Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 96

April 11, 2016

Một tuần “hành hương”… (tiếp theo 3)

Một tuần “hành hương”… (tiếp theo)


 


N3 ở Huế:


 


Hôm nay là ngày dành để viếng các chùa Huế. Trần Đình Sơn cho thăm trước hết chùa Quốc Ân, Tổ đình thiền Lâm Tế, do Sư Nguyên Thiều khai sơn, năm 1682, thời chúa Nguyễn Phúc Tần. Thanh Nguyên trong đoàn vốn xuất thân từ chùa này. Hôm nay về nơi chốn xưa anh không khỏi bồi hồi xúc động, đưa anh em đi thăm nơi này nơi khác. Gõ lại một tiếng mõ. Gióng lại một tiếng chuông… Như ngày nào, lúc còn thơ anh đã tu tập. Từ đó, mọi người bèn gọi Thanh Nguyên là… Ôn, bởi nếu vẫn tiếp tục tu hành đến nay thì anh đã là một vị Hòa Thượng! Mưa vẫn nặng hạt.


IMG_h chua Quoc An


Rồi đoàn đến viếng chùa Thuyền Tôn, cũng gọi Thiền Tôn, do thiền sư Liễu Quán khai sáng từ đầu thế kỷ 17. Đây cũng là nơi nhiều lần mở các Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn người. Huế nay có Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán bên bờ sông Hương rất trang nhã và xuất bản giai phẩm Liễu Quán rất đẹp và giá trị. Hai năm trước mình có dịp đến Trung tâm Liễu Quán này trình bày một đề tài về Phật giáo và Y học cũng như đã cộng tác với giai phẩm Liễu Quán từ thuở ban đầu.


IMG_h chùa TT


 


Rồi ghé thăm một Ni viện, chùa Diệu Đức, được xây dựng từ năm 1932 bởi Sư bà Diệu Không, nay vẫn là một trung tâm đào tạo Ni giới nổi tiếng.


IMG_h Ni vien


Chùa Bảo Quốc có từ đời chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán từng đến học đạo nhiều năm, sau này trở thành trường Cao đẳng Phật học, đào tạo tăng tài. Các Hòa thượng Trí Tịnh, Thiện Hoa… ở phương Nam cũng từng đến học tập nơi này. Bác sĩ cư sĩ Lê Đình Thám, hội trưởng An Nam Phật học hội, cũng sinh hoạt tại đây.Hôm đoàn đến viếng thì các lớp học vẫn đang được giảng dạy cho tăng chúng.


Chùa Bảo Quốc đã được Hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết năm 1808 và sau này Bà Từ Dũ cũng đã hỗ trợ sửa sang. Ở chùa Bảo Quốc hiện nay còn thấy có trưng bày ảnh các vị Hòa thượng và bác sĩ Lê Đình Thám, cùng một bài Thi kệ của Thầy Phước Hậu.


 


Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,


Học hành không thiếu cũng không dư,


Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,


Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.


 


Phải,  “Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như”. Vậy là đã đủ!


Tiếp đó đoàn đến viếng chùa Từ Hiếu và chùa Từ Đàm. Ở Từ Hiếu thấy hình ảnh thầy Nhất Hạnh cùng mấy thủ bút của thầy ở phòng tri khách. Ở Từ Đàm không gặp được thầy Hải Ấn vì thầy bận Phật sự tận Quảng Bình. Nhớ tám năm trước (2008) mình cũng từng đến Từ Đàm trong Tuần lễ Văn hóa Phật giáo, trình bày đề tài Thiền và Sức khỏe, sau này in lại thành tập sách mỏng chia sẻ cùng bạn bè gần xa.


IMG_h chua TH


Nếu kể cả Huyền Không Sơn Thượng, Linh Mụ và Túy Vân thì tình cờ mà đoàn đã viếng được 10 cảnh chùa ở Huế! Tùy duyên thôi. Không tính trước. Đến Huế, đi sâu vào các chùa chiền xứ Thần kinh mới thấy Phật giáo từ xa xưa đã được vua chúa quan tâm hỗ trợ, đặc biệt chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… đã tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, cũng đã được các Công chúa, Hoàng hậu… tích cực giúp đỡ xây dựng, trùng tu. Huế đúng là cái nôi của Phật giáo không chỉ của miền Trung mà gần gũi biết bao với miền Nam. Ngoài việc tu tập còn đào tạo tăng tài, ra báo, tổ chức hệ thống gia đình Phật tử. Đã có sự đóng góp không nhỏ của các Cư sĩ, Phật tử.  “Gốc sâu thì nhánh tốt/ Nguồn xa thì sông dài…”.


***


Chiều đó, riêng kịp đến thăm người bạn gôc Huế, bác sĩ Thân Trọng Minh vừa ở Saigon ra chuẩn bị cho buổi Recital hôm sau. TTMinh đốt lò sưởi, rồi đưa đi tham khắp quan ngôi nhà cổ của gia đình. Thân Trọng Mẫn cũng vừa từ Mỹ về hôm trước, nói rất “mê” bài viết về Trang Thế Hy của mình và nói Phan Tấn Hải (Nguyên Giác) nhắn gởi lời thăm.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 11, 2016 02:22

April 8, 2016

Một tuần “hành hương”… (tiếp theo)

N2 ở Huế:


Vẫn mưa. Làm như mùa này không mưa thì không phải Huế vậy. Giữa tháng 2 âm lịch rồi chứ! Vẫn lạnh 17 độ. May mà có mang theo chút đồ lạnh dự phòng. Nghe nói “tháng ba bà già chết rét” mà!



Hẹn với nhà thơ Phan Như. Sáng tinh mơ anh đã đến nhà nghỉ kêu đi ăn sáng… Bánh canh cua rời. Món quen thuộc mỗi lần về Huế. Phan Như vẫn đi cái xe cà tàng của anh, lại vẫn cà nhắc vì bệnh gút nặng của anh. Anh hào hứng khoe đã làm xong Chương trình  buổi Recital đặc biệt tại nhà Thân Trọng Minh và Thân Trọng Mẫn. Có ca sĩ Thu Vàng sẽ hát chừng mươi bài, trong đó có một bài Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Lữ Kiều (TTM).


Tiếc hôm đó đã vào Hội An. TTMinh kể lại có Như Ngân, Thái Kim Lan… đều đến đông vui.


Huế, không gì thú vị hơn sáng sớm được ngồi bên bờ sông Hương, khu vực Liễu Quán, Lê Bá Đảng, Phương Nam… nhâm nhi café và gặp gỡ bạn bè. Café Liễu Quán hay lắm. Dưới mỗi phin café có một đèn cầy sưởi nóng! Mình đề nghị nên đặt một cục than hồng thì thú vị hơn. Để nhớ TCS: ngoài phố mùa đông/ đôi môi em là đốm lửa hồng/ ru đời đi nhé…


Gởi Một hôm gặp lại cho vợ chồng nhà thơ Phan Như. Hai mươi năm trước đã cùng ăn tối trên một nhà hàng nổi ở gậm cầu Tràng Tiền nhớ không?… Mới thôi.


 


IMG_h2 pn


Chương trình của đoàn hôm nay đi Huyền Không Sơn Thương thăm thầy Giới Đức và khi về sẽ ghé chùa Linh Mụ. Vài bạn trong đoàn chưa đi Huyền Không Sơn Thượng lần nào nên háo hức lắm. Được biết Sư Giới Đức lại sắp nhập thất 3 năm. Gần như là rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ chớ gì! Sư vốn là một nghệ sĩ, một nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng từ hơn bốn mươi năm trước: Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Nay từ biệt, không thơ, không viết lách gì nữa… chẳng dễ chút nào!


IMG_h3 hkst


Vẫn mưa lất phất. Khá lạnh. Mây mù trên đỉnh núi xa. Đường quanh co đèo dốc. Nhân và Dũng cùng đi, càng đông vui. Hình như Sư đang phải bận tiếp khách nên anh em đợi hơi lâu dưới quán lương đình. Không bỏ lỡ cơ hội, phải săn một ít hình ảnh cái đã.


IMG_h5 ld


Lang thang chợt thấy một túp lều tranh, giữa lòng hồ lớn, có dòng suối róc rách, có nhịp cầu bắt ngang… Lạ nhỉ. Ai mà chọn một chỗ đẹp như tranh vầy nhỉ. Làm nhớ  “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần/ Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…” (Văn Cao). Lần theo chiếc cầu tre nhiều đoạn như sắp gãy tìm chủ nhân. Chó bỗng sủa vang. Nhìn lên thấy một… sư trẻ râu ria rậm rạp, trông rất tiên phong đạo cốt. Chó dữ không thầy? Không. Nó hù thôi. Mời vào. Thì ra đó là thầy Chơn Quán, đệ tử ruột của Sư Giới Đức. Phi Hùng và Thanh Nguyên không biết tự lúc nào đã theo chân nên cùng kéo vào thảo am. Hùng giới thiệu. Thầy bỗng mừng rỡ, ủa vậy hả? Rồi vội vàng châm nước pha trà mời khách phương xa, tuy chưa quen mà không hề lạ. Chơn Quán là đệ tử chân truyền về thư pháp của Sư Giới Đức, người phụ trách website của Huyền Không Sơn Thượng… nên không lạ gì với Đỗ Hồng Ngọc, Thanh Nguyên, Phi Hùng! Đúng là tứ hải giai huynh đệ.


IMG_h6 mai la


IMG_h7


Rồi Chơn Quán đích thân đưa nhóm mình lên cốc của Sư Giới Đức. Thì ra các bạn cũng đã vừa tề tựu. còn để dành cho mình cái ghế… niên trưởng! Mình với Sư thì đã quá quen nhau rồi. Sư cười: anh leo dốc cao vậy mà không thấy mệt hỉ? Rồi nghe Sư… “tâm tình” một buổi, cùng trả lời những thắc mắc của anh em đặt ra về Phật pháp. Phải nói bây giờ Sư đã có cái nhìn rộng mở, xuyên suốt. Sư nói bốn mươi năm tu tập chưa thấy gì, bây giờ nhập thất 3 năm, mong được… thấy được cái gì đó, từ đó mới thực sự truyền trao. Sư đã có lời nguyện từ khi xây dựng Huyền Không Sơn Thượng, nay đã gần như hoàn thành tâm nguyện. Giờ đến lúc phải nhập thất. Bỏ hết thơ văn, thư pháp, không tiếp ai, không điện thoại, không vi tính, hoàn toàn tĩnh lặng… Sư nói hôm nay sao vui quá. Chưa có hôm nào vui như vậy. Mọi người cùng chụp với Sư một tấm hình kỷ niệm nhé.


IMG_h8 Su


Sư Giới Đức ký tên tặng sách

Sư Giới Đức ký tên tặng sách


IMG_h10


Rời Huyền Không Sơn Thương, đoàn về chùa Linh Mụ. Đã quá trưa. Chùa đông du khách quá! Lễ Phật, tham quan các nơi rồi… kéo nhau xuống núi. Đây là phần quan trọng không kém. “Kim Long có gái mỹ miều/ Trẩm thương trẩm nhớ trẩm liều trẩm đi”! Trẫm mà còn vậy huống chi mình. Nhưng thiệt ra chỉ kịp đến cái quán món Huế ngon do Sơn chỉ dẫn ở Kim Long vườn mướt lá.


IMG_h11 lm


Vẫn mưa lất phất không ngơi. Đã hơn 2h chiều rồi, Sơn nảy ý đề nghị mọi người đi thăm chùa Túy Vân, một danh thắng cách Huế chừng 50km, miệt biển, không có trong chương trình. Vẫn mưa. Oải quá. Xin không theo đoàn. Vả, đã có cuộc hẹn đi thăm bệnh cho một “kỳ nhân” xứ Huế, bạn Trương Thìn, bạn Nhân. Cũng là chỗ không xa lạ. Nhất là Nhân đã lỡ giới thiệu “rước học trò của Bậc Y vương” từ Saigon ra chữa bệnh cho thân chủ! Nhân đùa vì biết mình vừa nói chuyên đề: Đức Phật, bậc Y vương tại chùa Xá Lợi mấy hôm trước.


Chiều đó, nơi khu vườn quen mà lạ, thăm bệnh cho chủ nhân xong được mời bữa cơm chiều đặc biệt.


Áp thấp nhiệt đới. Sóng trên sông Hương mạnh dần lên nên chương trình đi thuyền trên sông, nghe ca Huế phải hủy. Tốt. Tối này có trận đấu của đội tuyển Việt Nam đá lượt về với Đài Loan ở sân Mỹ Đình! Ở nhà coi đá banh khoái hơn. Ai dè,  Hùng và Thiện về tận phòng bắt tắt TV để đi nghe ca Huế… trên bờ!


Thì ra, không đi thuyền trên sông Hương được thì các bạn tổ chức nghe ca Huế trên bờ tại thính phòng Bảo tàng văn hóa do Võ Quê phụ trách! Võ Quê là một thi sĩ, có tiếng từ trước với tập thơ “Còn thương cây lúa lúa ơi”!


IMG_h12 ca hue


Ca Huế âm điệu ngọt ngào, du dương nhưng anh em nghe không được lời quá tiếc, dĩ nhiên trừ Trần Đình Sơn và Thanh Nguyên, những bạn gốc Huế. Tối đó các nghệ sĩ đã hết lòng phô diễn nghệ thuật và dù Võ Quê có giới thiệu qua ý nghĩa từng bài bản nhưng vẫn nghĩ phải chi anh phát cho mỗi người một bản lời ca thì hay biết bao! Các nghệ sĩ hôm đó đã nghĩ gì về bọn mình ư? Chắc họ cười thầm: đúng là đàn khảy tai trâu!


Ngày mai, sẽ đi thăm các chùa Huế…


(còn tiếp)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 08, 2016 00:40

April 6, 2016

Một tuần “hành hương” xứ Huế, Hội An, Đà Nẵng…

Một tuần “hành hương” xứ Huế, Hội An, Đà Nẵng…


“Giang hồ ta cũng giang hồ vặt” (Nguyễn Bính)


 


Đỗ Hồng Ngọc


 


N1 ở Huế:


Hẹn cả nhóm đúng 6 giờ sáng ngày 23.3.2016 phải có mặt ở sân bay Tân Sơn Nhất để bay đi Huế lúc 7h30. Thức dậy từ 4h sáng. Không hiểu sao. Chắc tại nôn đi. Thủ tục thì đã có Khoa giúp check in online rồi, chỉ đợi lấy vé lên máy bay. Loa vang. Máy bay hoãn nửa giờ vì sân bay Huế sương mù dày đặc, máy bay không đáp được. OK. Hoãn là chuyện thường ngày ở huyện mà. Tự dặn mình “ngoài không dính mắc là thiền/ trong không lay động là định” (Huệ Năng) rồi mà. Vả lại lâu lâu mới có dịp ngồi đợi ở sân bay coi người ta qua lại như coi trình diễn thời trang chớ chơi sao. Nhiều thứ thời trang bây giờ quái dị, như có người hình như chỉ mặc áo đi qua đi lại. Các bạn cùng đi là Nhóm Học Phật (NHP) chùa Xá lợi, quyết định đi Huế. Hội An, Đà Nẵng một chuyến để thăm chùa chiền, học hỏi với các vị sư thầy, gặp gỡ các bạn đạo và dĩ nhiên, tham quan các thắng cảnh…Mình cũng vừa ra mắt cuốn Cõi Phật đâu xa (thấp thoáng Lời kinh Duy-ma-cật) và Một hôm gặp lại ở Hội sách ngày hôm qua, nay là lúc cũng cần “xả hơi” một chút. Máy bay lại xin lỗi, hoãn thêm nửa giờ nữa. Hùng bực mình, đến hỏi có phải máy bay bị xẹp bánh không được trả lời thời tiết xấu. Rồi lại hoãn nửa giời nữa. Máy bay vẫn đi Đà Nẵng ngon lành mà Huế thì cứ chờ mãi như vậy. Cách nhau có chút đèo Hải Vân chớ nhiêu. Rồi hình như thấy đã khá trưa, mọi người chắc đói bụng, Air VN bèn mời hành khách vào ăn sáng. Xếp hàng rồng rắn đợi lấy thức ăn, chưa kịp ăn thì loa mời lên máy bay gấp! Ùn ùn xếp hàng. Vừa lên xe bus trung chuyển ra tàu bay thì một cô hành khách cùng đi chào hỏi có phải bác sĩ Ngọc không, rồi cô mở túi xách lấy cuốn Nghĩ Từ Trái Tim ra xin chữ ký! Ôi trời. Ngộ ghê. Cô nói nhóm cô đi Lào. Cô chỉ mang theo mỗi cuốn này để đọc vì đã nhiều lần chưa hiểu lắm, bây giờ có tuổi hiểu nhiều hơn! Ô hay, máy bay lại là Cambodia, Angkor Air chớ không phải Air VN. Thôi kệ, Angkor càng hay! Nhưng không.



Đến Huế đã quá trưa nên bị bể kế hoạch sáng. Lấy phòng nghỉ bên bờ sông Hương, Cơm chay Bồ Đề. Hẹn đi thăm Lăng trước. Về Huế lần này có Trần Đình Sơn, Thanh Nguyên gốc Huế nên chuyện thăm chùa chiền lăng tẩm cung vua… hoàn toàn khỏi lo, chỉ lo “phần mềm” ngoài kế hoạch thôi!


Sơn quyết định cho đi thăm Lăng Gia Long, khá xa, ít người thăm viếng so với các lăng Minh Mạng, Tự Đức… vốn quen thuộc với nhiều người hơn. Đường quanh co khúc khuỷu, sát bờ vực đầu nguồn sông Hương. Phong cảnh yên tĩnh. Một miền quê thanh bình. Mỗi Lăng thể hiện tính cách của mỗi ông vua triều Nguyễn! Tự Đức thì có cái “bay bướm” của nhà thơ, “Minh mạng” thì nghiêm trang của nhà “quản lý”… Gia Long thì uy nghi, vừa trang nghiêm vừa thơ mộng. Đặc biệt ở Lăng Gia Long phảng phất nhiều nét Nam bộ… có lẽ do lúc còn bôn ba xuôi ngược ông đã gắn bó nhiều với miền Nam. Quanh lăng nào xoài, nào vú sữa…, trước lăng mênh mông một đầm nước um tùm lau sậy có nhiều cá lóc từ phương Nam được nuôi nơi đây.


GL 1


GL 2


IMG_hue gl


Sơn, nhà văn hóa Huế, giải thích từng chi tiết. Thanh Nguyên và Minh Ngọc là những nhà Hán học, Phật học uyên thâm. Thật là một dịp may hiếm có.


Điện Minh Thành ghi năm 1816. Vậy ra vừa đúng 200 năm! Khu lăng gồm 3 quần thể, giữa là lăng mộ, bên phải là điện Minh Thành và bên trái là Bi đình, có núi Thiên Thọ làm tiền án, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm, bên trái và bên phải có 14 ngọn núi tả thanh long, hữu bạch hổ.


Người gác mở cổng khu lăng mộ cho đoàn vào viếng. Bên trong có hai ngôi mộ đá, xây cất hoàn toàn giống hệt nhau, song táng vua và hoàng hậu. Không ngờ từ thời đó, đã có sự bình đẳng giới tính hay vậy.


Một điều đáng ghi nhận khác: triều Nguyễn, khi lên ngôi thì vị vua nào cũng lo trước hết xây cho mình một cái lăng để đợi ngày… băng hà! Phải chăng vị vua nào của triều Nguyễn cũng ý thức đời là vô thường, kiếp sống là giả tạm? Bởi vua chúa khi lên ngôi thì thường lo gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị, lo xây tam cung lục viện, tìm thuốc trường sanh…?


 


Từ Lăng Gia Long về, cả nhóm đến thăm nhà một thân hữu ở Huế, anh Ngô Tiến Nhân. Đó là một ngôi nhà có thể nói là khá đẹp bây giờ, trên một đồi cao cạnh chùa Trúc Lâm.


IMG_nhan nha


Ở đó, đã có một số anh em thân hữu xứ Huế đợi sẵn, hẹn gặp nhau để hàn huyên vào một buổi chiều còn chút mưa vẫn mưa bay… Anh Lợi, anh Hóa, anh Phố, bác sĩ Dũng.


IMG Nhan Hue 1


Hue Nhan 2


Nhà Ngô Tiến Nhân bữa cơm chay ngoài trời

Nhà Ngô Tiến Nhân
bữa cơm chay ngoài trời


Nhân biết nhóm sắp ra Huế đã vội bay từ Saigon về trước lo… quét vườn! Anh nói hoa mai hôm Tết chưa chịu nở vì quá lạnh, nay có đoàn về mới chịu nở đó! Quả thực, hoa mai vàng rụng đầy trên thảm cỏ xanh vườn nhà anh.


Về Huế lần này chỉ mang 2 cuốn sách mới vừa ra mắt ở Hội Sách ngày hôm trước. Anh Lê Văn Lợi, nhà Phật học cuốn Cõi Phật đâu xa, và Một hôm gặp lại cho Phan Như, nhà thơ. Anh em trao đổi về con đường tu học Phật pháp, riêng bác sĩ Dũng, vừa Tây y vừa đông y, đã đưa ra những “triết lý” về y học khá độc đáo, đã thể nghiệm trên bản thân như hoàn toàn nhịn đói 49 ngày… Anh cho biết sau thời gian nhịn đói như vậy, anh sụt 20kg nhưng sức khỏe vẫn rất tốt, có thể bơi 3 vòng sông Hương! Anh Cao Huy Hóa kể hành trình viết báo Phật giáo, đã vượt quá cái bóng ông anh Cao Huy Thuần như thế nào, và đã hứa sẽ viết cho Từ Quang của chùa Xá Lợi do Hùng đang phụ trách.


Chiều đó, Nhân chiêu đãi một bữa cơm chay thịnh soạn tại sân vườn. Chỉ thiếu chút ánh trăng lung linh trên hồ nước giữa đêm rằm! Tiếc quá.


Nhà nghỉ ở ngay sát cạnh bờ sông Hương, nơi có Chợ đêm mỗi tối nên anh em có dịp lang thang… và dĩ nhiên không quên chè Huế…


Hue Cho dem Hue, Che


Sông Hương vẫn tràn đầy. Trong khi Cửu Long gần cạn kiệt! Nhớ Ngô Thế Vinh báo động hơn mười năm trước: Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng!


Lại nhớ Bùi Giáng: Thưa em xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương…


(còn tiếp)


……………………………………

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 06, 2016 00:58

March 31, 2016

Thư gởi bạn xa xôi

Thư gởi bạn xa xôi


Người ta ở bển…

Trần Vấn Lệ về Việt Nam chơi mấy hôm! Ái chà chà. Không dễ đâu nha. Anh chàng thi sĩ từng đòi “một đi không trở lại” mà lần này quyết về thăm “người ta ở bển…”, nơi Cồn Thới Sơn sông nước Tiền Giang một chuyến. Lại vừa có tập thơ Dã Quỳ Thương Nhớ ra mắt, có bài thơ do nhạc sĩ Tuấn Khanh phổ nhạc rất hay và một ca sĩ hát rất dễ thương nữa! Rồi làm một vòng lên Dalat, đến Dran, về Phan Thiết… có bạn bè tháp tùng rất vui.


Chiều nay, đưa chàng về… dinh! Tiếc thời gian chàng ở Saigon thì mình lại có Chương trình “giang hồ vặt” ở Huế, Hội An và Đà Nẵng với Nhóm học Phật nên không đi đây đó cùng bạn được! Nhưng cũng đã có người khác lo đâu đó chu đáo.


Sẵn dịp này, bèn gởi mấy cuốn sách cho Tùng Duyên, Nguyệt Mai và Khánh Minh! Hy vọng thi sĩ không bỏ quên lại phi trường!



Nghe nói Trần Vấn Lệ đã viết tay cả một tập thơ dày cui (vì đã không mang máy vi tính theo) và đã có những bức thư trên giấy pelure cho bạn bè nữa. Thư cho Đỗ Hồng Ngọc:


IMG_tvl 4


Gặp Trần Vấn Lệ ngày về, 22.3.2016. Đã hơn 60 năm, làm sao nhìn cho ra?

Gặp Trần Vấn Lệ ngày về, 22.3.2016. Đã hơn 60 năm, làm sao nhìn cho ra?


Rồi ngày đưa Trần Vấn Lê ra phi trường 31.3.2016, đông vui anh em:


Ở một quán cơm chay. Từ trái: nhạc sĩ Tuấn Khanh, Thanh Thúy, Trần Vấn Lệ, Đỗ Hồng Ngọc, nhà báo Ngân Hà.

Ở một quán cơm chay. Từ trái: nhạc sĩ Tuấn Khanh, Thanh Thúy, Trần Vấn Lệ, Đỗ Hồng Ngọc, nhà báo Ngân Hà.


Về Đàlat, không khóc mà nước mắt cứ chảy, Lệ nói. Đã ở đó 32 năm mà! Rồi về Tiền Giang, qua Cồn Thới Sơn thăm… người xưa, chỉ để vuốt mái tóc bạc phơ của nàng (một cái)… Còn về Phan Thiết thì chỉ kịp thăm mồ mả ông bà!


Hẹn tái ngộ. Lần sau sẽ ở nhiều ngày hơn. Chắc rồi!


Đỗ Hồng Ngọc.


PS: Vài bài thơ xưa đọc vui nhé:


 


May Mà Còn Nhớ Thương


                                                                                          Gửi bạn tôi, Đỗ Hồng Ngọc,


Bây giờ Phan Thiết mình dọc bờ sông phượng đỏ.  Ngọc ơi sao mình nhớ ngày xưa thuở học trò…


Ngày xưa ôi ngày xưa khi cây cầu đúc gãy, đò xé dòng nước chảy, hoa phượng trôi theo đò…


Mấy mươi năm không chờ, con sông đó chừ khác:  ba cây cầu được bắc…mà một người đi xa…


Mỗi năm một mùa hoa không bao giờ thay đổi, hoa phượng tàn, rơi, nổi, con sông đỏ ráng chiều…


Bạn mình cứ nhắc hoài – chuyện thời gian, hoa phượng.  Lòng mình thật đau đớn:  Tại sao mình bỏ quê?


Ngày xưa mỗi độ Hè, mình ra bờ sông hứng, hoa phượng bay trong nắng, lòng mình như nắng trong…


Hồi đó, Ngọc nửa chừng bỏ trường và xa bạn, mãi đến năm chin tám mình mới tìm lại nhau!


Thời gian qua thật mau, năm mươi năm thiếu chút, tưởng người còn người mất…té ra hai đứa còn!


Mình đang ở đầu non, đang trông về cuối biển:  Phan Thiết mình hiển hiện, Ngọc tóc bạc gió đùa…


Đang cũng vào mùa Hè, mình thấy thêm hoa phượng, đỏ rực trong trời nắng…mà tím hườm trong mơ!


Ngọc ơi, một chút thơ gửi về cho Ngọc ngó – mình, con thuyền chưa đỗ, mình, con thuyền còn trôi…


Mình đang rất xa xôi.  Ngọc cũng không gần gũi.  Phận người, con dế nhũi…May mà còn nhớ thương!


Trần Vấn Lệ


 


 


người ta ở bển…

bạn có qua cồn Thới Sơn

người ta ở bển…

(Trần Vấn Lệ)


bạn nhắn nhờ thăm người ta ở bển

cồn Thới Sơn giữa dòng Mekong

ta lặn lội trăm lần tìm kiếm

ngược xuôi khắp ngả chằng chịt bóng dừa xanh.

sông rạch quanh co lách con thuyền nhỏ

bập bềnh sóng nước phương Nam


bạn dặn người ta mười bảy

tóc chải mượt dầu dừa

môi thơm mùi kẹo

nước da trắng muốt

nhờ tắm nước dừa xiêm

ta lang thang kiếm tìm

gặp ai cũng hỏi

những cô gái Thới Sơn

má hồng hây hẩy

lắc đầu quầy quậy

hổng quen!


cho đến một hôm trời cũng chiều lòng

có một cô răng khểnh,

bẻ gẫy sừng trâu,

rất xinh

đúng là người xưa của bạn

nàng nhìn ta đôi mắt long lanh

khi ta nhắc tên,

nàng ôm chầm lấy ta rồi kêu to

ngoại ơi ngoại ơi

trần vấn lệ

ổng dìa nè!


Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 22.01.2015)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2016 04:19

March 21, 2016

Vài hình ảnh HỘI SÁCH 2016

Vài hình ảnh HỘI SÁCH TP.HCM


Chiều ngày 21-3-2016


Sách ơi là sách!

Sách ơi là sách!



IMG_3047


Sách đắt như tôm tươi!

Sách đắt như tôm tươi!


Đông nhất là thanh niên!

Đông nhất là thanh niên!


Có một kệ nhỏ cho sách ĐHN

Có một kệ nhỏ cho sách ĐHN


 


Điểm Giao lưu với tác giả vào 9h30 ngày mai 22-3-2016

Điểm Giao lưu với tác giả vào 9h30 sáng ngày mai 22-3-2016


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 21, 2016 05:15

March 20, 2016

Trích MỘT HÔM GẶP LẠI…

Thư gởi bạn xa xôi (7)


Gởi bạn vài bài trích trong Một hôm gặp lại xem trước vậy nhé. Hy vọng sáng thứ ba 22-3-2016 sách in xong kịp để ra mắt bạn bè ở Hội Sách năm nay cho vui.


Thân mến,


ĐHN


PS: Sách vừa về kịp chiều nay, 21/3 rồi đó bạn ơi.


IMG_3042


Trích MỘT HÔM GẶP LẠI


Nhớ tiếng thu giữa Boston


Tôi đi giữa Boston. Cả một mùa thu. Trọn một mùa thu. Nhớ tới Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi.




Thu ở Boston hình như lạ hơn thu ở những nơi khác trên nước Mỹ, nên hàng năm cả nước Mỹ hành hương về Boston giữa mùa thu vàng. Họ không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, người ta dễ “fall in love” có phải, vì vậy mà người qua đường như cũng đẹp thêm ra, luộm thuộm thêm ra với lụa là gấm vóc, không còn nhếch nhác mùa hè mà cũng chưa cục mịch mùa đông. Tôi chưa có lần nào được sống thu như vậy, hoặc chỉ là sống với mùa thu trong sách vở, tưởng tượng ra cái mùa thu không có thật giữa miền Nam mưa nắng hai mùa nên tôi cứ lang thang, lang thang mà dòm cho hết cái thu của Boston. Và tôi bỗng nghe. Vâng, lúc đầu tôi chỉ định dòm thôi nhưng tôi bỗng nghe, không phải là tiếng quạ kêu quang quác thảng thốt, cũng không phải tiếng chim cu gù rúc rúc quyến rũ mà là một thứ tiếng lạ, tôi chưa từng nghe bao giờ, tiếng thu. Và tôi giật mình nhớ Lưu Trọng Lư. Chính Lưu Trọng Lư chứ không phải ai khác. Em không nghe mùa thu. Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ “tiếng động nào gõ nhịp không hay” (Trịnh Công Sơn) đó chăng. Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa. Hay mình là nai? Có thể chứ? Con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư? Và… Ơ hay… Có lẽ nào… Hay cũng chính là… Cũng có thể là… không hề có một con nai nào cả, mà nhà thơ, chính nhà thơ là nai! Thôi rồi, đừng có hòng mà giấu giếm gì nữa nhà thơ ơi! Chính nhà thơ là con nai vàng đang bước đi từng bước huyễn hoặc ngơ ngác đó thôi, sau lâu nay cứ làm cho người ta tưởng là có một con nai thiệt , đến nỗi trong một bài dịch thơ sang tiếng Mỹ, người ta cứ dịch con nai là con nai, có tội nghiệp không chứ! Phải rồi chính nhà thơ mới là con nai, một con nai ngơ ngác, nghe tiếng mùa yêu và fall in love. Với ai, vì sao nên nỗi? Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đã một hôm thu làm cho chàng thi sĩ trẻ tuổi trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết về đâu, vì sao…


(Boston, 1993)


 


Con tinh yêu thương


Ở Paris, dưới chân ngọn đồi tuyệt đẹp nổi tiếng với nhà thờ uy nghiêm Sacré Coeur không xa là khu Pigale cũng nổi tiếng không kém với những nhà hàng ăn chơi và các rạp chiếu phim sex, những sex-shop bán sách báo, phim ảnh khiêu dâm cùng với những vật dụng… phục vụ cho chuyện tình dục của con người. Người bạn cùng đi khuyên tôi đừng vào rạp phim sex, bởi vì sau khi xem xong ra đường sẽ thấy chán đời không thể tả! Âu Mỹ có cái lạ là chuyện yêu đương mà gọi là “làm” (make love, faire l’amour), chẳng trách người ta phải hùng hục, phải… đổ mồ hôi sôi nước mắt, thật khác với Đông phương thường được gọi là “thương”, là “cưng”, là “chìu”, là “ăn nằm”, là “gần gũi”… Trong một sex-shop, tôi lật lật mấy tờ báo coi chơi. Mới đầu cũng thấy hay hay, sau thì chán ngắt. Tôi thích hình ảnh “cô sơn nữ miệng cười khúc khích…” hoặc “ngoài phố mùa đông, đôi môi em là đóm lửa hồng…” hơn. Người chủ tiệm đon đả mời chào: “Hay ông chọn một người nhé! Da trắng, da vàng, da đen… đều có cả!”. Rồi ông đưa cho tôi mấy cái hộp carton. Thì ra đó là những búp bê, khi cần thì thổi phình to lên như người thật, có thể “ăn nằm” với nhau được. Toàn là những người mẫu xinh đẹp, những diễn viên nổi tiếng trên thế giới! Thật tội nghiệp cho Đoàn Dự, nhân vật của Kim Dung, say mê Vương Ngọc Yến như điếu đổ mà cô chỉ yêu biểu ca của mình! Giá mà có Đoàn Dự ở đây, hẳn chàng có thể đặt làm riêng cho mình một “con” giống hệt Vương Ngọc Yến để được luôn tôn thờ, gần gũi, kề cận bên mình khi hành tẩu giang hồ. Còn có nhiều dụng cụ khác nữa khiến người ta nghĩ rằng có thể “yêu thương” mà chẳng cần có con người!


Thật ra, vào thế kỷ 21 người ta cũng chẳng cần như vậy nữa! Với tiến bộ vượt bậc của khoa học, đặc biệt sinh học gần đây, người ta có thể cho “sinh sản vô tính” một con người giống y chang bằng cách lấy một tế bào bình thường của người đó, kích điện một cái, rồi cấy vào một cái noãn để phát triển thành một con người – như người ta đã làm với cừu Dolly và nhiều sinh vật khác khá dễ dàng. Những chàng Đoàn Dự si tình tương lai chỉ cần xin nàng một chút tế bào! Chẳng lẽ tiếc gì mà không cho! Hiện người ta cũng đã chế tạo ra nhiều robot ngày càng tinh xảo, càng có trí thông minh, có cả “tình cảm” nữa, như gặp ta thì mỉm cười (!) “Chào buổi sáng!” (Có thể nói tiếng Việt lơ lớ vì chưa có dấu, nhưng chẳng hề chi!). Ờ Nhật hiện nay đã bắt đầu có dịch robomania, tức là điên vì mê robot! Cứ tưởng tượng đi, mỗi người chúng ta sau này đi đâu đều có vài robot xinh đẹp đi theo, chẳng thua gì Nguyễn Công Trứ “Gót tiên đeo đủng đỉnh một đôi dì. Bụt cũng nực cười ông ngật ngưỡng…”!


Tháng 8 năm 2000, các nhà khoa học đã công bố bản đồ “gen” của con người. Vậy là từ nay người ta có thể tìm hiểu người yêu cặn kẻ hơn bằng cách nghiên cứu bản đồ gen của nàng (hay chàng). Người ta có thể biết được người kia nói dối mấy chục phần trăm khi tỏ tình bằng máy dò nói dối. Muốn có một đứa con hủ hỉ mà không phải bận bịu chuyện hôn nhân, nàng có thể đến ngân hàng tinh trùng mua một nhúm tinh trùng (của một “danh nhân” nào đó mà nàng yêu mến và ngưỡng mộ); còn chàng thì đến một cửa hàng mua một cái “tử cung nhân tạo”, rồi mua thêm một cái trứng để thụ tinh nữa là xong! Rồi cứ lủng lẳng mang cái “tử cung nhân tạo” đi đây đi đó chẳng khác gì người xưa mang túi thơ bầu rượu!

Nhưng có lẽ mọi sự sẽ không xảy ra như vậy! Bởi vì con người mãi mãi vẫn còn muốn được “quấy nhiễu” bởi con người, bởi những nồng cháy, những đam mê, những hỉ nộ ái ố… những lời tán tỉnh, những nỗi giận hờn, những niềm tiếc nhớ… chứ không muốn mọi thứ cứ được chương trình hóa bởi robot hay đơn giản hóa bởi chiếc hộp đựng búp bê hay sinh sản vô tính. Con người vẫn cần có con người. Bởi vì trước sau gì rồi cũng có một hôm “Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi, lại thấy trong ta hiện bóng con người!”, như lời một bài hát của Trịnh Công Sơn. Và tôi đồng ý với anh, dù chúng ta đang bước vào thiên niên kỷ mới.


(Paris, 1997)


 


Cám ơn Asimo


Mới chế tạo được người máy Asimo, con ngươì đã mừng húm, tự hào đã tạo ra được một người máy thông minh nhất thế giới, mang đi trình diễn khắp nơi: nào đến Thái Lan bắt tay Thủ tướng, rồi đến Úc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, Ấn độ, Mỹ, Canada và bây giờ là… Việt Nam. Không chừng sắp tơí có thể còn đến Hỏa tinh nữa! Mừng húm cũng phải vì phải mất hơn 14 năm, cải tiến qua nhiều thế hệ, đến nay loài người mới có được Asimo – có nghĩa là nguyên thủy… Asimo, người máy nguyên thủy thông minh nhất thế giới này trang phục như một nhà du hành vũ trụ, đi những bước đi tự nhiên kèm tiếng vo vo của các bánh răng cưa, biết bước chéo, nhảy múa, leo cầu thang, đứng một chân… gọi là “bước đi đa dạng”; Asimo còn biết chào, biết nói ( biết nói cả tiếng Việt ), biết xưng tên “Tôi là Asimo”, biết bye bye và biết cả…khóc cười, tức giận, mừng vui, ngạc nhiên, khoái trá…! Asimo có con mắt màu mini-cam, có bàn tay… 5 ngón, nặng 52 ký và cao 1,2m, đủ để với tới công tắc đèn, khóa cửa, lau chùi bàn ghế…


Mới chế tạo được Asimo mà con người đã mừng húm đến vậy, tưởng tượng khi Thượng đế tạo ra con người…nguyên thủy thứ thiệt, Ngài đã mừng húm đến cỡ nào! Con người nguyên thủy cao lớn, vạm vỡ, đẹp…trai hơn Asimo, làn da tươi mát, mềm mại, co giãn, mắt sáng rực, tai thính, mũi phập phồng, răng trắng nhởn, ngực nở nang, rắn rõi không thua anh Vọi, bụng thon nhỏ với những cơ bắp cuồn cuộn không thua…Lý Đức; leo trèo, nhảy nhót, lăng ba vi bộ hơn hẳn Đoàn Dự… Về ngôn ngữ, về cảm xúc, về trí thông minh…đều tuyệt vời, “đa dạng” hơn hẳn Asimo. Thế nhưng hình như Thượng đế không mừng mấy chút, trái lại Ngài lo nhiều hơn. Chuyện phải lo đầu tiên là phải kiếm ngay cho chàng một người bạn…gái (Asimo không rõ giới tính, trông hùng dũng giống trai, mà tiếng nói thanh thót như gái, thân hình lại giống trẻ con, có vẻ còn thiếu thiếu một thứ gì!). Nghe nói lúc tạo người bạn gái cho người nguyên thủy, Thượng đế mới giật mình thấy thiếu…nguyên liệu, bèn lấy một chút mặt trời nóng bỏng, một chút mặt trăng dịu mát, một chút tinh tú nhấp nhánh… rồi một chút sông ngòi quanh co, một chút biển cả bát ngát, rồi hoa thơm cỏ lạ, trái ngọt cây lành, sắc màu đủ điệu…để tạo ra nàng. Mới có ba ngày, chàng đã giận dỗi, đem nàng trả lại cho Thượng đế. Ngài mỉm cười không nói năng chi. Ba ngày sau, chàng lại hớt hơ hớt hãi tìm tới, van nài cho nhận lại người bạn kỳ diệu mà kỳ quặc đó. Thượng đế lại mỉm cười, vui vẻ ban cho. Hình như Ngài lo nhiều hơn mừng, chưa hề nói đó là loài sinh vật thông minh nhất trên cõi đời, cũng chẳng hề có ý định đưa đi trình diễn ở hành tinh này hay hành tinh khác. Trái lại, hình như ngài còn ân cần dặn dò không được nghe những lời dụ dỗ, không được ăn trái cấm… Kết quả là nó ăn ngay trái cấm, nghe ngay lờì dụ dỗ và nhờ đó…mà bây giờ mới nào sinh sản vô tính, nhân giống đơn dòng và …Asimo! Điều tệ hại có lẽ là nó không hề biết công ơn của Thượng đế, không hề biết trân trọng chính bản thân mình, những kỳ diệu, những phép lạ ngay trong bản thân mình mà cứ mày mò tìm kiếm đâu đâu. Có lẽ vì thế Ngài cho nó có khả năng chế tạo… người máy, để biết thế nào là những khó khăn trong từng chi tiết nhỏ. Một cái nhướng mắt, một cái nhếch môi đâu phải dễ dàng. Chỉ mỗi nụ cười đã có hằng trăm thứ (gọi là cười… đa dạng), chỉ mỗi bước đi, cả trăm điệu (bước đi đa dạng…) và còn hằng triệu triệu những đa dạng trong cảm xúc, trong suy tư không sao nói hết. Hỉ nộ ái ố, thất tình lục dục, tham sân si… đủ cả. Asimo còn phải nạp năng lượng phức tạp chớ con người biết tự tạo năng lượng từ thức ăn, hơi thở, từ các bộ máy hô hấp, tiêu hóa, tuần hoàn gắn sẵn bên trong, tự nạp năng lượng năm bảy chục năm xài vẫn còn tốt!…


Nghe nói người máy được cho thuê làm nhiệm vụ lễ tân giá rất cao mà chỉ cần con số lẻ đó thôi, ta có thể kiếm vài người…mẫu, cao ráo, xinh đẹp, dịu dàng, tươi mát, biết nheo mắt, mỉm cười, biết mặc thời trang đủ loại, biết múa hát, đàn ca, biết giận hờn đủ kiểu, dĩ nhiên là có thể nói nhiều thứ tiếng, kể cả tiếng Việt để làm lễ tân.


Một anh bạn nói nhờ Asimo, nghĩ lại thấy cũng được an ủi phần nào: anh cao hơn 1,6m, nặng 60 kg, biết tắt mở đèn, TV, tủ lạnh, quạt máy, biết khóa cửa, rửa chén, ủi đồ, lau bàn ghế, còn biết đọc báo, biết cười khóc, giận hờn, cãi nhau… ; bước đi đa dạng mà không bị kêu vo vo, chỉ có lúc ngủ kêu khò khò tí chút…


Tóm lại, cám ơn Asimo. Nhờ Asimo mà ta sực nhớ những Asimos -số nhiều- tuyệt vời ở quanh mình, và cũng nhờ Asimo mà ta nhận ra Asimota- chính ta- cũng là cả một sự kỳ diệu Thượng đế đã trao tặng mà nhiều khi ta chẳng hay! Cám ơn Asimo.

Làm mới thơ


Hơn 40 năm trước, anh bạn tôi, một nhà thơ có nhiều thơ đăng báo, có lần thử gửi thơ mình đến một vài tòa báo có tiếng là đang “làm mới thơ” thì đều bị từ chối không đăng. Một hôm, anh hí hửng khoe: “Rồi, họ đăng thơ moa rồi”. “Thiệt hả! Sao họ chịu đăng”? – Tôi hỏi. Anh cười: “Có gì đâu, moa thấy bài thơ hay mà họ không chịu đăng, tức quá, cắt ra từng mảnh, bỏ vào cái nón nỉ, xóc xóc mấy cái, lượm ra, ghép lại, thành một bài thơ kỳ dị, ký cái tên lạ hoắc, gửi, họ đăng ngay. Có lẽ Tòa soạn đọc thấy lạ, không hiểu gì cả nên đăng”. Còn một anh bạn khác, để thơ được sớm đăng, ký một bút danh có thêm chữ Thị, một cái tên con gái. Ông chủ bút vốn ga-lăng. Thời đó có ít nhà thơ nữ.


Gần đây, đọc mấy bức thư Phan Triều Hải – đang dự hội thảo văn học ở Iowa (Mỹ) gửi về – đăng trên báo, thấy anh ghi nhận có những nhà thơ làm thơ như sau:


a

ab

abc

abcd


…..


và cứ như thế ghép cho đủ 26 chữ cái. Dĩ nhiên thơ này không để ngâm, không để đọc, mà chỉ để nhìn. Rồi có thơ sử dụng vi tính, có lập trình sẵn để đảo câu đảo chữ tạo ra những từ mới, tứ mới, rất công nghiệp. Chẳng khác gì hơn 40 năm trước anh bạn tôi cắt nhỏ bài thơ rồi xóc xóc trong cái nón nỉ một cách thủ công.


Tôi có được đọc một tạp chí thơ của một nhóm bạn Việt kiều, có bài thơ không có chữ nào cả mà toàn là ký hiệu như ký hiệu giao thông, các đường vẽ ngoằn ngoèo dẫn ta đi từ nơi này sang nơi khác. Dĩ nhiên, thơ này cũng để nhìn, không để đọc. Họ cũng giới thiệu một thứ thơ gọi là thơ “thơ tương tác”. Trong thơ có các gạch dọc (/) để người đọc tùy nghi đảo chữ, sắp chữ, đọc ngược xuôi theo ý mình. Một bài thơ như vậy sẽ trở thành vô số bài. Cũng trong tạp chí đó, một nhà phê bình đã nhận xét khá lý thú bằng cách cho một thí dụ với hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:


Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai


Có thể đọc theo lối “tương tác” là:


Bình rượu

Khô

Em ơi

Lửa tắt

Vắng em

Say với ai

Rồi đời


Tôi nhớ không chính xác lắm, nhưng không sao, thơ “tương tác” mà, ta có thể “chập” đủ kiểu!


Ngàn năm trước, Kinh Thi nói thơ là cõi lòng, là tiếng lòng, “thốn tâm thiên cổ”, mà nay tiếng lòng nỗi lòng bây giờ thật đã trở nên phức tạp hơn nhiều! Bổng nhiên thèm nghe một câu thơ đơn giản như:


Thò tay ngắt một cọng ngò

Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ…


 


Kể thơ trên xe lửa


Buổi tối, chúng tôi ngồi xe lửa từ Baltimore về Washington D.C. Cô bạn Mỹ Susan Barnes nhỏ nhắn và lanh lẹ hướng dẫn tôi cứ coi tôi như một em bé, sợ tôi lạc giữa đám đông. Tôi bỗng lo sợ vẩn vơ. Đọc báo cứ thấy lâu lâu ở Mỹ có người nổi hứng leo lên xe lửa ria một loạt đạn vào mọi người rồi… lạnh lùng bước đi. Tôi nhìn quanh quất hỏi có chắc xe này về D.C không, cô cũng không biết rõ nữa, phải hỏi lại người soát vé mới sure. Cả buổi chiều đi thăm bệnh viện Johns Hopkins, phòng xét nghiệm, khoa điều trị, tiếp xúc với bác sĩ, bệnh nhân, tôi đã thấy thấm mệt, muốn mau mau về nghỉ. Xe lửa lắc lư chậm chạp đi trong đêm.


Những hành khách trễ tàu. Vội vã. Nhăn nhó. Có người thấy như muốn rút súng    thì phải. Bỗng Susan lên tiếng: “Thơ cổ điển Việt Nam, ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du… Hồ Xuân Hương còn ai nữa không?”. Tôi giật mình, sửng sốt. Dĩ nhiên cô nói tiếng Mỹ và phát âm tên riêng còn khó nghe nhưng tôi nghe rất rõ những tên người đó. Cô hỏi cả Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương! Suốt buổi sáng làm việc trong hội thảo và cả buổi chiều đưa tôi đi thăm Johns Hopkins đâu thấy cô có “triệu chứng” gì để biết cô rành văn chương Việt Nam đến thế. Cô giải thích rằng từ ba năm nay cô theo học khoa Đông Nam Á và chọn văn hóa Việt Nam. Ra thế. Cô lại hỏi về những người làm thơ tình đương đại. Tôi lục trong trí nhớ. Nhiều quá! Những nhà thơ tình Việt Nam đương đại! Tôi nhắc tên nhiều người cả trong và ngoài nước – và bỗng đọng lại ở Đỗ Trung Quân. Dĩ nhiên có nhiều người làm thơ tình hay hơn Đỗ, bay bướm hơn, ướt át hơn, lâm ly hơn… nhưng tôi không biết giải thích cách nào để cho cô bạn Mỹ không rành tiếng Việt kia hiểu, cũng không thể đọc cho cô nghe âm điệu để cô có thể thấm được cái hay. Vả lại, tôi cũng chẳng thuộc được mấy chút thơ. Đỗ thì từ lâu đã khá nổi tiếng với bài Quê hương, anh cũng có những bài thơ tình cho mẹ, cho con và cho vợ… cho cả tình đầu, tình cuối gì đó nữa… Nhưng ngay với bài Quê hương, tôi cũng không sao giải thích cho cô bạn cái hay của “Quê hương là đêm trăng tỏ, Hoa cau rụng trắng ngoài thềm”. Bởi vì ở Mỹ, đèn điện thì cứ sáng choang hoặc sương mù che lấp cả trăng đi, mà có nói đến trăng người ta cũng chỉ nói đến Apollo, đến Amstrong mà thôi. Còn hương cau, biết nói sao đây? Làm sao cho cô nghe được mùi hương cau của những đêm trăng tỏ, làm sao cho biết được cái mo cau, để từ đó có cái quạt của thằng bờm và làm sao cho cô hiểu rằng cau không phải là cau mà gắn với trầu để thành cái “Ngày xưa có hai anh em nhà kia…”, rồi làm sao cho cô hiểu cái cau qua cái trầu của “Ba đồng một mớ trầu cay…”. Tôi cũng không thể nói cho cô hiểu về cái anh chàng có “Bài thơ cứ còn hoài trong cặp… Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” bởi vì ở Mỹ thường những mối tình đầu như vậy sẽ là chuyện giả tưởng… ở một hành tinh nào khác. Cho nên tôi đành kể cho Susan nghe bài thơ “Thầy còn nhớ em không” của Đỗ. Hình như tựa bài thơ không phải vậy, nhưng chẳng cần! Cái cậu học trò ăn mặc bảnh bao đến mua thuốc lá và nhận ra người bán thuốc lá ở góc đường kia là thầy học cũ của mình. Cậu học trò nhớ những bài học tôn sư trọng đạo được thầy dạy ngày xưa ở trường nên đã reo lên mừng rỡ “Thầy còn nhớ em không?”, nhưng người thầy kia đã lạnh lùng từ chối, không dám nhận mình là thầy nữa rồi. Vì đâu nên nỗi? Không cần sống trong bối cảnh Việt Nam vào thời điểm đó, tôi thấy cô bạn tôi đã hiểu và im lặng hồi lâu. Tôi lại kể cho cô nghe bài thơ khác của Đỗ, tôi cũng chẳng nhớ nỗi cái tựa, đó là bài thơ viết về mấy đứa nhỏ học trò ngây thơ được người lớn dẫn đi coi… máy chém, và nhà thơ hỏi có khi nào bạn mua món quà là máy chém về tặng sinh nhật con mình không? Đại khái ý thơ là vậy còn câu cú lời lẽ thì tôi quên tuốt. Cô bạn Susan không nói năng gì, im lặng hồi lâu để tôi nghe rõ tiếng sắt sình sịch trên đường ray. Tôi không dám nhìn cô. Nhưng tôi biết cô đang nghĩ đến một điều gì khác, như nghĩ đến bức tường ghi tên dài ngoằng ở quê hương cô chẳng hạn. Đột nhiên cô reo lên: “Tới rồi!”. Và cô vội vã thu xếp hành lý. Cô lí nhí cảm ơn tôi đã cho cô biết thêm về thơ Việt Nam và tôi cũng cảm ơn cô vì nhờ cô mà tôi quên tuốt đoạn đường đi và cả những bản tin khủng khiếp về những người leo lên xe lửa ria một loạt đạn… Tôi cũng cám ơn anh bạn Đỗ đã có những bài thơ mà tôi không nhớ nổi cái tựa để tôi được làm một việc là kể thơ trên đoạn đường xe lửa từ Baltimore về Washington D.C của một buổi tối mùa thu 1993.

(trích Đỗ Hồng Ngọc, Một Hôm Gặp Lại)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 20, 2016 04:42

March 19, 2016

PNB: Đôi nét về cuốn CÕI PHẬT ĐÂU XA

Cõi Phật đâu xa

Cõi Phật đâu xa (Thấp thoáng lời kinh Duy-ma-cật) không hẳn là tác phẩm bàn luận về kinh Duy-ma-cật sở thuyết, mà nói đúng hơn là mượn kinh Duy-ma-cật sở thuyết để bày tỏ những suy tư, trăn trở của một người thầy thuốc, một công dân đối với đời sống xã hội hôm nay – mà sự náo nhiệt, phồn hoa, ô trược đã chẳng khác gì thành Tỳ-da-ly năm ấy.



 


IMG_3041


Tác phẩm gồm 12 bài viết, tương ứng với 12 chương trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết. Ở mỗi bài viết, xen lẫn với các phần trích dẫn kinh, tác giả biểu lộ cái thấy, cái hiểu của mình về những điều mà kinh nói đến, bằng một lối văn dí dỏm và đậm chất riêng tư. Có thể nói món quà lớn nhất mà Cõi Phật đâu xa mang lại cho độc giả đó là cơ hội tiếp cận với một tác phẩm kinh điển trong Phật giáo một cách nhẹ nhàng, thoải mái, vui vẻ, như thể là câu chuyện mà người bạn già kể lại cho ta bên ấm trà nóng ngày đông.


Qua Cõi Phật đâu xa, độc giả cũng có thể cảm nhận được những ôm ấp suy tư của tác giả đối với sự suy đồi của đời sống xã hội, có lẽ Cõi Phật đâu xa cũng là lời nhắn nhủ: những người bạn trẻ trên đất Việt hôm nay, vai trò, vị trí của họ chẳng khác gì 500 vương tôn công tử thành Tỳ-da-ly thuở xưa, họ hội tụ điều kiện cần và đủ để trở thành những “Bồ-tát tại gia”, đừng ngần ngại, đừng tự ti, mà hãy bắt tay vào làm điều mình cần phải làm…


Phương Nam Book

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 19, 2016 06:09

March 18, 2016

Lõm bõm học Phật

 


Ghi chú: Viết xong “Thấp thoáng Lời Kinh Duy-ma-cật“(Cõi Phật đâu xa) thì tôi thấy nên  rút ra những bài học lõm bõm cho riêng mình.


Dưới đây xin chia sẻ trước đôi điều cùng bè bạn…


Và hẹn gặp ở Hội sách, sáng Thứ ba 22/3/2016 lúc 9h nhé (cổng Điện Biên Phủ).


Thân mến,


ĐHN.


 


Đôi điều tôi học từ “Kinh Duy-ma-cật sở thuyết”?…


 


Nói ra là bị kẹt


Không nói cũng không xong…


(Thiền sư Chân Nguyên, TK XVII)


 


Có người hỏi tôi rằng học được gì từ “Duy-ma-cật sở thuyết”?


Học được nhiều lắm chứ!


 


Học rằng cõi Phật chẳng đâu xa. Cõi Phật trong ta. Tâm ta mà thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Tâm ta chưa thanh tịnh thì thấy đâu cũng là gò nỗng, hầm hố, gai góc, thanh tịnh rồi thì cõi đất bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp, ánh vàng ròng khắp nơi nơi…



 


Học rằng trước hết phải tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi. Có trực tâm thì mới có chánh đẳng. Có « Chánh đẳng » rồi mới có « Chánh giác ». Chia chẽ thì so sánh, hơn thiệt, ganh đua, đấu đá. Bình đẳng, không phải là kéo chân rùa dài ra, thúc giò hạc ngắn lại.


Thấy cái Một thì thấy tất cả. Tất cả là Một. Một là tất cả.


 


Học rằng phương tiện mà không trí huệ không xong. Khoa học mà không có lương tâm là sự tàn lụi của tâm hồn.


Trí độ là mẹ Bồ Tát,


Tùy nghi phương tiện là cha.


Phải có Trí độ (Bát Nhã) trước đã. Rồi, phương tiện mới tùy nghi. Pháp sư phải « vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai » (Pháp Hoa). Vào tòa Như Lai là từ bi ; mặc áo Như Lai là nhu hòa, nhẫn nhục ; ngồi tòa Như Lai là thấy biết « chư pháp Không tướng». Phương tiện tùy nghi mà chưa có Trí độ thì nguy.


 


Học rằng “Tại các cảnh thiền định, tưởng đó như các tầng địa ngục”. Không đắm  mê các tầng thiền để bỏ quên đời, mà tưởng cảnh thiền như các tầng địa ngục, thấu cảm cùng nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh. Đối với cuộc sinh tử luân hồi, tưởng đó như vườn cảnh điện đài để thênh thang “một cõi đi về” mà cứu độ chúng sanh.


 


Học rằng bệnh thường gặp là “chấp Không”! Thấy không rồi mê không, gì cũng không, chẳng thấy được chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không! Cho nên “tu học lẽ không mà chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Tu học vô tướng, vô tác, mà chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc”.


 


Học rằng tâm khó mà nhận thấy! Tìm hoài tâm không ra. Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai không thấy đâu cả. Làm sao để tâm an ? Còn lâu! Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Thân tâm nhất như.  Cho nên « giả bệnh » là cách tốt nhất. Mà bệnh thì rất bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh ! Thân này không thể tin cậy được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải thấy thân Phật, tức thấy pháp thân. Muốn thấy pháp thân thì phải “quán”. Phải nhìn sâu vào bên trong, nhìn xuyên qua cái giả tướng bên ngoài, phải “kiến tướng phi tướng” . Khi ấy nhận ra:


Vô lượng ức đấng Như Lai,

Chư Phật với thân mình đây,

Không khác chi đừng phân biệt


 


Học rằng hé cửa vào Bất Nhị thì thấy Như Lai ngồi cười tủm tỉm, mở toang bảo tháp, tay bắt mặt mừng chào đón Phật Thích Ca, chào đón chúng sanh… Thấy biết Như Lai rồi thì chỉ còn ú ớ, há hốc hoặc lặng thinh. Ủa, vậy đó hả ? Bởi với Như Lai thì “Chẳng thể dùng trí mà hiểu, chẳng thể dùng thức mà biết, không thể dùng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt, tất cả ngôn ngữ đàm luận đều dứt tuyệt ».


 


Học rằng chúng sanh là những ảo vật do nhà ảo thuật là chính ta tạo ra. Mà nhà ảo thuật cũng là một chúng sanh. Tạo ra rồi hồng hộc chạy theo, bám lấy, giành giật, khổ đau, hạnh phúc… Rồi ráng giải thích những hình bóng ảo, rời rạc, lắp ráp tạm bợ đó mà tưởng thiệt ; rồi ráng gân cổ cãi nhau chí chóe với bao nhiêu khái niệm danh từ… mà tưởng hay! Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân chim giữa hư không…


Học rằng “ Tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai” ! Rằng Thân này là hạt giống Như Lai. Vô minh với ái là hạt giống Như Lai. Tham, sân, si là hạt giống Như Lai…


Thì ra vậy ! Thì ra tứ đại ngũ uẩn, vô minh, ái thủ hữu, tham sân si… đều là hạt giống của Như Lai. Cho nên không lạ, từ những hạt giống đó mà sinh sôi nẩy nở đủ thứ chuyện trên đời, rồi quấn quít nhau mà trùng trùng duyên khởi… Nhưng Như Lai chẳng xấu ác, chẳng thánh thiện. Như Lai là Như Lai. Tathagata. Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ. Chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu. Nó vậy là nó vậy.


Cho nên phiền não cũng chính là Bồ-đề, khổ đau là hạt giống của an lạc !


Trong lửa sinh hoa sen,

Tại năm dục hành thiền…


 


Học rằng sân hận đưa ta vào địa ngục không lối thoát nên cần biết sống trong cõi Diệu Hỷ của Phật Asuc (Aksobhya), vị Phật có tên là Vô Sân, Vô Nộ, Bất Động. Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định (Huệ Năng). Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Trần Nhân Tông).


Duy-ma-cật bảo: Pháp hỷ là vợ nhà/ Từ bi là con gái/ Tâm thiện là con trai/ Không tịch là nhà/ Trần lao là đệ tử/ Tùy ý mình mà chuyển biến…


Tùy ý mình mà chuyển biến.  Muốn thấy « con là nợ/ vợ là oan gia/ cửa nhà là nghiệp báo… » cũng tùy ý mình mà chuyển biến !


 


Học rằng thực tướngvô tướng, nên hòa nhập nhau có chi ngăn ngại vì cùng bản chất, pháp tánh. Núi Tu-di to lớn kia mà đem đặt vừa vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông nọ mà rót đầy lỗ chân lông có chi là lạ ? Núi Tu-di cũng không mà đầu hạt cải cũng không. Nước bốn biển cũng… không mà lỗ chân lông cũng không.  Nhưng chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không. Lý mà vô ngại thì Sự vô ngại. Sự Sự vô ngại vậy!


 


Học rằng có thứ hương thơm nuôi cả thân và tâm bất tận đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm đó mới có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió… Tiếng lành đồn xa.  Nhưng giới không chỉ là giới. Giới còn là Định là Huệ. Giới định huệ không chia chẽ. Tương tác, tương sinh.

Học rằng không có gì để « đắc » vì « vô sở đắc » : Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Anậuđala Tam-miệu Tam-Bồ-dề) sẵn có đó rồi trong mỗi chúng sanh. Chỉ cần thắp sáng lên. Con đường đó là con đường quay lại chính mình, nương tựa chính mình.


Rồi một hôm, chỉ còn biết tủm tỉm cười một mình. Nụ cười đến từ bên trong, từ những tế bào, từ đất nước gió lửa. Con đường đã vạch ra, đã bày sẵn : Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ…Thất giác chi, Bát chánh đạo… vốn là 37 món trợ đạo đừng quên.


Đạo phẩm là bạn hiền

Nhất tâm là điều ngự,

Bát chánh đạo dạo chơi.


 


Học rằng bốn Ma là « thị giả », luôn ở cạnh ta, giúp ta từng li từng tí. Ma phiền não bủa vây và nhắc nhở sẵn có bốn vạn tám ngàn cách thoát ra sao chẳng thử một vài; Ma ngũ uẩn thì càng thân thiết, nhắc rằng mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai; Ma trời (thiên ma) là lời cảnh giác, đừng tưởng bỡ, tưởng « làm trời » thì muốn gì cũng được. Còn lâu ! Rớt vào địa ngục như chơi. Lên voi xuống chó mấy hồi. Còn Ma chết (tử ma) lại là bạn thiết gắn bó từ thuở còn bụng mẹ trong từng tế bào. « Bốn thứ ma, tám muôn bốn ngàn thứ phiền não làm cho chúng sinh phải nhọc nhằn mệt mỏi đều có thể làm Phật sự »…


 


Học rằng « Phật sự » là món cơm Hương Tích, là món trà Tào Khê, là tiếng gió thổi, là tiếng lá rơi, là dáng đi dáng đứng dáng ngồi… Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tất cả pháp đều là pháp Phật. Không phải do Phật làm ra đâu ! Duyên sinh tự có. Chỉ vì tất cả đều vô thường, khổ, không, vô ngã, thực tướng vô tướng… Phật sớm thấy biết và từ bi « khai thị » cho chúng sanh « ngộ nhập », để cùng mà giải thoát! « Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành », « Đừng vội tin. Hãy đến để mà thấy » Phật nói.


Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu. Pháp không có thêm và bớt. Pháp không có sinh và diệt…Tướng pháp là như vậy, há thuyết diễn được sao?”.


 


Học rằng « Cư trần mà lạc đạo » :  “… ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi… ; kính giữ luật hạnh thanh tịnh của bậc sa-môn, tuy ở tại nhà, mà chẳng vướng vào ba cõi, thị hiện có vợ con, mà tu hạnh thanh tịnh… »;


Từ đó mà « thõng tay vào chợ »:


Hoặc làm chúa thành ấp


Hoặc làm chủ đoàn buôn


Làm quốc sư, đại thần,


Để lợi ích chúng sanh…


Trong kiếp có bệnh dịch/ Hiện làm các dược thảo/ Trong kiếp có đói kém, Hiện thân làm món ăn/ Trong kiếp có đao binh/ Khiến trụ cảnh không tranh/ Những nơi có địa ngục/ Cứu khỏi mọi khổ não/…

*  *   *


 


“…Thưa, Thánh trí vốn vô tri, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn vô tướng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá.


… Vả, chúng sinh mãi ngủ vùi, phi ngôn thì lấy gì để đánh thức? Đạo không vận chuyển đơn côi. Đạo hoằng do người.


Cho nên, Như Lai sai Văn Thù nơi phương khác; triệu Duy-ma từ quốc độ kia; cùng tụ hội Tỳ-da-ly để chung truyền đạo ấy”.


(Tăng Triệu, tựa Duy-ma-cật sở thuyết, thế kỷ thứ V.


Tuệ Sỹ dịch Việt, mùa Thu, PL. 2548)


 


Lúc ấy, Phật bảo Di-lặc: “Nay ta đem pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề này mà phó chúc cho ông…”


Rồi quay sang A-nan ân cần dặn : “Hãy thọ trì kinh này và lưu hành giảng thuyết rộng rãi nhé !”.


Đâu có chi phân biệt!


 


Đỗ Hồng Ngọc


(Saigon, 12.2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 18, 2016 18:58

Tạp văn Lê Minh Quốc: “CÓ MỘT MẦM HOA…”

Ghi chú: Tháng 11.2015, nhà thơ Lê Minh Quốc gởi tôi tập bản thảo “Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn” và mong tôi viết cho lời Tựa…Tôi phân vân mãi vì mình đâu phải “nhà văn thứ thiệt” gì đâu mà viết?


Nhưng rồi, chiều bạn…


Sáng nay anh phone cho biết sách đã ra rồi và sẽ có buổi giới thiệu tại Hội sách nay mai.


Bèn post lên đây cho bạn bè mình đọc… trước một chút.


Thân mến,


ĐHN


(18-3-2016)



 


“CÓ MỘT MẦM HOA…”


(Tạp văn Lê Minh Quốc)


TỰA của Đỗ Hồng Ngọc.


Lê Minh Quốc không phải là người xa lạ với tôi và có lẽ cũng với nhiều bạn đọc khác nữa vì anh là một nhà báo, một nhà văn, và trước hết, một nhà thơ, bởi vì ngay từ thuở trẻ anh đã chọn thi ca làm nghiệp dĩ: Tôi chạy theo thơ (2003) và cũng đã có nhiều tác phẩm thơ, tùy bút được xuất bản: Thơ tình Lê Minh Quốc, Thơ tình của Quốc, Gái đẹp trong tôi, Tôi và đàn bà…


Tôi được quen biết anh khá lâu, có khi là dịp anh phỏng vấn tôi, có khi anh làm MC cho một buổi trò chuyện, một buổi ra mắt sách của tôi…, và tôi vẫn luôn nhìn anh với đôi mắt quý mến và một chút… ái ngại bởi sự cháy bỏng và tràn đầy năng lượng của anh khác với tôi, già nua tuổi tác. Nhưng, một hôm, anh bỗng gọi tôi khẩn thiết: anh Đỗ Hồng Ngọc ơi, anh viết cho Quốc một bài giới thiệu tập sách sắp in này nhé. Phải là anh viết mới được…


Tôi ngạc nhiên lắm. Tôi biết gì về tình yêu, về gái đẹp, về đàn bà… mà viết cho Quốc đây! Nhưng anh không cho tôi kịp từ chối, gởi ngay bản thảo “Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn”!


Có gì vậy hả Quốc? Sao một người lẫm liệt oai phong, hừng hực năng lượng như nhà thơ Lê Minh Quốc mà bỗng thấy “có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn” vậy?


cửa đã khép thì khác gì cửa mở


anh đứng ngoài khép mở của thời gian


dẫu mở mắt cũng là đang nhắm mắt


anh thấy mầm hoa đã nhú dưới tro tàn…


LMQ


Thi ra … tập sách này của anh cho thấy một Lê Minh Quốc khác. Tưởng rất ngổ ngáo, rạo rực, sôi nổi trong tình yêu; sâu sắc, chặt chẽ trong văn chương nghệ thuật, bỗng trầm lắng xuống, thấy mình “dẫu mở mắt cũng là đang nhắm mắt”…


Và anh quay nhìn lại chính mình. Lắng nghe chính mình. Thứ tiếng nói từ sâu thẳm tự bên trong. Anh viết về quê hương, về mẹ, về người xưa, về cái đẹp, về nếp sống hạnh phúc… Những lời ân cần như vừa tâm tình với chính mình, lại như vừa khuyên nhủ người bạn trẻ vào đời… Học lại người xưa; Đi là sống một đời sống khác; Sống vui từng ngày; Vui trong hiện tại; Niềm tin tâm linh…

Anh viết về Mẹ với tất cả tấm lòng, đọc không thể không rưng rưng:


“Còn với tôi, một khuya đẹp trời là lúc mở cửa rón rén vào nhà. Đã quen hơi người, con chó mực không sủa, chỉ quẩy đuôi mừng rỡ. Chân bước rất khẽ, thế mà vẫn nghe một giọng ngái ngủ vang lên trong tĩnh mịch: “Q về đó hả con?”, chỉ trả lời một tiếng: “Dạ”. Không gian lại im ắng lạ thường. Đâu đó đã có tiếng gà gáy. Đêm vẫn tối đen. Bình yên”. (Một ngày rất đẹp).


Rất đẹp vì có mẹ. Bởi vì rồi đây, một khi “Mẹ thành mây trắng đã lâu/ Con về thăm mẹ ngồi đâu cũng buồn”…


Anh viết về chữ Hiếu: “Dù đứng ở góc độ nào, ta thấy chữ hiếu đã nhập vào tâm thức người Việt như một lẽ sống vĩnh hằng. Kinh Phật có dạy: “Điều thiện tối cao không gì hơn hiếu, điều ác cùng cực không gì hơn bất hiếu” (kinh Nhẫn Nhục), “Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật” (kinh Đại Tập)…


Anh nhìn “cái đẹp” cũng đã khác:


“Cái đẹp là gì nhỉ? Khó có thể có câu định nghĩa hợp ý với cả thảy mọi người, nhưng chỉ trong lĩnh vực thời trang, tôi nghĩ rằng, một khi ăn mặc thế nào mà cảm thấy mình ý tứ hơn, dịu dàng hơn và cũng dễ tạo ra thiện cảm, đó chính là đẹp. Với phụ nữ, sự trở lại của chiếc áo dài truyền thống, dù bây giờ đã ít nhiều có cách điệu đi nữa, là một lựa chọn của nhiều người. Sự lựa chọn ấy cho thấy rằng khi xuất hiện trước đám đông, tự nó đã nói lên các đức tính cần thiết của nữ giới » (Gói mây trong áo).


Đã đến lúc « về thu xếp lại » của một người vừa chớm nghe « gió heo may đã về » chăng, đã đến lúc phải « dọn lòng » chăng ?


“Về thu xếp lại” cũng là lúc “dọn lòng” của chính mình, loại bỏ đi những tị hiềm ganh ghét nhỏ nhoi đã giăng tơ nhện từ ngày này qua tháng nọ. Sự u ám ấy, sao không gạt bỏ đi cho nhẹ lòng? Mà trong lòng mỗi chúng ta sự ngổn ngang ấy…


(Về thu xếp lại)


***


Đọc Lê Minh Quốc bây giờ, tôi thấy anh đã thực sự chuyển hóa, khác đi với một Lê Minh Quốc tôi quen biết trước đây. Anh thành thực kể rằng khi viết chuyên mục “Sức khỏe cho tâm hồn” ở một tờ báo, anh luôn tự hỏi mình: “Tâm hồn mình có đủ trong sáng, hướng thiện để bàn luận về sự yêu thương trong đối nhân xử thế?”…  Và rồi anh nhận ra, xưa, là con người hành động, anh nghĩ  muốn thay đổi phải có sự tác động giáo dục từ gia đình, nhà trường và môi trường xã hội, nay thì anh đã nhìn ra: hạt giống hướng thiện ở trong ta. “Hạt giống hướng thiện ấy mình gieo ngay trong tâm hồn chính mình. Ta sống với nó, nuôi dưỡng nó…”. Đúng vậy. Chỉ có cách quay về nương tựa chính mình. Cõi Phật không ở đâu xa! Tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.


Trả lời người bạn đồng nghiệp đặt câu hỏi, anh nói: “Tôi luôn ý thức rằng, những gì viết là điều hằng tâm niệm; hoặc mục tiêu đang hướng tới. Viết cũng là một cách tự giáo dục lấy chính mình”.


***


Đoản văn, tùy bút của Lê Minh Quốc có lẽ là chỗ tâm đắc của anh, chỗ anh gởi gấm nhiều nhất. Có thể nhiều điều chưa nói ra và nhiều điều chưa nói hết, nhưng nó chân tình và sâu lắng. Thơ, ca dao, tục ngữ… được chọn, câu nào cũng đắt. Và dĩ nhiên, không thiếu chút dí dỏm đáng yêu kiểu Lê Minh Quốc.


Và như thế, hôm nay ta có trong tay tập Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn.


BS Đỗ Hồng Ngọc


(Saigon 11.2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 18, 2016 04:07

March 16, 2016

“Một hôm gặp lại”

Thư gởi bạn xa xôi (6)


MỘT HÔM GẶP LẠI


(tuyển tập tùy bút)


Vậy là buổi Giao lưu của mình ở Hội sách vào lúc 9h sáng ngày 22/3 không chỉ có cuốn “Thấp thoáng lời Kinh Duy-ma-cật” (Cõi Phật đâu xa) như thư trước mình đã gởi bạn mà còn có cuốn MỘT HÔM GẶP LẠI, tuyển tập tùy bút của mình nữa cũng vừa kịp in xong.



Số là Nhà xuất bản thấy dịp này nên có vài ba cuốn của mình được giới thiệu đến bạn đọc cho “xôm” nên khuyến khích mình làm thêm cuốn Tuyển tập tùy bút này nữa. Ừ thì vui thôi mà.


Nếu bạn cắt cớ hỏi “có thiệt tùy bút” không đó thì mình sẽ ú ớ, không chắc lắm đâu! Có khi phải học cách nói “tức phi… thị danh” trong Kinh Kim Cang, nói vậy mà hổng phải vậy chăng?


bia Mothomgaplai FULL


bia Mothomgaplai (3.2016)


” Tôi khoái tùy bút. Không biết tại sao. Chắc là tại cái tạng. Tùy bút nó gần với thơ hơn. Nó không hư cấu. Nó đến từ cảm xúc hơn là từ tính toan. Nó tùy duyên mà tới. Nó tùy hứng mà nên. Nó tùy nghi mà hiện. Và nó tùy hỷ mà vui… Có lẽ vì thế mà nó được gọi là tùy bút…


Bạn đang có trên tay một tập được gọi là tùy bút, có bài hình như đã đọc ở đâu đó rồi, trong cuốn sách nào đó rồi của tác giả, cũng có thể thấy trên mạng, hoặc trong những email mà người ta forward cho nhau, có khi bị đổi cái tựa, có khi bị nhầm cái tên, có khi thấy ghi là sưu tầm, là khuyết danh v.v… 


Cũng chẳng khoái ru?


Vậy thì, “Một hôm… gặp lại” có nghĩa là gặp lại… một hôm, một bài viết đã cũ, đã xưa, đã quen, thì cũng cứ vui nhé!”


Thân mến,


 Đỗ Hồng Ngọc


Thiệt ra ngoài 2 cuốn này thì Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM còn tái bản vài cuốn sách về Y học của mình như Thầy thuốc và Bệnh nhân, Sức khỏe Gia đình…


Vì thế mà hôm cafe với nhà văn Nguyễn Đông Thức ở Đường sách, mình nói mình có 3 “cụm” sách: Y học phổ cập , Văn và Phật học… Thiệt ra cả ba hình như đều trộn lẫn vào nhau! Biết sao bây giờ. Tại cái tạng nó vậy.


Hẹn gặp ở Hội sách nhé.


Đỗ Hồng Ngọc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 16, 2016 21:34

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.