Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 91
September 12, 2016
”những thằng già nhớ Mẹ”
Ghi chú: Vũ Thế Thành ra mắt cuốn những thằng già nhớ Mẹ. Hỏi, tại sao thằng mà không ông? Thành đáp: già cỡ nào đối với mẹ cũng là ”thằng” thôi, nghiã là vẫn cứ là một đứa con nít!
Không biết sao Phương Nam Book lại mời Đỗ Trung Quân, Nguyễn Đông Thức và Đỗ Hồng Ngọc làm ”khách mời đặc biệt” cho buổi ra mắt sách này. Và nhà văn Nguyễn Đông Thức, người con Út của Nữ sĩ Bà Tùng Long làm…MC.
Tôi bèn có bài viết ngắn dưới đây gởi người bạn trẻ, nếu hôm đó người đó có đến dự…
GỞI NGƯỜI BẠN TRẺ
Người bạn trẻ ơi
Đừng bao giờ như chúng tôi
Những thằng già nhớ mẹ
Hãy nhớ mẹ ngay phút giây này
dù mẹ ở kề bên hay xa xôi
Hãy nhớ mẹ như ngày nào mẹ nắm tay
dắt đến trường trên con đường làng dài và hẹp
Hãy nhớ mẹ như ngày nào chờ mẹ chợ về
lục tung giỏ tìm bánh thơm kẹo ngọt
Và, cũng đừng quên nhớ cha
Cha cõng bạn cho nhìn xa về phía trước
Cha dắt bạn lội suối băng rừng
Cha làm cho gót bạn đỏ như son
Người bạn trẻ ơi
Đừng bao giờ như chúng tôi
Những thằng già nhớ mẹ
Khi cha mẹ đã không còn
Đừng đợi cha mẹ vào viện mới lo toan
Đừng chờ xây mồ cao mả đẹp để tạ ơn
Hãy nhớ mẹ nhớ cha khi chiều hôm nắng xế
Khi những vết nhăn xòe trên khóe mắt
Khi tóc muối tiêu nhường cho tóc bạc
Khi lưng còng mỏi mệt bước chân lê
Xa trời gần đất
Người bạn trẻ ơi
Bạn còn biết bao nỗi lo đời
Danh vọng tiền tài nhan sắc
Bạn còn trăm công ngàn việc
Thiếu ngủ thiếu ăn
Cha mẹ già chờ đó
Chớ băn khoăn
Có chi mà vội
Cho đến một hôm
Người bạn trẻ bây giờ
thành những thằng già nhớ mẹ
Như chúng tôi hôm nay
Rồi con cái bạn lớn lên
Lại trăm công ngàn việc
Lại thiếu ngủ thiếu ăn
Như trái đất vẫn quay
… mải miết!
Đỗ Hồng Ngọc
(9.2016)
September 9, 2016
Lữ Kiều – Thân Trọng Minh, từ cái nhìn bè bạn (*)
Lữ Kiều – Thân Trọng Minh, từ cái nhìn bè bạn (*)
Hoàng Kim Oanh
4.9.2016 Một buổi sáng chủ nhật của tình văn chương, tình bạn thật ấm áp với Quán Văn.
Những câu chuyện ân tình kỉ niệm trước sau… Huế và những người con của Huế. Sài Gòn và bạn hữu mọi nơi.
Đơn giản thôi, chỉ là nơi hội ngộ của những tấm lòng…
Quán Văn 39 với Chủ đề Bên Sông Hương và Chân dung văn học Nhà thơ, nhà viết kịch, họa sĩ Lữ Kiều – Bác sĩ Thân Trọng Minh.
(…)
Với tác giả Mang Viên Long, hai lần đọc Lữ Kiều 2013, 2014 đều là những khám phá mới. Tôi thích đoạn trên Newvietart của anh và đã post nó trên trang cá nhân của mình: “Dường như, anh luôn thao thức trong mọi tư duy, và thao thức kiếm tìm sáng tạo (từ hình thức đén nội dung thể hiện) – nên Lữ Kiều luôn cô độc và luôn cảm thấy thiếu, chưa bao giờ mãn nguyện với những gì mình đã gỉải bày? Với anh, viết là sáng tạo không ngưng nghỉ, là tiếng lòng chân thật – không thể khác! Viết với anh là một thái độ sống, một đòi hỏi như nhu cầu cấp thiết, và cũng là một sự phản kháng tích cực. Và (…) sau cùng, nỗi thao thức cô đơn thường trực ấy bên trang viết đã khiến anh hụt hẫng chăng?”. Đúng vậy. Thời ấy. Thời này. Thời nào cũng vậy. Viết là một thái độ sống…
Còn cái nhìn của Lữ Quỳnh trong “Người bạn- Lữ Kiều” thì đứng từ tâm thế một người tri kỉ. Thêm một nét chân dung đẹp của tình bạn và Lữ Kiều từ thời niên thiếu. Bức ảnh thưở hoa niên chụp năm 1964 vẫn rõ từng nét thanh tú trên khuôn mặt hai chàng thơ, nhưng so với Lữ Quỳnh, chàng trai 22 tuổi Lữ Kiều vẫn có chút gì trầm tư hơn… Chưa bao giờ tôi cảm hết vẻ đẹp của tình bạn như lúc này. Họ là bạn của nhau từ năm 13t, vừa vào lớp đệ thất. Rồi cùng “bên nhau cho đến ngày khôn lớn. Cho đến ngày chúng tôi trưởng thành, chia nhau công việc trong cái xã hội đầy tai ương, chiến tranh và chia lìa. Bạn là một thầy thuốc giỏi, một nhà văn nhà thơ, và ở tuổi nhi bất hoặc, bạn là họa sĩ…” (QV 39, tr 74).
Đôi bạn đã có 61 năm bầu bạn. Bút hiệu cũng cùng họ Lữ… Cùng san sẻ từ những rung động yêu đương đầu đời, có với nhau những kí ức không thể phai nhòa, cho đến nay…họ vẫn có nhau dẫu có khi nhìn lại, “đôi khi tôi thấy mình đã bất công với bạn quá nhiều” khi mong muốn bạn phải thế này thế kia…và họ cùng nhận ra “trong nhiều loại bất công của cuộc đời, thì bất công trong tình bạn là đáng yêu hơn cả” (QV 39, tr.77)
“Tôi cũng tin như vậy” của BS Đỗ Hồng Ngọc cũng là một phát hiện. Tôi thích cách nói hình tượng mang tính nghề nghiệp của hai vị bác sĩ nói với nhau khi BS nhà văn Đỗ Hồng Ngọc nhận xét suốt đời Lữ Kiều chỉ miệt mài hai việc: Thử bút & Phóng bút. “Đọc Lữ Kiều, thấy có những lúc ngọn bút của anh như những nhát dao phẫu thuật, sắc cạnh và chính xác; lại có những lúc như nhát cọ mơn man, đắm đuối…” (QV 39, tr.121). Trước đó, anh đã lý giải: “Đó chính là sự giằng xé giữa lý trí và cảm xúc để cuối cùng chỉ còn “chừa lại một sợi khói phù du”, bởi “Đời sống trở nên đầy ắp giằng co. Sự giằng co giữa hai người trong một tấm thân làm ta kiệt quệ!” (QV 39, 121). Vâng. Kiệt quệ. “Khi tác phẩm đã hình thành, mây tan, hồn tôi khánh kiệt” (Lữ Kiều, Những chiếc lá vàng, những ngọn nến trắng, con dế mèn. Thử bút, 1966) . Tôi thích thú thấm thía những đoạn rất thiền của nhà phẫu thuật tâm hồn tài ba Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những dòng viết về sự khánh kiệt cao cả của người nghệ sĩ sau khi hoàn thành tác phẩm này của anh: “Sự khánh kiệt nào cũng dễ thương như một buông xả. Bởi buông xả nào mà không khánh kiệt, phải không?” (QV 39, tr.122)
Nhưng Lữ Kiều đã rất hay khi không để mình gục ngã. Và hội họa như một lối thoát khác. Để đứng dậy. Để tồn tại. Hiếu Tân cho rằng đó là giằng xé trí tuệ “To be or not to be, that’s a question!” (Hamlet, Shakespeare).
Bài ” Lữ Kiều của Huế và một thời Ý Thức” (6, 2016) của dịch giả Hiếu Tân cũng là một cách đọc thú vị, thâu tóm nhiều đặc điểm trong con người và sáng tác của Lữ Kiều. Đặc biệt đi sâu vào quan niệm sáng tác của Lữ Kiều với nhiều phát hiện thú vị…
***
Lữ Kiều đã được đọc từ tâm thế những người tri âm như thế hơn nửa thế kỉ nay. Nổi trội hơn cả là tinh thần dấn thân, tính tiên tri và cảm thức dằn vặt không yên trong nhiều vở kịch khá nổi tiếng của anh: “Kẻ phá cầu”, “Nơi đảo xa kia”, hay truyện ngắn “Trên đồi là lô cốt” đã chạm vào tâm thức những người đọc sinh sau đẻ muộn như chúng tôi hôm nay về một quá khứ không thể nào quên của đất nước mà ở đó, tuổi trẻ đã phải đứng trước những chọn lựa nghiệt ngã: bảo vệ cái đẹp, bảo vệ cuộc sống hay chấp nhận làm nô lệ của thói hư vinh ích kỉ hủy hoại chính nhân tính của mình…
Còn tôi, qua Quán Văn 39, tôi bắt đầu đọc Lữ Kiều…
Và viết. Để được buông xả. Để được khánh kiệt.
Không chỉ một lần.
Đêm Thị Nghè, viết vội…
2:00 AM 5.9.2016
……………………………………..
(*) Trích Hoàng Kim Oanh, tựa Đỗ Hồng Ngọc
September 7, 2016
Chuyện… văn nghệ (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi
Chuyện… văn nghệ (tiếp theo)
Thu Vàng chỉ hát 3 bài thôi: Kỷ Niệm của Phạm Duy “… xin cho đi lại từ đầu/ xin cho không vội về sau…” một bài hát rất có ý nghĩa trong buổi ra mắt Quán Văn 39, giới thiệu Lữ Kiều, Thân Trọng Minh hôm nay. Bài “Đóa hoa trong vườn cũ”, Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Lữ Kiều và bài Mũi Né, Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Đỗ Nghê.
Vì bạn đã hỏi nên mình phải nói rõ thêm một chút: Có lẽ bài thơ đầu tiên của mình là bài Lời Ru do Miên Đức Thắng phổ nhạc, in trong tập Hát Từ Đồng Hoang, năm 1966. Vừa đúng nửa thế kỷ.
Đỗ Hồng Ngọc & Miên Đức Thắng (2016)
Chắc bạn còn nhớ: “rất nhiều đêm rất nhiều đêm/ tôi vổ về tôi thủ thỉ/ ngủ đi con ngủ đi con/ ngày mai rồi không lớn/ cầm súng với cầm gươm…“. Bài này nhạc sĩ Miên Đức Thắng đã ôm guitar hát khắp các trường đại học thời đó (1967) và cũng là một trong 3 bài mang lại cho anh nhiều nỗi truân chuyên. Cách đây mấy năm, nhân kỷ niệm tuổi 70 của Miên Đức Thắng, anh đã hát lại bài này giữa nhóm bạn bè anh em. Anh HHN chạy đến bắt tay mình: Ủa, anh là Đỗ Nghê hả? Vậy mà tôi không biết chớ! Mới đây gặp lại Miên Đức Thắng, anh vẫn đẹp trai, phong độ như xưa, dù tóc có bạc phai đi nhiều lắm. Anh vẫn sáng tác nhạc, vẽ tranh… sau một thời gian dài sống ở hải ngoại.
Một kỷ niệm đáng nhớ khác là bài thơ Thư cho bé sơ sinh của mình đã được anh Phạm Trọng Cầu phổ nhạc… từ năm 1973. Anh nói anh định làm bài này cho Thái Thanh hát, nhưng không còn có dịp nữa. Thu Vàng cũng đang hát lại bài này, rất hay.
Trương Thìn cũng phổ mấy bài thơ của mình: Tôi còn nợ, Mai sau dù có bao giờ, Một ngày ở Huế…
Rồi Tôn Thất Lan phổ Mũi Né, Giữa hoàng hôn xưa: “… còn lại gì không/ rêu phong dấu giày/ nước hồ quanh quẩn/mây đồi quên bay…”. Bài này qua giọng ca Hồng Nhung rất hay. Phải nói riêng bài thơ Mũi Né đã có nhiều nhạc sĩ phổ nhạc: Tôn Thất Lan, Phan Anh Dũng, Lưu Văn Trung, Hoàng Quốc Bảo. Riêng bài của Hoàng Quốc Bảo thì Thúy Vy TrầnKiêm đã làm một slideshow rất đẹp trên youtube với tiếng ca Thu Vàng, và ban nhạc Randy Ames.
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp cũng phổ một bài thơ của mình: Viết tên lên cát. “Anh viết tên em lên cát/ cho sóng cuốn đi/ anh viết tên em lên cát/ cho gió cuốn đi/ Gió cuốn đi tên em chập chùng động cát/ Sóng cuốn đi tên em mênh mông đại dương…”.
Nhưng bài thơ Nước của mình được Khúc Dương phổ nhạc với tựa là “Kể chuyện trăng tàn” mới thật thấm thía: “nước vẫn muôn đời/ không đi chẳng đến/ ai người nỡ hỏi/ nước đến từ đâu/ ai người nỡ hỏi/ nước trôi về đâu…”. Và Khúc Dương cảm tác thêm một đoạn rất dễ thương: “Nước từ trong mắt/ nước xuôi về tim/ em từ muôn kiếp/trôi vào đời anh…”. bài này Camille Huyền đã hát cũng rất da diết.
Nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ bài “Mới hôm qua thôi”, bài thơ viết từ cảm xúc của mình khi đến thăm một Nursing home ở Canada từ 1993, rất nhanh đã có hơn 50 ngàn lượt người truy cập. bài này cũng được Võ Tá Hân phổ nhạc.
Võ Tá Hân còn phổ cả bài Thư cho bé sơ sinh và riêng bài Bông hồng cho mẹ: “Con cài bông hoa trắng/ Dành cho Mẹ đóa hồng/ Mẹ nhớ gài lên ngực/ Ngoại chờ bên kia sông” với tiếng hát Diệu Hiền rất thiết tha trong mùa Vu lan như bạn đã biết. Nhà thơ Khánh Minh đã viết một bài rất cảm động về bài thơ chỉ có mấy câu ngắn ngủn này!
Một số các bài thơ khác như Nắng phai thấy có nhạc sĩ Xuân Cang (?) và Huy Nguyễn phổ nhạc: “cảm ơn em đến/ mùa xuân của anh/ hoa vàng nở muộn/ giữa ngày nắng hanh…“; rồi nhạc sĩ Nguyễn Thanh Cảnh phổ bài “Trên sông khói sóng”, Phạm Minh Cảnh phổ bài “Kẻ rong chơi”.
Tóm lại, cũng đã có khá nhiều bài thơ của mình được các nhạc sĩ phổ nhạc. Chắc cũng nhờ thứ thơ thiệt thà, chân chất… nên tạo được sự đồng cảm giữa thơ và nhạc, giữa ý và tứ chăng? Chẳng biết!
Vậy nhé,
Đỗ Hồng Ngọc
September 5, 2016
Chuyện… văn nghệ!
Chuyện… văn nghệ
Đỗ Hồng Ngọc
Ngày 1.9.2016 Phạm Cao Hoàng về, nhân dịp làm đám cưới cho con thì phải, tranh thủ hẹn gặp riêng anh em một bữa!
Anh chàng có cái blog rất dễ thương, trang nhã, nhiều hình ảnh đẹp. Dân gốc Tuy Hòa mà lạc lên tận Đàlạt, gặp ngay một nàng Cúc Hoa, trở thành Phạm-Công-Cúc-Hoa từ đó. Chàng có nhiều tập thơ mà tập thơ mới nhất là “đất còn thơm mãi mùi hương” – dĩ nhiên là đất Đàlạt- trong đó có bức tranh Đinh Cường: “Cúc Hoa, Đà Lạt thời chưa biết buồn”… rất đẹp. Lại có bức “Người đội mũ” cũng của Đinh Cường vẽ PCH… Nhờ bức này, tôi để ý, dù ngồi trong nhà, giữa bàn tiệc, PCH vẫn… luôn đội mũ, cái beret không rời anh dầu một phút!
đứng: đôi uyên ương PCH-CH
ngồi, từ trái: Elena, TVDan, TTMinh, ĐHNgoc, Nguyên Minh
Chủ nhật, 4/9 ra mắt số Quán Văn 39, Bên Sông Hương và chân dung văn học: nhà văn Lữ Kiều.
Không phải ai xa lạ. Nhà văn, nhà thơ, họa sĩ Lữ Kiều, cũng chính là: Thân Trọng Minh, bác sĩ chuyên khoa tim mạch.
Đông, khá đông bạn bè quen biết của Quán Văn. Sau phần Khánh giới thiệu Bên Sông Hương với tiếng hát truyền cảm của Kha: Về Miền Trung thì đến Trần Anh Tuấn, luật sư, bạn của TTMinh từ tuổi thơ xứ Huế làm MC. Rất nhiều phát biểu của bạn bè sau đó.
Nguyên Minh nói về thời Gió Mai, Ý Thức; Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) nhắc chuyện trường Y, với nhóm bạn say mê “văn nghệ” từ thuở nhỏ (Trương Thìn, Ngô Thế Vinh, Thân Trọng Minh, Đỗ Hồng Ngọc…) không phải khi đã là bác sĩ rồi mới đến với văn chương! Trên tờ báo Ronéo SÓNG lúc đó, thấy xuất hiện bút hiệu Nàng Lai, sau mới biết chính là Thân Trọng Minh… Rồi TTM kéo Đỗ Nghê về Gió Mai, Ý Thức; rồi chuyện vui chàng bác sĩ tim mạch đẹp trai hào hoa phong nhã nhiều lúc khám bệnh dám quên… cả ống nghe, cho toa bằng một bài thơ hay một bức tranh …
Rồi Hoàng Kim Oanh phân tích về Kịch của LK, nói về sự dấn thân của người trí thức một thời, nói về tình bằng hữu… Nguyên Cẩn phân tích về thơ, rồi Kim Thoa, rồi Hiếu Tân, Phan Vũ…
Có tiếng hát Thu Vàng. Hát bài Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Lữ Kiều và thơ ĐHN.
Buổi “ra mắt” của một nhà văn… trẻ đậm sâu những tình cảm bạn bè từ 50-60 năm về trước. Đã nhắc Lữ Quỳnh, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường… và bao nhiêu người khác nữa. Cũng đã có Ban Mai từ Quy Nhơn vào, có Nguyễn Như Mây từ Phan Thiết vô… Chỉ thiếu Huyền Chiêu, Khuất Đẩu!
Nguyên Minh vác tặng một… thùng hoa cho Lữ Kiều!
Ca sĩ Thu vàng
Đỗ Hồng Ngọc “dẫn chuyện gần xa”
Thầy Thạch đàn cho Hoàng Kim Oanh và cô bạn Trưng Vương hát… Khúc Thụy Du tặng Lữ Kiều.
Lữ Kiều TTM “đáp từ”
August 31, 2016
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)
Về Mũi Né
Mũi Né bây giờ khác lắm bạn ơi! Còn chăng là có một chút gió bấc hiu hiu thổi mùa này! “Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ!” . Chớ “dừa xứ Rạng” cũng chẳng còn mấy, loe hoe thôi, không phải một rừng dừa nguyên sơ mát rượi dưới mỗi bước chân đi như ngày xưa, cũng chẳng còn đâu “con đường sõi đá vẫn quanh co” mà đã là những con đường tráng dầu phăng phắc…
Mình về Mũi Né mấy hôm, giữa mùa tháng tám này. Đi xe lửa. Bạn nhớ hồi đó bọn mình đi xe lửa thì từ Phan Thiết lên Ga Mương Mán, đổi xe đi Saigon và ngước lại, từ Saigon về tới Mương Mán thì đổi xe về Phan Thiết. Ga Mương Mán bây giờ bị đổi tên thành Ga Bình Thuận. Mình rất phản đối vụ này. Cái tên Ga Mương Mán đã có từ trên trăm năm trước, cũng như con sông Mương Mán chảy qua đó cần gì phải đổi tên? Vậy Ga Tháp Chàm có đổi thành Ga Phan Rang không? Sông Mương Mán có đổi thành sông Bình Thuận không? Cũng may, khi xe đến gần Ga, loa phóng thanh kêu sắp đến Ga Mương Mán, tức Ga Bình Thuận. Ai chả biết chứ! Xe đi ngang vùng trồng toàn Thanh long cũng đủ biết là đến Bình Thuận rồi mà!
Đi xe lửa rất vui. Xe “lắc lư con tàu đi” như được massage miễn phí. Khoái nhất là vượt qua chừng mươi toa mới đến được “restaurant” để làm một ly cafe sữa đá, ăn một tô mì ly ngon tuyệt vì đói bụng. Vệ sinh trên xe cũng được cải thiện, khá hơn.
Đến ga Phan Thiết thì đi taxi vào thành phố, chọn cái quán bờ biển ăn trưa rồi uống một ly trà lipton đặc biệt chỉ có ở Phan Thiết. Đặc biệt ư? Phải, trà lipton tự pha chế, tự vắt cam, chanh, tắc, có cả xí muội, táo, cam thảo… cứ như một ly thuốc bắc, như hồi nhỏ hay ra nhà thuốc Liên Hoa của bác Hai Cương ở đường Gia Long bổ mấy toa vậy. Lần nào mình cũng được anh Oai con bác Hai cho thêm mấy trái táo hoặc một nhúm cam thảo!
Nghỉ ở Muine Bay, phía Gành, hơi xa chợ Mũi né một chut1` nhưng được cái yên tĩnh, vắng vẻ, không như vùng Hàm Tiến, Rạng, dày đặc resort, ồn ào náo nhiệt, xanh đỏ tím vàng, tưng bừng nhậu nhẹt, tây tàu cỡi trần trùng trục phơi nắng… Tôi nghiệp mấy cây dừa ốm nhom ốm nhách, cao nghễu cao nghệu nhớ thời oanh liệt với cả một rừng dừa mênh mông bạt ngàn…
Mình thích Muine Bay hơn. Biển vắng. Hồ bơi rộng. Quang cảnh trang nhã. Có “Chợ quê” coi cũng được: bánh xèo bánh căn bánh canh xôi gà và hải sản. Hải sản thì mình thua rồi vì đang bị Gút. Bánh xéo bánh căn OK. Nhưng nói chung, điểm resort này hơi đắc. Phục vụ tốt, nhân viên thân thiện.
Sáng Chủ nhật đến thăm bệnh viện khu vục Mũi né, tình cờ gặp một đoàn Từ thiện từ Saigon ra. Bà con đến khá đông. Nơi khám bệnh, nơi phát thuốc, nơi tặng quà. Trong đoàn, gặp nhiều bác sĩ là học trò cũ quen biết kéo đến xin chụp với…thầy ngọc một tấm hình kỷ niệm.
Thư gởi bạn xa xôi (8.2016)
Thư gởi bạn xa xôi (8.2016 tiếp theo)
Nhiều chuyện để kể lắm, nhưng chỉ xin kể vài chuyện bạn quan tâm thôi nhé.
Đầu tiên là buổi trao đổi tại báo Thế giới Tiếp thị về “Thực phẩm xanh” (Nhà báo Ngân Hà đã có bài trên thegioitiepthi.online rồi đó). Mình đang bị Gút nên rất quan tâm chuyện ăn uống này. Cà nhắc tới hội trường tâm tình với các bạn về chọn thức ăn lành, sạch. Tưởng dễ mà không dễ. Khi người ta “bảo đảm” sạch 100% thì có nghĩa… 80% không sạch. Một thính giả thường đi chợ, đi siêu thị cho biết như thế, cả những thức ăn chay! Còn khi mình bước vào một quán ăn chay, gọi là Healthy gì đó thì thấy các món ăn toàn…mặn! Nào “thịt dê chay”…cà ri gà chay, thịt kho tàu chay, cá thu chay, cá linh chay, khô nai, khô cá thiều, khô mực… chay. Ừ thì cho là toàn thực phẩm chay nhưng khi ăn, tâm hồn lại mặn chát! Biết làm sao được! Có bạn nói ngày xưa, ra bờ rào đã có giậu mồng tơi, cây chùm ngây, cây so đũa, rau đắng, rau má… quanh nhà. Thế rồi, thuốc bảo vệ thực vật, rồi hóa chất làm heo nạc, làm trái cây chín sớm… tràn ngập. Rồi bệnh viện cũng tràn ngập. Ung thư tăng gấp đôi ba lần, năm sau cao hơn năm trước. Bệnh tâm thần cũng gia tăng nhanh không kịp trở tay. Trăm thứ bệnh đi qua đường miệng nhớ không? Thôi, tùy hỷ.
Có dịp về thăm một làng quê, các thầy thuốc cho biết bia bọt tràn lan, tiểu đường tràn lan ngay ở tuổi còn rất trẻ. Tim mạch huyết áp cũng không từ nan ở người trẻ. Thôi, tùy hỷ.
Có người hỏi sao bác sĩ ăn uống thế nào mà cũng bị Gút? Có gì đâu, mình mê cá khô ét nấu canh chua ăn với bún, mê cá thu chiên, cá nục, cá ngừ kho… toàn những thứ đầy chất purin nên tích tụ lâu ngày. Mặt khác, tuổi đã già hơn hồi xưa, gan thận các thứ bắt đầu làm biếng thải độc. Acid uric tích tụ chèn vào các khớp xương…
2. Họp Bộ môn Y đức-Khoa học hành vi, trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch để chuẩn bị năm học mới. Lúc này mình chỉ làm “cố vấn” thôi chớ đứng lớp như xưa hết nổi rồi! Xưa, lớp có vài trăm sinh viên, nay gần cả ngàn em! Các trường y trong nước ta hiện nay mà đào tạo cứ chạy theo số lượng cho đạt chỉ tiêu tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân thì nguy lắm! Gần đây còn có nhiều trường tư phía Bắc phía Nam cũng ào ạt tuyển sinh dạy y dược… Đây là một ngành rất đặc biệt, sinh mạng bệnh nhân trong tay họ nên cần phải rất thận trọng trong đào tạo. Có người nói vui, thôi cứ đào tạo đi, khi có bệnh thì đi Singapore chớ có gì đâu mà lo!
Mình đề nghị các bạn họp ở một quán cafe bên cạnh một cái hồ cho nó thông thoáng. Và buổi họp bàn luận rất là sôi nổi. Còn thiếu vắng mấy thầy cô bận đi xa. Nỗi lo lớn nhất là thiếu giảng viên. Lo nữa là phòng ốc, giảng đường, phương tiện giảng dạy… Vấn đề thực tập cho SV, chuẩn bị Hội thảo cho Y5, chuẩn bị giáo trình và các đề tài nghiên cứu khoa học…
Hẹn thư sau nhé,
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
August 29, 2016
Thơ Trần Vấn Lệ
Một Bài Thơ Tự Do
cuộc đời này có nghĩa
dẫu đó là
chỉ một chút thời gian…
Em nhìn kia
cây đã nhuốm vàng
mùa Thu tới
đời có gì đâu mới?
Người ta đi tu với lòng mong đợi
không phải để gặp được một người đúng nghĩa tri âm
mà một đời sau xa xăm
không chắc gì người xưa hiện hữu!
Người ta sống rất cần tha thứ
bởi vì người ta có tội…làm người!
Em cứ đến trễ
Và em chịu mở lời:
“Xin tha thứ cho tôi
Bởi vì đường đi trắc trở”
Không ai nỡ giận em đâu
Kinh Vô Tự là cuốn sách không có
Lời Mở Đầu
Cũng không có chữ nào nơi trang cuối!
Hãy coi như con chim hạc vàng đã bay đi khỏi bầu trời này,
nó về đâu, đừng hỏi
Hoàng Hạc Nhất Khứ Bất Phục Phản
Mây trắng thì…ngàn năm cứ bay!
Người xưa nhớ Quê Hương, tìm đường về quê, không thấy
Chỉ thấy chiều chiều khói sóng mênh mông!
Em của anh ơi, yêu quý vô cùng
Em cứ đến trễ để anh tu tới chết!
Không có gì tự sinh, không có gì tự diệt
Cái còn đây là Tình Yêu, thôi em!
Trần Vấn Lệ
August 25, 2016
Vài nét tiểu sử Ngu Í NGUYỄN – HỮU – NGƯ
Ghi chú: Gần đây nhiều bạn đọc quan tâm đến các bài viết về Nhà văn, nhà báo Nguiễn Ngu Í, đặc biệt với tập “…QÊ HƯƠNG…” qua lời Giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê (Ông Lê gọi là một “kỳ thư”- www.dohongngoc.com) nên nay xin ghi vài nét Tiểu sử Nguyễn Hữu Ngư, do chính ông cho in trên trang bìa 2 và 3 của cuốn QÊ HƯƠNG (1969) để giúp thêm tự liệu cho bạn đọc gần xa quý mến nhà văn, nhà báo Nguiễn Ngu Í.
Do lối viết của ông khá đặc biệt, nên tôi đã chỉnh sửa cho dễ đọc: thí dụ ông viết Nam cì tuần báo, thư cí, diễn cịch, cêu gọi, cí giả… tất cả các chữ “k” ông đều thay bằng chữ “c”, và một số chữ khác nữa, như chữ “p” thành “b” (Tân Fong Hiệb)… sẽ có dịp đề cập sau.
Ngay cả tác phẩm “Sống và viết với…” nổi tiếng của ông, phỏng vấn các văn nghệ sĩ cũng bị viết nhầm thành “Sống vô vi…” (một bài báo) hay “Sống và chết…” (Wikipedia).
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon 8.2016)
Vài nét tiểu sử Ngu Í NGUYỄN – HỮU – NGƯ
bút hiệu Nguiễn-Ngu-Í – Ngê-Bá-Lí – Tân-Fong-Hiệb
Sanh ngày 20-4-1921 tại làng Tam-tân huyện Hàm-tân tỉnh Bình Thuận, cha là Nguyễn Hữu Hoàn, vốn người Hà-tĩnh. Thất bại trong phong trào chống sưu thuế ở Nam-Ngãi, vô Nam-Trung lập gia đình ở một làng chậm tiến, dạy học và gieo mầm dân chủ dân tộc và mở mang dân trí. Mẹ là Nghê thị Mỹ người Tam-Tân, thuộc một gia đình trung lưu thấm nhuần Nho giáo.
Học trường Trung học Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký), được thầy Việt văn là Phạm Thiều khuyến khích và nâng đỡ, sau đó được người đàn anh là Trúc Hà chỉ dẫn thêm. Lúc học, kết thân với Trần văn Khê và sau đó với Nguyễn Mỹ Ca, Lưu Hữu Phước, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Trung (Yã Hạc).
Phụ với các bạn sinh viên trong việc truyền bá những bài hát lịch sử và thanh niên của Lưu Hữu Phước, phong trào truyền bá vệ sinh và tân y học, phong trào học sinh và phong trào thanh niên (1941-1945):
Cộng tác với Nam kỳ tuần báo của cụ Hồ Biểu Chánh (1942) rồi làm phụ tá thư kýí tòa soạn kiêm thầy cò tuần báo “Thanh niên” do Huỳnh Tấn Phát rồi Mai văn Bộ điều khiển (1943-1944).
Dự vào cuộc thành lập hội truyền bá quốc ngữ Nam kỳ (phó thư ký) và thời chớm nở của Thanh niên tiền phong.
Tháng tám năm 1945, làm tổng thư ký đầu tiên của Ủy ban Nhân dân cách mạng xã nhà, bị cách chức và an trí.
Năm 1946, ở trong Ủy ban ủng hộ kháng chiến Phú-Yên, dẫn dắt tiểu đội thiếu sinh diễn kịch và hô hào cêu gọi đồng bào ủng hộ kháng chiến ở vùng La-hai. Rồi ra Hà-nội, giúp việc ở phòng Thiếu nhi toàn quốc, do Lưu Hữu Phước phụ trách.
Cuối năm 1946, giúp việc ở đài phát thanh Tiếng nói miền Nam nước Việt nam, tại chiến khu Tây sơn ở Quảng Ngãi do Nguyễn văn Nguyễn và Huỳnh văn Tiểng điều khiển.
Ở trong bạn soạn sách nhi đồng (với Phan Huỳnh Điểu) của nhà xuất bản và nhà sách Hoa-niên, do Nguyễn Biên sáng lập với Trần Hoàng, Vũ Bão, Bùi Đặng Hà Phan…
Bị an trí 2 lần vì tội “hành động, nói năng có phương hại đến cuộc Kháng chiến (1947-1950).
1952, cùng vợ hồi cư về Sài-gòn, dạy học tư ở các trường LÊ BÁ CANG, TÂN DÂN, LÊ VĂN HAI, CẤP TIẾN, TÂN THỊNH (Sài-gòn), TÂN PHƯƠNG (Gia-Định), TRƯƠNG VĂN TRÁNG (Cần Đước), MINH ĐỨC (Trảng Bàng), J.J ROUSSEAU, SAINT – EXUPÉRY, rồi MINH HƯNG, NGUYỄN CÔNG TRỨ, phụ trách các môn Việt, Hán, Sử-Địa, Pháp-văn và Công-dân.
Biên tập viên nhật báo Phương Đông (Hồ Hữu Tường: chủ nhiệm, Lê văn Siêu: chủ bút), phụ trách mục “gia đình văn nghệ”.
Bị bắt cuối năm 1955 cùng một số anh chị em, và bị an trí ở trại cải huấn Tân Hiệp, Biên Hòa.
Viết báo chuyên về các nhân vật phi thường của dân tộc, như Hồ Qúy Lý, Nguyễn Huệ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… và về phỏng vấn giáo dục thanh niên, nhất là về văn nghệ (văn, học, nhạc) cho tạp chí BÁCH KHOA từ ngày thành lập (1957) cho đến nay (1969). (lúc in tập sách QÊ HƯƠNG).
Đã xuất bản ba quyển sách đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình dân tộc: “KHI NGƯỜI CHẾT CÓ MẶT” (tiểu thuyết, 1962), “SỐNG VÀ VIẾT VỚI…” (đàm luận và phỏng vấn, 1966), “HỒ THƠM, NGUYỄN HUỆ – QUANG TRUNG” hay “GIẤC MỘNG LỚN CHƯA THÀNH” (biên khảo, 1967). Sách giáo khoa: “LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP ĐỆ THẤT” ký Phạm Hoàn Mĩ, Le français par la radio (với Pierre Vieillard).
Ở trong các hội KHUYẾN HỌC NAM VIỆT, HỘI TRUNG-VIỆT ÁI HỮU, HỘI CỰU HỌC SINH TRƯỜNG TRƯƠNG VĨNH KÝ, TRUNG TÂM VĂN BÚT VIỆT-NAM, HỘI THÂN HỮU QUẢNG-NGÃI, HỘI KÝ GIẢ ÁI HỮU VN, HỘI BẠN NHỮNG NGƯỜI BỊNH TÂM TRÍ.
Sáng lập và chủ trương bốn nhà xuất bản:
NGÈI XANH (Nguiễn Ngu Í)
VỀ NGUỒN (Fạm Hoàn Mĩ)
NÚI CÚ HÒN BÀ ( Ngê Bá Lí)
KI-GOB-JÓ-CÌ… (Tân-Fong-Hiệb)
(Theo “…QÊ HƯƠNG…”, 1969)
August 22, 2016
Bs Đỗ Hồng Ngọc với chuyện “tào lao”
Bs Đỗ Hồng Ngọc với chuyện “tào lao”
Nguyễn Quang Chơn (Đà Nẵng)
Đỗ Hồng Ngọc vẽ bởi Nguyễn Quang Chơn (2015)
Một lần hai anh em rủ đi uống cà phê. Ngồi trên taxi, anh Ngọc bảo ngày mai mình được mời tới hội quán X để nói chuyện “tào lao”. Mình cãi: Sao lại “tào lao”. Em thấy những buổi nói chuyện của anh đều có giá trị, “tào lao” sao được? Anh Ngọc cười: Ừ. Chơn nói cũng phải, nhưng mà dùng từ chi cho đúng đây? (Nhân tiện có bạn đọc nào chọn giùm cho nhé).
Mình cũng không biết phải dùng từ chi hợp/đúng hơn. Nói chuyện đời thì có vẻ to tát quá, không đúng phong cách Đỗ Hồng Ngọc. Nói chuyện sống. Nói chuyện đạo. Nói chuyện chữ nghĩa… Nghĩ cho cùng, cũng không hợp với một bác sĩ nhà văn nhà thơ nhà…Phật học Đỗ Hồng Ngọc. Rồi về nhà ngẫm nghĩ. Anh dùng chữ “tào lao”, mình thấy “xúc phạm” những bài nói của anh. Nhưng, như đức Thích Ca 40 năm truyền đạo, không biết bao nhiêu là kinh sách, là truyền thuyết, là đạo lý, là tư duy ghi lại cho đời nghiền ngẫm. Vậy mà ngài nói: Ta có nói gì đâu. Ta có giảng một câu gì đâu. Vậy thì, ngẫm cho cùng, Đỗ Hồng Ngọc nói: Mình nói tào lao, cũng thật là hay! Tào lao bởi vì trong nhân sinh hiện tại, trong thế giới hỗn mang này, giữa cái thời mạt pháp, mạt nghĩa, mạt tình, bỗng nhiên anh đi nói chuyện cương thường, đạo lý, nghĩa nhân. Chuyện đời với đạo. Chuyện tử với sinh. Chuyện tâm thân an lạc… Đôi khi, có người nghĩ: Thật…tào lao!…
Xã hội ta bây giờ là xã hội đóng khung. Đã được sắp đặt. Đã được nghị quyết. Tất cả đã có người lo. Chỉ một đường đi tới đích. Chỉ có ăn ngon mặc đẹp. Chỉ có tiền bạc danh vọng. Không phải, trái lệch lạc. Không tư duy mông lung. Không đảng phái. Không hội hè … Vậy, tự dưng có người nói đường đến cái ruột già là hạnh phúc. Có người nói buông xả là hạnh phúc. Có người nói well-being, bien-être… là hạnh phúc. Thì…thật tào lao!…
Đang typing mấy chữ về “chuyện tào lao” của Đỗ Hồng Ngọc thì phone reo. Té ra anh gọi. 9:00 giờ tối. Lão “sư thầy” này với mình thật là “thần giao cách cảm”. Anh hỏi: Đang nhậu hả? Dạ. Nhậu xong rồi. Đang làm chi đó? Dạ. Chuẩn bị ngủ (chẳng lẽ lại nói đang viết… tào lao). Rồi anh khen mấy bài thơ mới viết. Rồi anh hỏi bức chân dung Tâm đến đâu rồi. Rồi góp ý cái trán, cái miệng… Thu Vàng. Nói mới ngồi ăn trưa với TTM và DTL… Chúc nhau ngủ ngon.…
Mình typing tiếp!…
Vậy đó. Đỗ Hồng Ngọc đôi khi “tào lao” thật dễ thương. Anh nghiêm túc với mình lắm dẫu anh hay cười. Anh hay “phê” mình chân thật làm mình thích, vì mình biết mình ở đâu trong văn chương chữ nghĩa! Chỉ chưa thấy anh phê mình chuyện uống rượu say hoài (không bác sĩ nào không phê bệnh nhân chuyện này), mà chính anh lại bị mình….phê!…
Số là, đọc anh, học anh. Học thở bụng của anh. Hay thiệt. Mình đã tập đến độ thấy cảm giác OK. Thấy hơi đi vào. Thấy hơi ngưng lại. Thấy hơi đi ra… Mình đã thở được mọi lúc, mọi nơi, trừ lúc bơi giữa biển mỗi sớm mai. Và kết quả là thần thái thư thái. Thân thể OK. Chỉ có cái bụng là bỗng to lên. Minh Tâm suốt ngày kêu réo: Uống cho lắm nên bụng to đùng! Trời. Anh uống mấy mươi năm nay, từ khi chưa quen biết em đến chừ, chứ có phải mới đây đâu. Nếu vì uống mà bụng to, thì bây giờ đã thành ông Di Lặc rồi kia chứ!?
Rồi suy nghĩ, chắc tại… Đỗ Hồng Ngọc. Anh bày thở bụng. Mà anh không dặn phải bỏ uống bia. Mình thở bụng. Mình lại tộng bia vào. Ngày thêm ngày, gần hai năm, cái bụng phải nở dần ra. To là cái chắc!…
Vậy là nhân một lần gặp nhau mình tố khổ với anh, phê anh dạy không đến nơi đến chốn. Anh ậm ừ, nói đã học bác Viện. Phải thở bụng như bác mới vượt bệnh. Mới sống lâu. Thở bụng mới khỏe… Kệ. Anh nói chi anh nói. Mình đang tập thở ngực trở lại. Tập bụng đã khó. Chừ quen rồi. Tập ngực càng khó hơn. Mà phải ráng. Cứ thở ngực để giữ cái bụng nhỏ (cho vợ khỏi nhằn), bởi đâu bỏ được bia. Chứ thở bụng để sống thọ thêm được vài mươi năm mà phải… bỏ bia (bỏ bạn), nếu không, cái bụng to xấu hoắc. Thì, chuyện… tào lao!
(NQC)
20.8.2016
Thân kính tặng anh ĐHN, một cuối tuần vui
*****
Lời bình của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về đoạn thở bụng:
Chỗ này anh Ngọc oan. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, thở bụng 50 năm, bụng xẹp lép. Mấy thiền sư toàn thở bụng, bụng ai cũng xẹp lép. Trái lại, mấy… đại gia, không thở bụng, chỉ uống BIA mà bụng cũng to đùng! NQC là một đại gia, năm nay chừng ngoài 40, là tuổi của bụng BIA đó!
August 20, 2016
Về HUẾ… thăm Chùa
Về Huế… thăm Chùa
Đỗ Hồng Ngọc
Với tôi, Huế là về. Về Huế. Không phải đến. Không phải đi. Mà về. Mặc dù không sinh ra và lớn lên ở Huế. Chỉ nghe « về Huế » thôi mà đã thấy lòng xao xuyến, bâng khuâng, nao nao rồi.
Tôi có duyên với Huế. Năm 2008, dịp Tuần Văn hóa Phật giáo tổ chức tại Huế, tôi có buổi nói chuyện về Thiền và Sức khỏe tại chùa Từ Đàm. Một người bạn Huế nói anh đến đây như đến Tào Khê rồi đó. Run lắm chớ. Lo lắm chớ. Nhưng với cái nhìn từ y học, từ khoa học thực nghiệm, tôi thấy sáng rõ con đường Thiền Phật giáo mà không ngại sẻ chia. Chính lần nói chuyện này, về sau, tôi hoàn chỉnh và in thành cuốn Thiền và Sức khỏe để phổ biến rộng rải hơn. Nói là “Thiền và Sức khỏe”, thực ra, đằng sau đó, đã mở ra một cõi tâm linh đi về tuyệt diệu khi đọc giữa những dòng chữ vậy.
Mấy năm sau, tôi lại có dịp trò chuyện đề tài “Một nếp sống hạnh phúc” ở Huế với khá đông người tham dự. Có cả các Thầy, các Ni, các anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ, nhà giáo, bác sĩ, sinh viên, bạn đọc… Người quen đã lâu, người mới biết, người chưa gặp bao giờ mà đã thân thiết từ lâu qua những trang sách. Dĩ nhiên, mọi người đến không phải để nghe “Một nếp sống hạnh phúc” chi đâu! Nếp sống hạnh phúc, đâu cần phải nói, phải nghe ở Huế. Về với Huế, tự dưng cũng đã thấy tràn một niềm vui đằm thắm, hiền hòa, một thứ hạnh phúc dễ thương với nắng, với gió, với dòng sông, với ngọn núi, với món ăn, cây cầu, con đường, bóng cây, bờ cỏ… Cho nên đến là đến với nhau, là tay bắt mặt mừng. Nay thì Huế đã có khác. Đường sá sạch đẹp hơn, thênh thang hơn. Phố xá sầm uất hơn. Xây cất triền miên hơn. Những cây cầu mới. Những khu “đô thị” mới. Những con đường mới…
Người bạn Huế đưa đi thăm đường Trịnh Công Sơn trước hết. Con đường đẹp, nghiêng nghiêng từ cầu Gia Hội đổ xuống, ôm sát tả ngạn sông Hương, nhìn qua cồn Hến. Hình như lúc đó còn có hơi nhiều quán nhậu! Rồi đi ngược về Kim Long, vào thăm một cái làng mới có tên làng Phú Mộng. Kim Long thì đã nghe biết từ xưa: Kim Long có gái mỹ miều / Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi. Còn Phú Mộng thì chưa. Nằm trong Kim Long êm đềm nhưng Phú Mộng có cái gì đó khác. Nó đẹp nhưng diêm dúa, nhiều tiệm ăn, nhà nghỉ, quán nhậu… Cái tên Phú Mộng nghe đã thấy hơi mệt rồi. Đi vào sâu thêm chút nữa thì có Bệnh viện tâm thần. Ngược lên phía trên đã có Thiên Mụ, Huyền Không…
Trường Quốc học, trường Đồng Khánh (Hai Bà Trưng) vẫn uy nghiêm. Vẫn những cô gái huế đạp xe dịu dàng, bên cạnh những cô gái huế vù vù xe đời mới, che mặt, quần short, không kém Sài gòn, Đà Nẵng… Huế đang thay da đổi thịt, nhưng Huế sẽ vẫn giữ nét đặc thù của mình thôi, không lo.
Năm ngoái, lại có dịp về Huế. Lần này là buổi nói chuyện về đề tài: Đức Phật, bậc Y vương, tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán bên bờ Sông Hương, gần khu triển lãm Lê Bá Đảng. Lại là một dịp được gặp gỡ các Thầy, các bạn, đông vui. Tay bắt mặt mừng. Nghiền ngẫm Phật học nhiều năm, tôi càng thấy rõ Đức Phật là một bậc Y vương, đã đi từ “bệnh chứng” đến “chẩn đoán” tìm ra nguyên nhân, từ đó đưa ra những phương thức điều trị phù hợp, đâu đó chính xác như một khoa học thực nghiệm cho kiếp nhân sinh. Ở đây không chỉ chữa cái “đau” mà là chữa cái “khổ”. Con đường giải thoát chúng sinh.
Vừa rồi, tôi lại có dịp về Huế. Lần này đi cùng anh em trong Nhóm học Phật chùa Xá Lợi. Chương trình sẽ đi thăm một số chùa Huế mà những lần trước không có đủ thời gian.
Hẹn cả nhóm đúng 6 giờ sáng có mặt ở sân bay Tân Sơn Nhất, vậy mà mới 4 giờ đã thức loay hoay. Không hiểu sao. Chắc tại nôn quá. Máy bay hoãn nửa giờ vì sân bay Huế sương mù dày đặc, không đáp được. Hoãn là chuyện thường ngày ở huyện mà! Tự dặn mình “ngoài không dính mắc là thiền/ trong không lay động là định” (Huệ Năng). Vả lại lâu lâu mới có dịp ngồi đợi ở sân bay coi người ta qua lại như coi trình diễn thời trang chớ chơi sao. Nhiều thứ thời trang bây giờ quái dị, như có người hình như chỉ mặc áo đi qua đi lại. Rồi máy bay lại hoãn nửa giờ nữa. Rồi nửa giờ nữa. Cuối cùng cũng lên xe bus trung chuyển ra tàu bay thì một cô hành khách cùng đi chào hỏi có phải bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không, rồi cô mở túi xách lấy cuốn Nghĩ Từ Trái Tim ra xin chữ ký! Ôi trời. Ngộ ghê. Cô nói nhóm cô đi Lào. Cô chỉ mang theo có mỗi cuốn này để đọc lại.
Đến Huế đã quá trưa nên bị bể kế hoạch, đành đi thăm Lăng trước. Cũng hay. Lần này có Trần Đình Sơn, Thanh Nguyên gốc Huế nên chuyện thăm chùa chiền lăng tẩm cung vua… hoàn toàn khỏi lo!
Trần Đình Sơn quyết định cho đi thăm Lăng Gia Long trước. Khá xa. Ít người thăm viếng so với các lăng Minh Mạng, Tự Đức… quen thuộc. Đường quanh co khúc khuỷu, sát bờ vực đầu nguồn sông Hương. Phong cảnh yên tĩnh. Một miền quê thanh bình.
Mỗi Lăng thể hiện tính cách của mỗi ông vua triều Nguyễn! Tự Đức thì có cái “bay bướm” của nhà thơ, “Minh mạng” thì nghiêm trang của nhà “quản lý”… Gia Long thì uy nghi, vừa trang nghiêm vừa thơ mộng. Đặc biệt ở Lăng Gia Long phảng phất nhiều nét Nam bộ… có lẽ do lúc còn bôn ba xuôi ngược ông đã gắn bó nhiều với miền Nam. Quanh lăng nào xoài, nào vú sữa…, trước lăng mênh mông một đầm nước um tùm lau sậy có nhiều cá lóc từ phương Nam được nuôi nơi đây, người giữ Lăng cho biết.
Điện Minh Thành ghi năm 1816. Vậy ra vừa đúng 200 năm! Khu lăng gồm 3 quần thể, giữa là lăng mộ, bên phải là điện Minh Thành và bên trái là Bi đình, có núi Thiên Thọ làm tiền án, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm, bên trái và bên phải có 14 ngọn núi tả thanh long, hữu bạch hổ.
Người gác mở cổng khu lăng mộ cho đoàn vào viếng. Bên trong có hai ngôi mộ đá, xây cất hoàn toàn giống hệt nhau, song táng vua và hoàng hậu. Không ngờ từ thời đó, đã có sự bình đẳng giới tính hay vậy.
Một điều đáng ghi nhận khác: triều Nguyễn, khi lên ngôi thì hình như vị vua nào cũng lo trước hết xây cho mình một cái lăng để đợi ngày… băng hà! Phải chăng vị vua nào của triều Nguyễn cũng ý thức đời là vô thường, kiếp sống là giả tạm? Bởi vua chúa khi lên ngôi thì thường lo gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị, cũng như lo xây tam cung lục viện, tìm thuốc trường sanh bất tử…?
Từ Lăng Gia Long về, cả nhóm đến thăm nhà một thân hữu xứ Huế, anh Ngô Tiến Nhân. Đó là một ngôi nhà rất đẹp, trên một đồi cao cạnh chùa Trúc Lâm.
Ở đó, đã có một số anh em thân hữu xứ Huế đợi sẵn, hẹn gặp nhau để hàn huyên vào một buổi chiều còn chút mưa vẫn mưa bay… Anh Lê Văn Lợi, anh Cao Huy Hóa, anh P, bác sĩ D…
Về Huế lần này tôi chỉ mang 2 cuốn sách mới vừa ra mắt ở Hội Sách ngày hôm trước. Cuốn Cõi Phật đâu xa để gởi anh Lê Văn Lợi, nhà Phật học, và cuốn Một hôm gặp lại gởi Phan Như, nhà thơ. Anh em trao đổi về con đường tu học Phật pháp, riêng bác sĩ Dũng, vừa Tây y vừa Đông y, đưa ra những “triết lý” về y học khá độc đáo, đã thể nghiệm trên bản thân như từng nhịn đói 49 ngày, sụt 20kg thể trọng nhưng vẫn bơi 3 vòng sông Hương! Anh Cao Huy Hóa kể hành trình viết báo Phật giáo của mình như thế nào…
Ngày hôm sau Huế vẫn mưa. Lai rai thôi. Làm như mùa này không mưa thì không phải Huế. Giữa tháng 2 âm lịch rồi chứ! Lạnh 17 độ. Nghe nói “tháng ba bà già chết rét” là vậy!
Không gì sảng khoái hơn sáng sớm được ngồi bên bờ sông Hương, khu vực Trung tâm văn hóa
Phật giáo Liễu Quán, Lê Bá Đảng… nhâm nhi café và gặp gỡ bạn bè. Café Liễu Quán hay lắm. Dưới mỗi phin lọc có một khúc đèn cầy sưởi nóng! Tôi nghĩ nếu được đặt một cục than hồng thì thú vị hơn. Để nhớ TCS: ngoài phố mùa đông/ đôi môi em là đốm lửa hồng/ ru đời đi nhé…
Chương trình sáng nay đi Huyền Không Sơn Thương thăm thầy Giới Đức và khi về sẽ ghé chùa Thiên Mụ. Nghe nói sư Giới Đức sắp nhập thất 3 năm. Gần như là rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ chớ gì nên phải cần gặp sớm! Sư vốn là một nghệ sĩ, một nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng từ hơn bốn mươi năm trước: Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Vẫn mưa lất phất. Khá lạnh. Mây mù trên đỉnh núi xa. Đường quanh co đèo dốc. Hình như Sư đang phải bận tiếp khách nên anh em đợi hơi lâu dưới quán lương đình. Không bỏ lỡ cơ hội, phải săn một ít hình ảnh chứ.
Lang thang chợt thấy một túp lều tranh, giữa lòng hồ lớn, có dòng suối róc rách, có nhịp cầu bắt ngang… Lạ nhỉ. Ai mà chọn một chỗ đẹp như tranh vầy! Làm nhớ “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần/ Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…” (Văn Cao). Lần theo chiếc cầu tre ọp ẹp nhiều đoạn như sắp gãy tìm chủ nhân. Chó bỗng sủa vang. Nhìn lên thấy một… sư trẻ râu ria rậm rạp, trông rất “tiên phong đạo cốt”. Chó dữ không thầy? Không. Nó hù thôi. Mời vào. Thì ra đó là thầy Chơn Quán, đệ tử của sư Giới Đức. Hùng và Thanh Nguyên không biết tự lúc nào đã theo chân nên cùng kéo vào thảo am. Hùng giới thiệu tôi. Sư mừng rỡ, ủa vậy hả? Rồi vội vàng châm nước pha trà mời khách phương xa, tuy chưa quen mà không hề lạ. Chơn Quán là đệ tử “chân truyền” về thư pháp của sư Giới Đức thì phải, lại phụ trách website của Huyền Không Sơn Thượng… nên không lạ gì với chúng tôi! Đúng là tứ hải giai huynh đệ.
Rồi Chơn Quán đích thân đưa bọn tôi lên cốc của sư Giới Đức. Tôi với Sư thì đã khá quen nhau. Sư cười: anh leo dốc cao vậy mà không thấy mệt hỉ? Rồi Sư… “tâm tình” một buổi, cùng trả lời những thắc mắc của anh em đặt ra về Phật pháp. Phải nói bây giờ Sư đã có cái nhìn rộng mở, xuyên suốt. Sư nói đã có lời nguyện từ khi xây dựng Huyền Không Sơn Thượng, nay đã gần như hoàn thành tâm nguyện. Giờ đến lúc phải nhập thất. Bỏ hết thơ văn, thư pháp, không tiếp ai, không điện thoại, không vi tính, hoàn toàn tĩnh lặng… Sư nói hôm nay vui quá. Chưa có hôm nào vui như vậy. Sư mời mọi người cùng chụp với Sư một tấm hình kỷ niệm…
Rời Huyền Không Sơn Thương, đoàn về chùa Thiên Mụ. Đã quá trưa. Chùa đông du khách quá! Lễ Phật, tham quan các nơi rồi… kéo nhau xuống núi.
Vẫn mưa lất phất không ngơi. Sơn nảy ý đề nghị mọi người đi thăm chùa Túy Vân, một danh thắng cách Huế khá xa, miệt biển, không có trong chương trình. Vẫn mưa.
Buổi tối áp thấp nhiệt đới. Sóng trên sông Hương mạnh dần lên nên chương trình đi thuyền trên sông, nghe ca Huế phải hủy. Thế nhưng, không nghe ca Huế trên sông thì các bạn tổ chức cho nghe ca Huế trên bờ tại thính phòng Bảo tàng văn hóa do nhà thơ Võ Quê phụ trách!
Ngày mai, sẽ viếng các chùa Huế xưa…
Trước hết, viếng chùa Quốc Ân, Tổ đình thiền Lâm Tế, do Sư Nguyên Thiều khai sơn, năm 1682, thời chúa Nguyễn Phúc Tần. Một cõi Phật trang nghiêm, thanh tịnh. Lòng như nhẹ lâng. Mưa vẫn mưa bay. Rồi đến chùa Thuyền Tôn, do thiền sư Liễu Quán khai sáng từ đầu thế kỷ 17. Đây cũng là nơi đã nhiều lần mở các Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn tín đồ. Huế nay có Trung tâm Liễu Quán rất trang nhã bên bờ sông Hương và có giai phẩm Liễu Quán rất đẹp và giá trị. Ghé Ni viện Diệu Đức, được xây dựng từ năm 1932 bởi Sư bà Diệu Không, nay vẫn là một trung tâm đào tạo nổi tiếng cả nước.
Chùa Bảo Quốc có từ đời chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán từng đến học đạo nhiều năm, sau này trở thành trường Cao đẳng Phật học, đào tạo tăng tài. Các Hòa thượng Trí Tịnh, Thiện Hoa… ở phương Nam cũng từng đến học nơi này. Bác sĩ cư sĩ Lê Đình Thám, hội trưởng An Nam Phật học hội, cũng sinh hoạt tại đây.
Chùa Bảo Quốc đã được Hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết năm 1808 và sau này Bà Từ Dũ cũng đã hỗ trợ sửa sang.
Tiếp đó viếng chùa Tường Vân, Từ Hiếu, Từ Đàm, và hôm sau còn ghé thăm Trúc Lâm Bạch Mã… trên đường đi Đà Nẵng.
Rất tình cờ, không tính trước vậy mà đã có dịp viếng mười cảnh chùa Huế.
Đi sâu vào các chùa chiền xứ Thần kinh mới thấy Phật giáo từ xa xưa đã được vua chúa quan tâm hỗ trợ, đặc biệt chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… đã tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, cũng đã được các Công chúa, Hoàng hậu… tích cực giúp đỡ xây dựng, trùng tu. Huế đúng là cái nôi của Phật giáo không chỉ của miền Trung mà gần gũi biết bao với miền Nam. Ngoài việc tu tập còn đào tạo tăng tài, ra báo, tổ chức hệ thống gia đình Phật tử. Đã có sự đóng góp không nhỏ của các Cư sĩ, Phật tử. “Gốc sâu thì nhánh tốt/ Nguồn xa thì sông dài…”.
Ở chùa Bảo Quốc hiện nay còn thấy có trưng bày hình ảnh các vị Hòa thượng và cư sĩ Lê Đình Thám, cùng một bài Thi kệ của Thầy Phước Hậu.
“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”
Phải, “Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như”.
Vậy là đã đủ!
Hôm sau, rời Huế sớm để lên đường về Đà Nẵng.
Cứ như học trò xứ Quảng ra thi! Lại cà phê Liễu Quán. Lại sông Hương dùng dằng.
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
(Thu Bồn)
ĐHN
(Báo Văn hóa Phật giáo, số Vu Lan, 2016)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

