Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 94
July 1, 2016
“Đường lên dốc đá” Ngô Đình Miên
Thư gởi bạn xa xôi (7.2016)
Ghi chú: 5 năm trước, Trần Vấn Lệ nhắc tôi có về Phan Thiết thì nhớ thăm Ngô Đình Miên. Và ngay sau đó, tôi nhận được email của Miên…
2.8.2011
Kính thăm anh Đỗ Hồng Ngọc!
Xin được tự giới thiệu với anh, tôi là Ngô Đình Miên, người Bình Thuận, đang sống ở Phan Thiết.
Lí do tôi mạo muội viết thư cho anh là theo lời khuyên của anh Trần Vấn Lệ. Trước đây, tôi có viết một số bút kí có liên quan đến Phan Thiết. Anh Lệ đọc, thích và có viết thư cho tôi. Vì vậy, nên vừa rồi tôi chọn một số bút kí (trong đó có những bài về Phan Thiết) làm thành tuyển tập và có ý định xuất bản, tôi có gởi tập bản thảo cho anh Trần Vấn Lệ đọc trước. Anh Lệ đọc xong nói, Đỗ Hồng Ngọc là bạn học hồi Phan Bội Châu mà anh rất phục, tài và người đều hiếm có, Đỗ Hồng Ngọc rất yêu Phan Thiết. Anh cho địa chỉ e mail của anh Đỗ Hồng Ngọc và khuyên tôi nên gởi tập bản thảo cho anh Ngọc đọc và góp ý kiến.
Âu đó cũng là duyên. Lâu nay, tôi đọc văn anh nhiều hơn thơ, nhất là đọc sách anh viết về thiền và cuộc sống rất sướng. Nay, tôi xin phép được gởi anh tập bản thảo này và trân trọng nhờ anh đọc giúp và có ý kiến. Nếu anh đọc những bài viết có liên quan tới Phan Thiết mà chợt nhớ “Phan Thiết của Đỗ Hồng Ngọc”, là coi như tôi đã thành công hơn một nửa rồi…!
Tg Ngo Dinh Mien,
Ủa, lâu nay về Phan Thiết sao chưa gặp Ngô Đình Miên nhỉ? Lạ thiệt! Không nghe Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Như Mây, Phan Anh Dũng… nhắc bạn? Kể cả Ngô Đình Cường, nhiếp ảnh gia số 1 quê mình? Có bà con gì với nhau? Có lần anh Ngọc đã đến nhà thăm chú NDC, mà chỉ nghe chú nhắc Lê Hồng Linh!
(…)
Bút ký Ngô Đình Miên viết được lắm. Trong sáng. Nhân hậu. Có lòng. Đó là điều hiếm bây giờ. Anh mới đọc vài bài: Gió mát từ bờ sông… làm nhớ quá, nhớ con đường Bà Triệu… Phan thiết. Hồi nhỏ anh ở trong một ngôi chùa gần đó, đi mòn các con đường bờ sông đó. Có bến đò, cây đa… đi qua Chợ Gò? Anh vào Trung học Phan Bội Châu năm 1954, cùng với Trần Vấn Lệ, nhưng chỉ học có một năm rồi về Lagi, sau đó về Saigon đến nay.
Văn Ngô Đình Miên nghe rõ giọng Phan Thiết với “bộn tuổi”, “lạnh hung”… làm nhớ quá!
Anh đặc biệt quan tâm bài về Lầu Ông Hoàng. Nếu quả đúng vậy, nên tiếp tục lên tiếng và nhờ các nhà khảo cổ tìm kiếm di tích thật của Lầu Ông Hoàng để “đính chính” và giúp cho Du lịch Phan Thiết phát triển. Anh có tìm thêm tài liệu về De Montpensier lúc ở Đông Dương, nhưng chưa thấy gì thêm…!
Mong có dịp gặp nhau, để khi có về Phan Thiết thì gọi Cafe. (Anh không biết uống rượu!!)
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
@ Anh Đỗ Hồng Ngọc!
Anh em mình chưa gặp nhau, chắc là vì chưa có duyên… Mặc dù lĩnh vực công tác của anh và của em rất gần nhau (em vừa nghỉ hưu non khi anh ra Phan Thiết mở lớp huấn luyện về Phòng chống HIV/AIDS) . Em nghe BS Hiếu (T4G) nhắc anh hoài. Những cái tên anh vừa nhắc đều quen, có người là thân quen, tuy không có bà con với chú Ngô Đình Cường, nhưng quen biết nhiều, thầy Ngô Đình Hoàng dạy em hồi tiểu học. Ở LaGi có người mỗi lần ra PT ngồi nhậu với em hay nói về anh Ngọc, đó là anh Phan Chính… Em vào Phan Bội Châu sau anh nhiều lắm, 1970 em mới vào học đệ tam (đệ nhất cấp học Bán Công Phan Châu Trinh), đến năm “Mùa hè đỏ lửa” vừa đậu Tú Tài I phải chạy lên Đà Lạt thi và học Sư phạm ở đó. Năm 2000, em mới quay về sống ở Phan Thiết. Nhưng Phan Thiết luôn là một phần máu thịt của mình…
Ngô Đình Miên
2.9.2011
……………………………………………………………
Sau đó, anh em đã có lần nhâm nhi café với nhau ở bờ sông Cà Ty, dưới chân Lầu Nước (château d’eau) chuyện vãn không dứt. Ngô Đình Miên nay đã lui về ở Ma Lâm cách Phan Thiết 12km, gần đập Sông Quao. Năm trước, về Phan Thiết, tôi lại gọi Miên, anh nói đang bị cơn huyết áp choáng váng không đi đâu được…
ĐHN
…………………………………………………………………………………
ĐƯỜNG LÊN DỐC ĐÁ
Ngô Đình Miên
Đôi lần, nhân những đêm có trăng, chọn thời khắc bảng lảng ánh hoàng hôn, tôi cùng mấy người bạn chí cốt lên Lầu Ông Hoàng uống rượu. Trên đoạn đường dẫn vào Tháp Chăm Phố Hài(1), trải giấy báo xuống đất, chúng tôi ngồi giữa đỉnh đồi Bà Nài. Kế bên về hướng Đông là lâu đài đổ nát của ông hoàng Ferdinand d’Orléans, Công tước De Montpensier(2), cháu nội của hoàng đế Pháp Louis Philippe I. Xa hơn một chút nữa là ngọn đồi Ngọc Lâm, nơi yên nghỉ thiên thu giữa sơn thủy hữu tình của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông(3). Nào ai biết chỗ nào đã từng là nơi tình tự của Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử. Từ độ cao trên một trăm mét so với mặt biển này, nhìn về phía Tây Nam là trung tâm thành phố đang dần lên đèn, vẫn còn thấy rõ được Tháp Nước đứng lặng lẽ gần trăm năm nay bên bờ con sông Cà Ty duyên dáng, mềm mại chảy ngang qua Phan Thiết.
Tháp Chăm Phố Hài như một “chứng nhân” của lịch sử hơn một ngàn năm, một biểu tượng kiên cường không chịu khuất phục của con người trước thiên nhiên. Đây là nơi ngụ của thần Shiva, là một trong ba ngôi tối linh của Ấn Độ giáo, vừa là thần huỷ diệt, vừa là thần sáng tạo; bởi theo quan niệm Ấn Độ giáo, huỷ diệt chỉ là hành động tất yếu để đi đến sáng tạo. Phải chăng vì vậy mà khi công chúa Pô Sah Inư gặp duyên tình oan trái vì khác tôn giáo với lãnh chúa Pô Sahaniempar theo đạo Hồi ở vùng đất Hamu Kăm (Ma Lâm ngày nay), thần Shiva giữ đúng nguyên tắc của mình, không can dự vào, mặc cho công chúa chịu đau khổ đến cuối cuộc đời. Và có lẽ cũng chính từ hủy diệt mà sinh ra sáng tạo, nên đã giúp cho công chúa toàn tâm toàn ý tập trung vào việc lớn của cộng đồng là xây dựng các công trình thủy lợi và dạy dân trong vùng làm nông nghiệp. Vào thế kỷ 15, nhân dân tôn công chúa Pô sah Inư là thần và xây đền thờ nằm sát cạnh tháp Phố Hài; tuy đã trở thành phế tích mấy trăm năm nay, nhưng hằng năm, bà con người Chăm vẫn thường xuyên về đây làm lễ thành tâm cầu an, cầu mưa: “Từ ngày thành đất, thành người/ Thành cây lúa, có thần trời Sa Nư…/ Xin Ngài về hưởng lễ cho/ Để dân cầu được ấm no, an bình” (trích bài tụng ca cúng thần Pô Sah Inư dịch ra lời Việt). Công chúa Pô Sah Inư vẫn luôn hằng sống trong tâm thức người Chăm, nhất là người Chăm ở vùng Humu Kăm của lãnh chúa Pô Sahaniempar xưa.
Không biết công tước De Monpensier có bị dẫn dắt bởi thần Shiva không, mà ông đã đến đây để dựng nên tòa lâu đài trong khung cảnh còn hiển hiện rõ những dấu tích suy tàn của quá khứ lịch sử. Để từ đó, dân gian truyền khẩu về một huyền thoại mới, sau truyền thuyết về công chúa Pô Sah Inư năm trăm năm, như là hồn cốt để định danh Lầu Ông Hoàng. Mùa đông năm đó, trên đường đi du ngoạn, ghé lại xứ Phan, công tước De Monpensier làm quen với một người con gái đẹp vùng biển có nước da rám nắng mặn mòi quyến rũ, rồi đem lòng yêu thương. Không thể đem người yêu về nước Pháp được, vì ông đã có gia đình riêng, ông bèn cho xây dựng lâu đài với danh nghĩa là nơi nghỉ mát và săn bắn, nhưng thực ra đây là “vườn địa đàng”, là nơi để ông và người yêu gặp gỡ nhau mỗi năm, sống với nhau những ngày hạnh phúc. Sau đó vài năm, người con gái Việt sinh hạ một bé gái xinh đẹp có gương mặt Á Đông giống mẹ. Sinh xong thì bị hậu sản mất. Công tước than khóc cho người yêu vắn số, khóc cho mối tình tử biệt. Một hầu cận của ông, người dân tộc Chăm, nói với ông rằng, vì công tước đến vùng đất do thần Shiva ngự trị, xây cất lâu đài mà không xin phép thần; mặt khác, lâu đài lại áng ngay cửa quay về hướng Đông của Tháp, nên Thần đã sử dụng quyền năng quở phạt công tước phải chịu mất đi một phần trái tim của mình, nhưng bù lại, đã trao cho ông một sinh linh mới mẻ (sự thể hiện quyền năng hủy diệt và sáng tạo của thần Shiva chăng?). Nghe theo lời người hầu, trước khi đem con gái về Pháp nuôi dưỡng, công tước mang lễ vật đến cầu xin thần Shiva phù hộ cho giọt máu duy nhất của mối tình Pháp – Việt được lớn lên trưởng thành. Ông giao quyền quản lí lâu đài cho một người bạn và vì không muốn khơi lại nỗi đau đớn cũ, ông thề vĩnh viễn không quay trở lại Việt Nam, trở lại Đồi Bà Nài, nơi chôn chặt mối duyên tình ngắn ngủi của ông. Nghe nói, sau này, người con gái của công tước có quay lại, tìm về đồi Bà Nài, đứng khóc hồi lâu bên lâu đài đổ nát rồi trở về Pháp. Từ đó, không ai nghe tin tức gì về họ nữa. Người đời sau không cần tìm hiểu câu chuyện tình kia là có thật hay không, mà luôn tin nó như tin vào huyền thoại; những huyền thoại đẹp đã hình thành nên chính tại nơi này, như chuyện tình tan vỡ của công chúa Pô Sha Inư và lãnh chúa Pô Sahaniempar, như mối tình lãng mạn “chôn hận nghìn thu” của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm… cùng với biết bao chuyện tình ngang trái nữa đã từng ghi dấu vào hư không nơi đây. Không hiểu sao, tôi luôn có một cảm nhận đặc biệt; đó là tất cả hồn vía của những người trong các chuyện tình đẹp đớn đau kia đã làm cho những dây ti- gôn mọc lên rồi dần phủ đầy những ngọn đồi chung quanh lâu đài đổ nát, lớp lớp nở hoa thành hình triệu triệu trái tim hồng tan vỡ. Nhà thơ T.T.KH đã từng phát hiện ra sắc hoa ti gôn này:
Bảo rằng: “hoa giống như tim vỡ
Em sợ tình ta cũng vỡ thôi”
(…)
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng…
(Hai sắc hoa ti gôn- T.T.KH)
Ngày nay, cả khu vực xung quanh lâu đài được mọi người gọi tên chung là Lầu Ông Hoàng. Chỉ tiếc rằng, ngành quản lí văn hóa và du lịch của địa phương không (có thể là không biết hoặc không muốn) có chỉ dẫn cụ thể nên cả người địa phương lẫn khách du lịch, phóng viên các đài truyền hình (cả trung ương và địa phương), các báo viết trong nước và các trang mạng đều lầm tưởng khu vực đồn bốt với cụm lô cốt của Pháp và chế độ cũ để lại, cách Tháp Chăm về hướng Nam khoảng một trăm mét, là lâu đài của công tước De Monpensier. Vì vậy, hình ảnh lâu đài được đưa lên đài truyền hình, trên báo mạng và báo in là một cụm lô cốt có tháp canh khá cao xấu xí với nhiều lổ châu mai và lổ chổ vết đạn. Thực ra, vị trí chính thức của lâu đài nằm cách Tháp Chăm khoảng sáu trăm mét về hướng Đông, gần hơn với mộ cụ Nguyễn Thông dưới chân núi Cố (Ngọc Sơn). Ngày còn nhỏ, tôi và các bạn cùng lớp thường hay đi chơi nơi này, nên còn nhớ khá rõ. Cách nay hai mươi năm, tôi có đưa một người bạn ở xa đến đây, thấy phế tích lâu đài đã bị cây bụi gai và dây hoa ti- gôn bao phủ. Năm nay, tôi có trở lại với mục đích chụp những tấm hình mới nhất về phế tích lâu đài để làm tư liệu (nếu chậm trễ thì phế tích lâu đài sẽ hoàn toàn biến mất), thấy khu vực lâu đài không còn như trước nữa. Người dân địa phương đã chiếm hết khu vực lâu đài để làm nhà ở. Trong đó, có hai ngôi nhà nhỏ được xây ngay giữa nền lâu đài. Chủ của một trong hai ngôi nhà trên là lao động nghề biển còn trẻ, lấy vợ sinh con, ba mẹ cho ra riêng, nhưng không có đất ở nên đã lên đây cất nhà. Tôi nói với người chủ nhà đó rằng, ông chủ lâu đài sắp về đòi lại nền nhà; rồi giả bộ hỏi anh ta: căn nhà lầu của Ông Hoàng nằm ở đâu? Chủ nhà chỉ về hướng Tây đúng vị trí tháp canh của cụm lô cốt, nói đó là Lầu Ông Hoàng. Anh ta không hề biết rằng mình đang ở ngay chính giữa nền một lâu đài đã đi vào huyền thoại… Tại sao lại có thể nhầm lẫn về một sự thật hiển nhiên trước mắt như vậy? Và quá trình diễn ra sự nhầm lẫn này là vô tình hay có sự cố ý dẫn dắt của một ý chí nào đó? (…)
Sau 1945, lâu đài bị phá hủy. Hệ quả này không có gì phải bàn, bởi vì công tước De Monpensier là người Pháp, thực dân Pháp, tất nhiên là kẻ thù của nhân dân. Từ sau 1975, mọi người lo cho cái ăn còn chưa xong, hơi đâu mà đi tìm di tích của một thời. Vậy là thời gian vô tình dần làm hoang phế toàn bộ khu vực Lầu Ông Hoàng trong kí ức của mọi người. Đến khi con người dư ăn, dư mặc, nhu cầu hưởng thụ về văn hóa đòi hỏi phải được đáp ứng ngày càng cao hơn, nhiều hơn và cấp bách hơn. Nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí để trùng tu di tích lịch sử – văn hóa kết hợp với khai thác du lịch. Di tích được trùng tu đầu tiên ở khu vực Lầu Ông Hoàng là Tháp Chăm Phố Hài. Du khách khắp nơi nghe tiếng Lầu Ông Hoàng đến đây chỉ thấy Tháp Chăm, bèn hỏi Lầu Ông Hoàng ở đâu? Không có câu trả lời cụ thể chính xác. Cách Tháp Chăm trong vòng một cây số còn một số nền móng của các công trình kiến trúc tương đối lớn được xây dựng từ những thập niên đầu thế kỉ XX, bèn chọn ngay cụm lô cốt với hệ thống hầm ngầm liên hoàn kiên cố có tháp canh khá cao chỉ cách Tháp Pô Sah Inư về phía Nam một trăm mét kia để giới thiệu đây là di tích Lầu Ông Hoàng. Nhưng sau nhiều lần nói sai, số người tin nhiều hơn, rồi có vài bài báo cũng nói y chang như vậy, rồi đài truyền hình quay hình lô cốt minh họa thêm. Đến lúc này thì câu nói lấp lửng trước kia đã trở thành lời tuyên bố chắc nịch với ngón tay trỏ chỉ ngay tháp canh lô cốt: “Đây chính là… Lầu Ông Hoàng!”. Kể từ đó, hầu như không còn ai nghi ngờ gì về tính trung thực của địa chỉ du lịch đó nữa. Nếu có bạn nào đó chưa tin hẵn, thử vào mạng, sử dụng công cụ tìm kiếm Google, gõ “Lầu Ông Hoàng” rồi enter, bạn sẽ không bao giờ có thể thấy hình ảnh một Lầu Ông Hoàng nào khác ngoài cái tháp canh kia cả. Tôi đã thấy Đài trên truyền hình VTV, trong một chương trình “Mỗi tháng một chuyến đi”, nhằm quảng bá về những nét đẹp thiên nhiên, văn hóa của Việt Nam, trên màn hình ti vi chiếu rõ hình ảnh cụm lô cốt với tháp canh cùng giọng nói của cô thuyết minh, người Phan Thiết: “đây là Lầu Ông Hoàng”. Nếu ai đã từng đến thăm cái nơi Lầu Ông Hoàng giả kia, sẽ rất dễ bị thuyết phục, vì bờ tường đồn bốt của Tây và sau này là Mỹ, xây rất dày và chắc chắn, cùng với hệ thống hầm ngầm thông nhau tương tự như hệ thống hồ chứa nước nằm dưới nền lâu đài (với mục đích điều hòa nhiệt độ và chứa nước dùng quanh năm) mà các tài liệu mô tả về Lầu Ông Hoàng thật có đề cập đến… Hôm vừa rồi, đến chụp ảnh phế tích Lầu Ông Hoàng, khi ghé lại thăm Tháp Phố Hài, tôi có hỏi cô gái ngồi bán vé tham quan, vị trí Lầu Ông Hoàng ở đâu? Cô gái vô tư chỉ thẳng tháp canh với dáng vẻ rất đinh ninh…
Vì vậy, nếu ai đó có sự quan tâm đến sự thật trên đây, thì việc cần làm ngay là lên tiếng đính chính lại cho đúng để “trả lại tên cho em”. Lầu Ông Hoàng là Lầu Ông Hoàng. Tháp canh lô cốt là tháp canh lô cốt (chính quyền địa phương vừa cho dựng tấm bia ghi lại chiến tích trận tập kích vào đồn Tây tại đây của bộ đội Việt Minh vào năm 1947). Nhưng ai sẽ làm và làm việc này đạt được kết quả? Bài viết này của tôi có thể không đủ sức làm thay đổi được gì; nhưng dù sao nó cũng là một gợi ý để cho những người trung thực, có lòng yêu mến huyền thoại Lầu Ông Hoàng sẽ tiếp tục tìm hiểu một cách khách quan nhằm hoàn thành việc “của César hãy trả lại cho César”…
Những ngọn đồi đẹp chung quanh chỗ nhóm lãng tử chúng tôi ngồi uống rượu dưới trăng này, giống như một trang sách mở của cuộc sống đang vận động theo dòng thời gian, đã ghi chép lại những gì mà con người qua bao thời đại để lại bằng dấu vết vật chất hay bằng những câu chuyện đã trở thành huyền thoại trong trí nhớ của cộng đồng. Chung quanh Tháp Chăm Phố Hài, nơi thần Shiva, vị thần chủ của Ấn Độ giáo, ngụ trong ngôi tháp hơn một ngàn năm tuổi kia, đã và đang triển khai sức mạnh hủy diệt đồng thời với sáng tạo ở trần gian, thể hiện qua những chứng tích hiển hiện nơi đây. Đó là ngôi đền của công chúa Chăm không còn dấu vết trên mặt đất nằm kề bên. Đó là lâu đài đã bị hủy hoại hoàn toàn của ông hoàng người Pháp. Đó là những lô cốt còn sót lại của một thời chiến tranh giết chóc cùng với những âm hồn binh lính chưa tan của cả các bên chiến tuyến Việt, Pháp, Mỹ, Chăm. Có hương hồn cụ Nguyễn Thông – quan lại triều Nguyễn, nhà thơ yêu nước, như còn hiển linh đâu đây dưới chân núi Cố. Còn có cả một “thành phố của cõi vĩnh hằng” mênh mông – nghĩa trang thành phố, nơi yên nghỉ của trăm ngàn người đủ giai tầng, tôn giáo, lứa tuổi, ngành nghề trong xã hội… Thêm vào đó là huyền thoại đẹp về những mối tình, dù đó là tình yêu ngang trái… Đôi lúc, tôi lẩn thẩn nghĩ, Lầu Ông Hoàng như là nơi linh khí hội tụ, nơi tập hợp những yếu tố cần và đủ của một xã hội hợp chủng hòa bình của thế giới bên kia với: vương quyền, tôn giáo, huyền thoại, triều thần, quan lại, tướng lĩnh, quân lính, nhà thơ… và ngàn vạn linh hồn thuộc các giai tầng của xã hội.
Chính vì vậy, những ai đến đây, nếu có chung mối đồng cảm, sự quan hoài về lẽ nhân sinh, sẽ dễ dàng nhận ra được sự tập trung nhiều chứng tích chồng lớp lên nhau với mật độ cao, như muốn hiển lộ chứng minh cho sự biến dịch vô thường của trời đất, của kiếp người, nhằm làm sáng tỏ chân lí tối hậu của cuộc sống như là sự nối tiếp nhau của cái sinh ra và mất đi, những cuộc hạnh ngộ rồi chia li, những sung sướng rồi khổ đau, những hạnh phúc rồi tuyệt vọng… Và dù rằng khi còn sống, con người có tranh đoạt, chém giết lẫn nhau vì những động cơ, lí do bất kì nào chăng nữa; thì cuối cùng cũng phải trở về bên nhau, nằm bên nhau, “sống” hòa với cát bụi để cùng xanh một màu cỏ với mùa xuân… Tiếp nhận được điều đó sẽ giúp chúng ta thấy yêu hơn cuộc sống này, biết sống và sống tốt đẹp hơn.
Có lẽ cụ Nguyễn Thông đã sớm nhận ra điều huyền diệu đó nên đã chọn nơi đây làm nơi trở về, tự nguyện làm một trang trong quyển sách thiên nhiên kì bí nhưng luôn sáng tỏ kia. Vì vậy, cụ đã cho xây trước ngôi mộ và tự viết sẵn lời văn sẽ khắc trên bia mộ của chính mình: “Năm Đinh Sửu (tức năm 1877- người viết), tôi làm Bố chánh Bình Thuận thường xuống các huyện, nhân đi qua thôn Ngọc Lâm, phía Đông phủ Hàm Thuận, lên cao nhìn quanh, thấy sông núi có tình, tôi lấy làm thích, đứng nhìn lâu không chán (…). Vì thế tôi bảo học trò Nguyễn Văn Đường nhặt đá núi, thuê thợ xây đắp (…). Mộ xây xong (…), ở trong bỏ trống để đợi khi dùng đến. Sau lúc tôi trăm tuổi, chẳng biết hồn phách còn nhớ đến núi này nữa hay không, hay là rồi cũng tiêu tán hết? Điều ấy không thể biết được. Nhưng hoa rừng trăng bể, buồm ngư phủ, nhà tiều phu vẻ lạ khói mây đổi thay, hình thù giao thẫn chập chờn, thì sau này vẫn có thể cống hiến một cuộc thích mắt cho những nhà thơ tới đây viếng cảnh vậy”.
Với cảm nhận của một nhà thơ, nhà giáo dục, nhà kinh tế, Nguyễn Thông đã tiên tri đúng những việc sẽ diễn ra sau này. Đó là đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ đã gởi lại một phần tâm hồn của mình ở nơi đây và hiện nay, toàn bộ khu vực từ đồi Bà Nài kéo dài qua khỏi Ngọc Sơn, hướng về phía biển đã trở thành đất vàng cho du lịch trong nước và quốc tế…
Có những đêm, chúng tôi ngồi uống rượu tới khuya, dưới ánh trăng hạ tuần mờ ảo, trong cơn ngà ngà say; nhìn lại phía sau lưng mình là nghĩa trang Phan Thiết, nơi tiếp nhận sự hủy diệt cuộc sống để làm cho cuộc sống mới tiếp tục sinh sôi và phát triển, như nguyên lý quyền năng của thần Shiva, những ngôi mộ gần con đường du lịch Phan Thiết – Mũi Né phản chiếu ánh sáng từ những ngọn đèn đường cao áp làm rực lên màu của cõi bình yên lặng lẽ. Tôi tưởng tượng ra hình ảnh chàng thi sĩ trẻ tuổi Hàn Mặc Tử, tay trong tay cùng nàng thơ Mộng Cầm lãng mạn đi những bước ngập ngừng vào giữa những hàng mộ đang sáng lên kia rồi xa khuất dần vào bóng đêm của thế giới vĩnh hằng. Có lẽ tôi cũng muốn “điên” như Tử chăng? Bỗng nghe bạn tôi hát vang lên giữa mênh mông đất trời để tưởng nhớ chàng thi sĩ tài hoa, si tình, bạc mệnh: “Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân…”.
Phan Thiết xưa đã từng là nơi sản sinh những nhạc sĩ tài hoa có bài hát để đời, như: Minh Quốc (bài “Tình đồng chí”), Nguyễn Hữu Thiết (bài “Gởi người tôi yêu”), như Dzũng Chinh (bài “Những đồi hoa sim”, “Tha La xóm đạo”)… và Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường với những nhạc phẩm nổi tiếng một thời và đến nay vẫn đang được các ca sĩ hát thu vào đĩa CD, DVD, như: Khi người yêu tôi khóc, Lâu đài tình ái, Hoa biển, Chiếc áo bà ba, Hàn Mặc Tử.v.v…
Cách nay mấy năm, ngành chức năng quản lí về văn hóa và du lịch của tỉnh thực hiện thu âm đĩa CD tuyển chọn những bài hát hay về Bình Thuận, nhằm mục đích quảng bá văn hóa Bình Thuận đến với mọi người trong cả nước, trong đó có mục tiêu phát triển du lịch của tỉnh. Rất tiếc là những người tuyển chọn đã không chọn một bài bài hát gắn với Bình Thuận từ lâu mà cho đến nay (và có lẽ cả mai sau nữa- tôi nghĩ như vậy) hầu như ai cũng đã ít nhất một lần nghe qua, vẫn còn nhớ và có thể còn hát được (nhất là hát karaoke, hát trong các cuộc liên hoan, giao lưu văn nghệ, kể cả trong các bữa nhậu…). Đó chính là ca khúc lừng danh “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh: “Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ông Hoàng đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua. Ánh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng. Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương. Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người. Tìm về nửa đêm buồn…”. Nhiều người khi hát hoặc nhắc đến bài hát này, đôi lúc quên tựa, bèn gọi đó là bài “Đường lên dốc đá”. Chắc tác giả bài hát trên cũng không cần có tên mình trong tuyển tập. Cần hơn có lẽ chính là những người bình thường, nhưng yêu mến quê hương Phan Thiết, Bình Thuận. Đối với ngành du lịch, ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, không vì vậy mà bị thiệt thòi về doanh thu. Nhưng, nếu bài hát đó càng được hát lên, vang xa chừng nào thì cụm di tích được xem là một trong những địa chỉ du lịch điểm nhấn của Bình Thuận: Lầu Ông Hoàng và Tháp Chăm Phố Hài càng thêm nổi tiếng, càng được nhiều người biết đến, cũng đồng nghĩa với việc thu hút thêm nhiều khách du lịch đến với Bình Thuận. ________________________
(1): Tháp Phố Hài là một tháp Chăm còn sót lại của Vương quốc Chămpa xưa, nằm trên đồi Bà Nài, thuộc phường Phú Hài, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 7 km về phía Đông Bắc. Nhóm tháp này có phong cách kiến trúc Hòa Lai – một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Chămpa. Tuy chỉ có kích thước vừa, nhưng nó chắt lọc được những tinh hoa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí của người Chăm xưa tạo nên vẻ uy nghiêm và kỳ bí. Tháp Phố Hài còn tương đối nguyên vẹn. Khoảng cuối thế kỷ thứ 8 đầu thế kỷ thứ 9, người Chăm xây dựng tháp này với mục đích để thờ vị thần Shiva – là một trong những vị thần Ấn Độ giáo được sùng bái và tôn kính. Thế kỷ 15, xây dựng thêm một số đền thờ với kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Pô Sah Inư. Từ năm 1990 đến năm 2000, di tích được chính quyền tỉnh Bình Thuận tu bổ, tôn tạo. Năm 1991, di tích này được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Tháng giêng âm lịch hàng năm, nơi đền Pô Sha Inư, người Chăm làm lễ cầu mưa, cầu an..
(2): Cái tên Ferdinand d’Orléans, Công tước De Montpensier, cháu nội hoàng đế Pháp chính là nguồn gốc của địa danh Lầu Ông Hoàng ngày nay. Vào năm 1910, Công tước De Montpensier qua Việt Nam du lịch và săn bắn. Nhìn thấy phong cảnh tại những ngọn đồi phía Đông Phan Thiết rất đẹp, đứng ở đây có thể phóng tầm mắt về phía Nam chừng 1 km, thấy rõ những ngọn sóng biển lao xao. Ông đã mua lại từ nhà cầm quyền Pháp ở Bình Thuận (công sứ Garnier) quả đồi Bà Nài, chọn mảnh đất rộng ở độ cao cách mặt biển 107m, gần Tháp Chăm Phố Hài về hướng Tây chừng 600 mét để xây dựng lâu đài, làm nơi nghỉ ngơi trong các kỳ săn bắn và du lịch sau này. Gần lâu đài còn có các nhà hàng, khách sạn phục vụ cho giới thượng lưu. Toàn bộ năm ngọn đồi quanh biệt thư của Công tước De Montpensier, sau đó được gọi chung là Lầu Ông Hoàng. Đây là nơi tạo nên huyền thoại về mối tình thơ lãng mạn Mộng Cầm- Hàn Mặc Tử, đã làm tốn biết bao giấy mực của người đời sau. Ngày 21-2-1911 biệt thư được xây dựng, nền móng được xây bằng đá xanh, cao 2m, với 15 bậc cấp lên xuống, sàn nhà lót gạch bông, phía dưới nền là hệ thống những bể chứa nước mưa liên hoàn nhau, chung quanh đúc bê tông, có máy bơm dẫn nước lên một lầu nước cao phiá sau, đủ dùng quanh năm suốt tháng. Nóc nhà lợp bằng đá phiến xanh được chở từ Pháp sang, vừa đẹp lại không sợ bị gió biển làm tróc mái. Biệt thự có diện tích 536m2 , gồm mấy chục phòng dành cho khách, phòng thết tiệc, phòng làm việc, phòng cho gia nhân… Phòng nọ tiếp với phòng kia qua hành lang có mái che. Bên trong các phòng kể cả tiền đình được trang trí sang trọng, tiện nghi. Giường ngủ, bàn ghế, tủ đều đóng bằng loại gỗ quý. Có đường trải đá từ dưới chân đồi chạy quanh co, lối vào trước sảnh đường có trồng cây lấy bóng mát. Bên ngoài tường rào được thả dây leo ăng- ti- gôn nở hoa màu hồng rực rỡ. Ngoài ra còn có nhà máy phát điện riêng, nhà để xe, chuồng ngựa, nhà bếp, nhà tắm, bể chứa nước. Sau ngày khánh thành, chủ nhân ông Ferdinand D’orléans chính thức đặt tên ngôi biệt thự của mình là “NID D’AIGLE” tức Tổ Chim Ưng.
(3): Nguyễn Thông (1827- 1884), tự: Hy Phần, hiệu: Kỳ Xuyên, biệt hiệu: Độn Am; làm quan triều Nguyễn, nhà thơ, nhà văn yêu nước ở nửa đầu thế kỷ 19.
Năm 1867, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác, nên đã tị địa ra tại Bình Thuận. Cùng năm này, ông được bổ làm án sát Khánh Hòa, bắt đầu triển khai kế hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu. Năm 1868, bị bệnh xin nghỉ về Nam. 1869, bổ làm Bố Chánh Quảng Ngãi. Năm 1871, bị Bộ Hình quy tội kết án sai, nhưng được minh oan, chỉ bổ về làm ở Sở Kiểm biện, lầu tàng thư. Năm 1873, xin về tạm nghỉ ở Bình Thuận, lập trang trại ở xã Vĩnh Hòa (gần núi Tà Zôn). Năm 1874, trở lại làm việc đến năm 1876, thăng hàm Hàn lâm trước tác, lãnh chức tư nghiệp quốc tử giám, khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, biên soạn Việt sử cương giám khảo lược. Năm 1877, sung chức Dinh diền sứ, dâng sớ xin khẩn hoang lập đồn điền vùng thượng du Bình Thuận. Ông được bổ làm bố chánh Bình Thuận. Năm 1878, bệnh tái phát, về trang trại Vĩnh Hòa dưỡng bệnh. Năm 1880, xây dựng Ngọa Du Sào để đọc sách, làm thơ. Năm 1881 được bổ làm Phó sứ điển nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận. Tháng 4 năm 1884, Ngọa Du Sào văn tập của ông ra đời. Tháng 6 cùng năm đó, ông viết di chúc… Nguyễn Thông mất ngày 7 tháng 7 năm 1884 (tức ngày 27 tháng 8 năm Giáp Thân), thọ 57 tuổi. Mộ phần của ông đặt ở đồi Ngọc Lâm, sát chân núi Ngọc Sơn, đối diện với Tháp Chăm Phố Hài, Lầu ông Hoàng thuộc phường Phú Hài, trên con đường từ Phan Thiết đi Mũi Né.
(NĐM)
……………………………………………………………………………………….
(Ngô Đình Miên gởi Đỗ Hồng Ngọc ngày 01.7.2016,
Đường lên dốc đá, trích từ tập Bước lên hoa đỏ, bút ký của Ngô Đình Miên, xuất bản 2011).
June 25, 2016
Để Lại Cho Đỗ Hồng Ngọc Một Bài Thơ
Để Lại Cho Đỗ Hồng Ngọc Một Bài Thơ
Trần Vấn Lệ
Trần Vấn Lệ và Đỗ Hồng Ngọc, gặp lại nhau sau 62 năm…
Bạn mình! Gặp lại bạn xưa
Giụi con mắt mãi, không ngờ… bạn ta!
Lâu ghê trở lại quê nhà
Giụi con mắt mãi, bạn già, mình sao?
Ba mươi năm cửa ngõ vào
Tưởng đâu cơn gió thổi ào, tự nhiên
Mặt mừng, tay bắt muốn điên:
Ba mươi năm nhỉ, bạn hiền… vào đi!
Mời vào… và chẳng nói chi
Nhìn hai mắt bạn, có gì thốn ta?
Mời vào, vào nhé, đừng ra
Đừng như cơn mộng thoáng qua một lần!
Tới đây, bạn ạ, dừng chân
Cầm tay cho chặt mà mừng gặp nhau
Tới đây, đời dẫu là ao
Nhưng hoa sen nở, xin chào cố nhân!
Xin chào, chào một mùa Xuân
Dẫu đang là Hạ, mình cần gì hơn?
Xin chào, tất cả dễ thương
Ly cà phê đắng thêm đường; cứ thêm!
Bạn ngày xưa, bước đã êm
Bạn bây giờ vẫn bước mềm thướt tha
Thời gian… hai đứa đều già
Nhưng kìa, non nước… mãi là nước non!
Bạn về… không thể ở luôn
Nghĩ câu sắp giã từ, buồn, trời ơi!
Núi sông ai khiến đổi dời?
Cảm ơn tình nghĩa xa xôi vẫn đầy…
Trần Vấn Lệ
Trao đổi với sinh viên Y5 về Y đức
Đỗ Hồng Ngọc
Để chuẩn bị cho buổi Hội thảo về Y đức dành cho sinh viên y khoa năm thứ 5 (Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp.HCM), Bộ môn Y đức- Khoa học hành vi đã có một buổi trao đổi “mở” với một số sinh viên Y5 ở một quán cà-phê bên cạnh hồ nước đầy hoa phượng đỏ giữa cơn mưa chiều nặng hạt…
Các em thẳng thắn phát biểu, nêu những băn khoăn, thắc mắc, âu lo…, và cả những điều mắt thấy tai nghe trong quá trình học tập nhiều năm dưới mái trường y để gợi ý đề mục thảo luận cho Hội thảo sắp tới.
Cô Ngọc Dung, hiệu trưởng, bận không đến được, giao thầy Đỗ Hồng Ngọc, cố vấn, “chủ trì” cùng thầy Trương Trọng Hoàng, Phó trưởng Bô môn và các bác sĩ trong Bộ môn Lê Kiều Chinh, Mai Ngọc Thanh Ngân.
Tôi ghi lại đây đôi điều để ngẫm nghĩ.
SV1: Y đức và Đạo đức nói chung có khác gì nhau? Muốn có y đức thì phải có đạo đức. Mà muốn có đạo đức thì phải được học từ trong gia đình.
Sắp ra trường cảm thấy sợ, bối rối. Tương lai thế nào đây? Chỗ làm? Đời sống (lương hướng)? Rồi phải tiếp tục học thế nào sau khi ra trường để hoàn thiện?
SV2: Y đức cần dạy cho SV giải quyết những tình huống cụ thể, sao cho có tình có lý. Nên không nên. Làm hay không làm?
Như có Bv buộc bác sĩ phải nhắc bệnh nhân đóng viện phí. Bệnh nhân không có tiền đóng thì làm sao? Có bệnh nhân được giúp thì đem đi đánh số đề…
SV3: Băn khoăn lắm. Sắp ra trường rồi mà nhiều bạn có vẻ không còn thích ngành y. Tiếp tục học lên hay nên đi làm ngay.Thấy sợ. Sợ phải chịu trách nhiệm. Trong khi mình còn yếu kém quá, gần như chưa biết gì!
SV4: Dù thấy có điều sai y đức cũng không dám có ý kiến. Chẳng thay đổi được gì. Lại bị ghét bỏ. Làm đúng thì như tự hại mình. Thà dịch vụ cho ra dịch vụ!
SV5: Bs bị người nhà bệnh nhân bắt, hăm dọa, phải đưa tiền. Đưa tiền xong, họ nói vì có lỗi nên mới chịu đền tiền, sinh kiện cáo. Bác sĩ đành bỏ việc.
Ai sẽ bảo vệ bác sĩ? Báo đài, người dân mặc tình muốn nói gì làm gì cũng được. Phải làm sao đây? Nếu thấy đồng nghiệp thiếu y đức, lên tiếng cách nào?
SV6: Có muôn vàn tình huống. Không thể dựa trên từng tình huống. Phải làm sao cho SV vững tâm, được bảo vệ, có tấm gương tốt, có môi trường tốt.
Phải chăng có quyền lợi thì có y đức? hay có y đức thì có quyền lợi?
SV7: Lương y không bằng lương tháng. Ngành y có vẻ như là của con nhà giàu. Ra trường vẫn phải sống bám cha mẹ.
Khi bác sĩ bị tấn công, có tổ chức nào bảo vệ bác sĩ không?
Làm sao để luôn nâng cao kiến thức?
SV8: Y đức chủ yếu là do môi trường. Ai làm ngành y chắc chắn cũng có y đức. Hoàn cảnh đã làm cho xói mòn đi mà thôi.
Sau đó là phần trình bày thêm của các thầy.
Thầy Đỗ Hồng Ngọc cám ơn các em đã đến và đã thẳng thắn chia sẻ. Ai khi bước vào đời cũng có những hoang mang lo lắng như vậy. Nghề y là phải học suốt đời. Sáu năm ở trường chi dạy nền tảng cơ bản để làm hành trang ban đầu. Biết sợ trách nhiệm là tốt lắm. Biết lo lắng để tìm cách học thêm mãi là tốt lắm. Phải tự học là chính và học với thầy, với bạn, với đàn anh. Học trên lâm sàng, trên bệnh nhân, đối chiếu với lý thuyết. Học y khoa là “học nghề” (apprentissage), cầm tay chỉ việc. Môi trường là quyết định. Thầy cô, đàn anh-chị, những người đi trước luôn là tấm gương. Ngoài cái chuyên môn kỹ thuật, phải học nghệ thuật ứng xử, giao tiếp. Giao tiếp với bệnh nhân, với người nhà bệnh nhân, với bạn đồng nghiệp… Ngoài ra bác sĩ cũng phải biết “sống hạnh phúc”, tránh stress, trầm cảm, cuộc sống không quân bình. Bác sĩ hạnh phúc thì sẽ làm cho bệnh nhân hạnh phúc và làm cho bệnh nhân hạnh phúc thì bác sĩ sẽ hạnh phúc. Hạnh phúc cũng phải học. Em nào yêu văn nghệ, thể thao, cứ tiếp tục, đừng nghĩ cứ làm bác sĩ thì phải… bỏ hết.
Hiện có nhiều điều chưa hợp lý đối với nghề y như học bác sĩ 6 năm, ra trường hưởng lương như cử nhân 4 năm! Lương quá kém, không đủ sống, không toàn tâm toàn lực được với công việc vì còn gánh gia đình.
Ngày xưa, có Y sĩ đoàn giám sát, theo dõi, uốn nắn và bảo vệ người thầy thuốc. Xưa, năm thứ 5, thầy phải học kỹ Nghĩa vụ luận y khoa, những quy định đối với bệnh nhân, với cộng đồng, với đồng nghiệp. Lúc thầy mở phòng mạch, thầy phải đến chào các bậc đàn anh đã có phòng mạch trước đó ở trong vùng. Nghề y không được quảng cáo quá lố, không viết báo với bút hiệu như làm thơ vì phải chịu trách nhiệm chuyên môn của mình…
Thầy thuốc không nên làm cái việc nhắc bệnh nhân đóng viện phí! Bệnh nhân sẽ nhìn bác sĩ với con mắt khác ngay. Chuyện tiền bạc để bộ phận khác lo. Thời của thầy, ngoài các nhân viên y tế mặc blouse trắng, còn có nhân viên công tác xã hội trong bệnh viện mặc blouse hồng, có mấy bà sơ, ni cô… làm công tác xã hội rất có nghề, giúp đỡ bệnh nhân, can thiệp khi có sự xung đột, nhờ đó giải quyết được nhiều chuyện không hay…
Thầy Trương Trọng Hoàng nói sắp tới Bộ Y tế triển khai Thông tư 43, sẽ có mạng lưới nhân viên công tác xã hôi ở các bệnh viện.
Y đức dần có nhiều điểm đã được luật pháp hóa. Hiện cũng đã có những hướng dẫn cụ thể của BYT. Bác sĩ hành nghề phải được bảo vệ. Bệnh nhân lẫn nhân viên y tế đều có thể gọi số điện thoại 19009095 để phản ánh tình hình, chứ không nhân viên y tế sợ hãi, bỏ việc hết!…
Người bác sĩ phải chuyên nghiệp. Nếu không chuyên nghiệp khó được sử dụng, nhất là khi có hệ thống y tế tư, bệnh viện tư, họ chọn người chuyên nghiệp với lương xứng đáng.
Mọi người ra về. Hẹn gặp nhau ở Hội thảo.
(Đỗ Hồng Ngọc ghi, 20-6-2016)
June 19, 2016
Đi thăm nhà thơ Phạm Ngọc Lư (NQC)
Đi thăm nhà thơ Phạm Ngọc Lư
Nguyễn Quang Chơn
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư sinh 1946 tại Huế, tốt nghiệp ban Hán văn, đại học văn khoa Huế, dạy học tại Tuy Hòa. Ông làm thơ hay và nổi tiếng từ trước 1975. Bài thơ nhiều người biết nhất là “Biên cương hành ” ông viết năm 1972, đăng đầu tiên trên Văn. Giọng thơ hào sảng, bi hùng, gần gần với Tây tiến của Quang Dũng nên rất được nhiều bạn đọc, thanh niên, lính tráng ưa thích… Sau 1975, anh về ngụ cư Đà Nẵng. Anh vẫn làm nhiều bài thơ rất hay về thân phận, bè bạn, quê hương như “Đề thơ trước mộ Thanh Xuân”, “Quá giang tự vịnh”, “Ngập ngừng trông núi”…
Sau tết Bính thân 2016, anh phát hiện mình đau nhức trong xương và có một khối u nơi cổ. Khi mổ khối u và sinh thiết. Bệnh viện phát hiện anh bị cancer phổi. Vậy là anh phải vào bệnh viện ung bướu Đà Nẵng chữa trị, rồi hóa trị….
Tôi yêu qúy thơ anh mà chưa gặp anh, và cũng không ngờ rằng anh đang sống Đà Nẵng. Gần đây nhận email Trần Thị Nguyệt Mai, nói anh PNL bệnh nặng, đang điều trị ĐN, báo để anh đến thăm. Lúc đó mình đang bận việc nơi xa…
Hôm nay chủ nhật. Đà Nẵng trời còn nắng dữ, trốn mình trong phòng vẽ. Chợt nghĩ, không biết lát sẽ tìm thăm PNL từ đâu?!!!… Đang quệt những vệt màu thì nghe phone. “Sư thầy” Đỗ Hồng Ngọc gọi từ SG.
“Alo. Anh Ngọc khoẻ không? Khoẻ. Đang làm gì đó? Dạ vẽ. Dữ hỉ. Kỳ này hứng chi mà chuyển sang tĩnh vật, vẽ nhiều hoa vậy? Dạ, em không có hoa thật nên vẽ hoa tưởng. Anh lúc nào cũng nhiều hoa bên mình nên đâu cần vẽ. Hì hì, mình đang có chuyện muốn nói với Chơn. Phải chuyện anh PNL bị bệnh không? Ủa. Sao tài vậy, đang định báo Chơn đến thăm xem bệnh tình ra sao. Nghe nặng, mình lo? Dạ, em cũng đang định chiều nay đi thăm mà không biết ở bệnh viện Đa khoa hay bệnh viện Ung bướu? Mình có số nhà và số phone đây….”
Đúng là thần giao cách cảm. Đang muốn tìm đường thì có người chỉ đường ngay!
Reng, reng…. “Alo, xin lỗi phải người nhà anh PNL?” Một giọng Huế nhẹ nhàng dễ thương. “Dạ không. Anh nhầm số rồi ạ”. Thật đúng như ĐH Ngọc nói, tên Phạm Hà Giao của số phone này là con anh Lư nhưng trai hay gái mình không biết đó nghe. Cái tên PHG ni nghe cũng rất “female” giống Đỗ Hồng Ngọc lắm!..
Kiểm tra lại thì ra mình bấm nhầm 0935… thành 0930…,và rồi thì cũng gặp Giao, con trai anh, và biết số phòng, rồi đến thăm anh…
Anh Lư vẫn tinh anh lắm mặc dù đã hai lần trải qua hoá trị. Tóc vẫn còn nhiều. Đôi mắt vẫn nhìn sâu vào hồn người. Vóc dáng vẫn sư phạm… Chị Quí, vợ anh vui mừng đón khách. Bệnh viện còn mới, sạch sẽ. Anh chuyện trò hóm hỉnh, thần sắc tươi vui…
Trên đầu giường có hai cuốn Thư Quán Bản Thảo số 70, phát hành tháng 6, 2016. Anh bảo, mấy anh chị bên Mỹ sợ mình đi sớm nên in gấp để mình còn đọc, được đọc trước khi đi cũng vui lắm Chơn! Cái tình văn nghệ anh em xưa thật là đáng quí. Nay từng người lần lượt ra đi. Biết là luật tử sinh sao vẫn bùi ngùi!…
Thấy anh vui, mình mời anh xuống canteen ngồi. Anh uống sữa, mình một lon bia. Ngoài sân, những nhóm thanh niên thiện nguyện làm văn nghệ hát hò cho bệnh nhân vui…, anh lấy bút ký lên TQBT tặng mình, tay hơi run nhưng nét chữ còn đẹp lắm!
Mình bảo, anh tặng Chơn sách thì Chơn tặng lại anh dessin nhé. Rồi thì lấy bút của anh và lật trang bìa cuối ký hoạ nhanh. Anh PNL hiện ra vẫn lắng sâu, bi tráng của một “Biên Cương Hành”…
Mấy người bệnh ngồi xem trầm trồ khen giống. Rồi một anh xin một chân dung. Mình ừ nhưng không có giấy. Anh chạy vào caisser xin được một tờ giấy kẻ ô học trò. Thôi kệ. Mình vẽ, rồi thấy anh cầm bức hoạ rơm rớm nước mắt cảm ơn, nói, sẽ bảo con đóng khung, sau này treo trên bàn thờ làm kỷ niệm! Mình thấy lòng vui mà không khỏi bâng khuâng xao xuyến bồi hồi!…
Chia tay anh Phạm Ngọc Lư. Bốn giờ rồi mà chiều vẫn chưa tắt nắng. Gió phía biển thổi vào mát lạnh. Chụp cùng anh một bức kỷ niệm. Nói với anh. Buồn và vui. Ôi cuộc đời. Buồn và vui bất chợt. Nói với chị Quí, em sẽ còn lên thăm, sẽ còn chơi với anh! Nhiều lần, lâu nữa!…
NQC
Đà Nẵng, ngày của cha 19.6.16
Viết thêm của Đỗ Hồng Ngọc:
Phạm Ngọc Lư cho biết lúc đầu bệnh viện chẩn đoán anh bị ung thư đại tràng, sau thì rõ là Ung thư phổi đã di căn nhiều nơi… Mấy hôm nay sau 2 đợt hóa trị, thấy khỏe hơn nhiều. Tôi khen giọng Lư tốt. Lư bảo đúng là hôm nay khá, bảy mươi rồi anh, đi được rồi! Cái đó người ta gọi là “đáo bỉ ngạn” đó Lư ơi. Làm thêm một bài “hành” nữa đi nhe. Lư cười… ừ bỉ ngạn, đáo bỉ ngạn…
“Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không…”
Nhớ 4 năm trước, café với Lư bên bờ sông Hàn.
Anh em nói đủ thứ chuyện. Thật lâu. Không chỉ Biên cương hành mà còn Sóng vỗ, Bâng khuân Mùa Rụng…
Đỗ Hồng Ngọc và Phạm Ngọc Lư, Đà Nẵng 2012
Bây giờ hãy đọc một bài thơ “bình thường” của Lư nhé:
Hoa ổi
Ngủ quên bên chén rượu tàn
Giật mình tỉnh giấc: hai ngàn năm qua!
Bồn chồn hé cửa nhìn ra:
Trước sân cây ổi nở hoa bình thường!
Phạm Ngọc Lư
(1-.1- 2000)
(Thư Quán Bản Thảo, số 70, tháng 6-2016, chủ đề Phạm Ngọc Lư, do Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn và các bạn thực hiện)
Nhớ Quách Thoại nghe ra tiếng hát của cái bông bụp bên vệ đường mà “sụp lạy cúi đầu”.
Lại nhớ Văn Cao: “Mùa bình thường mùa xuân nay đã về”
Phải đó. “Bình thường tâm thị đạo” đó Lư ơi.
(ĐHN)
June 12, 2016
Nghỉ hè, trẻ nên làm gì?
Hội quán Các bà mẹ có buổi trao đổi về chuyện Nghỉ hè cho trẻ.
Rảnh xem vui nhé.
DHN
June 11, 2016
Làm thế nào giúp học sinh “động não” và “sáng tạo”?
Làm thế nào giúp học sinh “động não” và “sáng tạo”?
Nhận lời mời của Cô Đàm Lê Đức, Hiệu Trưởng danh dự trường THCS-THPT Đức Trí và trường Bồi Dưỡng Vă Hóa 218 Lý Tự Trọng, tôi đến làm “speaker” cho một buổi tọa đàm về đề tài Làm thế nào giúp học sinh “động não” và “sáng tạo”? tại Văn phòng nhà trường trên đường Mạc Đỉnh Chi.
Tháng trước, cũng đã có một buổi thảo luận về đề tài này rồi nên tôi chuẩn bị đến với một tâm thế khác. Tôi nghĩ mình không cần đề cập phần lý thuyết, academic như về các định nghĩa của Mumford Micheal hay Paul Torrance, những DOIT… vì chắc chắn các thầy cô đã “đầy bụng” những chuyện này rồi. Tôi nghĩ mình nên sử dụng phương pháp giáo dục chủ động tạo tham gia (participatory method) để “thay đổi không khí”, và dĩ nhiên sẽ khai thác “mặt mạnh” của mình về vấn đề sinh học nhằm góp phần tạo nền tảng, cơ sở “sinh lý” cho việc giúp học sinh “động não, sáng tạo” tốt hơn, dựa trên một châm ngôn đã củ nhưng luôn đúng: một linh hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện! Thân thể èo uột, ăn không đủ no, ngủ không đủ giấc, vật vờ với game online… thì còn động não, sáng tạo cái nỗi gì! Lâu nay với tôi, những buổi được giao lưu tiếp xúc, trao đổi, trò chuyện thế này đều là những cơ hội để học hỏi, nhất là khi được gặp “ê-kíp” thầy cô của Trường Cô Đức rất nổi tiếng dạy học rất nghiêm túc, hiệu quả cao, được tín nhiệm lớn của phụ huynh lâu nay.
ảnh: Trần Minh Thăng
Vì thế, tôi bắt đầu làm quen bằng kể vài chuyện “tào lao” để làm tan băng và sau đó, sử dụng vài trò chơi để tạo sự tham gia của các thầy cô. Dĩ nhiên những trò chơi này cũng buộc phải “động não” và có thể rút ra một “thông điệp” gì đó cho chủ đề buổi hôm nay. Những chuyện “tào lao” đó là tôi nói về những tiến bộ của y học hiện đại, thành tựu của nghiên cứu khoa học về não bộ, về bản đồ gène người, về phòng bệnh trị bệnh, cả về trí thông minh nhân tạo v.v…
Trò chơi thứ nhất là kẻ 4 đường thẳng nối 9 nút. Lời “giải” là để có được sự “sáng tạo” phải dám nghĩ vượt ra ngoài khung, ngoài cái “box” tự mình giam hãm. Trò chơi thứ hai, dẫn dắt đi từ dễ đến khó, để rồi cuối cùng khi gặp một tình huống rất dễ thì không thể giải quyết được. Lời “giải” là một khi bị định kiến che lấp thì không thể động não, không thể sáng tạo gì được nữa, cái gọi là “sở tri chướng” đó!
Rồi lần lượt đi vào từng bước dựa trên Tháp nhu cầu của Maslow, từ nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, tình cảm… đến nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu tâm linh, triển khai chi tiết về cái ăn, cái ngủ, cái vệ sinh, rèn luyện thể lực… để học sinh có được “một thân thể tráng kiện” làm cơ sở cho “một linh hồn minh mẫn”! Ta biết trẻ cần có giấc ngủ đủ thì kích thích tố tăng trưởng (GH: growth hormone) mới sản sinh; trẻ cần ăn có bữa ăn sáng đủ để không bị hạ đường huyết (hypoglycemia), và quan trọng hơn, các trường học cần có khu vệ sinh sạch đẹp như các khách sạn… mới mong trẻ “sáng tạo” được!
Tôi nói thêm về thiền học và Steve Jobs… kể những câu chuyện thiền để thấy muốn sáng tạo thì đầu óc phải thông thoáng…Nếu đầu óc đầy nhóc những kiến thức vô bổ thì thật là tai hại. Cách học nhồi nhét, những bài văn mẫu… thì rõ ràng triệt tiêu sáng tạo.
Trẻ em trí tưởng tượng rất phong phú. Một vài mảnh gỗ lắp ghép, một tờ giấy vụn, mẫu màu, hòn sỏi, đất sét…đều có thể trở thành những câu chuyện ly kỳ nếu được dẫn dắt! Sắm vai, đóng kịch… giúp học lịch sử rất tốt. Chia nhóm tranh luận (debate) sẽ là cơ hội động não tốt (có khi động cả tay chân!). Cho xem phim rồi thảo luận từng mãng…Viết, vẽ, chụp ảnh, quay phim, triễn lãm v.v… sẽ đầy động não và sáng tạo. Vấn đề là ta có thì giờ để dạy kiểu vậy không? Hồi xưa sao học thảnh thơi mà học trò vẫn ngoan vẫn giỏi?
***
Phần thảo luận rất sôi nổi. Một câu hỏi về IQ, EQ; một câu hỏi về vấn đề dinh dưỡng; về thể dục, vệ sinh… Thầy Hà Văn Thùy nói rất hay: muốn học sinh sáng tạo thì thầy phải sáng tạo, thầy phải yêu nghề, phải yêu thích môn mình dạy, phải luôn tìm tòi, tự học…
Chiều chủ nhật 05.6.2016 hôm đó có cô Đàm Lê Đức – nay đã 85 tuổi mà rất nhiệt tình, tháo vát – có các thầy Đàm Quang Việt, Hà văn Thùy, Vũ Trọng Khải, thầy Phạm Thế Hùng, cô Mai Đoan, cô Lan Hinh, thầy Trần Minh Thăng (phụ tá BGH) cùng một số các thầy cô khác của Trường Đức Trí…
Đỗ Hồng Ngọc
June 3, 2016
Thư gởi bạn xa xôi (Đà-lạt 3)
Thư gởi bạn xa xôi (Đà-lạt 3),
Sáng nào cũng cafe với Lữ Quỳnh thật sớm. Khá nhiều tiệm cafe dọc theo con đường dốc lên khu Hòa Bình. Có khi bọn mình ra ngồi rồi mà chưa có người bán. Đâu dễ có dịp tốt để chuyện trò như vậy phải không?. Nhớ xưa có lần mình ra ngồi mà chưa có chủ quán đến, có mấy bạn trẻ từ Saigon lên sớm kéo ghế ngồi rồi quắt tay kêu mình đến đặt hàng, người cafe sữa, người cafe đá, người pạt-xỉu, người yaourt… Mình lẳng lặng đứng nghe. Xong bảo các bạn cứ tự tiện xuống bếp pha chế theo ý mình đi nhé… Họ nhìn mình bật cười, xin lỗi, thì ra…
Lữ Quỳnh kể chuyện xưa chuyện nay, cả những chuyện lâu nay còn giấu… Dòm lại, thấy ừ, bọn mình già cả rồi. Chuyện đáng nhớ thì quên, chuyện đáng quên thì nhớ. Lâu lâu quên mất tên một người thân, một tên đường… Lúc không cần nhớ nữa lại hiện ra! Cũng vui. Quỳnh bảo, ông gọi cho Nguyễn Quang Chơn đi. Chơn mới hỏi thăm bọn mình gặp nhau thế nào ở Đà lạt. Mình gọi, nói chuyện với Chơn một lúc rồi đưa điện thoại cho Quỳnh nói tiếp. Một lúc sau Quỳnh hỏi, Ngọc gọi cho Chơn chưa, Chơn hỏi thăm đó! Bọn mình đều vậy cả thôi.
Lữ Quỳnh trình bày sách rất đẹp. Mình rất tin tưởng cái “gu” của bạn. Tập thơ Giữa Hoàng Hôn Xưa của mình, 1994 , là do Lữ Quỳnh trình bày, với tranh bìa của Trịnh Công Sơn. Không biết sao Lữ Kiều TTM còn giữ được một tập, gởi tặng Khánh Minh. Nhìn cái bìa cũ kỷ thấy thương ghê.
Giữa Hoàng Hôn Xưa, thơ Đỗ Hồng Ngọc. Tranh bìa: Trịnh Công Sơn. Lữ Quỳnh trình bày.
Chính bài thơ Thư cho bé sơ sinh trong tập này đã gợi hứng cho Trịnh Công Sơn vẽ cái… tử cung, địa đàng của bé như thế đó.
bìa 4 Giữa Hoàng Hôn Xưa
Những ngày ở Đà Lạt, bạn bè có dịp gần gũi khăn khít với nhau. Quỳnh và Nhung dù đã có “kế hoạch” đi thăm con cháu nhưng nghe mình rủ đi chùa, thăm Trúc Lâm Thiền Viện thì OK ngay. Cả bọn ghé chùa thăm thầy Thông Phương, trụ trì. Thầy còn tăng mỗi người một tập thơ của Thầy nữa chứ! Rồi lang thang xuống hồ Tuyền Lâm, thuê thuyền đi tiếu ngạo một chuyến… vào sâu trong khu dã ngoại. Những con trâu hiền. Những con ngựa ngoan. Gà đồi… Lại nhớ năm xưa, có lần đã đi cùng Nguyễn Thiện Tống, hai gia đình vào tận nơi này. Lần đó, nước còn đầy, trong xanh, chứ không khô cạn như bây giờ.
Thăm thầy Thông Phương,
Trúc Lâm Thiền Viện
Buổi tối, Lữ Kiều Thân Trọng Minh và Thanh Hằng mời cả nhóm đi Palace nghe Võ Chí Hiền chơi piano. Có Thuận, anh chị Châu-Thanh, Kim Kê và gia đình con LQ cùng đi.
Mới đó mà đã 36 năm mình mới trở lại nơi này, dù những năm gần đây mình thường về Đà Lạt. Palace có vẻ tây quá! Mà mình thì ta.
Nhưng có Võ Chí Hiền đàn piano thì không thể không đi nghe. Quen biết đã lâu. Hiền là em Lê Ký Thương, chơi đàn mỗi tối ở Palace từ nhiều năm nay. Ngón đàn rất tuyệt. Có nhóm thân hữu đến, Hiền chơi một loạt những Văn Cao, Phạm Duy, Cung Tiến, Trịnh Công Sơn…
DHN
(còn tiếp)
June 1, 2016
Thư gởi bạn xa xôi (tt)
Thư gởi bạn xa xôi (2)
Ghi chú: Bạn đã muốn biết thêm về chuyện phòng tranh của Bs TTM và bài thơ Suzane, mình post sớm cho bạn coi trước một chút vậy nhé.
Khi đến thăm phòng tranh của Lữ Kiều (bác sĩ Thân Trọng Minh, chuyên khoa tim mạch), triển lãm tại Phòng Mạch đường Ngô Quyền – Quận 5 Tp.HCM năm 1982, tôi thấy một người con gái đang ngồi ngay dưới bức tranh Suzane xanh xao như tàu lá… vội viết mấy dòng lên tờ Brochure tặng bạn, bởi tôi nghe rất rõ tiếng thổi tâm thu suzane… suzane… của bệnh nhân một chiếu cuối năm… đang đợi khám quả tim đau…
Đỗ Nghê
(Đỗ Hồng Ngọc)
SUZANE… SUZANE…
Ta đến thăm một mình
chiều cuối năm
hai mươi bức tranh Lữ Kiều
ngồi nhúc nhích
kẻ già người trẻ
ôm trái tim đau
Ngồi ở chỗ Như Sương
là một người thiếu nữ
xanh xao như tàu lá
có thể là thalassemie
có thể là lãi móc
nhưng có hề gì
vì đang ngồi ở chỗ Như Sương
mà chỉ nhìn thôi
cũng nghe được tiếng thổi tâm thu
Suzane… Suzane…
dù rất nhẹ!
Ta thấy cá bay lên
không còn ngủ nữa
cú cũng không còn là tai ương
bởi người thiếu nữ
xanh xao như tàu lá
ngồi ở chỗ Như Sương
mà tiếng thổi tâm thu
nhìn xa cũng rõ…
Chiều cuối năm
hai mươi bức tranh Lữ Kiều
ngồi nhúc nhích
ôm trái tim đau…
Đỗ Nghê
29.12.1982
May 30, 2016
Thư gởi bạn xa xôi: chuyện Đà Lạt
Thư gởi bạn xa xôi
Chuyến đi Đà Lạt
Nhớ chứ. Không quên đâu. Chỉ hơi làm biếng thôi. Vả lại, trước kia, đi Đà Lạt là cũng cố ý lang thang tìm cô bé 17 tuổi, dân Đà Lạt thứ thiệt, học trò của bạn, nay thì bạn đã tự tìm được rồi nên mình hết lang thang. Cũng may còn có Thân Trọng Minh. Ai đời bác sĩ tim mạch mà vẽ tranh là… chính! Vẽ toàn Suzane mới chết chứ! Mà Suzane cũng ở Đà lạt, mới 16 tuổi. Hắn nhìn nàng qua cái chậu thủy tinh có mấy con cá tung tăng. Từ đó, hắn vẽ cá, vẽ cú, vẽ Suzane rồi đem triển lãm ngay ở Phòng mạch. Mình đến thăm phòng triển lãm, cảm động thấy một bệnh nhân đau tim, xanh lè xanh lét, ngồi ngay dưới bức tranh Suzane nên viết liền tại chỗ một bài thơ cho hắn. Đó là năm 1982, tại phòng mạch Lữ Kiều TTM đường Ngô Quyền Chợ Lớn! Để hôm nào gởi bạn xem nhé.
Bây giờ chuyện Đà Lạt. Thân Trọng Minh và Thanh Hằng, Châu Văn Thuận… bay từ Saigon lên. Lữ Quỳnh… bay từ Huế vào. Cả bọn hẹn nhau ở Đà Lạt. Không để làm gì cả. Chỉ để uống cafe và nói chuyện hồi đó. Già rồi mà. Già hay nói chuyện xưa. Cuộc đời như vở kịch có ba hồi. Hồi trẻ, Hồi trung niên và Hồi đó. Bọn mình là Hồi đó.
Mình thì đi xe đò với người bạn, bác sĩ Phước ở Bạc Liêu. Phước thường đi Đa Lạt, rủ đi xe đò hay lắm. OK. Hay thiệt. Muốn xe giường nằm hay xe ghế nằm? Giường thì khó ngồi. Ngồi thì dễ nằm. Phước nói. Gì cũng được. Đi xe đò bây giờ sướng quá. Có cả wifi, khăn ướt, nước lọc, mền đắp…chẳng thua máy bay. Có điều máy bay bay nửa giờ còn xe mất 7 tiếng! Hai trăm cây số đầu từ Saigon lên Bảo Lộc chạy 3 tiếng. Một trăm cây số sau, từ Bảo Lộc lên Dalat 3 tiếng. Đường xấu. Nghỉ ngơi cơm nước dọc đường 1 tiếng! Đi cho biết đó biết đây chứ! Nhớ xưa, năm 1964, còn là sinh viên y khoa, đi Dalat lần đầu theo đoàn Sinh viên Phật tử dự trại ở Đại học Dalat cùng với Bùi Ngọc Điệp. Lần đó, do anh Huỳnh Bá Huệ Dương hướng dẫn đoàn. Anh cao lớn, đẹp trai, điềm đạm và rất dễ mến. (Anh Huệ Dương đã mất năm 2015). Trên xe mọi người kể chuyện tiếu lâm, ca hát quên cả đường dài. Một bạn ra câu đối: “con cò lửa nằm trước cửa lò”, một bạn khác đối ngay “lấy cái ghế ngồi… kế gái” làm mình phục lăn.
Đường Dalat hồi đó vắng hoe, hẹp lé, qua đèo ù tai, thấy như đi trong mây. Bây giờ xe cộ dập dìu, đường rộng mở, qua đèo không còn ù tai, không thấy rùng rợn gì nữa. Chuyến đi năm đó có ghé Phương Bối, hì hục làm đường cũng vui. Nhớ có làm quen với một cô yểu điệu thục nữ Huế, thì ra là LKTL, ái nữ của một vị bác sĩ bậc Thầy.
Chuyện xe cộ có lẽ nên nhắc thời sau 75, thường đi xe than vì không có xăng. Xe đi công tác y tế thì đi đâu cũng chở theo thùng xăng dự phòng. Có lần mình mượn được cái xe bệnh viện Tâm thần đi về Lagi Hàm Tân chơi, nhóm bác sĩ và gia đình lố nhố ngồi xe có dòng chữ Bệnh viện Tâm thần tổ bố bên hông làm cả làng ra dòm, chỉ chỏ… !
***
Buổi tối cả bọn kéo nhau vào quán cafe Violet gần nhà Thân Trọng Minh. Rôm rả. Mấy lần trước có Đinh Cường, Bửu Ý, Lữ Quỳnh, Khuất Đẩu, Huyền Chiêu, Lê Ký Thương, Kim Quy… đông vui cùng về thì mình lại không có dịp đi, tiếc quá.
Từ trái: Lữ Quỳnh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thành Phước, Châu Văn Thuận, Thân Trọng Minh.
(còn tiếp)
May 29, 2016
“LÀM THẾ NÀO ĐỂ THÂN TÂM AN LẠC?”
NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ:
Kính mời quý vị đến tham dự buổi nói chuyện chuyên đề với đề tài:
“LÀM THẾ NÀO ĐỂ THÂN TÂM AN LẠC?” –
Diễn giả: Bác sĩ ĐỖ HỒNG NGỌC
Thời gian: 19g00 ngày Thứ Bảy 04-06-2016 (nhằm ngày 29 tháng 4 năm Bính Thân) –
Địa điểm: Giảng đường Chánh Trí Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, TP.HCM –
Đơn vị tổ chức: Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam & Ban Phật học Chùa Phật học Xá Lợi. –
Vào cửa tự do. Hoan hỉ chào đón.
BTC
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

