Vương Trí Nhàn's Blog, page 54

December 27, 2016

Cuộc trở thành chính mình của mỗi cá nhân : có hẳn hai giai đoạn ngược nhau



 NĂM BẢY CHỤC NĂM TRƯỚC: CHẲNG AI ĐƯỢC LÀ CHÍNH MÌNH

Trong một lần gặp gỡ đầu 2016,
nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu có kể với tôi là ở nhiều xí nghiệp do
người nước ngoài làm chủ hiện nay, có nhiều thợ mới.

Họ là những
người nông dân bỏ làng ra tỉnh để làm ăn. Nhưng cách sống cách suy nghĩ
của họ thì hoàn toàn là của những người nông dân đi làm thuê lang bạt.

Họ không có đồng lương hợp lý. Họ xa gia đình và sống trong một hoàn cảnh tạm bợ.

Họ luôn nghĩ rằng mình chỉ làm cho qua một thời gian, kiếm ít vốn để
sinh sống và sau này sẵn sàng quay trở về làng quê nơi đã xuất phát.

Nguyễn Thị Hậu và các đồng nghiệp của chị -- dân xã hội học - cho rằng
đó không phải là những người công nhân theo đúng nghĩa của nó.

Phần tôi trong những năm 1960 tôi thường hay gặp gỡ với nhà văn Võ Huy
Tâm, tác giả cuốn tiểu thuyết Vùng mỏ mà tất cả các học sinh Việt Nam
đều phải biết dù không mấy người yêu thích.
Anh Tâm đúng là một công nhân thật.

Anh kể với tôi, chỉ có công nhân thời nay thì mới ăn cắp, còn người
công nhân thời Pháp thuộc không bao giờ ăn cắp vì nếu ăn cắp họ lập tức
bị sa thải liền.
Vậy có thể nói là cái mà chúng ta hay xác định về
nhau rằng là người thành phần nọ thành phần kia, hóa ra toàn chuyện áng
chừng. Con người bây giờ như một câu thơ của Hồ Xuân Hương tả các nhà
sư, "chẳng phải tàu chẳng phải ta" tạp nham hỗn hào thật khó xác định.

Khoảng năm chục năm trước, tôi có lần ngồi với nhà thơ Hoàng Hưng. Vốn
cùng là dân học sinh Hà Nội, chúng tôi thử rút kinh nghiệm về quãng đời
mài đũng quần trên ghế nhà trường và thử tính xem xã hội muốn mình thế
nào, từ đó gọi xã hội hôm nay là gì.
Chắc là nghiền ngẫm đã lâu, anh Hưng bảo tôi, hãy tạm gọi nó là xã hội thích không được.

Mình đã hỏi nhiều người -- anh Hưng nói tiếp - tất cả những thằng học
khá chúng mình đều có cảm tưởng là cả lớp không thích , nếu không muốn
nói là ghen ghét đố kỵ. Vì đây là một xã hội cá mè một lứa, mình mà nổi
lên là gây phiền cho nhiều người. Nhưng các anh học kém cũng không được
yên. Phát hiện ra cậu nào thuộc dạng học sinh cá biệt thày chủ nhiệm
cũng chỉ thị cho bọn học giỏi phải kèm anh ta bằng được, không để một ai
dưới trung bình. Anh không có quyền kém cũng như những anh khác không
có quyền giỏi. Thế chẳng phải thích không được là gì.



VÀ THỜI NAY

NHỮNG CUỘC “LẬP NGHIỆP” NGOẠN MỤC

Mới học cấp II (phổ thông cơ sở), bọn học sinh Chu Văn An những năm
1960 trở về trước chúng tôi đã được huy động đi dạy Bình dân học vụ. Nhà
ở Thụy Khuê nên tôi được giao dạy ở khu vực làng Hồ (Yên Thái), chuyên
làm giấy. Tuần hai buổi, thứ hai thứ năm, tôi theo xe điện lên Bưởi rồi
cuốc bộ vào mãi cuối xóm, dưới ánh đèn dầu dạy cho một bác thợ seo.

Trí thức hóa công nông – đã từng có một khẩu hiệu như thế. Nói nôm na
là thời ấy,  người ta không được
dốt.

Ngày nay tôi vẫn bị cách nghĩ đó ám ảnh, và thấy nó có vẻ
đúng nhưng lại thấy rõ là nó đã lạc hậu. Nhìn những anh em làm lao động
chân tay, chẳng hạn mấy bạn trẻ công tác bảo vệ ở chung cư mình đang
sống – các anh em này khi rỗi rãi chỉ chơi game --, tôi đã mấy lần định
bảo họ sao không theo học một chương trình nào đó, nhưng lại thôi
ngay. Đấy cũng là lúc tôi buồn rầu nhận ra cái điều đơn giản rằng nay
đã sang một thời khác. “Thời nay tử tế mới khó chứ lười biếng dốt nát
tha hồ không ai chê trách, tương tự như cờ bạc rượu chè nhậu nhẹt đang
được khuyến khích!” - ai đó đã nói với tôi như thế và tôi không cãi lại
được.

Điều này đúng với cả các em đang cắp sách đến trường.
Quyền được dốt của học trò ngày nay được thực thi nghiêm túc hơn
nhiều so với các thế hệ trước. Em có kém cỏi đến mấy, các thầy các cô
cũng chẳng quan ngại. Thang điểm ngày càng hạ, vả chăng đã có các lớp
học thêm, và đường dây chạy bằng cấp ...- cả một cơ chế hình thành
bảo đảm cho những bạn trẻ -- trong đó đặc biệt nổi lên một số lười học
nhưng lại khôn ngoan giỏi giang trong việc xoay sở kiếm chác -- yên
chí vào đời lập nghiệp. Họ được khuyến khích và dần dần đóng vai trò
rường cột xã hội. Nhớ lại thời đi học chắc có lúc họ nghĩ giá kể mình
gắng sức học giỏi theo nghĩa trường ốc thì chắc chẳng được như thế này.

Thế còn những học sinh học giỏi thời nay thì sao? Câu chuyện năm chục
năm trước tôi với anh Hoàng Hưng bàn nhau nay đã trở thành lạc hậu. Xã
hội đang khuyến khích những người trí thức giỏi giang theo cái nghĩa
riêng mà chỉ thời nay mới có:

1/ trở thành gà chọi để mang khoe, biến thành cây cảnh để chứng tỏ tiềm năng trí tuệ của địa phương cũng như cả cộng đồng.

2/ được trao vài vai quan trọng trong bộ máy quan liêu, việc này
khiến nhiều nhà chuyên môn giỏi ngày nay chỉ còn cái mã và nếu trong quá
trình quan liêu hóa này họ có tha hóa biến chất thì cũng không ai tước
bỏ cái vai chuyên môn hôm qua của họ. Họ đã trở thành một thứ bản thể
mới, xa lạ với những lý tưởng trong sáng mà họ noi theo khi mới bước
vào đời. Nhưng nhìn lại từ lúc còn hàn vi thì phải nói cái quyền được
giỏi của họ vẫn được bảo đảm đấy chứ?

Có phải lớp trí thức chân
chính đang dần dần tuyệt chủng? Suy trước tính sau, tôi vẫn chỉ thấy có một câu
trả lời là gần như thế. Không phải ai thời nay cũng đi theo con đường
tha hóa, nhưng theo thiển ý của tôi sức đề kháng ở mỗi người ngày càng
yếu ớt. Thỉnh thoảng trên các trang mạng tôi cũng đọc được vài tin về
các trí thức trẻ Trung quốc . Nhiều người trong họ du học Anh Mỹ trở
về lúc đầu trong lòng cũng còn đầy lý tưởng, nhưng rồi, trên đường tiến
thân và lo hạnh phúc gia đình, họ cũng nhanh chóng gia nhập vào bộ máy
chuyên chế và tham nhũng. Trở thành chính mình lúc này đồng nghĩa với
đầu hàng.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 27, 2016 22:32

December 20, 2016

Tính cách người cai trị trong lịch sử Việt Nam (phần tiếp)

Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV. Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và  thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong lịch sử nước ta.Sau khi Nhân Tông bỏ việc đi tu, người kế tục ông là Anh Tông đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng.Các sách sử cũ đều viết và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi Thượng hoàng Nhân Tông từ Thiên Trường về Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say, Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.


Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy mới về cung” (Tr 394 sđd )

Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ Tông.

Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.

Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ  có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tôngtinh còn mà thần mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.

Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ  lại viết thêm:

“Cho dù Chu Văn Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)

 Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.

 Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.

 Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn toàn hư hỏng.

Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một sự so sánh:

+năm 1296, một viên quan thượng phẩm là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).

+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi”.

 Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm tiền. Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).

Theo cách miêu tả của  Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.

ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em, Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách  ra lệnh tịch thu toàn bộ của cải.

Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất rõ:

+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ.

+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở trong vườn.

+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.

Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,– nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc — cũng không tìm được niềm vui tương tự.

 Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp  “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.

 Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong” (tr 456).

 Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).

Về đức hạnh của các quan đầu triều đương thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.

Ông này thường “cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo, không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd tr. 431).

Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354 có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam Sách.

 Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?

Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành, các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.

Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.

 Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các quốc gia  không được phép.

Nhìn chung về đội ngũ quan chức của nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có người hiểu biết mà cố vấn cho vua.

Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:


“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6 lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng, thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc, coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.( VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà Trần suýt di chuyển về họ Dương” ( tr 448).

Mấy điều tổng kết tạm thời:

I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị lảng tránh.

Điều đó có thể  giải thích như sau:


Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.
 Đối với các sử gia đương đại, nó càng chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản cũ, cách làm cũ.  Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.

II/ Khi miêu tả các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, các nhà sử học hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại.

Mà mất mát đau thương nhất của chiến tranh ở VN là gì?

Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi  không thể cứu vãn.

Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực của quan chức trong thời chiến.

Cái đó thì đáng trọng thật.

Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội.

Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước.

Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.

Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học lỏm về một số phương diện văn hóa; còn  chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.

III/ Một thực tế của các vương triều hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn hèn kém bấy nhiêu.

Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa. Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là  bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các sử gia Hà Nội trong 70 năm qua,  thì triều Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 20, 2016 10:47

Tính cách người cai trị trong lịch sử Việt Nam

Tại đường link  https://nghiencuulichsu.com/2016/12/19/tinh-cach-nguoi-cai-tri-trong-lich-su-viet-nam/
trang mạng  
Nghiên cứu lịch sử vừa
cho giới thiệu lại bài viết  
Tính cách người
cai trị trong lịch sử Việt Nam vốn
in trên blog của tôi ngày 16-4-2013.





Bài
viết lại được trình bày lại  khiến các ý tưởng chính  được nổi bật và
người đọc dễ theo dõi , tôi xin chân thành cảm ơn  và thấy nên giới thiệu
lại  dưới đây hy vọng rằng có thể cần thiết cho một số bạn muốn đọc lại.












vietnam xua (17).jpg





Người Trung Hoa rất thông thạo về các danh nhân của họ. Sự ham mê viết về danh nhân kéo dài từ thời Tư Mã Thiên đến ngày nay.

Sách 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc (bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Văn Dương 2002) phân loại nhân vật lịch sử như sau.

Chương I, dành cho các nhân vật ngoại hạng, như Khổng Tử, Lão Tử, Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông.

Đặc biệt cũng
được coi là ngoại hạng, có Từ Quang Khải, chỉ làm quan tới Thượng thư bộ
Lễ, song lại chuyên về nghiên cứu khoa học. Ở một nước có tinh thần dân
tộc rất cao, đóng góp chính của ông lại là hấp thu nền văn hóa phương
Tây.

Chương II, các
vị đế vương các lãnh tụ vĩ đại, trong đó xếp cả Lưu Bang, Hán Cao Tổ, Võ
Tắc Thiên, sau đó là Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch.

Chương III, các nhà tư tưởng v.v…

Chương IV , các nhà văn nhà thơ.



So với các sách
khác, sách này có thêm có phần phụ lục về 10 đại hôn quân bạo chúa và
bề tôi gian nịnh, bao gồm vua Trụ, Tùy Dạng Đế, Từ Hy thái hậu, Tần Cối,
Đổng Trác và Viên Thế Khải…

Cùng cách làm
vậy, trong ngăn lịch sử đương đại ở các hiệu sách Trung quốc, người ta
đã bầy những cuốn viết về mấy người tạm gọi là bạo chúa đương đại  như Khang Sinh truyện, Giang Thanh truyện…

Tôi thấy có lẽ phải đi sâu thế mới gọi là làm sử.

Bởi viết lịch
sử không chỉ có nghĩa là tìm ra những tấm gương để người đời noi theo.
Lịch sử còn hấp dẫn và cần thiết cho người ta qua việc miêu tả những
nhân vật đã có ảnh hưởng tới sự vận động của xã hội dân tộc thời đại cả
theo chiều thuận lẫn theo chiều nghịch.

Tôi ước ao có
người nào đó khi viết sử sẽ đi vào cuộc đời cả những bạo chúa và bề tôi
gian nịnh trong lịch sử VN. Chắc chắn các nhân vật này ở VN khác nhiều
so với những người cùng loại bên Trung quốc.

Tôi thử tìm hiểu một số trường hợp trong sử Việt

I/ Trường hợp bạo chúa Lê Long Đĩnh 

Một tính cách bệnh hoạn

Sách Đại Việt Sử ký toàn thư ghi tóm tắt


NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ Tên húy
là Long Đĩnh, lại có tên là Chí Trung, con thứ năm của Đại Hành ở ngôi 4
năm, thọ 24 tuổi (986-1009) băng ở tẩm điện. Vua làm việc càn dỡ giết
vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?

Hồi  học tiểu học, đọc Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim, bọn tôi đã ghi sâu vào đầu óc chi tiết ông vua này
sở dĩ gọi là ngọa triều hoàng đế vì hoang dâm vô độ, phải nằm thiết
triều. Lại thấy nói là ông ta tàn ác, khi ăn mía thường đặt tấm mía lên
đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh thoảng giả vờ nhỡ tay để dao chạm vào
đầu nhà sư, thấy máu chảy lênh láng thì cười vui sướng.



Đại Việt sử ký toàn thư kể chi tiết hơn:




Mậu Thân, 1008 ,Vua thân đi
đánh hai châu Đô Lương , Vị Long, bắt được người Man và vài trăm con
người, sai lấy gậy đánh, người Man đau qúa kêu gào, nhiều lần phạm tên
húy của Đại Hành, vua thích lắm. Lại tự làm tướng đi đánh Hoan Châu và
châu Thiên Liễu, bắt được người thì làm chuồng nhốt vào rồi đốt.

Một đoạn khác




Vua tính hiếu sát, phàm
người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt, để cho
lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao
ngắn dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng. Người ấy đau
đớn kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: “Nó không quen chịu chết”. Vua cả
cười.

Và đoạn sau:




Đi đánh dẹp bắt được tù thì
giải đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn
cả vào trong ấy, đến khi nước triều lên, ngập nước mà chết; hoặc bắt
trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết. Vua
thân đến xem lấy làm vui.

Có lần vua đi đến sông Ninh , sông ấy
nhiều rắn, vua sai trói người vào mạn thuyền , đi lại giữa dòng muốn cho
rắn cắn chết. Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc
tiết trước, rồi mới đưa vào nhà bếp sau.

Hoặc nhân yến tiệc, giết mèo cho các vương ăn, ăn xong lấy đầu mèo giơ lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm thích.

Nói ông vua này có tính cách một người tàn ác còn là đơn giản.

Sự tàn ác ở đây kèm theo tất cả đặc điểm
của một kẻ bệnh hoạn về tâm lý. Cố ý tổ chức ra sự đau khổ ( buộc người
cho rắn cắn). Thích quan sát ngắm nghía sự đau khổ đó như thưởng thức
một cảnh đẹp.

Niềm vui thú bệnh hoạn này chắc chắn có ở nhiều kẻ thống trị khác, nhưng sách sử ở ta ít chép, tôi tạm lấy ra một đoạn sử Tầu.

Trong cuốn 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc nói trên,  đoạn nhắc tới Trụ Vương  kể ông ta có một hình phạt gọi là pháo lạc.

Sai đặt một trụ đồng trên lửa đỏ.

Lại sai bôi mỡ trên đó rồi cho tội nhân
đi trên, người nào người nấy trước sau đều ngã xuống bể than đỏ rực,
giãy giụa kêu khóc cho đến chết cháy.

Trụ Vương làm vậy vì ái phi của ông là Đát Kỷ rất thích được ngắm khung cảnh đó.

Trong tâm lý học hiện đại, có người bảo đây là một niềm vui liên quan tới chứng sadism (ác dâm, bạo dâm).

Về phần Lê Long Đĩnh, không phải là vua
không hiểu hành động của mình là phản tự nhiên ( “nó không quen chịu
chết”), nhưng có vẻ như ông ta xem đó là cách tự khẳng định con người
của kẻ có quyền.

Quái lạ nhất và phản tự nhiên nhất là việc Long Đĩnh thích người ta chửi thẳng vào tên người đã đẻ ra mình.

Tại sao ở ông ta lại hình thành thói
quen đó, hiện tôi chưa giải thích được. Chỉ tạm thời hãy ghi nhận là
chắc nó có chút liên hệ với loại tính cách lưu manh trong các làng quê
VN cũ, mà Nam Cao từng nhắc tới trong Chí Phèo :

Ngay ở đoạn mở đầu của truyện ngắn, tác
giả đã viết về một cơn say đồng thời là một cơn chửi của anh Chí. Đối
tượng của cái mạch chửi ấy được kê ra lần lượt như sau:

1/chửi trời

2/ chửi đời

3/ chửi cả làng Vũ Đại.

Sau cùng , tới điểm dừng lại

4/ chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn.

Nghiên cứu về bộ máy thống trị và tầng lớp thống trị phải là một bộ phận của lịch sử

Trong bài báo Thứ bậc Việt Nam trên bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu: Báo động đỏ in trên Tia sáng
27/07/2012 , tôi thấy người ta đưa ra một nguyên tắc: trí tuệ của một
cộng đồng trước tiên là ở cách tổ chức nhà nước và xã hội của cộng đồng
đó .

Chứ không phải trí tuệ một dân tộc chỉ
hàm ý trong tập hợp đó có nhiều người làm toán giỏi hoặc lý luận giỏi
như nhiều người ở ta vẫn hiểu.

Các sách nghiên cứu về văn hóa Trung quốc mà tôi đọc được đều có phần mở đầu nói về văn hóa quyền lực của nước này.

Các bộ lịch sử cổ ở ta cũng chép khá kỹ
về việc triều chính tức là việc quản lý xã hội mà nói theo thuật ngữ xưa
nay vẫn dùng tức là việc cai trị .

Chỉ đến các bộ lịch sử sau 1945 điều này
mới được chép một cách sơ sài nếu không nói là lảng tránh. Có vẻ như để
nhấn mạnh rằng cái chuyện cai trị là cũ rồi, thời nay  không ai cai trị
ai cả.

Sử viết trong 30 năm đất nước mải làm
chiến tranh thì viết như thế là có lý. Để làm cho mọi người có ảo tưởng
rằng mình là chủ của xã hội này rồi hết lòng mà chiến đấu.

Nhưng nay đã sang thời lo làm ăn kinh
tế, và rộng hơn là tổ chức lại xã hội, lẽ nào lại không quay về nghiên
cứu quy trình cai trị của các thời trước, từ đó rút ra quy luật soi sáng
việc tìm hiểu thời nay.

Trong tình hình phát triển của khoa học xã hội hiện đại, nhân học đang đóng vai trò trung tâm.

Theo tinh thần ấy, chắc chắn các công trình nghiên cứu lịch sử cai trị xã hội ở VN, ít ra phải gồm hai bộ phận:

– cách tổ chức bộ máy và nguyên lý vận hành của bộ máy.

– con người hoạt động trong các bộ máy đó.

Trong phần tiếp theo đây, tôi sẽ nói có chút kỹ hơn về việc làm vua của Lê Long Đĩnh.

Lần này hãy tạm dừng lại ở phần tạm gọi là tính cách cá nhân của nhân vật này.

Trở lại chuyện nêu lên lúc đầu. Lâu nay,
chẳng những không nghiên cứu về các loại hôn quân bạo chúa mà các nhà
làm sử VN cũng không hề tính chuyện nghiên cứu về cá nhân con người
thuộc về tầng lớp cầm quyền này nói chung.

Tại sao, lý do một phần là vì người ta
cho rằng nhân dân thì bao giờ cũng tốt đẹp, còn giai cấp thống trị – mà
bao giờ cũng bị gán cho nhãn hiệu tàn bạo xấu xa – thì không phải là
người VN, họ không tiêu biểu cho cộng đồng người Việt nói chung.

Có biết đâu, trong xã hội học thời nay,
bên cạnh tầng lớp trí thức, lớp người quản lý nắm giữ quyền lực điều
hành xã hội luôn luôn được coi là bộ phận đặc tuyển, có tính chất tinh
hoa. Cần nghiên cứu để qua họ thấy chân dung của cả cộng đồng nói chung.

Sẽ có người hỏi ừ thì nghiên cứu về việc
cầm quyền là cần chứ moi móc vào những thói xấu trong tâm lý và đi vào
sinh hoạt hàng ngày của người ta làm gì?

Để trả lời, xin chép lại một chi tiết nữa trong đoạn nói về Lê Long Đĩnh ở các sách sử.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi Mỗi
khi ra chầu, [vua] tất sai bọn khôi hài chầu hai bên, vua có nói câu gì
thì người nọ người kia nhao nhao pha trò cười, để cho loạn lời tâu việc
của quan chấp chính
.

Tức là nhà vua coi việc triều chính chỉ là một thứ trò đùa, quan lại dưới quyền chỉ là một lũ tay sai mạt hạng.

Cách chủ trì việc nước như thế chắc chắn chỉ có ở một kẻ hỗn loạn nhân cách như đã dẫn ở trên.

Cơ sở phương pháp luận

Muốn phác họa bộ mặt quyền lực ở VN, lẽ
ra anh phải đi vào những điển hình như Lê Thánh Tông chứ sao lại dừng
lại ở một “nhân vật tiêu cực” như LLĐ? Để trả lời câu hỏi này, tôi muốn
nhắc lại một nguyên tắc của nghiên cứu khoa học hiện đại. Là người ta
không dừng lại ở cái trung bình, nhất là cái đa số tức cũng là cái phổ
biến. Mà lại lấy cái thiểu số – cái đột biến – cái bên ngoài hình như là
ngoại lệ chứ không phải thông lệ — làm đối tượng.

Như sau đây sẽ thấy, trong Lê Long Đĩnh
cũng mang những đặc điểm chủ yếu của tầng lớp thống trị xã hội thời đầu
lập quốc. Do đa số xuất thân từ thủ lĩnh quân sự, nên họ chẳng có bài
bản gì trong quản lý xã hội, chỉ có lấy bạo lực để cai trị. Về phương
diện này thì tính cách điển hình của vị vua độc đáo LLĐ hoàn toàn được
bảo đảm.

Giải thích thêm về tính cách LLĐ

a/ Trong bài trước, ta đã thấy LLĐ bộc
lộ tính cách tàn bạo trong việc xử tội. Nhưng vì sao có tính cách ấy?
Việc này có từ thân sinh ông ta – Lê Hoàn.

Sách Lịch sử Việt Nam thuộc Tủ sách Đại học sư phạm, dẫn lại lời của sứ nhà Tống là Tống Cảo, cho thấy Lê Hoàn xử tội rất tùy tiện


“tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết
đi, hoặc đánh từ 100 roi đến 200 roi. Bọn giúp việc ai hơi có điều gì
làm phật ý cũng bị đánh từ 30 đến 50 roi, truất làm tên gác cổng, khi
hết giận lại gọi về cho làm chức cũ” ( LSVN của ĐHSP in 1970, nxb Giáo
dục, q.I, tập II, tr 89).

Trước đó Đinh Bộ Lĩnh cũng có tính cách tương tự. Sách Lịch sử VN từ nguồn gốc đến thế kỷ XI X
của Đào Duy Anh chép có lần một sứ quân đánh ĐBL, ông phải đưa con là
Đinh Liễn làm con tin. Bên kia buộc Liễn lên ngọn cây rồi bảo ĐBL nếu
không hàng sẽ giết Liễn. ĐBL không chịu, cho thói quyến luyến con cái là
tính khí đàn bà. Liền sai mười tay nỏ chờ sẵn, nếu bên kia cứ quyết làm
sẽ bắn chết luôn Liễn. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn thấy Đinh Bộ
Lĩnh đã cương quyết và nhẫn tâm như thế, giết Liễn cũng vô ích, thả Liễn và rút quân về.

b/ Bên cạnh chất tàn nhẫn, LLĐ còn bị coi là người hoang dâm vô độ.

Nhưng đọc sử được biết Lê Hoàn cũng sống hoang phí đến mức có tội. Cả Đại Việt sử ký toàn thư lẫn Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB ) đều chép Lê Hoàn cho xây cung điện dát vàng dát bạc.

Và Lê Hoàn cũng ham chơi. Khái quát về Lê Hoàn, sách ĐVSKTB tr 178 chép:


Vua anh minh quả quyết nhiều
mưu trí giỏi dụng binh[… ]. Song tính nghiêm khắc tàn nhẫn, ưa người
nịnh hót[… ].Quần áo phần nhiều chuộng lụa hồng, mũ thì trang sức bằng
châu báu. Dinh thự vua ở xa hoa tráng lệ nhưng cảnh thự của các quan,
doanh trại của sáu quân lại chật hẹp mộc mạc. Sứ Tống mỗi lần sang ta
thường chê cười về điều đó.

Cũng sách trên ở tr. 173 viết:



Năm 992, vua ngự điện Càn Nguyên xem đèn. … nếu trong cung lợp ngói bạc, thì khi vui chơi, trên thuyền vua cho kết núi tre.

Chắc trong thực tế đây là việc rất xa hoa nên một trong những tác giả sách trên là Nguyễn Nghiễm bình luận Lửa ham muốn bùng lên mà xương tủy dân đã kiệt. Thế mà không tự xét đức hạnh còn có tính trẻ con..

Tóm lại do chỗ gần với Lê Hoàn và cả ĐBL
— nên LLĐ hiện ra như một mẫu người đã hình thành. Các cá tính của ông
ta không chỉ tiêu biểu cho một vị vua thời mạt vận mà là một tính cách
phổ biến với các người đứng đầu quốc gia trong thời kỳ triều chính mới
thành lập.

Một nền cai trị hoang dại

Sự tàn bạo của các vua chúa lúc này mang
cả vào trong việc quản lý quốc gia. Văn hóa cai trị của nhà cầm quyền
còn thô sơ, đại khái găp đâu làm đấy, chẳng ra thể thống gì cả; nhân
danh người có công với nước, tự coi ý mình là ý trời, bắt thiên hạ phải
noi theo.

1/ Điều này khởi đầu từ nhà Đinh. Sách LSVN ĐHSP nói trên, phần đời sống chính trị cho biết thời
Đinh Lê chưa có luật pháp. Mọi hình phạt đều tùy ý của vua hay các viên
tướng đứng đầu các khu vực. Đinh Bộ Lĩnh đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi
hổ dữ trong cũi và quy định: người nào trái phép sẽ bị bỏ vạc dầu hay
cho hổ ăn.
( tr 87).

ĐDA giải thích về việc này “Nước mới dựng kỷ cương chưa vững, trật tự chưa ổn định, ĐBL lấy hình phạt ghê gớm để uy hiếp nhân dân.”

Hoàng Xuân Hãn nhìn rộng hơn. Trong cuốn Lý Thường Kiệt nhân viết về thời Lý, nhìn lại thời Đinh Lê, ông giải thích “Các
vua vũ biền các đời trước đã đem những thói giết chóc thời loạn ra thi
hành ở thời bình. Những cực hình dùng hàng ngày chứng tỏ rằng các vua ấy
còn giữ tập tính của người rừng rú
”.

2/ Trong việc chinh phạt và ổn định tình hình xứ sở, Lê Hoàn càng tỏ ra tàn ác.

ĐVSKTB mà Ngô Thì Sĩ là một tác giả chính chép: Năm
989, Dương Tiến Lộc làm phản lôi kéo người hai châu Hoan Ái, theo về
Chiêm Thành nhưng Chiêm Thành không nhận, người hai châu bị giết không
biết bao nhiêu mà kể.


Ngô Thì Sĩ bình luận “người làm phản chỉ là Tiến Lộc thôi dân có tội gì” do đó chê Lê Hoàn là người thất đức.

“Người đã có công chống ngoại xâm, lấy
lại đất nước từ tay giặc, sẽ tha hồ muốn làm gì dân thì làm” –người đời
sau là chúng ta có quyền ngờ những ý tưởng ấy đã nẩy sinh trong trong
tâm trí Lê Hoàn, nó khiến cho ông dám giết người không ghê tay như vậy.

Nền hành chính quá thô sơ

Trên kia đã dẫn đoạn Lê Hoàn đối xử với những người dưới quyền,

Người nêu nhận xét này đầu tiên là Tống
Cảo, viên sứ thần TQ. Tống Cảo còn viết thêm về việc tiếp sứ của Lê Hoàn
(người đầu tiên dẫn ra sự kiện Tống Cảo là Nguyễn Văn Tố– xem Đại nam dật sử , in lần đầu trên Tạp chí Tri Tân 1943-44)


Lê Hoàn bỏ giày đi chân
không, cầm ngọn tre lội xuống nước để đâm cá; mỗi khi trúng một con cá
thì những người chung quanh đều hò reo nhẩy múa. Phàm có người dự ngồi
trong tiệc yến đều sai cởi đai đội mũ. Lê Hoàn nhiều áo sặc sỡ và áo đỏ
mũ thì dát ngọc chân châu, có khi tự hát để mời. Chẳng ai hiểu là hát
bài gì. […]Quân lính đến ba nghìn người đều chạm ở trán ba chữ “thiên tử
quân”.Tính số thóc cấp cho giã lấy mà ăn. Binh khí chỉ có cung nỏ bài
gỗ, súng tay, ống lệnh, yếu không thể dùng được. Lê Hoàn là người khinh
suất tàn nhẫn, gần gũi bọn tiểu nhân tâm phúc có năm bẩy bọn yêm thu (?)
đứng lẫn ở bên cạnh khi uống rượu lấy hiệu làm vui. Phàm quen thuộc
người nào khéo nịnh được cất nhắc chỗ thân cận. Dầu người tả hữu có lỗi
nhỏ cũng giết, hoặc lấy roi đánh vào lưng từ một trăm đến hai trăm roi.
Dầu đến mạc tán ( tôn làm thầy hoặc làm khách ở trong nhà) hoặc tá tiểu (
người kém mình một tí) mà bất như ý cũng đánh ba mươi roi truất làm hôn
lại (người canh cửa) khi hết giận lại triệu cho phục chức. (Đại nam dật sử, bản của Hội khoa học lịch sử VN, H. 1977  tr.247)

Các sử gia cổ Trung quốc có lối miêu tả cụ thể ngắn gọn mà khái quát. Như viết về xứ ta hồi ấy, Tư Mã Thiên viết rằng “Tây Âu Lạc là xứ cởi trần mà cũng xưng vương” ( theo LSVN đã dẫn, qI tI. tr.115).

Những chi tiết Tống Cảo nêu lên ở trên
 cũng có sức khái quát đủ cho ta hình dung ra con người và thực chất
công việc làm vua của Lê Hoàn. Nó cũng có gì tương tự như việc LLĐ thiết
triều -mọi chuyện đùa bỡn đã nêu ở bài trước,

Bây giờ nói về việc LLĐ cướp ngôi của anh

Ở những xã hội chưa có văn hóa chính trị, việc chuyển giao quyền lực luôn luôn rắc rối, và thường dẫn đến đổ máu.

LLĐ đã lên ngôi không phải do vua cha Lê Đại Hành sắp đặt mà theo con đường bất chính là cướp ngôi.

Tức là giết anh cả và chinh phục sự chống đối của mấy ông anh kế tiếp.

Nhưng hai chữ cướp ngôi cũng là chữ mà ĐVSKTB dùng cho Lê Hoàn ( tr.162).
Chẳng những thế, nếu đọc kỹ sự kiện nhà Tiền Lê thay thế nhà Đinh,
người ta còn cho thấy ở đây có một âm mưu. Khi tìm hiểu về quan hệ giữa
các triều chính Đinh Lê với người phương Bắc, chúng ta sẽ gặp một người
Trung Hoa làm đến Thái sư, gọi là Hồng Hiến. Ông này về sau làm tham mưu
cho Lê Hoàn nhưng trước đó đã giúp vào việc đưa Lê Hoàn lên ngôi.(Chứ
đâu phải đây chỉ là kết quả của cái tấm lòng yêu nước của bà Dương Vân
Nga, như sử ngày nay hay nói.)

Nhân đây nói về một cách chép sử xưa. Tức
là xét người theo tinh thần dân gian được làm vua thua làm giặc. Ai
thắng thì được khoác cho đủ thứ danh nghĩa tốt đẹp và tha bổng cho mọi
thói xấu. Vua thế mà dân cũng thế. Làm như để sống được, con người ta
chỉ cần có lòng yêu nước thôi, không cần gì khác.


Mà sử ngày nay cũng đi theo vết xe ấy.

Một chính quyền có tính quân sự. Khoảng trống của học vấn

Trở lại với LLĐ. Ông vua 24 tuổi này là minh chứng cho những khái quát về các nhà cầm quyền quân sự mà sử xưa đã miêu tả: Tàn nhẫn dữ tợn kiêu căng. Và nhất là vô học ( chữ của Việt sử thông giám cương mục.)

Ngoài hành động cướp ngôi và đánh giặc ông này cũng có vài hoạt động khác.

Đại Việt Sử ký toàn thư ghi Bọn
Ngô đô đốc, Kiểu Hành Hiến dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng cột
bia ở Ái Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp từ
cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung.

Vua đi Ái Châu, đến sông Vũ Lung. Tục
truyền người lội qua sông này phần nhiều bị hại, nhân thế vua sai người
bơi lội qua lại đến ba lần, không hề gì. Xuống chiếu đóng thuyền để ở
các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.

Nhưng hoạt động quân sự vẫn mạnh hơn cả.

Trên kia đã dẫn câu của Hoàng Xuân Hãn “Các
vua vũ biền các đời trước đã đem những thói giết chóc thời loạn ra thi
hành ở thời bình. Những cực hình dùng hàng ngày chứng tỏ rằng các vua ấy
còn giữ tập tính của người rừng rú“.


Câu này do Nguyễn Hữu Châu Phan dẫn lại trong cuốn Xã hội nhà Lý nhìn dưới khía cạnh pháp luật ( Sùng Chính Tùng thư Huế 1971 tr 22)

Chữ võ biền này từng được nhắc tới trong lịch sử.

ĐVSKTB( tr 165) cho biết ĐBL cũng là
loại “vũ lược có thừa mà học vấn không đủ, gần gũi bọn tiểu nhân, say
đắm vui chơi yến tiệc”

Từ Lê Long Đĩnh có thể rút ra kết luận

— Bộ phận nắm giữ quyền lực và kéo cả cộng đồng theo mình lúc này là các đầu lĩnh các võ tướng.

– Ra đời trong thế yếu nên ngay từ đầu
chính quyền lập nên cũng chỉ lao vào việc đánh dẹp để tạo ra sự ổn định
luôn luôn là tạm thời, các đầu lĩnh trở thành người có quyền sinh quyền
sát quá lớn.

– Đất nước chỉ được tổ chức như một đạo quân mà không tính chuyện hình thành một xã hội.

NHCP bảo việc dùng các loại “luật pháp” rừng rú là dấu hiệu của các quốc gia chưa hình thành.

Đặt cách tổ chức chính quyền theo kiểu quân sự trong văn hóa cai trị

Theo sách Các nền văn minh thế giới– lịch sử và văn hóa
( bản tiếng Việt 2008) của các tác giả Philip Lee Ralph, Edward McNall
Burns, thì đây là một kiểu dựng nước trong thế yếu và tình trạng chung
là lạc hậu.

Sách này cho biết kiểu thống nhất xã hội
 ở Trung Quốc thời cổ đã là nhờ chính quyền. Nhưng chính quyền ở TQ
ngay từ thời ấy đã biết nâng việc cai trị lên đến mức thành một văn hóa.
Khổng tử Mạnh tử  đừng nói Hàn Phi tử đều nói rất nhiều tới việc cai
trị

Vẫn theo sách trên quá trình chuyển sự cai trị từ quân sự sang dân sự ở Trung quốc kéo dài nhiều đời.

Thời nhà Thương xã hội nông nghiệp được
giai cấp quý tộc là các chiến binh cai trị. Đại sự quốc gia là tế lễ và
tổ chức lực lượng quân sự.

Nhưng sang đời Đường, các hoàng đế không
cai trị như kẻ chuyên chế quân sự mà duy trì sự khác biệt giữa dân sự
và quân sự một khoảng cách đáng kể. Chỉ trong giai đoạn suy yếu các nhà
lãnh đạo quân sự mới nắm chính quyền.

Vào đời nhà Đường người Trung Hoa đã tin chắc rằng các chế độ quân sự không hợp với các quốc gia có chuẩn tắc và văn minh. (Sđ d tr 405)

Xã hội đời Đường sắp xếp theo thang bậc năm cấp – sĩ nông công thương binh. Binh ở hạng cuối được gộp chung với kẻ ăn xin trộm cướp. Một câu tục ngữ thường được người đương thời trích dẫn ´sách tốt không dùng làm đinh, người tốt không dùng làm binh” ( như trên tr 407)

Theo các tác giả Các nền văn minh thế giới lịch sử và văn hóa, đánh giá như thế tức là quý trọng trí tuệ, biết dùng trí tuệ khống chế bạo lực, không coi trọng những nghề không sinh lợi.

Trong các công trinh nghiên cứu của một trí thức Trung quốc hiện đại là Lâm Ngữ Đường, người ta thấy ông luôn nhấn mạnh:

– TQ trải qua chiến tranh nhưng không
hướng tất cả nghị lực và sức mạnh cộng đồng vào chiến tranh. Họ chỉ sử
dụng võ lực trong trường hợp cần thiết và trong một thời gian ngắn. Giai
cấp thống trị hiểu rằng để đưa đất nước phát triển thì cần có văn – văn
với ý nghĩa toàn bộ tri thức khoa học xã hội và kiến thức kinh tế

– Ngay cả trong thời loạn lạc, người dân TQ không cảm thấy thèm một vị tướng tài bằng một người hiền tài có thể hướng dẫn họ ra thoát tình trạng chinh chiến.

Giới cầm quyền ý thức được rằng chỉ có trí tuệ mới có thể thuyết phục được tất cả, bằng trí tuệ mới quản lý được mọi người

Ở ta không phải các nhà làm sử thời nay không biết điều này.

Họ hiểu những chính quyền đầu tiên hình
thành ở VN thời cổ đều có tính chất quân sự. Thoát thai ra từ thế lực
chống ngoại xâm, bộ phận ưu tú trong xã hội  chủ yếu là các đầu lĩnh.
Hơn nữa chỉ là những đầu lĩnh nhỏ người nọ diệt người kia mà lớn lên
dần.

Và họ hiểu lẽ ra cách quản lý đó phải thay đổi.

Giải thích về việc nhà Tiền Lê mất vào tay nhà Lý, sách LSVN đã dẫn viết “Tập đoàn phong kiến Tiền Lê đại biểu cho thế lực phong kiến quân sự về cơ bản đã làm xong sứ mệnh của mình” ( q.1, t II, tr 98).

Nhưng để làm tròn nhiệm vụ phục vụ tuyên
truyền chính trị trước mắt, các nhà lịch sử đương thời vẫn có xu hướng
coi việc lấy được đất nước là tiêu chuẩn chính để đánh giá các chính
quyền nối tiếp trong lịch sử.

Cách tổ chức chính quyền theo kiểu quân sự là đặc tính kéo dài của xã hội VN suốt gần chục thế kỷ:

– Bằng cách sử dụng những ràng buộc có ý
nghĩa tôn giáo, nhà Lý là một sự từ bỏ vai trò của võ tướng thời Đinh –
Lê và  trong việc ổn định xã hội, dành cho tôn giáo một vai trò lớn
hơn.

– Nhưng chính quyền nhà Trần thì đặc sệt quân sự.

– Đầu nhà Lê, quan võ loại Lê Sát vẫn át quan văn loại Nguyễn Trãi.

Mọi cố gắng của Lê Thánh Tông – ông vua
thuộc loại chăm lo xây dựng xã hội dân sự nhất ở ta – rút cục chỉ dẫn
tới  tình hình một xã hội rối ren thối nát thời Lê  Mạc, tiếp theo là
thời Lê Trung hưng mà  nội dung chính là nền độc tài quân sự giấu
mặt của họ Trịnh.

Do ẩn mình sau cái mặt nạ phù Lê, không làm nhân vật số một mà chỉ đóng vai số hai,  nền
độc tài  đậm chất võ biền này kéo dài tới gần 200 năm. Nhà nghiên cứu
Cao Tự Thanh đã rất có lý khi gọi hình thái vua Lê chúa Trịnh là môt sự
báng bổ đối với đạo Nho.

-Để hiểu bộ máy cai trị đậm chất quân sự
của nhà Nguyễn khi mới lấy lại đất nước, chỉ cần nêu lên một chi tiết:
trong khi triều đình đóng đô ở Huế thì Nam Bắc mỗi miền được gộp lại
quanh những trung tâm quân sự là Gia Định thành và Bắc thành.

Người đứng đầu các trung tâm này là các
Tổng trấn, tức là các vị chỉ huy quân đội. Tổng trấn Bắc thành lúc đầu
là Nguyễn Văn Thành và của Gia Định thành là Lê Văn Duyệt.

Lịch sử VN như vậy là đi theo vết xe của
các triều Ngô Đinh Tiền Lê thời đầu dựng nước . Và trước khi Pháp sang,
nền hành chính VN chỉ mới bước thấp bước cao trên con đường dài dặc là
trở thành một bộ phận trong cái xã hội dân sự theo đúng nghĩa.

II/ Trường hợp Trần Khánh Dư – Vừa là người anh hùng có công vừa là viên quan cai trị có tội


 Trong phần trước, tôi
đã nói tới trường hợp những người anh hùng thời mới dựng nước, nhân có
công đánh thắng giặc ngoại xâm, khi trở thành vua chúa, tự giành cho
mình cái quyền đối xử hết sức tàn tệ với nhân dân.

Bài này nói về một trường hợp muộn hơn vào đời Trần và trong một tình thế gần hơn với chúng ta thời nay.
Một cuộc đời nhiều thăng trầm


Trần Khánh Dư (không
rõ năm sinh, mất năm 1339), thường được biết tới như một trong những
công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.

Sách Đại việt sử ký toàn thư ( bản của NXb KHXH 1985, t. II tr.58), dưới đây gọi tắt là Toàn thư
ghi, trong cuộc chống quân Nguyên lần hai, ông được giao giữ vùng biển
phía Bắc, nhưng không chặn nổi quân giặc, bị Thượng hoàng Trần Nhân Tông
sai người xiềng giải về kinh. Khánh Dư xin hoãn, sau tập trung tàn quân
ta đánh đoàn hậu cần của địch, bắt được hết lương thực khí giới của
chúng, nên được tha tội.

Trước chiến công đánh
chặn quân lương nói trên, trong việc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ
nhất, Trần Khánh Dư còn có nhiều công trạng khác, nên từng được phong
tước cao như phiêu kỵ tướng quân có lúc được phong tước tử phục thượng vị hầu, quyền chức phán thủ.

Ngoài những thắng thua trong hoạt động quân sự, đời ông còn cả những thăng trầm trên phương diện quan chức.

Điểm thấp nhất trong
bước đường công danh của ông xảy ra trước chiến tranh 1285. Do thông dâm
với công chúa Thiên Thụy, con dâu Trần Quốc Tuấn, ông bị vua Thánh Tông
sai người đánh thật nặng, đoạt hết quan tước và tịch thu toàn bộ tài
sản. Khánh Dư lui về Chí Linh, theo chữ của Toàn thư là “cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than”.

Nhờ chiến tranh mà ông được phục chức.

Toàn thư (sđ d
tr46) kể bấy giờ vua Nhân Tông họp các quý tộc ở bến Bình Than bàn kế
chống giặc. Khi đó, nước triều rút gió thổi mạnh có chiếc thuyền lớn chở
than củi, người trên thuyền đội nón lá mặc áo ngắn. Vua nhận ra là Trần
Khánh Dư, sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Quân hiệu gọi, bảo có
lệnh vua triệu, người bán than trả lời “Lão là người buôn bán có việc gì
mà phải triệu?”. Vua biết chỉ Trần Khánh Dư mới dám nói thế, liền tiếp
tục cho gọi đến, cùng ngồi bàn việc nước. Thấy rất hợp nên khôi phục
chức phó tướng hồi trước.

Câu chuyện cho thấy
Trần Khánh Dư là một con người ngang tàng có bản lĩnh, dám chấp nhận mọi
hoàn cảnh. Ngoài tri thức quân sự ông đã sớm làm quen với cuộc đời
thường kể cả việc kinh doanh.
Nhân danh chiến đấu chống ngoại xâm để làm giầu


Nhà Trần vốn là một dòng họ bên đất Mân truyền sang (sđd t. II, tr 5) cướp ngôi nhà Lý mà thành. Wikipedia
tiếng Việt còn ghi rõ tổ tiên của nhà Trần có nguồn gốc ở quận Tần
Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Những người đầu tiên từ Phúc Kiến sang
Việt Nam vào khoảng năm 1110.

Trong guồng máy chính quyền lúc ấy, các văn quan, các nhà quản lý có vai trò kinh bang tế thế
là một cái gì xa lạ. Việc quản lý từ Trung ương đến địa phương trong
tay người trong hoàng tộc cũng tức là các tướng lĩnh quân sự.

Trần Khánh Dư sớm được xếp một vai phụ mẫu chi dân.

Trên cương vị này, người anh hùng của chúng ta hiện ra là người thế nào ? Toàn Thư ( sđd tr 59) viết :


Khi Khánh Dư làm trấn
thủ Vân Đồn, tục ở đấy lấy buôn bán làm nghề nghiệp sinh nhai, ăn uống
may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo đồ dùng theo
tục người Bắc. Khánh Dư duyệt quân các trang ra lệnh” Quân trấn giữ Vân
Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc sợ khi
vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi ( Ma Lôi là tên một
hương ở Hồng Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón , cho nên lấy
tên hương làm tên nón ) ai trái tất phải phạt. Nhưng Khánh Dư đã sai
người nhà mua nón Ma Lôi từ trước chở thuyền đến đậu trong cảng rồi.
Lệnh vừa ra, sai người ngầm báo dân trong trang: “Hôm qua thấy trước
vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu”. Do đó người trong trang nối gót
tranh nhau mua nón, ban đầu mua không tới một tiền, sau giá đắt bán một
chiếc nón giá một tấm vải. Số vải thu được tới hàng ngàn tấm. Thơ mừng
của một người khách phương Bắc có câu Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh
( “Vân Đồn gà chó thẩy đều kinh” ) là nói thác phục uy danh của Khánh
Dư, mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Khánh Dư tính tham lam thô bỉ,
những nơi ông ta trấn nhậm, mọi người đều rất ghét.

Đoạn sử nói trên cho thấy:


1/Tình trạng phụ thuộc của xứ ta vào “nước lạ” phương Bắc, càng những miền gần cận biên giới càng phụ thuộc nặng.

2/ Thực trạng công việc quản lý của các nhà quân sự thời Trần.

Toàn bộ hoạt động xã
hội lúc ấy dồn vào việc tự vệ chống giặc. Trong khi chuẩn bị chiến đấu
lâu dài, người chỉ huy phải có toàn quyền hành động, từ đó dẫn đến sự
lợi dụng quyền lực.

Tại sao nên dùng nón Ma Lôi? Là để phân biệt ta với địch. Lệnh thời chiến ai mà dám trái!

Nếu chú ý tới chi tiết
Trần Khánh Dư cho người đi phao lên rằng thuyền chở nón đã đến để người
ta đổ đi mua, thì nói như chúng ta ngày nay, tức là toàn bộ hệ thống
chính trị được huy động để phục vụ cho việc kiếm lợi của viên tướng thạo
đời này.

Trường hợp của Trần
Khánh Dư cũng là trường hợp của nhiều vị anh hùng khác, chẳng qua sử xưa
không nói thì chúng ta nay không biết .

Lâu nay ta chỉ nghĩ
ông là người anh hùng có công. Nhưng phải nhận, trên cương vị người quản
lý xã hội viên quan cai trị dân, người trấn nhậm vùng Vân Đồn lại hiện
ra như một kẻ có tội.

Ông tự dành cho mình cái quyền lừa dối nhân dân để kiếm lợi riêng.

Hơn nữa nên biết đó là
điều nằm trong quan niệm làm quan (= cai trị) của ông, chứ đây không
phải một hành động ngẫu nhiên bị ai xui bẩy. Chính Toàn thư cũng
đã ghi một câu thuộc loại “lời nói có cánh” của ông. Đời vua Anh Tông,
tiếp theo Nhân Tông, người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình,
nhưng ông không sợ mà còn tâu vua: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt,
dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ ? ”. (S đ d, tr 72)
Có công là một chuyện sử dụng trong cai trị là chuyện khác


Sử học dạy ở các nhà
trường hiện nay là thứ sử học soạn ra từ hồi chiến tranh, khi mọi ngành
học đều phải hướng vào việc đưa thanh niên đi chiến đấu. Những đoạn vân
vi về Trần Khánh Dư có lỗi thường không được cho học sinh biết.

Tôi cũng ở vào tình
cảnh vậy. Mãi chục năm trước khi về hưu, mới ngộ ra, quyết dành nhiều
thời gian cho sử, với nghĩa tìm thêm những bài học của ông cha khi sống
trong thời hậu chiến. Nên nhặt lại được câu chuyện Trần Khánh Dư.

Những chi tiết trên lại gợi ra nhiều suy nghĩ có liên quan tới đời sống xã hội hiện nay.

Cũng như Trần Khánh Dư, người anh hùng mà
cuộc chiến tranh ở ta sản sinh ra thực ra cũng không phải là những kẻ
siêu phàm. Thời thế đã tạo ra họ với tất cả những chỗ mạnh chỗ yếu rõ
ràng mà do yêu cầu hoàn cảnh, ta thường quên đi những chỗ yếu mà chỉ nhớ
tới những chỗ mạnh.

Cũng như Trần Khánh
Dư, sau chiến tranh cả thế hệ anh hùng thời chống Mỹ lại tự đứng ra chia
nhau quản lý các công việc mà trước đó họ chưa từng làm quen.

Điều đáng nói là do đã
trải qua chiến tranh, nay họ không muốn học nữa, mà cũng không cần cái
 tiếng tử tế nữa. Chỉ lo làm giàu thật nhanh để bù đắp lại những vất vả
hy sinh mà họ đã gánh chịu trong chiến đấu.

Tôi cho đó là nguồn
gốc của những tai vạ trong xã hội hiện nay, khi mà việc làm ăn đều đình
đốn và con người thì ngày càng lưu manh sa đọa.

 Không phải riêng tôi mà những người có quan tâm tới thế sự đều nói như vậy.

Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê
ở chương XXI (bị tước bỏ khi in trong nước) có đoạn bàn về việc dùng
người ở xã hội ta hiện nay. Ông rất hiểu rằng nay là thời sau chiến
tranh nên những người được ưu tiên thường là những người có công trong
chiến tranh mà lại kém chuyên môn. Còn người có thực tài mà không có
“quá khứ anh hùng “ thì cũng bị cho ra rìa. Và ông cho rằng như thế là
nhầm là có hại.

Mở rộng ra, Nguyễn
Hiến Lê bàn đến cả sự khác nhau giữa thời chiến và thời bình cùng là
cách sử dụng người có công thế nào. Cả sách vở Trung Hoa cổ cũng ông
viện dẫn ra để làm chứng.

Kinh Dịch, quẻ Sư,
hào 6, cũng đã khuyên ta khi chiến thắng rồi, luận công mà khen thưởng
thì kẻ ít học, dân thường tuy có tài chiến đấu, lập được công, cũng chỉ
nên thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, vì công
việc kiến thiết quốc gia phải là người có tài, có đức mới gánh nổi.


Rồi cả kinh nghiệm các nước khác trên thế giới:

Nước Anh sau mấy năm
thế chiến rồi cũng chỉ thưởng tiền cho các danh tướng; chẳng những vậy,
năm 1945, khi chiến tranh chấm dứt, họ thay cả viên Thủ tướng, cho
Churchill về vườn, mặc dầu ông có công nhất trong việc cứu quốc, diệt
Đức; như vậy chỉ vì chính sách thời bình khác thời chiến, nên phải dùng
người khác.
Khác nhau trong sự thương dân


Toàn thư (sđd
tr 56) có ghi lại một chi tiết năm Ất Dậu 1285, mùa đông tháng mười
[vua] xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân vừa qua
lao khổ, định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói:”Chỉ có
thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét tình trạng hao
hụt điêu tàn của dân hay sao?” Quần thần đều khâm phục.

Các nhà sử học chắc dựa vào đoạn này để viết các vua nhà Trần thương dân, luôn luôn biết lo cho dân.

Nhưng nên có sự phân biệt. Vua thương dân nói ở đây là Nhân Tông Trần Khâm trị vì từ 1278 -1293

Đoạn trên đã kể việc
Khánh Dư mắc tội thông dâm, vua lúc đó là Thánh Tông liền nổi trận lôi
đình, định đánh cho chết; sau có nghĩ lại thì cũng “sai người đánh thật
nặng, đoạt hết quan tước tịch thu toàn bộ tài sản, cho lui về Chí Linh
“cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than”.

Trở lại với câu nói
“có cánh” của Trần Khánh Dư mà ở trên tôi đã dẫn:“Tướng là chim ưng, dân
lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ ?”.

Toàn thư (sđd tr 72) ghi [nghe Khánh Dư nói vậy] “vua không bằng lòng”.Thế thôi. Và vẫn để Khánh Dư lui về nơi đang trị nhậm.

Vị vua về sau này là Trần Anh Tông, đã được Nhân Tông cho tập sự từ 1284, và chính thức lên ngôi khi Nhân Tông qua đời.

Có thể còn là vội vàng
khi nói Anh Tông đã thả cho quan chức tùy tiện lột da dân. Nhưng có
điều chắc càng về sau các vua càng nể nả với người có công và đã đặt lợi
ích của dòng họ cao hơn so với lợi ích của nhân dân. Cũng từ Anh Tông
trở đi, nhà Trần đi dần vào khủng hoảng, đưa đất nước từ đỉnh cao rơi
xuống vực thẳm.
Cuộc khủng hoảng của nhà Trần sau khi đánh thắng quân Nguyên

Trên con đường lấy lịch sử để giải thích
hiện tại, có một việc tôi đang muốn dành thời gian để  làm là đọc lại
sử nước mình những năm sau chiến tranh – ta hay gọi là hậu chiến.

 Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên, xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.

Dưới con mắt Đào Duy Anh 

     Trong cuốn Lịch sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX,  Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong nước.

      Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”

    Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.


     “Ngay năm 1290, sử đã
chép có nạn đói lớn [….] Sau khi đã ra sức tham gia kháng chiến trong
quân đội hay trong dân quân, người nông dân thấy đời họ không được cải
thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy làm bất bình mà đã rục
rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng bố, Trần Khâm ( tức
Nhân Tông—VTN ) lại nghĩ ngay đến việc dụng binh đối với các nước nhỏ
láng giềng  để đánh lạc hướng bất bình của nhân dân” (Sđd, bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002, tr. 258-259) 

Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh

 Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn  sử của Đào Duy Anh.

 Khốn thay là từ 1958 tới 1980, Đào Duy
Anh bị vướng vào vụ Nhân văn  nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên,
không được in lại. Tuy một số phương diện tư tưởng của ông có được các
học trò xuất sắc ở thế hệ sau … tiếp tục, nhưng thực tế là người ta càng
ngày càng xa rời cái chiều hướng mà Đào Duy Anh theo đuổi để đi vào một
thứ sử học đơn giản và vụ lợi, cốt phục vụ các mục đích chính trị trước
mắt.

Cũng may mà những năm trước 1975, tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.

Theo dư luận chung, một trong những cuốn xuất sắc nhất thời ấy là  Lịch sử chế độ phong kiến VN của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.

 Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ đành dựa vào bộ Lịch sử Việt Nam quyển I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970.





img_0008
















img_0009



 Ở  cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi người cùng biết.



Sau chương V nói về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, chương VII cuốn sử do Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.

Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác giả viết:


 “…ba năm chiến tranh ác
liệt chống chọi với kẻ địch nổi tiếng về tính chất cướp bóc và phá hoại
đã để lại những hậu quả quan trọng cho sản xuất và đời sống nông dân.
Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là những năm đói lớn, một thăng gạo trị
giá một quan tiền, nhiều người dân phải bán ruộng đất và con trai con
gái để lấy lương ăn.”(tr 258)

Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn không
ai lạ gì. Các nhà sử học tôi muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn
các nhà sử khác là không lảng tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải
miêu tả.

 Trong sự hạn chế của một nền sử học
viết trong hoàn cảnh 30 năm chiến tranh, họ dường như muốn cảnh báo
trước về những khó khăn mà con người hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu
đựng.

Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người
ta được biết những năm đó, nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của
quân Nguyên vẫn chưa hết.

 Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng
tôi hết sức ngỡ ngàng, đó là chỉ hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà
Trần đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía
Tây và phía Nam, tức Ai Lao và Chiêm Thành.

Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai Lao
thời ấy kéo dài hàng nửa thế kỷ ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm
Thành lại còn dây dưa lâu hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần
tiến hành ở Chiêm Thành là vào 1396 (tr.263).

 Các bộ lịch sử VN viết trong những năm
chiến tranh có thói quen ca tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông
cha ta đã tiến hành trong quá khứ.

  Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc chiến
tranh sang đánh Ai Lao của Trần Nhân Tôn  năm 1290 và 1294, các tác giả
của Khoa Sử trường Đại học Sư phạm đã vượt ra ngoài thói quen đó.

 Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.( Tr 259)

Nhìn lại cả  một thế kỷ chiến tranh ở
mặt trận Tây – Nam, các tác giả bảo rằng nó đã huy động “những khả năng
lớn lao của dân tộc” chỉ “để thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế
và quyền lực” của vua chúa thời ấy mà thôi( sđ d tr 263).

Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn mà
vua chúa thời ấy mắc phải,  các tác giả  Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức
Nghinh lại còn ghi lại một cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý
do giả tạo mà ông vua vừa chiến thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi
người làm theo ý mình.

Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy
tôi có người can ngăn rằng giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa
hàn gắn được, không nên gây việc binh đao, thì vua trả lời đại ý rằng
“sau khi giặc rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi
mệt, có ý coi thường, cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước
khác”.

Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm Thành,  các tác giả cho biết:


 “ từ 1361, quân nhà Trần
lui dần vào thế phòng ngự, chuyển cuộc  chiến tranh ở đất nước người về
đất nước mình, nhân dân lao động phải gánh chịu những thảm họa của chiến
tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”

 “…sức sản xuất bị đình trệ  và có lúc
bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn đói lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379
đã có 13 lần đói trầm trọng…(tr. 265)

 Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.

        Thăng bình là từ cũ nay ít dùng. Hán Việt tân từ điển
của Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975) lý giải là “lên cõi bình trị trên toàn
đất nước”, tiếp đó ghi lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ “Kìa hội thăng bình
tiếng pháo reo” làm dẫn chứng .

Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang
nói, tình trạng thăng bình — và nghĩa giản dị hơn là một cuộc sống yên
ổn — không đến với dân chúng.

Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân
Đại Việt muốn sau những năm chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm
thấy được trong cả thời gian rất dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr.
264).

Tại sao vậy? Tạm nêu  lý do:

a/ Bao trùm trong những người quản lý quốc gia là  tâm lý đắc thắng kiêu ngạo “ bụi Hồ không dám động”.

b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác về
thời cuộc, tầng lớp quí tộc cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho
phép mình rơi vào ăn chơi sa đọa.

 Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà Trần thời hậu chiến  là vô cùng bỉ ổi, bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi.

Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách có ý thức.

Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa” – trong một bải thơ  vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).

Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến.

Đây là thời Dụ Tông.

Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340), vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.

 Lịch sử Việt Nam của Lê Thành
Khôi viết ở bên Pháp từ 1950 và mới được dịch ở ta 2014, trong  chưa đầy
hai trang ngắn ngủi nói về sự suy tàn của nhà Trần ( tr 225-227), cũng
phải đề cập tới Trần Dụ Tông.

 Ông vua này được miêu tả là người “chỉ nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”

Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP,
thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào
hồ lớn ở vừờn ngự,  chất đá thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông
vào để làm chỗ vui chơi. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông
chở nước mặn về chứa vào hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).

Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những kẻ
bất tài khéo nịnh được thăng quan tiến chức, viên chính chưởng phụng
ngự Bùi Khoang giả vờ uống hết 100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr
264)

Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì Sĩ

Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.

Khi nói về các bộ cổ sử, người ta phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn.

Nhưng thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh mới.

Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780)
đã mang lại cho cổ sử những ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi
không rõ, và nhất là những bình luận độc đáo, mang dấu ấn một tư duy sử
học gần với con người hiện đại.

 Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang
nói, đọc vào cuốn của Ngô Thì Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn,
nên trong bài này tôi muốn cùng bạn đọc lần vào các trang  sử của người
thân sinh Ngô Thì Nhậm, với sự lưu ý trước rằng, nhiều chi tiết có thể
đã thấy ở cuốn Toàn thư, cũng như ở  Cương mục.

 Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.

Xin phép bắt đầu bằng cách  nói tạt ngang về một chuyện có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.

Gần đây báo chí nói nhiều tới việc Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.

Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn,
anh Trần Đĩnh —  bằng sự lịch lãm của một người đã qua sống qua ba chục
năm chiến tranh và hết sức thông thạo mọi đường ngang ngõ tắt của các
trung tâm quyền lực – đã giải thích với tôi, chắc là Nhân Tông thấy
chiến tranh khủng khiếp quá, nên tìm cách tách mình ra khỏi thời sự mà
suy nghĩ đấy thôi.

 Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!

 Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ lại bắt gặp một ý tưởng tương đồng.

Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân
Tông, tác giả ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra
trong hành động đi tu này vài ý nghĩa tiêu cực.

 Ngô Thì Sĩ viết


“Vua Nhân Tông tinh thông
kinh điển, vốn có giác ngộ, trong thiên hạ không vật gì đáng bận tâm.
Nhưng đường đường là đấng thiên tử mà ẩn náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm
hôm cùng một hai nhà sư trên núi không có hám của cải,  sống trong cảnh
thái bình cho đến hết đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu,
đưa cả thiên hạ vào giáo lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394
sđd) 



( còn tiếp )







1



2









3



4























 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 20, 2016 10:34

December 18, 2016

Bước ngoặt từ lớp viết văn Quảng Bá ( Xuân Quỳnh phác thảo một tiểu sử,chương IV)

                         

Giữa
núi rừng Việt Bắc, ngay từ 1950, sau khi Hội văn nghệ Việt Nam ra đời và  cho in tạp chí Văn
Nghệ
 , một  lớp học ngắn ngày  được gọi là  trường văn nghệ nhân dân cũng được thành lập.

Trường
do nhà văn Nguyên Hồng phụ trách và thu hút về mình một số tài năng văn nghệ
còn trẻ so với lúc ấy như: Bàn Tài Đoàn, Cẩm Lai, Nguyễn Kiên...


Cách
làm việc của trường là mời một số văn nghệ sĩ đến giảng, có tính cách truyền
nghề, sau đó, học viên sáng tác và góp ý kiến cho nhau.


một chi tiết vui vui, mà về sau nhà văn Nguyễn Kiên còn nhớ, đó là cuối khoá,
nhà trường hết gạo, “ông đốc” Hồng khóc hu hu mà đành lòng cho học viên về sớm,
so với dự định. Tuy vậy, nhiều học viên về sau cũng đã nên người và còn nhớ mãi "ngôi trường" từng theo học.

Từ
sau 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, nhiều trại viết đã được tổ chức như trại
viết anh hùng, trại viết về sửa sai và cải cách ruộng đất.

 Nhưng mãi tới 1962,
một lớp học tương đối quy mô hơn do Hội Nhà văn đứng ra tổ chức mới được hình
thành.

Lớp
 học kéo dài trong hai năm 1962-63.

Học
viên chủ yếu là các cây bút trưởng thành từ kháng chiến, như Bích Thuận, Cẩm
Lai, Nguyệt Tú, Vũ Thị Thường, Đinh Quang Nhã, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Vũ (sau
này đi B. và chiêu hồi), Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Trọng Oánh v.v...

So
với Trường văn nghệ nhân dân hồi nào, nét thay đổi quan trọng nhất ở lớp Quảng
Bá là tổ chức cho các học viên học khá kỹ về một số vấn đề văn học sử trong
nước và nước ngoài.

Dạy
văn học cổ điển Việt Nam có Hoài Thanh. Dạy tư tưởng triết học và văn học
phương Tây, là Đặng Thai Mai. Rồi Nguyễn Đình Thi giảng về tiểu thuyết, Nguyễn
Công Hoan, Nguyễn Tuân nói về văn xuôi, cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên giảng
về thơ.

So
với nhiều khoá học tương tự về sau, thì lớp Quảng Bá vẫn được coi là mẫu mực,
thày giỏi, trò chăm, và điều chủ yếu là hoàn cảnh thuận lợi: miền Bắc lúc ấy
còn đang trong không khí thanh bình, chưa có cái tình trạng - bảo là sôi nổi
gấp gáp cũng được, mà bảo là xô bồ nhộn nhạo cũng được - của những năm chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại về sau.

So
với các học viên phần lớn cứng tuổi trong lớp, thì Ngọc Tú và Xuân Quỳnh thuộc
loại trẻ nhất.

Ngọc
Tú từ một trường cấp 2 ở Hà Đông cũ tới học. Lúc ấy cô giáo bỏ nghề đang viết
truyện ngắn và sẽ chuẩn bị ra trường bằng tập tiểu thuyết mỏng, khoảng 200
trang, mang tên Huệ.

Còn
Xuân Quỳnh được học kỹ hơn về thơ.

Về
sau này, trong một vài lần trò chuyện với lớp bạn bè tuy cùng tuổi, cùng lứa
nhưng vào nghề có phần chậm hơn như bọn tôi, Xuân Quỳnh thường chỉ nói tới lớp
một cách qua loa. Đại khái toàn chuyện nghịch ngợm...

 Có những lần Quỳnh ăn mặc kiểu đàn ông, lấy
giấy bạc ở bao thuốc lá bịt răng, giả làm Tây, đi các phòng gõ cửa quấy phá ai
ra mở thì chạy. Hoặc một vài học viên lớn tuổi hơn muốn tìm thấy ở Quỳnh một
người bạn đời, nhưng Quỳnh lúc ấy đang yêu Lưu Tuấn, nên không mặn mà chút nào.

Nhưng
dẫu sao những ngày đi học vẫn là một bước ngoặt trong đời Quỳnh.

Lớp
học nằm trên một mảnh đất ven Hồ Tây, nhưng chính ra lại gần đê sông Hồng hơn.
Chiều chiều cơm nước xong, Ngọc Tú và Xuân Quỳnh rủ nhau vượt qua con đường
nhựa lên ngồi trên con đê, nhìn ra bãi sông.


Ngọc Tú bên cạnh, nhưng nhìn khoảng không bao la trước mắt, nghĩ đến đoạn đường
đời tiếp theo, Xuân Quỳnh vẫn cảm thấy hết sức cô đơn. Trước mắt với Quỳnh có
mấy việc phải lựa chọn.

Một là chuyện tình cảm riêng
tư.

Hai là chuyện chọn nghề: ở
lại văn công hay chuyển hẳn sang viết văn làm thơ.

Duyên
dáng xinh đẹp, lại công tác ở một đoàn ca múa, một môi trường của thanh của
sắc, Xuân Quỳnh lúc ấy là đối tượng chú ý của nhiều người. Song, sau một vài
thất vọng về người này người kia, Quỳnh sớm tính chuyện ổn định lâu dài với
Tuấn, một nhạc công violon cùng công tác trong đoàn.

Dưới
đây, khi dừng lại ở tập thơ Chồi biếc, chúng ta sẽ còn trở lại với
chuyện tình yêu. Ở đây, hãy nói kỹ về chuyện chọn nghề của Xuân Quỳnh.

Việc
làm thơ ở Quỳnh hình thành tự nhiên, như là việc nhà: thấy cha hoặc chị Đông
Mai làm thì cũng “vui tay” làm thử. Nhưng không chỉ có bắt chước mà đây cũng là
nhu cầu tự nhiên của chính Quỳnh nữa.

Ta
cũng không nên quên rằng sau khi vào Sài Gòn, ông Nguyễn Quang Lục có để lại
cho hai cô con gái mấy tủ sách. Theo Xuân Quỳnh kể trong một bản tự thuật khi đọc các bậc thày tiền  chiến Tôi có cảm tưởng là
tôi cũng có thể viết được như vậy, một cách dễ dàng. Và tôi đã khao khát được
viết. N
hưng say mê hơn cả
vẫn là thơ.
. Đằng sau những bài thơ bao giờ tôi cũng cảm thấy bao điều kỳ diệu. Và
tôi tin rằng các nhà thơ là những vị thánh. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn thấy
thơ là một nghệ thuật kỳ diệu nhưng khó mà đi tới, mặc dù vậy vẫn không bao giờ
có thể bỏ được thơ!
(ghi
chép trong Lý lịch Hội viên Hội Nhà văn V.N.)

Một
tình yêu như thế, kể cũng đã sâu nặng lắm. Một cái đích như thế, kể cũng có sức
vẫy gọi lắm. Nhưng muốn đến với thơ Xuân Quỳnh phải từ bỏ, một nơi đang sống
đầm ấm dễ chịu. Thế mới khó xử.

Cuối
đợt học tập ở trường Quảng Bá, Xuân Quỳnh cũng như các học viên khác được cử đi
các địa phương, để vừa thâm nhập thực tế vừa viết.

Số
Xuân Quỳnh vốn có duyên nợ với biển.

 Sau này, trong mấy năm 1969  - 72, Xuân Quỳnh còn có dịp đi Cát Bà, và đi
các vùng ven biển Thái Bình, Quảng Bình, Vĩnh Linh. Lần này, cùng với Nguyễn
Trọng Oánh, Xuân Quỳnh đi đảo Cô Tô.

Trong
số những lá thư Xuân Quỳnh gửi từ Cô Tô về, có lá thư gửi Vân Long đề ngày
5-9-63 mà  sau đây là một đoạn trích . Theo chính Vân Long kể  anh đã sơ ý để phần đầu bị xé, nhưng phần sau thì cũng đã nói được
cái sự ngổn ngang trăm mối bên lòng Xuân Quỳnh lúc này.

“Ban đêm thì cuộc sống
ở đây cách biệt hẳn với đất liền. Vì ban ngày người ta còn có thể nhìn thấy một
cánh chim, những con thuyền như những đường liên lạc giữa đất liền và biển.


Hôm qua, tôi mơ thấy
tôi vẫn sống ở trong đoàn như trước. Gần gũi bao nhiêu bạn bè ở Hà Nội, lúc
giật mình tỉnh dậy thì chỉ có một mình bơ vơ. ở góc buồng đằng kia có ông bạn
mắc bệnh thần kinh, thỉnh thoảng cứ hát líu ríu. Ông Trọng Oánh giường bên vẫn
ngáy đều đều (ông ta vừa viết xong lá thư cho vợ) chỉ còn mỗi con mọt cứ cọt
kẹt dưới giường đến là bực mình.


Ngoài trời, trăng vẫn
sáng (chả hôm nay là 16 ta mà), biển vẫn thức, vẫn cái âm thanh ào ạt vỗ vào
bãi cát. Buồn thật!


Vừa hôm nào tôi ở gần
bao nhiêu người thân yêu của tôi, bây giờ tôi ở đây, cách bao nhiêu núi và
nước! Tôi đã quyết định không đi ngoại quốc, tôi đã quyết định bỏ đoàn, xa anh
Tuấn xa bạn bè và nghề nghiệp, cái nghề nghiệp tự tay mình xây dựng trong 8 năm
trời. ồ, nếu tôi ở lại tôi sẽ sống một cuộc sống êm ấm bao nhiêu, tôi sẽ được
đi nước ngoài nhiều, mà đi nước ngoài chả là bồi bổ cho kiến thức là gì? Tôi
lại được gần người yêu, và tất nhiên sau nay không ai bỏ rơi tôi.


Ở đây cứ mỗi buổi chiều
và ban đêm là tôi lại thấy buồn cả lên. Giá ước gì không có ban đêm và buổi
chiều nhỉ.”


Xuân
Quỳnh vốn là người hay ngủ mơ (có khi, như Xuân Quỳnh kể, trong giấc mơ làm
được cả một bài thơ đầy đủ, chỉ có điều không hay nên không chép lại làm gì!)

Cái
chuyện mơ thấy những ngày yên ấm ở đoàn Quỳnh nói trong thư, chẳng qua chỉ “tố
cáo” sự quyến luyến của Xuân Quỳnh với hoàn cảnh cũ, và cái đau xót của sự biệt
ly.

Một
nhân vật trong kịch B. Brecht từng than thở:

-
Những lúc quan trọng nhất nhìn đi nhìn lại chỉ thấy một mình.

Xuân
Quỳnh ở đây giãy giụa trong một quyết định lớn lao, một phần cũng là vì quá đơn
độc như vậy.

Một
khía cạnh đau xót khác của quyết định này: nơi đi tới lại là mịt mờ không định.
Trong một lá thư  khác gửi Vân Long, Xuân
Quỳnh tâm sự:


Đó, trước mắt tôi là hạnh phúc  là yên ấm. Thế mà tôi từ bỏ tất cả. Tất nhiên
trên đời này, được cái nọ phải mất cái kia. Nhưng biết rằng mình có được cái mà
mình định đổi không? Tôi không ngại gian khổ về vật chất, tôi chỉ buồn về tình
cảm. Chắc anh biết: tôi, một con bé luôn thiếu tình cảm, mà bây giờ vẫn chẳng
hơn gì. Tới bây giờ như kẻ đứng giữa ngã ba đường vắng mà trời thì tối, chẳng
biết hỏi ai. Giá mà bây giờ có ai bảo hộ tôi một điều rằng: “đi con đường này
là đúng”, thì dù có gục ngã giữa đường tôi vẫn cứ đi. Tôi chỉ sợ mình không
biết phương hướng rồi sau này cũng chả ra trò trống gì, mà cứ lo nghĩ mãi thế
này thì hết đời. Anh Long, tôi biết anh thông cảm với tôi, anh thương tôi như
một người em, anh nói với tôi thêm về con đường tôi phải đi cho tôi bớt lo
lắng”.


Đọc
ít dòng thư này những ai có dịp quen biết Xuân Quỳnh hẳn nhận ra cái giọng
riêng  cùng là  ý chí mạnh mẽ của Xuân Quỳnh: Không sợ khổ,
không sợ vất vả, chỉ sợ mình quyết định không đúng. Không cần ai làm hộ mình
cả, chỉ mong chờ một sự hướng dẫn chính xác. Nhất là khi ta nhớ rằng con người
ấy còn trẻ, thì sự thiết tha ở đây càng hiện ra như một tiếng kêu xót xa, mà
giá ai có mặt ở đấy, không thể dửng dưng (Vân Long thú nhận “Tôi không nhớ tôi đã trả lời Quỳnh ra sao,
nhưng ai mà im lặng được trước lời kêu gọi khẩn thiết ấy!
”)

Khi
nhìn lại cuộc đời sáng tác của Xuân Quỳnh, người ta có thể chê trách nhiều
điều: sự chuẩn bị của Quỳnh cho nghề khá sơ sài, sự hạn chế của học vấn khiến
cho Quỳnh không sao tiến xa được. Nhưng một là Quỳnh rất hiểu những hạn
chế của mình, cái phần kiến thức cần phải được bồi bổ mà chưa cách gì bồi bổ
cho được; hai là, Quỳnh đã đắn đo rất nhiều, phải nói là đứt lòng đứt
ruột đau đớn nhưng vẫn quyết định theo hướng cần quyết định.

 Riêng những việc đó đã chứng tỏ Quỳnh đến với
nghề thật nghiêm chỉnh.

 Ai đó từng nói giản dị “ Cuộc đời là những quyết định thường xuyên. Lúc nào cũng phải lựa chọn”.


Một
người khác  còn nói đến một cái gì đó,
ghê sợ hơn mỗi khi phải quyết định: “Sự
lựa chọn của mỗi người với chính mình, cho chính mình, làm nên cái mà người ta
gọi là số ph
ận.”

Không
phải “ma đưa lối quỷ đưa đường - Lại tìm những lối đoạn trường mà đi”,
mà lần ấy, Xuân Quỳnh đã quyết định đúng. Về sau, có lần Xuân Quỳnh kể với
người viết cuốn sách này:

-
Tôi cảm thấy tôi sống thế thôi, đời tôi có nhiều sai lầm, nhưng không sao khác
được. Nếu tôi trở lại con đường cũ, tôi lại đi theo con đường ấy. Bởi những
lúc phải quyết định nhất, tôi cũng đã có những quyết định dứt khoát. Tôi toàn
phải quyết định một mình thôi, nhưng là quyết định đúng (Đến đây, Xuân
Quỳnh lấy một người bạn khác ra để so sánh
) Như ông Ch. chẳng hạn, cái gì
ông ấy cũng tính, mà lại hỏng!







Phụ lục

Dưới
đây là một lá thư khác cũng của Xuân Quỳnh viết cho Vân Long, đúng hơn là mấy
trang ghi chép  của Qùynh hồi theo đơn vị văn công đi biểu diễn ở nước
ngoài, được đặt bên cạnh những gửi gắm về công việc,. Tức là thư viết  trước thời
gian Quỳnh theo học lớp viết văn Quảng Bá. Tôi đã được anh Vân Long
 gửi cho bản photocopy bức thư này khi chuẩn bị biên tập tập sách về Xuân
Quỳnh 1989  Xin phép anh Vân Long giới thiệu thư, nhân đây mong anh
viết thêm về Xuân Quỳnh  giai đoạn  trước 1967 là thời gian bọn
tôi, những người cùng lứa với Xuân Quỳnh, không hề hay biết




Anh Vân Long

15/7

Từ những cuộc tiễn đưa ở sân ga Hà Nội đến những cuộc tiễn
đưa cuối cùng ở sân ga Bằng Tường, tôi mang theo tất cả những ấn tượng tốt đẹp
của đất nước đi theo.

Lần này là lần thứ hai tôi xa tổ quốc mà vẫn thấy luyến
thương chẳng khác gì lần đầu. Những gì chưa gần gũi thì bây giờ lại gần gũi, những
gì đã thân thiết bây giờ cũng thân thiết.

Chẳng thế nhà thơ Chế Lan Viên đã viết rằng:

Khi ta ở chỉ là nơi đất


Khi ta đi đất đã hóa
tâm hồn


Tuy đợt công tác này cũng chỉ bằng đợt công tác dài ở trong
nước thôi nhưng vẫn thấy nhiều cảm giác mới lạ. Đó mới chỉ là cảm giác thôi chứ
thật ra thì đất nước Trung Hoa vẫn chưa có gì khác lạ lắm, bởi thế cho nên ta
qua bên giới mà vẫn không thể phân biệt được (cả phong cảnh lẫn con người)

À, mà có cái này cũng hay nhé! Phụ nữ ở đây mặc quần đùi dài
đến đầu gối ấy. Chả biết là do điều kiện kinh tế hay do phong tục tập quán. Anh
Long đã xem phim “Những kẻ bất trị” chưa! Đấy, mặc quần đùi như anh chàng nhảy
xuống bể bơi mà không biết bơi ấy.

Giá mà nhà “thi sĩ” Vân Long ở đây thì có lẽ đã làm một bài
thơ về chiếc quần đùi rồi đấy. Nói đùa đấy đừng giận.

Vì biết đâu “qua giọt nước người ta thấy được biển cả”, qua
cái bình thường giản dị đó anh chẳng nghĩ tới cả một sự hy sinh to lớn của nhân
dân Trung Quốc trong thời gian phải “thắt lưng, buột bụng” này.

16/7

Hôm nay chúng tôi đã tới Bắc Kinh. Trời lại mưa như hôm bắt
đầu đi. Cái ông trời thật là lắm chuyện. “Người ta” đi thì khóc đã đành, đằng
này “người ta” đến, cũng lại khóc. Do trời thôi, chứ con người ở đây thì thật
nhiệt tình và cởi mở. Người ta thường bảo: ai tiếp xúc nhiều thì tình cảm nó bị
nhàm đi. Những đại biểu và sinh viên Việt Nam đã từng sang Trung Quốc bao nhiêu
lần mà sự đón tiếp vẫn như lần đầu gặp gỡ. Nói cho đúng hơn là những người bạn
thân lâu ngày gặp lại.

19/7

Các đồng chí đứng ngoài mưa che ô cho chúng tôi lên xe. Các
đồng chí hiểu được từng ý thích nhỏ nhỏ của từng người trong những bữa ăn. Và rất
là tế nhị, trong những buổi đi tham quan rất mệt, các đồng chí rút ngắn thời
gian lại, chúng tôi đã đi thăm đoàn ca kịch ở đây trong lúc họ diễn tập. Họ hát
rất hay, chỉ tiếc rằng diễn viên “hơi xấu quá” và diễn xuất còn đang bình thường.
So các vai trong vở ca kịch Ô – Nhê – Ghin thì mình không đến nỗi tự ty đâu.

Chúng tôi xem vũ kịch “Hồ thiên nga” tối hôm qua. Nghệ thuật
ba lét của Trung Quốc quả là tiến đến mức độ khá, không phải hổ thẹn với một nước
dân số trên 600 triệu người.

Còn dàn nhạc ở đây độ 50 người. Âm lượng và chất lượng cũng
chưa thật là tốt hoàn toàn lắm. Nhận xét theo cảm tính thế thôi, chứ chưa chắc
tôi đã hiểu nhiều về nhạc.

À, mà đến diễn viên vũ, vai chính mới có 19 tuổi, nhưng cũng
xấu lắm trong tập thể có rất nhiều cô xinh.

Hôm nay chúng tôi đi thăm nhà quốc hội. Thật vĩ đại và đẹp.
Chỗ họp chung có thể chưa tới 3 vạn người. Còn các phòng họp riêng của từng tỉnh
thì có tới 28 phòng, mỗi phòng trang trí theo đặc điểm riêng của dân tộc mình.
Thật là muôn mầu muôn vẻ.

Có những bức tranh chắp toàn bằng vỏ hến, có những bức tranh
chắp toàn bằng tre và những bức tranh thêu rất lớn và đẹp vô cùng. Trên một chiếc
ngà voi người ta chạm trổ cả một cuộc khởi nghĩa nông dân.

Những pho tượng bằng ngọc thạch diễn tả một bài thơ của Mao
chủ tịch.

Ngoài ra còn có rất nhiều, rất nhiều không thể nói hết được.


Tôi cố gắng với những dòng lủng củng này (vì tôi là con ông
Phạm Cao Củng mà) để có thể giúp thêm anh khái niệm một chút về cuộc đi thăm của
tôi ở Trung Quốc. Có lẽ khi về tôi lại đi thăm nhiều nơi khác nữa như đi Di Hòa
Viên, Cố Cung chẳng hạn.

Bây giờ vội quá không thể viết tiếp cho anh được. Chiều hôm
nay chúng tôi đi mít tinh, ở đây tổ chức ngày 20/7 của ta. Tối hôm nay chúng
tôi lên tàu đi Phần Lan và không dừng lại ở Liên Xô.

Tôi sẽ giở bài thơ của anh ra đọc lại

Anh làm ơn chép lại bài thơ này gửi tòa báo Tiền Phong cho tôi nếu có thể đăng được
thì hãy còn kịp

Nói với Nguyệt là tôi sẽ viết thư sau nhé

Chào anh và chúc anh sáng tác nhiều hơn nữa.




Xuân Quỳnh.

-------

Còn bài này tư tưởng đi xuống đừng cho ai xem.

Một bài thơ không đề làm lúc
buồn nhất


Có những ngày trôi vô ích

Như viên đạn vút qua

Bỗng trong lòng tôi nhức nhối

Phải đâu tôi sợ tuổi già!




Chỉ sợ ngày nào tôi chết

Vẫn chưa viết trọn bài thơ

Nói hết tình tôi tha thiết

Yêu đời không muốn rời xa




Tôi tin, đời cũng yêu tôi

Chắt chiu trên từng trang giấy

Mẹ vẫn thấy còn trẻ mãi

Tuy tôi không còn trên đời




Người yêu của em, anh hỡi!

 Khi em như chết đi rồi

Trong anh, tình bạn vẫn sống

Đều là một kỷ niệm vui




 Còn đây , vài câu
triết lý hạng bét nhân một đêm trăng


Ô sao mặt trăng dưới
nước


Mà không vớt được trên
tay


Tình anh tưởng đâu gần
gũi




Vẫn như xa thẳm chân
mây






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 18, 2016 20:51

December 11, 2016

Xuân Quỳnh tự thuật




Sau đây là mấy trang photocopy bản tự thuật
Xuân Quỳnh viết và lưu lại ở bộ phận tổ chức của Hội nhà văn từ 1982. Sau khi
Xuân Quỳnh qua đời, bọn tôi, mấy anh em biên tập viên ở nhà xuất bản  Tác phẩm
mới  lúc đó đã  chụp về để  chuẩn bị  làm tập sách về  đời và thơ Xuân Quỳnh.


Tự
thuật tiểu sử


Từ nhỏ đi học đến lớp 6

1955: Vừa học vừa làm diễn
viên đoàn ca múa Trung Ương

1962: Đi học trường viết
văn

1963: Về báo Văn Nghệ (vừa học vừa làm biên tập thơ của
báo)

Được một thời gian thì
báo Văn Nghệ cho đi thực tế Gia Lâm –
Làm công tác huyện đoàn một năm.

Cuối 1964, chiến tranh
phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Bác Văn Nghệ
gọi về giữ thư viện thay cho cô Loan, cho cô ấy vào với chồng [ nhà văn Anh Đức
VTN chú ]. Thời gian này báo Văn Nghệ
muốn nhân cớ đó đẩy khỏi báo. Vì vậy tôi phải chạy đi xin việc tất cả các cơ
quan báo chí, đài phát thanh nhưng không đâu muốn nhận. Báo Phụ Nữ nhận với điều kiện là phải thử đi
xuống nông thôn một thời gian xem có viết được bài không đã.

Tôi đi được 2 tháng và viết
được 7 bài. Các chú cũng khen là viết được. Nhưng không may, ngay trong thời
gian đó tôi lại có thai cháu đầu tiên (năm ấy là năm 1965). Báo Phụ Nữ không muốn nhận về nữa vì lý do
đó. (Lúc ấy tôi vẫn biên chế của Hội Liên hiệp) Tôi quay về. Anh Hoàng Trung
Nho và anh Hoàng Trung Thông (lúc ấy đã thay vào chỗ ông Bảo Định Giang) lại nhận
tôi trở lại làm biên tập báo Văn Nghệ,
rồi biên tập nhà xuất bản cho đến nay.

xxx

Tôi là con một nhà giáo,
bố tôi xưa kia đi dạy học nhưng người lại có nhiều khát khao về sáng tác văn học.
Ông đọc nhiều sách và hay kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện. Có những khi ông
đọc cả những truyện, kịch, thơ của ông viết cho chúng tôi nghe. Chúng tôi cũng
rất mê văn học, nhất là người chị ruột tôi. Chị đã biết làm thơ từ năm 8 tuổi.
Chị thuộc rất nhiều chuyện vần, thơ, ca dao. Chị thường đọc và cũng hay kể chuyện
cho tôi nghe sau khi bố tôi vào Sài Gòn sinh sống.

Mẹ tôi mất từ hồi tôi còn
rất bé, chúng tôi ở với bà. Bà tôi cũng là một kho chuyện cổ tích và ca dao.
Khi chửi rủa, bà tôi cũng dùng những câu chửi vần của dân gian.

Khi vào Sài Gòn, bố tôi còn
để lại mấy tủ sách, chúng tôi đọc ngấu nghiến hết cả, có cái hiểu, có cái chẳng
hiểu, nhưng rất say mê.

Những truyện của Nam Cao,
Nguyên Hồng mỗi khi đọc thì thấy sao mà giống cuộc sống xung quanh tôi thế. Tôi
có cảm giác là tôi cũng có thể viết được như vậy một cách dễ dàng và tôi khao
khát được viết.

Nhưng say mê hơn vẫn là
thơ.

Tôi đọc thơ của Nguyễn
Bính, Hàn Mặc Tử, Anh Thơ, Huy Cận, Xuân Diệu rất say sưa. Đằng sau những bài
thơ bao giờ tôi cũng cảm thấy bao điều kỳ diệu. Và tôi tin rằng các nhà thơ là
những vị thánh cho mãi đến bây giờ tôi vẫn thấy thơ là một nghệ thuật kỳ diệu
nhưng khó mà đi tới. Mặc dầu vậy vẫn không bao giờ có thể bỏ được thơ.




 Quá
trình công tác


1955:  Diễn viên múa đoàn ca múa Trung ương

1963: Biên tập viên báo Văn Nghệ

1980: Biên tập viên NXB
Tác Phẩm Mới

Nguyên
nhân bắt đầu hoạt động văn học


Vì thích thú. Làm văn học
cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa.

Vì uất ức. Khi mới vào
nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết.

 Tác phẩm đầu tiên được in:

Chồi
biếc

( trong tập Tơ tằm – Chồi biếc in
cùng với Cẩm Lai ) – NXB VH 1963

Sống
chuyên nghiệp bằng nghề văn từ năm nào:


1965 cho đến nay, vừa làm
biên tập báo, xuất bản của HNV, vừa viết.

Những
môi trường thực tế quen thuộc nhất. Những chuyến đi thực tế quen thuộc nhất
trong đời văn học


Miền nông thôn quê tôi hồi
tôi còn nhỏ.

Hà Nội, nơi tôi lớn lên
và sống ở đây

Những chuyến đi trong
ngày chống Mỹ: Đường 559, Quảng Bình, Vĩnh Linh

Sở
trường về thể loại:


Thơ người lớn

Thơ thiếu nhi

Truyện thiếu nhi

Và đôi khi viết tiểu luận,
lý luận

Những
chuyến đi nước ngoài:


1978: Đi Liên Xô. Có một
bài tham luận đọc ở hội nghị Á Phi, đã in ở báo Văn Nghệ và một số bài thơ viết về LX.

Tình
hình sức khỏe và đời sống gia đình hiện nay:


Sức khỏe bình thường

Đời sống gia đình khó
khăn. Tổng cộng số lương hai vợ chồng không đủ nuôi ba đứa con cho nên sống rất
chật vật.

Nguyện
vọng và dự kiến sáng tác:


Nguyện vọng:

1.     
Làm sao đỡ khó khăn hơn về kinh tế

2.     
Có thì giờ hơn để có thể viết, học trau dồi
nghề nghiệp.

3.     
Muốn xin được thêm một diện tích nhỏ riêng
biệt để có thể ngồi viết những lúc cần thiết (vì không thể bứt hẳn để đi Đại Lải
được)

Dự kiến:

1.     
Sẽ viết đều hơn nữa về thơ, truyện thiếu
nhi. Mỗi năm phải có từ 1 đến 3 tập sách được xuất bản.

2.     
Sẽ viết thêm truyện ngắn người lớn trong mấy
năm tới.

3.     
Vừa học vừa tập dịch thơ để in các báo.




                                                                                             Ngày
29 tháng 8 năm 1982

                                                                                                             Ký
tên



                                                                                                         Xuân
Quỳnh.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 11, 2016 21:09

Xuân Quỳnh, phác thảo một tiểu sử (III)

III. Trở thành diễn viên múa và bước đầu làm quen với thơ

Vào khoảng những năm từ 1960 trở về trước, nội thành Hà Nội còn khá chật hẹp, phía Tây Bắc chỉ tính từ đường Kim Mã trở lại, còn từ Cầu Giấy trở vào, đang là một vùng ngoại ô. Ở đấy, đồng ruộng kề ngay sát bên đường nhựa hoặc lấp ló ngay sau những gian nhà tuy ở mặt đường, nhưng chỉ một tầng lúp xúp.


Đất có thể triển khai xây dựng còn rộng.

Bởi vậy khi có lệnh đưa một số đơn vị nghệ thuật ra khỏi các khu trung tâm thành phố thì chung quanh Cầu Giấy, bên cạnh các trường đại học Sư phạm và trường Nguyễn Ai Quốc liên tiếp mọc lên mấy khu văn công lớn.

Khu Mai Dịch gồm văn công quân đội (Đoàn ca múa, Đoàn kịch, sau thêm Trường nghệ thuật quân đội), Trường múa Việt Nam. Gần Cầu Giấy hơn, ngay trước khu vực ngã ba rẽ lên Chèm, là đại bản doanh của Đoàn văn công nhân dân T.W., và Dàn nhạc giao hưởng.

Khi mới trúng tuyển văn công, Xuân Quỳnh còn ở với đoàn chỗ 64 Quán Sứ. Nhưng thời gian ở đấy quá ngắn ngủi, nên mỗi khi nhớ tới quãng đời làm diễn viên múa trước mắt người diễn viên trẻ này, chỉ hiện lên rõ hình ảnh những ngôi nhà lá dựng tạm bợ khu văn công Cầu Giấy, ở đó, có sàn tập, phòng họp, phòng tập thể, khu gia đình của các anh chị lớp trước tất cả làm nên một cơ ngơi xinh xắn, ấm cúng.

Đó là môi trường sống tập thể đầu tiên, nơi Xuân Quỳnh có dịp làm nghệ thuật, và tạo điều kiện cho nhà thơ tương lai một không gian tiếp xúc rộng rãi.

Có một người mà mỗi khi nhớ tới những năm ở Cầu Giấy, Xuân Quỳnh không thể quên đó là nhà thơ Thanh Tịnh.

Từ 1975 trở về trước, tạp chí Văn nghệ Quân đội là nơi làm việc của hàng loạt nhà văn nổi tiếng: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Vũ Cao, Xuân Sách...

Đến chơi với tổ thơ tạp chí, Xuân Quỳnh (khi ấy đã là một nhà thơ được gửi gấm nhiều hy vọng) cũng đến chơi chung với mọi anh em khác. Từ 1967, tuy Thanh Tịnh không còn trực tiếp làm báo, song tôi nhận thấy Quỳnh đặc biệt tỏ ra trìu mến với Thanh Tịnh.

Một lần nào đó, Quỳnh cắt nghĩa:

- Có gì đâu, hồi còn ở đoàn văn công, tôi thuộc loại nhỏ nhất, hay lui tới nhà chị Ngọc Dậu. Anh Thanh Tịnh đến chơi với Ngọc Dậu, thấy tôi ở đấy, tỏ ra rất thương tôi. Anh hay nói với chị Dậu: “Em nhỏ nó sensible lắm” (nhạy cảm lắm). Hồi ấy cụ cũng sống lơ phơ một mình “ăn cơm tập thể ngủ giường cá nhân”, nên thỉnh thoảng đèo tôi đi chơi. Có khi dẫn vào quán ăn. Mình chỉ buồn cười, hai anh em bác cháu gọi hai đĩa cơm rang, mình ăn không hết, cụ bảo đưa cụ, và cứ thế cụ ngồi ăn bằng hết mới thôi.

Câu chuyện không chỉ cho thấy nỗi cô đơn của Thanh Tịnh mà còn cả nỗi bơ vơ của Xuân Quỳnh, bơ vơ ngay giữa môi trường nghệ thuật. Càng ở nơi rực rỡ ánh đèn và lộng lẫy son phấn thân phận người ta càng bộc lộ rõ.

Tuy nhiên, với bản năng thích ứng và yêu đời từ nhỏ, Xuân Quỳnh cũng sống hoà hợp tự nhiên với những bè bạn cùng trang lứa, và anh chị em trong đoàn. Cái năng động ưa nghịch ngợm trêu đùa mọi người của Quỳnh có dịp bộc lộ đầy đủ.

Mãi những năm sau này, Quỳnh còn nhớ, là hồi ấy, mình hay nói láo, trêu ghẹo các bạn, đến mức tức quá, có lần họ bảo nhau khênh Quỳnh vứt ra vườn.

Khi chia tay với bà để đi văn công Quỳnh hiểu rằng rồi mình có lương, gửi về cho bà. Với tính tự trọng sẵn có, Quỳnh rất chịu học.

Có lần, chị Mai đến thăm em ở khu văn công trong giờ, thấy em mồ hôi ướt đầm vai áo tỏ ý thương hại. Quỳnh nói với chị rằng nghề này nó phải thế. Rồi pha trò:

- Thúy Quỳnh( diễn viên múa hàng đầu, sau là nghệ sĩ nhân dân) múa đẹp, nó làm cô Tấm, em phải làm thị tì cho nó đấy.

Một thuận lợi lớn có tác động đối với sự nghiệp sáng tác của Quỳnh về sau là trong thời gian ở văn công, Quỳnh có dịp đi khá nhiều. Ngoài biểu diễn ở các nhà hát, hội trường chung quanh Hà Nội, còn theo đoàn về nông thôn.

“Kể ra đời nghệ sĩ cũng giàu tình cảm thật, đi đến đâu, là để thương để nhớ đến đấy. Phong cảnh cũng đủ nhớ rồi, chứ đừng nói đến tình cảm nữa” -- trong một lá thư viết khi đang đi thực tế ở nông thôn, Quỳnh kể cho chị Đông Mai như vậy.

Lại có những chuyến đi sưu tầm và khai thác vốn cổ, đi tuyển chọn diễn viên ở các vùng xa cũng là những chuyến đi kỳ thú.

Lũng Cú là một vùng cao thuộc huỵện Đồng Văn Hà Giang, là cái mỏm cao nhất của chúng ta, nếu dựng tấm bản đồ Việt Nam thẳng đứng.

Có lần đến với Lũng Cú, nhà văn lão thành Nguyễn Tuân hào hứng lắm, trở về ông có ngay thiên tuỳ bút Lũng Cú tột bắc (Chữ tột dùng thật đắc địa mà chỉ Nguyễn Tuân mới biết dùng).

Nhưng trước đó, khi ngồi bên chén rượu, nghĩ về duyên kỳ ngộ của mình với một mảnh đất độc đáo, Nguyễn Tuân quay hỏi người bạn cùng đi là Hoàng Trung Thông:

- Ông có biết trong đám văn nghệ sĩ mình, ai là người đầu tiên có mặt ở Lũng Cú chứ không phải tôi với ông không?

- Ai?

- Cô thi sĩ trẻ Xuân Quỳnh.

Hồi ấy tức là trong những năm chống Mỹ, ở Hội Nhà văn, những chuyến đi nước ngoài còn là chuyện hiếm hoi, mỗi khi trong giới có ai được đi - đi các nước xã hội chủ nghĩa thôi, chứ không phải đi “tư bản” -- đã là cả một sự kiện để mọi người bàn bạc. Nhưng Xuân Quỳnh thì không, chả bao giờ chúng tôi thấy Xuân Quỳnh nhắc nhở gì đến những chuyện loại ấy. Hỏi ra mới biết trước đó người bạn của chúng tôi, hồi ở văn công đã đi khá nhiều, gần nhất là Trung Quốc, Mông Cổ, xa hơn nữa, mãi kinh thành Hensinki nước Phần Lan, thành Viên nước áo. Hoá cho nên không quá háo hức như những người khác.

Vân Long trước đây cũng là nhạc công ở Dàn nhạc giao hưởng còn giữ được những lá thư Xuân Quỳnh gửi từ Trung Quốc, trên đường đi Phần Lan ( tôi sẽ đưa vào phụ lục).

Còn đây là một đoạn trong thư Xuân Quỳnh gửi cho Đông Mai, kể lại những ngày ở Viên.

“Trước khi bước chân đến thành Viên thì em tưởng rằng mình sẽ sống một cách riêng biệt và chẳng có gì đáng nhớ. Ấy thế mà chính cái ấn tượng tốt đẹp và sâu sắc nhất lại chính là ở Viên. Có bà mẹ đưa đứa con 15,16 tuổi đến tiễn đưa đoàn em mà khóc từ sáng đến chiều, cô con gái tặng em cái tượng hai con hươu và bà mẹ nói rằng : “Em nó tặng chị hai con hươu này chị đừng bao giờ quên nó mà tội nghiệp”. Chúng em thường có rất nhiều bạn và những người mẹ như thế đấy. Trong số thanh niên đó em có một người bạn tên là Berti Laner rất tốt. Anh ấy làm ở nhà máy cơ khí nhà ở cũng tương đối nghèo. Berti nói rằng hắn rất yêu em và không bao giờ quên được. Mẹ Berti bảo em rằng con có thể ở lại Viên với mẹ được không? Và em nói rằng nếu có dịp qua đây em sẽ vào thăm mẹ. Bà cụ khóc và nhắc lại mãi rằng “ Con đừng quên rằng con đã nói nếu có dịp con sẽ trở lại nhé”... Hôm tiễn đưa, Berti khóc nhiều quá và cả bà mẹ nữa. Tất nhiên là em chị không yêu rồi, nhưng em thương Berti quá đi mất và sau này mãi mãi em vẫn nhớ những con người mà không bao giờ gặp lại.”

Ở gia đình bà Vũ Thị Khánh, mẹ chồng Xuân Quỳnh, hiện còn giữ được nhiều tấm ảnh lưu niệm khá đẹp, chụp trong những chuyến Xuân Quỳnh đi công tác xa với Đoàn ca múa nhân dân TW.

Nhưng tôi nhớ là sinh thời, Xuân Quỳnh không thích trưng ra cho bọn tôi xem loại ảnh đó. Nói theo cách nói của Quỳnh, đấy là cái thời nhí nhố, xem làm gì. Bần cùng lắm, bị chúng tôi gặng hỏi mãi, Xuân Quỳnh mới thở dài:

- Kể nếu chịu học, thì trong những chuyến đi ấy, học được bao điều bổ ích. Nhưng lúc ấy, có biết quái gì, chỉ đi xem những cái vớ vẩn, không đâu vào đâu. Tiếc thế chứ!

Những năm ở văn công còn là một bước chuẩn bị khá tốt, để Xuân Quỳnh chuyển hẳn sang nghề sáng tác văn học.

Nguyên trong gia đình, cả cha và chị Xuân Quỳnh đều là những người rất yêu thơ, và thích sáng tác thơ.

Sung sướng vì đẻ thêm cô con gái thứ hai là Xuân Quỳnh, ông Lục có thơ.Từ Sài Gòn ra Hà Nội thăm gia đình, ông Lục có thơ; cũng như sau 1975 có lần ốm nặng, bảo con gái Đông Mai đánh điện cho Xuân Quỳnh từ Hà Nội vào thăm, ông lại đọc một đoạn thơ nhớ cái làng La Khê của mình.

Còn Đông Mai, một trong những bài thơ của chị được cô em gái thuộc lòng đọc đi đọc lại không chán là bài thơ chị viết về quê ngoại La Tinh mà hai chị em cùng nhiều lần về thăm (bài thơ mang tên Chén nước chè tươi).

Trong hoàn cảnh ấy, thói quen làm thơ cũng hình thành ở Xuân Quỳnh một cách tự nhiên. Đến khi vào văn công, thì Xuân Quỳnh làm thơ nhiều hơn.

Thơ ghi lại tâm sự của một cô gái mồ côi, nay trưởng thành, trong vai một diễn viên văn công đầy tự hào.

Thơ kể lại những chuyến đi xa.

Và thơ về tình yêu mà sau đây, chúng ta sẽ trở lại.

Những bài thơ này, thoạt đầu làm cho mình, song Xuân Quỳnh cũng thấy là giá kể mọi người cùng biết thì hay biết mấy.

Thế là gửi bài cho các báo. Trong vòng mấy năm từ 1958 đến 1961, Xuân Quỳnh đã bước những bước chập chững trong nghề.

Trong một lá thư gửi về cho chị Mai, Quỳnh khoe:

“Độ này em cũng làm được nhiều thơ và ca dao lắm, tổng cộng đến 15,16 bài... Các bài của em nói chung là được nhiều người thích, có bài em đã gửi báo Việt Nam Độc lập, họ đã đăng nhưng chỉ gửi biếu một tờ báo mà không có tiền nhuận bút”.

Cùng với việc làm thơ, Xuân Quỳnh có dịp làm quen với một giới nghệ thuật khác: giới sáng tác văn chương.

Trong hồi ức của mình, Vân Long kể rằng, trước khi Xuân Quỳnh in bài thơ đầu tiên, Vân Long đã đưa Xuân Quỳnh đến dự buổi trao đổi nhận xét tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu do Sở văn hoá Hà Nội tổ chức.(Riêng chung in ra 1960, theo tuổi thật thì Xuân Quỳnh lúc đó sang tuổi 20)

Sở văn hoá Hà Nội hồi đó là nơi tập hợp nhiều cây bút mới kể cả một số đang công tác ở các cơ quan TW đóng tại thủ đô.

Trong những buổi họp như thế - thường do nhà thơ Huyền Tâm chủ trì - Xuân Quỳnh đã gặp và làm quen với hầu hết các cây bút lúc đó, cũng náo nức muốn vào nghề như mình, và một số về sau còn tiếp tục làm thơ như mình. Đó là Hoài Anh và Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Bùi Minh Quốc, Dương Đình Hy và Ngô Văn Phú, Trần Nhật Lam và Đại Thuỷ v..v...

Được nghe Quỳnh đọc thơ trong những buổi liên hoan của các đoàn nghệ thuật, và các cơ quan khác, nhiều người trong giới văn hoá lúc ấy bảo nhau không chừng dân ca múa sẽ mất đi một diễn viên trung bình để giới sáng tác văn chương có thêm một giọng thơ xuất sắc.

Và người ta sẵn sàng giới thiệu Quỳnh tham dự những buổi họp mà trước kia, có nằm mơ Quỳnh không dám nghĩ tới.

Chẳng hạn lần ấy, Nhà xuất bản Phụ nữ vốn rất ít khi in thơ, bàn việc ra một tập thơ riêng cho chị em trong giới. Vân Đài (khi đó còn sống), cùng với Anh Thơ, tất nhiên là những nhân vật thuộc loại đầu vị rồi.

Nhưng còn thêm ai nữa? Chỉ cần khoảng gần mười người mà đã phải tính, phải gạn vì hiếm quá. May quá có người nghĩ ra Xuân Quỳnh. Không ai phản đối.

Hồi đó, đầu năm 60, cả Phan Thị Thanh Nhàn lẫn Thuý Bắc, Nguyễn Thị Hồng Ngát lẫn Hoàng Thị Ý Nhi đều chưa xuất hiện, nên tự nhiên Xuân Quỳnh là người trẻ nhất.

Xuân Quỳnh kể với chị Mai: thấy Vân Đài già quá ( bà V.Đ sinh 1903 --VTN chú ) suýt nữa quen mồm gọi là cụ, song nghĩ đây là đi họp, thấy ai cũng gọi Vân Đài là chị, nên cũng gọi theo, mặc dù rất ngượng.

Cứ thế, mỗi ngày một chút, thời gian mấy năm cuối ở văn công (khoảng 1960-61) là thời gian ở Xuân Quỳnh chín dần một con người sáng tác. Chẳng bao lâu, Quỳnh sẽ được mời đi học lớp văn nghệ ở Quảng Bá. Đó là đầu 1962, Xuân Quỳnh đã ở văn công được  bảy năm.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 11, 2016 20:27

December 9, 2016

Xuân Quỳnh, phác thảo một tiểu sử (II)

II.Từ nông thôn lên Hà Nội

Bởi làng La Khê chỉ cách thị xã Hà Đông độ hai cây số, cho nên sau khi học xong sơ học ở trường làng đến khi đi học tiểu học, Quỳnh lại học ngay ở thị xã Hà Đông. Môi trường tiếp xúc chủ yếu của Quỳnh hồi thơ ấu vẫn là vùng ngoại ô ven thị xã.

Tuy nhiên, bên cạnh nền văn hoá tự nhiên của nông thôn thì đời sống thành thị – mà tiêu biểu là Hà Nội -- cũng sớm bắt đầu len vào tuổi thơ của con người nhạy cảm ấy.


Thỉnh thoảng, theo bà và chị, Quỳnh lên Hà Nội thăm bố đang sống với người mẹ kế và mấy đứa em

 (Theo
X.Q. kể với tác giả, thì đó là phố Tô Hiến Thành ).Những cuộc đi hơn chục cây số không nhẹ nhàng gì với cô bé. Song ở tuổi ấy, từ xóm làng quê mùa tăm tối tới thành phố tràn đầy ánh điện, mỗi chuyến đi vẫn để lại những ấn tượng lớn lao trong đầu người thi sĩ tương lai.

Thuở ấy, chưa có xe đạp, sau quãng đi bộ ra Hà Đông là lên tàu điện. Có những lần, lên Hà Nội, cả Đông Mai lẫn Xuân Quỳnh đều không có tiền. Hai chị em cứ phải lấy nón che đi, tránh chường mặt ra với ông bán vé. May mà mấy lần đều gặp những ông bán vé dễ tính, không phạt.

Nhưng giá như một hôm nào đó, chị Mai có rủ lên Hà Nội thăm bố, thì có mệt đến đâu, Xuân Quỳnh cũng sẵn sàng đi.

 Một lần, Xuân Quỳnh được mang lên bệnh viện Phủ Doãn chữa răng. Từ tầng hai ngôi nhà rợp bóng sấu bên đường Quán Sứ, Quỳnh có dịp nhìn kỹ những căn nhà Tây đồ sộ, không những là đẹp đẽ sang trọng so với ngôi nhà ngói cổ mấy bà cháu vẫn ở đằng quê, mà còn là sạch sẽ thoáng đãng hơn nhiều, so với căn buồng chật hẹp mà bố và mẹ kế đang ở.

Và kỳ thú là những người đàn bà Hà Nội xinh đẹp, lịch sự đi lại trên vỉa hè!

 Càng nhìn lòng Quỳnh càng dội lên niềm ước ao là lớn lên, cũng xinh đẹp và lịch sự như họ.

Trong tình yêu Hà Nội của Xuân Quỳnh, còn có bóng dáng tình yêu Hà Nội của người cha, một trí thức nghèo sống lay lắt trong cái thời buổi đầy khốn khó.

Những lần dẫn các cô con gái đi chơi phố, không những các con sung sướng mà bố cũng thích thú. Luôn luôn, ông kêu lên, như vừa được gặp Hà Nội lần đầu. Khi máy ảnh bắt đầu phổ biến, ông tha đâu về được một chiếc loại tòng tọc, và rất thích chụp ảnh những căn nhà, những góc phố Hà Nội, dù đôi khi vợ con có eo xèo rằng tốn kém về tiền phim, tiền in tráng, thì nhăn nhó đấy rồi vẫn chứng nào tật ấy. Ông vẫn mê chụp ảnh như ngày xưa người ta mê tổ tôm, cô đầu.

Nhưng tình yêu Hà Nội của ông Lục, oái oăm thay, cũng là một tình yêu khốn khổ.

Trước và sau 1945, ông vẫn chơi vơi, nửa ở La Khê, nửa trên thành phố.

Về sau, khi làm bạn với bà vợ kế, ông có đưa cả gia đình lên Hà Nội ít năm. Nhưng chả bao lâu, qua 1950, ông lại một lần nữa làm cuộc thiên di, đưa cả nhà vào Sài Gòn.

Đối với con người đã viết hẳn một thiên khảo cứu về Hà Nội , việc tạm xa với Hà Nội thật là điều đau xót khôn tả. Lên chia tay ông, Xuân Quỳnh mới 7-8 tuổi thấy ông cho xem những bức ảnh trong đó thoạt nhìn chỉ có màn đêm đen kịt và vài chấm sáng yếu ớt, thì không hiểu gì cả, ông Lục phải giảng: đó là hình ảnh ánh đèn trên hồ Thiền Quang những đêm đầu xuân. Quỳnh nhìn lại ảnh một lần nữa, lần này, cái nhìn nhoà trong nước mắt thương cha (mà chị Mai và Quỳnh hay gọi là cậu).

Cũng may, ít lâu sau khi ông Lục chuyển đi Sài Gòn chị Đông Mai lại lên trọ ở Hà Nội để theo học ở trường Trưng Vương, và Quỳnh cũng lại thỉnh thoảng lên thăm chị, đôi khi còn nghỉ lại ở đấy ít ngày.

Nhà thơ Vân Long, một nhà thơ bắt đầu có thơ đăng ở báo chí Hà Nội từ trước 1954) đến nay còn nhớ, là hồi đó, Đông Mai cũng có làm thơ, và Vân Long với Đông Mai là cùng một nhóm thơ.

 Trong những lần đến nhà Đông Mai sinh hoạt nhóm, Vân Long đôi khi thấy một cô bé 12-13 nhảy dây ngoài sân, trông khá xinh đẹp, mọi người bảo là em Đông Mai đấy.

Cố nhiên, Vân Long và các bạn không thể ngờ là cô bé chỉ mải nhảy dây đó, về sau lại có một tương lai văn chương xa rộng hơn bất cứ người nào trong nhóm.

Cứ thế, Hà Nội thấm dần vào cuộc đời cô bé nông thôn hôm qua một cách từ tốn, êm đẹp.

Nét đặc biệt của Hà Nội xưa nay: đó không phải là một đô thị lớn lao, đồ sộ. Có thể nói Hà Nội không hoàn toàn là đô thị nữa, mà suốt từ thời phong kiến, qua những năm đầu của thế kỷ XX, dù qua bao thăng trầm thay đổi Hà Nội vẫn cái vẻ riêng của nó: một thành phố sống giữa một vùng quê và còn nặng chất “nhà quê”.

Có thể về sau, cái chất nông thôn ấy bị tố lên đẩy lên tô đậm lên quá mức cho phép khiến thành phố ngổn ngang bừa bộn, mà lại lai tạp, và nói chung là quê mùa cũ kỹ đi. Nhưng vào thời điểm Xuân Quỳnh mới lớn lên, Hà Nội vẫn chưa bị biến dạng, thành phố vẫn thuần nhất trong sự hài hoà có phần cổ điển riêng của nó.

Một điều cũng nên lưu ý, là vào những năm từ 1953 trở đi, khi Xuân Quỳnh có dịp nhận xét, quan sát về Hà Nội bằng con mắt của một thiếu nữ mới lớn - chứ không phải chỉ theo bố hoặc chị đi chơi phố như ngày trước - thì Hà Nội vào “thời điểm bản lề”.

Trước 10-54, Hà Nội là trung tâm của chính quyền tạm chiếm ở châu thổ Bắc bộ, sau 1954, Hà Nội được giải phóng.

Những chiến sĩ từ kháng chiến trở về, trong đó, có nhiều con em của chính thành phố thân yêu, họ trở lại Hà Nội với tâm lý hào hứng và tình cảm trong sáng.

Ngay cả trong mắt những anh em cán bộ vốn từ nông thôn lên, mới lần đầu đặt chân lên đường nhựa Hà Nội, thành phố này vẫn là một cái gì thiêng liêng cao cả. Cái thành phố mà họ đổ xuơng máu mới giành lại được, như vẫn có một khoảng cách với họ. Họ không khỏi nhớ lại những ao ước nắc nỏm lúc nhỏ về một thứ kinh đô hoa lệ, mà chỉ những người có máu mặt trong làng trong xóm mới được đặt chân tới.

Về làm dân thành phố rồi, có khi mang cả vợ con lên sống giữa Hà Nội mà họ vẫn không tin ở cái hạnh phúc mình được hưởng. Họ chỉ sợ trong cử chỉ hành động của mình có gì thô lậu không hợp với đất ngàn năm văn vật! Họ không lấy cách sống giản dị dễ dãi giữa rừng Việt Bắc đem áp đặt cho Hà Nội, mà ngược lại, với niềm rung động chân thành, họ muốn sống theo kiểu thành phố, và hiểu rằng phải nỗ lực học hỏi nhiều, rồi mình mới có được cái thanh lịch dịu dàng của người Hà Nội.

Cái tâm lý biết điều và rất văn hoá của những người chủ mới của thành phố, khiến cho đời sống Hà Nội từ 1965 trở về trước phảng phất một không khí thanh bình hoà hợp, mà từ khi chống Mỹ trở đi, không thể nào có được.

May mắn của một người mới lớn lên và yêu Hà Nội một cách đắm đuối như Xuân Quỳnh lúc này là cách cảm cách nghĩ của nhà thơ tương lai cũng gần với cách cảm cách nghĩ của người đương thời.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 09, 2016 21:52

Xuân Quỳnh, phác thảo một tiểu sử(I)



Dưới đây là một số chương trong cuốn sách tôi đã viết dở từ 1995.

Do chỗ đã viết từ 20 năm trước nên cách viết của tôi có khác với cách viết hôm nay.

Đó cũng là lý do tôi chưa biết hoàn thành cuốn sách ra sao.

Giới thiệu ra đây người viết mong có thêm sự cổ vũ của các bạn.



I.Quê hương và gia đình

Nằm cách Hà Nội khoảng 14 km, La Khê là một thôn ngoại vi Hà Đông, không những cùng với dân mấy làng bên cạnh nổi tiếng về nghề dệt the, lụa vân, lụa gấm... mà cũng có không ít người lên làm ăn ở trên Hà Nội. Trong số này có ông giáo Nguyễn Quang Thường hay như dân vùng đấy vẫn gọi, là ông giáo Lục. Dáng cao lớn, tính tình lại hào hoa lịch thiệp, ông giáo Lục thuộc loại người có chữ được làng xóm biết tới, kể cả chữ ta (chữ Hán) lẫn chữ Tây. Bạn bè, những người hay đi lại với ông còn biết ông có cả một tủ sách nho nhỏ, và ngoài nghề dạy học - mà ông không mấy để ý - ông còn rất ham viết báo, tiểu thuyết, nghiên cứu và cả dịch sách nữa.

Nhưng, khổ một nỗi, nghề này là một nghề kén người, ai ham thích cũng được song không phải ai cũng toại nguyện. Sống với nó người ta luôn luôn phải cố, phải với, và tưởng cả đời hy sinh cho nó cũng không đủ! Ông Lục mải mê theo đuổi văn chương đến mức đôi khi xao nhãng cả việc gia đình. Thường ông bỏ đi biền biệt trên Hà Nội, để mặc cho người vợ xinh đẹp mà chính ông cũng đã lấy làm hãnh diện khi cưới, là bà Nguyễn Thị Trích - ông thường gọi trệch đi là bà Trinh - sống với bà mẹ chồng tốt bụng, song lại lắm điều, và hà tiện.

Kể ra, cũng có cái lý để ông Lục buồn chán mà bỏ đi: hai vợ chồng ông lấy nhau đâu đã chục năm, bà đã ba lần sinh nở, nhưng cả ba đều lần lượt qua đời, mỗi cậu sống không được quá sáu tháng. Bà Trinh đã khóc biết bao nhiêu nước mắt, mỗi lần tử thần cướp đi của bà đứa con mà bà đã đứt ruột đẻ ra.

Cho mãi tới lần ấy, mụn con đầu tiên, ông bà nuôi được là một người con gái.

Và khoảng tết âm lịch năm Thìn (1940), lại một người con gái nữa ra đời, và không khí gia đình mới đầm ấm lên được ít chút.

Người con gái trước, được đặt tên là Mai, ấy là do bà Trinh quá yêu nhân vật cô Mai hiếu hạnh trong Nửa chừng xuân nên xin phép chồng đặt tên con như vậy. Ông Lục bằng lòng, chỉ thêm vào đó chữ Đông.

Còn người con gái thứ hai, ra đời vào ngày bắt đầu của mùa xuân, nên ông Lục như ông nói giành “toàn quyền” đặt tên, và ông đã đặt là Xuân Quỳnh.

Bà Trinh nhìn thấy ở hai con lẽ sống, cũng như là nơi nương tựa của bà. Bà vui hẳn lên.

Ông Lục cũng cảm thấy không khí u ám bao phủ gia đình trước kia đã được xua tan, và ông ở nhà với vợ con nhiều hơn. Lúc cao hứng lên, ông rung đùi ngâm:

Nhà lan phong trướng rủ rèm

Thương con cậu mợ một niềm nâng niu

Công trình sá quản bao nhiêu

Đông Mai cậu quý, cậu yêu Xuân Quỳnh

Hai con cậu cũng xinh xinh

Đông Mai là chị, Xuân Quỳnh là em.

Nhưng một ngày nào đó, bắt đầu một sự kiện lớn trong gia đình ông Lục, nó sẽ trở thành một nhân tố tác động vào việc hình thành tính cách con cái trong tương lai - đó là một tai biến ập tới.

Sau khi sinh người con gái thứ hai, bà Trinh liên tiếp bị ốm đau bệnh tật dày vò. Sau hết bà bị phát hiện là mắc một trong tứ chứng nan y, lúc ấy đang là niềm khủng khiếp trong tâm lý mỗi người dân thường: bệnh lao.

Sợ bệnh tật lây ra con cái, bà Trinh vui lòng sống cách ly con, không cho cô con gái thứ hai bú nữa, mà nhờ một người trông hộ, và nuôi bộ.

Chẳng bao lâu sau, nghĩa là cuối năm ấy, bà Trinh qua đời. Đó là một ngày mưa dầm rả rích, dân làng lội bùn bì bõm đưa bà ra bãi tha ma ngoài cánh đồng làng. Mưa quá, đến mức cả hai cô con gái Đông Mai và Xuân Qỳnh đều không ai được theo ra tận bên mồ để giã từ mẹ.

Từ đây, sinh hoạt gia đình chuyển sang một bước ngoặt mới.

Mặc dù gần như chết nửa đời người, khi theo sau quan tài, đưa vợ ra đồng, nhưng ông Lục không có quyền buồn lâu. Riêng việc chưa có con trai nối dõi tông đường, đã có thể coi như lý do để buộc ông nhanh chóng tính chuyện đi bước nữa. Không ai khác, chính bà nội của hai trẻ lại đứng ra cuới cho con trai một người vợ khác ở cùng làng, ngay khi đám tang người con dâu cả của bà mới được sáu tháng.

Ít lâu sau, ông Lục đưa người vợ thứ này lên Hà Nội làm ăn, để hai chị em Mai Quỳnh ở lại sống với bà.

Đến đây, chúng ta bắt gặp hai yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tính cách nhà thơ Xuân Quỳnh:

1. Những ngày nuôi bộ

2. Năm năm đầu, sống ở nơi thôn dã với người bà nội.

Chúng ta sẽ lần lượt dừng lại ở từng yếu tố một:

Những người có dịp làm quen với Xuân Quỳnh, đều sớm có một nhận xét là Xuân Quỳnh rất tự nhiên trong mối quan hệ với mọi người chung quanh. Đến với ai, Quỳnh cũng hồn nhiên khéo léo, lại chuyện trò ròn rã, khiến nhiều người khó tính cũng phải quý mến. Đặc biệt với những người mà Quỳnh có cảm tình riêng, thì thôi khỏi phải nói, một là lúc nào Quỳnh cũng muốn chuyện trò, đi họp đâu cũng muốn ngồi cạnh để còn nói chuyện, hai là sự chăm sóc của Quỳnh với người đó hết sức tỉ mỉ, muốn gì cũng chiều, chiều công khai, chiều ra mặt, cốt cho người ấy và mọi người chung quanh thấy được sự chiều chuộng của Quỳnh mới thôi.

Trong tình yêu, Xuân Quỳnh có những nét của người phụ nữ nồng nhiệt mà nhà văn Trung quốc hiện đại Trương Hiền Lương đã viết trong tiểu thuyết Đàn ông một nửa là đàn bà.

Cô là người đàn bà quyết biểu hiện cho bằng được tình yêu của mình để cho anh biết thật rõ ràng chính xác cô đã phải bỏ ra bao nhiêu, biết cho thật rõ ràng và chính xác sức nặng và mức độ tình yêu của cô

Nét tính cách ấy không phải chỉ có mặt tốt. Đây đó, có thể nó làm cho người ta khó chịu, cả bạn bè khó chịu. Nhưng phải thế mới là Xuân Quỳnh.

“Thuở nhỏ tôi cũng di-gan lắm, toàn đi bú chực” - người viết cuốn sách này nhớ lời kể của Xuân Quỳnh trong một lần trò chuyện, và đã thường lấy đó làm một nhân tố, để giải thích cách sống, cách cư xử của Xuân Quỳnh.

Đến khi được đọc cuốn hồi ký của Đông Mai Xuân Quỳnh nửa cuộc đời tôi, thì cái cảm tưởng hôm trước càng được khẳng định.

Ở nông thôn ta ngày trước, sữa bò đâu đã phổ biến như bây giờ. Bởi vậy, nhiều đứa trẻ được nuôi bộ, nghĩa là chuyên môn đi bú chực. Xem nhà nào cũng có con nhỏ mới đẻ, thì người trông trẻ mang đứa trẻ mà mình nhận nuôi bộ tới. Nói năng cầu khẩn để người mẹ trẻ kia cho đứa nhỏ này bú là việc của người lớn.

Nhưng về phần đứa trẻ, cũng phải nhận là nó lâm vào một hoàn cảnh khác thường. Nay sữa người này mai sữa người khác, mỗi người một hơi, mà không được lạ, không được dị ứng, ngược lại phải sống bằng cảm giác có sữa là bú, có người cho bú là mừng rồi!

Một cách bản năng, đứa trẻ còn phải tìm cách lấy lòng người mẹ có sữa để người ta vui vẻ cho bú (mà theo cách lý giải của khoa tâm sinh lý phụ nữ, người cho bú có vui vẻ thì sữa mới ra nhiều!).

Lại cũng có khi, giữa bọn trẻ với nhau cũng có sự ghen tị.

Bé A. dù mới 1-2 tuổi nhưng nhiều khi thấy mẹ cho bé B. bú, là không bằng lòng, là kêu khóc, nhiều khi còn xông vào cào cấu.

Nhưng bé B ở thế yếu, thân đi bú chực, còn có cách nào khác hơn là bám riết nguồn sữa.

Trừ khi bị từ chối thì thôi, chứ còn có người cho bú là còn bú.

Cái con người dễ chấp nhận kẻ khác, biết lấy lòng họ một cách tự nhiên... mà sau này, chúng tôi bắt gặp ở Xuân Quỳnh - cái đặc tính mà Xuân Quỳnh đã miêu tả trong hai chữ di-gan, nghĩa là vạ vật lang chạ, trong mức độ chưa bị coi là bừa bãi - có vẻ như bắt nguồn từ điều kiện sống đặc biệt của cái năm đầu tiên tồn tại trong đời như vậy.

(Trong số các nhà văn nhà thơ Việt Nam hiện đại, theo sự tìm hiểu còn hạn chế của tôi, cùng có một người mẹ mất sớm và thường phải đi “bú chực”, đó là Nguyễn Bính, còn sự liên hệ giữa tình cảm này với tính cách con người tác giả Lỡ bước sang ngang ra sao thì chúng tôi chưa được rõ)

Bây giờ tới chuyện cuộc sống của Xuân Quỳnh những năm sống bên người bà.

Trong cuốn hồi ký của mình, Đông Mai đã nhấn mạnh bà nội mình là một người tốt, nhưng quá hà tiện, nên trở thành cay nghiệt. Đại khái, có khi chỉ tiếc dăm xu tàu điện mà cụ dắt cháu đi bộ từ quê lên Hà Nội thăm bố (khoảng cách hơn chục cây số).

Những bữa cơm gia đình mà ba bà cháu hàng ngày thổi nấu cho nhau ăn, chỉ quanh quẩn toàn những rau mọc hoang ở vườn dậu, hoặc rau tự trồng, cộng với cà tương, thảng hoặc có tí đậu phụ, chỉ giỗ tết mới có thịt.

Chẳng thế mà bé Quỳnh béo khoẻ mập mạp, hồi còn bú chực, giờ ngày càng gầy yếu, “mắt như hai cái chén” (lời Xuân Quỳnh kể lại với người viết những dòng này).

Tuy vậy, Xuân Quỳnh không bao giờ nhầm lẫn con người đích thực của bà nội mình.

Với bản tính thương người và khả năng thích ứng sẵn có, Quỳnh hàng ngày quấn quýt bên bà, làm mọi việc để bà vui lòng. Nhất là Quỳnh để ý và chia sẻ từng vui buồn bé nhỏ của bà.

Cứ thế, dần dần hình thành ở Quỳnh cách cảm, cách nghĩa hồn hậu của một người sống cả đời ở nông thôn, và dù sau này cuộc đời bao thay đổi, thì cách cảm, cách nghĩ hồn hậu ấy vẫn còn nguyên ở Xuân Quỳnh.

Không phải ngẫu nhiên một biên tập viên của Nhà xuất bản Kim Đồng là Lê Phương Liên, khi nhắc lại những trang truyện thiếu nhi hấp dẫn của Xuân Quỳnh, nói rõ ngay rằng đó là do Xuân Quỳnh có một giọng kể gần dân gian. “Nếu ai đã gặp chị một lần, thật khó lòng mà quên được giọng nói và cách nói của chị. Thật vui vẻ, thật đáo để nhưng vẫn đằm thắm rung động tinh tế của truyền thống dân tộc”.

Với Lê Phương Liên, nghĩ tới nhà thơ là đầu óc trở lại cái câu nói đơn giản mà Xuân Quỳnh dùng để mở đầu cho một tham luận cho hội nghị văn hoá thiếu nhi 1980: “Thuở bé, tôi sống ở làng”.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 09, 2016 21:34

December 4, 2016

Hai bài viết về Hồ Dzếnh











Người lữ hành đơn độc trong nửa thế kỷ văn học
Với tập thơ Quê ngoại, nhất là với tập truyện ngắn Chân
trời cũ,
 Hồ Dzếnh đã tạo ra được một vị trí vững vàng trong đời sống
văn học trước 1945. Từ góc độ tâm lí sáng tác mà xét, văn phẩm của ông có vẻ
như một minh chứng xác thực cho cái điều thỉnh thoảng các nhà văn vẫn nói: viết
văn, ấy là phương tiện duy nhất để con người ta thoát khỏi sự đơn độc.

Theo nghĩa ấy đơn độc chính là nét độc đáo làm nên số phận Hồ Dzếnh 


" Những nỗi u kín của ngày xưa"

Chân trời cũ in
ra lần đầu vào năm 1942. Cho đến trước năm 1945, tập truyện ngắn đó còn
được in lại một vài lần, đại khái cũng bằng số lần mà nó được in lại ở
vùng tạm chiếm Hà Nội trước 1954.




Bẵng đi một thời gian, không thấy cuốn sách ra mắt bạn đọc, thậm chí nhắc đến nó, người ta cũng ngại.

Nhưng
đến cuối những năm 80, nó lại “tái xuất giang hồ” và từ đây trở đi thì
đều đều có mặt trên thị trường, giống như những bạn cùng trang lứa Số đỏChí Phèo, Tắt đènNhững ngày thơ ấu

Có vẻ như dần dần, người ta đã xác định được vai trò của Chân trời cũ trên
văn đàn: ấy là loại tác phẩm không gây ra những choáng váng, đột ngột,
song luôn luôn có bạn đọc; hết lớp này đến lớp khác, các thế hệ bạn đọc
tìm đến những trang sách, lại thấy chúng như là vừa viết cho mình. Trong
cái thế giới do Hồ Dzếnh phác ra đó, một thế giới “mang nặng những nỗi u
kín của ngày xưa” như ông hằng nói, con người ta thất bại mà không ngã
lòng, mất mát mà không hoảng hốt, bị phản bội mà không thù hận, thậm chí
có khi sa đà, hư hỏng mà vẫn gợi được tình thương của mọi người. Bằng
một giọng kể ngậm ngùi chân chất, các trang sách như luôn thì thầm với
những ai đang đọc nó, rằng cuộc đời thật oái oăm, thật nhiều đớn đau
buồn thảm, cuộc đời là dâu bể, con người chỉ có cách nhẫn nại cam chịu
mà sống cho qua ngày. Nhưng nó vẫn không quên giả thiết rằng, trong sự
nhẫn nại và cam chịu ấy, từ mỗi con người lại ánh lên vẻ đẹp cao quý,
đấy chính là lý do làm cho ta đáng sống và lờ mờ thấy hình như cuộc sống
còn có ý nghĩa nào đó.




Riêng về tập Quê ngoại, tập
thơ ông có ngụ ý đề tặng cho Quê mẹ Việt Nam, thì trong bối cảnh của
trào lưu lãng mạn những năm 30 và 40 trong đó thơ văn mở ra việc tự phát
hiện cái thế giới bên trong của tâm hồn người Việt Nam, cùng với một
Xuân Diệu “rất tây”, một Huy Cận “mang mang” chất học sinh thành thị,
hay một Nguyễn Bính của “hồn quê”…, thơ Hồ Dzếnh là tiếng lòng của những
tâm hồn học sinh sống ở huyện lỵ, đã tách khỏi nông thôn rồi mà lúc nào
cũng lưu luyến nông thôn, những thiên nhiên, hoa bướm, những mối tình
ngẩn ngơ vụng dại, giống như những trang văn xuôi của Đỗ Tốn trong tập
truyện ngắn Hoa vông vang.

Sự xa lạ rất gần gũi

Để
nói tới những ngang ngược vô lý trong yêu cầu của con người với văn
chương, nhà văn Liên Xô I.Ehrenbourg từng kể lại câu chuyện như sau:

Lần
ấy, ông cùng các đồng nghiệp đang họp để bàn phương hướng sáng tác thì
có một số đại biểu công nhân đến dự. Thôi thì ngành nào cũng ra sức ân
cần mời mọc để các nhà văn tới chỗ mình và viết về ngành mình. Được lời
như cởi tấm lòng, dĩ nhiên là nhiều cây bút sung sướng lắm, đi bằng
được, về viết và đòi in ra bằng được. Chỉ ít lâu sau, họ mới vỡ lẽ: công
nhân dệt nhiều khi rất ngại đọc tiểu thuyết viết về ngành dệt, thợ mỏ
thì không phải bao giờ cũng thích đọc những trang sách “ăn tươi nuốt
sống” thực tế vùng mỏ của họ. Mà ở đâu và ngành nào cũng vậy, thợ dệt
hay thợ mỏ, công nhân nghề rừng hay anh em lái xe vận tải… họ đều chỉ
thích những tác phẩm hay, kể cả mấy cuốn sách toàn kể về đời tư của các
vị công tước bá tước thời xưa, chẳng hạn loại Con đầm pích, Chiến tranh và hòa bình, Anna Karênina v.v…

Trở lại với trường hợp tập truyện ngắn Chân trời cũ. Trên
đất nước này, số người Hoa định cư rải rác đủ các nơi thật, song so với
dân bản địa, không thể gọi là nhiều. Đặc biệt số phụ nữ gốc Tàu thứ
thiệt, loại người Trung Hoa “quý phái” như Hồ Dzếnh gọi, lớn lên bên
chính quốc, sau mới sang làm dâu các gia đình người Hoa bên này, số đó
lại càng ít, có lẽ tính chi li thì phải nói trong hàng triệu người mới
có một hai người. Vậy mà cớ sao một thiên truyện như Người chị dâu tôi cứ
làm chúng ta xúc động, và ta sẵn sàng đọc đi đọc lại nó hơn là đọc hàng
trăm thiên truyện lẩm cẩm viết ngay về những người xung quanh ta và rất
giống ta nữa.

Cắt nghĩa rằng Hồ Dzếnh viết hay mà những người khác viết dở, thì cũng bằng chưa cắt nghĩa gì.

Đúng
hơn, có lẽ nên nói trong bóng dáng người chị dâu “đặc Tàu” ấy, nhiều
người chúng ta tìm thấy tâm tình, số phận của chính mình.


thể là từ bé đến giờ, thực ra thì bạn vẫn khổ, nhưng sao trong một góc
tâm tư nào đó, bạn vẫn lướng vướng để sót lại cái ý nghĩ rằng xưa kia,
nếu không thì kiếp trước, bạn sướng lắm, và cuộc sống hôm nay chưa phải
đã xứng đáng với chính bạn. Bởi thế, trong việc một người phụ nữ Trung
Hoa gạt nước mắt để lam làm chịu đựng, cốt sao thích ứng với hoàn cảnh,
với gia đình nhà chồng, trong tình thế người đàn bà ấy từ bỏ mọi hy
vọng, âm thầm tự khác mình đi, đánh mất mình nữa, cốt sao tồn tại, bạn
thấy có nét gì chung của mọi kiếp người, trong đó có bạn. Vả chăng, cuộc
biến đổi diễn ra một cách bình thản, từ tốn, nên sự đầu hàng của người
đàn bà ấy, của mỗi chúng ta – nếu có thể nói như vậy – không có gì là
trái tự nhiên cả. ấy có lẽ là điều Hồ Dzếnh nhắn thêm với ta khi ông,
theo lối bỏ nhỏ, đặt vào thiên truyện cái hình ảnh “người đàn bà buồn
khổ sàng từng hạt tấm xuống nong, trong khi trời chiều sàng từng giọt
hoàng hôn xuống tóc”.

Không
chỉ riêng người chị dâu lưu lạc mà bất cứ ai trong gia đình riêng của
Hồ Dzếnh, chú Nhì và chị Yên, em Dìn và người anh xấu số… phàm đã được
tác giả để mắt tới rồi kể lại, cũng đều khiến người đọc bâng khuâng, bởi
lẽ trước sau vẫn một bút pháp ấy, bút pháp nói về những gì tưởng xa lạ
mà lại gần gũi với tâm tưởng mỗi người đọc. Sau hết, cái kỳ lạ của Chân trời cũ nằm
ngay ở trong tình thế của tác giả, mối quan hệ giữa Hồ Dzếnh và nền văn
học đương thời. Cha ông vốn gốc Quảng Đông mới sang đây một đời, chỉ có
mẹ ông là người Việt. Rõ ràng, khi nói về xứ sở này, ông ở vào cái tình
thế chông chênh chân trong chân ngoài, quê hương là thực mà như là hư,
là phải mà lại như không phải, gần gũi đấy, mà lại xa vời đấy. Nhưng có
lẽ chính vì thế mà ở ông có cái lui tới trong cách nhìn, cái xót xa
trong tình cảm, cái khao khát vươn tới một mảnh đất tâm linh tưởng không
bao giờ vươn tới nổi… Bấy nhiêu yếu tố hội lại khiến cho các trang văn
của ông có được chất thơ chân chính.

“Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở”

Có một bộ phận hợp thành của Chân trời cũ
trong một số lần xuất bản gần đây, có khi người ta bỏ qua, có khi xếp
không đúng chỗ, và chỉ ở một số bản in, mới thấy nó được trả lại cái vị
trí vốn có, ấy là lời tựa của Thạch Lam cho tập sách.

Trong
một lần nói chuyện với người viết bài này, Hồ Dzếnh bảo rằng nếu trong
mấy chục năm qua, có một thứ gì ông đã đánh mất, để rồi bây giờ, thấy
tiếc hơn cả, thì đó chính là bản viết tay của lời tựa ấy.

Không phải ngẫu nhiên, trên tạp chí Thanh nghị số 33 (1943), Phạm Chí Lương (người được Hồ Dzếnh đề tặng thiên truyện Em Dìn) từng có bài viết xếp Thạch Lam, Thanh Tịnh và Hồ Dzếnh vào chung một dòng phái ấn tượng chủ nghĩa.

Cũng trên Thanh Nghị năm ấy, trước đó mấy số, Hồ Dzếnh cho in thiên truyện Sáng trăng suông với lời đề từ ngắn gọn mà hôm nay đây đọc lên, hẳn nhiều người còn thấy nao lòng Tặng gió đầu mùa xa xôi.

Thiên truyện được viết sau khi Thạch Lam mất và chỉ được bổ sung vào Chân trời cũ trong những lần in lại.

Với Hồ Dzếnh, dường như Thạch Lam đồng nghĩa với nền văn học đương thời.

Nhà văn ấy đã dang rộng tay đón Hồ Dzếnh, khi ông mới chập chững trên những trang viết đầu tiên.

Nền
văn học ấy còn để lại trong ông bao kỷ niệm, nào là in sách xong, mang
bán rong khắp Đông Dương với người này, nào những ngày làm báo với người
kia, nào một lần gặp mặt nhưng còn nhớ mãi một người khác nữa.

Gần
như đã thành công khai, đồng nghiệp và bạn đọc nhiều người biết rằng Hồ
Dzếnh còn có một bút danh là Lưu Thị Hạnh. Bút danh ấy ông ký sau mấy
cuốn tiểu thuyết Một truyện tình 15 năm về trước, Tiếng kêu trong máu, Những vành khăn trắng. Được
hỏi về việc này, Hồ Dzếnh chỉ mỉm cười, một nụ cười độ lượng. Gặng mãi
ông mới trả lời đại khái rằng, âu cũng là một cách thử làm nghề, thử lăn
lộn với việc cầm bút.

Nghĩa là, nếu nhập cuộc, nếu đi hẳn với nghề viết văn, ông cũng có thể ngang ngửa như bất cứ ai.

Nhưng
không, do một sự xui khiến huyền bí nào đó, ông không chọn con đường
vạch sẵn ấy. Luôn luôn Hồ Dzếnh đứng cách nghề văn một khoảng cách cần
thiết. Trước kia thì dạy học, làm thư ký cho các hãng buôn, cùng lắm thì
làm báo, sau này nhiều năm làm thợ đúc thép… Lúc nào ông cũng có một
nghề khác để kiếm sống và chỉ viết văn làm thơ theo sự bức xúc của nội
tâm và sự thích thú của từng lúc. Hẳn điều đó có mang lại cho ông những
thiệt thòi nào đó. Nó không giải phóng hết mọi khả năng vốn có nơi ông.
Nó làm cho ông nhiều khi cứ có cái vẻ ngơ ngác ngây thơ của một người
ngoài cuộc. Nhưng để bù lại, nó giúp cho ông tránh được tình trạng bảo
cứng lại, cằn đi cũng được, bảo úa ra chết mòn cũng được, ấy là cái tình
trạng hết nhung hết tuyết rồi mà vẫn cứ sống ườn ra trong nghề, như
người ta thường thấy ở không ít cây bút công chức khác.

 Còn nhớ Hồ Dzếnh từng có bài thơ Ngập ngừng trong
đó ông bảo rằng tình yêu đến mức đắm đuối nhất phải là tình yêu không
đến với nhau, vì đến với nhau, rồi sẽ thất vọng. ý tưởng ấy hẳn đã chi
phối những suy nghĩ của ông về nghề văn và đến lượt mình, điều đó lại
làm chúng ta thấy ra rằng với nghề này, lúc nào ông cũng giữ được một
tình yêu bền bỉ.

In lần đầu trong Những kiép hoa dại 1993,

sau đó in lại trong Cánh bướm và dóa hướng dương, 1999



                                      Chân trời không bao giờ cũ 

Hồ Dzếnh qua đời ở tuổi 75, song quả thật, ông hầu như đã ngừng viết
trước dó rất lâu. Sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) cũng đã có một
vài cuốn sách mang tên ông được xuất bản – cả sách sáng tác lẫn sách
dịch – có điều chúng không có gì đáng kể và sự thực là trong cuốn Hồ Dzếnh tác phẩm chọn lọc làm năm 1987 khi ông còn sống, phần chủ yếu vẫn là tập truyện ngắn Chân trời cũ cùng ít bài thơ trong Quê ngoại.

 Bảo rằng về già, Hồ Dzếnh sống trong chờ đợi thì cũng không hẳn. Những
gì tâm huyết đã mang cống hiến cho đời và ông sống khá thanh thản. May
mà trong trường hợp này lịch sử đã công bằng.

Mấy năm trước khi mất, chẳng những Hồ Dzếnh có tuyển tập mang tặng bạn bè mà ông còn có dịp chứng kiến Chân trời cũ
được in lại ở mấy chỗ, trong sự tha thiết yêu chiều của bạn dọc, nhất
là những bạn đã đọc văn Hồ Dzếnh từ lâu, mà không kiếm được sách. Thật
là một sự ơn trả nghĩa đền xứng đáng.

Cuộc đời mỗi nhà văn – cũng giống như cuộc đời mỗi con người – là một
cái gì độc đáo, không ai giống ai, và mọi ý muốn người ta áp đặt cho
nhau, khuyên bảo nhau, suy cho cùng, đều chả mấy nghĩa lý: số phận là
cái không ai có thể chọn lựa. Dẫu sao nghĩ lại thì thấy trừ những kẻ bất
tài và lười biếng, ở đây, trong văn chương đại khái có hai cách tồn
tại. Một là những tác giả, viết luôn tay, viết đều, có khi lại hoạt động
trên các thể loại khác nhau, và như có bàn tay vàng, làm gì cũng nổi
lên tự nhiên và sự nghiệp toà ngang dãy dọc đồ sộ. Và thứ hai là loại
người sống như kẻ lơ đãng, tâm trí để tận đâu đâu, họ chỉ viết rất ít,
cả một đời văn thu gọn trong một vài quyển sách chi đó. Song chỉ thế
thôi mà cứ là sống mãi trong lòng người yêu văn chương. Không nói đâu
xa, ngay trong các nhà văn Việt Nam thế kỷ hai mươi cũng đã thấy có sự
phân chia đôi ngả đôi dòng như vậy. Một bên là Khái Hưng, Nguyễn Công
Hoan, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính… và bên kia là Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Nguyễn Nhược Pháp, và lùi về phía sau một chút, là Quang
Dũng.

Cố nhiên, Hồ Dzếnh cũng thuộc cái loại thứ hai chúng ta đang nói. Tên tuổi ông gắn liền với Chân trời cũ,
ở đó người ta đọc ra tiểu sử, những từng trải riêng của đời sống và cả
cách cảm cách nghĩ riêng của Hồ Dzếnh trước cuộc đời này nữa.

Mặc dù được viết ra khi tác giả mới 26 tuổi, và chủ yếu nói về những năm tuổi trẻ của một đời người, song Chân trời cũ
lại có một sự già dặn riêng. Nó là thứ văn chương không có tuổi. Thậm
chí – bây giờ đã đến lúc có thể nói được điều này – nó là thứ văn chương
viết xong người ta có thể gác bút, có thể buông tay nhắm mắt.  Và chỉ
nhờ thế, cuốn sách chưa đầy 200 trang đó, mới đủ tư cách để đưa một con
người trở thành một tên tuổi vĩnh viễn trong lịch sử văn học.

Những người có dịp gặp gỡ Hồ Dzếnh mấy năm cuối đời hẳn còn nhớ ông già
trên 70 tuổi ấy luôn luôn có cái vẻ thản nhiên, hình như mọi chuyện “thế sự buồn rầu và cảnh đời hùng tráng”
chữ của Hồ Dzếnh – mình đều đã biết cả rồi, thiệt hơn thế nào cũng
được, cuộc sống là thực mà cũng là một cõi hư vô nào đó. Thành thử, ông
lại luôn luôn tìm được niềm vui hồn nhiên của mình. Nụ cười ấy đã thường
trực trong tâm trí Hồ Dzếnh cho đến khi ông chia tay chúng ta.



  Viết  ngày Hồ Dzếnh qua đời 13-8-1991

 Đã in trong Chuyện cũ văn chương 2001








  Hai bài viết trên , sau khi in sách đã được đưa
trên blog  VTN  ngày 18-12- 2011. Vì được đưa liền sau
 một bài về Thanh Tịnh, nên có kèm theo lời dẫn sau


    CÒN PHẢI VIẾT THÊM VỀ NHỮNG NỖI BUỒN, NHỮNG CON NGƯỜI CÔ ĐỘC

    Có hai nguyên tắc chi phối các nhà sáng tác ở ta, một thứ lạt mềm buộc chặt rất khó trốn nổi.

       Thứ nhất nên tập trung làm nổi những gì tốt đẹp trong cuộc đời, đại khái chỉ nên viết về niềm vui chứ không viết về nỗi buồn, cũng như chỉ nên viết về thành đạt quang vinh  mà không bao giờ nên dừng lại ở bất lực thất bại. Thứ hai, khi miêu tả con người, phải đặt họ trong sự gắn bó với chung quanh, không được dừng lại ở những con người cô độc.

       Các nguyên tắc này cũng chi phối cả trong công việc nghiên cứu về tác giả mà giới phê bình văn học thường xuyên tiến hành. Sự đơn độc cá nhân vốn không được chấp nhận trên phương diện công dân, lại cũng không được khuyến khích với các nhà văn – phương hướng khai thác đã rõ  chớ có làm khác .

        Đó là những điều sơ đẳng khi vào nghề, tôi cũng như các bạn cùng lứa sớm được dạy dỗ. Có điều những gì tiếp thu được do tìm hiểu học hỏi từ các tài liệu sách vở về xã hội học tâm lý học …, nói với tôi ngược lại. Và tôi tìm thấy sự ngược dòng này ngay trong các nhà văn hồi đó đang sống, rõ nhất là trong Hồ Dzếnh và Thanh Tịnh.     

      Hai nhà văn này đều là người mà nửa đầu cuộc đời có những thành tựu sáng rõ và độc đáo, còn nửa sau, sống như những cái bóng mòn mỏi, cô đơn. Hồ Dzếnh buộc phải nghỉ viết, Thanh Tịnh tuy vẫn sống giữa người viết đó, nhưng quay ra làm những việc có vẻ như khá phù phiếm và  xa lạ hẳn với cái mạch sáng tác vốn có từ trước.

      Hai cách tồn tại này là những ca, những trường hợp điển hình giúp ta hình dung về cách tồn tại của những người làm nghề văn nửa cuối thế kỷ XX.

       Với Thanh Tịnh tôi có điều kiện sống gần, nên dừng lại ở phần con người của ông.

      Với Hồ Dzếnh mà tôi mới làm quen một hai năm trước khi qua đời, tôi chỉ có thể viết về những tác phẩm của ông trước 1945, chủ yếu là tập Chân trời cũ. Song  cách sống của ông khoảng 1958 - 86 cũng để lại cho tôi một ấn tượng rõ rệt, chính nó làm nền cho khái quát về con người ông.

      Từ hai bài về Thanh Tịnh và Hồ Dzếnh   tôi cảm thấy đơn độc vừa là số phận -- với nghĩa một tai họa  mà cũng vừa là hạnh phúc -- với nghĩa một cảm giác mà thường mỗi ngòi bút cảm thấy khi biết rằng mình đang trở thành chính mình.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 04, 2016 07:23

September 28, 2016

Một bài viết của Liễu Trương về Dương Nghiễm Mậu

Vào dịp Dương Nghiễm Mậu qua đời vừa qua, một số bài viết lâu nay chỉ ít người biết về nhà văn đã được in lại, ví dụ bài viết dưới đây của Liễu Trương in lần đầu trên mạng cá nhân của nhà nghiên cứu ngày 1-1-2016 đã được Diễn đàn thế kỷ in lại vào ngày 7-8-2016, trước đó được Da màu in lại vào ngày 3-6-2016. Riêng tôi có quen biết sơ sơ với Liễu Trương đang sống ở Pháp từng thấy bài viết này của chị trên bảng mục lục mà chưa kịp đọc, nay có dịp đọc lại thấy nên tiếp tục công việc của Da màuDiễn đàn thế kỷ, là đưa nó ra với các bạn  cùng mối quan tâm .  Sở dĩ tôi cảm thấy thich thú với bài viết của Liễu Trương trước tiên vì nó đề cập tới chủ đề chiến tranh là điều chúng ta còn phải tìm hiểu nhiều, ngoài ra nó cũng cho thấy tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu có khả năng chấp nhận những cách đọc hiện đại là điều bản thân tôi đã cảm thấy nhưng chưa làm được. Vậy xin giới thiệu với các bạn



DƯƠNG NGHIỄM MẬU VÀ MÊ LỘ CỦA NGƯỜI ANH HÙNG



Dương Nghiễm Mậu đã sớm xuất hiện trên văn đàn miền Nam, với những truyện :Cũng đành Gia tài người mẹ ra năm 1963. Năm 1966, Dương Nghiễm Mậu được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc với tác phẩm Gia tài người mẹ. Sau hai tác phẩm vừa kể, tác giả không ngừng sáng tác; tính đến năm 1972 Dương Nghiễm Mậu đã có khoảng 20 tác phẩm. Đọc truyện của ông, người đọc có thể nhận thấy những tìm tòi về nghệ thuật dựng truyện, những cố gắng ra khỏi đường mòn khuôn sáo, truyện dài Con sâu xuất bản năm 1971 là một bằng chứng. Ngoài những truyện dài, Dương Nghiễm Mậu còn là tác giả của những tập truyện ngắn như : Kinh cầu nguyện (1967), Quê người (1972), v.v… Trong số những truyện ngắn của ông đăng trên tạp chí Văn, năm 1972, có một truyện mang tựa đề : Chuyến trở về sau cùng (Giai phẩm Văn 1972), rất đáng được chú ý, vì ngoài cách đọc thông thường truyện còn gợi một cách đọc khác : cách đọc theo biểu tượng, khiến chiều kích của truyện được mở rộng để đạt đến những khái niệm bất ngờ.



Vào thời quê hương chìm ngập trong khói lửa, làm sao văn chương đừng phản ánh thảm họa chiến tranh? Cũng như vô số truyện của các tác giả miền Nam, Chuyến trở về sau cùng bắt nguồn từ chiến tranh. Truyện kể việc đưa quan tài một người lính tử trận về cho gia đình. Một người lính trẻ, sau một cuộc phục kích, trên đường về bị trúng đạn chết. Lẽ ra một tiểu đội phải đưa tiễn kẻ xấu số về với gia đình, nhưng tình hình thiếu an ninh nên chỉ có một người tài xế và một người lính làm nhiệm vụ này. Sau nghi lễ nhập quan, lính trong tiểu khu đi tìm hoa, bất cứ hoa gì, hoa dại, hoa vạn thọ, hoa giấy… để kết một vòng hoa, cái khung được làm bằng giây kẽm gai. Quan tài được đặt giữa lòng xe, có lá quốc kỳ phủ lên, một ống bơ dùng làm bình nhan. Người lính đội mũ sắt, tay cầm súng, ngồi gác bên cạnh. Từ trên cao nguyên, xe chạy theo quốc lộ về thành phố và phải qua nhiều trạm kiểm soát, đến mỗi trạm, người tài xế phải xuống xe, trình giấy tờ. Đi được hai phần ba đường thì xe đến một tiểu khu. Trời bắt đầu tối, người tài xế xin phép đậu xe để nghỉ đêm. Sáng hôm sau, người tài xế dậy trước, di rửa mặt và trở lại xe gọi bạn thức dậy, người lính nhảy xuống xe, cái quần vướng vào vòng hoa và vòng hoa rơi xuống đường, hoa bắt đầu héo,người lính nhặt vòng hoa và đặt lại trên xe. Hai người vào câu lạc bộ ăn sáng, khi trở ra chiếc xe biến mất, họ đâm lo lắng, mới hay chiếc xe bị kéo ra sau tiểu khu, vì có một nhân vật quan trọng sắp đến. Rồi họ tiếp tục cuộc hành trình. Xe chạy dọc con đường lớn của tỉnh lỵ, tới đầu quốc lộ, tiếp tục chạy, rồi ngừng lại một trạm kiểm soát, rồi chạy giữa rừng cao su, qua một cây cầu xi măng. Vòng hoa trên xe héo rũ trơ ra cái vòng kẽm gai, người lính vứt vòng hoa xuống đường. Xe chạy nhanh trên quốc lộ, vì người tài xế muốn làm xong nhiệm vụ sớm, cả người tài xế và người lính đều cảm thấy mỏi mệt. Khi đứng trưa, xe vào tới thị trấn, dừng lại, người tài xế ghé đồn quân cảnh trình giấy tờ, gửi xe, rồi hai người đi ăn trưa. Nắng tóe lửa. Trong cuộc đối thoại giữa hai người, người lính tỏ vẻ ái ngại, sợ xác chết trong quan tài phình lên. Người tài xế trái lại không có vẻ gì lo lắng, anh ta đã thấy nhiều cảnh khủng khiếp, xác chết đã sình lên, chảy nước, thế mà người thân vẫn ôm lấy mà khóc; theo anh ta, người lính trẻ này có phúc: Một mình một ngựa trở về thảnh thơi (tr. 59). Người tài xế không muốn đem tin dữ đến với gia đình, anh ta gọi đó là vai trò tử thần. Xe ra khỏi đồn cảnh binh, chạy vào đường phố. Hai người bắt đầu tìm đường. Xe đến ngã tư thứ nhất, rồi qua khu nghĩa địa. Đến khu dân cư, tưởngđã đến nơi, nhưng phải đi tới một ngõ lớn. Đến nơi xe ngừng, đúng là ấp Tây nhứt ghi trên giấy tờ. Đầu ngõ có cái quán, người trong quán cho biết không phải hẻm này. Khi đến đúng con hẻm 131/32, xe chạy vào trong hẻm. Tìm đúng số nhà, nhưng hỏi ra mới biết gia đình thân nhân của người lính chết đã dọn đi nơi khác, không để lại địa chỉ.



Người tài xế và người lính nản lòng, lúng túng không biết phải làm sao. Truyện đến đây chấm dứt.



Truyện xảy ra trong những không gian tiếp nối nhau. Tác giả miêu tả cuộc hành trình từ trên cao nguyên về đến thành phố một cách tỉ mỉ như một cuốn phim quay chậm. Người đọc có cảm tưởng thời gian chậm lại qua nhiều chặng đường, nhiều trạm kiểm soát, qua sự mệt mỏi của người tài xế và người lính phải ngủ dọc đường, phảiăn sáng, ăn trưa trong cái nóng hừng hực và bụi bặm. Khi đến thành phố cũng chưa xong, còn phải cho xe chạy ngoằn ngoèo một lúc, rồi khi đến đúng cái ấp Tây nhứt cũng vẫn chưa xong, còn phải bỏ con hẻm thứ nhất để đến con hẻm thứ hai mới đếnđúng số nhà, đúng số nhà nhưng không đúng gia đình, một lần nữa người tài xế vàngười lính vẫn không đạt đến mục tiêu.



Cuốn phim được quay chậm cũng để người đọc thấy phản ứng của mọi người trong khu dân cư. Trong cái quán đầu ngõ hẻm thứ nhất, khi thấy chiếc xe chở quan tài dừng lại và người tài xế xuống xe cầm giấy hỏi thăm, thì mọi người bỗng im bặt, hồi hộp, lo sợ, tự hỏi con ai đây. Rồi khi biết là xe đi lầm ngõ thì họ thở phào nhẹ nhõm, tiếng nói, tiếng cười lại vang lên, nhưng họ vẫn tỏ ra xót xa cho gia đình nào đó đã có con chết. Qua ngõ hẻm thứ hai cũng có nhiều người đứng hai bên ngõ im lặng theo dõi, Trong ngôi nhà mang đúng con số đã ghi trên giấy, một người đàn bà và một cô gái chạy ra thất thần, sắp òa lên khóc, tưởng người ta đem xác con trai mình, em mình về. Nhưng khi biết có sự lầm lẫn với gia đình người xấu số đã dọn đi nơi khác, họ như thoát nạn. Hình ảnh như được phóng lớn cho thấy nỗi lo sợ của mọi người : những người có con em đang chiến đấu ngoài mặt trận cũng như những người tuy không có người thân đang vào sinh ra tử, nhưng đầy lòng trắc ẩn.



Truyện tác giả kể phản ánh hiện thực với những sự kiện cụ thể, quá quen thuộc đối với những người đã từng sống vào thời đó.



Mặt khác, truyện Chuyến trở về sau cùng hàm nhiều ẩn nghĩa, vì như chúng ta biết, một tác phẩm, một văn bản có thể được giải thích bằng nhiều cách, vì lẽ tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tác phẩm mở.



Vậy có thể đọc truyện này ở một mức độ khác : mức độ biểu tượng. Nhưng trước hết biểu tượng là gì ? Theo tự điển Dictionnaire des termes littéraires (Nxb Honoré Champion, Paris, 2005), thì khi người ta nói đến biểu tượng, người ta nghĩ đến sự liên hệ gián tiếp nối liền một hình tượng (một đồ vật, một hành động, một cử chỉ…) với một ý tưởng hay một khái niệm. Lắm khi sự liên hệ đó căn cứ vào một hoán dụ, ví dụ: cái vương trượng để chỉ vương quyền, hay căn cứ vào một ẩn dụ, ví dụ: hoa huệ được dùng để chỉ sự trong trắng. Sự liên hệ giữa cái biểu tượng và cái nó dẫn đến thuộc tính gợi cảm hơn là tính hợp lý. Còn theo tự điển Le Dictionnaire du Littéraire (Nxb PUF, 2002), thì biểu tượng không thể tách biệt với đời sống con người, với sự thấu hiểu về thế giới. Biểu tượng khiến sự lưu truyền quá khứ có tính truyền thuyết được thêm vững chắc và khiến những truyền thống (tín ngưỡng, nghi lễ, cách xử sự) trở nên chính đáng. Như thế biểu tượng làm cho sự kết hợp chặt chẽ của một cộng đồng được lâu bền.



Ngoài ra, biểu tượng nuôi dưỡng văn chương và phong phú hóa văn chương.



Trong bài tựa cho cuốn sách phê bình: Jean-Jacques Rousseau, la transparence et l’obstacle (Jean-Jacques Rousseau, sự trong suốt và sự cản trở), nhà phê bình văn học nổi tiếng Jean Starobinski muốn làm mới cách đọc một văn bản bằng cách đưa lên hàng đầu giá trị của biểu tượng, ông viết : « Ngược lại với một lối phê bình có tính ép buộc, áp đặt từ bên ngoài những giá trị, thứ tự và những xếp đặt đã định sẵn của nó, chúng tôi thích có một lối đọc chỉ cố gắng phát hiện sự thứ tự hay vô thứ tự bên trong của văn bản mà lối đọc đó tra vấn, cố gắng phát hiện những biểu tượng và những ý tưởng theo đó tư duy của nhà văn được sắp đặt ».



Nhiều lý do cho phép đọc truyện Chuyến trở về sau cùng theo biểu tượng. Trước hết các nhân vật trong truyện không có tên riêng, chỉ được chỉ định theo chức vụ: người tài xế, người lính, và nhân vật chính, trọng tâm của truyện, là người lính trẻ chết nằm trong quan tài cũng không có tên. Thứ đến không có địa danh của các nơi, chỉ biết chiếc xe khởi hành từ trên cao nguyên, nhưng ở địa điểm nào ? Cao nguyên, quốc lộ, rừng cao su, tỉnh lỵ, thành phố, tất cả tạo nên một không gian có tính phổ quát. Vậy trong truyện không có sự chỉ định rõ ràng về nhân vật và nơi chốn khiến cho chiều kích truyện có thể được mở rộng, để đạt đến chiều kích của dân tộc, của đất nước. Dương Nghiễm Mậu viết : Có gia đình nào ngày nay không có con em trong quân đội ? Có gia đình nào trong suốt mười năm nay không có những cái tang đau đớn ? (tr.62) Người tài xế nói : Thằng này chết vậy là có phúc lắm. Một mình một ngựa trở về thảnh thơi. Có thể nói tất cả những người trai trẻ đã bỏ mình trong cuộc chiến đều được người lính vô danh nằm trong quan tài đại diện, vô số anh hùng đều được gom lại thành một người anh hùng. Vậy người chết trong quan tài có một giá trị biểu tượng. Cái vòng hoa cũng là một biểu tượng. Vòng hoa rơi xuống đất hai lần, lần đầu khi người lính thức dậy, nhảy xuống xe để đi rửa mặt, vòng hoa vướng vào quần anh ta và rơi xuống đất ; lần thứ hai khi xe đang chạy, người lính thấy hoa đã héo úa nên vứt vòng hoa xuống đường. Thông thường vòng hoa là dấu hiệu của sự tôn vinh, sự ca ngợi, chẳng hạn vòng hoa được đặt trước một đài kỷ niệm, trong những dịp lễ tưởng niệm ; nhưng trong trường hợp này, vòng hoa có vẻ thảm thương, xơ xác, giây kẽm gai biểu tượng cho hoàn cảnh gian nan, nguy khốn của người lính, những cánh hoa dại chóng tàn biểu tượng cho sự mong manh, ngắn hạn của mạng sống người lính. Vòng hoa đồng hành với quan tài trên một đoạn đường rồi héo rũ, không còn xứng đáng với người lính nằm trong quan tài, vì người lính đã được thanh cao hóa để trở nên người anh hùng của dân tộc.



Lá quốc kỳ có giá trị biểu tượng lớn nhất, đó là biểu tượng của Tổ quốc. Trong truyện, sự hiện diện của lá quốc kỳ được nhắc đến năm lần :



Người tài xế kéo ngay lại lá quốc kỳ xô lệch trên cỗ quan tài… (tr. 54)



Nắng sáng trên lá quốc kỳ… (tr. 57)



Gió thổi mạnh làm mép lá quốc kỳ tung bay… (tr. 57)



Người tài xế xuống xe, đóng cửa lại, anh ta đi về phía sau nhìn màu lá quốc kỳ rực rỡ dưới nắng. (tr. 60)



Trong con ngõ hẻm chưa lúc nào đông người như lúc đó, họ tụm lại bàn tán với nhau, có người tới gần xe nhìn lên cỗ quan tài phủ lá quốc kỳ với màu sắc rực rỡ. (tr. 63)



Lá quốc kỳ phủ lên quan tài là cử chỉ người mẹ ôm lấy đứa con, mẹ Tổ quốc ôm con,đưa con về xứ mẹ.



Con đường từ trên cao nguyên về đến thành phố là một con đường quá dài, đầy gay go, như một mê lộ. Trong thần thoại Hy lạp, mê lộ là những con đường chằng chịt tréo nhau do Dédale xây cất theo lệnh của vua Minos để giam giữ con quái vật Minautore thích ăn thịt người. Những con đường chằng chịt đó khó cho con quái vật thoát ra ngoài.



Tự điển Dictionnaire des Symboles (Nxb Robert Laffont, 1982) định nghĩa mê lộ như những con đường chằng chịt bắt tréo nhau mà một số không có ngõ ra, biến thành ngõ cụt. Qua những con đường đó phải tìm cho ra cái con đường đưa đến trung tâm. Mê lộ là biểu tượng của một hệ thống phòng thủ, mê lộ báo hiệu sự hiện diện của một cái gì quý báu hay thiêng liêng. Mê lộ có thể có một chức năng quân sự để bảo vệ một lãnh thổ, hay một chức năng tôn giáo chống lại những tấn công của điều ác. Trung tâm của mê lộ được gìn giữ và dành cho người được khai tâm, người đã vượt mọi khó khăn qua những chặng đường vòng trong mê lộ, xứng đáng đạt đến sự thần khải mầu nhiệm, xứng đáng được thừa nhận là người được khai tâm.



Mê lộ trong Chuyến trở về sau cùng là một con đường dài thăm thẳm và ngoằn ngoèo, đầy gian nan, thử thách. Mê lộ có những ngõ cụt; như đã nói, có một lúc chiếc xe chở quan tài bị lạc mất ở tiểu khu, người tài xế và người lính ngỡ chiếc xeđã bị mất cắp, trong khi họ đi ăn sáng, sự thật xe đã bị đưa vào một ngõ cụt ; và các con hẻm trong khu dân cư cũng là những ngõ cụt. Quan tài của người anh hùng phảiđi hết mê lộ mới đến đích. Sở dĩ người tài xế và người lính không tìm ra được địa chỉ của gia đình là vì người anh hùng không còn thuộc về một gia đình riêng tư nào nữa, người anh hùng thuộc về dân tộc, người anh hùng đang đi về Tổ quốc ở cuối mê lộ, ở đấy người anh hùng sẽ được Tổ quốc trao cho ánh hào quang để sống mãi trong lòng dân tộc.



Hiếm khi một văn bản có đưọc hai cách đọc song song như thế, hai lưới đọc, nói theo giới phê bình Pháp. Trong truyện Chuyến trở về sau cùng của Dương Nghiễm Mậu hiển ngôn và ẩn ngôn chồng lên nhau tạo nên tính đa nghĩa, mở rộng chiều kích của văn bản và đưa đến một hệ thống biểu tượng.



1/Đọc nguyên bản ở đường link

https://lieutruongvietvadoc.wordpress...



2/ Mời đọc thêm một bài viết của tôi  có nhắc tới  các trích đoạn văn học viết về chiến tranh và có dẫn Dương Nghiễm Mậu, bài viết hai kỳ này  vốn có cái tên dài dòng Mấy  trích  đoạn văn học viết về chiến tranh dùng làm bài giảng văn in trong các sách giáo khoa trung học ở miền Nam thời kỳ 1954-75

 đường link

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2016...




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 28, 2016 01:38

Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.