Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 98

February 7, 2016

gởi bạn xa xôi: chút quê nhà

Thơ Đỗ Hồng Ngọc

Tet 2


Quê nhà


 


Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo


Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa


Anh thương nhớ quá làm sao nói


Gọi tên em vang động gốc cây già


Hái đóa hoa màu biển biếc


Chợt thương khung trời xa


Núi mờ trong mây trắng


Em mờ trong dáng hoa


Gió bấc mùa thơm ngát


Bâng khuâng một mái nhà


Biển xanh lùa sóng bạc


Cát vàng hoàng hôn xưa


Tiếc em về chốn cũ


Tình vương đến bao giờ


Tiếc đời phơ tóc bạc


Thương mãi núi mây xa


Nụ mai vàng trước ngõ


Góc phố bờ quạnh hiu


Con đường xưa đứng đợi


Ta làm chi đời ta


Thương em còn thương mãi


Nắng vàng thơm quê nhà…


(ĐHN)



 


Gió bấc


 


Đi giữa Sàigon


Phố nhà cao ngất


Hoa nở rực vàng


Mà không thấy Tết


 


Một sáng về quê


Chợt nghe gió bấc


Ơ hay xuân về


Vỡ òa ngực biếc!


(ĐHN)


 


 


Nắng phai


 


Cám ơn em đến


Mùa xuân của anh


Lòng mênh mông hẹn


Tình mênh mông xanh


 


Cám ơn em đến


Mùa xuân của anh


Hoa vàng nở muộn


Bên trời nắng hanh


 


Cám ơn em đến


Mùa xuân của anh


Nhịp đời bước chậm


Cho lòng còn xanh


 


Hôn nhau lần cuối


Yêu nhau lần đầu


Mùa xuân lại đến


Giữa ngày nắng phai


 


Cám ơn em đến


Bàn tay ngón dài


Đếm từng nỗi nhớ


Trên cánh vàng bay…


(ĐHN)


 


 


Bảo Lộc


 


Những chiếc máy cày thở ọc ạch


Chở bầy em nhỏ đi chợ phiên


Các cô gái Thượng um tùm váy


Gùi một gùi xuân xuống phố phường…


(ĐHN)


 


 


Tuyền Lâm


 


Nước xanh như ngọc


Sâu đến tận trời


Vốc lên một vốc


Ơi mùa Xuân ơi!


(ĐHN)


Tet 3


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 07, 2016 01:10

February 6, 2016

Lê Thiếu Nhơn: Lòng tốt người Saigon

Lòng tốt người Sài Gòn

Lê Thiếu Nhơn- Thứ Sáu, 5.2.2016


(PLO)- Người Sài Gòn làm điều cần làm một cách lặng lẽ, tận tâm và không phô trương, không mời báo chí đến ghi nhận…Câu chuyện chiều cuối năm ở cổng BV Ung Bướu được anh Lê Thiếu Nhơn ghi trên Facebook, xin phép anh đăng lại.


Tôi rất ngại đi ngang con đường Nơ Trang Long – Bình Thạnh, vì có… Bệnh viện Ung Bướu TPHCM, nơi nhiều người bạn của mình đã vào và không bao giờ có dịp chén thù chén tạc với nhau nữa.


Thế nhưng, những ngày cận Tết, tôi lại thích tạt qua con đường này, để ngắm nghía vẻ đẹp chỉ có ở Sài Gòn. Đó là những chuyến xe từ thiện đưa bệnh nhân ung thư về quê ăn Tết.



Bệnh nhân ung thư phần lớn đều lâm vào hoàn cảnh bi đát. Viện phí đã chật vật, mà phương tiện ngày Tết càng gian nan, bệnh nhân ung thư không dễ đoàn tụ với người thân trong khói bếp giao thừa. Không có tổ chức nào kêu gọi, nhưng nhiều cá nhân vẫn góp tiền lại để thuê xe riêng đưa bệnh nhân ung thư về quê ăn Tết.


Nhiều chuyến xe khác nhau, chia ra nhiều tuyến. Bệnh nhân từ Bình Thuận đến Khánh Hòa, thì lên một xe; bệnh nhân từ Phú Yên đến Quảng Ngãi, thì lên một xe. Bệnh nhân từ Quảng Nam trở ra, bệnh nhân khu vực sông Cửu Long, bệnh nhân vùng Tây Nguyên mỗi tỉnh lên một xe…


Đường Nơ Trang Long ngay trung tâm Bình Thạnh, không cho phép xe khách làm bến đỗ. Thế nhưng, cảnh sát giao thông không những không xử phạt, mà còn trợ giúp phân luồng giao thông tạo điều kiện cho những chuyến xe từ thiện cặp sát bên hông Bệnh viện Ung Bướu, để các bệnh nhân đỡ vất vả di chuyển.


Không ruột rà thân thích, nhưng những người hảo tâm vẫn bỏ của bỏ công cho những chuyến xe từ thiện. Họ cùng người nhà dìu bệnh nhân lên tận chỗ ngồi. Họ dúi vào tay bệnh nhân từng cái phong bì với lời lẽ ấm áp: “Mừng tuổi bác!”, “Chúc chú ăn Tết vui vẻ!”, “Cô giữ gìn sức khỏe nhé!”, “Chào anh, sang năm gặp lại nha!”… Nhiều bệnh nhân lau nước mắt vì xúc động trước nghĩa cử đồng bào cưu mang cao cả!


Tinh thần hào hiệp ấy, chỉ có ở Sài Gòn.


Những chuyến xe từ thiện chầm chậm lăn bánh rời khỏi Sài Gòn. Tôi nhìn những người tài xế ân cần và tôi nhìn những người cảnh sát giao thông lễ độ, tự nhiên thấy rưng rưng. May quá, lòng tốt vẫn còn đây.


Tạm biệt Sài Gòn!


Cảm ơn Sài Gòn!


Lê Thiếu Nhơn


(Nguồn http://phapluattp.vn/thoi-su/xa-hoi/l...)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 06, 2016 22:58

February 4, 2016

Khỉ ơi là Khỉ !

 


CHÚC MỪNG NĂM MỚI


Còn vài hôm nữa đã qua năm Khỉ, Bính Thân.


Năm Khỉ chắc là vui rồi, sau một năm Dê mệt mỏi…


Không gì Chúc Tết hay cho Năm Khỉ bằng những hình Origami tuyệt vời này của Đinh Trường Giang.  Không phải ai xa lạ. Con của họa sĩ Đinh Cường. Thiệt là “cha nào con nấy”!


Lời “bàn” là của Đỗ Hồng Ngọc. Cảm ơn Giang nhé!


Khỉ con ham chơi bị Ba rày mắng cho một trận!

Khỉ con ham chơi bị Khỉ Cha rầy mắng cho một trận!


 


Bèn chạy đến mét với Ông Nội!

Bèn chạy đến mét với Khỉ Ông Nội!


 


Khỉ Mẹ lúc nào cũng cưng con. Con hư tại Mẹ!

Khỉ Mẹ lúc nào cũng cưng con. Con hư tại Mẹ!


 


Cả nhà Khỉ vui Tết!

Cả nhà Khỉ vui Tết!


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 04, 2016 21:40

February 2, 2016

MỘT HÔM GẶP LẠI…

Ghi chú: Nhà xuất bản muốn tôi có một cuốn sách gì đó mới để tham gia Hội sách sắp tới cho vui. Thấy tôi ngần ngừ, có vẻ lúng túng, bèn gợi ý hay là anh tuyển chọn lại một số bài viết ưng ý của mình xưa nay in thành một tập như một kỷ niệm với bạn đọc dịp này.


Vì thế mà sẽ có “Một hôm gặp lại…”


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc



 


MỘT HÔM GẶP LẠI…


Tùy bút


Đỗ Hồng Ngọc


 


Tôi khoái tùy bút. Không biết tại sao. Chắc là tại cái tạng. Tùy bút nó gần với thơ hơn. Nó không hư cấu. Nó đến từ cảm xúc hơn là từ tính toan. Nó tùy duyên mà tới. Nó tùy hứng mà nên. Nó tùy nghi mà hiện. Và nó tùy hỷ mà vui… Có lẽ vì thế mà nó được gọi là tùy bút.


Có người bảo tôi, lâu nay viết tào lao cũng nhiều rồi, nay gom lại một vài đọc chơi. Vui thôi mà!


Ừ thì thử. Tình cờ đọc được bài Một hôm gặp lại… của mình bèn lấy làm thú, dùng mà làm tựa luôn. Có người nghĩ “Một hôm gặp lại” chắc là chuyện tình già, gặp lại một ai đó, đã lâu, đã xa. Nhưng không. Gặp lại đây là gặp lại tuổi thơ của chính mình. Ai mà chẳng có một tuổi thơ?


Bạn đang có trên tay một tập được gọi là tùy bút, có nhiều bài hình như đã đọc ở đâu đó rồi, trong cuốn sách nào đó rồi của tác giả, cũng có thể thấy trên mạng, hoặc trong những email mà người ta forward cho nhau, có khi bị đổi cái tựa, có khi bị nhầm cái tên, có khi thấy ghi là sưu tầm, là khuyết danh v.v…  Cũng chẳng khoái ru?


Vậy thì, “Một hôm… gặp lại” có nghĩa là gặp lại… một hôm một bài viết đã cũ, đã xưa, đã quen, thì cũng cứ vui nhé!


Tuổi già nó vậy.


Thân mến,


Saigon, 01- 2016


……………………………………………………………………………………………………………………………………


 


Một bài viết ngắn của Phương Trinh, bác sĩ làm công tác Giáo dục sức khỏe và Nâng cao sức khỏe  ở một trường học, sau nhiều năm “lăn lộn” trong Chương trình phòng chống Ma túy và HIV/AIDS…


Sách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc


Phương Trinh


Tôi biết ông Đỗ Hồng Ngọc trước hết là một Bác sĩ, một Thầy dạy của trường Y, nhưng sau đó, cái làm tôi đến với Thầy BS đó là  ông dạy Cộng đồng, và cho đến sau này, kết nối tôi, để tôi qui ngưỡng, cúi đầu là vì ông giảng kinh, nói pháp.


Tôi học Y, đi xã hội, làm giáo dục. Trong công cuộc đổi mới toàn diện & căn bản nền giáo dục Việt Nam hiện nay, cần kết hợp hai nhà: nhà giáo và nhà Phật. Riêng lãnh vực  Giáo dục sức khỏe trong nhà trường thì phải thêm một nhà nữa để thành bộ ba: Nhà Y – Nhà Giáo – Nhà Phật. Nói như thế để thấy ĐHN ba trong một đặc biệt thích hợp với học trò.


Xa hơn, rộng hơn, cao hơn, là  Nâng cao sức khỏe, liên quan đến những nguồn lực xã hội, chúng ta sẽ thấy rằng Sức khỏe liên quan chặt chẽ với Xã hội. Muốn nâng cao Sức khỏe, phải nâng cao Xã hôi. Mà ĐHN, nhìn kỹ lại, là nhà hoạt động xã hội trong từng lãnh vực, y tế, giáo dục, Phật học. Vậy thì đó là người đang làm sự nghiệp Nâng cao sức khỏe.


Nhưng trên hết, tôi thích ĐHN vì ông là Nhà Văn. Ông đã chuyển thể giáo trình, giáo án, kinh điển ra văn chương, mà văn chương bao giờ cũng thích hơn. Tôi vẫn thích cái nhìn, phân tích mọi chuyện mọi sự trên đời, kinh tế, chính trị, văn hóa, giải trí, pháp luật, hình sự, tào lao, bát nháo… dưới con mắt Đạo Phật, sâu sắc & đơn giản với giọng văn nhẹ nhàng, dí dỏm.


Như vậy, xét về Kiến thức – Kỹ năng thì ĐHN hội tụ đủ.


Một lý do nữa để tôi thích đọc ĐHN là ông viết về Tác giả, Tác phẩm. Tôi biết thêm một nhân vật, một cuốn sách nữa để tìm mua. Tôi thích kiểu đó, vì lười và vì có đọc cũng không hiểu hết, cho nên tủ sách của tôi, ngoài sách ĐHN, còn những sách khác, tôi mua về chưng, làm của.


Ví như GS Cao Huy Thuần, tôi biết đầu tiên là trên tạp chí Văn hóa Phật giáo, tôi đã phải nhảy nhổm lên đi tìm xem ông là ai, ở đâu, thế hệ nào, thuộc đảng phái chính trị ý thức hệ nào. Thấy sách ra mang tên CHT là tôi mua về ngâm. Đến khi thấy CHT trong cuốn “Nhớ đến một người” của ĐHN thì tôi vô cùng khoái chí, vậy là cùng fan. Lúc đọc giới thiệu “Chuyện trò…”  của BS ĐHN thì tôi tốc ra mua liền ( kiếm trong Fahasa cũng phải vô văn phòng tra mới ra), đem về ngâm tiếp. Coi như đọc rồi.


Tôi ước mong BS ĐHN tiếp tục đọc và tiếp tục chuyển thể, phiên dịch (nói theo ngôn ngữ của ông), giới thiệu sách. Việc này sẽ muôn đời bất tận không bao giờ hết. Xin chân thành cảm ơn Bác sĩ ĐHN, Thầy ĐHN, Giảng sư ĐHN, Nhà văn ĐHN. Chúc cho ông trường sanh bất lão. (Ông đang rất trẻ khỏe vui vẻ yêu đời yêu người).


“Phuong trinh Nguyen”

Ngày: 09-01-2013 08:09

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 02, 2016 18:06

February 1, 2016

Chiều hăm ba Tết Bính Thân

Chiều hăm ba Tết Bính Thân (2016)

Thư gởi bạn xa xôi


 


IMG_DHN nấu bếp


 


Hôm nay hăm ba Tết, ngày đưa ông Táo về Trời. Vì ông Táo về trời nên mình phải xuống bếp. Con nó lén chụp một tấm hình mình đang lui cui làm bếp, nó ghi chú: “Ngoc can cook”. Ấy là bắt chước “Yan can cook” nổi tiếng khắp thế giới nhờ tài nấu ăn! Mình có kém gì. Biết luộc rau, chiên trứng, nướng cá khô và đâm nước mắm ớt kiểu Phan Thiết… Ngoài ra còn biết “hăm” các loại canh, cá kho, không cần microwave. Hôm qua đi “khất thực” về được 2 đòn bánh tét, mứt, nhãn, quít… Còn muốn gì hơn?



 


Có chuyện gì vui kể nghe hả? Nhiều lắm. Bạn biết không, cuốn Già sao cho sướng của mình nghe nói bán chạy như… tôm tươi. Lý do: ngày càng có nhiều người già và người già nào cũng muốn sướng! Những ngộ, cứ nói Già sao cho sướng thì người ta lại tủm tỉm cười không hiểu tại sao! Có người nói muốn sướng thì phải sung (sung sướng). Có người bảo sướng tức là tự sướng, như kiểu chụp hình selfie chẳng hạn! Nhưng oan cho mình quá! Già thì khổ. Phật nói vậy. Sanh bệnh lão tử là khổ, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc … là khổ. Mình muốn sao cho người già được thoát khổ, nghĩa là sống vui, sống khỏe, sống có hạnh phúc, an lạc thân tâm.


Năm ngoái chùa Xá Lợi mời mình nói về đề tài: Thân tâm an lạc. Năm nay lại mời, chưa biết đề tài gì đây. Một bạn bảo, hay là An lạc thân tâm? Nhớ tám năm trước, ra Huế nói về Thiền và Sức khỏe ở Chùa Từ Đàm, thì vài năm sau, Nha Trang mời, mình lại nói về… Sức khỏe và Thiền! Cũng y như cuốn “Chẳng cũng khoái ru?” của mình người ta cứ đọc nhầm thành chẳng ru cũng khoái, chẳng khoái cũng ru, rồi khoái cũng chẳng ru, ru cũng chẳng khoái…!


 


Chủ nhật, café với nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, Giáo sư Trần Hữu Tá, và một nhà báo… Giáo sư Tá than thở: Cuốn “Già sao cho sướng” của anh làm tôi khổ quá!! Sao vậy? Vợ tôi bắt tôi phải đọc, rồi còn kiểm tra xem tôi đã hiểu chưa, nhớ chưa, nhắc lại xem nào, cứ y như trả bài học thuộc lòng. Bà còn mua một lúc 5 cuốn gởi cho mấy đứa con để nó biết cách cư xử với bố mẹ già nữa!


Ông bạn nhà báo thì kể chuyện cưới vợ cho con. Ông bảo con trai ông đang học ở Úc, phone về kêu tối nay bố mẹ ra gặp ông bà sui gia làm lễ cưới cho con gấp. Vợ chồng ông vâng lệnh, vác sính lễ các thứ đến sớm, đâu đó chỉnh tề. Ông bà sui kiểm xong lo lắng nói mình làm đủ lệ thế này rồi nhưng không biết ngày mai các cụ ở quê ra có còn bày vẻ gì thêm nữa không đây. Ông nhà báo người Saigon nói cứ để tui, ông đừng lo. Hôm sau, giữa lúc đông đủ các cụ, ông nói thưa qúy cụ, tôi đến cửa hàng số một ở tỉnh nhà, chuyên về thủ tục cưới xin, bao trọn gói, họ hứa nếu các cụ mà thấy có thứ gì gọi là chưa đủ, cho biết, họ sẽ dẹp tiệm ngay tức khắc! Các cụ nghe, thương tình. Cô dâu và chú rể không có mặt. Khi mọi việc xong xuôi, chào về, ông sui nhà trai nói với gia đình nhà gái: Bây giờ xin ông bà vui lòng cho tui biết con dâu tui tên gì chứ ạ?


 


Nhưng còn có một chuyện nữa đáng kể bạn nghe: mình đến dự Tất niên cua PN, đang lớ ngớ kiếm chỗ ngồi thì có tiếng gọi: Bác Ngọc, ngồi đây với con nè! Một cậu bé nhỏ nhắn, gầy còm, không quen biết, tươi cười chỉ ghế mời ngồi. Em rất tự nhiên, cởi mở: con là Nam nè bác Ngọc. Ủa, Nam nào nhỉ, không nhớ ra.  May quá, cô nhà văn PH ngồi bên cạnh nói Lê Hữu Nam đó bác, tác giả Mật ngữ rừng xanh, sáng nay vừa có buổi ra mắt sách ở Đường sách đó bác. À vậy hả? Lúc này mình già cả, làm biếng theo dõi sinh hoạt văn nghệ trẻ nữa rồi nên không hay biết. Nam tươi cười: Bác Ngọc là bác sĩ, dòm mặt con coi con mắc bệnh gì nè. Mình nhìn Nam, thấy hơi xanh, môi hơi tái nhưng nổi bật lại là mấy cái mụn. Mình nói bác chỉ thấy mụn. Nam xòe hai bàn tay cho coi. Giật mình. Cả mười ngón tay đều tím tái. Ủa, con bênh tim bẩm sinh hả, có phải tứ chứng Fallot (tétralogie de Fallot) không? Em cười, không. Con bị tim bẩm sinh một thất (single ventricle) bác à! Mình lại giật mình. Chà, khó rồi. Tim bẩn sinh một thất  hiếm gặp, khó can thiệp. Sao con không mổ? Bác sĩ nói không mổ được. Con sống trong bệnh viên Nhi đồng suốt 3 năm từ 12 đến 15 tuổi, hết tuổi Nhi, phải ra. Các bác sĩ muốn làm tuổi giả cho con được ở tiếp nhưng con muốn về nhà. Máu con đặc quẹo. Hct (Hematocrite) con tới 70%. Lâu lâu lấy máu đặc ra, bơm nước (nước muối sinh lý) vào cho pha loãng lại. Con mới học đến lớp 4 thôi bác à. Học lớp 4 mà con viết sách, viết tiểu thuyết, được giải Nhà văn trẻ 2015 của Thành phố thì thật đáng phục. Chắc là con phải đọc sách nhiều lắm? Dạ không. Con chỉ coi phim hoạt hình! Thì ra thế. Bây giờ thì Nam đã có 3 tác phẩm nổi tiếng, sắp tới sẽ ra mắt thêm 3 cuốn nữa vào dịp Hội sách.  Méo mó nghề nghiệp tôi hỏi con ốm nhom vậy hả? Dạ, được 32kg. Hồi sanh con mấy ký? Dạ hồi sanh 3,2kg. Bây giờ 30 tuổi được 32 kg, tính ra mỗi năm con tăng được 1kg! Nam cười. Em có khiếu hài hước, thông minh, linh hoạt… Do đâu con bắt đầu sự nghiệp viết lách như bây giờ? Khi ở Bv ra, suốt 10 năm con không làm gì cả, chỉ… chơi và coi phim hoạt hình. Sẵn đứa em con có cái vi tính, con gõ vài ý tưởng, gởi báo chơi. Bài được đăng mà còn được trả tiền. Vậy là con làm tới… Bây giờ con viết suốt ngày. Còn sống còn viết.


Sách của Nam là nỗi lòng của em:« Con đến như một phép lạ » viết cho đứa con, bây giờ không còn gặp nhau nữa; “Mật ngữ rừng xanh” góp phần giáo dục thanh thiếu niên bảo vệ môi trường sống, hòa hợp với thiên nhiên. Lê Hữu Nam là một tấm gương nghị lực đáng quý. Rồi em xin chụp với mình tấm hình kỷ niệm.


ảnh chụp từ điện thoại của Lê Hữu Nam.

ảnh chụp từ điện thoại của Lê Hữu Nam.


Mấy hôm sau, mình gặp bác sĩ chuyên khoa tim mạch nổi tiếng, giáo sư Phạm Nguyễn Vinh, nguyên phó giám đốc Viện Tim thành phố, hỏi về vụ bệnh Nam, ông bảo, đưa cậu ấy đến ông xem, single ventricle có thể can thiệp phẫu thuật được lắm chứ. Nhưng thực ra, tuổi Nam đã lớn, sợ không dễ. Nhưng cứ thử đi Nam nhé.


 


TB: Sáng nay mở “meo” thấy có bức thư của một người không quen biết, kèm youtube bản nhạc phổ bài thơ “Nắng phai” của Đỗ Hồng Ngọc với hình ảnh rất dễ thương, bèn gởi luôn đây cho bạn vui.


 



 


Hẹn thư sau.


Đỗ Hồng Ngọc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 01, 2016 01:14

January 28, 2016

Nhớ Đinh Cường: “trái sầu… rụng rơi”

Ghi chú: Chủ nhật này, bạn bè có ngày Tưởng niệm Đinh Cường, người họa sĩ mà ai cũng quý mến… Tôi có viết mấy chữ, không gọi là thơ, nhưng duyênkhánh minh chia sẻ, bèn ứng tác…


Năm 1993, khi tôi ở Boston tu nghiệp thì Đinh Cường có gởi tôi bức thư viết: “mỗi lần moa đến thác Niagara, moa đều có cảm giác muốn nhảy ùm xuống thác như con diều rơi cho vực thẳm buồn theo của Trịnh Công Sơn vậy”.


ĐHN


(29.01.2016)



 


RỤNG


nhớ ĐC


 


Rụng


Rụng như sung…


Rụng


Rụng như lá…


Rụng


Rụng như trăng…


Rụng


Rụng như người!


Đỗ Hồng Ngọc


 


 


 


rụng.*

… như quả táo Newton. rồi sẽ rụng.


….như. sung chín. chẳng cần chín thêm.


….như. chiếc lá đẹp. lìa cành.


….trăng. trên cành liễu. mơ màng ngủ say.


….như người.  chợt bỏ xa đời. trời ơi!


…. rụng.  như con diều rơi…


 


duyên


*    hoạ theo bài thơ Rụng của nhà thơ ĐHN viết cho hoạ sĩ ĐC.


 


 


RƠI…


Nhớ Họa Sĩ Đinh Cường


 


Rơi. Như hạt mưa rơi


Chiều dầm mắt ướt


 


Rơi. Như ánh sao rơi


Đêm ngàn tia nhớ


 


Rơi. Như tiếng chân người


Xa. Rất xa. Con đường khàn giọng gọi


 


Rơi. Như tiếng chim hoảng hốt


Cành khô một nhịp khan


 


Rơi. Như vệt cọ xanh cuối cùng trên vải


Hồn tranh theo người vào thăm thẳm


 


Rơi. Như buồn tiếng lá


Còn ai gom đốt lửa


Cho mùa đông theo khói bay lên


 


25.1.2016


nguyễn thị khánh minh


 


(Bài này là một kỷ niệm của ba người chúng tôi. Anh Đỗ Hồng Ngọc nhớ anh Đinh Cường, có viết bài thơ Rụng, sau đó Duyên họa thêm bài Rụng, và bảo Khánh Minh viết tiếp, bèn viết bài Rơi này, khi nghĩ đến trái sầu rụng rơi của Huy Cận…)


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2016 19:08

“Năm nay người có về ăn Tết…”

Năm nay người có về ăn Tết?

Ghi chú: Bài thơ Mũi Né được viết từ năm 1970, in trong tập Thơ Đỗ Nghê (1974) do Lữ Kiều thực hiện tại Đà Lạt và Hoàng Khởi Phong mang về Saigon cho Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc). Thu Thủy (Võ Phiến) trên báo Chính Luận (11.1974) khen là “lời thơ giản dị mà chân thành, đôn hậu nên gây được xúc cảm, bâng khuâng nơi người đọc”…


Mươi năm trước, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã phổ nhạc cho bài thơ.


Gần đây, anh có dịp về Việt Nam, đích thân tập cho ca sĩ Thu Vàng hát Mũi Né. Anh rất khen giọng ca của Thu Vàng nhưng vẫn chưa hài lòng với hòa âm tại đây. Trở về Mỹ, anh đã chỉnh sửa lại một chút cho bản nhạc và dành cho Randy Ames cùng dàn nhạc của ông hòa âm lại, với tiếng sóng rạt rào, với tiếng chim hải âu hiu hắt…


Anh vừa gởi về lại bản nhạc và cả bản hòa âm với lời giải thích, dặn dò rất chi tiết xin được chia sẻ cùng bè bạn… ngày sắp Tết!


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.




Mũi Né


Mũi Né


Mũi Né


IMG_ mn canh

Em có về thăm Mũi Né không

Hình như trời đã sắp vào xuân

Hình như gió bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân


IMG_ mn Rang


Em có về thăm Mũi Né không

Mùa xuân thương nhớ má em hồng

Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng

Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong


IMG_ mn doi cat ganhEm có về thăm Mũi Né xưa

Con đường sỏi đá vẫn quanh co

Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc

Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ


Em có về thăm Mũi Né yêu

Mười năm như một thoáng mây chiều

Mười năm vườn cũ chim bay mỏi

Áo trắng chân mềm em hắt hiu


IMG_mn au tho


Mũi Né ơi người xưa đã xa

Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…


IMG_mn Ket


 


Đỗ Hồng Ngọc

(1970)


Mui Ne (A) final(1)


 


Từ trái: Thân Trọng Minh, Hoàng Quốc Bảo, Thu Vàng, Đỗ Hồng Ngọc (Saigon 11.2015)

Từ trái: Thân Trọng Minh, Hoàng Quốc Bảo, Thu Vàng, Đỗ Hồng Ngọc (Saigon 11.2015)


 


25.01.2016  Email HQB:

“…Sau 8 measures Introduction,  hát từ đầu đến cuối bài, nhạc đoạn chuyển tiếp chơi bằng Mandolin réo rắt, 2 khúc từ: measure 15 (M15)


“Em có về thăm mũi né xưa”


Đến M29: “có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…”


Rồi hát lại lần 2 từ đầu bài đền cuối bài.  Ngân chữ hắt hiu… dài và nhỏ dần cho hết hợp âm Amaj7 của tiếng đàn Harp đánh rải (appagio) A-C#-E-G# (la đô# mi Sol#) thì mới tắt hơi, đừng dài hơn.  Chỗ kết này hát lơi, nên khó, phải tập cho ăn khớp, không sẽ bị so le…”


 


28.01.2016 Email HQB kèm bản nhạc và Mp3


“… Đã gửi bản thu âm Mp3 cho dàn nhạc Symphony Orchestra by Randy Ames (ns. hòa âm Tịnh Tâm Khúc), để thi sĩ nghe trước, vì cũng có chơi cả Melody rồi, hy vọng nhận ra dễ dàng.


Đã thêm sound effects tiếng biển và chim hải âu… Bài này làm video quay cảnh bãi biển hoàng hôn Mũi Né, làm 1 cảnh phim về chàng thi sĩ ngơ ngác trên Bầu trắng, nhìn 1 thiếu phụ quang gánh qua đồi cát, mà nhớ về tuổi hoa niên… cảnh chuyển sang người mẫu áo lụa dài tuyệt đẹp đi bộ trên đồi cát thì mê hoặc lắm…


Câu cuối bài nhạc, cảnh trở về với thi sĩ bây giờ, thiền bên đồi cát, đôi mắt hắt hiu nhìn về xa xăm… ngoài kia sóng vỗ… ?


Nếu so sách 2 bản nhạc, sẽ thấy 1 note ở chữ “hắt” hiu lên thành Si, không phải là La, làm cho rõ và hay hơn ở note kết quãng maj7, là nốt Sol G#, chữ hiu…


Không cần trở về chủ âm (tonic) lần đầu nữa.  Randy Ames phải soạn hòa âm đúng như vậy.  Ca sĩ sẽ phải hát  đúng như vậy.  Đây là một phá cách trong âm nhạc.  Theo đúng trường lớp và thói quen là phải kết một bản nhạc, thường quay về chủ âm, ít người dám đi khác vì nếu không khéo và hợp lý sẽ bị lạc điệu.  Giống như làm thơ, phá vận vậy. Đẩy người nghe ra khỏi thói quen nhàm chán, chết chìm trong âm điệu, làm nhận chìm cả ý nghĩa mình muốn đạt tới.  Ở đây, cái không khí xa xôi hiu hắt mình muốn nó không dứt, hiu hắt mãi khôn nguôi…  Người hòa âm cũng phải hiểu để không cần rườm rà loanh quanh mà chỉ ngắn gọn, dùng 1 hợp âm 7 trưởng, như nghe đàn Harp gẩy chậm từng note, kết thúc bằng note Sol thăng G#, nhập vào hợp âm 7 trưởng của guitar. Hắt hiu của nỗi nhớ, lạc loài của tiếng hải âu, nhạt nhòa của sóng ầm ì mãi rồi mới tắt lịm dần…”


Hoàng Quốc Bảo


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2016 03:22

January 27, 2016

LẶNG THINH: Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

LẶNG THINH


 


Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc


 


Anh Đỗ thân mến, tôi đọc kinh Duy Ma không biết bao nhiêu lần, nhưng có ba lần đáng nhớ nhất mà lần này là lần thứ ba. Lần thứ nhất là lúc mới bắt đầu đọc. Tôi tưởng như khám phá được mỏ vàng. Choáng mắt trước ánh sáng vàng rực. Hồi đó tôi còn trẻ, lại làm nghề dạy học, mà lại dạy cái môn suy diễn, biện luận. Tôi đọc cả quyển kinh một mạch, chưa thấy ai có tài lý luận, đối chất sắc bén như ông Duy Ma. Ông vây đối thủ, rồi ông siết vòng vây, dồn đối thủ đến cái thế phải giơ hai tay đầu hàng. Đại đệ tử của Phật, đại bồ tát, không ai dám tranh luận với ông, sợ ông hạ sát ván. Tôi đọc ông đấu lý mà cứ tưởng như đang xem đấu chưởng, chưởng vung ra vùn vụt, chữ nghĩa bay tít mây xanh. Ông lại có cái biệt tài biến thực thành ảo, biến ảo thành thực, biến hóa khôn lường, thần thông vô ngại. Tưởng như đọc kiếm hiệp.



Lần thứ hai tôi mở kinh, đọc kỹ từng câu, từng chữ, lúc đó, anh Đỗ ơi, mới thất kinh hồn vía, chẳng hiểu gì cả! Hổ thẹn quá chừng. Sao mình dốt thế, đụng chữ nào bí chữ ấy. Kể cả những chữ, những câu chẳng có vẻ gì là bí hiểm. Chẳng hạn mấy chữ này khi tôi lướt qua chương 4, loáng thoáng thấy có thiên nữ nên ngừng lại. Anh biết lòng ruột tôi rồi, mà chắc anh cũng thế thôi, tâm dễ động lắm. Huống hồ có đến mười hai ngàn thiên nữ, anh Đỗ ơi. Mười hai ngàn thiên nữ tấu nhạc hát ca. Mê quá. Nhưng đừng tưởng bở! Ma vương đấy. Ma vương thưa với bồ tát Trì Thế: “Kính bạch ngài, xin ngài hãy nhận mười hai ngàn thiên nữ này để giúp việc quét rưới”. Tôi mà được Ma vương đề nghị như thế, tôi nhận lời liền, sẵn sàng quên phức nó là Ma vương. Nhà cửa sạch sẽ thì cũng thích lắm chớ. Nhưng nhà tôi chật chội, nhận một cô cũng đủ. Anh đừng vội trách tôi thất kính với kinh hoặc với bồ tát. Tôi học kinh thật đấy. Tôi biết trước bồ tát Trì Thế sẽ trả lời thế nào. Bồ tát trả lời: Này, đừng đem cái thứ ấy hiến tặng bồ tát. Nhưng bồ tát chưa dứt câu thì ông Duy Ma đã lừng lững bước vào. Khoái cái ông Duy Ma này quá! Ổng nói, nguyên văn: “Hãy cho ta những thiên nữ này.” Thấy chưa! Tôi xin một. Ổng xin tuốt cả mười hai ngàn. Tha hồ mà quét nhà. Nhưng ông Duy Ma đâu có nhà cửa gì. Ổng nói với các cô tiên: “Ma vương đã đem các người cho ta, vậy các người nên phát tâm vô thượng bồ đề”. Tưởng các cô ham vui ở trên thiên cung mà nguầy nguậy lắc đầu. Ai ngờ các cô thưa vâng. Các cô thưa vâng rồi, ông Duy Ma mới nói: “Các người đã phát tâm rồi thì có cái vui chánh pháp, không vui theo năm dục nữa”. Ông Duy Ma là vậy đó, có khi ông giỡn, có khi ông thiệt, nhưng bao giờ cũng giỡn để mà thiệt. “Các thiên nữ hỏi, vui theo chánh pháp là thế nào?” Ông cắt nghĩa tường tận cái vui, cái thích đó trên hơn một trang kinh. Tôi thử đếm xem có bao nhiêu cái thích: trên ba mươi chữ thích, trên ba mươi cái thích. Tôi ngừng lại ở cái thích thứ bảy: “thích xét sáu giác quan như xóm vắng”. Anh Đỗ ơi, anh làm thơ thì chắc chắn khi nghe hai chữ “xóm vắng”, thi tứ của anh phải cồn cào như nước trăm độ sôi. Tôi cục mịch, chẳng biết văn thơ gì, nhưng khi nghe hai chữ đó, tôi tưởng như trở về với tuổi nhỏ, nằm giữa bóng cây, trong buổi trưa hè im vắng, không một tiếng gà, không cả tiếng gió, buổi trưa trống trơn như phơi hồn với vô tận mây xanh. Đưa nhớ nhung về miền tuổi nhỏ một hồi như vậy, bỗng tôi sực tỉnh, tự hỏi: Ủa, tại sao ông Duy Ma lại thích “xóm vắng”? “Xóm vắng” của ông là cái xóm gì vậy?


Đấy, anh Đỗ thân mến, chưa hết một câu, chỉ mới hai chữ thôi, tôi đã hoang mang. Anh biểu tôi nối đuôi cho quyển sách của anh, hai chữ mà tôi đã chưa hiểu, nói gì cả mười bốn chương kinh. Tôi hổ thẹn với các cô thiên nữ. Các cô ấy chỉ quen tấu nhạc với quét nhà, vậy mà ông Duy Ma nói là các cô hiểu ngay, còn tôi, đường đường một đấng chữ nghĩa…


Lặng lẽ, một mình, tôi tìm sách đọc để tự giải thích cho mình hai chữ “xóm vắng”, nghe sao mà thơ mộng quá. Tìm không ra. Có ai dám giải kinh Duy Ma đâu! Cho đến một hôm, tìm chuyện trẻ con để đọc cho cháu ngoại nghe, tình cờ tôi rơi vào câu đầu của một chuyện tưởng là chuyện cổ tích vì có trộm cướp và vua chúa trong đó. Câu như thế này: “Một tội nhân bị vua phạt phải giữ một cái hòm chứa bốn con rắn độc và phải nuôi bốn con rắn ấy”. Thấy chuyện hấp dẫn quá, tôi theo dõi:


“Hoảng kinh, anh ta chạy trốn. Vua sai năm tên giết người đuổi theo. Thêm một tên giết người thứ sáu nữa, nhưng tên này giấu ý định giết người của mình, giả vờ khuyên anh ta tuân lệnh vua. Nghi là bị bẫy, anh ta tiếp tục chạy trốn. Chạy một hồi thì đến một xóm vắng”. Ô hay, nó đây rồi! Mừng quá! Tìm thì không gặp. Không tìm thì gặp! Hăm hở đọc tiếp:


“Một người tốt bụng giục anh ta chạy gấp vì có thêm sáu tên trộm khét tiếng nữa sắp đột nhập vào xóm. Hụt hơi, anh ta cố sức chạy, một hồi thì đến trước một con sông. Nhìn tả nhìn hữu, anh thấy bờ gần nhất lại là bờ nguy hiểm nhất, bờ kia xa nhưng có vẻ an toàn. Bẻ vội sậy nứa, anh ta kết một cái bè, lấy hai tay làm chèo bơi qua sông”.


Cháu ngoại tôi nghe kể đến đây chắc sẽ hồi hộp lắm. Còn tôi, ủa, cái “xóm vắng” mới đó đâu rồi? Đọc tiếp mới biết ông Duy Ma lừa mình. Rắn rết, trộm cướp gì đâu, ông bày đặt ra cái chữ “xóm vắng” bắt mình phải hụt hơi tìm kiếm. “Xóm vắng” của ông là thế này: Ông vua là Ma vương. Cái hòm chứa rắn là thân xác con người. Bốn con rắn độc là tứ đại, bốn yếu tố vật chất tạo nên cái thân xác này: đất, nước, gió, lửa. Năm tên giết người là năm uẩn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Mình cứ tưởng năm uẩn ấy là mình, là tạo nên cái mà mình gọi là “tôi”. Tên giết người thứ sáu là dục lạc. Ông Duy Ma cảnh giác các cô thiên nữ: đừng tưởng đó là hạnh phúc thật. Vậy thì “xóm vắng” là vắng cái “tôi” do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra. Con mắt là con mắt, ai cũng giống ai, cứ hỏi ông bác sĩ mắt thì biết. Nhưng con mắt tôi thấy cảnh vật khác con mắt anh. Anh nhìn mùa thu thì nghĩ đến Cách Mạng. Tôi nhìn mùa thu thì con nai vàng hiện ra. Con mắt nhìn mà tôi thì thấy. Vậy con mắt ấy đâu phải là “tôi”. Tai mũi lưỡi thân ý gì cũng thế. Chúng nó là chúng nó, nhưng chúng nó bị lầm tưởng là “tôi”, là có một cái “tôi”. Tại sao? Tại vì có sáu thằng ăn trôm ấy. Nó ăn trộm con mắt để trở thành cái nhìn. Nó ăn trộm cái tai để trở thành cái nghe. Cái nhìn, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái sờ mó, cái ý tưởng, sáu cái tạo nên sáu yếu tố bên ngoài của tri thức, sáu cái ấy ăn trộm mấy cái uẩn để trở thành sắc, vị, thanh, hương, xúc, giác, cái nào cũng biến thành “tôi” cả: “tôi” nhìn, “tôi” nghe, “tôi” ngửi, “tôi” nếm… Cứ hiểu theo thông thường mà thôi thì tất nhiên cái “tôi” ấy là có. Nhưng phân tích cho đến rốt ráo như ông Duy Ma dạy cho các thiên nữ, thì con mắt là con mắt, mà “tôi” chỉ là kẻ mượn con mắt ấy để vỗ ngực tạo ra một cái riêng mà tôi gọi là “tôi”. Bởi vậy, người tốt bụng trong chuyện là người giục anh chàng kia phải trốn ngay, chạy tiếp. Người ấy là ông thầy, là Duy Ma. Con sông trong chuyện là con sông của dục vọng, của mê lầm, lầm tưởng cái không có là có thật để khổ với nó cả đời. Cái bờ gần nhưng đầy nguy hiểm là cuộc đời này, tưởng có rồi không, tưởng còn rồi mất, có đấy rồi không đấy, tưởng nắm được mà hóa ra nước chảy qua bàn tay. Bờ kia là bờ giác. Hãy tự kết bè chèo chống với hai tay không. Và nghĩ: ta sẽ đến.


Anh Đỗ ơi, sau khi đọc chuyện xong và suy nghĩ như thế, tôi đọc lại đoạn ông Duy Ma nói với các thiên nữ về cái thích của người phát tâm, và tôi nghĩ anh cũng nên thích như thế. Đây nhé:


“Các thiên nữ hỏi, vui theo chánh pháp là thế nào? Ông Duy Ma nói: là thích tin Phật, tin Pháp, thích cúng Tăng, thích rời năm dục, thích xét năm uẩn như giặc thù, thích xét bốn đại như rắn độc, thích xét sáu giác quan như xóm vắng…”


Tôi biết suy nghĩ của tôi không đúng hẳn đâu. Và cũng không theo nổi các thiên nữ được. Nhưng tôi chỉ cốt học hai chữ “xóm vắng” ấy thôi. Học cả đời: xóm vắng của tôi là vắng cái “tôi”. Thế thôi.


Đó là hai lần đọc kinh đáng nhớ trong đời. Lần này là lần thứ ba, vì anh biểu tôi phải đọc lại để viết cái gì đó cho quyển sách của anh. Tôi mở đại một chương: chương 9. Bắt đầu thế này:


“Bấy giờ Duy Ma thưa với các vị bồ tát, kính bạch các ngài, bồ tát nhập vào các môn bất nhị thế nào, xin các ngài tùy thích mà nói ra”.


Bất nhị là nhìn sự vật dưới một tổng thể, không tách ra thành từng cặp đối kháng để chỉ nhìn riêng một mặt, chỉ thấy một mặt trong nhận thức: tốt xấu, thiện ác, tội phước, tỉnh mê… Ba mươi mốt vị bồ tát trả lời, mỗi vị trình bày cách mình đi vào tinh thần bất nhị, ba mươi mốt cách là ba mươi mốt vấn đề triết lý cao tít mây xanh. May quá, có hai câu trả lời tương đối dễ, tôi đọc với anh.


Câu trả lời thứ nhất là của Tịnh Căn bồ tát. Ngài nói: “Phật Pháp Tăng là hai, nhưng Phật là Pháp, Pháp là Tăng. Tam bảo như vậy toàn là vô vi, đồng đẳng không gian, tất cả các pháp cũng là như vậy, và thuận hành như vậy, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị”.


Thói thường chúng ta phân biệt Phật là Phật, Pháp là lời dạy của Phật. Phân biệt như vậy thì đúng là Phật và Pháp là hai. Nhưng Phật dạy gì? Chẳng dạy gì cả. Chỉ nói sự thật. Sự vật như thế nào, Phật nói thế ấy. Có Phật hay không có Phật, sự vật vẫn muôn đời như vậy, cuộc đời cứ như thế, sinh lão bệnh tử, nước mắt nụ cười… Phật sinh ra trên đời này là để nói sự vật như thế, cuộc đời như thế, nói khổ vì có khổ, có Phật hay không, cái khổ vẫn mênh mông như biển. Như vậy, Phật và lời của Phật, Phật và sự vật, đâu có phải là hai? Pháp và Tăng cũng vậy. Bây giờ, nhiều người buồn cho hiện tượng tha hóa của một số tăng, giận quá, đòi bỏ quy y Tăng. Vậy là hiểu lầm chữ “Tăng” rồi! “Tăng” đâu phải là ông tăng này, ông tăng nọ, ông này khất khưởng nhậu bia, ông kia buôn thần bán thánh. “Tăng” là cả một tập thể theo Phật, một tập thể nói chung, trong đó có sư thầy, sư cô, có cư sĩ nam nữ, tất cả cùng chung nhau một chiếc áo lam, cùng chắp tay hướng về một Đấng Giác Ngộ, nghĩa là trong đó có cả anh cả tôi, chúng ta là một phần tử của Tăng. Không có tập thể ấy thì Phật cũng không còn. Không còn tiếng chuông, không còn mái chùa thì Pháp cũng mất. Vậy thì Phật và Tăng, Pháp và Tăng đâu có phải là hai. Tam bảo là một, chúng ta quy y chính chúng ta, vì chúng ta cũng là Phật, tâm là Phật kia mà. Và, thưa thật với anh, khi tôi gặp một ông tăng tha hóa, tôi vẫn cung kính chắp tay vái chào. Tôi lạy đức Phật trong lòng ông ấy. Anh tin chắc đi, khi tỉnh giấc, lúc tàn canh, trong một phút, trong một giây nào đó, ông sẽ giật mình chợt nhận ra đức Phật trong lòng.


Vị bồ tát thứ hai nói dễ dễ để tôi hiểu được là Bảo Ấn Thủ bồ tát. Ngài nói: “Thích niết bàn và chán thế gian là hai; không thích niết bàn, không chán thế gian, thế là bất nhị. Tại sao? Vì có buộc thì có mở, nếu vốn không buộc thì ai cần mở, mà không buộc không mở thì không thích không chán, là nhập vào pháp môn bất nhị”.


Cái này thì dễ hiểu vì hợp với khẩu vị của tôi. Việc gì tôi phải thích niết bàn? Cứ cho tôi được sống như đang sống ở giây phút này, được vợ cho ngồi yên để viết cái thư này cho anh, thế là tiên rồi! Việc gì tôi chán thế gian? Nó có vui có buồn, có sướng có khổ, có mùa đông có mùa xuân, không buồn làm sao anh biết vui, không khổ làm sao anh biết sướng, không lạnh lẽo làm sao anh biết ấm áp? Khi nào anh chán thế gian, tôi có phương thuốc này hiệu nghiệm vô song: anh cứ nhìn xung quanh anh, bao nhiêu người khổ, bao nhiêu cảnh khổ, anh đến với họ thì anh sẽ quên anh, quên cái chán của anh. Đừng nghe mấy cha triết gia ê a “địa ngục là kẻ khác”. Kẻ khác sẽ vớt anh ra địa ngục trong chính anh. Niết bàn với thế gian là một.


Ba mươi mốt vị bồ tát nói xong, đến phiên ngài Văn Thù mà chúng ta xưng tụng trí tuệ trong mỗi buổi lễ. Bồ tát Văn Thù nói để kết thúc: “Theo ý tôi thì, đối với các pháp, không nói năng, không giải thích, không chỉ bày, không hay biết, siêu việt vấn đáp, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị”.


Tôi cố hiểu, anh Đỗ ạ. Chắc Văn Thù muốn nói: Các vị giải thích hay lắm, nhưng giải thích là vẫn còn nhị nguyên, vẫn còn thấy hai. Giải thích thì phải mượn khái niệm. Vui là khái niệm. Buồn là khái niệm. Tội là khái niệm. Niết bàn là khái niệm. Thế gian là khái niệm. Anh nói “vui”, nhưng thế nào là vui? “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật / Tiếu tự văn nhân lạc đệ thì”. Khóc như thiếu nữ vu quy / Cười như chàng trẻ đi thi hỏng về. Khóc ấy là buồn? Cười ấy là vui? Hay là nước mắt ấy là vui? Hay là cái cười ấy là thảm, quá thảm? Hễ nói là đụng đến khái niệm. Hễ đụng đến khái niệm thì phải giải thích. Hễ còn mất công giải thích là còn đứng ngoài lề bất nhị, chưa lọt vào trong. Muốn lọt vào trong thì phải vứt khái niệm đi, thì đừng nói năng gì nữa. Thì im.


Ha ha, dễ bắt bẻ Văn Thù quá! Ngài nói: hãy im. Nhưng như vậy là ngài đã nói rồi. Ngài giải thích: đừng nói. Nhưng ngài đã phải nói để giải thích đừng nói. Ngài đưa người ta vào sát cánh cửa bất nhị, nhưng cánh cửa chưa mở. Vì còn lời nói. Lời nói của chính ngài. Vậy thì làm sao mở? Hô hô, phải có ông Duy Ma!


Tôi đọc tiếp kinh: “Văn Thù bồ tát hỏi ông Duy Ma, chúng tôi đã nói cả rồi, ông cũng nên nói, thế nào là bồ tát nhập vào pháp môn bất nhi? Duy Ma lặng thinh, không nói gì cả. Văn Thù khen, tốt lắm, tốt lắm, đến nỗi không cả văn tự, ngôn ngữ, ấy mới thật là nhập vào pháp môn bất nhị”.


Đọc kinh đến đây, người đời sau chắp tay lạy cái im lặng của Duy Ma, xưng tụng là “im lặng sấm sét”. Còn tôi, anh Đỗ ơi, tôi muốn đóng kịch. Trong kinh, ông Duy Ma đóng kịch giả đò đau để đức Phật phải sai các bồ tát đến thăm. Tôi với anh bắt chước đóng kịch ở cái chương này, anh đóng vai Văn Thù, tôi đóng vai Duy Ma. Văn Thù nói với Duy Ma: “Này ông Duy Ma, tôi thấp thoáng xong rồi, bây giờ đến phiên ông viết vài hàng tán dóc cho vui”. Duy Ma lặng thinh.


Chẳng viết chữ nào.


 


Cao Huy Thuần


(Paris, 12. 2015)


……………………………………………………………………………………


(Theo Liễu Quán, số 7, Giai phẩm Xuân Bính Thân 2016)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 27, 2016 01:56

CÕI PHẬT ĐÂU XA ! (thấp thoáng lời Kinh Duy-ma-cật)

IMG_Duymacat BIA (26.1.16)


Đôi dòng ghi lại…

 


Nói ra là bị kẹt


Không nói cũng không xong…


(Thiền sư Chân Nguyên, TK XVII)


 


Có người hỏi tôi rằng học được gì từ “Duy-ma-cật sở thuyết”?


Học được nhiều lắm chứ!



 


Học rằng cõi Phật chẳng đâu xa. Cõi Phật trong ta. Tâm ta mà thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Tâm ta chưa thanh tịnh thì thấy đâu cũng là gò nỗng, hầm hố, gai góc, thanh tịnh rồi thì cõi đất bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp, ánh vàng ròng khắp nơi nơi…


 


Học rằng trước hết phải tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi. Có trực tâm thì mới có chánh đẳng. Có « Chánh đẳng » rồi mới có « Chánh giác ». Chia chẽ thì so sánh, hơn thiệt, ganh đua, đấu đá. Bình đẳng, không phải là kéo chân rùa dài ra, thúc giò hạc ngắn lại.


Thấy cái Một thì thấy tất cả. Tất cả là Một. Một là tất cả.


 


Học rằng phương tiện mà không trí huệ không xong. Khoa học mà không có lương tâm là sự tàn lụi của tâm hồn.


Trí độ là mẹ Bồ Tát,


Tùy nghi phương tiện là cha.


Phải có Trí độ (Bát Nhã) trước đã. Rồi, phương tiện mới tùy nghi. Pháp sư phải « vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai » (Pháp Hoa). Vào tòa Như Lai là từ bi, mặc áo Như Lai là nhu hòa, nhẫn nhục, ngồi tòa Như Lai là thấy biết « chư pháp không tướng». Phương tiện tùy nghi mà chưa có Trí độ thì nguy.


 


Học rằng “Tại các cảnh thiền định, tưởng đó như các tầng địa ngục”. Không đắm  mê các tầng thiền để bỏ quên đời, mà tưởng cảnh thiền như các tầng địa ngục, thấu cảm cùng nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh. Đối với cuộc sinh tử luân hồi, tưởng đó như vườn cảnh điện đài để thênh thang “một cõi đi về”.


 


Học rằng bệnh thường gặp là “chấp Không”! Thấy không rồi mê không, gì cũng không, chẳng thấy được chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không! Cho nên “tu học lẽ không mà chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Tu học vô tướng, vô tác, mà chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc”.


 


Học rằng tâm khó mà nhận thấy! Tìm hoài tâm không ra. Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai không thấy đâu cả. Làm sao để tâm an ? Còn lâu! Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Thân tâm nhất như.  Cho nên « giả bệnh » là cách tốt nhất. Mà bệnh thì rất bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh ! Thân này không thể tin cậy được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải thấy thân Phật, tức thấy pháp thân. Muốn thấy pháp thân thì phải “quán”. Phải nhìn sâu vào bên trong, nhìn xuyên qua cái giả tướng bên ngoài, phải “kiến tướng phi tướng” . Khi ấy nhận ra:


Vô lượng ức đấng Như Lai,

Chư Phật với thân mình đây,

Không khác chi đừng phân biệt


 


Học rằng hé cửa vào Bất Nhị thì thấy Như Lai ngồi cười tủm tỉm, mở toang bảo tháp, tay bắt mặt mừng chào đón Phật, chào đón chúng sanh… Thấy biết Như Lai rồi thì chỉ còn ú ớ, há hốc hoặc lặng thinh. Ủa, vậy đó hả ? Bởi với Như Lai thì “chẳng thể dùng trí mà hiểu, chẳng thể dùng thức mà biết, không thể dùng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt, tất cả ngôn ngữ đàm luận đều dứt tuyệt ».


 


Học rằng chúng sanh là những ảo vật do nhà ảo thuật là chính ta tạo ra. Mà nhà ảo thuật cũng là một chúng sanh. Tạo ra rồi hồng hộc chạy theo, bám lấy, giành giật, khổ đau, hạnh phúc… Rồi ráng giải thích những hình bóng ảo, rời rạc, lắp ráp tạm bợ đó mà tưởng thiệt ; rồi ráng gân cổ cãi nhau chí chóe với bao nhiêu khái niệm danh từ… mà tưởng hay! Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân chim giữa hư không…


 


Học rằng “ Tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai” ! Rằng Thân này là hạt giống Như Lai. Vô minh với ái là hạt giống Như Lai. Tham, sân, si là hạt giống Như Lai…”


Thì ra vậy ! Thì ra tứ đại ngũ uẩn, vô minh, ái thủ hữu, tham sân si… đều là hạt giống của Như Lai. Cho nên không lạ, từ những hạt giống đó mà sinh sôi nẩy nở đủ thứ chuyện trên đời, rồi quấn quít nhau mà trùng trùng duyên khởi… Nhưng Như Lai chẳng xấu ác, chẳng thánh thiện. Như Lai là Như Lai. Tathagata. Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ. Chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu. Nó vậy là nó vậy.


Cho nên phiền não cũng chính là Bồ-đề, khổ đau là hạt giống của an lạc !

Trong lửa sinh hoa sen,

Tại năm dục hành thiền…


 


Học rằng sân hận đưa ta vào địa ngục không lối thoát nên cần biết sống trong cõi Diệu Hỷ của Phật Asuc (Aksobhya), vị Phật có tên là Vô Sân, Vô Nộ, Bất Động. Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định (Huệ Năng). Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Trần Nhân Tông).

Duy-ma-cật bảo: Pháp hỷ là vợ nhà/ Từ bi là con gái/ Tâm thiện là con trai/ Không tịch là nhà/ Trần lao là đệ tử/ Tùy ý mình mà chuyển biến…

Tùy ý mình mà chuyển biến. Muốn thấy « con là nợ/ vợ là oan gia/ cửa nhà là nghiệp báo… » cũng tùy hỷ!


 


Học rằng thực tướng là vô tướng, nên hòa nhập nhau có chi ngăn ngại vì cùng bản chất, pháp tánh. Núi Tu di to lớn kia mà đem đặt vừa vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông nọ mà rót đầy lỗ chân lông có chi là lạ ? Núi Tu di cũng không mà đầu hạt cải cũng không. Nước bốn biển cũng… không mà lỗ chân lông cũng không. Nhưng chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không. Lý mà vô ngại thì Sự Sự vô ngại vậy!

Học rằng có thứ hương thơm nuôi cả thân và tâm bất tận đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm đó mới có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió… Tiếng lành đồn xa. Nhưng giới không chỉ là giới. Giới còn là Định là Huệ. Giới định huệ không chia cắt.


 


Học rằng không có gì để « đắc » vì « vô sở đắc » : Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Anậuđala Tam-miệu Tam-Bồ-dề) sẵn có đó rồi trong mỗi chúng sanh. Chỉ cần thắp sáng lên. Con đường đó là con đường quay lại chính mình.

Rồi một hôm, chỉ còn biết tủm tỉm cười một mình. Nụ cười đến từ bên trong, từ những tế bào, từ đất nước gió lửa. Con đường đã vạch ra, đã bày sẵn : Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ…Thất giác chi, Bát chánh đạo… vốn là 37 món trợ đạo không quên.

Đạo phẩm là bạn hiền

Nhất tâm là điều ngự,

Bát chánh đạo dạo chơi.


 


Học rằng bốn Ma là « thị giả », luôn ở cạnh ta, giúp ta từng li từng tí. Ma phiền não bủa vây và nhắc nhở sẵn có bốn vạn tám ngàn cách thoát ra sao chẳng thử một vài; Ma ngũ uẩn thì càng thân thiết, nhắc rằng mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai; Ma trời (thiên ma) là lời cảnh giác, đừng tưởng bỡ, tưởng làm trời thì muốn gì cũng được. Còn lâu ! Rớt vào địa ngục như chơi. Lên voi xuống chó mấy hồi. Còn Ma chết (tử ma) lại là bạn thiết gắn bó từ thuở còn bụng mẹ trong từng tế bào. « Bốn thứ ma, tám muôn bốn ngàn thứ phiền não làm cho chúng sinh phải nhọc nhằn mệt mỏi đều có thể làm Phật sự »…


 


Học rằng « Phật sự » là món cơm Hương Tích, là món trà Tào Khê, là tiếng gió thổi, là tiếng lá rơi, là dáng đi dáng đứng dáng ngồi… Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tất cả pháp đều là pháp Phật. Không phải do Phật làm ra đâu. Chỉ vì tất cả đều vô thường, khổ, không, vô ngã, duyên sinh, thực tướng vô tướng… Phật sớm thấy biết và từ bi « khai thị » cho chúng sanh « ngộ nhập », để cùng mà giải thoát!

“Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu. Pháp không có thêm và bớt. Pháp không có sinh và diệt…Tướng pháp là như vậy, há thuyết diễn được sao?”.


 


Học rằng « Cư trần mà lạc đạo » : “… ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi… ; kính giữ luật hạnh thanh tịnh của bậc sa-môn, tuy ở tại nhà, mà chẳng vướng vào ba cõi, thị hiện có vợ con, mà tu hạnh thanh tịnh… »;

Từ đó mà « thõng tay vào chợ »: Hoặc làm chúa thành ấp/ Hoặc làm chủ đoàn buôn/ Làm quốc sư, đại thần, Để lợi ích chúng sanh…

Trong kiếp có bệnh dịch/ Hiện làm các dược thảo/ Trong kiếp có đói kém, Hiện thân làm món ăn/ Trong kiếp có đao binh/ Khiến trụ cảnh không tranh/ Những nơi có địa ngục/ Cứu khỏi mọi khổ não/…


 


* * *


“…Thưa, Thánh trí vốn vô tri, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn vô tướng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá.

… Vả, chúng sinh mãi ngủ vùi, phi ngôn thì lấy gì để đánh thức? Đạo không vận chuyển đơn côi. Đạo hoằng do người.

Cho nên, Như Lai sai Văn Thù nơi phương khác; triệu Duy-ma từ quốc độ kia; cùng tụ hội Tỳ-da-ly để chung truyền đạo ấy”.

(Tăng Triệu, tựa Duy-ma-cật sở thuyết, thế kỷ thứ V.

Tuệ Sỹ dịch Việt, mùa Thu, PL. 2548)

Lúc ấy, Phật bảo Di-lặc: “Nay ta đem pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề này mà phó chúc cho ông…”

Rồi quay sang A-nan ân cần dặn : “Hãy thọ trì kinh này và lưu hành giảng thuyết rộng rãi nhé !”.

Đâu có chi phân biệt!

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 12.2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 27, 2016 01:22

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.