở VN sự suy đồi ấy có thê thảm hơn cũng là tự nhiên.
Nay đang
là thời hậu chiến. Nhà nước thì cố gắng giữ lấy nền văn hóa hàn lâm nửa mùa theo kiểu “văn
dĩ tải đạo”. Nhưng nay là lúc nội lực của các nhà văn đang cạn kiệt mà cơ quan
chỉ đạo cũng không còn kỳ vọng nắm cổ văn nghệ một cách quyết liệt như cũ. Miễn là nhà văn đừng có lớn tiếng phản đối là
được, ngoài ra người ta sẵn sàng chấp nhận họ là một đám công chức loàng xoàng,
nuôi báo cô qua ngày. Nhiều người cầm bút hiểu và chấp nhận. Một mặt nhênh nhang làm
hàng giả ăn lương. Mặt khác lầy phầy chơi bời hoặc ngồi chửi đổng. Công chúng cũng vậy. Công
chúng đã mất hết khả năng săn tìm những giá trị lớn, bao gồm cả văn học cổ
điển. Nay công chúng phần lớn chỉ thích
cái thứ gì chiều nịnh họ giải khuây cho họ giúp họ lảng tránh những vấn đề
trước mắt .
Văn hóa quà vặt ra
đời là vậy.
Đại khái, có thể
kể ra những dấu hiệu chính của một nền
văn học được làm theo kiểu quà vặt.
-- Có khả năng đáp
ứng một cách linh hoạt những yêu cầu xã hội nhưng nhìn kỹ sản phẩm làm ra toàn
những thứ lụn vụn không có giá trị thực.
-- Sự nhạy cảm
không đi kèm với một khả năng suy nghĩ sâu sắc. Một sự sáng tạo thường trực
nhưng trình độ lại loàng xoàng. Giống như các loài sinh vật bậc thấp, đẻ nhiều
đẻ khỏe để rồi mỗi kiếp sống lại là sớm nở tối tàn...
Một mặt phải công
nhận là đời sống văn hoá có vẻ nhộn nhịp, sôi nổi, sặc sỡ, song mặt khác lại cứ
có chút gì như là làm cho vui thưởng thức cho vui, chứ không phải là cái gì
thiết yếu không có không được. Và cũng không thiếu những cái độc hại -- độc hại theo tiêu chuẩn nhân bản nhân văn chứ không phải theo con mắt các nhà chính trị.
Tại sao lại nẩy sinh khuynh hướng quà vặt đó?
“Bao lần đất
nước đứng lên – Bởi vì đất mỏi cho nên đất nằm”. Câu thơ này Xuân Sách làm để khái quát quá trình cầm bút của Nguyên Ngọc. Nó không đúng với tác giả Đất nước đứng lên vì tới nay ông vẫn còn hăng hái lắm dù chỉ là
hăng hái trong các hoạt động xã hội chứ không phải chuyên về sáng tác. Nhưng sự mỏi mệt ấy lại là bước đường phải tới của cả nền văn chương tuyên huấn cứng quèo hôm qua. Mượn thuật ngữ của tâm lý học, đây chính là một
dạng của stress. Trước áp lực quá lớn của đời sống hiện đại, người ta
sinh ra lảm nhảm không tự biết mà cũng không cần biết. Mệt quá,
cho phép mình ngả ngốn chơi bời rồi tự biện hộ cho mình rằng như thế là tự do,
là dám chống đối.
Xu thế quà vặt là
kết quả của một phức hợp tâm lý mà tôi tạm diễn tả như sau: Một mặt mọi người
ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy có ngay một cái gì đấy, với người
viết nó là chuyện khẳng định thành
tựu tài năng, mà với bạn đọc nó là nhu
cầu tiếp nhận hưởng thụ văn chương. Mặt khác, trình độ khả năng thì có hạn,
không những nhà văn chưa thể làm một cái gì gọi là lớn lao mà chính bạn đọc
cũng chưa thấy cần phải có cái lớn lao đó. Tinh thần thực dụng đã chi phối tất
cả. Chúng ta luôn dễ dãi với nhau, không phải chỉ là chuyện khen tụng vuốt ve
nhau trên báo chí, mà trong rất nhiều chuyện lớn nữa. Ví dụ đưa một tác giả vào
cho học sinh học ở nhà trường rất dễ dãi. Cả những cái không đáng là văn chương
cũng được giới thiệu trang trọng. Tôi là người phản đối đưa văn học sau năm 1945
vào giảng dạy ở nhà trường một cách quá mức. Ở ta có thói quen là đưa văn
chương vừa in ráo mực vào trường học, lấy cớ rằng muốn văn chương phục vụ chính trị cần đưa cái mới vào cho kịp
thời. Tôi đáp lại: Hãy giảng dạy văn học cổ điển nhiều hơn nữa, còn với thứ văn
chương vừa viết ráo mực, cần phải có độ lùi, có thử thách. Các nhà văn muốn lớp
trẻ đọc, thì đến mà nói chuyện với họ
thuyết phục họ, đừng bắt họ phải học.
Có
vẻ như anh rất thích tìm ra mối liên hệ giữa văn chương và đời sống, thích giải thích văn chương bằng
đời sống.
Đó là một hướng suy nghĩ cần thiết, “Văn học
ta tầm thường bởi đời sống ta quá tầm thường “-- bản thân tôi những năm gần đây luôn luôn bị ám ảnh bởi cái
ý tưởng đơn giản đó.
Thời tôi bắt đầu
cầm bút tức năm chục năm trước, văn chương khô hạn trong xu thế khổ hạnh. Nay
thì văn chương bung ra, bề ngoài thực lắm đề tài lắm giọng điệu, xem kỹ hóa ra
lại một thứ công thức mới. Nhưng đó không phải tội riêng của văn chương, nó là cái
hướng vận động của đời sống Nhiều người
bây giờ sống vội quá, ham làm giàu, ham hưởng thụ, buông thả bừa bãi cho
đó là mới là đang tiến kịp trào lưu thế giới. Khuyến khích nhau làm giầu là
cần, nhưng cần hơn là bảo nhau đừng làm để mà làm, mà phải đặt yêu cầu cao với
những thứ đang làm, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và tìm cách đạt được chuẩn
mực quốc tế. Tại sao hàng Tàu tràn ngập phố xá cửa hàng xứ mình? Là do họ làm rẻ và tốt hơn, còn hàng ta
vừa đắt vừa xấu. Văn chương, phim ảnh mình mới ít mà đã lạm phát. Sản xuất lắm
phim làm gì, trong khi phần nhiều phim chẳng ra phim. Làm thơ cũng thế, dịch
sách cũng thế.
Sự dung tục vốn sẵn trong văn hóa dân gian là bộ phận nòng cốt của văn hóa ta. Kiểu như thời
Trạng Quỳnh thi vẽ với sứ Tàu thì chấm
mười ngón tay vào mực mà vẽ thành mười con giun rồi cười đắc chí. Nay lối láu cá đó lại trở thành
phong cách thời đại. Ngồi ở hàng nước, mấy cậu thanh niên nói tục xong rồi cười
hô hố với nhau; trên ti vi cũng thi nhau cười những cái không đáng cười. Bệnh
dung tục bộc lộ từ trong cách làm việc
lẫn cách ăn nói, quan hệ và rõ nhất
trong khẩu vị thưởng thức những khi vui chơi giải trí. Đạo diễn Nguyễn
Đình Nghi hồi còn sống thường than phiền với tôi rằng sân khấu hiện nay không
thể phát triển được bởi vì không có một không khí sân khấu thực sự. Người ta đi
xem kịch buồn cười lắm, khán giả nhiều nơi vừa xem, vừa cắn hạt dưa và nói
chuyện, càng những đoạn nhố nhăng thì
càng có nhiều tiếng cười thích thú. Làm sao có thể đề cao những khán giả ấy
được, và với những khán giả ấy, làm sao
có thể đòi hỏi sân khấu đi lên? Chuyện gì cũng coi như chuyện đùa ư? Đó là cái chết ! Tôi không muốn đùa theo kiểu
ấy được, tôi luôn nghĩ rằng phải nghiêm túc trong công
việc, nghiêm túc còn chẳng ăn ai, nữa là vẩn vơ đùa bỡn. Ai bảo tôi là mắc cái bệnh là quan trọng hoá, tôi xin
chịu.
Phải anh muốn nói
rằng mọi thứ văn chương văn hóa sặc sỡ hiện
nay chẳng phải là một điều đáng tự hào ?
Trước tiên tôi “đọc” thấy lối tự hào đó trong
tâm lý của những người trong cuộc. Khi của cải làm ra chẳng có gì hơn, người ta
quay về tự ca tụng. Rồi sự tự hào này lại được các ông chủ văn nghệ công nhận.
Họ phải công nhận vì văn nghệ thành công tức là họ có thành tích; trong sự dắt
dẫn, họ đã có công lớn. Xin nói tiếp về mối liên hệ giữa văn chương và đời
sống Hãy nhìn vào sự sản xuất nói chung. Hàng hoá chúng ta làm ra nhiều, nhưng không
có cái gì độc đáo mới lạ càng không bao giờ theo kịp nhu cầu con người hiện đại.
Nhà xây nhiều nhưng không có nổi một khu phố đẹp. Chung quanh các con đường
giao thông huyết mạch xứ sở, các thành phố phình ra và cả nước gợi ra hình ảnh
con người có bộ ruột khổng lồ. Tất cả cứ làng nhàng mà tồn tại bên nhau. Cách
làm ăn này này cũng chi phối cả sự sản xuất tinh thần. Các điệu múa giống nhau.
Các tượng đài lặp đi lặp lại. Các tiết mục sân khấu đều kết thúc có hậu . So
với sức ta cái ta viết ra không phải là
ít, nhưng khi làm không nghĩ chuyện lâu dài, nghĩ đến những việc có thể tác
động lớn, thật sự có ích cho xã hội. Nói
riêng trong khi viết phê bình, các đồng
nghiệp của tôi thường chỉ cãi nhau quanh
một vài chuyện linh tinh, rồi bẻ câu, bẻ chữ, mà không đặt ra những vấn đề lớn của văn học để
cùng suy nghĩ và giải quyết. Tầm nhìn của một con người của một cây bút quá hạn
hẹp. Thường tôi bị tẩy chay vì hay chê quá, nói cho lịch sự là đòi hỏi cao quá cầu toàn quá. Nhưng, một cách tổng quát, tôi
cho văn chương thời nay không chỉ kém văn chương thế giới mà ngay trong phạm vi
nước mình mà nói với nhau thôi, các nhà văn thời nay kém xa các thế hệ đi trước.
Thật là một điều oái oăm nhưng tôi có cảm tưởng chính cái mà con người hiện nay
thiếu, là lý tưởng, là sự ao ước, là sự tự tin, tin rằng nếu cố gắng và làm
việc theo phương hướng đúng, chính mình và những người quanh mình có thể vươn
tới những đỉnh cao chứ không phải lúc
nào cũng lờ đờ lẹt đẹt như thế này. Bởi thiếu đi cái khát vọng lớn là vấn đề
của cả phong trào chung nên trên đại thể chúng ta đang trở nên tầm thường. Và nếu bây giờ còn có
người ham học ham làm thì mọi sự chăm
chỉ, chịu ngồi vào bàn, chịu viết chịu in, rồi cũng đến trở nên vô nghĩa. Trong số các quy luật sinh học, tôi nhớ có cái
quy luật này liên qua tới tiến hóa: đó phải là sự tiến hóa của cả quần thể.
Không thể có tiến hóa ở từng cá thể riêng lẻ.
Published on September 17, 2015 03:17
September 10, 2015
Đời sống ra sao thì văn chương như vậy
Gần mười năm trước, bạn Yên Ba lúc đó đang làm báo, từng có một cuộc trao đổi
với tôi về một số vấn đề văn học và đời sống. Bài viết sau đó không được sử dụng, và với tư cách tác giả tôi còn lưu lại trong máy. Nay xem lại thấy một số vấn đề còn hợp thời, vậy xin giới thiệu lại với bạn đọc. Chỉ có một điều tiếc không làm được là lúc này tôi không có điều kiện tìm thêm các chi tiết minh họa có ý nghĩa cập nhật.
HỖN LOẠN BÊN NGOÀI, TẺ NHẠT BÊN TRONG
Yên Ba : Có lần ở đâu đó,
anh đã nói về sự tẻ nhạt trong đời sống văn học. Vậy theo anh, cho đến bây giờ,
cái sự tẻ nhạt ấy có còn không và tại sao?
Vương Trí Nhàn: Theo tôi, chúng
ta đang sống trong cái-thời-văn-học mà có khi
hàng năm trôi qua cũng không thấy có gì thay đổi lắm, không có sự kiện
gì đáng kể.
Thỉnh thoảng tôi vẫn mang một
số bài cũ của mình in lại, bởi tin rằng nhận xét của mình về tình hình chung vẫn đúng.
Cái cảm giác về sự tẻ nhạt vẫn còn, nó là cái
có thực và chưa biết bao giờ mới gạt bỏ được.Tôi nghĩ rằng cái đáng lo của đời
sống sáng tác nói chung và phê bình nói riêng, là nó cứ đều đều, làng nhàng;
giở một tờ báo ra, đọc vài dòng thấy chán, lại bỏ xuống. Lâu lâu, có ai bảo báo
đó có một hai bài đọc được, lại mới đi tìm. Lại chán , lại bỏ, vòng quay tiếp tục.
Đọc lại báo chí cũ, khoảng 50 năm đầu của thế kỷ trước, thấy người đương
thời làm được nhiều lắm. Cũng giống như tôi nghe nói,
trước 75 Sài Gòn đã hơn Thái Lan, còn bây giờ thì chưa biết bao
giờ ta có thể đuổi kịp cái đất nước láng giềng gần gũi ấy.
Văn chương cũng thế,
trong vòng 5-10 năm, kiểm điểm lại, thấy chúng ta không làm được cái gì cho đáng
kể. Có lần, chính các anh ở Hội nhà văn cũng nói đại ý: văn chương ta hiện đang ở tình trạng có nền không có đỉnh,
không có những tác phẩm đủ sức gây bất ngờ, không có cái gì xuất hiện như một
hiện tượng kỳ lạ để có thể làm cho mọi người phải đi tìm.
Trong giới với nhau
ai sống thế nào đã biết, nên ai sắp viết ra cái gì đại khái ra sao cũng đã biết
được rồi.
Người doạ điên thì có, người điên thật thì không, nói chung toàn những người tỉnh như sáo và hết sức thực
dụng thì làm sao có cái gì mới mẻ, táo
bạo cho được.
Tức ý anh muốn nói
sự tẻ nhạt là một đặc điểm chi phối cả một giai đoạn ?
Tôi đang định nói thế. Lịch sử văn học có
những lúc rất lạ. Như hồi Thơ mới, báo Ngày nay những năm 38-39 mỗi số
chỉ đăng có 3 - 4 bài thơ ( nhiều nhất
là của Xuân Diệu Huy Cận) nhưng toàn những bài có giá trị sau này người
ta còn đọc mãi.
Hoặc Tiểu thuyết thứ bảy mấy năm 40-42 có thời gian các số liên tiếp in truyện ngắn của Nam Cao mà
toàn truyện bây giờ người ta in đi in lại, đọc đi đọc lại.
Trong khi đó An Nam tạp chí trước và sau 1930 (hoặc Nam Phong cũng
thế), số báo nào cũng đăng hàng vài chục
bài thơ, mà trừ thơ Tản Đà, không bài nào bây giờ được ghi nhận.
Tôi có cảm tưởng
thời nay cũng có gì na ná như cái thời
trước 1930 ấy. Một số người có trách nhiệm kể cả những vị gọi là chuyên gia cho rằng các nhà xuất bản chưa chịu gạn lọc kỹ. Tôi xin cãi lại không có cái hay thì lấy gì mà gạn ! Làm kỹ cũng chỉ đến
thế thôi ! Bảo một tác giả viết một trăm bài
thơ thì làm được ngay, nhưng bảo làm lấy một bài hay thì chịu.
-- Chẳng nhẽ anh không thấy là mọi người
đang nỗ lực để vượt lên trên sự trì trệ đó?
-- Có nhưng chưa đủ. Nỗ lực kém quá nên cũng bằng không. Hiện chúng ta đang thiếu
những cuộc thảo luận kỹ lưỡng để bàn đến cùng về những vấn đề thiết yếu. Ví dụ
để chuẩn bị cho những cuộc thi tiểu thuyết, lẽ ra phải
có một cuộc trao đổi: Thế nào là tiểu thuyết? Trong quá khứ, tiểu thuyết
đã có một tiến trình tiến hoá như thế nào ? Chỗ
khác của tiểu thuyết phương Đông
với tiểu thuyết phương Tây, chỗ khác của tiểu thuyết thế kỷ XX với tiểu thuyết các thế kỷ trước?
Và nhất là những xu hướng phát triển của tiểu thuyết trên thế giới hiện nay. Phải có người dịch
giới thiệu, rồi các nhà văn trao đổi và thảo luận, mỗi người tìm lấy cho mình
một hướng đi mà mình thấy gần gũi nhất. Lý luận, không gì khác, chính là những
thăm dò mở đường, là cái mũi dùi khoan vào những bí mật phía trước để gợi mở
cho người viết.
-- Có vẻ anh muốn nói tới mối quan hệ giữa kiến thức và sự sáng tạo?Anh có thể nói rõ hơn một chút
-- Hiện nay, trên nhiều lĩnh vực khoa học, lý luận và thực hành
gần như song hành với nhau, chậm chí lý luận đi trước thực hành.
Trong thiên văn học, có nhiều trường
hợp người ta tìm thấy những ngôi sao trong phòng thí nghiệm trước, rồi sau đó dùng kính
viễn vọng mới nhìn thấy trên bầu trời.
Văn chương cũng thế. Có người như
Claude Simon (giải thưởng Nobel 1985) chẳng hạn, là loại có lý thuyết trước,
sau đó ông ấy mới dùng văn chương để minh hoạ cho lý thuyết của mình.
Ở ta có tình hình ngược lại. Lý luận bị coi là
xa lạ với sáng tác và thực tế nó cũng
đáng như vậy. Các nhà văn chỉ lo viết
và viết, không tính cái định viết sẽ như
thế nào, có thể có một ý nghĩa lý luận nào chăng, trong thể loại có định mở ra
một con đường mới không? Thế thì làm sao có được những cách tân thực sự?
Theo tôi quan sát,
rõ ràng ở các nhà thơ lớp trước, văn hoá thơ (tức là sự hiểu biết về bản
chất thơ ca, lịch sử của nó, con đường đi tới của nó) khá hơn hẳn cái hơn ở một mức vượt bậc so với các nhà thơ bây
giờ.
Trong những năm sáu mươi ở Hà Nội, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh,
Nguyễn Đình Thi.....đã bỏ nhiều công sức dịch văn học nước ngoài, mang các thứ hương xa hoa lạ vào Việt Nam. Xuân Diệu còn viết nhiều tiểu luận giới thiệu về các nhà thơ thế giới. Mà những cái đó ông làm tốt hơn
nhiều nhà nghiên cứu, do đó tác động đến anh em viết văn làm thơ trẻ lúc ấy rất lớn.
Bây giờ, sự tiếp
xúc với văn học nước ngoài có thể rộng rãi hơn, nhưng không được kỹ như hồi
trước, mà phần chính lại chỉ do các nhà nghiên cứu làm, nên ảnh hưởng tới giới sáng tác là khá hạn chế.
Mặt khác, nay cũng là lúc nhà văn nhà thơ ít có
ai đi vào khám phá văn học cổ như
các thế hệ trước.
Xuân Diệu 42 tuổi đọc diễn văn trong lễ kỷ niệm Nguyễn Du năm
1958 ở Nhà hát lớn; tới 1966 Xuân Diệu cho in cả quyển sách về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Các bạn làm
thơ trẻ, cỡ khoảng 30, 40 bây giờ, khó lòng mà làm được như vậy, không phải
không ai cho làm mà cái chính là có cho làm cũng không làm được.
Đáng lẽ phải
học hỏi Xuân Diệu để rồi vượt lên ông, đi xa hơn ông, thì lại biến ông thành đích, thành ngưỡng, thành cái trần và tự coi thế là đủ.
Một người bạn tôi
quan sát cách viết phê bình của một số nhà thơ hiện nay nói đùa: các ông toàn
ngồi ngửi hơi nhau rồi viết. Lối nói có thể hơi thô lỗ nhưng nó nói đúng một sự
thật, là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ loanh
quanh ngồi tán với nhau và tán về nhau. Đấu hót với nhau một hồi rồi viết lại.
Chỉ sợ không ai biết nên phải lo giảng
cho mọi người biết là bạn mình làm thơ hay lắm! Trong khi đó gần như không bao
giờ dẫn lại các tác giả cổ điển.
"Chiếm lĩnh" lại thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Đà... không phải chỉ là việc của các nhà nghiên cứu, nó
còn là việc của các nhà thơ. Mà ở đâu cũng thế thôi, ở Liên xô trước đây, một
trong những người viết hay nhất về
Tchekhov là nhà văn Ehrenburg, còn nhà văn Nabokov (sống ở Mỹ, tác giả
Lolita) thì có cả một loạt bài giảng về các văn hào cổ điển Nga. Bởi các
nhà văn thường có sự đồng cảm riêng khi
đọc văn của nhau.
Ở nước ta, tôi có cảm
tưởng lớp nhà văn mới trưởng thành sau chiến tranh ít hiểu về sáng tác của ông
cha, chính điều đó cũng góp phần tạo nên
cái sự tù túng, không phát triển.
Thế còn tầm quan trọng của việc trao đổi
và giới thiệu văn học nước ngoài.
-- Bây giờ, có thêm nhiều sách văn học phương
Tây để đọc, song thử hỏi có mấy người
biết các nền văn học phương Tây đó một cách cặn kẽ theo dõi từng biến động ở đó
chứ không phải chỉ đọc các bản dịch ? Tôi mạnh dạn mà nói rằng nhiều người đọc Việt Nam cách đây 15 năm thì
có thể đối thoại cùng người đọc Nga, còn người đọc bây giờ hầu như không ai có
thể làm được việc đó với tác giả và người đọc trong văn học Mỹ. Nói
thế có phần chung chung, vì người đọc có nhiều loại. Tôi chỉ muốn nói trong
phạm vi giới cầm bút. Cách đây 15, 20 năm, một số anh em yêu mến và “thuộc“ văn
học Nga biết rõ Moskva có mấy tờ báo hay tạp chí văn học quan trọng, khuynh
hướng từng tờ ra sao, hiện do ai nắm, nội tình nó như thế nào? Còn bây giờ có
ai thạo văn học Mỹ, văn học Pháp như thế không, tôi có cảm tưởng là không, hoặc
chỉ có rất ít.
Theo tôi, luôn luôn cần đặt văn học chúng ta trong
văn mạch chung của văn học thế giới, để mà thấy được tình hình của mình thực
trạng của mình, đồng thời học hỏi được những cái mới lạ, cũng tức là cái người
ta đã trải, và trước sau ta cũng sẽ đi tới.
Năm 1995, trong một cuộc họp ở Hội
nhà văn, tôi đã nhắc chuyện hội nhập
nhưng không có người nghe nên qua đi. Tôi nói là: chúng ta đang có một nền văn
học "lạc hậu so với xã hội" với nghĩa trong khi tất cả những thứ khác
của ta từ quần áo may mặc xuất khẩu, cho đến cá, tôm, hàng công nghệ, thời
trang, ca nhạc phim ảnh … đủ mọi thứ lo hội nhập với thế giới, thì văn học
chúng ta bằng lòng dừng lại ở trình độ một thứ hàng nội địa trong nước dùng với
nhau. Chưa tính đến chuyện đặt văn học Việt Nam vào văn mạch văn học thế giới,
hoặc mới nhìn việc giao lưu một cách rất
thiển cận --- thế thì làm sao có sự tiến bộ ? Theo tôi, chuyện này không
chỉ riêng là của ta.
Chung quanh chủ đề hội nhập anh đã rút được những kinh nghiệm nào?
-- Có lần nhân nhà
xuất bản nơi tôi công tác tiếp một đoàn nhà văn Trung Quốc, tôi có hỏi họ là rồi
các anh sẽ đi đến đâu? Hay lại giống như thế kỷ 20 của phương Tây, lại đi về
cái cá nhân, lại phi lý, cô đơn...?
Họ nói họ còn đang tìm, song không cho rằng
Trung quốc đứng ngoài quy luật vận động chung của thế giới.
Theo tôi những vấn
đề như thế anh không quan tâm không được. Bản sắc dân tộc bao giờ cũng có,
nhưng những con đường mà nhân loại đã tìm thấy và đã đi qua, thì nước nào cũng
sẽ đi qua, dù mỗi nước sẽ đi theo cách của mình.
Bảo nhau giữ lấy bản sắc là
đúng.
Nhưng phải lo làm giàu cho cái bản sắc ấy. Sợ tiếp xúc rồi sinh ra học
đòi bắt chước nên trên dưới bảo nhau hạn chế tiếp xúc.
Sẽ
gây khủng hoảng thôi tránh sao được.
Nhìn vào các ngành điện ảnh hay hội họa, các nghệ sĩ ở đây tiếp xúc với thế giới hiện đại thành tâm hơn. Mà tìm ra được hướng đi của mình còn là khó.
Đằng này trong văn học, anh em mình lại không muốn làm cái chuyện đó nữa, hoặc chi lo làm một cách bôi bác, cốt lòe bạn đọc và nói dối nhà nước để xin tiền công quỹ về phung phí với nhau. Thì còn
thay đổi sao được.
(còn tiếp)
Published on September 10, 2015 20:14
September 5, 2015
Thử nhìn hiện tượng chạy theo đồng tiền trong ngành giáo dục dưới góc độ đạo đức nhân bản
CÓ PHẢI LÀ THẤT ĐỨC?
Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và
sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều
người đã phải lao vào hành động để đáp lại sự đòi hỏi của hoàn cảnh
cũng như để tạo nên những bước đi thích ứng với các đồng loại.
Đến khi có dịp nhìn lại những lần "nhắm mắt đưa chân" kiểu ấy, người ta
không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này
việc nọ.
Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều?
Thế là các kịch bản cũ lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch.
Sự thật là dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không
hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm.
Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự
thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài
kịch.
Dưới đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen
của tôi đã và đang trải qua.Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi
kịch không phải không nhìn thấy tình thế của mình. Có điều, nói như A.Camus, khi đã xuống thuyền rồi người ta không thể quay trở lại được nữa.
Ấy là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một
số giáo sư tham gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã
đổi là tiến sĩ).
Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó,
bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời
gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn
anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn
cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu; nên sau mười mấy
năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà
nhiều khi các học giả tương lai đó "chẳng hiểu nếp tẻ gì cả" (trong
ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích lối nói thậm xưng một chút như
vậy).
Nhưng có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, phần lớn họ
lại rất sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi
giá.
Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy.
Song làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường.
"Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến
văn chương thì mới dám tiếp tục" - anh Ng. có lần tâm sự.
Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu
không muốn nói tình thế cứ đuối dần đi nữa.
Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này
Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.
Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ
còn mải miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh
yên thì phải hơn.
Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông Ki-sốt trong người?
Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:
- Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?
- Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.
- ...
- Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung
nó chạy theo hướng của nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.
Đến chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề.
Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ bẫm lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy.
Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng
giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người như vậy.
Chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng.
Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc.
Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào.
Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải.
Giờ đây có ai đó trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới
những bất cập trong công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa.
Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm
cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách
soi mói.
Không phải chỉ riêng anh Ng. của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở
ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương
tự. Bởi vậy, tôi muốn được phép bàn rộng ra một chút.
Các cụ xưa có hai tiếng "thất đức" để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời sau.
Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh
làm có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối.
Các anh là những giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ
kiến thức cho người khác. Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề
làm thuốc bao giờ cũng được trọng vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức được?
Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng. - "mang nhãn hiệu của anh Ng." - bên
cạnh những cán bộ khoa học tạm được, cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm.
Mà càng những người kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Sau khi
có bằng cấp, một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong
nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau.
Nói cách khác, lớp
người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân.
Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự
của anh. Tôi chưa hẳn yên tâm khi dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra
chữ khác đích đáng hơn.
Đã in trong Nhân nào quả ấy, 2002
Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và
sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều
người đã phải lao vào hành động để đáp lại sự đòi hỏi của hoàn cảnh
cũng như để tạo nên những bước đi thích ứng với các đồng loại.
Đến khi có dịp nhìn lại những lần "nhắm mắt đưa chân" kiểu ấy, người ta
không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này
việc nọ.
Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều?
Thế là các kịch bản cũ lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch.
Sự thật là dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không
hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm.
Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự
thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài
kịch.
Dưới đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen
của tôi đã và đang trải qua.Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi
kịch không phải không nhìn thấy tình thế của mình. Có điều, nói như A.Camus, khi đã xuống thuyền rồi người ta không thể quay trở lại được nữa.
Ấy là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một
số giáo sư tham gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã
đổi là tiến sĩ).
Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó,
bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời
gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn
anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn
cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu; nên sau mười mấy
năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà
nhiều khi các học giả tương lai đó "chẳng hiểu nếp tẻ gì cả" (trong
ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích lối nói thậm xưng một chút như
vậy).
Nhưng có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, phần lớn họ
lại rất sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi
giá.
Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy.
Song làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường.
"Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến
văn chương thì mới dám tiếp tục" - anh Ng. có lần tâm sự.
Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu
không muốn nói tình thế cứ đuối dần đi nữa.
Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này
Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.
Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ
còn mải miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh
yên thì phải hơn.
Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông Ki-sốt trong người?
Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:
- Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?
- Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.
- ...
- Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung
nó chạy theo hướng của nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.
Đến chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề.
Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ bẫm lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy.
Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng
giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người như vậy.
Chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng.
Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc.
Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào.
Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải.
Giờ đây có ai đó trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới
những bất cập trong công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa.
Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm
cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách
soi mói.
Không phải chỉ riêng anh Ng. của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở
ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương
tự. Bởi vậy, tôi muốn được phép bàn rộng ra một chút.
Các cụ xưa có hai tiếng "thất đức" để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời sau.
Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh
làm có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối.
Các anh là những giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ
kiến thức cho người khác. Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề
làm thuốc bao giờ cũng được trọng vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức được?
Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng. - "mang nhãn hiệu của anh Ng." - bên
cạnh những cán bộ khoa học tạm được, cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm.
Mà càng những người kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Sau khi
có bằng cấp, một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong
nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau.
Nói cách khác, lớp
người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân.
Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự
của anh. Tôi chưa hẳn yên tâm khi dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra
chữ khác đích đáng hơn.
Đã in trong Nhân nào quả ấy, 2002
Published on September 05, 2015 21:44
Thầy bà như thế này thì làm sao có được một nhà trường đúng nghĩa phải có ?
Nhân dịp ngày khai trường tôi xin đưa lại hai bài viết vốn đã đăng trên blog này những
năm trước.
Hôm nay là bài Nghề
thầy, suy đồi hôm nay chỉ là tiếp nối
tình trạng yếu kém hôm qua, đã đưa trên blog này ngày 19-11-2014. Tên bài được
đổi lại như trên cho rõ nghĩa.
Tiếp đó ngày mai là bài Chạy theo đồng tiền, một khía cạnh của sự
tha hóa trong nghề thầy giáo thời nay. Bài này vốn có tên là Có phải là thất đức? và đã đưa trên blog này 18-11-2011.
Những kẻ loàng xoàng
Một
người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình,
may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng
ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi vừa xì ra một lối thoát:
-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang
được mời ở lại trường giảng dạy đấy. Nếu
lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.
-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng
tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?
--
Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm
việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các
xí
nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường. Đến lượt con
mình có gì là lạ. Ông chẳng hay nhắc lại cái câu của Xuân Diệu "thời nay
là thời lý tưởng của bọn mediocre [tầm thường]" là gì?
Tôi nghĩ lại, chuyện rành rành thế còn đi hỏi, không ngờ mình lẩn thẩn
quá.
Di lụy của lịch sử
Không phải đến ngày hôm nay, mới có tình trạng bao nhiêu những kém cỏi
trong giới trí thức dồn cả cho ngành giáo dục.
Thời trung đại, cả nước chỉ lo học để đi thi, ai thi giỏi đều ra làm quan.
Chỉ có những người lạc đệ (thi trượt)
mới quay về làm nghề gõ đầu trẻ.
Tình trạng này được kể lại rõ ràng trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Nhân vật thầy
giáo Khắc Mẫn chỉ làm trò cười cho các bạn trẻ hơn như Vân Hạc. Anh ta đã dốt, lại
hay khoe khoang chữ nghĩa, có lá thư cho đồng môn cũng viết bằng những ngôn ngữ sáo mòn.
Vậy mà anh ta vẫn nhấp nhổm đi thi. Thi tiếp, may ra có thể thoát được
bọn trẻ ”nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.” Thành ngữ này lấy ở văn thơ cổ
Nhà trống ba gian ,
một thầy một cô, một chó cái
Học trò dăm
đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi
– tương truyền đây là toàn văn hai vế câu đối dán trong nhà Cao Bá Quát.
Đến cái thời của bọn tôi, ở trường cấp III Chu Văn An những năm 50-60
của thế kỷ XX.
Cuối năm lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), chi đoàn của lớp 10 C tập
trung lo vận động một số anh em giỏi giang hãy tự nguyện thi vào Đại học sư
phạm. Tại sao ư, đơn giản lắm, bao nhiêu nhân tài trong lớp đều chăm chăm nộp
đơn vào các trường khá như Bách khoa, như Y Dược cả (“nhất Y nhì Dược tạm được Bách khoa Sư phạm thông qua Nông lâm xếp xó”).
Các trường sang trọng không dành
cho những anh kém.
Điểm vào Y dược Bách khoa cao hơn hẳn điểm vào sư phạm.
Mà
cũng phải thôi, sau khi ra trường, lương ở các ngành đó bao giờ cũng cao hơn
lương dân bán cháo phổi, chưa kể sinh viên sau khi ra trường lại thường được về các
thành phố lớn.
Vậy phải vận dụng đủ cách để kéo người ta đi làm thầy.
Số người gọi là sinh ra đã cảm thấy yêu "nghề trồng người" từ thời
bao cấp cũng đã hiếm lắm. Không kể đám lửa rơm xốc nổi, cái số chân thành tự tin,
trăm người mới có một vài. Mà sau thời gian chịu trận, bám trụ đến cùng sống với nghề nghiệp bằng nguyên vẹn tình yêu
như thuở ban đầu, số đó càng hiếm.
Tôi năm đó đăng ký thi vào khoa Văn Đại học
Tổng hợp, thi trượt, không đủ điểm phải chuyển vào Đại học sư phạm Vinh. Ngày nhập trường,
ngồi trên chiếc xe chở khách Hà Nội - Nghệ An qua các bến phà Kiểu, phà Gián Khuất, phà Hàm
Rồng…, 300 km mất cả một ngày đường, đã khóc hết nước mắt.
Tới trường một anh bạn từ Quảng Bình thi vào Sư phạm Vinh từ đầu an ủi:
-- May mà còn có chỗ này chui vào để
được cái tiếng học Đại học, chứ nếu không bọn đui què mẻ sứt chúng mình về đi
cày hết cả à?
Đòn phản công của các thầy các cô
Thời
ấy sự coi thường của xã hội đối với nghề gõ đầu trẻ được các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đáp trả lại một cách bình tĩnh.
Ra trường, biết thân biết phận, nhiều
người trong họ sẵn sàng về những tỉnh lẻ, những miền quê heo hút, sống lam lũ bên
cạnh những cán bộ công nhân viên lớp dưới và những người nông dân nghèo khó.
Nhiều người phải có các nghề tay
trái cùng làm với vợ con để kiếm sống.
Đến mức có giáo viên đã định
nghĩa một cách chua chát, người thầy cấp I là người nông dân có thêm nghề phụ
là nghề dạy học.
Từ chỗ bị coi thường, rồi giáo giới rồi cũng đã có sự khôn ngoan cần
thiết để tồn tại.
Thời chiến đi qua. Mọi tầng lớp
trong xã hội, kể cả những người lính đi chiến trường về, bắt đầu lo cho con cái,
bởi lẽ họ bắt đầu hiểu rằng trong làm ăn kinh tế, phải có kiến thức, dù là kiến thức cổ lỗ.
Nhưng các bậc phụ huynh thức thời này cũng
sớm hiểu tình trạng bị bạc đãi của các thầy các cô.
Thay cho sự quan tâm của
nhà nước, họ tự động làm cái việc chữa cháy theo cách riêng của họ.
Vốn chẳng
có hiểu biết gì về giáo dục, họ hồn nhiên
cho rằng tốt nhất nên theo thuyết "gà đẻ trứng vàng". Chỉ cần đút tiền cho các
giáo viên, là con em họ sẽ học khá học giỏi một lượt -- họ tự nhủ.
Các
thầy cô giáo đáp laị ngay, cái gì chứ điểm số các môn học và việc lên lớp thì
hoàn toàn trong tay thầy, làm gì mà chả được.
Khoảng
mươi lăm năm trước, khi đứa con nhỏ của tôi còn học cấp I, việc mỗi
đầu học kỳ đến gặp cô biếu xén tí chút là việc các phụ huynh học sinh
đều tự
nguyện làm, và chúng tôi thường sung sướng sau khi hoàn thành nghĩa vụ
của
mình, như các phụ huynh khác.
Ngày nay, tình trạng trên tiếp tục, tinh
vi hơn
cũng có, mà trần trụi hơn cũng có.
Một số bạn tôi có con học ở mấy
trường Đại học tỉnh lẻ còn bảo rằng có tình trạng giáo viên yêu cầu sinh
viên phải nộp tiền hàng tháng, nếu
không thì sẽ không có điểm.
Tôi chẳng hiểu nếp tẻ gì, song tin là có
thật.
Trong mọi lầm lạc hôm nay, mỗi con người đều thường tìm được cái lý
riêng của
mình.
Tôi nhớ những năm trước 1975, các gia đình Hà Nội trong khi tính toán gả
chồng cho con gái, thường bảo nhau, cốt nhất là được các cán bộ thương nghiệp,
hoặc ngành thuế.
Chứ thầy giáo ấy ư, đã có thời người ta xâu chuỗi nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo.
Thời
ấy các ông chồng giỏi tính toán nếu có bằng lòng lấy vợ giáo viên thì chỉ vì biết nghề
đó lương thấp nhưng nhàn, lại có thời giờ dạy dỗ con cái.
Nay thì đã khác.
Thỉnh thoảng cũng thấy nói
lương giáo viên không đủ sống. Nhưng xét
đại trà, là khác. Biết với nhau thôi chẳng ai buồn cãi lại vì cũng như câu
chuyện ông vua cởi truồng, ai tự vạch áo cho người xem lưng làm gì.
Ở cái nước
này nghề gì chẳng đang kém đi, nghề nào chẳng ăn. " Thợ may ăn vải thợ vẽ ăn hồ", cứ gì nghề giáo. Ở Hà Nội Sài Gòn, càng giáo viên cấp thấp càng sống.
Cũng
như bên y tế, lạy trời nghề làm thầy thời nay không lo kinh tế lạm phát hay giá
cả leo thang gì cả. Nước đến đâu bèo đến đấy.
Thời nào người ta chẳng phải chữa
bệnh. Quát giá khám bệnh cao mấy chẳng được.
Thời nào chẳng phải cho con đi
học. Lấy lý do nuôi con ăn học, phụ huynh càng quyết tâm ăn cắp tham nhũng.
Trên đây là chuyện xảy ra đối với
đội ngũ đông đảo là giáo viên loàng xoàng, nơi chỉ có cái lợi chi phối.
Còn đối với loại giáo viên có máu mặt ở các trường điểm trường chọn và
giới giảng dạy Đại học ,tình hình bề ngoài có khác, nhưng xét ở xu thế suy thoái
của nghề thì cũng chẳng khác.
Trong xã hội chiến tranh hôm qua, kiến thức bị coi thường bị khinh bỉ (Thà một cây chông trừ giặc Mỹ -- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương – Tố Hữu).
Nay đi đâu cũng đòi bằng cấp, đến cả
các ông bộ trưởng thứ trưởng tiền của và uy quyền đầy mình cũng còn hét các
trường Đại học thuộc bộ khoác thêm cho mình cái học hàm giáo sư, cái học vị
tiến sĩ.
Mà muốn thế thì các ông phải nâng giá cho đội ngũ dạy Đại học.
Cái cách tự lo của các giáo viên cấp thấp xem ra hơi xoàng. Các thầy cấp
cao có cách đáp ứng riêng. Giáo dục phải trở lại truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giáo dục làm nên tương lai. Các anh có muốn có một tương lai tốt đẹp không mà
lại coi thường chúng tôi. Trong khi vẫn
kỳ cạch làm ăn theo kiểu cũ, các bậc thày này thừa biết rằng xã hội chẳng tìm đâu ra lớp người hơn họ.
Họ phải làm thầy trên đủ mọi phương diện tiếng tăm và đãi ngộ.
Trong số các đàn anh của tôi có những người chỉ mới lập thân sau các vụ
thanh trừng Đại học 1957-58, cả đời không đọc được sách báo nước ngoài, lọ mọ
dựa vào một số sách giáo khoa Liên xô mà những năm trước, lớp anh em đi học
nước ngoài về giới thiệu.
Thế mà sau mấy chục năm kẽo kẹt vận dụng vào tình hình
trong nước, cuối cùng đã bao nhiêu sách in, đã thành trí thức đầu ngành, đã đào
tạo được bao nhiêu tiến sĩ.
Tôi biết nhiều vị đàn anh này cũng là những người rất thông
minh. Giá kể ở một môi trường có những đòi hỏi cao hơn, họ có thể tiến rất xa.
Ở ta, người ta yêu cầu họ có thế và họ chỉ có cái lỗi là thiếu sự đòi hỏi cao
với mình, không dám đi ngược lại hoàn cảnh.
Có phải chỉ riêng văn sử thế đâu, nghe như bên kinh tế thương mại, tình
hình cũng chẳng khác.
Không có người biết từ chối
Muốn tìm cho bài viết này một hơi hướng vui vui, tôi chợt nhớ lại về một
pho truyện cười khá phổ biến ở ta là Trạng Lợn. Khác với Trạng Quỳnh gian xảo
và khinh rẻ mọi người, Trạng Lợn hiền lành, đôi khi khờ khạo, phất lên được là do gặp may, kể cả có một gia
đình hạnh phúc và bà vợ đến cuối đời vẫn không biết rõ thực chất cuả chồng mình.
Cuối
truyện, khi Trạng trở về với gia đình, bà vợ ấy-- vốn là con gái một quan chức, trong
truyện gọi là Phu nhân Phấn Khanh – bảo bây giờ Trạng phải ở nhà dạy con để
lo người kế nghiệp.
Trạng trả lời đại ý mình biết gì đâu, thôi phu nhân cứ làm như khi Trạng
vắng nhà, và bỏ đi chu du các vùng lạ.
Đọc đoạn này, lâu
nay tôi chỉ nghĩ ra Trạng cũng hiểu thành đạt do gặp may chứ mình chẳng tài cán
gì. Một cách nghĩ xa lạ với nhiều người Việt hiện nay, dù họ cũng phất lên theo
kiểu trạng.
Mỗi lần nghe bàn về truyền thống gióa dục nước nhà, tôi thường nghĩ thêm, hóa ra trong xã hội Việt Nam
trung đại cũng đã có người biết rằng việc giáo dục là việc trọng đại, không phải
bất cứ ai cũng làm được. Tương lai chỉ được làm ra một cách nghiêm túc chứ không thể là chuyện ăn may.
Và người ta có thể bịp thiên hạ
trong nhiều việc khác, nhưng không thể bịp trong việc giáo dục lớp trẻ.
Trong trường hợp không biết làm thầy và quản lý giáo dục, thì từ chối đi là lương thiện nhất.
Nghĩ xong cũng biết ý nghĩ của mình lạc lõng, nó quá cổ lỗ đối với con người hôm nay. Bởi thời nay khi hành động, còn ai nghĩ đến sự lương thiện.
Nên cũng không thể đòi hỏi các giáo viên được.
Song đã chót nghĩ xin cứ chép ra đây.
năm trước.
Hôm nay là bài Nghề
thầy, suy đồi hôm nay chỉ là tiếp nối
tình trạng yếu kém hôm qua, đã đưa trên blog này ngày 19-11-2014. Tên bài được
đổi lại như trên cho rõ nghĩa.
Tiếp đó ngày mai là bài Chạy theo đồng tiền, một khía cạnh của sự
tha hóa trong nghề thầy giáo thời nay. Bài này vốn có tên là Có phải là thất đức? và đã đưa trên blog này 18-11-2011.
Những kẻ loàng xoàng
Một
người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình,
may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng
ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi vừa xì ra một lối thoát:
-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang
được mời ở lại trường giảng dạy đấy. Nếu
lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.
-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng
tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?
--
Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm
việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các
xí
nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường. Đến lượt con
mình có gì là lạ. Ông chẳng hay nhắc lại cái câu của Xuân Diệu "thời nay
là thời lý tưởng của bọn mediocre [tầm thường]" là gì?
Tôi nghĩ lại, chuyện rành rành thế còn đi hỏi, không ngờ mình lẩn thẩn
quá.
Di lụy của lịch sử
Không phải đến ngày hôm nay, mới có tình trạng bao nhiêu những kém cỏi
trong giới trí thức dồn cả cho ngành giáo dục.
Thời trung đại, cả nước chỉ lo học để đi thi, ai thi giỏi đều ra làm quan.
Chỉ có những người lạc đệ (thi trượt)
mới quay về làm nghề gõ đầu trẻ.
Tình trạng này được kể lại rõ ràng trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Nhân vật thầy
giáo Khắc Mẫn chỉ làm trò cười cho các bạn trẻ hơn như Vân Hạc. Anh ta đã dốt, lại
hay khoe khoang chữ nghĩa, có lá thư cho đồng môn cũng viết bằng những ngôn ngữ sáo mòn.
Vậy mà anh ta vẫn nhấp nhổm đi thi. Thi tiếp, may ra có thể thoát được
bọn trẻ ”nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.” Thành ngữ này lấy ở văn thơ cổ
Nhà trống ba gian ,
một thầy một cô, một chó cái
Học trò dăm
đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi
– tương truyền đây là toàn văn hai vế câu đối dán trong nhà Cao Bá Quát.
Đến cái thời của bọn tôi, ở trường cấp III Chu Văn An những năm 50-60
của thế kỷ XX.
Cuối năm lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), chi đoàn của lớp 10 C tập
trung lo vận động một số anh em giỏi giang hãy tự nguyện thi vào Đại học sư
phạm. Tại sao ư, đơn giản lắm, bao nhiêu nhân tài trong lớp đều chăm chăm nộp
đơn vào các trường khá như Bách khoa, như Y Dược cả (“nhất Y nhì Dược tạm được Bách khoa Sư phạm thông qua Nông lâm xếp xó”).
Các trường sang trọng không dành
cho những anh kém.
Điểm vào Y dược Bách khoa cao hơn hẳn điểm vào sư phạm.
Mà
cũng phải thôi, sau khi ra trường, lương ở các ngành đó bao giờ cũng cao hơn
lương dân bán cháo phổi, chưa kể sinh viên sau khi ra trường lại thường được về các
thành phố lớn.
Vậy phải vận dụng đủ cách để kéo người ta đi làm thầy.
Số người gọi là sinh ra đã cảm thấy yêu "nghề trồng người" từ thời
bao cấp cũng đã hiếm lắm. Không kể đám lửa rơm xốc nổi, cái số chân thành tự tin,
trăm người mới có một vài. Mà sau thời gian chịu trận, bám trụ đến cùng sống với nghề nghiệp bằng nguyên vẹn tình yêu
như thuở ban đầu, số đó càng hiếm.
Tôi năm đó đăng ký thi vào khoa Văn Đại học
Tổng hợp, thi trượt, không đủ điểm phải chuyển vào Đại học sư phạm Vinh. Ngày nhập trường,
ngồi trên chiếc xe chở khách Hà Nội - Nghệ An qua các bến phà Kiểu, phà Gián Khuất, phà Hàm
Rồng…, 300 km mất cả một ngày đường, đã khóc hết nước mắt.
Tới trường một anh bạn từ Quảng Bình thi vào Sư phạm Vinh từ đầu an ủi:
-- May mà còn có chỗ này chui vào để
được cái tiếng học Đại học, chứ nếu không bọn đui què mẻ sứt chúng mình về đi
cày hết cả à?
Đòn phản công của các thầy các cô
Thời
ấy sự coi thường của xã hội đối với nghề gõ đầu trẻ được các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đáp trả lại một cách bình tĩnh.
Ra trường, biết thân biết phận, nhiều
người trong họ sẵn sàng về những tỉnh lẻ, những miền quê heo hút, sống lam lũ bên
cạnh những cán bộ công nhân viên lớp dưới và những người nông dân nghèo khó.
Nhiều người phải có các nghề tay
trái cùng làm với vợ con để kiếm sống.
Đến mức có giáo viên đã định
nghĩa một cách chua chát, người thầy cấp I là người nông dân có thêm nghề phụ
là nghề dạy học.
Từ chỗ bị coi thường, rồi giáo giới rồi cũng đã có sự khôn ngoan cần
thiết để tồn tại.
Thời chiến đi qua. Mọi tầng lớp
trong xã hội, kể cả những người lính đi chiến trường về, bắt đầu lo cho con cái,
bởi lẽ họ bắt đầu hiểu rằng trong làm ăn kinh tế, phải có kiến thức, dù là kiến thức cổ lỗ.
Nhưng các bậc phụ huynh thức thời này cũng
sớm hiểu tình trạng bị bạc đãi của các thầy các cô.
Thay cho sự quan tâm của
nhà nước, họ tự động làm cái việc chữa cháy theo cách riêng của họ.
Vốn chẳng
có hiểu biết gì về giáo dục, họ hồn nhiên
cho rằng tốt nhất nên theo thuyết "gà đẻ trứng vàng". Chỉ cần đút tiền cho các
giáo viên, là con em họ sẽ học khá học giỏi một lượt -- họ tự nhủ.
Các
thầy cô giáo đáp laị ngay, cái gì chứ điểm số các môn học và việc lên lớp thì
hoàn toàn trong tay thầy, làm gì mà chả được.
Khoảng
mươi lăm năm trước, khi đứa con nhỏ của tôi còn học cấp I, việc mỗi
đầu học kỳ đến gặp cô biếu xén tí chút là việc các phụ huynh học sinh
đều tự
nguyện làm, và chúng tôi thường sung sướng sau khi hoàn thành nghĩa vụ
của
mình, như các phụ huynh khác.
Ngày nay, tình trạng trên tiếp tục, tinh
vi hơn
cũng có, mà trần trụi hơn cũng có.
Một số bạn tôi có con học ở mấy
trường Đại học tỉnh lẻ còn bảo rằng có tình trạng giáo viên yêu cầu sinh
viên phải nộp tiền hàng tháng, nếu
không thì sẽ không có điểm.
Tôi chẳng hiểu nếp tẻ gì, song tin là có
thật.
Trong mọi lầm lạc hôm nay, mỗi con người đều thường tìm được cái lý
riêng của
mình.
Tôi nhớ những năm trước 1975, các gia đình Hà Nội trong khi tính toán gả
chồng cho con gái, thường bảo nhau, cốt nhất là được các cán bộ thương nghiệp,
hoặc ngành thuế.
Chứ thầy giáo ấy ư, đã có thời người ta xâu chuỗi nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo.
Thời
ấy các ông chồng giỏi tính toán nếu có bằng lòng lấy vợ giáo viên thì chỉ vì biết nghề
đó lương thấp nhưng nhàn, lại có thời giờ dạy dỗ con cái.
Nay thì đã khác.
Thỉnh thoảng cũng thấy nói
lương giáo viên không đủ sống. Nhưng xét
đại trà, là khác. Biết với nhau thôi chẳng ai buồn cãi lại vì cũng như câu
chuyện ông vua cởi truồng, ai tự vạch áo cho người xem lưng làm gì.
Ở cái nước
này nghề gì chẳng đang kém đi, nghề nào chẳng ăn. " Thợ may ăn vải thợ vẽ ăn hồ", cứ gì nghề giáo. Ở Hà Nội Sài Gòn, càng giáo viên cấp thấp càng sống.
Cũng
như bên y tế, lạy trời nghề làm thầy thời nay không lo kinh tế lạm phát hay giá
cả leo thang gì cả. Nước đến đâu bèo đến đấy.
Thời nào người ta chẳng phải chữa
bệnh. Quát giá khám bệnh cao mấy chẳng được.
Thời nào chẳng phải cho con đi
học. Lấy lý do nuôi con ăn học, phụ huynh càng quyết tâm ăn cắp tham nhũng.
Trên đây là chuyện xảy ra đối với
đội ngũ đông đảo là giáo viên loàng xoàng, nơi chỉ có cái lợi chi phối.
Còn đối với loại giáo viên có máu mặt ở các trường điểm trường chọn và
giới giảng dạy Đại học ,tình hình bề ngoài có khác, nhưng xét ở xu thế suy thoái
của nghề thì cũng chẳng khác.
Trong xã hội chiến tranh hôm qua, kiến thức bị coi thường bị khinh bỉ (Thà một cây chông trừ giặc Mỹ -- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương – Tố Hữu).
Nay đi đâu cũng đòi bằng cấp, đến cả
các ông bộ trưởng thứ trưởng tiền của và uy quyền đầy mình cũng còn hét các
trường Đại học thuộc bộ khoác thêm cho mình cái học hàm giáo sư, cái học vị
tiến sĩ.
Mà muốn thế thì các ông phải nâng giá cho đội ngũ dạy Đại học.
Cái cách tự lo của các giáo viên cấp thấp xem ra hơi xoàng. Các thầy cấp
cao có cách đáp ứng riêng. Giáo dục phải trở lại truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giáo dục làm nên tương lai. Các anh có muốn có một tương lai tốt đẹp không mà
lại coi thường chúng tôi. Trong khi vẫn
kỳ cạch làm ăn theo kiểu cũ, các bậc thày này thừa biết rằng xã hội chẳng tìm đâu ra lớp người hơn họ.
Họ phải làm thầy trên đủ mọi phương diện tiếng tăm và đãi ngộ.
Trong số các đàn anh của tôi có những người chỉ mới lập thân sau các vụ
thanh trừng Đại học 1957-58, cả đời không đọc được sách báo nước ngoài, lọ mọ
dựa vào một số sách giáo khoa Liên xô mà những năm trước, lớp anh em đi học
nước ngoài về giới thiệu.
Thế mà sau mấy chục năm kẽo kẹt vận dụng vào tình hình
trong nước, cuối cùng đã bao nhiêu sách in, đã thành trí thức đầu ngành, đã đào
tạo được bao nhiêu tiến sĩ.
Tôi biết nhiều vị đàn anh này cũng là những người rất thông
minh. Giá kể ở một môi trường có những đòi hỏi cao hơn, họ có thể tiến rất xa.
Ở ta, người ta yêu cầu họ có thế và họ chỉ có cái lỗi là thiếu sự đòi hỏi cao
với mình, không dám đi ngược lại hoàn cảnh.
Có phải chỉ riêng văn sử thế đâu, nghe như bên kinh tế thương mại, tình
hình cũng chẳng khác.
Không có người biết từ chối
Muốn tìm cho bài viết này một hơi hướng vui vui, tôi chợt nhớ lại về một
pho truyện cười khá phổ biến ở ta là Trạng Lợn. Khác với Trạng Quỳnh gian xảo
và khinh rẻ mọi người, Trạng Lợn hiền lành, đôi khi khờ khạo, phất lên được là do gặp may, kể cả có một gia
đình hạnh phúc và bà vợ đến cuối đời vẫn không biết rõ thực chất cuả chồng mình.
Cuối
truyện, khi Trạng trở về với gia đình, bà vợ ấy-- vốn là con gái một quan chức, trong
truyện gọi là Phu nhân Phấn Khanh – bảo bây giờ Trạng phải ở nhà dạy con để
lo người kế nghiệp.
Trạng trả lời đại ý mình biết gì đâu, thôi phu nhân cứ làm như khi Trạng
vắng nhà, và bỏ đi chu du các vùng lạ.
Đọc đoạn này, lâu
nay tôi chỉ nghĩ ra Trạng cũng hiểu thành đạt do gặp may chứ mình chẳng tài cán
gì. Một cách nghĩ xa lạ với nhiều người Việt hiện nay, dù họ cũng phất lên theo
kiểu trạng.
Mỗi lần nghe bàn về truyền thống gióa dục nước nhà, tôi thường nghĩ thêm, hóa ra trong xã hội Việt Nam
trung đại cũng đã có người biết rằng việc giáo dục là việc trọng đại, không phải
bất cứ ai cũng làm được. Tương lai chỉ được làm ra một cách nghiêm túc chứ không thể là chuyện ăn may.
Và người ta có thể bịp thiên hạ
trong nhiều việc khác, nhưng không thể bịp trong việc giáo dục lớp trẻ.
Trong trường hợp không biết làm thầy và quản lý giáo dục, thì từ chối đi là lương thiện nhất.
Nghĩ xong cũng biết ý nghĩ của mình lạc lõng, nó quá cổ lỗ đối với con người hôm nay. Bởi thời nay khi hành động, còn ai nghĩ đến sự lương thiện.
Nên cũng không thể đòi hỏi các giáo viên được.
Song đã chót nghĩ xin cứ chép ra đây.
Published on September 05, 2015 03:00
August 30, 2015
Khuôn mặt tinh thần của một trí thức thế hệ trước 8-1945: trường hợp Đinh Gia Trinh
Lời dẫn
Phê bình văn học trước 1945 thường chỉ được các nhà nghiên cứu văn học ở Hà Nội biệt nhãn chú ý trong mấy trường hợp 1/ có liên quan tới việc tuyên truyền các quan điểm văn học mác-xít như các bài của Hải Triều, Đặng Thai Mai 2/ có liên quan tới các nhân vật sau này sẽ trở thành trụ cột trong nền văn học mới như Hoài Thanh; mà trong Hoài Thanh chỉ chu ý tới cái phần bình thơ bình văn của ông, còn những khi ông nêu vấn đề có tính khái quát như ta thấy trong bài "Một thời đại mới trong thi ca", đóng vai trò dẫn luận cho "Thi nhân Việt Nam 1932-41", thì bị xem nhẹ.
Trong khi đó, bức tranh phê bình văn học thời kỳ này – phê bình với nghĩa tìm tòi tư tưởng và định hướng cho sự phát triển văn học – thật ra phong phú hơn nhiều. Đinh Gia Trinh cũng như Lê Thanh, Trần Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh … và lùi về trước là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Thiếu Sơn...từng đã mang lại cho văn học đương thời một tầm vóc tư tưởng mà nếu bỏ qua, chúng ta sẽ không hiểu được sự phát triển của đời sống tinh thần của xã hội VN trong giai đoạn tạm gọi là “bước hiện đại hóa thứ nhất” để phân biệt với “bước hiện đại hóa thứ hai" đang được tiến hành hôm nay.
I
Được hình thành với mục đích cụ thể là phục vụ tức thời cho công cuộc thực dân, nền giáo dục do người Pháp tổ chức nên ở Việt Nam từ 1945 về trước về căn bản mang nặng tính cách thực dụng và những con người được nền giáo dục đó đào tạo trước tiên thích hợp cho công cuộc cai trị, rồi sau đó nếu có làm lợi -- theo nghĩa cao sang chứ không phải nghĩa tầm thường của chữ này - cho nền văn hoá xứ sở thì cũng là chuyện ngoài ý muốn.
Dẫu sao, thay thế cho các nhà nho dần dần một lớp trí thức mới cũng đã hình thành. Hàng năm, trong khi đa số các cậu học sinh tiểu học ra trường rồi đi làm các sở tư hay gia nhập vào bộ máy nhà nước bảo hộ để kiếm sống và vốn liếng kiến thức cũng tan biến luôn trong đó, thì một số nhỏ, do những cơ may nào đó, tiếp tục được học lên. Người này vào lycée A. Sarraut. Người kia thi đậu các trường cao đẳng mới mở. Kết quả là số người so với đời sống bấy giờ có học vấn cao, có căn bản văn hoá vững vàng, số đó đông dần lên.
Mà vượt ra ngoài mong muốn của nhà cầm quyền thực dân, nền văn hoá Pháp chân chính sớm mang lại cho lớp trí thức trẻ ấy (trong đó, một só nhỏ còn vừa du học bên Pháp trở về) một óc suy xét khách quan, lối làm việc khoa học và thói quen độc lập trong tư duy.
Chẳng những thế có một quy luật thấy rất rõ đã chi phối hàng ngũ các trí thức chân chính: dù được dạy dỗ như thế nào, trước sau, họ phải trở về với cội nguồn dân tộc của mình. Cái vốn liếng văn hoá mà họ hấp thụ được trong nhà trường - nếu họ thật sự thấm nhuần - nhất thiết hướng họ vào việc soát xét lại quá khứ của xứ sở để từ đó, phác hoạ ra một đường hướng vận động tới tương lai mà họ nghĩ là nhiều phần thích hợp với dân tộc trong thời đại mới.
Đấy chính là trường hợp xảy ra với một nhóm trí thức trẻ ở Việt Nam những năm 40 của thế kỷ này, những Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Xuân Yêm, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Vũ Văn Cẩn... Sinh trưởng vào khoảng 1900 tới 1915, tới đầu 1940, họ vừa chín tới trong suy nghĩ. Tập hợp nhau lại trong một tạp chí mang tên Thanh Nghị, họ mạnh dạn trình bày những ý kiến riêng có liên quan đến các vấn đề cấp bách của xã hội. Quan điểm của họ là dân tộc và dân chủ.
Giữa các trí thức góp mặt trong Thanh Nghị suốt thời gian tạp chí này tồn tại - thực tế là một cây bút chủ lực ở đấy -, Đinh Gia Trinh (1915-1974) có một vai trò riêng biệt.
Trong khi các bạn bè khác viết về sử, về luật, về pháp quyền, về kinh tế... thì khu vực được ông đề cập tới nhiều nhất là văn chương nghệ thuật.
Với tư cách một người quan tâm tới đời sống tinh thần chung của xứ sở, ông muốn áp đặt một cái nhìn trí thức đối với đời sống và công việc của giới cầm bút, để rồi thúc đẩy văn chương tiến tới làm tròn những sứ mệnh của nó.
Bởi lẽ, xưa nay, trong lòng xã hội Việt Nam, văn chương nghệ thuật luôn luôn đóng một vai trò trọng yếu, sự quan tâm của nhà cầm quyền cũng như các giới dân chúng đối với nó là rất lớn lao, và sự thực nó đã trở thành một thứ hàn thử biểu của đời sống, cho nên, việc một người trong giới trí thức đương thời suy nghĩ về nó, là một lẽ tự nhiên, hơn nữa, một điều cần thiết, nhất là từ đầu những năm 40 trở đi, khi xã hội có nhiều biến chuyển, và sự phát triển của sáng tạo văn nghệ không còn được phép kéo dài tình trạng tự phát, mà phải là một cố gắng tự ý thức đến mức tối đa.
Không phải ngẫu nhiên gần như đồng thời với Thanh Nghị, một tạp chí nghiên cứu và đánh giá văn chương nghệ thuật khác (có hơi nghiêng về việc khảo cứu cái cổ) cũng đã ra đời, đó là tờ Tri Tân.
Với các bài viết sắc sảo của Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân trên Thanh Nghị, của Hoa Bằng, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế... trên Tri Tân, như vậy là công việc của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... hồi nào được tiếp tục và đẩy lên một bước mới.
II
Tuy có khác nhau ít nhiều trong cách gọi tên và đánh giá song tất cả những ai từng nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều sớm nhận ra và không tránh khỏi cảm giác kinh ngạc trước sự đổi thay vùn vụt của nó.
Những năm 20 về trước, văn chương ta còn đang ngơ ngẩn với những câu văn biền ngẫu, những quan niệm thể loại cổ lỗ, những lối thuyết minh đạo đức thô thiển, vậy mà chỉ mười năm sau, nền văn chương này đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy sáng tạo, đã dàn ra đủ “các mặt hàng” và tạo ra sự định hình bước đầu của các thể tài thể loại, chẳng khác gì ở nhiều nước phương Tây, tóm lại đã có khuôn mặt của một nền văn chương hiện đại.
Trước mắt một người như Đinh Gia Trinh, cái thực tế văn chương mấy năm từ đầu 40 bày ra như vậy là một quang cảnh văn hoá, có sắc thái đậm nét, có định hướng rõ ràng. Điều có phần chắc nữa là nó khá tương ứng với cách nhìn cách xem xét văn chương hình thành từ cái vốn liếng tri thức tổng quát của lớp người như ông, thành thử trong khi bàn luận , ông có thể có một sự lui tới tự nhiên, thoải mái.
Trong phạm vi một tờ báo, công việc mà Đinh Gia Trinh đảm nhiệm lúc ấy khá đa dạng, và ông đã viết đủ loại: bài phê bình nghiên cứu về từng tác phẩm có; bài đánh giá tổng quát về tình hình văn chương từng năm có; bên cạnh những bài có tính chất tiểu luận trình bày một vấn đề học thuật mà tác giả cho là quan trọng, lại có những đoạn danh văn ngoại quốc, thực chất là những suy nghĩ của một tác giả nước ngoài mà Đinh Gia Trinh thấy là hợp với ý tưởng của mình, tự tay ông dịch, và kèm thêm vào đó vài đoạn bình luận ngắn.
Ấy là không kể những bài gọi là tuỳ hứng hoặc theo ngôn ngữ chúng ta bây giờ, có thể gọi là phiếm luận, tạp luận.
Bấy nhiêu vấn đế, bấy nhiêu bài viết, cách viết, tưởng là tản mạn, nhưng rút cục, quy tụ ở một điểm, mà tác giả thấy tâm đắc hơn cả.
Dù là mãi đến đầu 1945, Đinh Gia Trinh mới đưa ra một thiên tiểu luận có đường nét của một bài tổng kết Địa vị văn hoá Âu Tây trong văn hóa Việt Nam, song tinh thần kiểm điểm soát xét lại lịch sử theo hướng này cũng đã chi phối ông nhiều năm trước.
Đọc Mơ hoa của Đoàn Phú Tứ, ông bàn về ảnh hưởng của kịch Pháp với kịch Việt cũng như nhân đọc tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ông nêu lên những biến chuyển mới trong tâm lý nó bộc lộ ra qua việc vận dụng một thể loại. Riêng thơ cũng được tác giả dể tâm theo dõi khá kỹ.
Nhân sự tổng kết của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 ông chỉ ra tính tất yếu của một sự thay đổi mà lúc đầu người ta thường e ngại. Ít lâu sau, khi đọc Xuân Thu Nhã tập, ông lại sẽ cắt nghĩa về những hạn chế của sự thay đổi này bằng vào những gốc rễ sâu xa của nó.
Tóm lại, dù viết về bất kỳ chuyện cụ thể nào, ông cũng đứng vững trên một nhận xét khái quát, rằng nền văn chương từ đầu thế kỷ, cho đến những năm 40, là một nền văn chương làm theo mẫu hình phương Tây, và sự gặp gỡ Tây phương là một hiện tượng lớn và quan trọng bậc nhất, trong lịch sử đời sống tinh thần của nước Việt Nam hiện đại.
Kể ra trước Đinh Gia Trinh ít lâu, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã nói tới chuyện ảnh hưởng phương Tây (trong thiên tiểu luận nổi tiếng Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã viết: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”) song, trong thực tế, trong số những người theo đuổi ý tưởng này đến cùng, và triển khai nó rộng rãi trên phương diện lý lẽ, bàn được cả cái hay cái dở cụ thể của nó, thì tiếp sau Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh.... phải kể tới Đinh Gia Trinh.
Rải rác qua các bài viết, người ta biết rằng nhà trí thức này không chỉ thông thạo văn chương Pháp mà còn biết đến Goethe của Đức, Shakespeare của Anh... Và trong văn chương Pháp, không chỉ yêu Lamartine, Baudelaire, Balzac, Hugo... ông còn ngược đến tận Pascal, trong khi vẫn là bạn đọc thường xuyên của những M. Proust, A. Gide v.v...
Hơn thế nữa, đây là một trong số ít ỏi trí thức đương thời biết nói về âm nhạc châu Âu như nói về những vui buồn của riêng mình, và yêu Bethoven với một tình yêu thường trực. Bằng ấy điều kiện gia dĩ đã là một thứ đảm bảo chắc chắn cho vấn đề mà ông lựa chọn và trở thành chủ đề xuyên suốt trong các bài viết.
III
Trong số những lý do khiến cho vấn đề Đông Tây sớm nổi lên và trở thành một ám ảnh dai dẳng chi phối tâm trí nhiều nhà trí thức đương thời, có một lý do cơ bản sau đây: Đông phương là cái dĩ vãng của xứ sở, là nền tảng của quá khứ thiêng liêng, còn Tây phương là cái hương xa hoa lạ bỡ ngỡ, là cái đã đến cùng kẻ thù xâm lược. Theo một góc độ nào đó mà xét có thể bảo làm văn hoá theo kiểu Tây phương là từ bỏ truyền thống cha ông, là xa lìa mảnh đất đã nuôi dưỡng mình. Với một trí thức tự trọng, đấy là cả một việc tế nhị và một người có lương tâm không khỏi áy náy - những áy náy cần thiết để giúp người ta lui tới trong cách nhìn và tránh đi những lố lăng tuyệt đối hoá mỗi khi thẩm định và đánh giá.
Tuy nhiên, đấy là chỉ xét vấn đề từ những mặc cảm cố hữu.
Trong lịch sử nước nhà, câu chuyện Đông - Tây vốn đặt ra từ thời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, qua Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đến Đông kinh nghĩa thục rồi Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà.
Khi Đinh Gia Trinh và các đồng nghiệp cầm bút, vấn đề trên đã được lịch sử giải quyết rồi, những đề xuất của ông không thể nói là có ý nghĩa xác định phương hướng tiến tới cho lịch sử. Ngược lại, công việc của các ông lúc này là lý giải một hướng vận động đã được lịch sử chấp nhận, và mang lại cho nó một vẻ hợp lý, do đó, một tính cách thiết yếu.
Việc này đã được ngòi bút Đinh Gia Trinh thực hiện một cách khéo léo, có sức thuyết phục.
Thứ nhất, ông bình tĩnh trấn an mọi người. Ông bảo: Ta vẫn là ta. Chẳng qua ta chỉ mượn ở phương Tây những men giống, sau đó, tự ta sẽ phát triển “trên cái căn bản cố hữu lưu truyền qua các thời đại”.
Một dịp khác, ông nhấn mạnh ngày hôm nay chỉ là sự nối tiếp của một dĩ vãng. Cái dĩ vãng ấy không bao giờ tiêu biến như ta sợ. Trong điều kiện mới, nó sẽ được “thêm thắt và làm cho hoàn thiện hơn”.
Thứ hai, ông có biện hộ nhưng là một sự biện hộ khá thuyết phục cho hiện tượng đã xảy ra. Ai kia bảo học theo nước ngoài là đánh mất mình, còn ông, thì ông cãi lại :
“Theo người ta rất có thể chịu một ảnh hưởng ngoại quốc mà vẫn rất thành thực”.
“Hồn của Việt Nam có thể ở những câu ca dao hát trên bờ ruộng nhưng sao lại không có thể ở cả cái bồng bột của một tấm lòng thanh niên trước cuộc đời?”.
Có lúc ông nói đến tình, có lúc ông nói đến lý.
Và để kết luận, ông mượn một hình ảnh “áo của tổ tiên ta để lại chật quá, ta phải thay áo mới, đó có phải đâu là vong bản, là phụ bạc? Một vài thiên tài trong thế kỷ sẽ chứng rằng cái áo mới ấy rất dễ coi và thích hợp với những nhu cầu mới của thời đại mới.”
Cứ thế, không cần cao giọng chút nào, người trí thức trẻ đã làm được một việc cần thiết, là làm cho nhiều người tin hơn vào một sự đổi thay tuy trái với thói quen, nhưng suy cho cùng, lại là hợp lý.
Khi nêu ra những nhận xét trên, không phải Đinh Gia Trinh chỉ xuất phát từ sự xét đoán trong lý trí, mà còn là những thể nghiệm cá nhân.
Nên nhớ rằng cho đến những năm 40 của thế kỷ trước, giới trí thức nước ta vốn được hình thành theo một cách thức rất lạ.
Một mặt, họ tiếp nhận văn hoá phương Tây kỹ lưỡng, cặn kẽ.
Mặt khác trừ một số quá đặc biệt còn phần lớn họ vẫn có một cách thức riêng để tiếp thu nền văn hoá cổ truyền.
Công thức phổ biến đại khái là: Tiếng Pháp, văn hoá Pháp đến từ nhà trường. Còn về với gia đình là văn hoá Hán Việt.
Thành thử, trong khi không tiếp tục sống theo tinh thần văn hoá cổ truyền, họ vẫn hiểu nền văn hoá đó đến chân tơ kẽ tóc, và nhân tiếp nhận được những công cụ hiện đại của khoa học xã hội phương Tây, họ lại lấy ngay nền văn hoá cổ truyền kia làm đối tượng để thể nghiệm, tức là bắt tay khảo sát đánh giá lại những di sản mà họ nhuần thấm và bắt đầu thấy tiếc, vì nó đang mất.
Những công trình nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (viết bằng tiếng Pháp, in ra từ mấy chục năm trước, và gần đây mới được dịch ra tiếng Việt) là một ví dụ.
Về phần mình, Đinh Gia Trinh cũng chỉ làm việc này theo lối tay trái, nhân do làm báo mà phát biểu về nền văn hoá cổ truyền. Mặc dù vậy, phải nhận một bài viết như Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá có những nét phác hoạ khá chính xác, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc những nền tảng văn hoá cũ.
Tác giả không làm công việc kiểm điểm hoặc đánh giá đầy đủ các sáng tác văn chương cổ điển (đó là công việc của những Dương Quảng Hàm, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... đã làm).
Chủ yếu, ông muốn tìm ra cơ chế hoạt động của nền văn hoá cũ, cái chủ thể sáng tác của nó, cùng là môi trường mà trong đó, tác phẩm được phổ biến.
Cái khó nhất của một bài viết tổng quát về một nền văn hoá như thế này là bắt lấy cái thần của đối tượng. Chỉ cần để công một chút người ta có thể kể ra hàng loạt chi tiết độc đáo của một nền văn hoá, nhưng vẫn có thể khái quát về nền văn hoá đó sai, nếu thiếu đi một sự linh cảm nó được hun đúc từ cả kinh nghiệm từng trải lẫn tinh hoa của hàng vạn quyển sách.
Là bài viết đầu tay của Đinh Gia Trinh trên Thanh Nghị, song Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá sở dĩ có thể đứng vững và chắc chắn tạo nên một uy tín, vì có được cái linh cảm chính xác đó hướng dẫn.
IV
Sau khi thuyết minh cho lẽ tất yếu của việc tiếp nhận văn hoá phương Tây vào nền văn hoá dân tộc, một lớp trí thức trẻ lớn lên từ sự tiếp nhận ấy ắt hiểu rằng muốn tự trọng, phải lấy mình ra bảo đảm cho cái phương hướng đã được xác lập. Phải tự chứng tỏ cho được cái ưu thế của cái mới cả về phương diện đào tạo con người, lẫn tính hiệu quả trong công việc. Phải tiến tới cái mực thước, công bình trong xét đoán.
Có thể nhiều người cũng chia sẻ với Đinh Gia Trinh một nhận xét bao quát rằng “phần văn hoá đặc sắc nhất mà Tây phương mang lại cho ta là óc khoa học”, song có được óc khoa học thực thụ, nghĩa là “tạo cho mình một nếp tư duy trong thực tế, yêu sáng láng và thật sự, có óc phê bình” thì không phải dễ!
Trong việc tiếp nhận những điều mới lạ, thiếu gì kẻ a dua theo thời mà cũng thiếu gì người nông nổi, mới học được ít, đã tưởng mình biết nhiều rồi khoa chân múa tay trộ đời.
Bấy giờ những người có hiểu biết chắc chắn phải làm công việc minh định lại mọi điều, cốt sao cho người ta không vì những sự áp dụng lầm lạc, mà hiểu sai một cách làm, và bỏ đi một phương pháp, cái khó là ở chỗ ấy.
Vào khoảng thời gian 1940-1941, khi Đinh Gia Trinh bắt đầu viết nhiều, đời sống phê bình văn học cũng có những bước đột khởi về số lượng và chất lượng.
Hoài Thanh và Hoài Chân cho in Thi nhân Việt Nam 1932-41 gọi lên rất nhiều tiếng vang.
Vũ Ngọc Phan cho công bố một bộ Nhà văn Việt Nam hiện đại khá đồ sộ.
Trong khi ấy, sau Việt Nam văn hoá sử cương, Đào Duy Anh có Khảo luận về truyện Thuý Kiều, còn Nguyễn Bách Khoa lại tới tấp cho ra đời Nguyễn Du và Truyện Kiều, Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Công Trứ...
Sự gia tăng của tỷ trọng sách nghiên cứu như vậy một dấu hiệu của sự tiến hoá chung về đường tinh thần - Đinh Gia Trinh sẵn sàng nhắc đi nhắc lại như vậy.
Khi đặt cho một bài của mình cái tên Hoài vọng của lý trí, ông đã tự chứng tỏ cái khuynh hướng mà bản thân đang theo đuổi.
Song không phải những người cùng hay nói tới lý trí có chung một cách hiểu về nó. Bàn về giáo dục, ông Thái Phỉ có phần quá nghiêm khắc khi nhìn lớp thanh niên học sinh đương thời. Ông P.N. Khuê lại thường đề cao một chiều óc khoa học, tới mức xổ toẹt lý do tồn tại văn chương nghệ thuật, bảo nó là sa đoạ, có hại.
Riêng trường hợp của Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) mới lại càng độc đáo.
Nghiên cứu về Truyện Kiều, có lúc ông ngả hẳn sang công việc của một y sĩ, kết luận rằng nhân vật của Nguyễn Du mắc bệnh uỷ hoàng, kèm theo những nhận xét triệu chứng học đọc lên nhiều người bình thường hẳn phải nhăn mặt.
Mà lối viết lối nghĩ dung tục đó lại được Nguyễn Bách Khoa khoác cho cái áo sang trọng, nào là duy vật, nào là cách tân, và cố ý khoe rằng chỉ có học thuyết Freud hiện đại mới cho phép người ta có những khám phá như vậy.
Những kết luận vội vã của Nguyễn Bách Khoa, theo Đinh Gia Trinh là “lạc chốn lạc nơi” “vô duyên vô lý một cách lạ” và trong nhiều trường hợp nhà phê bình tự nhận là mới mẻ ấy đã “bênh vực cho những tư tưởng cũ rích”. Sự phê phán của Đinh Gia Trinh trong trường hợp này góp phần vào việc mang lại cho phương pháp nghiên cứu khoa học vừa được du nhập từ phương Tây một sự dè chừng: nếu không có thực học, tức học đến nơi đến chốn, người ta rất dễ đi vào gò ép giả tạo, trở thành tù binh của những ý kiến giật gân song lại xa lạ với lương tri thông thường va trở nên lố lăng, bịp bợm lúc nào không biết.
Đi tới cùng trên con đường duy lý đã chọn, văn hoá phương Tây - phần tốt đẹp của nó - không chỉ dừng lại ở lối tư duy máy móc, mà đã tiến sang cái phần siêu lý và điều đơn giản là nó thường xuyên tự quay lại nhìn mình và cảm thấy mình là không đủ. Từ các thế kỷ trước đã có người nghĩ thế và đến những năm XX của thế kỷ này điều ấy càng được khẳng định.
Bằng sự nhạy cảm riêng, bằng vốn kiến thức khá uyên bác, Đinh Gia Trinh đã tiếp nhận cái ý tưởng về triển vọng hạn chế của văn hoá tư tưởng phương Tây một cách hoàn toàn thoải mái. Vẫn biết rằng triết lý Đông phương không ít nét tối tăm huyền bí, chỉ có những người có căn bản Tây học vững chắc mới mong giải mã được nó, song ông cũng cho là có những phương diện, Đông phương đã đi xa hơn Tây phương.
Nhân bàn về y lý ông chỉ dự doán một cách dè đặt “biết đâu Đông phương chẳng có thể chỉ lối đưa đường cho Tây phương ở một vài địa hạt, ở những chỗ mà y học Tây phương bất lực hoặc còn chưa hoàn thiện”.
Nhưng đứng đằng sau y lý bao giờ cũng có một triết lý, cho nên đằng sau cái nhận xét cụ thể kia của Đinh Gia Trinh, người ra dễ dàng nhận ra một khái quát, mà ông chỉ mới gợi ý.
V
So với một số nhà phê bình đương thời, cách đóng góp của ngòi bút Đinh Gia Trinh với đời sống văn chương 1940-45 có một chỗ khác rõ rệt: ông không trực tiếp lăn lộn kiếm sống trong giới cầm bút. Hoạt động phê bình của Đinh Gia Trinh do đó chưa đạt đến mức bao quát tỉ mỉ như Vũ Ngọc Phan, cũng như không có được sắc thái tinh tế như lối thẩm văn của Hoài Thanh.
Song để bù lại, cái tư thế đứng ngoài nhìn vào lại khiến cho ngòi bút Đinh Gia Trinh được cái hồn nhiên tư nhiên mà không sa đà vào những thành kiến của người trong cuộc.
Nói về Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, ông bảo thi tứ hơi nhàm.
Nhận xét chung về cuốn tổng kết Thơ mới của Hoài Thanh và Hoài Chân, ông nói thẳng cái điều mà ít người dám nói, đó là ở Thi nhân Việt Nam có những nhà thơ bất tài, “tác giả một vài bài thơ tạm đọc xuôi”. Thế mà “cũng có tên, có tiểu sử có cả ảnh nữa trong tập sách”.
Một sự nhạy cảm tương tự còn thấy rất rõ qua bài Đinh Gia Trinh viết về Truyện Kiều.
Sau khi phê phán phương pháp làm việc cũng như các kiến giải dung tục của Nguyễn Bách Khoa, bản thân Đinh Gia Trinh trực tiếp đứng ra trình bày một vài điểm liên quan đến kiệt tác của Nguyễn Du.
Chẳng hạn, chung quanh mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm. Phản đối lối đọc Kiều như đọc tâm sự, song Đinh Gia Trinh vẫn cho rằng tác phẩm này là nơi thể hiện cái bản ngã của tác giả một cách đầy đủ nhất, và người ta nên tìm tới cả những gì mà tác phẩm bộc lộ, ngoài sự cố ý của tác giả.
Lại như khi đi vào phân tích từng nhân vật cụ thể, nhiều chỗ nhà phê bình này vẫn có những phát hiện nho nhỏ đi ngược với thói thường.
Nhân câu nói của Kim Trọng Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều, trong khi Nguyễn Bách Khoa cho rằng đấy là một lời đầy chí tiến thủ và nhiều người khác muốn tìm ở đó cả một triết lý, thì Đinh Gia Trinh đưa nó về cái vị trí thực của ông. Ông chỉ xem đó là một câu nói bộc lộ quyết tâm trong tình yêu “đã yêu nhau thì san phẳng trở lực” thế thôi, ngoài ra không có triết lý sâu xa nào ở đây hết!
Hoặc khi bàn chung về nhân vật Thuý Kiều trong khi Đào Duy Anh cho rằng “Kiều thông minh, xử sự bao giờ cũng sáng suốt và hợp lệ”, thậm chí gần đây trong một cuốn Giáo trình đại học in những năm 70-80 có nguời còn mệnh danh Kiều là một nhân vật tuyệt vời ý thức, thì Đinh Gia Trinh có lẽ là gần sự thực hơn khi bảo rằng chỉ qua việc bán mình chuộc cha thôi, đã thấy lý trí của Kiều không làm việc, và trong nhiều trường hợp nàng đã xử sự mù quáng, chứ chẳng có chút sáng suốt nào hết!
Bấy nhiêu ví dụ gộp cả lại, cho phép người ta giả thiết giá kể đi sâu vào phân tích tác phẩm, Đinh Gia Trinh cũng sẽ là nhà phê bình sắc sảo.
Nhưng lịch sử không muốn thế.
Sau khi đã có Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh, lịch sử văn học trước 1945, muốn có thêm những nhà phê bình tồn tại theo kiểu khác.
Không phải ngẫu nhiên mà một trong những bài viết quan trọng của Đinh Gia Trinh, bài Nay và mai, lại có cái phụ đề “ý kiến và những cảm hứng về đời sống tinh thần Việt Nam”.
Quả thật là đọc Đinh Gia Trinh, người ta không chỉ biết thêm về tác phẩm văn chương.
Rằng hồi bấy giờ, sách vở ra rất luộm thuộm.
Rằng trong khi văn chương có vẻ phát triển rầm rộ, thì tác phẩm có chất lượng rất ít, nhân danh thứ văn chương kiều diễm nhiều người viết thường kể lể dông dài, hoặc sau một hồi tán nhăng tán cuội lại đang lên mặt đạo đức, thế mới là chuyện kỳ lạ!
Mà với Đinh Gia Trinh người ta có dịp ngó sang cái «cơ chế sản xuất chữ nghĩa» của con người đương thời:
“Đã có một thủa gần đây, cảnh tượng xã hội ta thực như thế này: những người có bằng cấp ung dung bệ vệ trong địa vị của họ ở ngoài vòng “cương toả của sách vở”, còn ở các thư viện thì các cậu học trò học thi cho đỡ tốn, và ở các căn nhà hỗn độn, một số văn nghệ sĩ nghèo nàn gò ép trí não rỗng tuếch của họ để cấu tạo một cái gì in được”.
Khi viết những dòng đó trong bài Học lấy và học ở nhà trường, chắc Đinh Gia Trinh không ngờ là đã ngả sang một thứ xã hội học mà một đồng nghiệp của ông là Thanh Tuyền bắt đầu giới thiệu trên Thanh Nghị mấy năm 43-44. Nhận xét của ông không chỉ đúng với một thực trạng đương thời mà còn báo trước một lối làm việc sẽ còn kéo dài trong đời sống nhiều năm về sau, nó khiến cho văn hoá ở ta thường phát triển theo bề rộng mà kém về bề sâu, có số lượng nhưng không vươn lên được về chất lượng.
VI
Nghệ thuật phê bình là tên gọi một bài viết Đinh Gia Trinh cho in vào giữa 1942.
Sau khi gọi ra những yêu cầu chính mà một người làm nghề này phải có như năng lực hiểu được người khác - Đinh Gia Trinh gọi là năng lực cảm hội - rồi óc phân tích và tổng hợp, rồi kỹ thuật nghề nghiệp, tác giả Hoài vọng của lý trí đặc biệt nhấn mạnh tới cá nhân con người nhà phê bình.
Ông nhắc lại ý kiến của một học giả phương Tây bảo phê bình là một loại văn chủ quan, và trái với cái thành kiến thông thường cho rằng viết phê bình là “cân đong đo đếm” người khác, phải thấy trước tiên viết phê bình là dãi bày mình ra trước công chúng.
Rồi Đinh Gia Trinh kết luận:
“Tâm hồn nhà phê bình có giá trị ngần nào thì nghệ thuật của nhà phê bình có giá trị ngần ấy”.
Người ta có thể tin ở độ chín chắn và mức độ thành thật của nhận xét này khi nhớ lại các bài nghiên cứu vừa nói ở trên.
Sở dĩ ấn tượng tốt đẹp về Đinh Gia Trinh còn lại sau các bài viết ấy, lý do là vì ở đó người ta luôn bắt gặp cả lòng ham yêu, cái khát khao muốn đi tới sự thực và chân lý, cái khoáng đạt trong khả năng hiểu về việc và người, chính nó mới là nhân tố chi phối mọi phương hướng suy xét và sự vận dụng kiến thức đã khá vững vàng nơi tác giả.
Song còn một khu vực nữa, mà con người nghệ sĩ ở Đinh Gia Trinh có dịp bộc lộ trực tiếp hơn, đầy đủ hơn, đấy là các bài tuỳ bút.
Nếu như khi viết tiểu luận, Đinh Gia Trinh đi ra với thực tại khách quan, với mọi người thì trong các bài tuỳ bút, ông phải đối diện với chính mình. Mình trong một chuyến nghỉ hè, mình trong những lần trở lại quê hương; hoặc đơn giản hơn, mình trong một buổi chiều vơ vẩn, mơ hồ lắng nghe thấy rất nhiều điều từ trời đất thiên nhiên mà lại không sao nói lên mọi thứ cho thật rõ ràng.
Hình như chính con người duy lý nơi tác giả cũng sớm cảm thấy rằng những khi đơn độc, tâm hồn mình hiện ra quá nhạy cảm và yếu đuối.
Nhưng rồi ông tự biện hộ: không có lý do gì buộc người ta phải giấu diếm nỗi buồn cũng những xúc động tưởng như vặt vãnh ở mình cả.
Ngược lại sự bộc lộ đó là tự nhiên, và nó làm giàu thêm cho tâm hồn con người.
Sự thực là qua các tuỳ bút, bản thân Đinh Gia Trinh hiện ra với bộ mặt tinh thần khá phong phú. Ông yêu đời. Ông thèm đi thèm biết. Ông lại luôn luôn e ngại chỉ sợ mình lầm lạc thô thiển và lo rằng những cử động vô ý của mình làm hỏng mất cái đẹp ở chung quanh Lòng tôi bồng bột quá...Tôi rụt rè, tôi yếu đuối... Con nguời tôi bỗng trở nên bối rối...
Không chỉ trong bài Kỷ niệm Phan Thiết, mà trong nhiều bài viết khác, người ta luôn luôn cảm nghe tiếng kêu lên se sẽ của tác giả như vậy. Những đối tượng khiến lòng ông bồng bột xúc động lại nhiều vô kể: quá khứ tuổi thơ; những kỷ niệm của quê hương của bạn bè; cả nhữn mô-típ quen thuộc trong văn hoá cổ truyền như câu chuyện Từ Thức nhập Thiên Thai cũng đi về sống động trong lòng ông, nó khiến cho những lúc trở về với cái thế giới riêng của mình, ông như trở thành một con người khác.
Hoá ra, không chỉ cần nỗ lực suy nghĩ và vượt lên trên hoàn cảnh, mà có lúc, con người ta cần cả một chút buông thả thư giãn tự nhiên.
Ấy là lúc con người trong ta trở về với cái bản chất thi sĩ sẵn có mà hàng ngày, giữa cuộc sống quá bộn bề, ta thường quên lãng.
Như trong phần tìm hiểu các bài tiểu luận của Đinh Gia Trinh chúng ta đã thấy, một trong những chủ đề trở đi trở lại trong Đinh Gia Trinh là mối quan hệ Đông phương và Tây phương.
Thì đến cái phần tuỳ bút, người ta thấy vấn đề ấy vẫn trở lại trong tâm khảm tác giả, thậm chí, nó bộc lộ qua cả cách cảm cách nghĩ của chính ông nữa.
Với sắc thái u trầm kín đáo, những run rẩy, những phút giây yếu đuối những tình tự tế nhị thường trực nơi tác giả là gì khác, nếu như không phải là cái chất phương Đông tiềm tàng sẵn trong con người ông?
Thế còn phương Tây?
Cái đó cũng rõ rệt không kém.
Nó ở cái khao khát của ngòi bút, muốn ghi lấy tất cả, bộc lộ tất cả. Nó ở cái cảm hứng tự do mà một khi đã nếm trải, con người ta không bao giờ từ bỏ nổi. Nó lại cũng ở cái tấm lòng tha thiết muốn soi dọi thẳng vào những run rẩy những lờ mờ tăm tối còn chạng vạng trong lòng mình, để vươn tới cái sáng rõ của ý tưởng, nó cũng là cái lòng ham yêu mà tác giả cho là người mình thiếu nhất và cần bồi bổ sớm nhất.
Nói cho công bằng, ở một con người, giữa nhu cầu bộc lộ tâm hồn và khẩ năng diễn tả tâm hồn đó trên mặt giấy, hai cái đó thường khi có sự chênh lệch, và Đinh Gia Trinh cũng không phải là một ngoại lệ. Các tuỳ bút của ông đôi khi hơi rối, mà tác giả có vẻ mải đắm chìm trong những cảm giác đang tràn ngập trong lòng mà chưa có một độ lùi cần thiết để trình bày cho sáng sủa. Cũng tức là ông chưa tính được chính xác hiệu quả bài viết trong lòng người đọc. Tuy nhiên, khi nào mà có được sự chín đầy trong cảm xúc, vừa huy động được vốn kiến thức đã nhuần nhị, lại vừa thanh lọc được những kinh nghiệm sống, thì bài viết của Đinh Gia Trinh có một hiệu quả văn chương khá sâu đậm.
Đó là, chẳng hạn, bài Đông phương và Tây phương.
Do chỗ, một vấn đề rất duy lý và rất khô khan như vậy, trở thành vấn đề riêng của con người tác giả, nên nó được ông trình bày gọn gàng, hàm súc mà vẫn thanh thoát. Đã có lúc tôi nẩy ra cái ý nghĩ bài viết trên "có được cái vẻ đẹp lung linh và cái sức lôi cuốn mà thỉnh thoảng người ta mới bắt gặp, trong những tuỳ bút hay nhất của Xuân Diệu".
VII
Cho đến hiện nay, sinh hoạt văn học trước 1945 ở ta mới được nghiên cứu qua loa và còn mang nặng rất nhiều thành kiến. Đọc các giáo trình văn học sử dạy ở các trường đại học, đại khái người ta mới chỉ thấy đời sống văn học được chia ra thành ba khuynh hướng, văn học hiện thực, văn học lãng mạn và văn học cách mạng. Nhiều vấn đề quan trọng như tư duy văn học, như sự hình thành và phát triển các thể loại, chưa được xem xét, hoặc nếu có thì cũng còn rất hời hợt.
Ví dụ xung quanh vấn đề phê bình văn học, đại khái chỉ thấy những người sau đây được nhắc tới ít dòng: Hải Triều, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, tiếp đó Trương Tửu, Trương Chính được dẫn chứng trong một đôi lần ít ỏi.
Trên cái nền chung như thế, một cái tên như Đinh Gia Trinh hầu như không gợi một ấn tượng gì hết, mà chỉ ngẫu nhiên được nêu ra khi các nhà văn học sử đề cập tới trường hợp hai tờ Tri Tân, Thanh Nghị.
Oái oăm thay, một sự lãng quên như thế - quên cả giới phê bình, chứ không riêng gì Đinh Gia Trinh - lại chính là do các nhà phê bình cố ý hoặc ngẫu nhiên thực hiện. Ở đây, người ta cảm thấy như là có một sự xấu hổ không muốn trình diện của cả hai phía, cả người trong cuộc, cũng như người ngoài cuộc.
Một ý tưởng thường trở đi trở lại trong các bài điểm tình hình văn chương mà Đinh Gia Trinh đã viết trên Thanh Nghị là vai trò đáng kể của lý trí, của tư duy nghiên cứu đối với đời sống văn chương nói chung.
Nhưng ông nói là để nói cho ai vậy, còn bản thân ông lại hết sức rụt rè không dám khẳng định phần đóng góp của bản thân và bao nhiêu điều viết ra bằng tâm huyết, bằng học vấn và tài năng trong những năm tuổi trẻ đẹp nhất của đời mình (trước tuổi 30).
Về sau, ông không bao giờ chủ động nhắc tới và có vẻ sẵn sàng để nó vùi sâu vào quên lãng.
Mà ông đã muốn thế, thì các đồng nghiệp của ông, trẻ hơn ông, đi sau ông, cũng sẵn sàng để cho ông như thế.
Lâu nay có một thành kiến sai lầm là văn chương tiền chiến (phần công khai) sau khi lên đến đỉnh cao hồi 36-39, thì lụi tàn dần. Cái điều phi thực tế ấy không được một số nhà nghiên cứu ở Hà Nội chấp nhận. Các ông bỏ công sưu tầm hàng ngàn trang văn xuôi của những Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tô Hoài, Tam Kính, Phi Vân... và viết những công trình tổng kết rất chững chạc để chứng minh rằng văn xuôi sau 1940 là một bước phát triển mới của văn chương tiền chiến.
Thế nhưng, một đặc điểm quan trọng của đời sống văn học 40-45, là sự đóng góp rõ rệt của các nhà nghiên cứu, thì chưa thấy một nhà văn học sử nào đoái hoài tới. Tác phẩm của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan rành rành ra đấy mà mãi tới sau 1986 mới được in lại, nói chi đến các bài viết của Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng, Lê Huy Vân và nhiều người khác còn đang nằm rải rác giữa những tập báo cũ nát ở các thư viện.
Trong hoàn cảnh ấy, các tiểu luận và tuỳ bút của Đinh Gia Trinh, nếu quả thật có rơi vào tình trạng lãng quên, thì cũng không có gì khó hiểu.
May thay cũng có người không quên hẳn như vậy!
Trong một tập sách giáo khoa đồ sộ và nghiêm túc (trên 1000 trang) mang tên Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, một nhà nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước đây là Phạm Thế Ngũ đã làm việc khá khách quan và khoa học. Trên nền bức tranh chung của văn học Việt Nam 1932-1945, Phạm Thế Ngũ dành một phần quan trọng cho đời sống văn chương sau 1940.
Mà trong giai đoạn cụ thể này ông đặc biệt xem trọng nghiên cứu phê bình. Ông xếp nó thành một mục riêng, trong đó tác phẩm của những Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Văn Hoè, Phan Khoang... được nói tới khá đầy đủ.
Hai tờ tạp chí Thanh Nghị và Tri Tân được ông dành cho một vị trí quan trọng cũng vì lẽ đó.
Riêng với Đinh Gia Trinh, Phạm Thế Ngũ lại có biệt nhãn hơn người. Theo nhận xét của tác giả Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, đây là ngòi bút khả ái bậc nhất ở Thanh Nghị.
Phạm Thế Ngũ không chỉ trân trọng những kiến giải sâu sắc của Đinh Gia Trinh đối với đời sống văn chương, mà còn có ấn tượng tốt về toàn bộ con con người Đinh Gia Trinh toát ra qua các trang viết. “Nếu trong những bài khảo luận và phê bình, Đinh Gia Trinh đã chứng tỏ một khiếu phân tích sắc bén, một cái nhìn hơi nghiêm khắc nhưng công minh, nhiều nhận định đúng và hay”, thì theo Phạm Thế Ngũ, “những bài tuỳ bút chứng tỏ ông là một tâm hồn có nhiều nhiệt thành, ham mê cái đẹp, ưa thú suy tưởng và góp nhặt cảm giác. Người ta thấy ở ông ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn, từ nàng mỹ thuật của Thế Lữ, người tri thức băn khoăn của Nhất Linh, đến đường lối hướng nội và duy cảm của Thạch Lam, Xuân Diệu“.
Đối với Đinh Gia Trinh, như vậy phải nói là nhà nghiên cứu đi sau có một cái nhìn tri âm tri kỷ.
Do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, chắc là tác giả Hoài vọng của lý trí không thể biết những nhận xét thiện ý đó về mình, chứ nếu biết, ông sẽ rất cảm động.
Bởi ở đây, Phạm Thế Ngũ đã đặt Đinh Gia Trinh vào cái mạch tìm tòi của hàng loạt trí thức đương thời, và làm cho ông đỡ lẻ loi trong văn chương cũng như trong thân phận làm người. Nghề nghiệp trí thức đòi hỏi mỗi ngòi bút phải dũng cảm, phải phiêu lưu vào những khu vực chưa ai biết, phải dám nêu lên những giả thiết vượt trên mọi thành kiến, phải biết rút ra những kết luận mà người chung quanh mới nghe phải giật mình.
Nhưng chính vì thế, họ thường cô độc và thèm được thông cảm.
Chúng tôi nghĩ rằng việc một nhà nghiên cứu đứng đắn ở Sài Gòn trước 1975 đặt Đinh Gia Trinh vào cái guồng mạch của những tìm tòi trí thức suốt thời tiền chiến như thế là một sự công nhận chính đáng. Và biết đâu, lần đầu tiên được tập hợp lại trong một cuốn sách, những trang viết của ông lại chẳng thúc đẩy cho niềm tin và sự suy nghĩ của những trí thức trẻ đang tận tuỵ với công việc của mình, như chính Đinh Gia Trinh đã tận tuỵ với những bài viết trên Thanh Nghị hơn năm chục năm về trước - chúng tôi rất muốn tin như thế.
1996
Lời bạt viết cho Hoài vọng và lý trí
tập phê bình văn học vả
tuỳ bút của Đinh Gia Trinh , nxb Văn học , 1996; nxb Hội nhà văn 2005
In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam,
của Vương Trí Nhàn, nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006
Phê bình văn học trước 1945 thường chỉ được các nhà nghiên cứu văn học ở Hà Nội biệt nhãn chú ý trong mấy trường hợp 1/ có liên quan tới việc tuyên truyền các quan điểm văn học mác-xít như các bài của Hải Triều, Đặng Thai Mai 2/ có liên quan tới các nhân vật sau này sẽ trở thành trụ cột trong nền văn học mới như Hoài Thanh; mà trong Hoài Thanh chỉ chu ý tới cái phần bình thơ bình văn của ông, còn những khi ông nêu vấn đề có tính khái quát như ta thấy trong bài "Một thời đại mới trong thi ca", đóng vai trò dẫn luận cho "Thi nhân Việt Nam 1932-41", thì bị xem nhẹ.
Trong khi đó, bức tranh phê bình văn học thời kỳ này – phê bình với nghĩa tìm tòi tư tưởng và định hướng cho sự phát triển văn học – thật ra phong phú hơn nhiều. Đinh Gia Trinh cũng như Lê Thanh, Trần Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh … và lùi về trước là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Thiếu Sơn...từng đã mang lại cho văn học đương thời một tầm vóc tư tưởng mà nếu bỏ qua, chúng ta sẽ không hiểu được sự phát triển của đời sống tinh thần của xã hội VN trong giai đoạn tạm gọi là “bước hiện đại hóa thứ nhất” để phân biệt với “bước hiện đại hóa thứ hai" đang được tiến hành hôm nay.
I
Được hình thành với mục đích cụ thể là phục vụ tức thời cho công cuộc thực dân, nền giáo dục do người Pháp tổ chức nên ở Việt Nam từ 1945 về trước về căn bản mang nặng tính cách thực dụng và những con người được nền giáo dục đó đào tạo trước tiên thích hợp cho công cuộc cai trị, rồi sau đó nếu có làm lợi -- theo nghĩa cao sang chứ không phải nghĩa tầm thường của chữ này - cho nền văn hoá xứ sở thì cũng là chuyện ngoài ý muốn.
Dẫu sao, thay thế cho các nhà nho dần dần một lớp trí thức mới cũng đã hình thành. Hàng năm, trong khi đa số các cậu học sinh tiểu học ra trường rồi đi làm các sở tư hay gia nhập vào bộ máy nhà nước bảo hộ để kiếm sống và vốn liếng kiến thức cũng tan biến luôn trong đó, thì một số nhỏ, do những cơ may nào đó, tiếp tục được học lên. Người này vào lycée A. Sarraut. Người kia thi đậu các trường cao đẳng mới mở. Kết quả là số người so với đời sống bấy giờ có học vấn cao, có căn bản văn hoá vững vàng, số đó đông dần lên.
Mà vượt ra ngoài mong muốn của nhà cầm quyền thực dân, nền văn hoá Pháp chân chính sớm mang lại cho lớp trí thức trẻ ấy (trong đó, một só nhỏ còn vừa du học bên Pháp trở về) một óc suy xét khách quan, lối làm việc khoa học và thói quen độc lập trong tư duy.
Chẳng những thế có một quy luật thấy rất rõ đã chi phối hàng ngũ các trí thức chân chính: dù được dạy dỗ như thế nào, trước sau, họ phải trở về với cội nguồn dân tộc của mình. Cái vốn liếng văn hoá mà họ hấp thụ được trong nhà trường - nếu họ thật sự thấm nhuần - nhất thiết hướng họ vào việc soát xét lại quá khứ của xứ sở để từ đó, phác hoạ ra một đường hướng vận động tới tương lai mà họ nghĩ là nhiều phần thích hợp với dân tộc trong thời đại mới.
Đấy chính là trường hợp xảy ra với một nhóm trí thức trẻ ở Việt Nam những năm 40 của thế kỷ này, những Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Xuân Yêm, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Vũ Văn Cẩn... Sinh trưởng vào khoảng 1900 tới 1915, tới đầu 1940, họ vừa chín tới trong suy nghĩ. Tập hợp nhau lại trong một tạp chí mang tên Thanh Nghị, họ mạnh dạn trình bày những ý kiến riêng có liên quan đến các vấn đề cấp bách của xã hội. Quan điểm của họ là dân tộc và dân chủ.
Giữa các trí thức góp mặt trong Thanh Nghị suốt thời gian tạp chí này tồn tại - thực tế là một cây bút chủ lực ở đấy -, Đinh Gia Trinh (1915-1974) có một vai trò riêng biệt.
Trong khi các bạn bè khác viết về sử, về luật, về pháp quyền, về kinh tế... thì khu vực được ông đề cập tới nhiều nhất là văn chương nghệ thuật.
Với tư cách một người quan tâm tới đời sống tinh thần chung của xứ sở, ông muốn áp đặt một cái nhìn trí thức đối với đời sống và công việc của giới cầm bút, để rồi thúc đẩy văn chương tiến tới làm tròn những sứ mệnh của nó.
Bởi lẽ, xưa nay, trong lòng xã hội Việt Nam, văn chương nghệ thuật luôn luôn đóng một vai trò trọng yếu, sự quan tâm của nhà cầm quyền cũng như các giới dân chúng đối với nó là rất lớn lao, và sự thực nó đã trở thành một thứ hàn thử biểu của đời sống, cho nên, việc một người trong giới trí thức đương thời suy nghĩ về nó, là một lẽ tự nhiên, hơn nữa, một điều cần thiết, nhất là từ đầu những năm 40 trở đi, khi xã hội có nhiều biến chuyển, và sự phát triển của sáng tạo văn nghệ không còn được phép kéo dài tình trạng tự phát, mà phải là một cố gắng tự ý thức đến mức tối đa.
Không phải ngẫu nhiên gần như đồng thời với Thanh Nghị, một tạp chí nghiên cứu và đánh giá văn chương nghệ thuật khác (có hơi nghiêng về việc khảo cứu cái cổ) cũng đã ra đời, đó là tờ Tri Tân.
Với các bài viết sắc sảo của Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân trên Thanh Nghị, của Hoa Bằng, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế... trên Tri Tân, như vậy là công việc của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... hồi nào được tiếp tục và đẩy lên một bước mới.
II
Tuy có khác nhau ít nhiều trong cách gọi tên và đánh giá song tất cả những ai từng nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều sớm nhận ra và không tránh khỏi cảm giác kinh ngạc trước sự đổi thay vùn vụt của nó.
Những năm 20 về trước, văn chương ta còn đang ngơ ngẩn với những câu văn biền ngẫu, những quan niệm thể loại cổ lỗ, những lối thuyết minh đạo đức thô thiển, vậy mà chỉ mười năm sau, nền văn chương này đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy sáng tạo, đã dàn ra đủ “các mặt hàng” và tạo ra sự định hình bước đầu của các thể tài thể loại, chẳng khác gì ở nhiều nước phương Tây, tóm lại đã có khuôn mặt của một nền văn chương hiện đại.
Trước mắt một người như Đinh Gia Trinh, cái thực tế văn chương mấy năm từ đầu 40 bày ra như vậy là một quang cảnh văn hoá, có sắc thái đậm nét, có định hướng rõ ràng. Điều có phần chắc nữa là nó khá tương ứng với cách nhìn cách xem xét văn chương hình thành từ cái vốn liếng tri thức tổng quát của lớp người như ông, thành thử trong khi bàn luận , ông có thể có một sự lui tới tự nhiên, thoải mái.
Trong phạm vi một tờ báo, công việc mà Đinh Gia Trinh đảm nhiệm lúc ấy khá đa dạng, và ông đã viết đủ loại: bài phê bình nghiên cứu về từng tác phẩm có; bài đánh giá tổng quát về tình hình văn chương từng năm có; bên cạnh những bài có tính chất tiểu luận trình bày một vấn đề học thuật mà tác giả cho là quan trọng, lại có những đoạn danh văn ngoại quốc, thực chất là những suy nghĩ của một tác giả nước ngoài mà Đinh Gia Trinh thấy là hợp với ý tưởng của mình, tự tay ông dịch, và kèm thêm vào đó vài đoạn bình luận ngắn.
Ấy là không kể những bài gọi là tuỳ hứng hoặc theo ngôn ngữ chúng ta bây giờ, có thể gọi là phiếm luận, tạp luận.
Bấy nhiêu vấn đế, bấy nhiêu bài viết, cách viết, tưởng là tản mạn, nhưng rút cục, quy tụ ở một điểm, mà tác giả thấy tâm đắc hơn cả.
Dù là mãi đến đầu 1945, Đinh Gia Trinh mới đưa ra một thiên tiểu luận có đường nét của một bài tổng kết Địa vị văn hoá Âu Tây trong văn hóa Việt Nam, song tinh thần kiểm điểm soát xét lại lịch sử theo hướng này cũng đã chi phối ông nhiều năm trước.
Đọc Mơ hoa của Đoàn Phú Tứ, ông bàn về ảnh hưởng của kịch Pháp với kịch Việt cũng như nhân đọc tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ông nêu lên những biến chuyển mới trong tâm lý nó bộc lộ ra qua việc vận dụng một thể loại. Riêng thơ cũng được tác giả dể tâm theo dõi khá kỹ.
Nhân sự tổng kết của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 ông chỉ ra tính tất yếu của một sự thay đổi mà lúc đầu người ta thường e ngại. Ít lâu sau, khi đọc Xuân Thu Nhã tập, ông lại sẽ cắt nghĩa về những hạn chế của sự thay đổi này bằng vào những gốc rễ sâu xa của nó.
Tóm lại, dù viết về bất kỳ chuyện cụ thể nào, ông cũng đứng vững trên một nhận xét khái quát, rằng nền văn chương từ đầu thế kỷ, cho đến những năm 40, là một nền văn chương làm theo mẫu hình phương Tây, và sự gặp gỡ Tây phương là một hiện tượng lớn và quan trọng bậc nhất, trong lịch sử đời sống tinh thần của nước Việt Nam hiện đại.
Kể ra trước Đinh Gia Trinh ít lâu, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã nói tới chuyện ảnh hưởng phương Tây (trong thiên tiểu luận nổi tiếng Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã viết: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”) song, trong thực tế, trong số những người theo đuổi ý tưởng này đến cùng, và triển khai nó rộng rãi trên phương diện lý lẽ, bàn được cả cái hay cái dở cụ thể của nó, thì tiếp sau Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh.... phải kể tới Đinh Gia Trinh.
Rải rác qua các bài viết, người ta biết rằng nhà trí thức này không chỉ thông thạo văn chương Pháp mà còn biết đến Goethe của Đức, Shakespeare của Anh... Và trong văn chương Pháp, không chỉ yêu Lamartine, Baudelaire, Balzac, Hugo... ông còn ngược đến tận Pascal, trong khi vẫn là bạn đọc thường xuyên của những M. Proust, A. Gide v.v...
Hơn thế nữa, đây là một trong số ít ỏi trí thức đương thời biết nói về âm nhạc châu Âu như nói về những vui buồn của riêng mình, và yêu Bethoven với một tình yêu thường trực. Bằng ấy điều kiện gia dĩ đã là một thứ đảm bảo chắc chắn cho vấn đề mà ông lựa chọn và trở thành chủ đề xuyên suốt trong các bài viết.
III
Trong số những lý do khiến cho vấn đề Đông Tây sớm nổi lên và trở thành một ám ảnh dai dẳng chi phối tâm trí nhiều nhà trí thức đương thời, có một lý do cơ bản sau đây: Đông phương là cái dĩ vãng của xứ sở, là nền tảng của quá khứ thiêng liêng, còn Tây phương là cái hương xa hoa lạ bỡ ngỡ, là cái đã đến cùng kẻ thù xâm lược. Theo một góc độ nào đó mà xét có thể bảo làm văn hoá theo kiểu Tây phương là từ bỏ truyền thống cha ông, là xa lìa mảnh đất đã nuôi dưỡng mình. Với một trí thức tự trọng, đấy là cả một việc tế nhị và một người có lương tâm không khỏi áy náy - những áy náy cần thiết để giúp người ta lui tới trong cách nhìn và tránh đi những lố lăng tuyệt đối hoá mỗi khi thẩm định và đánh giá.
Tuy nhiên, đấy là chỉ xét vấn đề từ những mặc cảm cố hữu.
Trong lịch sử nước nhà, câu chuyện Đông - Tây vốn đặt ra từ thời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, qua Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đến Đông kinh nghĩa thục rồi Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà.
Khi Đinh Gia Trinh và các đồng nghiệp cầm bút, vấn đề trên đã được lịch sử giải quyết rồi, những đề xuất của ông không thể nói là có ý nghĩa xác định phương hướng tiến tới cho lịch sử. Ngược lại, công việc của các ông lúc này là lý giải một hướng vận động đã được lịch sử chấp nhận, và mang lại cho nó một vẻ hợp lý, do đó, một tính cách thiết yếu.
Việc này đã được ngòi bút Đinh Gia Trinh thực hiện một cách khéo léo, có sức thuyết phục.
Thứ nhất, ông bình tĩnh trấn an mọi người. Ông bảo: Ta vẫn là ta. Chẳng qua ta chỉ mượn ở phương Tây những men giống, sau đó, tự ta sẽ phát triển “trên cái căn bản cố hữu lưu truyền qua các thời đại”.
Một dịp khác, ông nhấn mạnh ngày hôm nay chỉ là sự nối tiếp của một dĩ vãng. Cái dĩ vãng ấy không bao giờ tiêu biến như ta sợ. Trong điều kiện mới, nó sẽ được “thêm thắt và làm cho hoàn thiện hơn”.
Thứ hai, ông có biện hộ nhưng là một sự biện hộ khá thuyết phục cho hiện tượng đã xảy ra. Ai kia bảo học theo nước ngoài là đánh mất mình, còn ông, thì ông cãi lại :
“Theo người ta rất có thể chịu một ảnh hưởng ngoại quốc mà vẫn rất thành thực”.
“Hồn của Việt Nam có thể ở những câu ca dao hát trên bờ ruộng nhưng sao lại không có thể ở cả cái bồng bột của một tấm lòng thanh niên trước cuộc đời?”.
Có lúc ông nói đến tình, có lúc ông nói đến lý.
Và để kết luận, ông mượn một hình ảnh “áo của tổ tiên ta để lại chật quá, ta phải thay áo mới, đó có phải đâu là vong bản, là phụ bạc? Một vài thiên tài trong thế kỷ sẽ chứng rằng cái áo mới ấy rất dễ coi và thích hợp với những nhu cầu mới của thời đại mới.”
Cứ thế, không cần cao giọng chút nào, người trí thức trẻ đã làm được một việc cần thiết, là làm cho nhiều người tin hơn vào một sự đổi thay tuy trái với thói quen, nhưng suy cho cùng, lại là hợp lý.
Khi nêu ra những nhận xét trên, không phải Đinh Gia Trinh chỉ xuất phát từ sự xét đoán trong lý trí, mà còn là những thể nghiệm cá nhân.
Nên nhớ rằng cho đến những năm 40 của thế kỷ trước, giới trí thức nước ta vốn được hình thành theo một cách thức rất lạ.
Một mặt, họ tiếp nhận văn hoá phương Tây kỹ lưỡng, cặn kẽ.
Mặt khác trừ một số quá đặc biệt còn phần lớn họ vẫn có một cách thức riêng để tiếp thu nền văn hoá cổ truyền.
Công thức phổ biến đại khái là: Tiếng Pháp, văn hoá Pháp đến từ nhà trường. Còn về với gia đình là văn hoá Hán Việt.
Thành thử, trong khi không tiếp tục sống theo tinh thần văn hoá cổ truyền, họ vẫn hiểu nền văn hoá đó đến chân tơ kẽ tóc, và nhân tiếp nhận được những công cụ hiện đại của khoa học xã hội phương Tây, họ lại lấy ngay nền văn hoá cổ truyền kia làm đối tượng để thể nghiệm, tức là bắt tay khảo sát đánh giá lại những di sản mà họ nhuần thấm và bắt đầu thấy tiếc, vì nó đang mất.
Những công trình nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (viết bằng tiếng Pháp, in ra từ mấy chục năm trước, và gần đây mới được dịch ra tiếng Việt) là một ví dụ.
Về phần mình, Đinh Gia Trinh cũng chỉ làm việc này theo lối tay trái, nhân do làm báo mà phát biểu về nền văn hoá cổ truyền. Mặc dù vậy, phải nhận một bài viết như Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá có những nét phác hoạ khá chính xác, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc những nền tảng văn hoá cũ.
Tác giả không làm công việc kiểm điểm hoặc đánh giá đầy đủ các sáng tác văn chương cổ điển (đó là công việc của những Dương Quảng Hàm, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... đã làm).
Chủ yếu, ông muốn tìm ra cơ chế hoạt động của nền văn hoá cũ, cái chủ thể sáng tác của nó, cùng là môi trường mà trong đó, tác phẩm được phổ biến.
Cái khó nhất của một bài viết tổng quát về một nền văn hoá như thế này là bắt lấy cái thần của đối tượng. Chỉ cần để công một chút người ta có thể kể ra hàng loạt chi tiết độc đáo của một nền văn hoá, nhưng vẫn có thể khái quát về nền văn hoá đó sai, nếu thiếu đi một sự linh cảm nó được hun đúc từ cả kinh nghiệm từng trải lẫn tinh hoa của hàng vạn quyển sách.
Là bài viết đầu tay của Đinh Gia Trinh trên Thanh Nghị, song Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá sở dĩ có thể đứng vững và chắc chắn tạo nên một uy tín, vì có được cái linh cảm chính xác đó hướng dẫn.
IV
Sau khi thuyết minh cho lẽ tất yếu của việc tiếp nhận văn hoá phương Tây vào nền văn hoá dân tộc, một lớp trí thức trẻ lớn lên từ sự tiếp nhận ấy ắt hiểu rằng muốn tự trọng, phải lấy mình ra bảo đảm cho cái phương hướng đã được xác lập. Phải tự chứng tỏ cho được cái ưu thế của cái mới cả về phương diện đào tạo con người, lẫn tính hiệu quả trong công việc. Phải tiến tới cái mực thước, công bình trong xét đoán.
Có thể nhiều người cũng chia sẻ với Đinh Gia Trinh một nhận xét bao quát rằng “phần văn hoá đặc sắc nhất mà Tây phương mang lại cho ta là óc khoa học”, song có được óc khoa học thực thụ, nghĩa là “tạo cho mình một nếp tư duy trong thực tế, yêu sáng láng và thật sự, có óc phê bình” thì không phải dễ!
Trong việc tiếp nhận những điều mới lạ, thiếu gì kẻ a dua theo thời mà cũng thiếu gì người nông nổi, mới học được ít, đã tưởng mình biết nhiều rồi khoa chân múa tay trộ đời.
Bấy giờ những người có hiểu biết chắc chắn phải làm công việc minh định lại mọi điều, cốt sao cho người ta không vì những sự áp dụng lầm lạc, mà hiểu sai một cách làm, và bỏ đi một phương pháp, cái khó là ở chỗ ấy.
Vào khoảng thời gian 1940-1941, khi Đinh Gia Trinh bắt đầu viết nhiều, đời sống phê bình văn học cũng có những bước đột khởi về số lượng và chất lượng.
Hoài Thanh và Hoài Chân cho in Thi nhân Việt Nam 1932-41 gọi lên rất nhiều tiếng vang.
Vũ Ngọc Phan cho công bố một bộ Nhà văn Việt Nam hiện đại khá đồ sộ.
Trong khi ấy, sau Việt Nam văn hoá sử cương, Đào Duy Anh có Khảo luận về truyện Thuý Kiều, còn Nguyễn Bách Khoa lại tới tấp cho ra đời Nguyễn Du và Truyện Kiều, Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Công Trứ...
Sự gia tăng của tỷ trọng sách nghiên cứu như vậy một dấu hiệu của sự tiến hoá chung về đường tinh thần - Đinh Gia Trinh sẵn sàng nhắc đi nhắc lại như vậy.
Khi đặt cho một bài của mình cái tên Hoài vọng của lý trí, ông đã tự chứng tỏ cái khuynh hướng mà bản thân đang theo đuổi.
Song không phải những người cùng hay nói tới lý trí có chung một cách hiểu về nó. Bàn về giáo dục, ông Thái Phỉ có phần quá nghiêm khắc khi nhìn lớp thanh niên học sinh đương thời. Ông P.N. Khuê lại thường đề cao một chiều óc khoa học, tới mức xổ toẹt lý do tồn tại văn chương nghệ thuật, bảo nó là sa đoạ, có hại.
Riêng trường hợp của Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) mới lại càng độc đáo.
Nghiên cứu về Truyện Kiều, có lúc ông ngả hẳn sang công việc của một y sĩ, kết luận rằng nhân vật của Nguyễn Du mắc bệnh uỷ hoàng, kèm theo những nhận xét triệu chứng học đọc lên nhiều người bình thường hẳn phải nhăn mặt.
Mà lối viết lối nghĩ dung tục đó lại được Nguyễn Bách Khoa khoác cho cái áo sang trọng, nào là duy vật, nào là cách tân, và cố ý khoe rằng chỉ có học thuyết Freud hiện đại mới cho phép người ta có những khám phá như vậy.
Những kết luận vội vã của Nguyễn Bách Khoa, theo Đinh Gia Trinh là “lạc chốn lạc nơi” “vô duyên vô lý một cách lạ” và trong nhiều trường hợp nhà phê bình tự nhận là mới mẻ ấy đã “bênh vực cho những tư tưởng cũ rích”. Sự phê phán của Đinh Gia Trinh trong trường hợp này góp phần vào việc mang lại cho phương pháp nghiên cứu khoa học vừa được du nhập từ phương Tây một sự dè chừng: nếu không có thực học, tức học đến nơi đến chốn, người ta rất dễ đi vào gò ép giả tạo, trở thành tù binh của những ý kiến giật gân song lại xa lạ với lương tri thông thường va trở nên lố lăng, bịp bợm lúc nào không biết.
Đi tới cùng trên con đường duy lý đã chọn, văn hoá phương Tây - phần tốt đẹp của nó - không chỉ dừng lại ở lối tư duy máy móc, mà đã tiến sang cái phần siêu lý và điều đơn giản là nó thường xuyên tự quay lại nhìn mình và cảm thấy mình là không đủ. Từ các thế kỷ trước đã có người nghĩ thế và đến những năm XX của thế kỷ này điều ấy càng được khẳng định.
Bằng sự nhạy cảm riêng, bằng vốn kiến thức khá uyên bác, Đinh Gia Trinh đã tiếp nhận cái ý tưởng về triển vọng hạn chế của văn hoá tư tưởng phương Tây một cách hoàn toàn thoải mái. Vẫn biết rằng triết lý Đông phương không ít nét tối tăm huyền bí, chỉ có những người có căn bản Tây học vững chắc mới mong giải mã được nó, song ông cũng cho là có những phương diện, Đông phương đã đi xa hơn Tây phương.
Nhân bàn về y lý ông chỉ dự doán một cách dè đặt “biết đâu Đông phương chẳng có thể chỉ lối đưa đường cho Tây phương ở một vài địa hạt, ở những chỗ mà y học Tây phương bất lực hoặc còn chưa hoàn thiện”.
Nhưng đứng đằng sau y lý bao giờ cũng có một triết lý, cho nên đằng sau cái nhận xét cụ thể kia của Đinh Gia Trinh, người ra dễ dàng nhận ra một khái quát, mà ông chỉ mới gợi ý.
V
So với một số nhà phê bình đương thời, cách đóng góp của ngòi bút Đinh Gia Trinh với đời sống văn chương 1940-45 có một chỗ khác rõ rệt: ông không trực tiếp lăn lộn kiếm sống trong giới cầm bút. Hoạt động phê bình của Đinh Gia Trinh do đó chưa đạt đến mức bao quát tỉ mỉ như Vũ Ngọc Phan, cũng như không có được sắc thái tinh tế như lối thẩm văn của Hoài Thanh.
Song để bù lại, cái tư thế đứng ngoài nhìn vào lại khiến cho ngòi bút Đinh Gia Trinh được cái hồn nhiên tư nhiên mà không sa đà vào những thành kiến của người trong cuộc.
Nói về Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, ông bảo thi tứ hơi nhàm.
Nhận xét chung về cuốn tổng kết Thơ mới của Hoài Thanh và Hoài Chân, ông nói thẳng cái điều mà ít người dám nói, đó là ở Thi nhân Việt Nam có những nhà thơ bất tài, “tác giả một vài bài thơ tạm đọc xuôi”. Thế mà “cũng có tên, có tiểu sử có cả ảnh nữa trong tập sách”.
Một sự nhạy cảm tương tự còn thấy rất rõ qua bài Đinh Gia Trinh viết về Truyện Kiều.
Sau khi phê phán phương pháp làm việc cũng như các kiến giải dung tục của Nguyễn Bách Khoa, bản thân Đinh Gia Trinh trực tiếp đứng ra trình bày một vài điểm liên quan đến kiệt tác của Nguyễn Du.
Chẳng hạn, chung quanh mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm. Phản đối lối đọc Kiều như đọc tâm sự, song Đinh Gia Trinh vẫn cho rằng tác phẩm này là nơi thể hiện cái bản ngã của tác giả một cách đầy đủ nhất, và người ta nên tìm tới cả những gì mà tác phẩm bộc lộ, ngoài sự cố ý của tác giả.
Lại như khi đi vào phân tích từng nhân vật cụ thể, nhiều chỗ nhà phê bình này vẫn có những phát hiện nho nhỏ đi ngược với thói thường.
Nhân câu nói của Kim Trọng Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều, trong khi Nguyễn Bách Khoa cho rằng đấy là một lời đầy chí tiến thủ và nhiều người khác muốn tìm ở đó cả một triết lý, thì Đinh Gia Trinh đưa nó về cái vị trí thực của ông. Ông chỉ xem đó là một câu nói bộc lộ quyết tâm trong tình yêu “đã yêu nhau thì san phẳng trở lực” thế thôi, ngoài ra không có triết lý sâu xa nào ở đây hết!
Hoặc khi bàn chung về nhân vật Thuý Kiều trong khi Đào Duy Anh cho rằng “Kiều thông minh, xử sự bao giờ cũng sáng suốt và hợp lệ”, thậm chí gần đây trong một cuốn Giáo trình đại học in những năm 70-80 có nguời còn mệnh danh Kiều là một nhân vật tuyệt vời ý thức, thì Đinh Gia Trinh có lẽ là gần sự thực hơn khi bảo rằng chỉ qua việc bán mình chuộc cha thôi, đã thấy lý trí của Kiều không làm việc, và trong nhiều trường hợp nàng đã xử sự mù quáng, chứ chẳng có chút sáng suốt nào hết!
Bấy nhiêu ví dụ gộp cả lại, cho phép người ta giả thiết giá kể đi sâu vào phân tích tác phẩm, Đinh Gia Trinh cũng sẽ là nhà phê bình sắc sảo.
Nhưng lịch sử không muốn thế.
Sau khi đã có Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh, lịch sử văn học trước 1945, muốn có thêm những nhà phê bình tồn tại theo kiểu khác.
Không phải ngẫu nhiên mà một trong những bài viết quan trọng của Đinh Gia Trinh, bài Nay và mai, lại có cái phụ đề “ý kiến và những cảm hứng về đời sống tinh thần Việt Nam”.
Quả thật là đọc Đinh Gia Trinh, người ta không chỉ biết thêm về tác phẩm văn chương.
Rằng hồi bấy giờ, sách vở ra rất luộm thuộm.
Rằng trong khi văn chương có vẻ phát triển rầm rộ, thì tác phẩm có chất lượng rất ít, nhân danh thứ văn chương kiều diễm nhiều người viết thường kể lể dông dài, hoặc sau một hồi tán nhăng tán cuội lại đang lên mặt đạo đức, thế mới là chuyện kỳ lạ!
Mà với Đinh Gia Trinh người ta có dịp ngó sang cái «cơ chế sản xuất chữ nghĩa» của con người đương thời:
“Đã có một thủa gần đây, cảnh tượng xã hội ta thực như thế này: những người có bằng cấp ung dung bệ vệ trong địa vị của họ ở ngoài vòng “cương toả của sách vở”, còn ở các thư viện thì các cậu học trò học thi cho đỡ tốn, và ở các căn nhà hỗn độn, một số văn nghệ sĩ nghèo nàn gò ép trí não rỗng tuếch của họ để cấu tạo một cái gì in được”.
Khi viết những dòng đó trong bài Học lấy và học ở nhà trường, chắc Đinh Gia Trinh không ngờ là đã ngả sang một thứ xã hội học mà một đồng nghiệp của ông là Thanh Tuyền bắt đầu giới thiệu trên Thanh Nghị mấy năm 43-44. Nhận xét của ông không chỉ đúng với một thực trạng đương thời mà còn báo trước một lối làm việc sẽ còn kéo dài trong đời sống nhiều năm về sau, nó khiến cho văn hoá ở ta thường phát triển theo bề rộng mà kém về bề sâu, có số lượng nhưng không vươn lên được về chất lượng.
VI
Nghệ thuật phê bình là tên gọi một bài viết Đinh Gia Trinh cho in vào giữa 1942.
Sau khi gọi ra những yêu cầu chính mà một người làm nghề này phải có như năng lực hiểu được người khác - Đinh Gia Trinh gọi là năng lực cảm hội - rồi óc phân tích và tổng hợp, rồi kỹ thuật nghề nghiệp, tác giả Hoài vọng của lý trí đặc biệt nhấn mạnh tới cá nhân con người nhà phê bình.
Ông nhắc lại ý kiến của một học giả phương Tây bảo phê bình là một loại văn chủ quan, và trái với cái thành kiến thông thường cho rằng viết phê bình là “cân đong đo đếm” người khác, phải thấy trước tiên viết phê bình là dãi bày mình ra trước công chúng.
Rồi Đinh Gia Trinh kết luận:
“Tâm hồn nhà phê bình có giá trị ngần nào thì nghệ thuật của nhà phê bình có giá trị ngần ấy”.
Người ta có thể tin ở độ chín chắn và mức độ thành thật của nhận xét này khi nhớ lại các bài nghiên cứu vừa nói ở trên.
Sở dĩ ấn tượng tốt đẹp về Đinh Gia Trinh còn lại sau các bài viết ấy, lý do là vì ở đó người ta luôn bắt gặp cả lòng ham yêu, cái khát khao muốn đi tới sự thực và chân lý, cái khoáng đạt trong khả năng hiểu về việc và người, chính nó mới là nhân tố chi phối mọi phương hướng suy xét và sự vận dụng kiến thức đã khá vững vàng nơi tác giả.
Song còn một khu vực nữa, mà con người nghệ sĩ ở Đinh Gia Trinh có dịp bộc lộ trực tiếp hơn, đầy đủ hơn, đấy là các bài tuỳ bút.
Nếu như khi viết tiểu luận, Đinh Gia Trinh đi ra với thực tại khách quan, với mọi người thì trong các bài tuỳ bút, ông phải đối diện với chính mình. Mình trong một chuyến nghỉ hè, mình trong những lần trở lại quê hương; hoặc đơn giản hơn, mình trong một buổi chiều vơ vẩn, mơ hồ lắng nghe thấy rất nhiều điều từ trời đất thiên nhiên mà lại không sao nói lên mọi thứ cho thật rõ ràng.
Hình như chính con người duy lý nơi tác giả cũng sớm cảm thấy rằng những khi đơn độc, tâm hồn mình hiện ra quá nhạy cảm và yếu đuối.
Nhưng rồi ông tự biện hộ: không có lý do gì buộc người ta phải giấu diếm nỗi buồn cũng những xúc động tưởng như vặt vãnh ở mình cả.
Ngược lại sự bộc lộ đó là tự nhiên, và nó làm giàu thêm cho tâm hồn con người.
Sự thực là qua các tuỳ bút, bản thân Đinh Gia Trinh hiện ra với bộ mặt tinh thần khá phong phú. Ông yêu đời. Ông thèm đi thèm biết. Ông lại luôn luôn e ngại chỉ sợ mình lầm lạc thô thiển và lo rằng những cử động vô ý của mình làm hỏng mất cái đẹp ở chung quanh Lòng tôi bồng bột quá...Tôi rụt rè, tôi yếu đuối... Con nguời tôi bỗng trở nên bối rối...
Không chỉ trong bài Kỷ niệm Phan Thiết, mà trong nhiều bài viết khác, người ta luôn luôn cảm nghe tiếng kêu lên se sẽ của tác giả như vậy. Những đối tượng khiến lòng ông bồng bột xúc động lại nhiều vô kể: quá khứ tuổi thơ; những kỷ niệm của quê hương của bạn bè; cả nhữn mô-típ quen thuộc trong văn hoá cổ truyền như câu chuyện Từ Thức nhập Thiên Thai cũng đi về sống động trong lòng ông, nó khiến cho những lúc trở về với cái thế giới riêng của mình, ông như trở thành một con người khác.
Hoá ra, không chỉ cần nỗ lực suy nghĩ và vượt lên trên hoàn cảnh, mà có lúc, con người ta cần cả một chút buông thả thư giãn tự nhiên.
Ấy là lúc con người trong ta trở về với cái bản chất thi sĩ sẵn có mà hàng ngày, giữa cuộc sống quá bộn bề, ta thường quên lãng.
Như trong phần tìm hiểu các bài tiểu luận của Đinh Gia Trinh chúng ta đã thấy, một trong những chủ đề trở đi trở lại trong Đinh Gia Trinh là mối quan hệ Đông phương và Tây phương.
Thì đến cái phần tuỳ bút, người ta thấy vấn đề ấy vẫn trở lại trong tâm khảm tác giả, thậm chí, nó bộc lộ qua cả cách cảm cách nghĩ của chính ông nữa.
Với sắc thái u trầm kín đáo, những run rẩy, những phút giây yếu đuối những tình tự tế nhị thường trực nơi tác giả là gì khác, nếu như không phải là cái chất phương Đông tiềm tàng sẵn trong con người ông?
Thế còn phương Tây?
Cái đó cũng rõ rệt không kém.
Nó ở cái khao khát của ngòi bút, muốn ghi lấy tất cả, bộc lộ tất cả. Nó ở cái cảm hứng tự do mà một khi đã nếm trải, con người ta không bao giờ từ bỏ nổi. Nó lại cũng ở cái tấm lòng tha thiết muốn soi dọi thẳng vào những run rẩy những lờ mờ tăm tối còn chạng vạng trong lòng mình, để vươn tới cái sáng rõ của ý tưởng, nó cũng là cái lòng ham yêu mà tác giả cho là người mình thiếu nhất và cần bồi bổ sớm nhất.
Nói cho công bằng, ở một con người, giữa nhu cầu bộc lộ tâm hồn và khẩ năng diễn tả tâm hồn đó trên mặt giấy, hai cái đó thường khi có sự chênh lệch, và Đinh Gia Trinh cũng không phải là một ngoại lệ. Các tuỳ bút của ông đôi khi hơi rối, mà tác giả có vẻ mải đắm chìm trong những cảm giác đang tràn ngập trong lòng mà chưa có một độ lùi cần thiết để trình bày cho sáng sủa. Cũng tức là ông chưa tính được chính xác hiệu quả bài viết trong lòng người đọc. Tuy nhiên, khi nào mà có được sự chín đầy trong cảm xúc, vừa huy động được vốn kiến thức đã nhuần nhị, lại vừa thanh lọc được những kinh nghiệm sống, thì bài viết của Đinh Gia Trinh có một hiệu quả văn chương khá sâu đậm.
Đó là, chẳng hạn, bài Đông phương và Tây phương.
Do chỗ, một vấn đề rất duy lý và rất khô khan như vậy, trở thành vấn đề riêng của con người tác giả, nên nó được ông trình bày gọn gàng, hàm súc mà vẫn thanh thoát. Đã có lúc tôi nẩy ra cái ý nghĩ bài viết trên "có được cái vẻ đẹp lung linh và cái sức lôi cuốn mà thỉnh thoảng người ta mới bắt gặp, trong những tuỳ bút hay nhất của Xuân Diệu".
VII
Cho đến hiện nay, sinh hoạt văn học trước 1945 ở ta mới được nghiên cứu qua loa và còn mang nặng rất nhiều thành kiến. Đọc các giáo trình văn học sử dạy ở các trường đại học, đại khái người ta mới chỉ thấy đời sống văn học được chia ra thành ba khuynh hướng, văn học hiện thực, văn học lãng mạn và văn học cách mạng. Nhiều vấn đề quan trọng như tư duy văn học, như sự hình thành và phát triển các thể loại, chưa được xem xét, hoặc nếu có thì cũng còn rất hời hợt.
Ví dụ xung quanh vấn đề phê bình văn học, đại khái chỉ thấy những người sau đây được nhắc tới ít dòng: Hải Triều, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, tiếp đó Trương Tửu, Trương Chính được dẫn chứng trong một đôi lần ít ỏi.
Trên cái nền chung như thế, một cái tên như Đinh Gia Trinh hầu như không gợi một ấn tượng gì hết, mà chỉ ngẫu nhiên được nêu ra khi các nhà văn học sử đề cập tới trường hợp hai tờ Tri Tân, Thanh Nghị.
Oái oăm thay, một sự lãng quên như thế - quên cả giới phê bình, chứ không riêng gì Đinh Gia Trinh - lại chính là do các nhà phê bình cố ý hoặc ngẫu nhiên thực hiện. Ở đây, người ta cảm thấy như là có một sự xấu hổ không muốn trình diện của cả hai phía, cả người trong cuộc, cũng như người ngoài cuộc.
Một ý tưởng thường trở đi trở lại trong các bài điểm tình hình văn chương mà Đinh Gia Trinh đã viết trên Thanh Nghị là vai trò đáng kể của lý trí, của tư duy nghiên cứu đối với đời sống văn chương nói chung.
Nhưng ông nói là để nói cho ai vậy, còn bản thân ông lại hết sức rụt rè không dám khẳng định phần đóng góp của bản thân và bao nhiêu điều viết ra bằng tâm huyết, bằng học vấn và tài năng trong những năm tuổi trẻ đẹp nhất của đời mình (trước tuổi 30).
Về sau, ông không bao giờ chủ động nhắc tới và có vẻ sẵn sàng để nó vùi sâu vào quên lãng.
Mà ông đã muốn thế, thì các đồng nghiệp của ông, trẻ hơn ông, đi sau ông, cũng sẵn sàng để cho ông như thế.
Lâu nay có một thành kiến sai lầm là văn chương tiền chiến (phần công khai) sau khi lên đến đỉnh cao hồi 36-39, thì lụi tàn dần. Cái điều phi thực tế ấy không được một số nhà nghiên cứu ở Hà Nội chấp nhận. Các ông bỏ công sưu tầm hàng ngàn trang văn xuôi của những Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tô Hoài, Tam Kính, Phi Vân... và viết những công trình tổng kết rất chững chạc để chứng minh rằng văn xuôi sau 1940 là một bước phát triển mới của văn chương tiền chiến.
Thế nhưng, một đặc điểm quan trọng của đời sống văn học 40-45, là sự đóng góp rõ rệt của các nhà nghiên cứu, thì chưa thấy một nhà văn học sử nào đoái hoài tới. Tác phẩm của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan rành rành ra đấy mà mãi tới sau 1986 mới được in lại, nói chi đến các bài viết của Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng, Lê Huy Vân và nhiều người khác còn đang nằm rải rác giữa những tập báo cũ nát ở các thư viện.
Trong hoàn cảnh ấy, các tiểu luận và tuỳ bút của Đinh Gia Trinh, nếu quả thật có rơi vào tình trạng lãng quên, thì cũng không có gì khó hiểu.
May thay cũng có người không quên hẳn như vậy!
Trong một tập sách giáo khoa đồ sộ và nghiêm túc (trên 1000 trang) mang tên Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, một nhà nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước đây là Phạm Thế Ngũ đã làm việc khá khách quan và khoa học. Trên nền bức tranh chung của văn học Việt Nam 1932-1945, Phạm Thế Ngũ dành một phần quan trọng cho đời sống văn chương sau 1940.
Mà trong giai đoạn cụ thể này ông đặc biệt xem trọng nghiên cứu phê bình. Ông xếp nó thành một mục riêng, trong đó tác phẩm của những Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Văn Hoè, Phan Khoang... được nói tới khá đầy đủ.
Hai tờ tạp chí Thanh Nghị và Tri Tân được ông dành cho một vị trí quan trọng cũng vì lẽ đó.
Riêng với Đinh Gia Trinh, Phạm Thế Ngũ lại có biệt nhãn hơn người. Theo nhận xét của tác giả Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, đây là ngòi bút khả ái bậc nhất ở Thanh Nghị.
Phạm Thế Ngũ không chỉ trân trọng những kiến giải sâu sắc của Đinh Gia Trinh đối với đời sống văn chương, mà còn có ấn tượng tốt về toàn bộ con con người Đinh Gia Trinh toát ra qua các trang viết. “Nếu trong những bài khảo luận và phê bình, Đinh Gia Trinh đã chứng tỏ một khiếu phân tích sắc bén, một cái nhìn hơi nghiêm khắc nhưng công minh, nhiều nhận định đúng và hay”, thì theo Phạm Thế Ngũ, “những bài tuỳ bút chứng tỏ ông là một tâm hồn có nhiều nhiệt thành, ham mê cái đẹp, ưa thú suy tưởng và góp nhặt cảm giác. Người ta thấy ở ông ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn, từ nàng mỹ thuật của Thế Lữ, người tri thức băn khoăn của Nhất Linh, đến đường lối hướng nội và duy cảm của Thạch Lam, Xuân Diệu“.
Đối với Đinh Gia Trinh, như vậy phải nói là nhà nghiên cứu đi sau có một cái nhìn tri âm tri kỷ.
Do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, chắc là tác giả Hoài vọng của lý trí không thể biết những nhận xét thiện ý đó về mình, chứ nếu biết, ông sẽ rất cảm động.
Bởi ở đây, Phạm Thế Ngũ đã đặt Đinh Gia Trinh vào cái mạch tìm tòi của hàng loạt trí thức đương thời, và làm cho ông đỡ lẻ loi trong văn chương cũng như trong thân phận làm người. Nghề nghiệp trí thức đòi hỏi mỗi ngòi bút phải dũng cảm, phải phiêu lưu vào những khu vực chưa ai biết, phải dám nêu lên những giả thiết vượt trên mọi thành kiến, phải biết rút ra những kết luận mà người chung quanh mới nghe phải giật mình.
Nhưng chính vì thế, họ thường cô độc và thèm được thông cảm.
Chúng tôi nghĩ rằng việc một nhà nghiên cứu đứng đắn ở Sài Gòn trước 1975 đặt Đinh Gia Trinh vào cái guồng mạch của những tìm tòi trí thức suốt thời tiền chiến như thế là một sự công nhận chính đáng. Và biết đâu, lần đầu tiên được tập hợp lại trong một cuốn sách, những trang viết của ông lại chẳng thúc đẩy cho niềm tin và sự suy nghĩ của những trí thức trẻ đang tận tuỵ với công việc của mình, như chính Đinh Gia Trinh đã tận tuỵ với những bài viết trên Thanh Nghị hơn năm chục năm về trước - chúng tôi rất muốn tin như thế.
1996
Lời bạt viết cho Hoài vọng và lý trí
tập phê bình văn học vả
tuỳ bút của Đinh Gia Trinh , nxb Văn học , 1996; nxb Hội nhà văn 2005
In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam,
của Vương Trí Nhàn, nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006
Published on August 30, 2015 21:36
August 24, 2015
Một bước khai phá của Vũ Bằng trong việc xử lý ngôn ngữ văn xuôi trước 1945
Trong bài viết mang tên Vũ Bằng “Thương nhớ mười hai”, nhà văn Tô Hoài từng kể lại một ít chuyện, liên quan đến mấy năm ông mới vào nghề, và bắt đầu viết đều cho các báo: “Những năm ấy, Nam Cao đương ở với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mê mải đọc Vũ Bằng (…) Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông của tôi trên các báo Hà Nội tân văn có thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng (Những gương mặt, H. 1994).
Ảnh hưởng trong văn học thường khi là chuyện tế nhị. Nữa đây lại là hơi hướng, giọng văn, hơi văn, cảch viết, những vấn đề thuộc về nghề nghiệp của người cầm bút.
Tuy nhiên cái sự thực mà một người khi đã về già nói ra luôn luôn đáng để chúng ta suy ngẫm.
Từ một quá khứ làm theo mẫu hình trung cổ, do các thế kỷ trước để lại, nền văn học Việt Nam bước sang thế kỷ XX bắt đầu được làm theo một mẫu hình mới để ngày một trở nên hiện đại.
Mà đấy là cả một sự biến chuyển toàn diện: Trong quan niệm văn chương. Trong chủ đề. Trong nhân vật. Và sau hết, người ta có thể quan sát thấy cả sự thay đổi trong các hình thức thể hiện nữa.
Thơ là một thể tài chủ đạo - xét theo tỷ trọng, nó từng chiếm tới tám chục phần trăm toàn bộ khối lượng văn học trung cổ. Đã có người gọi nước Việt Nam hồi ấy là một thi quốc. Trước cơn “mưa Âu gió Mỹ” cho đến những năm 20, thơ ta vẫn cố kết trong những hình thức vốn có từ thời phong kiến. Những tưởng mãi mãi nó vẫn vậy! Nhưng không! Đùng một cái, tới 1932 phong trào thơ mới đột khởi chiếm thế thượng phong trên thi đàn. Và người ta chứng kiến một sự lột xác tự nhiên mà khá mỹ mãn.
So với thơ, truyền thống văn xuôi cũ ở ta có non yếu hơn. Bởi vậy, giống như các cậu học trò chăm chỉ, các nhà viết văn xuôi của ta tính chuyện học theo các bậc thày văn xuôi phương Tây một cách khá sớm sủa, và cũng chỉ có thể là khá từ tốn.
Ban đầu là các hình thức nhỏ như truyện ngắn, bút ký sau mới tiến lên phóng sự, tiểu thuyết.
Đứng về ngôn ngữ thể tài, tức là cái cách sử dụng văn xuôi mà xét, người ta cũng bắt gặp một sự thay đổi rõ rệt.
Hãy nhìn vào sáng tác của những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nhất Linh, Khái Hưng.
Một mặt phải nhận họ là những tay thợ khéo, văn xuôi của họ đã đạt tới một sự trau chuốt hoàn thiện khá cao.
Mặt khác xét theo chủng loại thì đó vẫn là thứ văn xuôi cổ điển, gần giống như văn xuôi phương Tây các thế kỷ XVIII, XIX.
Ấy vậy mà chỉ độ chục năm sau thôi, đọc Nguyễn Tuân, Nam Cao hoặc các bài bút ký của Xuân Diệu, người ta đã cảm nghe thấy một thứ văn xuôi hoàn toàn khác, chỉ những người có đọc và có thấm thía những A. France M.Proust, A. Gide… mới viết nổi, tóm lại là một thứ văn xuôi thuộc cái mạch hiện đại.
Một sự tiến triển như vậy sở dĩ có được, là nhờ tới sự đóng góp của nhiều người.
Và ở đây, chúng ta nên biết tới một quy luật thường vẫn chi phối các tìm tòi trong văn giới, ấy là có khi người mở đường lại rơi vào quên lãng, còn người tới sau lại gặt hái được vinh quang, do chỗ đã tổng kết được kinh nghiệm của những người đi trước.
Trong một chừng mực nào đó, câu chuyện về văn chương của Vũ Bằng và cuốn Cai của ông ở vào trường hợp như thế.
Vào khoảng 1943, 1944, (tức khi viết Cai) Vũ Bằng đã là một ngòi bút chững chạc.
Bên cạnh tư cách một ông lớn trong nghề làm báo, một tay giữ chân Thư ký toà soạn mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền bá, Trung bắc chủ nhật, ông còn là tác giả của mấy tập truyện được dư luận nhắc nhở. Một bằng chứng mặc dù nhóm Tự lực văn đoàn vốn rất thù ghét các nhà văn viết cho nhà Tân dân song năm 1937, khi Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng được in ra, Khái Hưng đã viết bài giới thiệu trên báo Ngày nay trong đó công nhận đây là một cuốn sách “không tầm thường chút nào”.
Lại nữa, mặc dù có nhiều lời chê bai, song trong bộ sách có tính kiểm kê, Nhà văn hiện đại, phần viết về Vũ Bằng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan vẫn ghi nhận Vũ Bằng có cái cách riêng của mình. “Khi tả nhân vật, dù là họ ở vào hoàn cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời, hơi đá hoạt kê một chút.”
Có thể đoán là khi viết Cai, ngòi bút Vũ Bằng mới thật có được sự lui tới tự do và hào hứng.
Nhân câu chuyện mình đã nghiện thuốc phiện thế nào, rồi đã cai ra sao, Vũ Bằng muốn làm một cuộc thăm thú về những sa đà lầm lẫn mình từng mắc phải, và cách thức vận dụng tất cả lương tri sẵn có tất cả nghị lực, để vượt lên trên những lầm lỡ ấy.
Ý hướng đạo lý của tác giả ở đây đã rõ ràng.
Nhưng điều quan trọng là trong Cai, thiện chí ấy lại được bộc lộ một cách thông minh và khéo léo, khiến cho câu chuyện có được sức thuyết phục mà những cách làm lộ liễu vụng về không bao giờ có nổi.
Có thể nói trong cuộc đời viết đông viết tây, viết xuôi viết ngược đủ thứ của Vũ Bằng, Cai đánh dấu một sự chín đầy trọn vẹn của ngòi bút, cái mức chín đẹp trước đó, ông chưa đạt tới và phải mấy chục năm sau, tới Thương nhớ mười hai, ông mới có dịp lặp lại.
Còn đứng về văn xuôi tiền chiến nói chung mà xét, đọc Cai, người ta thấy những tìm tòi trong văn xuôi Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, nhất là những thành tựu trong hàng loạt truyện ngắn của Nam Cao không ngẫu nhiên và cô độc. Cả một văn mạch đã hình thành. Dù là chỉ thay đổi rất từ tốn thôi, nhưng trong vòng hai chục năm gấp gáp thời tiền chiến, văn xuôi đã có những sự vận động rất hợp lý.
*
Đọc các từ điển chuyên về văn học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và thơ thường được viết trong thế đối lập nhau.
Một bên thiên về đời thường (trong nhiều ngôn ngữ phương Tây, chữ prose proza,tức văn xuôi, khi chuyển thành hình dung từ , thì có nghĩa tầm thường)
Một bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt.
Một bên bảo tôi thấy gì viết nấy, bên kia bảo không, hành động viết của tôi là một hành động sáng tạo với nghĩa đầy đủ của nó.
Và đi vào nội dung được miêu tả, nếu trong văn xuôi, người ta có thể bắt gặp cả thế giới, thì trong thơ, cái chính là cái thế giới ấy được cô đúc lại, và đối tượng được miêu tả ở đây, là tâm hồn con người.
Có thể là khi sáng tác, các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chưa biết tới đầy đủ cái sự phân chia thuần tuý lý thuyết nói trên, nhưng trong thực tế, họ đã tuân thủ nó một cách tự nguyện. Đại khái mỗi tác phẩm văn xuôi được viết - dù tiểu thuyết, hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều là một câu chuyện. Nghe câu chuyện ấy, người ta hình dung ra một khung cảnh ở đó, có những con nguời hoạt động. Kể chuyện tức là tác giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói tác giả giống như một luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông tác giả đóng vai thượng đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một khoảng cách, cái gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần dà ông mới khéo léo gỡ mối và khiến cho mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên mạch lạc.
Cái độc đáo của Vũ Bằng khi viết Cai là tác giả không định biến nó thành một thứ tiểu thuyết thông thường tức là khách quan hoá câu chuyện của mình theo kiểu trên đây vừa nói.
Ông không cố ý tạo ra những bức tranh phong cảnh làm nền cho câu chuyện, mà cũng chả buồn phác hoạ đầy đủ các nhân vật phụ trợ để gộp cả lại làm nên một tấn trò đời thú vị.
Ngược lại có vẻ như ông chỉ chú ý đến bản thân cùng người đọc vô hình mà ông cảm thấy như đang ở bên cạnh và muốn dốc hết bầu tâm tự cho người đó nghe.
Tuy người ta cũng thấy ở đây một câu chuyện - câu chuyện tôi, tức là Vũ Bằng cai thuốc phiện - nhưng cái nổi lên rõ hơn, bao quát các trang viết, là cái giọng riêng của người kể.
Đọc tác phẩm của Khái Hưng hoặc Nguyễn Công Hoan dù trong đó có xưng tôi đi chăng nữa, song người ta vẫn như được xem một cuốn phim. ở đó liên tiếp có những chuyển cảnh; thiên nhiên xen lẫn với chuyện đời; và những nét tâm tình chỉ được cài chen loáng thoáng.
Với Cai của Vũ Bằng thì khác. Trước mắt chúng ta toàn bộ tác phẩm như sự bột phát vừa liên tục vừa đứt đoạn của một đời sống nội tâm nồng nhiệt, chỉ biết có mình, ào ạt muốn bộc lộ mình, và nếu đôi lúc một vài hình hài của cuộc sống chung quanh có hiện lên đây đó, thì cũng chẳng qua là nhân tiện mà nói tới.
Ta hãy để ý đến từng đoạn mở đầu của các chương sách.
Trong số 24 chương của Cai, hầu như không chương nào được mở đầu bằng khung cảnh.
Mà toàn những
“Đến lúc đó, tôi mới biết rằng…”,
“Nói thế xong, tôi lại hút như thường”,
“Những đêm hút như thế thật là một thú. Tôi phải dặn trước chủ tiệm”,
“Trông thấy tôi Liên Hương có cảm tuởng gì, ông có biết không” -
tóm lại, toàn bộ áng văn xuôi này là tâm tình của tác giả, tâm tình ấy được giãi bày trong sự tha thiết đến chới với, muốn nói thật nhanh, muốn nói ra bằng được những điều bấy lâu dồn ép, và lấy việc được bộc lộ làm sung sướng.
Cũng vì chú ý giữ lấy tính chất tự nhiên của câu chuyện, và sẵn sàng xem việc viết ra là để thoả mãn nhu cầu của bản thân hơn là cho một công chúng giả tưởng nào đó được đọc, tác phẩm văn xuôi này của Vũ Bằng còn nổi bật lên với một giọng điệu riêng khó lẫn với người khác.
Trong sự tiến triển chung của nền văn xuôi trước 1945, hầu như các tác giả quan trọng đều là người có hơi văn độc đáo và chỉ cần nhớ đến Nam Cao là chúng ta nhớ ngay cái giọng riêng của ông.
Cái giọng ấy, có lúc như nói riêng mình, lại có lúc như đang hướng về người khác, đối diện với người khác. Khi nói một mình thì bâng quơ mà lại tha thiết, khi nói với người khác thì riết gióng, và đôi phen như là ngả sang dằn dỗi.
Ở quãng lùi trên nửa thế kỷ, nếu có một người gợi nhớ đến Nam Cao hơn cả thì đó chính là Vũ Bằng, trong quyển Cai mà chúng ta đang nói:
Văn Nam Cao. Hắn nghĩ về đứa con như vậy. Bởi vì hắn là một người vui tính. Hắn thích tìm ra những ý nghĩ ngộ nghĩnh để cười một mình (Cuời).
Văn Vũ Bằng trong Cai. Bạn đọc, ông đã có lần nào ốm nặng chưa? Có. Tôi biết. Đêm ấy là một đêm cuối hạ sang thu. Rét về. Người ta thấy sôi nổi ở trong lòng những sự thương nhớ vẩn vơ. Lại điểm mấy hạt mưa lất phất. Hỡi ôi, ngồi một chỗ, người ta có thể sầu mà chết bỏ đời.
Văn Nam Cao: Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. (Chí Phèo)
Văn Vũ Bằng trong Cai. Người ta lấy nước ở trong bụng ông ra. Được ba thùng. Như nước lọc. Tốt. Ông Bang có cơ khỏi được. Thôi, ăn mừng.
Văn Nam Cao: Họ nhìn vào căn buồng vừa mở cửa. Một đôi chân tím bầm lủng lăng trên không khí. Đó là ông lang Rận, ông thắt cổ. Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông ngoẹo xuống (Lang Rận)
Văn Vũ Bằng trong Cai: Một anh sướng ra một trò chơi không nhàm. ấy là chọn lấy một anh ốm yếu nhất, bắt phải…chết để cho anh em lo liệu. Hỏi thăm. Phủ mặt. Thắt bọng đái. Một anh đi mua tám ngọn nến thắp chung quanh người xấu số. Kèn bát âm. Bài xuân nữ. Cử ai. Cả bọn bưng mặt khóc ầm ĩ như khóc một người chết thật.
Những đoạn văn tưởng như do cùng một tác giả viết ra, trong một cuốn sách!
Nên xem xét sự gần gũi này thế nào?
Một mặt, thì như Tô Hoài đã thú nhận “Giá trị ảnh hưởng của Vũ Bằng với chúng tôi đã chắt lại ở sự gợi ý to lớn."
Mặt khác, sẽ là ngớ ngẩn, và thô bạo nữa, nếu quá rạch ròi trong phân định vai trò mỗi người trong hướng tìm tòi thống nhất nói trên.
Điều có thể rút ra ở đây, là một hướng đi mà nhiều người cùng theo.
Sau những giọng văn trung hoà mạch lạc của Khái Hưng, Nhất Linh, Lan Khai, đến giai đoạn này, văn xuôi Việt Nam bắt đầu có những tìm tòi ngả sang một thứ gì đậm hơn, gắt lên, gây ấn tượng hơn, mà cũng là giúp cho tác giả và người đọc trở nên gần gặn hơn, nó là cái xu thế chung thấy ở văn học hiện đại, tuy rằng cách bộc lộ thì mỗi trường hợp một khác.
*
Đến đây, người ta có thể đặt câu hỏi: Điều quan trọng trong một tác phẩm văn học, là ở nội dung của nó, chứ đâu có phải ở hình thức nghệ thuật? Những tìm tòi nói trên của Vũ Bằng chẳng phải là đôi khi gây thêm khó khăn cho việc tiếp nhận tác phẩm?
Thật ra thì mọi chuyện không đơn giản như vậy.
Suy cho cùng, các biện pháp nghệ thuật trong văn chương không vô can, cũng không phải tuỳ tiện. Có thể mạnh dạn mà nói rằng cái cách trình bày đời sống nội tâm tự nhiên như trên đánh dấu một trình độ mới trong quan niệm nghệ thuật của các nhà văn như Vũ Bằng hay Nam Cao.
Họ không định đứng ra răn dạy bạn đọc, theo kiểu mấy ông đồ cổ lỗ đứng ra thuyết minh đạo đức đã đành.
Mà họ cũng không cố làm ra vẻ khách quan, đứng ngoài câu chuyện, như trong mấy cuốn Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng đã tự xác định.
Sòng phẳng hơn, họ muốn trang giấy trở thành một chỗ để tâm sự với mọi nguời, và bằng cách đó, tiến xa hơn trên con đường dân chủ hoá văn học.
Tại sao có thể nói vậy?
Chắc chắn khi muốn trở thành thượng đế trong tác phẩm, tức cái gì cũng biết, cái gì cũng sắp xếp đâu vào đấy, có mặt ở mọi nơi mà không xuất đầu lộ diện…, thực ra nhà văn đã giả thiết rằng mình đứng ở địa vị cao hơn nên so với bạn đọc trong khi kinh nghiệm cho thấy trong sự giao tiếp, khoảng cách đôi bên càng thu hẹp càng tốt, đấy là một lẽ.
Còn một lẽ nữa: Dù muốn hay không muốn, người ta cũng phải công nhận là ở con người hiện đại, đời sống tâm linh là một cái gì hết sức phức tạp, và muốn biết một nhà văn có thấu đáo lẽ đời không, mà cũng là có tôn trọng bạn đọc không, hãy nhìn xem nhà văn đó hiểu về con người ra sao.
Chính định hướng ấy sẽ quyết định toàn bộ các vấn đề kỹ thuật của tác phẩm.
Ở chỗ này, vói tư cách một người đương thời chịu để ý học hỏi, Tô Hoài tỏ ra khá nhạy cảm.
Trước tiên, ông phân tích khá rạch ròi khác biệt giữa một tác giả cũng rất nổi tiếng, và sự thực đã viết rất sớm là nhà văn Nguyễn Công Hoan, với trường hợp của Vũ Bằng.
Theo Tô Hoài mãi đến về sau này, Nguyễn Công Hoan vẫn tuân thủ nghiêm ngặt cách dựng nhân vật bằng một số thủ pháp cổ điển như:
ý nghĩ nhân vật không lẫn lộn xen với tả cảnh;
nhân vật nghĩ dứt rồi mới hành động;
miêu tả nhân vật này nghĩ và làm xong mới miêu tả nhân vật khác”.( tài liệu đã dẫn).
Trong khi đó, vẫn theo Tô Hoài, ở Vũ Bằng mọi chuyện khác hẳn:
“Vũ Bằng miêu tả nhân vật hoạt động và nội tâm khăng khít với quang cảnh, có nghĩa là cuộc sống con người quấn quýt, dằng co giữa tâm trạng và hình thức giữa tất cả với chung quanh” Tiếp đó, Tô Hoài nhấn mạnh ý nghĩa toát ra từ những biện pháp nghệ thuật trên của Vũ Bằng “Tác giả không chụp ảnh, không ghi lại không trau chuốt đưa nhân vật ra. Hình như tự các nhân vật với vấn đề và triết lý tư tưởng của mỗi số phận với xã hội tác động nhau, nghiêng ngả khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ của đời người” (tài liệu đã dẫn).
Thì ra là thế! Để hiểu quan niệm về con người của một nhà văn trước tiên phải xem xét cái thái độ yêu thương trân trọng hay xem thường thậm chí ghen ghét mà tác giả tuyên bố hoặc trực tiếp bộc lộ qua việc miêu tả.
Nhưng ngoài ra, còn một biểu hiện nữa gián tiếp hơn, đó là hãy nhìn tổng quát xem trong tác phẩm đó, tâm lý nhân vật là đơn giản hay phức tạp, thẳng đơ một chiều hay là muôn hình muôn vẻ, và luôn luôn biến chuyển không dễ gì nắm bắt nổi.
Theo hướng thứ hai mà xem xét, có thể bảo cái giọng văn, cái hơi hướng câu văn kiểu như Vũ Bằng cũng như Nam Cao là một cách thức để làm cho văn chương gần với con người hơn, nhất là những con người “khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ” là đa số chúng ta. Sở dĩ có thể nói văn học càng hiện đại hơn thì càng dân chủ hơn, lý do chính là như thế.
*
Những ngưòi có tìm hiểu kỹ đời sống văn học 1932-1945 đều biết Vũ Bằng là một trường hợp hết sức mâu thuẫn: Một mặt ông thông minh, nhạy bén, vừa viết văn vừa viết báo và có ảnh hưởng đến nhiều đồng nghiệp đương thời. Mặt khác, đó lại là con người sống ào ào, viết ào ào, cẩu thả, dễ dãi ngay với những trang viết của mình, lấy việc không viết gì đến nơi đến chốn làm thói quen thường trực. Những tài hoa sắc sảo của ông thường tản mát đây đó.
Quá tự tin, hay quá khinh xuất, ông để nó vung vãi khắp nơi, và ngẫu nhiên bột phát đến đâu thì đến.
Đôi khi, vừa đọc xong một trang rất hay của ông, người ta bắt gặp những trang viết tuỳ tiện “không thể thương nổi”, và nói chung cái tình trạng được mặt này hỏng mặt khác không chỉ là chuyện của riêng tác phẩm nào mà là của cả đời văn ông nữa. Bởi thế, trong khi một số người gần gũi mến ông vì tài, quý ông vì sự sống cởi mở với chung quanh, thì người ở xa dễ có cảm tưởng là ông loăng quăng, không đâu vào đâu.
Ngoại trừ trường hợp Vũ Ngọc Phan (với Nhà văn hiện đại), hầu như không có nhà nghiên cứu nào khi xem xét lịch sử văn học 32-45 để công viết riêng - viết kỹ về ông, bởi đại khái người ta cho ở Vũ Bằng lượng nhiều hơn phẩm, làm ồn gây nhiễu cho đời sống văn chương hơn là có đóng góp cụ thể.
Một cách đánh giá như thế không khỏi có chút bất công.
Nhưng làm sao khác được?!
Chính Vũ Bằng là tác giả của cách tồn tại của ông trong văn học.
Có điều, cũng nên nói thêm là trong khi những người khác thuận lợi hơn, được só mệnh phục trợ hơn, thì hình như ông không gặp may nữa. Trường hợp hồi ký Cai. Chính là ví dụ về sự không gặp may đó.
Người tò mò có lẽ không bỏ qua mấy dòng ghi ở cuối bản Cai in lần thứ nhất:
In xong ngày 30 Septembre 1944
Tại nhà in Tân Dân Hà Nội
Tạm thiên về
Mục Xá, Thanh Oai, Hà Đông
Lúc bấy giờ, cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã đi gần đến hồi kết thúc, nó lây lan sang cả Đông Dương. Và trên mảnh đất hình chữ S mà dân ta đang sinh sống, lòng người gần như không thể bình tĩnh nữa, lòng người đang chờ đợi những thay đổi lớn.
Có lẽ vì lý do như thế nên cuốn Cai chìm đi ngay khi ra đời, hầu như rất ít người được đọc nó, lại càng không ai nhắc nhở nó trên báo chí, và một thời gian dài, người ta không biết có nó trên đời.
Ngày nay đọc lại Cai, trước tiên chúng ta vui mừng vì được tiếp xúc với một tác phẩm lành mạnh - nó cổ vũ mọi nguời kiên quyết hơn trong cuộc đấu tranh chống lại một tệ nạn xã hội tàn phá ý chí và sức khoẻ con người.
Nhưng về mặt văn chương mà xét, với Cai, người ta bắt gặp một tác phẩm văn xuôi dài hơi tự hoàn chỉnh trong giọng điệu và là một thể nghiệm độc đáo về mặt thể loại.
Cùng với nhiều tác phẩm đương thời, cuốn sách này của Vũ Bằng cho thấy đến những năm 40 của thế kỷ này, văn xuôi Việt Nam đã trưởng thành, nó trở nên biến hoá đa đạng hơn, mà cũng là dẻo dai mềm mại hơn, tự bản thân nó đã là một bằng chứng ghi nhận sự phát triển tinh vi phức tạp đã đến trong đời sống và trong nội tâm con người hiện đại.
1997
Lời giới thiệu viết cho Cai, hồi ký của Vũ Bằng NXB Hải Phòng 1997.
In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt nam
từ đầu thế kỹ XX cho tới 1945 Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2005
Ảnh hưởng trong văn học thường khi là chuyện tế nhị. Nữa đây lại là hơi hướng, giọng văn, hơi văn, cảch viết, những vấn đề thuộc về nghề nghiệp của người cầm bút.
Tuy nhiên cái sự thực mà một người khi đã về già nói ra luôn luôn đáng để chúng ta suy ngẫm.
Từ một quá khứ làm theo mẫu hình trung cổ, do các thế kỷ trước để lại, nền văn học Việt Nam bước sang thế kỷ XX bắt đầu được làm theo một mẫu hình mới để ngày một trở nên hiện đại.
Mà đấy là cả một sự biến chuyển toàn diện: Trong quan niệm văn chương. Trong chủ đề. Trong nhân vật. Và sau hết, người ta có thể quan sát thấy cả sự thay đổi trong các hình thức thể hiện nữa.
Thơ là một thể tài chủ đạo - xét theo tỷ trọng, nó từng chiếm tới tám chục phần trăm toàn bộ khối lượng văn học trung cổ. Đã có người gọi nước Việt Nam hồi ấy là một thi quốc. Trước cơn “mưa Âu gió Mỹ” cho đến những năm 20, thơ ta vẫn cố kết trong những hình thức vốn có từ thời phong kiến. Những tưởng mãi mãi nó vẫn vậy! Nhưng không! Đùng một cái, tới 1932 phong trào thơ mới đột khởi chiếm thế thượng phong trên thi đàn. Và người ta chứng kiến một sự lột xác tự nhiên mà khá mỹ mãn.
So với thơ, truyền thống văn xuôi cũ ở ta có non yếu hơn. Bởi vậy, giống như các cậu học trò chăm chỉ, các nhà viết văn xuôi của ta tính chuyện học theo các bậc thày văn xuôi phương Tây một cách khá sớm sủa, và cũng chỉ có thể là khá từ tốn.
Ban đầu là các hình thức nhỏ như truyện ngắn, bút ký sau mới tiến lên phóng sự, tiểu thuyết.
Đứng về ngôn ngữ thể tài, tức là cái cách sử dụng văn xuôi mà xét, người ta cũng bắt gặp một sự thay đổi rõ rệt.
Hãy nhìn vào sáng tác của những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nhất Linh, Khái Hưng.
Một mặt phải nhận họ là những tay thợ khéo, văn xuôi của họ đã đạt tới một sự trau chuốt hoàn thiện khá cao.
Mặt khác xét theo chủng loại thì đó vẫn là thứ văn xuôi cổ điển, gần giống như văn xuôi phương Tây các thế kỷ XVIII, XIX.
Ấy vậy mà chỉ độ chục năm sau thôi, đọc Nguyễn Tuân, Nam Cao hoặc các bài bút ký của Xuân Diệu, người ta đã cảm nghe thấy một thứ văn xuôi hoàn toàn khác, chỉ những người có đọc và có thấm thía những A. France M.Proust, A. Gide… mới viết nổi, tóm lại là một thứ văn xuôi thuộc cái mạch hiện đại.
Một sự tiến triển như vậy sở dĩ có được, là nhờ tới sự đóng góp của nhiều người.
Và ở đây, chúng ta nên biết tới một quy luật thường vẫn chi phối các tìm tòi trong văn giới, ấy là có khi người mở đường lại rơi vào quên lãng, còn người tới sau lại gặt hái được vinh quang, do chỗ đã tổng kết được kinh nghiệm của những người đi trước.
Trong một chừng mực nào đó, câu chuyện về văn chương của Vũ Bằng và cuốn Cai của ông ở vào trường hợp như thế.
Vào khoảng 1943, 1944, (tức khi viết Cai) Vũ Bằng đã là một ngòi bút chững chạc.
Bên cạnh tư cách một ông lớn trong nghề làm báo, một tay giữ chân Thư ký toà soạn mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền bá, Trung bắc chủ nhật, ông còn là tác giả của mấy tập truyện được dư luận nhắc nhở. Một bằng chứng mặc dù nhóm Tự lực văn đoàn vốn rất thù ghét các nhà văn viết cho nhà Tân dân song năm 1937, khi Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng được in ra, Khái Hưng đã viết bài giới thiệu trên báo Ngày nay trong đó công nhận đây là một cuốn sách “không tầm thường chút nào”.
Lại nữa, mặc dù có nhiều lời chê bai, song trong bộ sách có tính kiểm kê, Nhà văn hiện đại, phần viết về Vũ Bằng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan vẫn ghi nhận Vũ Bằng có cái cách riêng của mình. “Khi tả nhân vật, dù là họ ở vào hoàn cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời, hơi đá hoạt kê một chút.”
Có thể đoán là khi viết Cai, ngòi bút Vũ Bằng mới thật có được sự lui tới tự do và hào hứng.
Nhân câu chuyện mình đã nghiện thuốc phiện thế nào, rồi đã cai ra sao, Vũ Bằng muốn làm một cuộc thăm thú về những sa đà lầm lẫn mình từng mắc phải, và cách thức vận dụng tất cả lương tri sẵn có tất cả nghị lực, để vượt lên trên những lầm lỡ ấy.
Ý hướng đạo lý của tác giả ở đây đã rõ ràng.
Nhưng điều quan trọng là trong Cai, thiện chí ấy lại được bộc lộ một cách thông minh và khéo léo, khiến cho câu chuyện có được sức thuyết phục mà những cách làm lộ liễu vụng về không bao giờ có nổi.
Có thể nói trong cuộc đời viết đông viết tây, viết xuôi viết ngược đủ thứ của Vũ Bằng, Cai đánh dấu một sự chín đầy trọn vẹn của ngòi bút, cái mức chín đẹp trước đó, ông chưa đạt tới và phải mấy chục năm sau, tới Thương nhớ mười hai, ông mới có dịp lặp lại.
Còn đứng về văn xuôi tiền chiến nói chung mà xét, đọc Cai, người ta thấy những tìm tòi trong văn xuôi Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, nhất là những thành tựu trong hàng loạt truyện ngắn của Nam Cao không ngẫu nhiên và cô độc. Cả một văn mạch đã hình thành. Dù là chỉ thay đổi rất từ tốn thôi, nhưng trong vòng hai chục năm gấp gáp thời tiền chiến, văn xuôi đã có những sự vận động rất hợp lý.
*
Đọc các từ điển chuyên về văn học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và thơ thường được viết trong thế đối lập nhau.
Một bên thiên về đời thường (trong nhiều ngôn ngữ phương Tây, chữ prose proza,tức văn xuôi, khi chuyển thành hình dung từ , thì có nghĩa tầm thường)
Một bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt.
Một bên bảo tôi thấy gì viết nấy, bên kia bảo không, hành động viết của tôi là một hành động sáng tạo với nghĩa đầy đủ của nó.
Và đi vào nội dung được miêu tả, nếu trong văn xuôi, người ta có thể bắt gặp cả thế giới, thì trong thơ, cái chính là cái thế giới ấy được cô đúc lại, và đối tượng được miêu tả ở đây, là tâm hồn con người.
Có thể là khi sáng tác, các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chưa biết tới đầy đủ cái sự phân chia thuần tuý lý thuyết nói trên, nhưng trong thực tế, họ đã tuân thủ nó một cách tự nguyện. Đại khái mỗi tác phẩm văn xuôi được viết - dù tiểu thuyết, hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều là một câu chuyện. Nghe câu chuyện ấy, người ta hình dung ra một khung cảnh ở đó, có những con nguời hoạt động. Kể chuyện tức là tác giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói tác giả giống như một luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông tác giả đóng vai thượng đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một khoảng cách, cái gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần dà ông mới khéo léo gỡ mối và khiến cho mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên mạch lạc.
Cái độc đáo của Vũ Bằng khi viết Cai là tác giả không định biến nó thành một thứ tiểu thuyết thông thường tức là khách quan hoá câu chuyện của mình theo kiểu trên đây vừa nói.
Ông không cố ý tạo ra những bức tranh phong cảnh làm nền cho câu chuyện, mà cũng chả buồn phác hoạ đầy đủ các nhân vật phụ trợ để gộp cả lại làm nên một tấn trò đời thú vị.
Ngược lại có vẻ như ông chỉ chú ý đến bản thân cùng người đọc vô hình mà ông cảm thấy như đang ở bên cạnh và muốn dốc hết bầu tâm tự cho người đó nghe.
Tuy người ta cũng thấy ở đây một câu chuyện - câu chuyện tôi, tức là Vũ Bằng cai thuốc phiện - nhưng cái nổi lên rõ hơn, bao quát các trang viết, là cái giọng riêng của người kể.
Đọc tác phẩm của Khái Hưng hoặc Nguyễn Công Hoan dù trong đó có xưng tôi đi chăng nữa, song người ta vẫn như được xem một cuốn phim. ở đó liên tiếp có những chuyển cảnh; thiên nhiên xen lẫn với chuyện đời; và những nét tâm tình chỉ được cài chen loáng thoáng.
Với Cai của Vũ Bằng thì khác. Trước mắt chúng ta toàn bộ tác phẩm như sự bột phát vừa liên tục vừa đứt đoạn của một đời sống nội tâm nồng nhiệt, chỉ biết có mình, ào ạt muốn bộc lộ mình, và nếu đôi lúc một vài hình hài của cuộc sống chung quanh có hiện lên đây đó, thì cũng chẳng qua là nhân tiện mà nói tới.
Ta hãy để ý đến từng đoạn mở đầu của các chương sách.
Trong số 24 chương của Cai, hầu như không chương nào được mở đầu bằng khung cảnh.
Mà toàn những
“Đến lúc đó, tôi mới biết rằng…”,
“Nói thế xong, tôi lại hút như thường”,
“Những đêm hút như thế thật là một thú. Tôi phải dặn trước chủ tiệm”,
“Trông thấy tôi Liên Hương có cảm tuởng gì, ông có biết không” -
tóm lại, toàn bộ áng văn xuôi này là tâm tình của tác giả, tâm tình ấy được giãi bày trong sự tha thiết đến chới với, muốn nói thật nhanh, muốn nói ra bằng được những điều bấy lâu dồn ép, và lấy việc được bộc lộ làm sung sướng.
Cũng vì chú ý giữ lấy tính chất tự nhiên của câu chuyện, và sẵn sàng xem việc viết ra là để thoả mãn nhu cầu của bản thân hơn là cho một công chúng giả tưởng nào đó được đọc, tác phẩm văn xuôi này của Vũ Bằng còn nổi bật lên với một giọng điệu riêng khó lẫn với người khác.
Trong sự tiến triển chung của nền văn xuôi trước 1945, hầu như các tác giả quan trọng đều là người có hơi văn độc đáo và chỉ cần nhớ đến Nam Cao là chúng ta nhớ ngay cái giọng riêng của ông.
Cái giọng ấy, có lúc như nói riêng mình, lại có lúc như đang hướng về người khác, đối diện với người khác. Khi nói một mình thì bâng quơ mà lại tha thiết, khi nói với người khác thì riết gióng, và đôi phen như là ngả sang dằn dỗi.
Ở quãng lùi trên nửa thế kỷ, nếu có một người gợi nhớ đến Nam Cao hơn cả thì đó chính là Vũ Bằng, trong quyển Cai mà chúng ta đang nói:
Văn Nam Cao. Hắn nghĩ về đứa con như vậy. Bởi vì hắn là một người vui tính. Hắn thích tìm ra những ý nghĩ ngộ nghĩnh để cười một mình (Cuời).
Văn Vũ Bằng trong Cai. Bạn đọc, ông đã có lần nào ốm nặng chưa? Có. Tôi biết. Đêm ấy là một đêm cuối hạ sang thu. Rét về. Người ta thấy sôi nổi ở trong lòng những sự thương nhớ vẩn vơ. Lại điểm mấy hạt mưa lất phất. Hỡi ôi, ngồi một chỗ, người ta có thể sầu mà chết bỏ đời.
Văn Nam Cao: Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. (Chí Phèo)
Văn Vũ Bằng trong Cai. Người ta lấy nước ở trong bụng ông ra. Được ba thùng. Như nước lọc. Tốt. Ông Bang có cơ khỏi được. Thôi, ăn mừng.
Văn Nam Cao: Họ nhìn vào căn buồng vừa mở cửa. Một đôi chân tím bầm lủng lăng trên không khí. Đó là ông lang Rận, ông thắt cổ. Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông ngoẹo xuống (Lang Rận)
Văn Vũ Bằng trong Cai: Một anh sướng ra một trò chơi không nhàm. ấy là chọn lấy một anh ốm yếu nhất, bắt phải…chết để cho anh em lo liệu. Hỏi thăm. Phủ mặt. Thắt bọng đái. Một anh đi mua tám ngọn nến thắp chung quanh người xấu số. Kèn bát âm. Bài xuân nữ. Cử ai. Cả bọn bưng mặt khóc ầm ĩ như khóc một người chết thật.
Những đoạn văn tưởng như do cùng một tác giả viết ra, trong một cuốn sách!
Nên xem xét sự gần gũi này thế nào?
Một mặt, thì như Tô Hoài đã thú nhận “Giá trị ảnh hưởng của Vũ Bằng với chúng tôi đã chắt lại ở sự gợi ý to lớn."
Mặt khác, sẽ là ngớ ngẩn, và thô bạo nữa, nếu quá rạch ròi trong phân định vai trò mỗi người trong hướng tìm tòi thống nhất nói trên.
Điều có thể rút ra ở đây, là một hướng đi mà nhiều người cùng theo.
Sau những giọng văn trung hoà mạch lạc của Khái Hưng, Nhất Linh, Lan Khai, đến giai đoạn này, văn xuôi Việt Nam bắt đầu có những tìm tòi ngả sang một thứ gì đậm hơn, gắt lên, gây ấn tượng hơn, mà cũng là giúp cho tác giả và người đọc trở nên gần gặn hơn, nó là cái xu thế chung thấy ở văn học hiện đại, tuy rằng cách bộc lộ thì mỗi trường hợp một khác.
*
Đến đây, người ta có thể đặt câu hỏi: Điều quan trọng trong một tác phẩm văn học, là ở nội dung của nó, chứ đâu có phải ở hình thức nghệ thuật? Những tìm tòi nói trên của Vũ Bằng chẳng phải là đôi khi gây thêm khó khăn cho việc tiếp nhận tác phẩm?
Thật ra thì mọi chuyện không đơn giản như vậy.
Suy cho cùng, các biện pháp nghệ thuật trong văn chương không vô can, cũng không phải tuỳ tiện. Có thể mạnh dạn mà nói rằng cái cách trình bày đời sống nội tâm tự nhiên như trên đánh dấu một trình độ mới trong quan niệm nghệ thuật của các nhà văn như Vũ Bằng hay Nam Cao.
Họ không định đứng ra răn dạy bạn đọc, theo kiểu mấy ông đồ cổ lỗ đứng ra thuyết minh đạo đức đã đành.
Mà họ cũng không cố làm ra vẻ khách quan, đứng ngoài câu chuyện, như trong mấy cuốn Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng đã tự xác định.
Sòng phẳng hơn, họ muốn trang giấy trở thành một chỗ để tâm sự với mọi nguời, và bằng cách đó, tiến xa hơn trên con đường dân chủ hoá văn học.
Tại sao có thể nói vậy?
Chắc chắn khi muốn trở thành thượng đế trong tác phẩm, tức cái gì cũng biết, cái gì cũng sắp xếp đâu vào đấy, có mặt ở mọi nơi mà không xuất đầu lộ diện…, thực ra nhà văn đã giả thiết rằng mình đứng ở địa vị cao hơn nên so với bạn đọc trong khi kinh nghiệm cho thấy trong sự giao tiếp, khoảng cách đôi bên càng thu hẹp càng tốt, đấy là một lẽ.
Còn một lẽ nữa: Dù muốn hay không muốn, người ta cũng phải công nhận là ở con người hiện đại, đời sống tâm linh là một cái gì hết sức phức tạp, và muốn biết một nhà văn có thấu đáo lẽ đời không, mà cũng là có tôn trọng bạn đọc không, hãy nhìn xem nhà văn đó hiểu về con người ra sao.
Chính định hướng ấy sẽ quyết định toàn bộ các vấn đề kỹ thuật của tác phẩm.
Ở chỗ này, vói tư cách một người đương thời chịu để ý học hỏi, Tô Hoài tỏ ra khá nhạy cảm.
Trước tiên, ông phân tích khá rạch ròi khác biệt giữa một tác giả cũng rất nổi tiếng, và sự thực đã viết rất sớm là nhà văn Nguyễn Công Hoan, với trường hợp của Vũ Bằng.
Theo Tô Hoài mãi đến về sau này, Nguyễn Công Hoan vẫn tuân thủ nghiêm ngặt cách dựng nhân vật bằng một số thủ pháp cổ điển như:
ý nghĩ nhân vật không lẫn lộn xen với tả cảnh;
nhân vật nghĩ dứt rồi mới hành động;
miêu tả nhân vật này nghĩ và làm xong mới miêu tả nhân vật khác”.( tài liệu đã dẫn).
Trong khi đó, vẫn theo Tô Hoài, ở Vũ Bằng mọi chuyện khác hẳn:
“Vũ Bằng miêu tả nhân vật hoạt động và nội tâm khăng khít với quang cảnh, có nghĩa là cuộc sống con người quấn quýt, dằng co giữa tâm trạng và hình thức giữa tất cả với chung quanh” Tiếp đó, Tô Hoài nhấn mạnh ý nghĩa toát ra từ những biện pháp nghệ thuật trên của Vũ Bằng “Tác giả không chụp ảnh, không ghi lại không trau chuốt đưa nhân vật ra. Hình như tự các nhân vật với vấn đề và triết lý tư tưởng của mỗi số phận với xã hội tác động nhau, nghiêng ngả khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ của đời người” (tài liệu đã dẫn).
Thì ra là thế! Để hiểu quan niệm về con người của một nhà văn trước tiên phải xem xét cái thái độ yêu thương trân trọng hay xem thường thậm chí ghen ghét mà tác giả tuyên bố hoặc trực tiếp bộc lộ qua việc miêu tả.
Nhưng ngoài ra, còn một biểu hiện nữa gián tiếp hơn, đó là hãy nhìn tổng quát xem trong tác phẩm đó, tâm lý nhân vật là đơn giản hay phức tạp, thẳng đơ một chiều hay là muôn hình muôn vẻ, và luôn luôn biến chuyển không dễ gì nắm bắt nổi.
Theo hướng thứ hai mà xem xét, có thể bảo cái giọng văn, cái hơi hướng câu văn kiểu như Vũ Bằng cũng như Nam Cao là một cách thức để làm cho văn chương gần với con người hơn, nhất là những con người “khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ” là đa số chúng ta. Sở dĩ có thể nói văn học càng hiện đại hơn thì càng dân chủ hơn, lý do chính là như thế.
*
Những ngưòi có tìm hiểu kỹ đời sống văn học 1932-1945 đều biết Vũ Bằng là một trường hợp hết sức mâu thuẫn: Một mặt ông thông minh, nhạy bén, vừa viết văn vừa viết báo và có ảnh hưởng đến nhiều đồng nghiệp đương thời. Mặt khác, đó lại là con người sống ào ào, viết ào ào, cẩu thả, dễ dãi ngay với những trang viết của mình, lấy việc không viết gì đến nơi đến chốn làm thói quen thường trực. Những tài hoa sắc sảo của ông thường tản mát đây đó.
Quá tự tin, hay quá khinh xuất, ông để nó vung vãi khắp nơi, và ngẫu nhiên bột phát đến đâu thì đến.
Đôi khi, vừa đọc xong một trang rất hay của ông, người ta bắt gặp những trang viết tuỳ tiện “không thể thương nổi”, và nói chung cái tình trạng được mặt này hỏng mặt khác không chỉ là chuyện của riêng tác phẩm nào mà là của cả đời văn ông nữa. Bởi thế, trong khi một số người gần gũi mến ông vì tài, quý ông vì sự sống cởi mở với chung quanh, thì người ở xa dễ có cảm tưởng là ông loăng quăng, không đâu vào đâu.
Ngoại trừ trường hợp Vũ Ngọc Phan (với Nhà văn hiện đại), hầu như không có nhà nghiên cứu nào khi xem xét lịch sử văn học 32-45 để công viết riêng - viết kỹ về ông, bởi đại khái người ta cho ở Vũ Bằng lượng nhiều hơn phẩm, làm ồn gây nhiễu cho đời sống văn chương hơn là có đóng góp cụ thể.
Một cách đánh giá như thế không khỏi có chút bất công.
Nhưng làm sao khác được?!
Chính Vũ Bằng là tác giả của cách tồn tại của ông trong văn học.
Có điều, cũng nên nói thêm là trong khi những người khác thuận lợi hơn, được só mệnh phục trợ hơn, thì hình như ông không gặp may nữa. Trường hợp hồi ký Cai. Chính là ví dụ về sự không gặp may đó.
Người tò mò có lẽ không bỏ qua mấy dòng ghi ở cuối bản Cai in lần thứ nhất:
In xong ngày 30 Septembre 1944
Tại nhà in Tân Dân Hà Nội
Tạm thiên về
Mục Xá, Thanh Oai, Hà Đông
Lúc bấy giờ, cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã đi gần đến hồi kết thúc, nó lây lan sang cả Đông Dương. Và trên mảnh đất hình chữ S mà dân ta đang sinh sống, lòng người gần như không thể bình tĩnh nữa, lòng người đang chờ đợi những thay đổi lớn.
Có lẽ vì lý do như thế nên cuốn Cai chìm đi ngay khi ra đời, hầu như rất ít người được đọc nó, lại càng không ai nhắc nhở nó trên báo chí, và một thời gian dài, người ta không biết có nó trên đời.
Ngày nay đọc lại Cai, trước tiên chúng ta vui mừng vì được tiếp xúc với một tác phẩm lành mạnh - nó cổ vũ mọi nguời kiên quyết hơn trong cuộc đấu tranh chống lại một tệ nạn xã hội tàn phá ý chí và sức khoẻ con người.
Nhưng về mặt văn chương mà xét, với Cai, người ta bắt gặp một tác phẩm văn xuôi dài hơi tự hoàn chỉnh trong giọng điệu và là một thể nghiệm độc đáo về mặt thể loại.
Cùng với nhiều tác phẩm đương thời, cuốn sách này của Vũ Bằng cho thấy đến những năm 40 của thế kỷ này, văn xuôi Việt Nam đã trưởng thành, nó trở nên biến hoá đa đạng hơn, mà cũng là dẻo dai mềm mại hơn, tự bản thân nó đã là một bằng chứng ghi nhận sự phát triển tinh vi phức tạp đã đến trong đời sống và trong nội tâm con người hiện đại.
1997
Lời giới thiệu viết cho Cai, hồi ký của Vũ Bằng NXB Hải Phòng 1997.
In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt nam
từ đầu thế kỹ XX cho tới 1945 Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2005
Published on August 24, 2015 19:28
August 19, 2015
Điểm lại quan niệm về hồi ký và các hồi ký đã in trong khoảng 1990-2000 ( bài tiếp)
Những trang ghi chép của một cán bộ chính trị có cốt cách trí thức
(Đọc Nhật ký của bộ trưởng tác giả Lê Văn Hiến,
Nhà xuất bản Đà Nẵng 1995)
Trong đời sống hàng ngày, hai chữ nhật ký đã quá quen thuộc, người ta không thể hiểu sai về nó hoặc lúng túng khi phải nhận diện nó.
Song, không rõ việc viết nhật ký ra sao, chỉ biết đến nay, ở ta quả thật các tập nhật ký được in ra còn quá ít ỏi, tới mức nhiều người chưa muốn xem nó là một thể tài văn học. Tại sao có sự thưa vắng đó? Để trả lời câu hỏi này, người ta phải nhìn vào hoàn cảnh cụ thể cùng cái tâm lý nảy sinh và kéo dài trong hoàn cảnh ấy.
Từ sau 8-1945, đời sống đất nước luôn luôn trong thế sôi động; chiến tranh liên miên; con người long đong nay đây mai đó nhiều cán bộ chiến sĩ gia tài quy lại chỉ là một chiếc ba lô, có những phen mọi thứ khan hiếm, xin được tập giấy, kiếm được bình mực đã khó, những chuyện tưởng như nhỏ nhặt ấy thật dễ làm người ta ngần ngại. Ấy là chưa kể viết xong, cất giữ ra sao, bảo quản thế nào, việc đâu có dễ.
Vả chăng nói gì thì nói, viết nhật ký trước tiên cũng là một cách tự mình tâm sự với mình, tự mình chấp nhận cái đa đoan phiền phức của cuộc sống riêng tư và muốn nâng niu nó, bảo vệ nó.
Trong khi ấy, để thích ứng với hoàn cảnh xã hội “nước sôi lửa bỏng” mỗi con người lại đã thường xuyên giáo dục và bản thân cũng thấy cần xếp cái riêng tư của mình lại, tự nguyện gạt bớt những phiền phức của cái tôi để sống càng đơn giản càng tốt.
Lâu rồi quen đi, tự nhiên cảm thấy công việc viết nhật ký là cả một chuyện xa xỉ, không mấy ai có gan tiếp tục đều đặn.
Chính trên cái nền chật hẹp ấy mà sự ra đời Nhật ký của một bộ trưởng là một điều đáng để ý.
Cuốn sách đọc khá thú vị.
Và trong chừng mực nào đó còn có thể xem đây là một gợi ý: Nó cho thấy khả năng đóng góp của mỗi người đối với đời sống mà nếu không sợ quá to tát, phải nói tới một cái gì như là trách nhiệm của mỗi cá nhân trước sự vận động sôi nổi của lịch sử; phải có nhiều người đứng ra ghi chép – ghi chép một cách trực tiếp trong thể nhật ký -thì các thế hệ tương lai mới có tài liệu để hình dung ra cuộc sống mà các thế hệ đi trước đã sống.
Về phương diện tư liệu mà xét, bộ sách gần 1000 trang khổ lớn (16×24) của Lê Văn Hiến là cả một kho ghi chép phong phú.
Thời gian cuốn nhật ký bao quát khá dài, từ 19-12-1946 đến 6-5-1952.
Trên cương vị một thành viên trọng yếu của bộ máy lãnh đạo đất nước, tác giả có dịp tham gia vào việc soạn thảo nhiều chính sách cũng như tự mình có mặt trong không ít sự kiện lớn lao của những ngày kháng chiến.
Có điều, dù các sự kiện ấy từng được miêu tả đầy đủ trong các bộ sử lớn nhỏ – và ở đây Lê Văn Hiến cũng không nói gì khác – thì cái cách những người trong cuộc sống, bàn bạc, chuẩn bị cho các sự kiện ấy rồi cảm nhận chúng ra sao cũng gần như chưa ở đâu nói tới, và chỉ nhờ đọc các ghi chép loại như của Lê Văn Hiến người ta mới biết.
Hãy nói tới chuyện di chuyển.
Cái hào hứng khi phải phóng những chiếc xe cũ nát, sáng ở Cao Bằng chiều ở Thái Nguyên, hôm sau đã phải quay về Vân Đình Hà Đông dự họp; cái bồn chồn, khi gặp một cơn lũ, phải dừng lại, trong khi bên kia sông, một hội nghị lớn đang chờ, hoặc những phen vừa bực mình vừa buồn cười, khi đi theo chiếc đầu máy xe lửa cổ lỗ lại đốt bằng củi tươi, ậm ạch mãi mới đi được vài cây số – đấy là những tình cảm khác nhau, mà chỉ con người kháng chiến mới có.
Một cuộc sống hấp dẫn, là một cuộc sống luôn gây ra cho người ta ngạc nhiên, chờ đợi.
Thỉnh thoảng trong Nhật ký của một bộ trưởng, Lê Văn Hiến không quên ghi lại những phút bỡ ngỡ mà một người như ông thể nghiệm khi lần đầu gặp gỡ núi rừng Việt Bắc: nào nỗi lạ lùng, khi nhìn thấy cây thuốc phiện; nào một thoáng rờn rợn, khi qua một đoạn đường cheo leo, đã có lắm người thiệt mạng; nào nỗi xao xuyến khi qua một đoạn đèo khác – lần này là đèo Lê -a ở Cao Bằng – nghe nói ở đây có tuyết mà mình chưa được nhìn thấy bao giờ.
Một buổi sớm mùa đông làm việc ngoài nắng đối với tác giả, đôi khi cũng mang lại ý vị riêng nói chi những chuyến phóng ngựa băng rừng, những lần xuôi thuyền sông lớn. Nhưng cái điều khiến tác giả chú ý hơn cả và được ông ghi vào nhật ký nhiều hơn cả, là những tình tiết éo le trong mối quan hệ giữa người và người, những rắc rối nảy sinh trong công việc. Đọc qua người ta có thể ngạc nhiên sao trong nhật ký của mình, một bộ trưởng bộ tài chính thỉnh thoảng lại nhắc đến những kho muối và việc xuất kho vài cân muối.
Nhưng kháng chiến là thế, kháng chiến có chuyện hành quân vây đồn, tiêu diệt căn cứ địch, nhưng còn có chuyện đồng tiền bát gạo, chuyện in thêm tiền mới, chuyện đấu tranh chống vòng vây kinh tế của địch.
Liệu cách nào giúp đỡ thêm đơn vị nọ, đơn vị kia đang gặp khó khăn?
Nơi nào đang tiêu pha lộn xộn?
Nơi nào lỏng tay quản lý, để công quỹ bị biển thủ?
Bấy nhiêu câu hỏi luôn luôn trăn trở trong đầu óc ông bộ trưởng và mỗi khi làm việc quá sức con người thật dễ cảm thấy mệt mỏi.
Nhưng công việc nào rồi cũng có lúc xong, khoan khoái biết mấy là sau những đêm chí đầu vào đống công văn, sáng sớm hôm sau, được vác cuốc ra chăm sóc đám rau bên nhà, kế đó là nỗi hoan hỉ được mang ít cân rau tươi mới hái cùng vài cân cá khô, mấy chai nước mắm, tới biếu các bộ trưởng khác.
Rồi niềm vui khi được tin một chị trong cơ quan sinh thêm một cháu nhỏ.
Rồi một thoáng buồn khi thấy anh em nhận được thư gia đình, còn mình thì mấy tháng nay quê nhà bặt vô âm tín.
Với tư cách những trang ghi chép tự nhiên ( như tác giả nói, là không được tu bổ cắt xén trước khi mang in), Nhật ký của một bộ trưởng có một đường dây tình cảm quán xuyến, đó là những quan tâm, băn khoăn, chờ đợi của tác giả với người bạn đời của mình.
Nhưng những đoạn tình cảm riêng tư ấy không lạc lõng mà hoà hợp với giọng điệu chung của cuốn nhật ký và lại cho thấy đầy đủ hơn hình ảnh của người cán bộ kháng chiến mà tác giả muốn trình bày và chúng ta muốn biết.
Cũng nên nói thêm rằng do đặc điểm riêng của nó, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bấy giờ là một cuộc chiến đấu có văn hoá.
Bên cạnh cái ào ạt, cái bột phát, do đó là cái lộn xộn không tránh khỏi của một cuộc chiến tranh, thì nhiều nền nếp vốn có trong những năm tháng thanh bình vẫn còn duy trì ảnh hưởng trong cuộc sống mọi người, và điều này cũng thấy khá rõ qua những trang Nhật ký của một bộ truởng.
Cùng với tác giả, ta biết rằng giữa núi rừng Việt Bắc, báo chí vẫn ra đều đều, nhiều đêm kịch vẫn đông nghịt người, sách vở vẫn được truyền tay và những giá trị văn hoá cổ truyền vẫn có mặt trong đời sống hàng ngày.
“Không lúc nào như lúc này, ai nấy đều khoái Kiều”. Xong một buổi hội nghị, trước một cảnh đêm trăng, mỗi người đều cất giọng ngâm Kiều.
Chẳng những thế, những lớp huấn luyện chuyên môn vẫn được mở, các nhà chuyên môn được tôn trọng và ở một đoạn nhật ký, tác giả còn kể rằng ông không quên dành thời gian, để thông qua những quyển sách bằng tiếng Pháp, tìm hiểu về chính sách tiền tệ ở các nước khác và khoa học tài chính nói chung. Ông còn muốn học và biết rằng cần phải học.
Tóm lại, qua cuốn sách thấy hiện ra một cách sống khiêm nhường, thuần hậu, cầu tiến, ham học, xa lạ với mọi kiêu căng càn rỡ. Một cuộc sống tinh thần lành mạnh, nó tương phản với đời sống vật chất kham khổ, nhưng chính nó lại khiến cho con người trở thành những nhân cách đáng vì nể.
Cho tới ngày hôm nay, cuộc kháng chiến chống Pháp sở dĩ còn giữ được ánh hào quang thiêng liêng, một phần là vì đã đi được tới chiến thắng bằng nỗ lực và sự tận tuỵ của những con người như thế.(*)
(*) Ghi chú 20-8-2015
Nguyên bài viết có tên là Những
trang ghi chép chân tình. Chúng tôi đổi lại cho hợp với nội
dung bài mà cũng là để làm rõ cái đặc sắc riêng của ngòi bút Lê Văn Hiến. Trong
khi các nhân vật tương tự như ông không mấy người viết nhật ký và về già chỉ
viết hồi ký để kể công để tự ca tụng, thì ông viết nhật ký kể những suy nghĩ hàng ngày của mình. Trong người cán bộ chính trị này còn có cốt cách một trí
thức.
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư và Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh, Cát bụi chân ai của Tô Hoài và Một mảnh tình riêng của Sơn Nam, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê và Hồi ký Trần Huy Liệu…đây đó, chúng ta đã được nghe giới thiệu về một số tập hồi ký của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nói chung là của các nhà hoạt động văn hoá mà cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với sinh hoạt tinh thần của xã hội ta từ đầu thế kỷ XX tới nay.
Nhưng đó mới chỉ là một bộ phận nhỏ trong các hồi ký đã xuất bản.
Trong thực tế, còn phải nói tới hai loại hồi ký khác.
1. Hồi ký của các nhà hoạt động chính trị, quân sự từng giữ nhiều trọng trách trong guồng máy điều hành đất nước.
2. Hồi ký của những người bình thường có tham gia công tác xã hội nhưng chỉ ở những cương vị rất khiêm tốn, thậm chí, có khi chỉ loanh quanh chuyện kiếm sống, và nuôi dạy con gái, song do chỗ biết khai thác hợp lý, những cuộc đời được kể lại ở đấy vẫn mang dấu ấn thời đại sâu sắc.
Như người ta thường nói đùa, nhiều người Mỹ cả đời chỉ chăm chăm ra tranh cử Thượng viện, Hạ viện và nếu trở thành tổng thống thì càng hay vì tuy là tổng thống 8 năm là cùng, nhưng với họ, đấy chính là thời gian thu thập tài liệu để viết nên những quyển hồi ký mà lúc in ra thường chạy như tôm tươi và tiền tác quyền đủ cho tác giả sống ung dung cho đến lúc chết.
Nghiêm chỉnh hơn, người ta nhắc đến những tập hồi ký nổi tiếng của Churchill, của De Gaulle, của Khrouchev, mà sau khi tồn tại như sách bán chạy một thời, lại trở thành đối tượng để các nhà sử học vục đầu nghiên cứu, mổ xẻ.
Gần đây hơn, để đánh dấu thời kỳ chiến tranh lạnh kết thúc, có các hồi ký B.Enxin, A.Sobchac, T.Givkov… (một số đã được dịch ra tiếng Việt). Không phải đợi đến khi tác giả kết thúc sự nghiệp mà thời nay các hồi ký được viết sớm hơn, người ta có thể vừa tiếp tục sống và làm việc vừa viết, sống đến đâu viết đến đó, các cuốn hồi ký không được thật chín như đáng lẽ nó phải có, song lại được cái nhanh nhạy trả lời tức thì cho những điều nhiều người quan tâm.
Không phải chỉ ở xứ người, hồi ký được ưu ái vậy, mà ngay ở xứ ta dư luận cũng từng săn đón chờ đợi những cuốn sách thuộc thể tài này.
Vào khoảng đầu những năm 60, bạn đọc Hà Nội và ở miền bắc những năm đó nói chung, rộ lên tìm đọc đợt hồi ký do các chiến sĩ cách mạng lâu năm như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt… kể và nhiều nhà văn, nhà báo ghi.
Tiếp đó là đợt hồi ký viết về Điện Biên Phủ. Ngay trong những năm chống Mỹ bận rộn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn cho công bố hồi ức của mình về những hoạt động đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Từ nhân dân mà ra) về những ngày trứng nước của chính quyền mới, ngay sau 1945 (Những năm tháng không thể nào quên).
Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhiều tướng lĩnh quân sự lại đã dần dần, mỗi người vào lúc thuận lợi nhất, bắt tay vào việc tổng kết đời mình, hoặc kể lại một ít sự kiện quan trọng nhất mình có tham dự qua những cuốn hồi ký.
Đó là, chẳng hạn, Đi theo con đường của Bác của Văn Tiến Dũng, Những năm tháng quyết định của Hoàng Văn Thái, Từ Đông Quan đến Điện Biên Phủ của Lê Trọng Tấn, cùng nhiều hồi ức của Hoàng Cầm, Đàm Văn Nguỵ, Nguyễn Tư Cương, Hoàng Văn Khánh, Lê Quang Hoà, Nguyễn Chuông v.v… và v.v…
Cũng trong vòng mười năm lại đây, nhiều nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở ta đã chia sẻ với bạn đọc những kỷ niệm vui buồn của chính đời mình. Ở ô mục lục của Thư viện quốc gia, chúng tôi ghi được một số cuốn mới xuất bản những năm chín mươi như sau:
– Trần Hữu Dực – Bước qua đầu thù (hai tập)
– Lê Thanh Nghị – Trọn một cuộc đời (hai tập)
– Trương Thị Mỹ – Người con gái xóm thợ
– Nguyễn Thị Thập – Từ đất Tiền Giang
– Vũ Quốc Uy – Bình minh trên sông Cấm
– Mai Văn Bộ – Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật
Trong năm 1995, nhiều bạn đọc lại có dịp đọc Hồi ký Vũ Đình Hoè, hoặc Những mẩu chuyện đời tôi của Mai Chí Thọ.
Có thể dự đoán trong thời gian tới, các hồi ký loại này còn được tiếp tục ra đời, bởi nếu được viết nghiêm chỉnh chúng là những chứng tích sống động của lịch sử và rất có ích cho bạn đọc.
Tuy ở mỗi quốc gia, tình hình có khác, nhưng nhìn chung phải thừa nhận nay là lúc, trên toàn thế giới, xu hướng dân chủ thắng thế.
Tôi hiểu xu thế dân chủ ở đây với nghĩa thời đại mở ra triển vọng sống và tồn tại cho mỗi người bình thường, nên mặc dù, có khi không trực tiếp tham gia vào các sự kiện lớn của đất nước, không phải những nhân vật quan trọng song nhiều người vẫn cảm thấy cuộc đời của mình có gì đó đáng ghi lại.
Trong khi thực hiện các nhu cầu riêng này, người ta thành tâm tin rằng người khác, đọc hồi ký hoặc tự truyện của mình, sẽ nhận ra cuộc đời họ, và rộng hơn thấy cả bóng dáng lịch sử.
Loại hồi ký của những người bình thường xuất hiện từ lý do bình dị mà sâu sắc như thế.
Không ở đâu xa, mà ngay ở miền Bắc, hồi trước 1965, phong trào viết kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, đã lôi cuốn được nhiều cán bộ chiến sĩ tham dự.
Còn đến thời gian gần đây, các tác giả loại hồi ký này mở rộng tới nhiều người thuộc những ngành nghề khác hẳn nhau. Bản thân tên gọi các cuốn sách đã xác định điều đó.
– Kỳ Thu – Khép lại quá khứ đau thương
– Trần Thị Hương – Bất hạnh không của riêng ai (Tự truyện)
– Đỗ Tuyết Mai – Tuổi năm mươi nhìn lại
– Phạm Thị Trinh – Những chặng đường của người mẹ
– Đặng Nguyệt Nga – Cuộn len
– Đặng Thị Hạnh – Bà và cháu
Sẽ không có gì lạ, nếu như ai đó nhận xét, loại hồi ký này đang là hiện tượng hiếm hoi. Giữa thời buổi các phương tiện nghe nhìn ồ ạt phát triển, các chương trình phim truyền hình nhiều tập, cùng chương trình nhạc pop, nhạc rốc… lúc nào cũng chỉ chờ người ta ấn nút để xuất hiện trên màn ảnh nhỏ và làm đầy cuộc sống gia đình – vâng, trong hoàn cảnh ấy mà bảo những người bình thường (không phải người chuyên ngành nghề viết lách; cũng không phải nhân vật từng có cương vị quan trọng, hay được các cơ quan thúc đẩy và hỗ trợ) ngồi trước trang giấy, tự kể lại đời mình – quả là chuyện xa vời ! Song bởi vậy, một ít cuốn hồi ký đã in ra thật đáng trân trọng và những ai đã ướm thử ngòi bút trong công việc này, vẫn nên dũng cảm làm tiếp.(*)
(*) Ghi chú 20-8-2015
Đây là nhận xét viết ra từ mười lăm năm về trước. Ở thời điểm 2015, tôi thấy tình hình có khả quan hơn về số lượng nhưng xét ở khía cạnh chất lượng thì các hồi ký viết ra vẫn còn rất yếu, và cái gọi là phong trào nếu có chưa đạt tới mức đáng ra phải có.
Có hai lý do chính 1/ Quan niệm về lịch sử, về quá khứ nói chung của cả xã hội đang dừng lại ở mức cổ lỗ mấy chục năm về trước và 2/ Không có sự đóng góp của giới cầm bút chuyên nghiệp. Vì trong quan niệm về lịch sử về xã hội, là nhân tố chủ đạo trong việc soi rọi quá khứ, chính giới này cũng đang dừng lại ở trình độ như mọi tầng lớp khác.
Published on August 19, 2015 19:29
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
