Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 126
November 13, 2013
“Y nghiệp” (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi
Định viết vắn tắt mấy dòng cho bạn trong thư trước đó là đủ nhưng bạn đã hỏi thêm “một vài chi tiết” nên mới có phần “tiếp theo” này vậy.
1. Bạn đã đọc chuyện này chưa? Chuyện kể ông Biển Thước (401-310 trước Công nguyên), một thầy thuốc người nước Triệu thời Đông Chu liệt quốc nổi tiếng là “thần y”, một hôm Ngụy vương hỏi Biển Thước: “ Ta nghe nói ba anh em nhà Thầy đều giỏi y thuật, thử nói ta xem trong ba người, y thuật của ai cao minh nhất?”
Biển Thước đáp: “Anh cả của thần y thuật cao minh nhất, anh hai của thần thứ nhì, còn thần kém nhất trong ba anh em”.
Ngụy vương ngạc nhiên: “Vậy sao Thầy nổi tiếng trong thiên hạ còn hai anh Thầy không ai biết đến?”
Biển Thước đáp: “ Vì anh cả thần chữa bệnh cho người khi bệnh chưa xảy ra, người bệnh trông như không có bệnh gì cả cho nên người ta không ai biết anh thần đã phòng bệnh cho họ từ trước; còn anh hai của thần trị bệnh ngay khi người ta mới phát bệnh, nên người ta cho rằng anh hai thần chỉ chữa được bệnh vặt mà không biết rằng nếu để bệnh trầm trọng thì nguy hiểm tính mạng nên chỉ nổi tiếng ở vùng quê, còn thần thì chữa khi bệnh tình người ta đã nguy ngập, tính mạng bị đe dọa… Điều thần làm là phá huyết mủ, phẫu thuật, đắp thuốc, những việc dính đến máu me, nên thần mới vang danh thiên hạ, nhưng dù bệnh có cứu được cũng thường để lại di chứng… Thần thua xa hai anh thần nhưng thiên hạ ít người biết vậy! (Trang Tử tâm đắc, Nxb Trẻ 2011).
Có thể nói Y đức… cao nhất chính là phòng bệnh, giúp cho người ta khỏe mạnh, ít đau ốm hoặc nếu có bệnh thì được chữa sớm khi bệnh chưa nặng vậy. Dĩ nhiên thứ “y đức” này đừng mong người ta biết đến làm chi! Hải Thượng Lãn Ông cũng tự xưng mình là “ông già lười” vì ước mong không còn ai bệnh tật để mình được rảnh rang làm thơ uống rượu ngoạn cảnh đó thôi…
2. Có những nguyên tắc chung hay còn gọi là những giá trị cơ bản của Y đức (phổ quát trên toàn thế giới) được dạy ở các trường Y xuyên suốt quá trình nhiều năm học tập và khi ra trường được tiếp tục giám sát bởi Tổ chức nghề nghiệp (Ordre des médecins, Bác sĩ đoàn) với Nghĩa vụ luận y khoa (luật) một cách chặt chẽ.
Dĩ nhiên Y đức không thể dạy lý thuyết suông mà cần có những bài học thực tiễn từ cuộc sống (hành nghề), những trải nghiệm trong ứng xử, giao tiếp giữa thầy thuốc với bệnh nhân, với đồng nghiệp, với cộng đồng v.v… và nhất là những tấm gương để noi theo.
Thế hệ mình may mắn, ngoài Bắc có các thầy như Hồ Đắc Di, Tôn thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Trần Hữu Tước…, trong Nam có các thầy Phạm Biểu Tâm., Nguyễn Hữu, Trần Quang Đệ, Đặng Văn Chiếu… Thực ra thì thời nào, ở đâu cũng có những tấm gương y đức tốt đẹp, chẳng qua nó không “nổi bật” như một số trường hợp vi phạm y đức thôi! Và đúng như bạn nói, không chỉ y đức mà đạo đức nói chung trong xã hội ta ngày càng xuống cấp! Cốt lõi vẫn là nền giáo dục từ thuở còn thơ của gia đình và nhà trường.
3. Mình ghi lại đây các nguyên tắc chung hay còn gọi là giá trị cơ bản của Y đức để bạn tham khảo::
1) Làm điều có lợi nhất cho bệnh nhân (Beneficence)
2) Trước hết, không làm điều có hại ( Primum non nocere),“First, do no harm”.
3) Tôn trọng sự Tự chủ (Autonomy)
4) Bảo mật (Confidentiality)
5) Công minh (Justice). Không kỳ thị , phân biệt đối xử (Non- discrimination).
6) Tôn trọng nhân phẩm (Dignity)
7) Thỏa thuận với thông tin đầy đủ (Informed Consent)
8) Nói sự thật (Telling the truth)
Vẫn còn có rất nhiều những vấn nạn (dilemma) về y đức đang tiếp tục được tranh luận như vấn đề An tử (Euthanasia), Điều trị phù phiếm, Phá thai, Thụ tinh nhân tạo, Can thiệp di truyền, Cấy ghép tạng, Thử thuốc lâm sàng, Truyền thông sai lạc v.v…
4. Báo Doanh nhân Saigon Cuối tuần có bài viết nêu vấn đề có một số thầy thuốc “veston cà-vạt” lên TV quảng bá cho một thứ thuốc chưa “evidence-based” nào đó, gây bức xúc cho người dân… thì thật ra cũng đã có quy định trong Nghĩa vụ luận y khoa, thí dụ không được dùng bút danh khi viết báo về vấn đề y tế (phải để tên thật, cơ quan làm việc để chịu trách nhiệm) và luôn “thận trọng về những tác động có thể có của những tuyên bố đối với công chúng”….
Dưới đây là vài thí dụ:
Điều 13 Nghĩa vụ luận hành nghề y khoa, (Hội đồng quốc gia Y sĩ đoàn Pháp)
Khi bác sĩ tham gia hoạt động thông tin truyền thông mang tính chất giáo dục y tế, dù sử dụng bất kỳ phương tiện truyền thông nào, cũng chỉ được đề cập đến các dữ liệu đã được xác minh, phải thận trọng và lưu ý về những tác động có thể có của những tuyên bố đối với công chúng.
Điều 11 và 20 Nghĩa vụ luận nghề Y sĩ (Saigon, 1964)
Y khoa không được thực hành như một nghề thương mại. Đặc biệt cấm: trực tiếp hay gián tiếp mọi phương sách quảng cáo, những biểu thị liên hệ đến y khoa mà không có mục đích chuyên nhất về khoa học hay giáo huấn.
Cấm chỉ mọi hành vi có mục đích giúp đỡ bất cứ người nào hành nghề y khoa bất hợp pháp. Bác sĩ phải cẩn thận về việc sử dụng danh nghĩa, địa vị hay những tuyên bố của mình. Không chấp nhận cho sử dụng danh nghĩa hay việc hành nghề của mình với mục đích quảng cáo…
Bạn thấy đó, Y đức là chuyện… dài.
Thôi cho ngừng ở đây vậy nhé!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(10 – 2013).
November 10, 2013
“Y nghiệp”
Thư gởi bạn xa xôi,
Bạn ơi, câu hỏi của bạn đặt ra hơi khó đó, lại có chút gì như hằn học, mỉa mai, chua chát nữa, nên tôi đành phải viết mấy dòng này cho bạn. Bạn hỏi tôi nghĩ gì về Người thầy thuốc hôm nay? Tôi nghĩ đơn giản thôi bạn ạ: không có Người thầy thuốc hôm nay hay hôm qua, ngày mai gì cả. Người thầy thuốc là người thầy thuốc vậy thôi. Dù xã hội có nhiều biến động, y học tiến bộ không ngừng, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân có nhiều thay đổi nhưng Người thầy thuốc vẫn là người thầy thuốc. Anh ta được sinh ra, được làm nghề y vì cái nghiệp của mình, cái mà ngày nay gọi là “vocation”, thiên hướng, “Trời cho” đó! Cho nên Người thầy thuốc dù ngày xưa được coi là phù thủy, quan đốc, đại phu hay ngày nay được coi là người cung cấp “dịch vụ chăm sóc sức khỏe” (health care provider) gì đi nữa thì anh ta cũng phải luôn đứng trước lương tâm. Dân gian mình có câu hay bạn nhớ không? “Làm nghề thuốc mà ác đức thì đẻ con không có lỗ đít”!
Bạn thấy đó, trong tên gọi Người thầy thuốc gồm có cả ba: Người + Thầy + Thuốc. Người thì có Nhân đạo. Thầy thì có Nhân đức. Thuốc thì có Nhân thuật. Nhân đạo, nhân đức, nhân thuật hợp lại thành cái gọi là… “Y đức”. Không có nhân đạo, nhân đức thì còn lâu mới có y đức. Cho nên Y đức là chuyện không dễ. Không chỉ được đào tạo, dạy dỗ ở trường Y mà phải “gieo trồng” từ hồi niên thiếu, từ trong gia đình, từ môi trường xã hội. Đó là lý do tại sao bà mẹ thầy Mạnh Tử phải ba lần dời nhà! Dĩ nhiên trường Y có trách nhiệm lớn. Cho nên khi ra trường, hành nghề, người thầy thuốc bị ràng buộc bởi những luật lệ rất nghiêm gọi là Nghĩa vụ luận y khoa (déontologie médicale), có tổ chức để “quản lý” nghề nghiệp về mặt y đức cũng như bảo vệ uy tín cho ngành y. Nhưng nói cho cùng, kẻ “quản lý” chặt chẽ nhất vẫn là lương tâm nghề nghiệp. Bạn hẳn còn nhớ những bài học hồi nhỏ xíu của bọn mình: “Thấy người hoạn nạn thì thương / Thấy người tàn tật lại càng trông nom / Thấy người già yếu ốm mòn / Thuốc thang cứu giúp cháo cơm đỡ đần / Trời nào phụ kẻ có nhân / Người mà có đức muôn phần vinh hoa” (Quốc văn Giáo khoa Thư, lớp đồng ấu)…Thật ngạc nhiên ngày nay “lớp trẻ” không còn học những bài học thuộc lòng này nữa! Cũng vậy, những bài như “ Cha sinh, mẹ dưỡng / Đức cù lao lấy lượng nào đong / Thờ cha mẹ ở hết lòng…”; rồi Anh em nhà họ Điền; Lưu Bình Dương Lễ; Đừng phá tổ chim v.v… đều là những bài học thuộc lòng từ tấm bé.
Bây giờ khi mà y khoa hướng về đồng tiền (Money-Driven Medicine, một phim tài liệu gần đây của Mỹ) thì người ta đã đưa lại lời thề Hippocrates vào trường y, lập ra Hiến chương Y nghiệp (Professionalism) và đề ra những y luật chặt chẽ, chọn “đầu vào” rất kỹ – như có trường buộc sinh viên muốn học y phải qua một cuộc phỏng vấn bởi hội đồng gồm một giáo sư, một điều dưỡng và một đại diện… bệnh nhân!
Bởi, trong suốt “hành trình” của kiếp nhân sinh: Sinh lão bệnh tử, giai đoạn nào mà chẳng cần có mặt người thầy thuốc phải không?
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
November 9, 2013
Thăm GS Trần Văn Khê
Chiều 5.11.2013 GS Trần Văn Khê gởi tặng tôi 2 tập Hồi ký mới tái bản của ông, kèm 2 đĩa mp3 do chính giọng ông đọc cùng với cuốn sách mới: “Tính dân tộc trong âm nhạc Phạm Duy & Tình bạn Duy-Khê” vừa xuất bản. Tôi phone cảm ơn thì được ông cho hay sắp phải vào Viện Tim điều trị vì có dấu hiệu suy tim nặng, “hai chân sưng vù như chân voi”, ông nói. GS Thy Khuê người chăm sóc bệnh tiểu đường của ông bấy lâu quyết định gởi ông vào Viện Tim.
Sàng 9.11.2013 tôi ghé thăm thì tình trạng ông đã bớt nhiều, chân bớt sưng nhưng tim vẫn còn “loạn nhịp”. Ông vẫn vui vẻ trò chuyện và cho biết có nhà thơ Hỷ Khương, nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Bạch… cùng nhiều người quen biết ghé thăm. Sức khỏe ông đã tốt hơn nhiều.
Đỗ Hồng Ngọc.
Đinh Cường viết cho Trương Thìn
Đinh Cường
Một bông hồng cho Trương Thìn
Tranh DINH CUONG
Như vậy lần này về không còn gặp bạn rồi sao Thìn
không còn ghé qua đường Nguyễn Trọng Tuyển
sau bốn giờ bạn rảnh, lớp học châm cứu cũng vừa tan
nhớ buổi trưa bạn hẹn đi ăn ở quán Phương Nam
lần đó có Nguyễn Hòa vcv, Hồ Thanh và mấy
người bạn nữa vậy mà bây giờ Hòa đang bệnh lắm
như vậy là mới hai năm mà lần này về đã vắng
chỉ còn Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh, ba ông bác sĩ
tài hoa hết mực: viết vẽ làm thơ bạn còn thêm tạc tượng
bây giờ ai tạc tượng bạn đây với nụ cười đầy vị tha ấy
luôn nhớ vóc dáng khuôn mặt tiếng đàn guitare bạn gãy
say sưa say sưa làm sao Thìn ơi Kiều ca rồi Bùi Giáng ca
cả Dạ khúc trăng thơm từ thơ Bích Khê và Hàn Mặc Tử
bây giờ tôi dại tôi điên chắp tay tôi lạy cả miền không gian
miền không gian xa xưa Bao Vinh hay trong Thành Nội
những chiều trải chiếu ngồi bên nhau uống cùng nhau cốc rượu
thời còn Trịnh Công Sơn còn Tôn Thất Văn nay đều ra đi hết
bạn cũng ra đi gần tròn năm ôi tháng mười hai Trương Thìn ơi …
Virginia
, Nov. 9, 2013
Đinh Cường
November 2, 2013
TẬP THƠ NHỎ ĐẦU TAY…
BUỔI SÁNG CAFÉ Ở AQ &
T ẬP THƠ NHỎ ĐẦU TAY…
Tạp Bút
MANG VIÊN LONG
Buổi sáng anh em gặp nhau ở Café AQ đường Điện Biên Phủ theo lời đề nghị của anh Đỗ Hồng Ngọc và anh Lữ Kiều. Cũng là duyên tình cờ nhân chuyến vào Saigon tái khám tim của tôi, trước khi về lại quê – tôi rất mong được “sum họp” một buổi với vài bạn văn cũ hiện đang sống và làm việc tại Saigon, đề trò chuyện thoải mái, cho vui. Trước đây, thỉnh thoảng, chúng tôi có gặp nhau, nhưng thường là trong một cuộc họp mặt chung, hay trong một “khung cảnh” không mấy thích hợp để… cà kê dê ngỗng đủ chuyện cũ mới cho thỏa!
Chúng tôi đã gặp nhau, gồm 7 anh em “có máu văn nghệ” (hay nói theo nhà Phật là có “nghiệp”…) là: Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), bác sĩ Thân Trọng Minh (Lữ Kiều, Nàng Lai), Phạm Minh Tâm (Chu Trầm Nguyên Minh), Nguyên Minh, Sâm Thương, Kinh Dương Vương (họa sĩ Rừng vừa về nước, đang chuẩn bị triển lãm tranh) và tôi.
Trời Saigon mát dịu. Quán có nhiều bóng cây xanh. Yên tĩnh. Tôi đã có một buổi sáng sum họp rất hạnh phúc mà sau hơn 40 năm mới có được trong những lần có việc vội vã phải vào Saigon… Trên “Trang nhà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, anh đã ghi lại buổi gặp gỡ trong mục “Thư Gởi Bạn Xa Xôi”:
“Mang Viên Long, bạn nhớ không? Mới đây từ Bình Định phone vào hỏi anh mới bị xe tông, té xuống đất, may có nón bảo hiểm không hề hấn gì nhưng vẫn cứ lo, bây giờ phải làm sao, muốn nhân dịp vào Saigon tái khám tim ở bác sĩ Thân Trọng Minh (Lữ Kiều) sẽ khám thần kinh luôn. Mình hỏi thêm vài chi tiết, có… bất tỉnh không? có nhức đầu? nôn mửa… gì không, thì không. Lời khuyên là dù sao dịp này cũng nên làm cái MRI cho chắc ăn. Tái khám tim, hẹp van động mạch chủ nhưng chưa đến đỗi nào. Lữ Kiều bảo MVL: “Cứ tiếp tục yêu đi, không sao đâu!” Kết quả MRI cái đầu cũng không có vấn đề. Mừng rồi. MVL bèn… mời anh em một chấu café ”hậu tạ”. Hẹn nhau đến cái quán gần cổng Cư xá đô thành, nơi còn chút vòm lá xanh nhớ không?
Khi mình đến nơi đã thấy có Lữ Kiều, Chu Trầm Nguyên Minh, Rừng, Nguyên Minh, Mang Viên Long. Lát sau có thêm Sâm Thương… cà nhắc tới. Lữ Kiều bảo cả nhóm ngồi đây đa số là thân chủ của bạn. Dĩ nhiên rồi, già thì bệnh, mà bệnh thì không khỏi “ba cao một thấp” (tiểu đường, huyết áp, tim mạch, thấp khớp…). LK là bác sĩ chuyên khoa tim mạch mà! Bản thân Lữ Kiều cũng phải mỗi ngày tự “harakiri” mấy chục đơn vị Insuline vào bụng! Họa sĩ Rừng cho biết sắp mở triển lãm, hẹn anh em đến Du Miên ngày khai mạc, café miễn phí! Ai cũng khâm phục Rừng về nhiều mặt không thể kể… hết. Chu Trầm Nguyên Minh lúc này phụ giúp Nguyên Minh làm tờ Quán Văn, đang chuẩn bị ra mắt số chủ đề sông Mường Mán (Phan Thiết) sau khi đã làm số về Sông Dinh và sông Seine.
Quán Văn có vẻ mê sông nhỉ? Đến nỗi bìa và phụ bản cũng đều do… Sông Ba lo! Khi bảo Chu Trầm Nguyên Minh lúc này… “núp bóng” Nguyên Minh (trầm) thì anh cực lực phản đối. Anh nói anh cao hơn Nguyên Minh hẳn một cái đầu! Mà đúng vậy. Đứng lên đo thì sẽ biết!”
Dịp nầy anh Đỗ Hồng Ngọc có mang đến tặng cho tôi tập thơ nho nhỏ (khổ 12X17 cm) mà anh đã xuất bản năm 1967 – nghĩa là cách nay đã 46 năm. Đây cũng là tập thơ đầu tay anh dùng bút hiệu Đỗ Nghê, có tựa là “Tình Người”, do tác giả trình bày, bìa Lữ Kiều, tranh Cocteau, ấn hành giới hạn dành cho bạn bè anh em. Tính đến nay, Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bàn 35 đầu sách các loại, trong đó riêng về thơ là 7 tác phẩm. Tất cả đều được in ấn mỹ thuật, dày dặn. Tuy vậy, anh đã dành tập thơ nho nhỏ này để tặng tôi…
Tập thơ nho nhỏ ấy được in roneo trên giấy hẩm, bìa giấy croquis, nhưng với tôi là món quà rất quý! Trước năm 1975, tôi có nghe các bạn văn nói nhiều về tập thơ này – nhưng ít người có được. Hôm nay, sau 46 năm – tôi mới được cầm nó trên tay (dù là bản phô-tô từ “bản gốc”). Tập thơ chỉ vỏn vẹn 20 bài, trong 36 trang, được Đỗ Nghê sáng tác trong ba năm 64, 65, 67 – nghĩa là từ lúc anh 23 tuổi. 20 bài thơ xoay quanh một chủ đề chính là “tình người” trong một hoàn cảnh đất nước đang lún sâu vào cuộc chiến tương tàn bất an, khốc liệt! Đó là tiếng kêu tha thiết (và bi thương) của tuổi trẻ trí thức miền Nam, của con người bất hạnh trước vận mệnh chung của đất nước và tương lai của chính mình! Thơ dành tặng cho bạn bè anh em cùng chung số phận mà đại diện là những Xuân Hiến, Trang Vĩnh Thuận, Từ Dũ (bênh viên sản khoa nơi anh đang thực tập), Trần Xuân Dũng, Miên Đức Thắng, Nàng Lai (Thân Trọng Minh), Trương Thìn, Thái Kế An…
Bài thơ ở trang đầu tiên có tên là “Ước Mơ” - chỉ vừa bước vào tuổi ngoài hai mươi, là một sinh viên, anh đã có nhận thức có thể xem là đại diện cho mọi “ước mơ” của tuổi trẻ Miền Nam thời ấy:
“súng dò n
ánh sáng lóe lên
đ ạ n đan trên n ề n tr ờ i
thành hai ch ữ vi ệ t nam
nh ữ ng k ẻ t ử thù nhìn rõ m ặ t nhau
khóc vì m ừ ng
anh em”
“Ước Mơ” thật đơn giản: “những kẻ tử thù nhìn rõ mặt nhau/ khóc vì mừng/ anh em”, nhưng phải trải qua hơn 21 năm tương tàn, biết bao máu xương của bà con anh em đã đổ, mới có thể “… nhìn rõ mặt nhau”.
Trong cảnh cùng khổ, bất hạnh, máu đã không ngừng nhuộm đỏ quê hương trong hơn bảy ngàn ngày đêm – nhưng tất cả đã phải cam chịu, chỉ biết mở lòng cảm thông – nén lòng sẻ chia, và an ủi nhau:
“(…) em khóc đi, khóc đi rồi anh dỗ
Khóc nhiều hơn, khóc nhiều nữa đi nghen
này tủi nhục với niềm đau nỗi khổ
của quê mình không đáng khóc sao em?”
(Dỗ Em)
Và, trong nỗi bất lực chung của tuổi trẻ, con người đã phải “Cho Mượn” tất cả, từ “con đường quê, nhà hàng phố xá, cửa nhà vườn tược ruộng nương, cho đến tuổi trẻ, ông già bà lão con nít thiếu niên”… cho đến lần “cho mượn” cuối cùng:
“(…) tôi cho mấy người mượn
Khối óc linh hồn
để thử thuốc nhuộm đen nhuộm đỏ…
tôi cho mấy người mượn hết rồi đó
xin dành lại cho tôi
những nỗi căm hờn
và tấm lòng độ lượng rất Đông phương”
Khép lại tập thơ nhỏ là “Lời Nguyện Cầu” bi thiết:
“khi mùa xuân trở lại
trời xanh xao chợt buồn
những bàn tay rũ rượi
vẫy hoài cho quê hương
xin một loài chim lạ
chưa từng thấy bao giờ
hãy một lần xuất hiện
trên vầng trán em thơ
hãy một lần xuất hiện
trên tóc mẹ âu lo
mấy ngàn năm vật vả
mấy ngàn năm đợi chờ
khi mùa xuân trở lại
người chắp tay nguyện cầu
ơi loài chim biền biệt
bao giờ về quê hương”
Bên cạnh đó, còn có những bài thơ nổi tiếng khác của anh như “Thư Cho Bé Sơ Sinh”, “Tâm Sự Lạc Long Quân”, “Lời Ru”, “Cổ Tích Về Ngôn Ngữ” (…) đã một thời khiến tất cả bàng hoàng.
“TÌNH NGƯỜI” mở ra là “Ước Mơ” và khép lại là “Lời Nguyện Cầu” – nhưng “ước mơ/ nguyện cầu” vẫn mãi mãi là ước mơ và nguyện cầu cho đến hôm nay…
Tập thơ nhỏ – đã gần nửa thế kỷ qua, nhưng đã được anh trân trọng gìn giữ, đã cho tôi biết thêm, rằng một tác phẩm, dù hình thức thế nào đi nữa – giá trị nhân văn và nghệ thuật mới là điều quan trọng! Người cầm bút chân chính, luôn chịu trách nhiệm về những gì mình đã sáng tạo và gởi gắm qua tác phẩm, dù chỉ trong 36 trang sách qua bao nhiêu năm đi chăng nữa.
Cám ơn anh đã cho tôi hiểu thêm về anh, nhớ lại một thời điêu linh, bi thảm – và những gì cần phải làm trên con đường mình đã chọn!
Quê nhà,
Tháng 10 năm 2013
MANG VIÊN LONG
October 28, 2013
Thư gởi bạn xa xôi (10.2013)
Thư gởi bạn xa xôi,
Giờ này các bạn cùng khóa Y khoa Saigon 62-69 của mình ở khắp nơi – có đến gần 50 bạn – đang họp mặt ở Washington DC để lang thang ngắm lá vàng giữa mùa thu đông-bắc Mỹ, kỷ niệm hơn 50 năm bước vào Y khoa đại học đường Saigon. Bs Nguyễn Tấn Hiển và Bs Trịnh Trinh Ngân từ Việt Nam cũng bay sang nữa nhé! Mới đó mà đã hơn nửa thế kỷ rồi ư? Mới ngày nào…
Vũ Ngọc Tấn ở Úc viết cho mình cái “meo” rất cảm động, rủ qua họp mặt bạn bè một chuyến cho vui mà mình kẹt việc nhà đành không đi được. Tiếc quá! Rồi Văn Sơn Trường cũng gọi. Chẳng những gọi, còn hứa… sẽ lo mọi thứ cho mình trong hành trình chuyến tham quan thu vàng bắc Mỹ tuyệt vời này! Bác sĩ Văn Sơn Trường là một nhạc sĩ, đã có nhiều bài phổ biến rộng rãi hiện nay.
Mình nhớ Nguyễn Xuân Quang cùng ở LTC Dục Mỹ, nhớ Minh Nerhu, Cẩm Thu… ở Nhi Đồng, nhớ Nguyễn Dương, Nguyễn Kim Hưng cùng trình luận án một ngày, nhớ Hưng Rhadé (nhà văn Nguyên Thạnh) với Gió Mai, Ý Thức, và không quên Cẩm Hồng, Nguyệt Hồng, Tường Vân, Oanh, Thu Thủy, Nguyệt, Hoa…! Thời đó ít nữ sinh viên học Y khoa mà!
Dịp này Văn Sơn Trường dự định làm một DVD, kêu gọi bạn bè gởi cho những hình ảnh kỷ niệm cũ mới, những tư liệu “ngày xưa còn bé” ở Y khoa đại học đường Saigon… Mình gởi Văn Sơn Trường mấy tấm lúc trình luận án cùng với Nguyễn Dương, Nguyễn Kim Hưng… với Hội đồng có các thầy Phan Đình Tuân, Nguyễn Văn Út và Nguyễn Thế Minh.
Hôm qua mình vừa đến xem tranh ở nhà bác sĩ – họa sĩ Thân Trọng Minh, bạn cùng khóa bọn mình ngày xưa. Có họa sĩ Trịnh Thanh Tùng, Lê Ký Thương, nhà văn Sâm Thương, Châu Văn Thuận… TTMinh bày cho mọi người xem trước hằng trăm bức tranh rất đẹp đang tuyển chọn để triển lãm cùng Đinh Cường sắp tới ở Đà lạt và sau đó, sẽ có một cuộc Triển lãm nữa ở Saigon tháng 12 để tưởng nhớ Trương Thìn.
Tuần trước nữa, bọn lớp mình có các Bs Nguyễn Đình Mai, Nguyễn Hữu Cường, Đinh Văn Hòa, Thân Trọng Minh và Đỗ Hồng Ngọc cũng vừa thay mặt anh em YK Saigon 62-69 trao học bổng cho 2 sinh viên năm thứ nhất Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Học bổng này nay đã trở thành “truyền thống” sau 4 năm lần lượt trao cho 2 sinh viên năm thứ nhất, một nam một nữ, gia cảnh khó khăn, học giỏi. Nhà trường đánh giá đây là một học bổng rất có ý nghiã, của một khóa đàn anh trực tiếp trao tặng cho đàn em!
Chính Bs Trần Quốc Đông (Australia) là người có sáng kiến lập quỹ học bổng này và đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của anh em trong và ngoài nước!
PS: Nhớ mùa thu Boston, mình gởi bạn bài viết “Nghe tiếng thu giữa Boston” của 20 năm về trước đọc cho vui nhé!
Đỗ Hồng Ngọc.
Email của Vũ Ngọc Tấn (Úc)
Mon, Aug 5, 2013 at 4:43 AM
Dear Ngọc
Moa có vô website để đọc những bài cuả toa. Rất cảm kích và phải nói thật với lòng mình rằng: những bài của toa đã đem lại thanh bình cho những người .. mà lòng lúc nào cũng… phong ba bão táp .
Văn của toa, như tự bao giờ vẫn nhẹ nhàng , nhưng đi sâu vào lòng người , đưa người vào một vùng bình yên không thù hận. Moa rất thích nhửng giai thoại toa kể về ông cậu ( Nguiễn Ngu Í) , về Trần Văn Khê, Phạm Duy, Nguyễn Hiến Lê… Điều đặc biệt trong những bài cuả toa là… cái “tôi” cuả toa hầu như đã được đưa vào hậu trường- mà phần chính là nói về người mình viết. Nếu có nhắc tới cái “tôi” thì cũng chỉ là để đưa đẩy câu chuyện mà thôi.
Cũng với phong cách như vậy, toa đã không nói gì nhiều trong tiêu đề” Một chút tôi”. Thường thì những nhà văn cỡ toa- những người đươc người ta mến và đọc rất nhiều ở quốc nội hay hải ngọại – thì phải có một chút tiểu sử về mình. Moa coi đi coi lại dưới tiêu đề “Một chút tôi”- toa không hề nói gì thêm về tiểu sử của toa ? sao trên đời lại có con người quá khiêm tốn như vậy?
Rất mong được gặp Ngọc tại Washington DC trong kỳ họp mặt YK62-69 sắp tới. Nếu toa tính đi Mỹ- moa nghĩ là nên book vé máy bay ngay từ bây giờ- vì chỉ còn có 2 tháng nữa!
Tấn
Nhớ Tiếng Thu giữa Boston
Tôi đi giữa Boston. Cả một mùa thu. Trọn một mùa thu. Nhớ tới Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi.
Thu ở Boston hình như lạ hơn thu ở những nơi khác trên nước Mỹ, nên hàng năm cả nước Mỹ hành hương về Boston giữa mùa thu vàng. Họ không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, người ta dễ “fall in love” có phải, vì vậy mà người qua đường như cũng đẹp thêm ra, luộm thuộm thêm ra với lụa là gấm vóc, không còn nhếch nhác mùa hè mà cũng chưa cục mịch mùa đông. Tôi chưa có lần nào được sống thu như vậy, hoặc là chỉ sống với mùa thu sách vở, tưởng tượng ra cái mùa thu không có thật giữa miền Nam mưa nắng hai mùa nên tôi cứ lang thang, lang thang mà dòm cho hết cái thu của Boston. Và tôi bỗng nghe. Vâng, lúc đầu tôi chỉ định dòm thôi nhưng tôi bỗng nghe, không phải là tiếng quạ kêu quang quác thảng thốt, cũng không phải tiếng chim cu gù rúc rúc quyến rũ mà là một thứ tiếng lạ, tôi chưa từng nghe bao giờ, tiếng thu. Và tôi giật mình nhớ Lưu Trọng Lư. Chính Lưu Trọng Lư chứ không phải ai khác. Em không nghe mùa thu. Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ “tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi…” (TCS) đó chăng.
Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa. Hay mình là nai? Có thể chứ? Con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư? Và… Ơ hay… Có lẽ nào… Hay cũng chính là… Cũng có thể là… không hề có một con nai nào cả, mà nhà thơ, chính nhà thơ là nai! Thôi rồi, đừng có hòng mà giấu giếm gì nữa nhà thơ ơi! Chính nhà thơ là con nai vàng đang bước đi từng bước huyễn hoặc ngơ ngác đó thôi, sao lâu nay cứ làm cho người ta tưởng là có một con nai thiệt, đến nỗi trong một bài dịch thơ sang tiếng Mỹ, người ta cứ dịch con nai là con nai, có tội nghiệp không chứ! Phải rồi chính nhà thơ mới là con nai, một con nai ngơ ngác, nghe tiếng mùa yêu và fall in love. Với ai, vì sao nên nỗi? Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đã một hôm thu làm cho chàng thi sĩ trẻ tuổi trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết về đâu, vì sao…
Đỗ Hồng Ngọc
(Boston, 1993)
October 17, 2013
Thấp thoáng lời Kinh: “ĐÀLANI”
Thấp thoáng lời Kinh
“Đà-la-ni”
“Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn hay thọ trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép quyển kinh, đặng bao nhiêu phước đức?”.
Dược Vương từ chỗ ngồi đứng dậy lên tiếng thưa hỏi…
Phật trả lời: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở nơi kinh này có thể thọ trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụng giải nghĩa, đúng như lời mà tu hành thời công đức rất nhiều”.
Dược Vương hỏi phước đức, Phật trả lời công đức. Hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hỏi “thọ trì đọc tụng biên chép”, thì trả lời phải “ giải nghĩa, đúng như lời mà tu hành”. Nói khác đi, nếu chỉ đọc Pháp Hoa ro ro, tụng ro ro… thì không ích lợi bao nhiêu! Học là để hành. Và học Pháp Hoa là để hành, để đưa Pháp Hoa vào đời sống.
Pháp Đạt đến gặp Sư Huệ Năng tự hào đã tụng ba ngàn bộ Pháp Hoa, Sư nói: “nếu ngươi niệm đến một muôn bộ, hiểu đặng ý kinh mà chẳng lấy đó gọi là hơn người, thì mới cùng ta đi một con đường…”.
Pháp Đạt: “Nếu vậy, hiểu đặng nghĩa, thì chẳng cần tụng kinh?”
Sư nói: “Kinh có lỗi gì, há có ngăn trở sự tụng niệm của ngươi đâu! Miệng tụng mà tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh. Miệng tụng mà tâm chẳng làm theo nghĩa kinh, tức là mình bị kinh chuyển”. Bèn đọc kệ rằng:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
….
(Pháp bảo Đàn kinh, HT Minh Trực dịch, 1944)
Vị Pháp sư trong Pháp Hoa đến nay đã được “trang bị” khá đầy đủ những đức tánh cần thiết để có thể vào đời, đã học hạnh tôn trọng của Thường Bất Khinh Bồ-tát, học hạnh chân thành của Bồ-tát Dược Vương, học hạnh thấu cảm, từ bi của Diệu Âm, Quan Thế Âm Bồ-tát… có nghĩa là đã có thể “ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi toà Như lai” rồi đó, thế nhưng đi vào cõi Ta-bà thời mạt pháp để truyền bá Pháp Hoa – sau khi Phật diệt độ – cũng chẳng dễ chút nào! Bây giờ Phật còn đó, Phật thuyết giảng mà nhiều người còn ngờ vực, không tin, bỏ đi. Phật phải nhắc đi nhắc lại: Ta nói thật đó, không nói hai lời! Rồi một số không nhỏ các vị đại Bồ-tát tìm cách thoái thác, xin qua… xứ khác giảng kinh cho dễ, chẳng mấy ai chịu ở cõi Ta-bà đầy sóng gió này! Dù đã được khai, được thị, được ngộ rồi, nhưng nhập quả là không dễ. “Nhập” là xắn tay vào cuộc, là mang gươm xuống núi cứu khổn phò nguy, là “thõng tay vào chợ”… Cho nên Pháp sư chẳng những phải được trang bị tự bên trong mà còn cần có được sự hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài, tức cần một môi trường thuận lợi để “hành sự”. Cho nên Pháp Hoa có hẳn một phẩm gọi là “An lạc hạnh” và Đàlani sẽ là những “liều thuốc” quý, những “cẩm nang” để vào đời, để tùy cơ ứng biến! Vào đời, chẳng những cần trí huệ mà còn cần cả dũng lược nên ở phẩm Đàlani này, cạnh Bồ tát Dược vương ta thấy có Bồ-tát Dõng thí xuất hiện.
Phật ân cần dặn Tú Vương Hoa: “ Dược Vương… là món lương dược của người bệnh trong cõi Diêm Phù Đề; nếu người có bệnh đặng nghe kinh này bệnh liền tiêu diệt, chẳng già chẳng chết!”. Và ngay đó thì đã có tám muôn bốn nghìn Bồ-tát đặng pháp “Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Đàlani”…
Cho nên có thể coi đàlani là một thứ thuốc, thứ thuốc thần của Dược Vương, thứ thuốc của lòng kiên định, nhẫn nại, tinh cần, bố thí thân mạng, tự “đốt” thân mình suốt một ngàn hai trăm năm, rồi tự đốt cả hai cánh tay mình, đã thực sự “hành thâm Bát Nhã”, đã chiếu kiến ngũ uẩn giai không, đã đạt tới cõi “Bất nhị”, vô phân biệt mới đủ sức đi vào chốn gian nan mà không sợ lay chuyển. Dược Vương đã là một tấm gương kiên nhẫn, hùng tâm suốt chặng đường dài tu tập có lẽ một phần lớn đã nhờ đàlani, những thần chú, linh chú nhắc nhở, hướng dẫn, điều chỉnh cho từng phút từng giây.
Đàlani, tổng trì, thần chú, linh chú, chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay (mật) có vai trò như một công thức, nhắc nhở để người ta “nhập” vào Như Lai, nhập vào Tri kiến Phật một cách an toàn và thường trực. “Tổng”, vì nó “gom” hết tất cả lại, “trì” vì nó luôn gìn giữ, luôn gợi nhớ. Khi cần, đọc lên, lập tức Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm, Thường Bất Khinh… hiện ra ngay trước mắt, mỉm cười với ta, hoặc nghiêm khắc với ta, nhưng luôn luôn sẵn sàng giúp ta với nghìn tay nghìn mắt, với cam lồ rưới mát dập tắt mọi thứ tham sân si… Nghĩa của đàlani, hiểu càng tốt nhưng chẳng hiểu còn tốt hơn! Có những âm thanh, những ú ớ đủ để truyền thông như khi bà mẹ trẻ nghe tiếng con rên rỉ, con ư ử, con khóc thét thì dù đang ngủ say cũng giật mình thức giấc…
Ú ú ớ ớ là đủ rồi cho chính mình và cho những người cùng rung động sáu cách với mình. Nghĩa đen của Đàlani nhiều khi nghe có vẻ như tầm thường, giản đơn… nhưng “thần lực” của nó thì không thể nghĩ bàn trong một bối cảnh, một không khí nào đó. Anan là một tỳ kheo đẹp trai, suýt rơi vào tay một kỹ nữ xinh đẹp, Phật vội vàng kêu Văn Thù mang đến… một “đàlani”. Thế là sực tỉnh.
Một chữ AUM có khi là đủ cho tất cả. Một câu Om Mani Padme Hum là đủ cho tất cả. Một câu Gate gate paragate parasamgate… là đủ cho tất cả. Nó vang lên đúng lúc ở trong tâm trí để trở thành một thứ “lương dược” giúp vượt qua, vượt lên, vượt ra (Gate, Gate, Paragate…).
Vào đời (Nhập) không đơn giản chút nào. Không phải như lúc ở núi cao, vực thẳm, xả ly, bịt mắt che tai. Giữa chốn chợ đời đông đúc, độc cư không dễ; giữa chốn âm thanh náo nhiệt “phản văn văn tự tánh” sao đây? Nói năng, đi đứng nằm ngồi, cái ăn cái mặc… đều từ một chọn lựa, từ một trách nhiệm, nói khác đi, từ nghiệp, tạo tác qua thân khẩu ý.
Nếu có một cái gì đó nhắc ta, làm cho ta giật mình, véo cho ta một phát đau điếng hẳn là rất tốt, rất cần thiết. Cái gì đó có khi là một âm, một tiếng, một chữ, một câu là đã đủ. Một tiếng OM đúng lúc kia đã kịp cứu người sa-môn sắp dìm mình xuống dòng sông, để rồi trở thành người chèo đò mãi miết đưa khách sang “bờ bên kia” (Câu chuyện của dòng sông, Hermann Hesse).
Sắc thọ tưởng hành thức thì “hành” là một phản ứng của tâm, một tiến trình tâm, xuất phát từ cả một kho chứa của thói quen, của phong tục, tập quán, của những nghĩ tưởng, những thành kiến… dồn dập xua tới, nhiều khi từ vô thức, khiến ta xử sự… không kịp kiểm soát. Dalani sẽ nhắc nhở, sẽ soi sáng, gọi về.
Dược Vương bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú dalani này để giữ gìn…”. Giữ gìn là để không bị sa ngã. Rồi Dược Vương đọc : anye manye mane mamane citte carite same samitā…
Dược Vương chưa đủ. Bi và Trí chưa đủ, còn cần phải có Dũng. Cho nên ở đây Bồ-tát Dõng thí xuất hiện. Ngài cũng cho một đàlani nữa, để giúp vị Pháp sư và cả những “người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa”, khỏi bị Dạ xoa, La sát, Ngạ quỷ ám hại…
Bấy giờ các vị Thiên vương có mặt cũng lần lượt xuất hiện để giúp Pháp sư. Tỳ sa môn Thiên vương vốn là vị “hộ thế”, trấn giữ phương Bắc, chế phục chúng ma, tay cầm lọng báu che chở thế gian cũng cho một đàlani để người thọ trì Pháp Hoa tránh tai hoạn. Rồi Trì quốc Thiên vương tay ôm đàn tỳ bà, cùng với nghìn muôn ức na-do-tha chúng Càn-thác-bà cũng xin góp một đàlani!
Pháp Hoa là “vua” của các kinh nên ở đây ta thấy xuất hiện các vị Thiên vương hộ pháp, kẻ thì làm cho thế giới hòa bình, kẻ thì làm cho đất nước thịnh vượng, an vui, chúng dân hạnh phúc. Có thể nói Pháp Hoa không dừng lại ở sự tu tập cá nhân để trở thành một Alahan hay Bồ-tát mà đã mở rộng ra chuyện “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” sau khi đã qua bước “tu thân”.
Điều kỳ diệu và bất ngờ nhất ở đây là sự xuất hiện của các bà La-sát! Nào Lam bà, Tỳ lam bà, Đa pháp, Vô yểm túc, Trì anh lạc, Cao đế, Đoạt tinh chất… cũng sẵn sàng ra tay giúp một câu thần chú để ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa luôn “được an ổn, trừ khổ hoạn, tiêu các thuốc độc”…. “Thà trèo lên đầu chúng con chớ đừng não hại Pháp sư… nhẫn đến trong chiêm bao cũng chớ não hại!”. Các Bà La-sát nói như vậy. Bởi các bà thừa biết nhiều khi chính trong chiêm bao “kẻ ác” mới hay gây não hại người!
“Nếu cố tình gây não hại, nhất quyết không tha!” Các bà lên giọng đe dọa.
Phật khen: Hay thay! Hay thay! Các người có thể chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa là phước chẳng thể lường được rồi, huống là ủng hộ người thọ trì toàn bộ cúng dường từ quyển kinh, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa… rồi phan, lọng, kỹ, nhạc, đèn nến đèn dầu… nghìn trăm thứ như thế…
Rõ ràng các Bà La-sát hung dữ ở đâu không biết chớ ở đây thì… dễ thương hết sức, sẵn sàng cúng dường trăm nghìn thứ góp phần tạo nên một đạo tràng trang nghiêm cho Pháp sư. Ánh sáng lung linh của ngọn nến, mùi hương, sắc hoa, tiếng nhạc… không nói lên điều gì sao? Nhiều lắm chứ. Nó nói tiếng nói Như Lai, duyên sinh, vô ngã, vô tướng thật tướng… Các Bà La- sát mà đã chịu giúp cho thì hẳn có thể tu mau thành chánh quả!
Có vô số pháp môn, tùy căn cơ mà chọn lựa. Nhưng với kinh Pháp Hoa tổng hòa này thì Bồ tát, Thiên vương, Quỷ thần đều hết lòng ủng hộ.
Tu thân thì đã có dalani của Dược Vương, Dõng thí; giúp nước giúp đời thì đã có dalani của Tỳ sa môn Thiên vương và Trì quốc thiên vương; bên cạnh nếu còn luôn có sự bảo hộ giúp đỡ không ngừng của các… bà La-sát dễ thương này nữa thì quá tốt!
Đỗ Hồng Ngọc
(10.2013)
October 16, 2013
Thư gởi bạn xa xôi (10.2013)
Thư gởi bạn xa xôi (10.13)
* Mang Viên Long, bạn nhớ không? Mới đây từ Bình Định phone vào hỏi anh mới bị xe tông, té xuống đất, may có nón bảo hiểm không hề hấn gì nhưng vẫn cứ lo, bây giờ phải làm sao, muốn nhân dịp vào Saigon tái khám tim ở bác sĩ Thân Trọng Minh (Lữ Kiều) sẽ khám thần kinh luôn. Mình hỏi thêm vài chi tiết có … bất tỉnh không? có nhức đầu? nôn mửa… gì không thì không. Lời khuyên dù sao dịp này cũng nên làm cái MRI cho chắc ăn. Tái khám tim, hẹp van động mạch chủ nhưng chưa đến đỗi nào. Lữ Kiều bảo MVL : “Cứ tiếp tục yêu đi, không sao đâu!”. Kết quả MRI cái đầu cũng không có vấn đề. Mừng rồi. MVL bèn… mời anh em một chấu café ”hậu tạ”. Hẹn nhau đến cái quán gần cổng Cư xá đô thành, nơi còn chút vòm lá xanh nhớ không?
Từ trái: Sâm Thương (thấy lưng) Chu Trầm Nguyên Minh, Rừng, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Đỗ Nghê, Mang Viên Long) Ngày 10.10.13
Khi mình đến nơi đã thấy có Lữ Kiều, Chu Trầm Nguyên Minh, Rừng, Nguyên Minh, Mang Viên Long. Lát sau có thêm Sâm Thương… cà nhắc tới. Lữ Kiều bảo cả nhóm ngồi đây đa số là thân chủ của bạn. Dĩ nhiên rồi, già thì bệnh, mà bệnh thì không khỏi “ba cao một thấp” (tiểu đường, huyết áp, tim mạch, thấp khớp…). LK là bác sĩ chuyên khoa tim mạch mà! Bản thân Lữ Kiều cũng phải mỗi ngày tự “harakiri” mấy chục đơn vị Insuline vào bụng! Họa sĩ Rừng cho biết sắp mở triển lãm, hẹn anh em đến Du Miên ngày khai mạc, café miễn phí! Ai cũng khâm phục Rừng về nhiều mặt không thể kể… hết. Chu Trầm Nguyên Minh lúc này phụ giúp Nguyên Minh làm tờ Quán Văn, đang chuẩn bị ra mắt số chủ đề sông Mường Mán (Phan Thiết) sau khi đã làm số về Sông Dinh và sông Seine. Quán Văn có vẻ mê sông nhỉ? Đến nỗi bìa và phụ bản cũng đều do… Sông Ba lo! Khi bảo Chu Trầm Nguyên Minh lúc này… “núp bóng” Nguyên Minh (trầm) thì anh cực lực phản đối. Anh nói anh cao hơn Nguyên Minh hẳn một cái đầu! Mà đúng vậy. Đứng lên đo thì sẽ biết!
* Hôm qua đi dạy về thấy có tin nhắn của nhà thơ Phan Như, từ Huế, bảo có bài viết trên Tuổi Trẻ nhắc mình, sau đó Huỳnh Như Phương lại nhắn, bảo bài viết rất dễ thương, rồi một sinh viên Y5, bé Hương cũng nhắn hỏi thầy đọc chưa? Thì ra có một bài viết ngắn có tựa là “Gửi Dế Mèn của mẹ” của tác giả Nguyễn Thị Huệ kể chuyên đứa con ngày xưa đến mình khám bệnh, nay là sinh viên y năm thứ nhất đang học với mình. Hèn chi mà hôm mình vừa dạy xong, có một em sinh viên chạy lên xin chụp với thầy cái hình kỷ niệm! Làm cái nghề y cũng ngộ. Thỉnh thoảng có một bà mẹ từ phương xa về, ghé thăm, cho hộp chocolat, hộp bánh, nói hồi xưa, con bà bệnh nặng vào cấp cứu ở bệnh viện Nhi Đồng Saigon nhờ mình chữa khỏi, nay đã là một tiến sĩ gíao sư gì đó ở Mỹ, ở Pháp… Cảm động chớ phải không dù chẳng nhớ chút gì cả!
Tuổi Trẻ, thứ Tư 16.10.2013
Gửi Dế Mèn của mẹ
TT – Ba mẹ thường gọi con là Dế Mèn vì con thích tự lập từ nhỏ. Hôm nay, con đi học những buổi đầu tiên ở Trường đại học y Phạm Ngọc Thạch, về nhà líu lo kể chuyện con được học bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dạy bộ môn sức khỏe cộng đồng hay ơi là hay, rồi còn xin được chụp hình chung.
Mẹ nghe mà rộn vui trong lòng, một niềm vui lâng lâng…
Hồi đó, nhà mình ở một huyện trung du nghèo của miền Trung. Hai tuổi, con bụ bẫm, đôi mắt đen tròn xoe, ai nhìn thấy cũng muốn bồng. Nhưng một hôm, khi đang giành đồ chơi với đứa trẻ hàng xóm mà không được, đột nhiên mặt con bỗng đỏ rựng rồi chuyển sang tím bầm, tức thở ngã ra chết ngất. Mẹ vội bế con chạy đến bệnh viện gần đó mà cứ ngỡ con đã rời xa mẹ. Được các cô chú bác sĩ cấp cứu, con dần hồi tỉnh. Song cảm giác đau đớn đó không bao giờ mẹ quên…
Bệnh con cứ tái phát nhiều lần như thế. Nhà mình ở vùng quê, bệnh viện thiếu thiết bị, chẩn đoán nhiều lần vẫn không rõ nguyên nhân. Xót con, ba mẹ bỏ công ăn việc làm đang hồi khấm khá chuyển hẳn vào Sài Gòn. Nào ở trọ, nào vay mượn, tất cả chỉ để chữa bệnh cho con.
Mẹ đưa con đến những bệnh viện hiện đại của Sài Gòn khám tổng quát, chụp hình CT não. Mọi thứ đều bình thường, các chuyên gia hội chẩn nhưng không rõ nguyên nhân bệnh. Một người quen biết khuyên mẹ đưa con đến gặp bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Sau khi khám rất kỹ, ông cho biết có thể con bị một loại bệnh hiếm là hệ thần kinh phát triển nhanh, nhạy cảm, không tương thích với hệ hô hấp còn non nên bị như thế. Cha mẹ cần gần gũi con, đừng để con gặp trường hợp cảm xúc mạnh mà không nói được; đến khi cơ thể phát triển dần theo tuổi hi vọng khỏi bệnh.
Từ đó, những ngày con đi nhà trẻ, ba mẹ thay phiên nhau đứng ngoài cửa canh con dù đã dặn dò cô giáo thật kỹ. Mỗi khi con khóc, con giành đồ chơi, con có biết mẹ đang khóc thầm bên cửa. May chỉ một hai lần con bị ngất nhẹ rồi tỉnh lại, ba mẹ dần hi vọng. Ơn trời khi con lên 5 tuổi, những lần tái phát của con thưa dần rồi dứt hẳn.
Bây giờ con đã là sinh viên năm đầu của ngành y, bước đầu học những kiến thức chữa bệnh cho người. Và duyên may con được gặp, lại được học chính ân nhân của con, của cha mẹ năm xưa.
NGUYỄN THỊ HUỆ
(http://tuoitre.vn/nhat-ky-nguoi-me/57...)
* À, lại có một chuyện khác. Cô Bội Hoàng gởi về cho đặc san “Gia đình Nữ Hộ sinh Saigon” một bài thơ, từ cảm xúc khi đọc mấy câu của mình viết cho mẹ nhân ngày Vu lan năm ngoái. Hỏi thăm mới biết cô là Nữ hộ sinh khóa 19 (1964-1967), hiện ở Sa Đéc. Mình có dạy môn Nhi khoa cho các lớp Nữ hộ sinh từ 1972 đến 1982, cô Bội Hoàng là lớp lớn, học trước đó nên không quen biết cô.
Bài thơ chân thành và rất cảm động. Gởi bạn đọc nhé.
Tình yêu còn mãi
“Con cài bông hoa trắng
Dành cho Mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài bên ngực
Ngoại chờ bên kia sông”
(Bông Hồng Cho Mẹ)
Đỗ Hồng Ngọc
Đọc bài thơ mà mắt lệ đoanh tròng
Ai thấu hiểu một tình yêu đã mất
Ai tự hào cài hoa hồng lên ngực
Dù đã qua cái tuổi cổ lai hi!
Con chỉ muốn luôn được cài hoa đỏ
Dù tuổi đời Má đã rất mong manh,
Dù con Má đã con cháu vây quanh,
Vẫn muốn được mỗi ngày chăm sóc Má.
Được bón cơm, được đút cháo, châm trà
Được tắm rửa, được thay quần áo mới
Được ngồi bên nghe những lời Má nói
Mà dậy lên niềm thương cảm riêng tư
Má bỏ con năm Má chín mươi tư
Rời cõi tạm, Má lên đường thanh thản
Con cài hoa cho màu áo Má đỏ
Để Má về gặp Ngoại vui đoàn viên
Bội Hoàng
Hẹn thư sau,
Đỗ Hồng Ngọc.
October 11, 2013
Trò chuyện trên dutule.com (kỳ cuối)
Đỗ Hồng Ngọc gởi Dutule:
Thu, Oct 10, 2013 at 8:57 PM
Dutule ơi,
Mình nghĩ đến nay, “Trò chuyện trên dutule.com” của mình đã qua 24 kỳ, như vậy đã là quá “date”, không nên kéo dài thêm.
Vậy, cho mình chấm dứt nhé.
Và, bạn ơi, làm sao cho mình gởi lời cảm tạ đến tất cả, anh Hai Trầu, cô Nguyệt Mai, Lê Uyển Văn…và các anh chị, các bạn, đã đặt những câu hỏi rất… tuyệt vời;
Và, đặc biệt, cho mình đa tạ những bạn bè thân thiết gần xa đã chịu khó đọc những câu trả lời của mình suốt thời gian qua…
Riêng dutule, bạn thấy đó, mình cứ “Và,” kiểu này là vì “thư bất tận ngôn”, vả, chắc cũng đã ít nhiều chịu ảnh hưởng thơ dutule rồi đó vậy!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
Dutule trả lời:
Fri, Oct 11, 2013 at 6:51 AM
Đỗ Nghê của tôi,
Cảm ơn thi sĩ đã chịu khó “trò chuyện” với độc giả trang nhà, một thời gian dài….kỷ lục.
(…..)
Cám ơn bạn-tôi, thi sĩ.
October 8, 2013
Trò chuyện trên dutule.com (kỳ 24)
Câu hỏi của Nguyệt Mai:
Kính thưa anh Đỗ Hồng Ngọc,
Hôm nay em lại có thêm những “thắc mắc” này. Mong anh, nếu được, chia sẻ với độc giả về một ngày của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Ở lứa tuổi “xưa nay hiếm” người ta thường hay nhắc đến “quỹ thời gian”, ráng thu xếp và làm những việc gì mình thích hoặc muốn thực hiện cho xong. Anh có như vậy không?
Những công việc liên quan đến “nghề” và “nghiệp” mà anh đã làm / thực hiện khiến anh cảm thấy hài lòng, vinh dự.
Và những sáng tác văn chương, nghệ thuật ưng ý nhất của anh.
Cám ơn anh.
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
Cảm ơn Nguyệt Mai đã khéo nhắc. Nhưng, câu trả lời là không. Hình như tôi không có ý niệm có một “quỹ thời gian” nào đó, bởi tôi không thể biết trước tôi có bao nhiêu, đã xài hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu để… lên kế hoạch. Bùi Giáng có câu “Một đời lận đận đo rồi đếm / Mỏi gối người đi đứng lại ngồi” nhớ không?
Tôi sống có vẻ hồn nhiên quá chăng? Lúc Mẹ tôi còn sống bà hay bảo tôi ngu hạng nhất, nhưng tôi cãi, chỉ dám ngu hạng nhì hay hạng ba thôi! Bà đành cười trừ!
“Xưa nay hiếm” là cái thời của Khổng Tử. Mới mấy hôm trước đây, tôi làm “em xi” (MC) cho một buổi “giao lưu” của những người cao tuổi, có bác sĩ-họa sĩ Dương Cẩm Chương, 103 tuổi, giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê, 93 tuổi; nhà giáo Đàm Lê Đức, 83 tuổi, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, 76 tuổi. Với họ, tôi hãy còn quá trẻ! Kinh nghiệm là khi mình có tuổi, nên thường xuyên gặp gỡ những người cao tuổi hơn để lúc nào mình cũng “quá trẻ” như vậy! Nhớ nhà văn Võ Hồng ở Nha Trang năm xưa kể vào năm tuổi 70 của ông, người ta làm một buổi họp mặt long trọng mừng thầy Võ Hồng, ai cũng phát biểu chúc mừng thầy “cổ lai hy”. Khi đứng lên đáp từ, ông trịnh trọng đưa tay sờ vào cổ mình và nói thất thập cổ lai hy, rồi lần tay xuống ngực lục thập ngực lai hy, ngũ thập bụng lai hy… và tứ thập… làm mọi người la hoảng và cười vỡ một trận!
Lâu lâu gặp bạn cũ tôi giật mình thấy bạn già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi tôi… vẫn như xưa! Dĩ nhiên, lúc đó bạn cũng thấy tôi già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi bạn vẫn như xưa. Thì ra, đó là một diễm phúc của cuộc sống! Không ai ngờ mình già cả. Nguyên Sa bảo “người ta chỉ có thể đo đếm được tuổi mình qua ánh mắt cố nhân”. Mà lạ, khi gặp lại “cố nhân”, bạn bè hồi niên thiếu, ôn lại chuyện xưa một lát, bỗng thấy mình nhỏ xíu lại, như không hề có thời gian. Mà thật, không hề có thời gian. Cái đồng hồ, cái ngày tháng nọ kia, chẳng qua là những giả định, vui thôi! Khi tôi viết những dòng này, thì tôi đang ở giữa trưa ngày thứ bảy trong khi bạn đang ở nửa khuya ngày thứ sáu! Cho nên Phật dạy: đừng bám vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì mới “thoát” được. Thế nhưng, tuổi già sinh học thì có. Một lần nọ, một chị còn khá trẻ bồng đứa bé đến tôi khám bệnh. Đứa bé la khóc om sòm, chị dỗ: “Nín đi, nín cho ông ngoại khám con!”. Thì ra tôi đã đến ông ngoại rồi mà không hay. Tôi hỏi theo thói quen: Chị là gì của cháu? “Dạ, bà ngoại”. Chị trả lời ngon ơ. Rồi bỗng đâm ra bẽn lẽn. Tôi vội đánh trống lãng! Nhưng chuyện đó xưa rồi, hai mươi năm trước rồi. Mới đây, tôi gặp lại một người quen cũ quê nhà, hơn nửa thế kỷ chưa gặp. Nàng nhắc từ chuyện đi câu cá, hái chùm ruột đến trèo động cát như mới ngày nào. Đột nhiên nàng nói bây giờ em đã có cháu gọi bằng bà Cố!
Tôi nhớ Trịnh Công Sơn viết: “Về thu xếp lại/ Ngày trong nếp ngày/ Vội vàng thêm những lúc yêu người…Cuồng phong cánh mỏi/…” mà tôi đã trích dẫn trong cuốn Gió heo may đã về (1997), nhưng khi gởi tặng cho anh bạn nhạc sĩ Miên Đức Thắng lúc đó đang ở Đức, anh phone phản đối: làm gì có chuyện vội vàng thêm những lúc yêu người! Tôi hiểu, anh vẫn đang còn rất… ung dung, từ tốn kia mà!
Phần tôi, đôi khi cũng thấy mình cần về thu xếp lại/ ngày trong nếp ngày mà… không dễ. Bừa bãi quen rồi. Lười biếng quen rồi. Xung quanh chỗ ngồi là một chồng sách ngổn ngang, cao nghệu, rất mất trật tự, nhưng có ai lỡ tử tế sắp xếp lại thế nào tôi cũng la toáng lên! Mất trật tự mà tôi biết cái nào nằm ở đâu!
Còn “làm những việc mình thích” ư? Đương nhiên rồi. Nhân sinh quý thích chí. Không cần phải đợi “cổ lai hy” mới vậy. Phải làm những việc mình thích ngay bây giờ đi! Bởi già dẫn tới già cả, già khú đế mau lắm đó!
Dịp này xin gởi các bạn bài “Già sao cho sướng” đọc vui nhé.
Thân mến,
Già sao cho sướng
Già thì khổ, ai cũng biết. Sanh bệnh lão tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép.
Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây. Nhiều người chối từ già, chối từ cái sự thật đó và tìm cách giấu cái già đi, như trái chín cây ửng đỏ, mềm mại, thơm tho mà ráng căng cứng, xanh lè thì coi hổng được.
Mỗi ngày nhìn vào gương, người già có thể phát hiện những vẻ đẹp bất ngờ như những nếp nhăn mới xòe trên khóe mắt, bên vành môi, những món tóc lén lút bạc chỗ này chỗ nọ, cứng đơ, xơ xác… mà không khỏi tức cười! Quan sát nhìn ngắm mình như vậy, ta mới hiểu hai chữ “xồng xộc” của Hồ Xuân Hương:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi.
Cái già xồng xộc nó thì theo sau!” .
Có lẽ nữ sĩ lúc đó mới vào lứa tuổi 40! Thời ta bây giờ, 40 tuổi lại là tuổi đẹp nhất. Phải đợi đến 80 mới gọi là hơi già. Trong tương lai, khi người ta sống đến 160 tuổi thì 80 lại là tuổi đẹp nhất!
Tuy vậy, thực tế, già thì khó mà sướng. Con người ta có cái khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Khổ dễ nhận ra còn sướng thì khó biết! Một người luôn thấy mình… sướng thì không khéo người ta nghi ngờ hắn có vấn đề… tâm thần! Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp nhất, nếu giải quyết được sẽ giúp họ sống “trăm năm hạnh phúc”:
* Một là thiếu bạn!
Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình! Quay quắt, căng thẳng, tủi thân. Lúc nào cũng đang như
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài nghe ngày tháng dần qua…!” (Thế Lữ).
Người già chỉ sảng khoái khi được rôm rả với ai đó, nhất là những ai “cùng một lứa bên trời lận đận”… Gặp đựơc bạn tâm giao thì quả là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho họ mua được!
Để giải quyết chuyện này, ở một số nước tiên tiến, người ta mở các phòng tư vấn, giới thiệu cho những người già cùng sở thích, cùng tánh khí, có dịp làm quen với nhau. Người già tự giới thiệu mình và nêu “tiêu chuẩn” người bạn mình muốn làm quen. Nhà tư vấn sẽ “matching” để tìm ra kết quả và làm… môi giới…Dĩ nhiên môi giới cho họ kết bạn. Còn sau này họ thấy tâm đầu ý hợp tiến tới hôn nhân (nếu còn độc thân) thì họ ráng chịu! Đó là chuyện riêng của họ. Ngày trước, Uy Viễn tướng công mà còn phải than:
Tao ở nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi bảo rằng không đến
Đến thì mi hỏi đến làm chi
Làm chi tao có làm chi đựơc
Làm được tao làm đã lắm khi…
Nguyễn Công Trứ
Rồi họ dạy người già học vi tính để có thể “chat”, “meo” với nhau chia sẻ tâm tình, giải tỏa stress… Thỉnh thoảng tổ chức cho các cụ họp mặt đâu đó để được trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, dòm ngó, khen ngợi hoặc… chê bai lẫn nhau. Khen ngợi chê bai gì đều có lợi cho sức khỏe! Có dịp tương tác, có dịp cãi nhau là sướng rồi. Các tế bào não sẽ đựơc kích thích, được hoạt hóa, sẽ tiết ra nhiều kích thích tố. Tuyến thượng thận sẽ hăng lên, làm việc năng nổ, tạo ra cortisol và epinephrine làm cho máu huyết lưu thông, hơi thở trở nên sảng khoái, rồi tuyến sinh dục tạo ra DHEA (dehydroepiandosterone), một kích thích tố làm cho người ta trẻ lại, trẻ không ngờ!…Dĩ nhiên phải chọn một nơi có không khí trong lành. Hoa cỏ thiên nhiên. Thức ăn theo yêu cầu. Gợi nhớ những kỷ niệm xưa… Rồi dạy các cụ vẽ tranh, làm thơ, nắn tượng… Tổ chức triển lãm cho các cụ. Rồi trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn. Các cụ dư sức viết kịch bản và đạo diễn. Coi văn nghệ không sướng bằng làm … văn nghệ!
* Cái thiếu thứ hai là thiếu… ăn !
Thực vậy. Ăn không phải là tọng là nuốt là xực là ngấu nghiến …cho nhiều thức ăn! Ăn không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thứ nuốt không trôi lắm! Chẳng hạn ăn trong nỗi sợ hãi, lo âu, bực tức; ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn thì nuốt sao trôi? Nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được dễ dàng! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ nuốt bị cắt đứt!
Nhưng các cụ thiếu ăn, thiếu năng lựơng phần lớn là do sợ bệnh, kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù, làm cho họ sợ thêm! Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên…”
(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền…)
Trần Nhân Tông
“Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ ăn là chuyện của văn hóa ! Chuyện của ngàn năm, đâu phải một ngày một buổi. Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Đừng ép! Miễn đủ bốn nhóm: bột, đạm, dầu, rau…Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt…là được. Cách ăn cũng vậy. Hãy để các cụ tự do tự tại đến mức có thể đựơc. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ!
Cũng cần có sự hào hứng, sảng khoái, vui vẻ trong bữa ăn. Con cháu hiếu thảo phải biết … giành ăn với các cụ. Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử.
* Cái thiếu thứ ba là thiếu vận động !
Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng, giòn, dễ vỡ, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời trai trẻ đã “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…” (TCS)!
Bác sĩ thường khuyên vận động mà không hướng dẫn kỹ dễ làm các cụ ráng quá sức chịu đựng, lâm bệnh thêm. Phải làm sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả, phù hợp với tuổi tác, với sức khỏe. Phải từ từ và đều đều. Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày. Bây giờ chỉ ngồi quanh quẩn trước TV!. Có một nguyên tắc “Use it or lose it!” . Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên “đầu thì to mà đít thì teo”. Thật đáng tiếc!
Không cần đi đâu xa. Có thể tập trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì đi cầu thang ngày mươi bận rất tốt. Đi vòng vòng trong phòng cũng được. Đừng có ráng lập “thành tích” làm gì! Tập cho mình thôi.. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ghiền, bỏ tập một buổi … chịu hổng nổi là được!
Nguyên tắc chung là kết hợp hơi thở với vận động. Chậm rãi, nhịp nhàng. Lạy Phật cũng phải đúng… kỹ thuật để khỏi đau lưng, vẹo cột sống. Đúng kỹ thuật là giữ tư thế và kết hợp với hơi thở. Đó cũng chính là thiền, là yoga, dưỡng sinh… ! Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Dễ ăn, dễ ngủ…
Tóm lại, giải quyết đựơc “ba cái lăng nhăng” đó thì có thể già mà… sướng vậy!
Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers


