Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 95
May 26, 2016
Trần Vấn Lệ: Happy Day
Qua cầu tre lắt lẻo, ai cầm tay con đi? Qua biết bao sơn khê, ai một mình lặng lẽ?
Người dắt con là Mẹ, người khổ nhọc là Cha. Từ khi sinh con ra, Mẹ Cha đều khổ cực!
Thương Mẹ thì nhiều nhất, tại vì sao hả con? Đứa con mở miệng tròn: “Tại Mẹ Gần Con Mãi!”.
Cha gật đầu nói “Phải” rồi nâng mặt Mẹ, hôn! Nói với Mẹ: “Mình còn thì con còn chỗ tựa.”
Ngày Của Mẹ, Cha nhớ, gửi tấm thiếp về mừng, gửi Mẹ trọn tấm lòng khi Cha đi muôn dặm…
Ngày Của Cha, Mẹ nhắn: “Mình ơi, đi mau về, con nhớ mình lắm nhe, em nhớ anh cũng vậy!”.
Đời có một Lẽ Phải: “Người Luôn Luôn Yêu Người”. Mẹ Cha yêu trọn đời, đó là lời tha thiết…
Tình Mẹ Cha bất diệt nên mới có Ngày Vui. Mẹ sinh con ra đời, mừng Mẹ trước là đúng!
Cha thì bận làm lụng, mừng Cha sau, chẳng sao! Miễn sao Tình Ngọt Ngào đều dành cho Cha Mẹ!
Trần Vấn Lệ
May 20, 2016
Mấy ngày ở Huế (Giai phẩm Liễu Quán)
Ghi chú: Thầy Thích Không Nhiên (Tâm An) phụ trách giai phẩm Liễu Quán Huế nhắn tin xin gấp một bài cho số đặc biệt Phật đản 2016. Bí quá. Có bài viết kể chuyện lang thang về Huế, Hội An, Đà Nẵng chuyến rồi có dịp đi thăm một số chùa xứ Huế có được không? Được, được, anh viết lại cho nhé… Vậy đó. Bài đã đăng kịp Liễu Quán ra mắt hôm qua, Rằm tháng Tư, ngày Phật đản. Xin chia sẻ cùng bạn bè nơi đây.
Thân mến, ĐHN.
Ghi chép lang thang
Mấy ngày ở Huế
Đỗ Hồng Ngọc
Hẹn 6 giờ sáng có mặt ở sân bay Tân Sơn Nhất để bay đi Huế lúc 7h30. Vây mà thức dậy từ 4h. Không hiểu sao. Chắc tại nôn. Loa vang. Máy bay hoãn nửa giờ vì sân bay Huế sương mù dày đặc, máy bay không đáp được. OK. Hoãn là chuyện thường ngày ở huyện mà. Đã dặn “Ngoài không dính mắc là thiền/ Trong không lay động là định” (Huệ Năng) rồi mà. Vả lại lâu lâu mới có dịp ngồi đợi ở sân bay coi người ta qua lại như coi trình diễn thời trang cũng hay! Thời trang bây giờ quái dị, có người hình như chỉ mặc áo đi qua đi lại. Lại xin lỗi, hoãn thêm nửa giờ nữa. Rồi lại hoãn nửa giờ nữa. Máy bay vẫn đi Đà Nẵng ngon lành mà Huế thì cứ chờ mãi. Cách nhau có chút đèo Hải Vân chớ nhiêu. Rồi hình như thấy đã khá trưa, mọi người chắc đói bụng, VN Airline bèn tử tế mời hành khách vào ăn sáng. Xếp hàng rồng rắn đợi lấy thức ăn, chưa kịp ăn thì loa mời lên máy bay gấp! Ùn ùn xếp hàng. Vừa lên xe bus trung chuyển thì một cô hành khách cùng đi chào hỏi có phải bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không, rồi cô mở túi xách lấy cuốn Nghĩ Từ Trái Tim ra xin chữ ký! Cô nói nhóm cô đi Lào. Cô chỉ mang theo mỗi cuốn này để đọc vì đã đọc nhiều lần chưa hiểu lắm, bây giờ có tuổi thấy hiểu nhiều hơn! Ô hay, máy bay lại là Cambodia, Angkor Air chớ không phải VN Airline. Thôi kệ. Air nào cũng Air. Angkor càng hay! Nhưng không.
Đến Huế đã quá trưa nên bị bể kế hoạch. Lấy phòng nghỉ sát cạnh bờ sông Hương, gần Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán, khoái rồi. Cơm chay Bồ Đề cũng gần đó. Về Huế lần này có mấy người bạn gốc Huế nên chuyện thăm chùa chiền lăng tẩm cung vua… hoàn toàn khỏi lo, chỉ lo “phần mềm” ngoài kế hoạch thôi!
Quyết định thăm Lăng Gia Long trước. Về Huế nhiều lần chưa đi. Khá xa. Ít người thăm viếng so với các lăng Minh Mạng, Tự Đức… quen thuộc. Đường quanh co khúc khuỷu, sát bờ vực đầu nguồn sông Hương. Phong cảnh yên tĩnh. Một miền quê thanh bình. Lăng các vua triều Nguyễn khác nhau, mỗi Lăng thể hiện tính cách của mỗi ông vua! Tự Đức thì có cái “bay bướm” của nhà thơ, “Minh Mạng” thì cái nghiêm trang của nhà “quản lý”… Gia Long thì uy nghi, vừa trang nghiêm vừa thơ mộng. Đặc biệt ở Lăng Gia Long còn phảng phất nhiều nét Nam bộ… Có lẽ do lúc còn bôn ba xuôi ngược ông đã gắn bó nhiều với miền Nam. Quanh lăng nào xoài, nào vú sữa…, trước lăng mênh mông một đầm nước um tùm lau sậy có nhiều cá lóc từ phương Nam được nuôi nơi đây, người giữ lăng cho biết.
Điện Minh Thành ghi 1816. Vừa đúng 200 năm! Khu lăng gồm 3 quần thể, giữa là lăng mộ, bên phải là điện Minh Thành và bên trái là Bi đình, có núi Thiên Thọ làm tiền án, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm, bên trái và bên phải có 14 ngọn núi tả thanh long, hữu bạch hổ.
Bên trong khu lăng mộ có hai ngôi mộ đá, hoàn toàn giống hệt nhau, không phân biệt, song táng vua và hoàng hậu. Không ngờ từ thời xa xưa đó, đã có sự bình đẳng giới tính hay vậy!
Triều Nguyễn hình như khi lên ngôi thì vị vua nào cũng lo trước hết xây cho mình một cái Lăng để đợi ngày… băng hà! Không biết các triều đại khác có giống vậy không. Phải chăng vị vua nào của triều Nguyễn cũng ý thức đời là vô thường, kiếp sống là giả tạm? Bởi vua chúa khi lên ngôi thì thường lo gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị, lo xây tam cung lục viện, tìm thuốc trường sanh bất tử…?
Từ Lăng Gia Long về, đến thăm nhà một người bạn Huế. Đó là một ngôi nhà đẹp của anh NTN, trên ngọn đồi cao cạnh chùa Trúc Lâm. Hoa mai hôm Tết chưa kịp nở vì quá lạnh, nay đã vàng ươm trên thảm cỏ xanh. Hoa mộc cũng vừa rải trắng xóa. Đã có một vài thân hữu xứ Huế đợi nhau hàn huyên chuyện học chuyện hành Phật pháp vào một buổi chiều còn chút mưa vẫn mưa bay…
Về Huế lần này chỉ mang theo 2 cuốn sách mới vừa ra mắt ở Hội Sách Thành phố Hồ Chí Minh ngày hôm trước. Cuốn Cõi Phật đâu xa, cho nhà Phật học, anh LVL và cuốn Một hôm gặp lại cho nhà thơ PN. Lần này có dịp gặp một đồng nghiệp trẻ, bác sĩ D, nghe anh trình bày “triết lý” về y học khá độc đáo của anh, cũng như cách anh thể nghiệm trên bản thân… Anh cho biết sau thời gian nhịn đói 49 ngày, anh sụt 20kg nhưng sức khỏe vẫn tốt, có thể bơi 3 vòng sông Hương! Thời gian không nhiều nên chưa kịp tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này thấu đáo về sinh học và tâm học, y học.
Chiều đó, cùng ăn bữa cơm chay thân mật trên thảm cỏ xanh sân vườn. Chỉ thiếu chút ánh trăng lung linh trên hồ nước giữa đêm rằm!
Tối lang thang bên bờ Hương giang, nơi có Chợ đêm nhộn nhịp, không thấy đâu một tà áo tím, dù là tà áo tím phai màu…
Sông Hương vẫn tràn đầy. Trong khi Cửu Long cạn kiệt! Nhớ người bạn đồng nghiệp NTV đã báo động hơn mười năm trước: “Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng!”.
Lại nhớ Bùi Giáng: Thưa em xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương…
Ngày 2 ở Huế. Vẫn mưa. Làm như mùa này không mưa thì không phải Huế vậy. Giữa tháng 2 âm lịch rồi chứ! Vẫn lạnh 17 độ. Nghe nói “tháng ba bà già chết rét”!
Không gì thú vị hơn sáng sớm được ngồi bên bờ sông Hương, khu vực Trung tâm Liễu Quán, Lê Bá Đảng, làng nghề Phương Nam… nhâm nhi cà phê và gặp gỡ bạn bè. Cà phê Liễu Quán hay lắm. Dưới mỗi phin cà phê có một ngọn đèn cầy sưởi ấm! Đáng lẽ thay vì ngọn đèn cầy thì đặt một cục than hồng chắc sẽ thú vị hơn. Để nhớ TCS: ngoài phố mùa đông/ đôi môi em là đốm lửa hồng/ ru đời đi nhé cho ta nương nhờ chút thở than…
Sáng nay lên Huyền Không Sơn Thương thăm thầy Giới Đức. Nghe Sư sắp nhập thất 3 năm. Rửa tay gác kiếm. Tuyệt tích giang hồ! Sư vốn là một nghệ sĩ, một nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng Minh Đức Triều Tâm Ảnh từ hơn bốn mươi năm trước. Vẫn mưa lất phất. Khá lạnh. Mây mù trên đỉnh núi xa. Đường quanh co đèo dốc. Lang thang chợt thấy một túp lều tranh, giữa lòng hồ lớn, có dòng suối róc rách, một nhịp cầu bắt ngang… Lạ nhỉ. Ai mà chọn một chỗ đẹp như tranh vầy nhỉ. Làm nhớ “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần/ Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…” (Văn Cao). Lần theo chiếc cầu tre nhiều đoạn như sắp gãy tìm chủ nhân. Chó bỗng sủa vang. Nhìn lên thấy một… sư trẻ râu ria rậm rạp, trông “tiên phong đạo cốt”. Thì ra đó là thầy CQ. Châm nước pha trà mời khách phương xa. Chưa gặp mà không hề lạ. Đúng là tứ hải giai huynh đệ.
Về ghé chùa Thiên Mụ. Đã quá trưa. Chùa đông du khách quá! Lễ Phật, tham quan các nơi rồi… xuống núi. “Kim Long có gái mỹ miều/ Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi”! Trẫm mà còn vậy huống chi. Nhưng Kim Long còn có món ngon xứ Huế, lẫn trong vườn ai mướt lá.
Chiều đó, áp thấp nhiệt đới. Sóng sông Hương mạnh dần lên nên bỏ chuyến đò ca Huế trên sông. Thế nhưng… các bạn vẫn cho nghe một buổi ca Huế… trên bờ!
Ngày mai, sẽ viếng các chùa xưa xứ Huế…
Trước hết, chùa Quốc Ân, Tổ đình thiền Lâm Tế, do Sư Nguyên Thiều khai sơn, năm 1682, thời chúa Nguyễn Phúc Tần. Một cõi Phật trang nghiêm, thanh tịnh. Lòng như nhẹ lâng. Mưa vẫn nặng hạt. Rồi đến chùa Thuyền Tôn, do thiền sư Liễu Quán khai sáng từ đầu thế kỷ 17. Đây cũng là nơi đã nhiều lần mở các Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn tín đồ. Huế nay còn có Trung tâm Liễu Quán rất trang nhã bên bờ sông Hương và có giai phẩm Liễu Quán rất đẹp và giá trị. Ghé Ni viện Diệu Đức, được xây dựng từ năm 1932 bởi Sư bà Diệu Không, nay vẫn là một trung tâm đào tạo nổi tiếng cả nước.
Chùa Bảo Quốc có từ đời chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán từng đến học đạo nhiều năm, sau này trở thành trường Cao đẳng Phật học, đào tạo tăng tài. Các Hòa thượng Trí Tịnh, Thiện Hoa… ở phương Nam cũng từng đến học tập nơi này. Bác sĩ cư sĩ Lê Đình Thám, hội trưởng An Nam Phật học hội, cũng sinh hoạt tại đây.
Chùa Bảo Quốc đã được Hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết năm 1808 và sau này Bà Từ Dũ cũng đã hỗ trợ sửa sang.
Tiếp đó viếng chùa Từ Hiếu và chùa Từ Đàm, hôm sau còn ghé Trúc Lâm Bạch Mã trên đường về Đà Nẵng…
Rất tình cờ thôi, không tính trước mà đã có dịp viếng thăm mười cảnh chùa Huế.
Đi sâu vào các chùa chiền xứ Thần kinh mới thấy Phật giáo từ xa xưa đã được vua chúa quan tâm hỗ trợ, đặc biệt chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… đã tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, cũng đã được các Công chúa, Hoàng hậu… tích cực giúp đỡ xây dựng, trùng tu. Huế đúng là cái nôi của Phật giáo không chỉ của miền Trung mà gần gũi biết bao với miền Nam. Ngoài việc tu tập còn đào tạo tăng tài, ra báo, tổ chức hệ thống gia đình Phật tử. Đã có sự đóng góp không nhỏ của các Cư sĩ, Phật tử. “Gốc sâu thì nhánh tốt/ Nguồn xa thì sông dài…”.
Ở chùa Bảo Quốc hiện nay còn thấy có trưng bày ảnh các vị Hòa thượng và cư sĩ Lê Đình Thám, cùng một bài Thi kệ của Thầy Phước Hậu.
“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”
Phải, “Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như”. Vậy là đã đủ!
Nhớ Duy-ma-cật cũng từng kêu gọi Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia thành Tỳ-da-ly rằng hãy “Phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) ” là đã đủ. Phát tâm đi đã rồi từ đó mới thấy được Pháp thân Phật, thấy được Như Lai nhờ “học hành không thiếu cũng không dư”.
Ở chùa Bảo Quốc, nơi đào tạo tăng tài, không chỉ có các vị Thầy đạo cao đức trọng mà còn có sự hợp lực của các Cư sĩ…
“Buổi mai hôm đó, Phật vừa rời khỏi tịnh thất sau ba tháng an cư kiết hạ, đưa mắt nhìn các đệ tử nghiêm trang tu tập, người ngồi dưới gốc cây, người ngồi trên tảng đá, tất cả đều tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, tất cả đều sống một đời sống đạm bạc, kham nhẫn, tri túc, Ngài rất hài lòng. Đa số các vị đã là A-la-hán, đã tròn đầy phạm hạnh, đã đặt gánh nặng xuống, đã… vô sanh, không trở lại cõi Ta-bà ô trược này nữa. Một số vị Bồ-tát lớn thì đang rày đây mai đó, bươn chãi nơi này nơi kia, thuyết giảng cho chúng sanh con đường giải thoát, còn số Bồ-tát nhỏ mới tu thì đang quét lá, dọn dẹp chỗ trú sau mùa mưa bão.
Nơi Phật an cư kiết hạ mùa này không xa thành Tỳ-da-ly dưới kia, một thành phố lớn, một đô thị giàu có, dân cư đông đúc, nơi chúng sanh người thì nheo nhóc lặn ngụp trong bao nỗi lo toan, sợ hãi, ốm đau, già nua, bệnh hoạn…, người thì trọc phú huênh hoang, nứt đố đổ vách, lặn ngụp trong cảnh xa hoa, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ, bên cạnh là các vương tôn công tử áo gấm quần hoa ăn chơi trác táng, tửu điếm trà đình, và rất nhiều thanh lâu sang trọng với những cô kỹ nữ khuynh thành đón người cửa trước rước người cửa sau và rượu, và thuốc gây nghiện tràn lan; bên cạnh đó là những bậc trí giả ngày đêm tranh luận không ngừng về những triết thuyết cao siêu huyền bí, giải thích mọi hiện tượng của vũ trụ và loài người, ai cũng cho mình đúng nhất hay nhất. Nơi thành Tỳ-da-ly đó không ít kẻ vì tranh ngôi đoạt vị mà tay không ngần ngại nhúng máu nhúng chàm, gây oán chuốc thù, chiếm đất giành dân không ngớt…
Thành Tỳ-da-ly rực rỡ ánh đèn dưới kia khiến Phật thấy đã đến lúc phải thay đổi cách tiếp cận mới mong giải thoát được chúng sinh. Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay đang tĩnh tọa xung quanh Phật bây giờ lại có thể tiếp cận được với các bậc vương tôn công tử, với các quan chức, với các nhà buôn dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay tiếp cận được với các cô nàng kỷ nữ nhan sắc kiêu kỳ ở các thanh lâu trà đình tửu điếm dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng lại có thể vào tận các ổ mại dâm, động ma túy sa đọa dưới kia để thuyết giảng lời Phật? Ai đây có thể tiếp cận được? Cách nào đây có thể tiếp cận được? Ai đây sẵn lòng xâm nhập vào chốn bùn nhơ mà đủ năng lực giúp đỡ, hỗ trợ người khác vượt qua, không chỉ với những lời khuyên suông, lý thuyết trên mây, cao ngạo và xa cách, mà từ những thực tế của cuộc sống vì Phật đạo không xa cách thế gian, Phật đạo ở ngay trong lòng thế gian. Làm sao cho những cánh sen xanh biếc mọc lên từ chốn bùn nhơ?”…
Cách tốt nhất để tiếp cận ở đây là phương pháp “tiếp cận dựa vào cộng đồng” (Community-based approach). Cộng đồng Tỳ-da-ly có những đặc thù của nó, phải tiếp cận dựa vào nó, tự trong nó. Phải từ bùn mà sen mọc lên. Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng này đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng (community involvement), và có kỹ thuật học thích hợp (appropriate technology)… mới thành công”!
(Cõi Phật đâu xa, thấp thoáng lời kinh Duy-ma-cật, Đỗ Hồng Ngọc, 2016).
Rời Huế sớm để lên đường về Đà Nẵng. Cứ như học trò xứ Quảng ra thi! Lại cà phê Liễu Quán. Lại sông Hương dùng dằng.
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
(Thu Bồn)
ĐHN
3/2016
May 16, 2016
Ai có thể thở giùm ai?
Lõm bõm học Phật
Ai có thể thở giùm ai?
Đỗ Hồng Ngọc
Hai ngàn sáu trăm năm trước, một nhà minh triết phương Đông – Đức Phật – bảo đừng vội tin, đến nếm thử đi rồi biết! Đến là thực hành. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình thực hành và tự mình cảm nhận. Không thể nhờ ai khác. Rồi Ngài vạch ra một con đường “thoát khổ” cho chúng sanh.
« Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết-bàn »…
Có một con đường như vậy thật ư? Phật nói chắc là phải có rồi. Nói từ hồi bắt đầu dạy những bài học đầu tiên cho đến lúc sắp nhập Niết bàn. Nói đi nói lại. Sợ người ta quên. Sợ người ta coi nhẹ, mải mê chạy theo những “hí luận” nọ kia… Đó là thiền Tứ niệm xứ (Satipathana), thân-thọ-tâm-pháp. Rồi hình như thấy Tứ niệm xứ hãy còn có vẻ phức tạp quá, Ngài giản lược vào Thân hành niệm, rồi lại giản lược lần nữa cho phổ cập đến tất cả mọi người: Anapanasati (còn gọi là An-ban thủ ý, Nhập tức xuất tức niệm) để ai ai cũng có thể tiếp cận mà thực hành con đường “giải thoát”, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào .
Ana là thở vào, Apana là thở ra và Sati là niệm, là nhớ, nghĩ. Nhớ nghĩ về sự thở vào thở ra. Chỉ có vậy thôi sao ? Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà “bất khả tư nghì”.
Đừng vội tin. Đến nếm thử đi rồi biết.
“… Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là tu tập nhập tức xuất tức niệm? Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài” hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài” Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngán” Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”…
(Anapanasatisutta, Thích Minh Châu dịch).
Tôi đến với Thiền khá trễ, gần tuổi 60. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc thiền, biết thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh… nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó huyền bí xa vời, dành riêng cho một giới nào đó, có phần mê tín dị đoan nữa nên “kính nhi viễn chi”. Tôi là một thầy thuốc, một bác sĩ y khoa, tốt nghiệp gần nửa thế kỷ rồi, học cái khoa học thực nghiệm, nhiều năm làm ở khoa Cấp cứu bệnh viện rồi làm Giáo dục sức khỏe, tham gia giảng dạy, viết sách, báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa tôi vào bệnh viện để mổ sọ não vì tai biến. Từ lúc lơ mơ đến lúc tỉnh dây ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu kỳ thú! Khi bước đi được những bước đầu tiên lẫm đẫm như một em bé trên nền đất, tôi thấy quả là phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc và thấy tức cười. Tôi đó ư? Đồng nghiệp ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc. Phải đi tìm một con đường khác. Rồi tôi đọc lại thiền, đọc lại Tâm Kinh Bát-nhã“ Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ với tôi. Phải rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Phải thực hành thôi. Tôi vừa tìm hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để tìm kiếm. Thì ra có sẵn một con đường mà bấy lâu mình xa lạ. “ Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra….” Chỉ có vậy thôi sao? Tin được không? Tìm hiểu thấu đáo, thực hành “miên mật” thì quả là có cơ sở để tin.
Gần đây ngày càng nhiều nhà y sinh học, tâm lý học, hợp tác cùng các nhà sư, dùng những kỹ thuật mới như EEG, PET, fMRI… hy vọng khám phá những “bí nhiệm” của Thiền thì “thiền” nở rộ như nấm gặp mưa, đến nỗi gây ra không ít hoang mang, ngờ vực! Thực ra, đưa kỹ thuật vào khảo sát thiền chỉ có thể thấy được một góc cạnh nào đó thôi, vì đằng sau còn biết bao điều “bất khả thuyết”!
Câu hỏi đặt ra là tại sao chọn hơi thở làm đối tượng thiền? Tại sao không chọn một đối tượng nào khác?
Thực ra, chọn đối tượng nào cũng tốt cả, đất nước gió lửa… gì cũng tốt cả, nhưng chọn hơi thở để thiền thì tốt hơn.
Hơi thở dễ thấy nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay trước mắt mình!
Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Mỗi phút thở cả chục lần nên dễ có cơ hội quán sát hơn. Thở lúc mau lúc chậm. Lúc ngắn lúc dài. Lúc phì phò lúc êm dịu, luôn thay đổi.
Khi thở chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay, chẳng “làm phiền” ai!
Thở vô thức. Lúc ngủ say vẫn thở. Trung khu hô hấp nằm ở hành não, cầu não, bên dưới và bên ngoài vỏ não. Thở không cần ta. Thở ở ngoài ta.
Thở là cầu nối giữa thân với tâm. Lúc sợ hãi, thở hổn hển. Lúc sảng khoái, thở lâng lâng. Lúc mệt, thở đứt hơi, lúc khỏe, thở khoan thai.
Thở luôn trong thì hiện tại, ở đây và bây giờ, không có thở của hôm qua hay của ngày mai.
Và, đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Lúc chào đời hít mạnh một hơi vào phổi để rồi khi lìa đời, thở hắt ra một cái: trả lại những gì mình đã vay mượn tạm!
Gần hai mươi năm nay, tôi đến với thiền Anapanasati bằng cách riêng của mình. Khi có dịp chia sẻ, trao đổi, tôi thường nêu 3 giai đoạn thiền tập từ kinh nghiệm bản thân:
1) Thở bụng, 2) Chánh niệm hơi thở, và 3) Quán niệm hơi thở.
Thở bụng đúng cách đã có thể giúp cải thiện sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống; Chánh niệm hơi thở có thể đưa đến “diệt trừ khổ ưu” và Quán niệm hơi thở thì dẫn đến “thành tựu chánh trí”!
Thở bụng. Nói đến thở, ta nghĩ ngay đến ngực. Thiệt ra, thở ở bụng chớ không phải ở ngực. Thở bụng (abdominal breathing) hay còn gọi là thở cơ hoành (diaphragmatic breathing) là cách thở sinh lý nhất. Nhìn một em bé ngủ say thì biết. Chỉ có bụng phình lên xẹp xuống. Nhìn con ếch, con thằn lằn thì biết.
Thiền tập Anapanasati nên bắt đầu bằng thở bụng. Có vị thiền sư nói về thiền. Thiền hả? Là phình xep, phình xẹp, phình xẹp… ! Dĩ nhiên ở giai đoạn thiền sâu hơn thì thậm chỉ không còn thấy “phình xẹp” gì nữa cả!
Phổi ta như một cái máy bơm, lồng ngực như cái xy-lanh (cylindre), cơ hoành là cơ hô hấp chính, như một cái pit-tông (piston) thụt lên thụt xuống ( giống bễ lò rèn). Cơ hoành có thể nhích lên xuống khoảng 7-8cm, mà mỗi 1cm đã hút vào hoặc đẩy ra 250ml không khí. Lúc bình thường cơ hoành chỉ cần nhích lên xuống 1,5cm là đủ… sống. Khi áp suất âm trong phổi thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không (0 = zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt.
Hô hấp thật sự không xảy ra ở phổi mà ở trong từng tế bào. Do vậy mà khi ta có cách nào đó điều chỉnh được lượng khí ra vào, hiệu ứng sẽ tác động đến từng tế bào riêng lẻ.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện kể chuyện trong lúc nằm chờ chết trên giường bệnh ở Pháp khi các bác sĩ Pháp lúc đó bảo ông chỉ còn có thể sống không quá hai năm, ông đã thực hành “thở bụng” sau khi tìm hiểu các phương pháp thở của khí công, dưỡng sinh, thiền, yoga của phương Đông và kết quả là ông đã sống thêm… 50 năm nữa và làm được rất nhiều việc có ích cho đời. Tôi may mắn được ông truyền thụ trực tiếp do cùng làm việc chung ở Bô môn Tâm lý – Xã hội học ở trường Y nhưng cũng không dám tin, cho đến khi nằm bệnh mới thấy ừ nhỉ, sao không thử xem. Cùng lúc tôi cũng tham khảo thêm các đồng nghiệp phương Tây như Dean Ornish, Deepak Chopra đã đưa phương pháp thở bụng, thở cơ hoành vào các chương trình điều trị tim mạch, trị liệu toàn diện qua các nghiên cứu đối chứng nghiêm túc, đáng tin cậy về phương diện thống kê y học.
“Chánh niệm hơi thở”.
“… Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra…”
Niệm là nhớ, là nghĩ. Chánh niệm hơi thở là tâm ý chỉ “nhớ, nghĩ » đến hơi thở đang vào, đang ra chớ không để tâm ý đi lăng xăng nơi này nơi khác. Chỉ có vậy. Tưởng dễ mà không dễ. Tâm ý vốn khoái lang bang, lăng xăng trăm nghìn thứ, bay nhảy như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã) không ngưng nghỉ. Lúc thì lòng tham nổi lên, tính tính toan toan. “Một đời lận đận đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi!” (Bùi Giáng), lúc thì sân giận ào ào đến, rồi dằn vặt, rồi lo âu, nghi kỵ, ngờ vực, hoang mang… Tiêu tốn biết bao nhiêu năng lượng cho những chuyện vô bổ đó! Bộ não chỉ chiếm có 2% thể trọng mà tiêu hao Oxygen đến 25-30%, phần lớn cho những chuyện “nhảm nhí” vô bổ này. Nếu chánh niệm được vào hơi thở thì những thứ tham, sân, nghi, lăng xăng, bực dọc kia… sẽ âm thầm lặn đi rồi… biến mất!
Đây chính là “thiền chỉ” (samatha). “Chỉ” là ngưng. Ngưng sự lăng xăng của tâm ý. Ngưng sự bứt rứt của cơ thể.
Chánh niệm vào hơi thở cách nào? “Thở vô dài, biết thở vô dài. Thở ra dài, biết thở ra dài. Thở vô ngắn biết thở vô ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn”. Chỉ có vậy. Chữ “biết” ở đây có thể gây hiểu lầm. “Biết” ở đây không phải là “biết” mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra, lúc dài lúc ngắn lúc sâu lúc cạn kia kìa. Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ) về sự thở, về hơi thở. Vỏ não ta có cái hay: vùng này được kích hoạt thì vùng khác tắt ngấm. Đã nghĩ tới điều này thì không thể cùng lúc nghĩ tới điều khác. Nhờ đó mà ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, tiêu tốn năng lượng vô ích! “Nhất tâm bất loạn” là vậy. Điều này dẫn tới “diệt trừ khổ ưu”, giải thoát tâm vậy.
“Quán niệm hơi thở”.
Quán niệm hơi thở chính là “thiền quán” (vipassana). “Quán” không còn là “dõi theo” hơi thở đơn thuần nữa mà đã có sự phân tích, soi sáng (quán chiếu) dưới nhiều góc cạnh khác nhau để nhìn cho ra những điều mà bình thường không “thấy biết”. Cái thấy biết bấy giờ đã vượt khỏi cái trình hiện, cái giả tướng bên ngoài để nhìn được cái thực tướng bên trong, bên bờ kia. Và cái thấy “như thực” đó đã làm cho Huệ Năng sửng sốt reo lên: Thì ra vậy! Không ngờ… không ngờ…
Vi, tiếp đầu ngữ có nghĩa là “một cách khác”, “một cách đặc biệt”, còn passana là “thấy”, là “biết”. Vipassana là thấy biết một cách khác, một cách đặc biệt! Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ có thể thấy cả mùa thu, thấy con nai vàng ngơ ngác, nhưng người có quán chiếu lại thấy sự vô thường, vô ngã, sự bất sinh bất diệt…
Khi vào sâu trong định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Đó chính là quãng lặng ở cuối thì thở ra – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tĩnh, vì không tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là thở vào (trước thở vào cũng có nghĩa là sau thở ra). Có thể nói đến một phương pháp thiền “Pranasati” ở đây chăng, nghĩa là đặt “niệm” vào quãng lặng, và thực chất đến một lúc cũng không còn cả “niệm”! Những hành giả giàu kinh nghiệm cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà quãng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó sẽ không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người…
Thiền tập: “…đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt”….
Tìm một chỗ yên tĩnh để thiền tập thì tốt nhưng không nhất thiết phải dưới gốc cây hay ngôi nhà trống. Đó là nói cho các vị “Tỳ kheo”. Còn ta có thể ngồi ở một góc nào đó trong nhà cũng được. Ngay chỗ ồn ào náo nhiệt, giữa chợ búa, bến xe, sân bay… vẫn có thể “thiền định” được. “Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định” (Huệ Năng). Cũng không nhất thiết phải ngồi, không nhất thiết phải kiết già, bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng được, vì đi đứng nằm ngồi gì cũng phải… thở mà! Miễn là thoải mái, dễ chịu. Dù vậy, nếu ngồi tréo chân (kiết già, bán già) được thì tốt, giúp các cơ bắp thư giãn, đổi chiều co thắt.
Giữ lưng thẳng rất quan trọng. Ta dễ bị cong vẹo cột sống, đau thắt lưng, đau cột sống cổ nếu ngồi không đúng tư thế. Ngồi trước máy vi tính, lạy Phật… không đúng tư thế cũng sẽ bị đau thắt lưng, đau cột sống cổ như vậy.
Một yếu tố rất quyết định là thả lỏng toàn thân – như thả trôi theo dòng nước hay treo thân trên móc áo. Thả lỏng toàn thân là làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp xuống, bình bồng, không còn căng cứng nữa! Tiêu hao năng lượng cho trương lực cơ (tonus musculaire) rất cao (khoảng 40% Oxygen), nên thả lỏng là giúp giảm đáng kể tiêu hao năng lượng do căng cơ.
Trú niệm trước mặt là không để “niệm” chạy lăng xăng. Buộc nó lại bằng cách chánh niệm vào hơi thở. “Thở” đến đâu biết đến đó. “Dõi theo” hơi thở vào hơi thở ra đó thì tâm ý không buông lung nữa.
Từ từ thôi, đừng nóng vội. Thất bại thường do nóng vội. Cứ thoải mái. Đừng đặt “chỉ tiêu kế hoạch” gì ở đây.
Khi cơ thể đã chùng xuống, khi tiêu hao năng lượng đã giảm một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ bớt nhu cầu phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn! Ăn ít mà vẫn đáp ứng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc. Các nghiên cứu trên sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn!
… Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài” hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài”…
Chỉ có vậy. Mà “bất khả tư nghị”.
Ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai? Cho nên chỉ có thể nương tựa vào chính mình thôi. “Duy ngã độc tôn” thôi vậy!
“Trời cao đất rộng/ một mình tôi đi/ một mình tôi đi.
Đời như vô tận/ một mình tôi về/ một mình tôi về… với tôi!”
(Trịnh Công Sơn).
ĐHN (Phật đản, 2016).
May 3, 2016
Một hôm gặp lại… LỮ QUỲNH
Một hôm gặp lại… Lữ Quỳnh
Lữ Quỳnh về đến Saigon thì đã hẹn ngay cho Thân Trong Minh và Đỗ Hồng Ngọc ra cafe… Đông Hồ hàn huyên cho đỡ những ngày lạnh lẽo!
Lữ Quỳnh không… già mấy! Còn phong độ chán! Chỉ có tai hơi nghễnh ngãng và trí nhớ hơi lãng đãng chút thôi! Thì ai già mà chẳng vậy!
Từ trái: Thân Trọng Minh, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Đỗ Hồng Ngọc
Saigon 2.5.2016
Quỳnh nói lúc này ăn rất ít, đã sụt được 19 p rồi. Hôm trước hơi phì, mệt mỏi. Bây giờ tối tối cũng phải uống thuốc ngủ, thuốc an thần, sáng sáng phải uống thuốc huyết áp… Thì ai già mà chẳng vậy!
Nhắc Đinh Cường, Quỳnh nói lần đầu trong đời anh “nói chuyện trước công chúng”. Đó là buổi đọc điếu văn cho ĐC. Anh nói ĐC thuở sinh thời như đầu mối, như cái trục… cho anh em gặp gỡ (trực tiếp hay gián tiếp) thì nay không còn cái trục đó nữa, anh em có vẻ như… tứ tán dần đi! Câu nói thật cảm động. Rồi Quỳnh nhắc Hoài Khanh, Tạ Chí Đại Trường…bên này rồi bên kia…
Buổi gặp mặt còn có Châu Văn Thuận, một cây bút “chính luận” của tạp chí Ý Thức… gần nửa thế kỷ trước! Bây giờ anh ngồi đó, cười mà như không phải cười, tai cũng nghễnh ngãng như ai. Anh em lại nhắc Sâm Thương. TTMinh bảo Sâm Thương bây giờ quên nhiều lắm rồi. Còn Lê Ký Thương thì mới té… xe đạp, chóng mặt, ói mửa tùm lum phải vào bệnh viện. Nay mới bớt bớt.
Nguyễn Quang Chơn gọi từ Đà Nẵng, hỏi thăm. Trao điện thoại cho Quỳnh. Quỳnh nói nghe sao không rõ, hình như NQC phải không?
Tặng Lữ Quỳnh & Kim Nhung cuốn tùy bút “Một Hôm Gặp Lại” và nói toàn bạn bè mình không trong đó nhé. Nào Trần Hoài Thư, Từ Thế Mộng, Đinh Cường, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Lê Ký Thương…
Mới thôi… mà thành những lão hữu cùng một lứa bên trời!
Đỗ Hồng Ngọc
TB: Lữ Quỳnh dặn nhớ gởi hình cho Nguyệt Mai với nghen!
April 26, 2016
Thư gởi bạn xa xôi: “Tào lao thôi mà!” (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi (4.16 tiếp theo)
Thiền và Sức khỏe người có tuổi
“Người có tuổi” là lứa tuổi trung niên, khoảng từ 30 đến 60! Chưa già mà cũng không còn trẻ nữa.
Gặp nhiều vấn đề của lứa tuổi: cả về thể chất, tâm thần, và xã hội. Trách nhiệm với gia đình, với xã hội nặng nề hơn. Cha mẹ già nhanh, con cái lớn nhanh. Giao tiếp bạn bè rộng mở. Công danh. Sự nghiệp. Trách nhiệm. Các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội đã thay đổi, tâm sinh lý cũng đã thay đổi, khó giữ được sự cân bằng trong cuộc sống, ảnh hưởng đến sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần…
Thiền đặc biệt cần thiết cho lứa tuổi này, giúp giải tỏa stress, giúp đời sống tĩnh lặng, an lạc hơn, hạnh phúc hơn, tránh được nhiều thứ bệnh do hành vi lối sống gây ra.
Giới thiệu một phương pháp thiền dễ thực hành nhưng cũng rất sâu xa và hiệu quả mà Phật đã dạy từ kinh Tứ niệm xứ, đó là Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati), có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày với 3 bước:
1. Thở Bụng
2. Chánh Niệm Hơi Thở (thiền Chỉ)
3. Quán Niệm Hơi Thở (thiền Quán)
Phương pháp đơn giản, hiệu quả và không sợ các hiệu ứng phụ xảy ra.
Hoàn toàn có tính khoa học, sinh học.
Từ trái: Bs Đỗ Hồng Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Văn Trọng, Nhạc sĩ Dương Thụ tại Café Thứ 7, sáng ngày 23.4.2016, trò chuyện cùng các thính giả trong một thính phòng trang nhã và ấm cúng, thân mật giữa cái nóng hừng hực của Saigon.
Giải thích về cơ chế thở bụng, thở cơ hoành và hiệu quả của phương pháp này.
Cô Xuân Phượng, 89 tuổi, chia sẻ kinh nghiệm về phương pháp thở bụng cô đã ứng dụng trong điều trị bệnh lúc ở tuổi ngoài 30…
Một bạn trẻ đặt câu hỏi
Nhiều câu hỏi được đặt ra, nhiều kinh nghiệm được chia sẻ…
Anh Ngô Tiến Nhân, anh Nguyễn Văn Trọng, chị Xuân Phượng, và ĐHN chụp ảnh lưu niệm sau buổi “tào lao” rất vui!
Thư gởi bạn xa xôi: “Tào lao” thôi mà!
Thư gởi bạn xa xôi (4.2016)
“Tào lao” thôi mà!
Nói là đi “nói chuyện tào lao” vậy chớ mình cũng phải suy nghĩ làm sao có thể mang lại chút ích lợi gì đó cho người nghe chứ phải không?
Bạn nhớ thầy Nguyễn Hiếu Học ở Bình Dương không? Thầy giới thiệu mình đến nói chuyện về “Đọc sách” nhân Ngày Đọc sách VN với các bạn đọc, nhất là giới trẻ, sinh viên học sinh ở Bình Dương. Ừ thì đi. Năm ngoái thầy cũng mời một lần rồi mà kẹt. Vì đã có thầy Lê Trung Hưng nói về ý nghĩa của việc đọc sách v.v… nên mình chỉ “tào lao” kể chuyện vì sao mình trở thành người mê sách, đọc sách rồi viết sách… Kể những chuyện như hồi nhỏ lén đọc sách thế nào, chuyện cuốn sách nào đã làm “thay đổi cuộc đời” mình, và làm cách nào cho trẻ con bây giờ mê đọc sách, chịu đọc sách…Buổi nói chuyện trở nên sôi nổi vì có tranh luận, có hỏi đáp. Lần nào cũng vậy, mình luôn tạo nên buổi hỏi đáp, bởi vì đâu có phải diễn thuyết chi đâu, có “thuyết” gì để “diễn” đâu. Chỉ là trò chuyện trao đổi thân tình, thân mật, nên càng “tào lao” càng tốt thôi mà! Sợ nhất là những chuyện thuyết lý, dạy dỗ, “nghiêm trọng hóa”… Cho nên kinh nghiệm là nên tùy thuộc vào đối tượng đích, tùy theo vấn đề của đối tượng đích đặt ra mà “tào lao”… Vậy là đã trả lời bạn vì sao người ta thích nghe mình “tào lao” rồi phải không?
Buổi nói chuyện về Đọc sách ở Bình Dương 12.4.2016
Sau buổi trao đổi, các bạn trẻ xúm xít chụp hình kỷ niệm rất vui. Thầy Nguyễn Hiếu Học đề nghị đọc bài thơ Thư cho bé sơ sinh, bác sĩ Thạch giới thiệu một số nhà sách ở Bình Dương để bạn nào thích đọc có thể tìm đến.
Ngày 20.4.16 Jenny Le mời “tào lao” ở một buổi gặp gỡ đặc biệt với các phụ nữ… đẹp, doanh nhân, nữ nhà báo cùng với một nhà thiết kế và một đạo diễn, nhiếp ảnh gia nổi tiếng. Mình được mời đến để… chia sẻ về cái đẹp của tâm hồn với tư cách là một nhà thơ – bác sĩ! Ừ thì đi. Đi cho biết đó biết đây chứ. Đi để học, để mở mang chứ! Và mình đã bắt đầu bằng cách dẫn thơ… Bùi Giáng: Em ơi em đẹp vô cùng/ vì em có cái lạ lùng bên trong! Dĩ nhiên, bác sĩ thì với kính hiển vi, siêu âm, chụp cắt lớp, nội soi các thứ… thì không lạ gì cái lạ lùng bên trong đó , nhưng Bùi Giáng là một nhà thơ, ông không nhìn như… bác sĩ. Vậy, hẳn là ông nói về cái đẹp lạ lùng của tâm hồn. Nhưng làm sao để có được cái đẹp đó ở … người đẹp nếu họ chỉ biết “trang trí” với những hình thức bên ngoài của lụa là gấm vóc, thời trang nọ kia v.v…? Mình đọc thơ Nguyên Sa, thơ Đinh Hùng về chiếc áo dài và nhắc tới “ôi quê hương xứ dân gầy” nhờ chiếc áo dài mà không bị béo phì… Dĩ nhiên không thể không nhắc đến “công, dung, ngôn, hạnh” với nội hàm mở rộng ngày nay và không thể không nhắc đến Từ Bi Hỷ Xả…
Từ trái: Vân Anh (MC), ĐHN, Jenny Le, Phạm Hoàng Nam, Vincent Đoàn.
Còn buổi “tào lao” về Thiền và Sức khỏe người có tuổi ở Cafe Thứ 7 của nhạc sĩ Dương Thụ thì sao?
Thì xin xem hồi sau phân giải vậy!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
April 20, 2016
“Café” với Đỗ Hồng Ngọc: “Thiền và Sức khỏe”
April 16, 2016
Đọc Đỗ Hồng Ngọc: MỘT HÔM GẶP LẠI
Đọc Tùy Bút Đỗ Hồng Ngọc
MỘT HÔM GẶP LẠI
Trần Vấn Lệ
Đỗ Hồng Ngọc là một Bác Sĩ Y Khoa nhưng cũng là một nhà thơ, nhà văn có tiếng trên văn đàn Việt Nam thời cận đại và nay, thời hiện đại. Trước, thế kỷ trước, thế kỷ hai mươi, ông làm thơ và ký bút hiệu là Đỗ Nghê, kết hợp nội ngoại sinh thành ra ông, Đỗ là họ thân sinh và Nghê là họ của thân mẫu. Với Mẹ, với Cha, với ông bà Tiên Tổ ông luôn luôn nhớ ơn, nhớ công, thì với đối tượng nghề nghiệp, y khoa bác sĩ, các bé mới ra đời, các sản phụ, ông không quên. Đất nước ông, xã hội ông và thân chủ của ông, và bạn bè bằng hữu của ông, ông không quên ai. Đặc biệt, đâu đó, trong một hay nhiều lần, chúng ta nghe ông nói về lòng biết ơn của ông đối với học giả Nguyễn Hiến Lê, ông coi như người Thầy, người chỉ đường cho ông vào cuộc đời với hành trang là tinh thần xây dựng, cầu tiến và với trái tim đầy tình người. Nay, thế kỷ này, ông ký tên thật của mình là Đỗ Hồng Ngọc. Bạn bè ông quen biết ông xưa nay đều một nhận xét: Đỗ Hồng Ngọc là một người dễ thương, hòa nhã, thuận thảo và luôn luôn trẻ trung dù bây giờ ông đang ở tuổi khá cao…
Tôi từng viết về Đỗ Hồng Ngọc qua tập thơ Thư Cho Bé Sơ Sinh & Những Bài Thơ Khác. Tôi dùng từ “ấm áp” nói về cách diễn lời diễn ý của ông. Nay với tập tùy bút, Một Hôm Gặp Lại, tôi thấy ông chẳng thay đổi gì, toát ra từ văn chương của ông là sự ấm áp, là lòng từ bi hỷ xả. Có lần tôi nói Đỗ Hồng Ngọc giống như Ông-Thầy-Chùa, ông Thầy ở trong Chùa giảng dạy cho người ta biết cách thích nghi với đời sống, hồn nhiên tự tại; tôi không coi ông là một Nhà Sư vì ông luôn luôn gần gũi với mọi người trong tình thân ái và nhân ái. Tập tùy bút Một Hôm Gặp Lại tôi thấy lòng ông thản nhiên thơm ngát đạo hạnh, không có chút nào mê tín, không có chút nào dị đoan. Sự gặp gỡ giữa đời thường này là một cái duyên. Cái duyên khởi từ Thơ, miên man vào Văn, thành tâm tình, thành tâm sự.
Tôi và Đỗ Hồng Ngọc “có duyên” từ năm đệ thất, 1954 – 1955 tại Trường Phan Bội Châu, Phan Thiết. Sau đó chúng tôi lưu lạc, Đỗ Hồng Ngọc…mất tích cho đến cuối thập niên 1990, tôi thấy cái bút danh Đỗ Hồng Ngọc trên nhiều báo tôi thử đánh bạo làm quen. Thì té ra, cố nhân! Hơn hai mươi năm rồi, tình của chúng tôi thắm thiết.
Trước mặt tôi, Đỗ Hồng Ngọc và cuốn tùy bút Một Hôm Gặp Lại là một sự gần gũi và một sự gắn bó. Tôi đọc say mê năm mươi bài viết của ông, có bài ngắn, có bài dài, trải lòng tác giả trên hai trăm trang sách – in rất đẹp, khổ sách rất đẹp. Với tôi: Đỗ Hồng Ngọc là Mỹ Nhân, người đẹp đứng trước cửa của Nhà Xuất Bản Văn Hóa Văn Nghệ TPHCM. Đây là một nhà xuất bản cho chào hàng nhiều tác phẩm Hay và có Giá Trị Nghệ Thuật. Tôi thật mừng cho bạn tôi. Sách của Đỗ Hồng Ngọc được Công Ty Văn hóa Phương Nam phát hành, tôi tin chắc là tác phẩm của bạn tôi đến với nhiều người, đến với nhiều nhà và sự thân tình, lòng quý mến của độc giả dành cho Đỗ Hồng Ngọc là thắm thiết và tha thiết!
Tôi có suy bụng ta ra bụng người, thật. Nhưng tôi tự tha thứ cho tôi: mình nói tốt về một người, mình ca ngợi một người tốt mình không có tội! Đỗ Hồng Ngọc là Bác Sĩ Y Khoa đã có gần năm mươi năm hành nghề, rất mát tay và xứng đáng nhận danh hiệu Lương Y Như Từ Mẫu. Chẳng chỉ thế, với thi tài và văn tài của ông, Đỗ Hồng Ngọc đã có chỗ đứng không-đổi-dời trong lòng người đọc sách. Bạn chưa tin tôi, bạn đọc Đỗ Hồng Ngọc đi, rồi bạn thấy tôi nói về Đỗ Hồng Ngọc còn “hạn chế” lắm!
*
Một Hôm Gặp Lại, tác giả Đỗ Hồng Ngọc tự cho là Tùy Bút. Và ông giải thích tác phẩm Một Hôm Gặp Lại của ông như sau:
Tôi khoái Tùy Bút. Không biết tại sao. Chắc là tại cái tạng. Tùy Bút nó gần với Thơ hơn. Nó không hư cấu. Nó đến từ cảm xúc hơn là từ tính toan. Nó tùy duyên mà tới. Nó tùy hứng mà nên. Nó tùy nghi mà hiện. Và nó tùy hỷ mà vui…
Qua năm mươi (50) tựa đề của năm mươi cảm xúc, tôi thấy Đỗ Hồng Ngọc thật thà, Đỗ Hồng Ngọc như thơ và Đỗ Hồng Ngọc tự sự rất duyên dáng. Ông không làm mất lòng ai, ai ông cũng dịu dàng từ tốn…vì ai cũng là người đọc của ông, họ sẽ yêu thương ông, từ đó mà yêu thương chữ nghĩa. Ông chẳng những đằm thắm trong các mẩu chuyện tình cảm, các mẩu chuyện về đất nước, quê hương, ông có kể ít nhiều kỷ niệm với bạn bè, qua ông thấy những người ông nhắc nhớ đều tài hoa…rất mực. Thí dụ như trường hợp nhà văn Trang Thế Hy, họa sĩ Đinh Cường, họa sĩ Lê Ký Thương, nhà thơ Lữ Kiều, nhà thơ Từ Thế Mộng, nhà thơ Trần Hoài Thư…Tôi nghĩ có lẽ vì sự bó buộc của nghề nghiệp, Đỗ Hồng Ngọc ít đi xa nhưng khi có dịp đi xa ông nhìn cảnh vật nào ông cũng có cảm tình đặc biệt, ông gặp người nào ông cũng nhớ thương và kính trọng. Ông nói về Phan Thiết, Mũi Né, La Gi…rất êm đềm, ông nói về nước Mỹ (qua Boston) rất dịu dàng ăm ắp tình thân. Tôi không thấy Đỗ Hồng Ngọc một chút nào tham hay sân, si. Tôi rất phục Đỗ Hồng Ngọc khi ông trích dẫn “cái hay” cái “độc đáo” qua những sách vở / tác phẩm mà ông đọc được, thí dụ sách của Nguyễn Hiến Lê, thơ của Lữ Quỳnh, của Từ Thế Mộng…Đặc biệt, tôi rất thích những câu thơ của Hồng Khắc Kim Mai do Đỗ Hồng Ngọc trích ra và có thêm lời mạ kền mạ bạc của ông, rất “trung thực”, rất tự nhiên và rất thanh tao! Bạn cùng tôi, mình đọc đoạn này nha:
Tôi sực nhớ câu thơ của một nữ thi sĩ hơn 50 năm về trước: “Ngực cho anh còn sữa để cho con” (Hồng Khắc Kim Mai, Mắt Màu Nâu, Saigon, 1965). Nhà thơ viết những câu thơ đó lúc tuổi mới đôi mươi, nghe nói còn chưa có người yêu! Hồng Khắc Kim Mai còn có những câu thơ viết về cái…bình bú khá hấp dẫn: “Ngực em tròn thật tròn / Nhấp nhô từng hơi thở / Áo cài khuy nút hở / Cho người thèm thân em / Cho người hôn lên trên…” HKKM, Mắt Màu Nâu, 1965.
Chuyện đáng ngại bây giờ là người ta dần quên vế thứ hai: « còn sữa để cho con », mà chỉ nhớ vế thứ nhất. Người ta bắt đầu chăm chút kỹ cái bình bú, làm đẹp nó về hình thức như bơm, độn, tạo hình… có khi là với silicone, có khi là với túi nước muối khéo léo chèn đâu đó…Tưởng tượng đi đâu cũng phải mang theo mấy túi nước muối chắc cũng chẳng vui gì! Lại phải luôn cảnh giác: nhẹ tay. Dễ vỡ! Chưa ai làm cuộc phỏng vấn các bé cảm nghĩ thế nào khi được bú cái bình bú ướp muối này.
Đỗ Hồng Ngọc nhà mình đúng là ông Bác Sĩ Y Khoa đa sự! Ông gọi đôi nhũ hoa của người nữ là cái “bình bú” khiến người đọc thấy mà thèm, mà tưởng tượng, ước chi mình là bé sơ sinh nhớ hoài “cái vế thứ hai”, làm việc cật lực để mà “bồi dưỡng” cho nó, để mà đạo lý luân thường đừng thay đổi, để mà thấy câu này là chân lý: “Của chồng, Công vợ”. Sở dĩ xã hội đảo điên vì người ta…ham của lạ, giống như tham phú phụ bần! Ông Nguyễn Du nói thật chí phải: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
Đọc Tùy Bút của Đỗ Hồng Ngọc, tôi nghe lòng tôi lắng xuống. Đời còn đẹp lắm vì còn có người trang điểm cho đời bằng văn chương. Đỗ Hồng Ngọc cho ra đời đúng lúc tập Tùy bút Một Hôm Gặp Lại. Chúng ta thử nghĩ rằng mình đang gặp lại cái gì đây, chuyện gì đây, người nào đây…các bạn sẽ gặp lại chính mình: làm chuyện gì cũng vì thế hệ tiếp nối, chúng không trách tổ tiên ham ăn, ham chơi, ham đua đòi…Tôi không nói Đỗ Hồng Ngọc là nhà luân lý, tôi chỉ muốn khen Đỗ Hồng Ngọc, ông là nhà văn đi theo hướng Văn Dĩ Tái Đạo. Đỗ Hồng Ngọc đóng góp cho đời, xây dựng giềng mối cho đời bằng văn chương điềm đạm. Viết văn, chúng ta có quyền nổ – nổ như tạc đạn! Nhưng anh chị em ơi, hết chiến tranh rồi, những gì xạo sự không thể tồn tại và nếu còn xạo sự thì rất là vô duyên! Chiến tranh rất tồi tệ, rất khốn nạn, chúng ta đừng gây chiến tranh. Hãy viết với bằng chứng! Hãy viết vì tình người, dịu dàng, nhẹ nhàng và âm áp! Đỗ Hồng Ngọc, theo tôi là một nhà văn dễ thương…dù ông là Y Khoa Bác Sĩ, ông thừa tình cảm người bệnh, thân nhân người bệnh dành cho ông…
*
Lâu lắm rồi, hồi tôi còn nhỏ dại, tôi đọc Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ, tôi thích hoài tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối. Tôi không nghiền ngẫm hết cuốn sách của Phạm Đình Hổ nhưng tôi không quên tiếng mưa rơi…
Đọc được một cuốn sách hay, như Một Hôm Gặp Lại của Đỗ Hồng Ngọc, tôi nghĩ rằng có một hôm nào đó…tôi không quên những gì tác giả viết ra, miên man và lan man nhưng “hay kỳ lạ” vì nó cho mình suy nghĩ về mình, bất chợt nhìn ra cảnh đời nghe ít nhiều xao xuyến…từ đó, tôi nhủ lòng tôi: mình nên sống đằm thắm, mình nên là người tử tế.
Tùy bút rất gần với thơ mà thơ thì êm ái. Tôi chọn sự êm ái. Tôi muốn như Xuân Diệu từng muốn: Hãy ngó càng lâu, nói rất êm, hãy dùng những tiếng thật êm đềm; Thu này em hãy yêu thêm với, bóng đổ trong lòng lạnh lắm em…
Bạn đã yêu rồi, hãy yêu thêm! Bạn đã đọc nhiều sách rồi, hãy đọc thêm cuốn nữa, Một Hôm Gặp Lại của Đỗ Hồng Ngọc, bạn sẽ thấy mình đọc không thừa…mà hình như còn thiếu!
Trần Vấn Lệ
(4.2016)
April 14, 2016
Mũi Né: mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ…
Mũi Né: mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ…
Thúy Vy vừa gởi về một clip nhạc, Mũi Né, thơ Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) do nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc và Randy Ames hòa âm… với tiếng sóng biển rạt rào, tiếng chim hải ấu ríu rít… cùng những hình ảnh tuyệt vời của một miền quê hương xứ biển… cát gió mênh mông!
Và vì clip nhạc không có ai hát cả… nên mỗi người đều có thể một mình mình hát cho một mình mình nghe…
Vậy nhé.
ĐHN.
April 11, 2016
Một tuần “hành hương…”
Một tuần “hành hương…” (tiếp theo và… hết!)
N4-N6: Đà Nẵng, Hội An
Rời Huế sớm để lên đường về Đà Nẵng. Ai nấy đều có vẻ quyến luyến, cứ như học trò xứ Quảng ra thi! Lại cafe Liễu Quán. Lại sông Hương dùng dằng.
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
(Thu Bồn)
Chương trình trên đường sẽ ghé thăm Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã và Lăng Cô, sau đó về Đà Nẵng cho kịp cáp treo để một nhóm đi Bà Nà, nhóm về Hội An, cứ như nhóm theo Lạc Long Quân, nhóm theo Âu Cơ vậy!
Trúc Lâm Bạch Mã đẹp tuyệt vời. Gặp thầy Tâm Hạnh, trụ trì thiền viện, trao đổi nhiều điều thú vị.
Rồi ghé Lăng Cô, đầm Lập An cơm trưa. Nhìn cảnh non nước mênh mông không thể không nhớ Phạm Lãi với Tây Thi ngày nào… Bỗng thèm một đêm trăng. Thèm một tiếng tiêu. Thèm một giọng hát. Có anh Trương Chi…
Huế vào Đà Nẵng bây giờ chỉ có chui hầm là hầm. Thật đáng tiếc.
Định ghé thăm chùa Quan Thế Âm của thầy Huệ Vinh một chút theo lời mời của thầy, nhưng Trời ơi, nhằm ngày Lễ vía Quan Thế Âm nên thiện nam tín nữ đông nghẹt. Thu Nhi chạy tới chạy lui cũng không xong. Thầy Huệ Vinh đích thân ra tận lộ, kịp tặng tập san Diệu Âm. Hẹn hôm khác vậy. Vả, cũng vội vàng về Hội An kịp hẹn với Thu Vàng và các bạn.
Một buổi văn nghệ “bò túi” ở Hội An, bên bờ sông Hoài, trước sân ngôi nhà rường xinh đẹp của thầy Ngữ và cô Bích Hường. Có cao lầu, có bắp, có đâu phọng Hội An, ngon chi lạ. Có Khôi, có Chi Mai, có Thao… các thầy cô giáo, các nhạc sĩ chơi guitare và mandoline.
Hình như ai cũng đã từng quen biết dù chưa gặp bao giờ. Chiều Hội An lạnh 18 độ. Mưa đã ráo hột. Mọi người kê ghế ra sân, quây quần nghe Thu Vàng hát mấy bài của Phạm Duy, của Trịnh Công Sơn và dĩ nhiên có Mũi Né của Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc.
Đọc cho các bạn nghe bài thơ Thư cho bé sơ sinh (1965) rồi bài Mũi Né (1970)… Và sau đó là Thu Vàng. Giọng ca mà ai cũng khen rất sang. Hoàng Quốc Bảo khó tánh mà cũng chịu. Khi nhóm mình đã về, các bạn còn yêu cầu Thu Vàng hát thêm bài Thư cho bé sơ sinh đã được nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu phổ nhạc từ trước 75. Thu Vàng nhắn tin: “các bạn em rất “ưng cái bụng” đó anh!”.
Buổi tối Hội An rực rỡ đèn lồng, muôn hồng ngàn tía, tấp nập người người… Mùa này đa số người nước ngoài, rất ít người Việt. Món ăn nào cũng ngon cũng rẻ bất ngờ! Nhưng phải nói, buổi sáng Hội An mới tuyệt vời vì sự vắng lặng. Nhớ mấy câu viết xưa: “Hội An còn ngái ngủ/ Mái chùa ôm vầng trăng/ Giật mình nghe tiếng chổi/ Gà gáy vàng trong sương…” (Đỗ Hồng Ngọc).
Hỏi thăm thì các bạn trên Bà Nà cũng được thầy trụ trì chùa Linh Ứng tiếp đãi ân cần, chu đáo, chỉ có đêm thì quá lạnh mà sáng thì mù sương nên xuống núi khá sớm.
Ngày hôm sau, cả nhóm đã tập trung lại đủ, đi thuyền qua sông Thu Bồn thăm làng Mộc rồi thuyền về ghé chợ Hội An, chiều thăm làng rau Trà Quế, bãi An Bàng (cấm tắm, biển động), rồi làng Gốm, làng Lụa… Không quên cao lầu, cơm gà, đậu hủ, chí mà phủ (chè mè đen) và chè khoai môn… các thứ!
Từ Hội An về lại Đà Nẵng, đoàn ghé thăm chùa Quan Thế Âm, chuyện trò rôm rả cùng thầy Huệ Vinh. Thầy hướng dẫn đi thăm Bảo tàng Phật giáo và tặng mỗi người một xâu chuỗi dâu tằm “ngàn năm” rất quý theo lời thầy nói. Ghé qua Ngũ Hành Sơn một chút. Nay đã có thang máy lên đỉnh núi. Phải đi cho biết. Chớ leo núi thì hết nổi rồi!
Chiều đó đoàn viếng chùa Bãi Bụt. Rồi còn đi Chợ Cồn mua chút quà xứ Quảng.
Riêng mình ngồi nhâm nhi café với nhóm bạn Đà Nẵng ở à la carte tầng 23 để có dịp nhìn xuống bãi Mỹ Khê xinh đẹp và thành phố Đà Nẵng đang phát triển từng ngày.
Sáng hôm sau (29/3/2016) ra sân bay sớm về lại Saigon.
Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

