Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 89

November 16, 2016

Ở đây và bây giờ

Ở đây và bây giờ


Đỗ Hồng Ngọc


 


Một nhà báo nằm chiêm bao thấy gặp Thượng Đế bèn mở máy ghi âm xin phép được phỏng vấn vài câu nếu Ngài có thì giờ.


–          Cứ tự nhiên. Thì giờ của ta vô lượng!


–          Từ khi… tạo ra loài người, Ngài có điều gì băn khoăn thắc mắc về họ không?


–          Nhiều lắm.


–          Chẳng hạn?


–          Loài người rất lạ. Lúc nhỏ thì mong cho mau lớn. Lớn rồi thì mong cho nhỏ lại…


Nhà báo giật mình, thấy hơi nhột. Thượng Đế tiếp:


–          Lạ nữa, lúc trẻ khỏe thì họ mang hết sức lực ra đấu đá tranh giành để kiếm cho thật nhiều tiền… Rồi khi có tuổi, họ mang tiền đó ra… phục hồi sức khỏe!


Nhà báo rút khăn lau mồ hôi trán.


–          Nhưng lạ nhứt là loài người không sống!


–          Nghĩa là họ…


–          Không. Họ vẫn tồn tại nhưng không sống. Họ luôn nhớ tiếc dĩ vãng hoặc mơ ước tương lai. Mà dĩ vãng thì qua rồi, tương lai thì chưa tới. Họ luôn ở trong cái đã qua rồi hoặc cái chưa tới… nên nói họ không sống…


–          Ý Ngài là phải biết sống trong hiện tại?


–          Phải. Ở đây và bây giờ.


 


Nhà báo tỉnh giấc, toát mồ hôi, đưa tay vò mái tóc… lẩm bẩm: “Đời tôi ngốc dại/ Tự làm khô héo tôi đây/ Nửa đêm thức dậy/ Chập chờn lau trắng trong tay…” (Trịnh Công Sơn)


Rồi sực nhớ lời Phật dạy:


Không than việc đã qua,

Không mong việc sắp tới,

Sống ngay với hiện tại,

Do vậy, sắc thù diệu…


 


(phẩm “Cây Lau”)


…………………………………………………………………………………………………………………………


(báo Văn hóa Phật giáo, số 261, tháng 11/2016)


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 16, 2016 18:07

Tiếng vổ của một bàn tay

Tiếng vổ của một bàn tay


Đỗ Hồng Ngọc


 


Vổ phải hai bàn tay chứ! Một bàn tay làm sao vổ cho ra tiếng được?


Đây là một trong những công án nổi tiếng của Thiền tông. Thầy cho trò một công án. Có khi là một câu, một chữ, một vấn đề gì đó… để trò ngất ngư nghiền ngẫm ngày này qua tháng khác, rồi trò đánh bạo thử trình lên thầy, thấy quất chổi đuổi đi. Lại tiếp tục nghiền ngẫm ngất ngư… ngày này qua tháng khác, cho đến một hôm, thấy ánh trăng xuyên qua cành lá, nghe một tiếng ngói vỡ… bỗng à há một tiếng thảng thốt. Thầy vẫn dõi theo trò từng bước. Khi thấy trò đã kêu lên “À há!” thì hai thầy trò bèn bá vai nhau lặng lẽ cùng dạo quanh vườn:


Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá


Ánh sáng tuôn đầy các lối đi…


(Xuân Diệu)


 


Công án là một cách tốt để thiền (tùy căn cơ). Nó buộc tâm ta lại. Không cho chạy lăng xăng. Một phương thức ”thiền chỉ” hiệu quả.  Nhưng công án cũng là một phương thức “thiền quán” tuyệt vời. Nó có thể mở ra thênh thang một cách nhìn mới, nghĩ mới, để từ đó, nhận ra Thể tánh, Chơn tâm, Như Lai tạng… đằng sau lớp sương mù dày đặc che mờ bấy nay.


Công án nhiều khi chẳng cần có lời giải. Chỉ cần làm sao … buộc chặt được tâm của thiền sinh lại, không để bị tán loạn, lang bang. Nhờ đó có thể bước thêm những bước để ngộ nhập “Tri kiến Phật” vậy.


 


Phật bảo đánh một tiếng chuông. Hỏi có nghe không, Anan ? Dạ, có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Tiếng chuông dứt, Phật hỏi có nghe không Anan ? Dạ, không. Không nghe. Không nghe gì? Không nghe tiếng chuông. Phật cho đánh lại tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Phật cười: Tôi hỏi ông có nghe không chớ đâu có hỏi ông có nghe tiếng chuông không? Giữa hai lần giộng chuông ông vẫn nghe đó chứ, ông nghe sự im lặng, nghe sự “không – có – tiếng” đó chứ. Vậy cái sự “nghe” của ông đâu có mất dù cái tiếng chuông kia khi có khi không.


 


Tiếng là thanh trần, từ bên ngoài, luôn thay đổi. Còn “nghe” – khả năng nghe, “tánh nghe” – là tự bên trong, không hề thay đổi, luôn có đó. Nếu không có bệnh lý gì về nhĩ căn (thính giác) thì cái sự nghe luôn thường hằng, luôn trong sáng, thanh tịnh.


 


Một bàn tay thì không thể tạo ra tiếng vổ. Nhưng câu hỏi không nằm ở tiếng. Câu hỏi dụng ý đặt ở chỗ khác: chỗ “nghe”. Đáng ra câu hỏi sẽ phải là “Có nghe tiếng vổ của một bàn tay không?”. Có hay không? Không phải có “tiếng” hay không mà là có “nghe” hay không? Câu trả lời sẽ là không có tiếng nhưng vẫn có nghe. Nghe cái gì? Nghe cái không – có – tiếng.


 


Ta không nên để dính mắc với tướng (cái trình hiện, cái biểu kiến, hình thức, từ bên ngoài, luôn thay đổi, do điều kiện mà có, như mắt với sắc, tai với thanh, mũi với hương, lưỡi với vị…), trong khi cái tánh thấy, tánh nghe… bên trong ta vẫn không thay đổi, vẫn bất biến.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 16, 2016 06:42

Tựa cho cuốn “NẾP SỐNG AN LẠC”…

Ghi chú: Mấy dòng này là Lời Tựa tôi viết cho một cuốn sách ”nói” của mình sắp ra mắt vào cuối năm. Gọi sách ”nói” nhưng không phải sách ”nói”, chẳng qua là gom góp một số bài ”trò chuyện” lai rai, rề rà – mà tôi thường gọi là ”tào lao” – của tôi nơi này nơi khác được ghi âm, ghi hình, rồi ”phiên tả”, rồi ”biên tập” rồi… in ra làm quà cho bè bạn anh em…


Cảm ơn các bạn trẻ THP và LVH đã tích cực giúp tôi trong quá trình thực hiện.


Đỗ Hồng Ngọc


 


Tựa 


Trò chuyện với BS Đỗ Hồng Ngọc


về NẾP SỐNG AN LẠC


 


An lạc không phải là hạnh phúc, sảng khoái, hài lòng, vui sướng… nhất thời, trái lại nó như dòng suối mát tưới tẩm ở bên trong. An lạc là một trạng thái hỷ lạc tự bên trong mỗi cá nhân, nhẹ nhàng, bền bỉ, mang lại sự bình an cả thân và tâm cho chính mình và lan tỏa đến người khác. An lạc thường đến từ tuệ giác, đưa đến sự tự tại, ung dung, cân bằng cả về vật chất lẫn tinh thần. (ĐHN)


Một người trúng số độc đắc, một hoa hậu đạt vương miện, một người có tên trên bảng vàng, có thể đang cảm nhận rất hạnh phúc, rất sướng vui… nhưng chẳng bao lâu sự bất an sẽ dồn dập đến, nỗi khốn khổ sẽ kề bên…


Một người thực sự an lạc chẳng thấy có hào hứng rộn rã bộc phát ầm ĩ nào cả; chẳng có đám đông vỗ tay với những tiếng hò reo, chẳng có vòng nguyệt quế, mà chỉ có sự lặng im, nhiều khi một mình, âm thầm, lặng lẽ. Nụ cười đến tự bên trong, nụ cười của toàn thân, của từng tế bào, không ở đầu môi khóe miệng…


Cho nên an lạc không dễ. Nó đòi hỏi sự kham nhẫn, sự tri túc, và cả từ, bi, hỷ, xả.


Nhiều khi phải qua cái tuổi nào đó, thấm đẫm một chút cuộc đời, nghe được cái tiếng kêu ‘trần thế’ thì mới nhận ra sự thiết yếu của tự tại. Nhưng đợi đến lúc  “nhìn lại mình đời đã xanh rêu”(TCS) thì đã trễ. Bởi người ta có thể an lạc ở đây và bây giờ.


Ta hay chúc nhau “Thân tâm thường an lạc” như một ước vọng. Phải, an lạc thì phải cả thân và tâm. Thân tâm nhất như. Tâm có an thì thân mới lạc. Tâm có lạc thì thân mới an. Mà đời thì vô thường. Làm sao thấy thường trong vô thường đây. Trừ phi thấy Thực tướng, thấy Chơn Như


Mấy năm gần đây, tôi thường được mời nói chuyện về “Một nếp sống an lạc” ở nơi này nơi khác. Có khi ở một ngôi chùa, có khi ở một trung tâm mục vụ, có khi ở một hội quán, câu lạc bộ doanh nhân, một nhóm bạn trẻ, hoặc cùng các bậc trí thức… Những buổi chuyện trò đó, với tôi,  đều là một cơ hội để học hỏi, giao lưu, chia sẻ. Lời lẽ do vậy mà nhiều khi rề rà, cà kê… chớ không mạch lạc, khúc chiết. Có một số buổi được thu âm, ghi hình. Thế rồi một hôm, có bạn đề nghị hay là ta gom mấy bài nói chuyện này lại, chọn ra một ít rồi in thành tập sách chia sẻ với mọi người cũng hay! Nhưng nghe thì thoáng qua, trực tiếp, còn in sách thì không dễ tí nào. Nói thì cà kê, rè rà được, lại còn có những phụ trợ như chiếu slides, vẽ viết lên flipchart, có ‘body linguage” (ngôn ngữ hình thể) diễn tả… trong truyền thông trực tiếp, bây giờ phải làm sao? Dù vậy, người bạn cũng đã gom được 31 bài có thu băng, ra đĩa gì đó, cả trên mạng, chọn ra mấy bài có chung chủ đề “Nếp sống An lạc” rồi nhờ ‘’phiên tả’’, rồi biên tập… Tôi yêu cầu làm sao giữ được giọng điệu trò chuyện cà kê, kể cả tiếng địa phương, kể cả chuyện tếu táo của mình… để người đọc như đang nghe trực tiếp thì tốt. Tóm lại, đây là một cuốn sách ‘’nói’’ chớ không phải sách viết. Người đọc thì… nghe chớ không phải xem.


Hôm rồi, ngồi với một người bạn trẻ trong một quán cafe nhỏ, chúng tôi bàn với nhau về hai chữ “An lạc”. An lạc có phải là well-being,bien-être không? hay An lạc là eudaimonia, một tiếng cổ Hy Lạp thời Aristote gồm “eu” (“good”) và “daimon” (“spirit”), một đức hạnh, đòi hỏi có sự rèn tập? Phải chăng đó cũng chính là điều Phật đã dạy trong ‘’An lạc hạnh’’ một phẩm của kinh Pháp Hoa hơn hai ngàn năm trăm năm trước: biết an trụ trong pháp Không, trong hạnh Tùy hỷ, trong đại Từ đại Bi?


Thử ”chiết tự” từ Hán Việt thì ra An là ‘dưới mái nhà có người con gái’, còn Lạc là ‘ngôi nhà tràn đầy ánh sáng, có vườn cây xanh mát, có tiếng hát, tiếng đàn, tiếng dệt cửi, quay tơ…’:. Rồi cùng mà cười. “Em lo gì trời gió/ em lo gì trời mưa…/ em cứ yêu đời đi/ như lúc ta còn thơ/ rồi để anh làm thơ/ và để em dệt tơ…” (Thoi tơ, thơ Nguyễn Bính, nhạc Đức Quỳnh).


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


(Saigon, 11.2016)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 16, 2016 02:43

November 9, 2016

Bông Hồng Cho Mẹ

Thư gởi bạn xa xội


Bông Hồng Cho Mẹ


Bài thơ nhỏ của mình viết ngày Giỗ Mẹ đầu tiên năm 2012, cũng là ngày Vu Lan, chỉ có 4 câu ngắn ngủn:


Con cài bông hoa trắng


Dành cho Mẹ đóa hồng


Mẹ nhớ gài lên ngực


Ngoại chờ bên kia sông…


(ĐHN)


chẳng ngờ được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc với một âm điệu đầy xúc cảm và ca sĩ Diệu Hiền đã trình bày dạo nọ. Nay ca sĩ Thu Vàng cũng vừa thực hiện xong clip bài này hát, xin được chia sẻ nơi đây cùng bè bạn thân quen.


Thu Vàng hát thật lạ! Thử nghe xem. Câu “Mẹ nhớ gài lên ngực” hình như cô đã khóc, tiếng hát bỗng run và rung… !


Đáo bỉ ngạn.


Nhà thơ Đỗ Trung Quân hôm nghe Thu Vàng hát ở Đường Sách cũng kêu lên: ”Em thấy rợn người. Nhất định em sẽ vẽ, sẽ vẽ…”


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 09, 2016 02:19

October 29, 2016

Vô tâm

Lõm bõm học Phật


Vô tâm

 


Chuyện kể một đệ tử từ xa lặn lội đến tìm thầy học đạo, bất kể gió mưa, băng tuyết. Vị thầy là một thiền sư từ Tây Trúc đến, tu thiền nhiều năm, ngồi nhìn vách đá. Đệ tử quỳ trước hang động suốt nhiều ngày đêm, áo quần tơi tả, đói lạnh, xanh xao… Vị thiền sư vẫn mặc. Cho đến một hôm, thấy thử thách như vậy là đã đủ, thiền sư quát hỏi:


“Ngươi đến tìm ta có việc chi?”


Đệ tử lập cập thưa: “Con chỉ muốn được tâm an”.


“Vậy ngươi đưa tâm đây Ta an cho”, thiền sư bảo.



 


Đệ tử bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm tâm. Có lẽ tâm ở trong thân. Có lẽ tâm ở sau con mắt. Có lẽ tâm ở mấy sợi thần kinh, ở mấy nếp nhăn trên vỏ não hay tâm ở vùng dưới đồi, hypothalamus…Không thấy đâu cả. Hay tâm ở ngoài thân. Ở nơi sắc tướng, nơi âm thanh, nơi mùi hương, nơi vị giác… cũng không thấy. Hay tâm là ý? Giác quan thứ sáu, núp sau năm giác quan tai mắt mũi lưỡi mà ai cũng biết. Cũng không thấy. Hay tâm là thức? Là cái nhận biết, biện biệt, so sánh, đánh giá nằm… sau cái ý, luôn xô đẩy con người vào chốn thị phi hơn kém, tham sân si, mạn, nghi, kiến? Cũng không phải. Hay tâm ở trong cái hủ chứa, còn gọi là tàng thức, tích cóp đủ thứ trên đời, từ ngàn kiếp rong chơi, những chủng tử, những hạt mầm. Cũng không phải.


Đệ tử nói: “Con không tìm thấy tâm đâu cả”.


 


Thiền sư nâng người đệ tử nhiều ngày đêm đã quỳ trên tuyết giá toàn thân gần như sắp đóng băng đứng lên, cho dựa vào người mình rồi ân cần bảo:


“Vậy là ta đã an tâm cho con rồi đó”.


 


Thì ra, tìm không thấy tâm đâu tức là đã làm cho tâm an. Mà thiệt. Tâm tưởng có mà không có. Không nắm bắt được. Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai đều không thể tìm thấy (bất khả đắc). Tâm vô sở trụ. Không trụ vào đâu cả, không dính vào đâu cả thì biết đâu mà tìm! Tâm mà trụ thì tâm bất an ngay, bị “quái ngại”, bị “khủng bố” ngay. Tâm “vô sở đắc”, “tâm bất sinh”…


 


Trong suốt hành trình tìm kiếm tâm đó có lẽ đệ tử đã mệt nhoài, đôi lần suýt ngất, rơi vào trạng thái vô ngã thực sự, đã không qua khỏi mắt vị thầy…


 


Đừng tìm kiếm mất công. Nó sẵn đó. Nó luôn sẵn đó. Vằng vặc. Mênh mông. Thuần khiết. Thanh tịnh. Thường hằng. “Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh…”.


 


Khi Thức kia thành Trí thì đã trở thành một “đại viên cảnh trí” hay “nhất thiết chủng trí”. Mạt-na thành Bình đẳng chánh trí, không phân biệt nữa và giác quan thứ sáu kia thành Diệu quan sát trí. Chân không mà diệu hữu. Diệu hữu mà chân không. Vui thay!


 


Cho nên Trần Nhân Tông bảo: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.


 


Tôi học được một chữ Hán. Chữ tướng, gồm một bên là chữ mộc (cây), một bên là chữ mục (mắt). Căn với trần gặp nhau thì thành cái tướng, cái hình thể, cái trình hiện, bày biện ra cho thấy. Khi thêm vào một chữ tâm thì thành chữ tưởng, sinh sự ngay, nào phân biệt, nào dính mắc, phan duyên lằng nhằng, chằng chịt, gỡ không ra!


Tiếng Việt hay thiệt: Tướng với Tưởng chỉ khác nhau chút xíu ở cái dấu sắc thành dấu hỏi đó thôi!


 


Đỗ Hồng Ngọc


(9.2016)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2016 02:15

Thiền là gì ?

Lõm bõm học Phật



Thiền là gì ?

 


Theo Sư phụ học thiền đã nhiều năm vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về thiền là gì nên một hôm nhân cùng Sư phụ bơi thuyền dạo chơi trên hồ nước mênh mông trước thiền viện, thấy Thầy có vẻ sảng khoái, vui tươi, người đệ tử đánh bạo hỏi:


–         Thưa sư phụ, thiền là gì ạ?



Thầy chưa kịp trả lời thì chiếc thuyền bỗng lắc lư càng lúc càng mạnh rồi lật úp xuống . Người đệ tử không biết bơi, vùng vẫy sắp chết đuối đến nơi. Thầy vớt người đệ tử lên thuyền, vổ vai nói:


–         Thiền là vậy đó con !


Người đệ tử ướt như chuột lột, run rẩy, mặt mày tái mét và bỗng nở một nụ cười.


Thì ra thiền không phải “là gì” mà thiền là “vậy đó”.


“Vậy đó” là giữa cái sống và cái chết, ta thấy biết thiền. Thiền trung gian giữa cái sống và cái chết. Từ bờ này qua bờ kia. Yết đế yết đế. Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté… Thiền như sự hối thúc: Qua đi, qua đi, qua luôn đi…


Nhưng chưa qua luôn được thì ở tạm cõi tạm vậy.


Tự tại và An lạc khi đã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.


 


Nhưng ở đây còn cụ thể hơn: Thiền là thở. Người đệ tử loi ngoi suýt chết đuối, tìm cách vùng vẩy, trồi lên mặt nước để lấy hơi thở.


Thở một hơi thở. Ấy là thiền. Thở vào và thở ra. Chỉ có vậy mà vô vàn, mà “nói không được” (bất khả thuyết). Không ai có thể thở giùm ai được. Mỗi người phải tự thở cho chính mình. Mỗi người phải “nương tựa vào chính mình”. Có sư phụ đó, nhưng sư phụ không thể thở giùm mình được, không thể thiền giùm mình được.


Krishnamurti bảo cái gì mà có định nghĩa thì luôn luôn thiếu sót.


 


Đỗ Hồng Ngọc


(9.2016)


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2016 02:02

October 20, 2016

« Từ nhãn thị chúng sanh »

 « Từ nhãn thị chúng sanh »

tặng Sm,


Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.(Kinh Pháp Hoa).


Ý xưa nay vốn vô tận. Vô số vô lượng vô biên… chúng sanh đều do ý mà ra! Ý dẫn đầu các pháp. Một khi “Ý” mà thanh tịnh rồi thì các căn khác tự dưng đều thanh tịnh theo.


Diệu Âm là cảm xúc, là thọ. Thọ đến rồi … thọ đi! Nhưng tưởng thì ở lại. Tưởng ở lại để sanh “vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não”.


Phật dạy thứ thuốc « đặc trị » cái tưởng là « Một lòng xưng danh » Quán Thế Âm Bồ-tát, lập tức vô lượng vô số khổ não sẽ biến mất ngay vì Quán Thế Âm là vị Bồ-tát có khả năng “nghe được tiếng kêu của trần thế!”



Bởi vì vỏ não ta một lúc không thể có hai ý tưởng cùng tồn tại. Nếu đã “một lòng xưng danh” Quán Thế Âm (nhất tâm bất loạn) thì không thể cùng lúc “xưng danh” cái gì khác nữa: tham sân si mạn nghi kiến lặn đi!


Nỗi sợ của con người là ghê gớm nhất. Sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ xấu xí, sợ bệnh hoạn, sợ già nua… Cho nên giúp cho con người ta hết sợ là đủ để mang lại hạnh phúc, đủ để  “cứu vớt chúng sanh”. Nhưng vì đâu mà người ta sợ? Vì tưởng. Tưởng nên mới thấy sợi dây thành con rắn. Tưởng nên mới cho cái gì của mình cũng nhất thiên hạ. Tưởng nên vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã… Tưởng là của ta, là ta, là tự ngã của ta nên mới sinh đủ tham sân si mạn nghi kiến ! Nên Bồ-tát Quán Thế Âm có một món quà mang tặng giúp người ta hết sợ : vô úy thí!


Một khi xưng danh Quán Thế Âm thì « dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng; bị nước lớn cuốn trôi, liền đặng chỗ cạn;  gió lớn thổi ghe thuyền đặng thoát khỏi nạn », còn trên đất thì « dao gậy liền gãy từng khúc, gông cùm xiềng xích đứt rã… »… Tứ đại « đất, nước, gió, lửa » đều đã trở nên yên ổn.  Còn Tham sân si thì sao ? “Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, liền đặng ly dục. Nếu người nhiều ngu si, liền đặng lìa ngu si…” Tham sân si cũng dứt.


Quán Thế Âm Bồ-tát cũng chính là Quán Tự tại Bồ-tát.


« Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách”! (Tâm Kinh).


Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát dấn thân, có lòng Từ bi lớn, một thứ vô duyên từ, gồm cả các hạnh của Thường Bất Khinh, của Dược Vương và của Diệu Âm Bồ-tát… Đó là tôn trọng, chân thành, thấu cảm, nên có khả năng “hiện nhất thiết sắc thân” và « giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn », từ đó mà có thể: « từ nhãn thị chúng sanh »!


Quán Thế Âm không đến từ bên ngoài mà đến tức khắc từ bên trong mỗi chúng ta. Khi ta “cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát” thì ta đã sống với lòng Từ Bi Hỷ Xả, đã biết lắng nghe và biết tôn trọng, biết thấu cảm, và nhờ đó đã mang lại an vui hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người vậy.


Đỗ Hồng Ngọc

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 20, 2016 23:35

October 17, 2016

Truyện ngắn Đỗ Nghê: Người Thứ Hai

Người Thứ Hai

Oct18


Lời dẫn trên blog Nguyệt Mai:

Trong một lần trò chuyện trên dutule.com với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (kỳ thứ 23), ông tiết lộ: “Tôi không có khả năng “hư cấu” nên không viết được truyện dài truyện ngắn tiểu thuyết như các bạn mình…” Nhưng gần đây, ông chợt nhớ có một truyện ngắn của ông đã đi trên tạp chí Mai xuất bản tại Saigon năm 1965. Và đây cũng là truyện ngắn duy nhất của ông.


Nguyệt Mai chân thành cám ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã cho phép trang blog Trần Thị Nguyệt Mai được post chia sẻ với bạn bè và cám ơn bạn Đèn Biển đã giúp đánh máy trong thời gian sớm nhất.



———


Người Thứ Hai

Truyện ngắn của Đỗ Nghê


Tôi yêu Mai. Điều đó chỉ mình tôi với một người thứ hai biết, dĩ nhiên không kể Mai. Tình yêu đó điên cuồng đến nỗi bây giờ mỗi lần nhớ tới là tôi còn sượng chín cả người, tôi phải nhắm mắt một lúc để khỏi nhìn thấy mặt mình phản chiếu qua lớp không khí chung quanh. Khốn nỗi mỗi lần nhắm mắt một lúc như thế, tôi lại nhắm khá lâu, vì lúc đó hình ảnh Mai hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết. Khi biết chắc là mình không có hy vọng gì, tôi đổ lỗi cho sự vụng về của tôi, cho những mặc cảm từ lâu đời xếp lớp trong tôi và cho tính tự ái ngụy trang thành tự trọng của tôi. Tôi tự dằn vặt mình ngày này qua ngày khác khiến vài bạn thân đã phải nhắc: Làm sao nên nỗi? Không khéo thuốc men có thể không qua khỏi mùa thu này. Người bạn dễ tin, nghe tôi kể chuyện liêu trai của một đêm nào đó, trong bóng mờ nàng hiện ra diễm ảo lạ thường…

Rồi những ngày đi bệnh viện, tôi tự nhủ phải quên Mai để đi đứng vững vàng, để mặt mày bớt hốc hác. Tôi chọn một thái độ cho là hợp lý nhất để trị bệnh tôi: ghét đàn bà. Không may cho tôi, bệnh viện tôi đến là một bịnh viện đàn bà – đàn bà bịnh và đàn bà không bịnh, đàn bà đẹp và đàn bà không đẹp… đi ra gặp đàn bà, đi lên gặp đàn bà, đi xuống gặp đàn bà… Tôi phải cố gắng hết sức để quên Mai. Tôi tự nhắc đi nhắc lại là làm sao cũng phải quên Mai.


Anh ngồi đợi “cas” đầu. Nỗi lo lắng chiếm trọn tâm hồn nên không còn chỗ cho Mai trú ngụ. Anh xin lỗi, dù Mai không yêu anh. Chiều nay, Mai đi học về, thế nào cũng có bọn lố lăng đón đường chọc ghẹo. Đó, anh bảo đừng làm con gái đẹp em có chịu nghe đâu!


– Có “cas 5 cm”* ông thầy nhận không này?


Tôi giật mình nhìn người nữ hộ sinh và gật đầu như cái máy.


– Ông cân đo cho bà ấy đi! – Cô bảo.


Người đàn bà còn trẻ, nhăn nhó vì đau. Nhất định em sẽ nhăn đẹp hơn bà này, Mai ạ. Bà sanh lần thứ mấy? Thứ hai à, tốt lắm. Bà đến tôi cân đo cho. Đôi mắt bà giống Mai ghê, nhưng kém tươi mát hơn Mai…


Sau khi làm đủ mọi “thủ tục” cần thiết cho một người đàn bà sắp sanh như thông nước tiểu, cạo lông mu xong tôi đưa bà ra nằm đợi ở phòng sanh. Lợi dụng lúc bà không đau tôi hỏi chi tiết để ghi vào hồ sơ cho đầy đủ. Anh nhất định không thèm nhớ tới Mai nữa…


Tôi hỏi thật nhỏ nhẹ, lời lẽ cân nhắc đắn đo sao cho người đàn bà nằm đây chờ sanh tin cậy nơi tôi mà không thẹn thùng khi phải trả lời những câu hỏi của tôi đôi khi như chạm đến bí mật riêng tư của bà. Tôi hỏi về gia đình bà, và những đứa con của bà. Tôi giảng giải cho bà nghe những giai đoạn trong việc sanh nở. Tôi nhớ mang máng có đọc trong tạp chí nào đó một phương pháp đẻ không đau nên thử áp dụng. Người đàn bà có học thức, bà hiểu những điều tôi nói dễ dàng.


Anh chợt thấy mình đang nói chuyện với Mai. Sao hôm nay Mai dễ thương thế. Hôm nọ anh thấy trong mắt em lẩn khuất vẻ tinh quái khó chịu, vẻ tinh quái của một con chồn sung sướng biết chắc chuồng gà quên đóng cửa đêm nay.


Những cơn đau thắt của người sản phụ làm tôi nhất định lần nữa không nghĩ tới Mai. Tôi loay hoay nghe tim đứa bé trong bụng mẹ – không biết là trai hay gái nhỉ, tim nó đập bình thường. Dụng cụ cần thiết cho việc cắt rún, áo quần em bé đủ cả, tôi chỉ còn chờ giờ bà sanh.


Trên bãi cát phẳng lì này, anh đã nằm nghe trời đất tự tình. Những đợt sóng lớn nhỏ đuổi nhau, đùa giỡn trên bãi, cuốn đến chân anh rồi ngại ngùng rút đi. Những con sò ca trên cát trắng. Em thấy còng gió đó không Mai? Nó chạy nhanh hơn gió. Đừng đuổi mất công. Để hôm nào anh đưa em đi xem cách người ta bắt còng nghe. Quê hương anh thật nghèo, thật đẹp. Rừng dương reo vi vu ru mình vào giấc ngủ. Ngoài xa đó, nhìn đi Mai, là một hòn đảo nhỏ, sò, hến, ốc, rong rêu, đá ngầm đủ thứ… Em có muốn đi xem không Mai?


– Uống nước được không ông? Tôi khát quá!


Tôi giật mình:


– Được, bà uống ít thôi nhé.


Rồi đi lấy nước cho bà uống. Bây giờ thì bà đã đau rột. Tôi bắt mạch, đo thời gian co tử cung, rồi nói chuyện cho bà nghe để bà quên đau. Lấm tấm trên trán, trên mũi bà đọng mấy giọt mồ hôi – giọt mồ hôi của những người mẹ hợp với nước mắt của họ làm thành biển mẹ bình bồng những đứa con – tôi nghĩ về mẹ tôi một cách biết ơn hơn bao giờ hết.


Tôi thăm lại cổ tử cung và cho bà biết bà sắp sanh được. Tôi ghi thêm vào hồ sơ “Tête en OIGA”**. Không biết em OIGA hay OIDP hở Mai? Mới đó mà mười tám năm đã qua, giờ em ngồi nói chuyện với anh một cách nghiêm trang, một cách tinh quái, một cách kiêu hãnh, còn anh, anh vẫn tự hỏi em lúc sanh ra theo “position” nào, OIGA, OIDP…? Mười tám năm rồi, tóc em giờ xanh mướt – những sợi tóc lòa xòa lạc lõng trước trán và hai lọn tóc buông thõng cuốn tròn ôm kín khuôn mặt em đã nhiều lần làm anh muốn ngộp thở…


– Tôi muốn rặn quá ông ơi!


Người đàn bà cắn môi, nhăn mặt, chuẩn bị rặn. Tôi khuyên hãy đợi một lát, chờ cho cổ tử cung nở hẳn, để tránh nguy hiểm về sau. Bà uốn cong người, nhịn rặn, hả miệng to để thở và những giọt mồ hôi gặp dịp tốt không quên túa ra, tụ lại, chảy xuống thành dòng…


Tôi đặt tay lên bụng bà, lo lắng, thầm khấn cho bà sanh dễ dàng, mau chóng…


Mười phút sau, cổ tử cung đã nở hoàn toàn, đầu em bé đã xoay sang OP, tôi cho bà rặn. Lúng túng một cách “lành nghề”, tôi “đưa” em bé ra không gặp trở ngại gì, dù đây là lần đầu tiên tôi thực tập đỡ đẻ.


– Con gái nghe bà! 10g15.


Người mẹ cười, nụ cười không từng thấy ở đâu.


Trong mắt bà tôi thoáng đọc những lời cảm tạ, tôi vội trao lời cảm tạ này cho Thượng đế vì không muốn làm gian thương. Tôi không có công gì hết.


Tôi cắt rún em bé, hút “nhớt dãi”! Dù sao đứa bé cũng đã khóc ngay từ lúc ra khỏi lòng mẹ. Tôi mỉm cười hài lòng. Em bé gái nặng hơn ba ký thật xinh, tay chân bé tí teo, ngo ngoe hỏi chuyện. Tôi băng rún, lau rửa, nhỏ thuốc vào mắt, mặc áo cho bé xong, mang đến đặt bên mẹ nó. Người mẹ nghiêng mình nhìn con trìu mến… Tôi lo lấy nhau ra và làm những “thủ tục” cần thiết sau khi người đàn bà sanh. Hơn một giờ sau, tôi thở dài nhẹ nhõm, đẩy xe hai mẹ con ra cho người y công đưa về phòng.


Tôi lang thang xuống lầu. Nỗi cảm xúc lâng lâng không tên tuổi chiếm trọn chỗ của Mai. Tôi mong những cảm xúc mới này có thể giúp tôi quên được Mai. Đột nhiên, tôi có ý muốn viết thư cho Mai, kể lại những việc đã làm, đã nghĩ, nhưng tôi vốn yếu đuối, dù đam mê cũng không đủ can đảm.


Lòng vẫn còn bồi hồi, tôi xuống phòng nhận bịnh, nói chuyện bâng quơ với các bạn sinh viên ở đó.


… Lúc em bước vào phòng này ánh sáng và gió theo vào làm anh lóe mắt. Em nhăn nhó vì đau, người nữ hộ sanh hỏi:


– Có “cas 5 cm” ông thầy nhận không này?


Anh ngỡ ngàng bắt gặp đôi mắt của em, đôi mắt không bao giờ anh quên hôm đó. Anh cúi nhìn nơi khác. Làm sao anh có can đảm nhận “cas” là em hở Mai?


– Mơ gì đó, 12 giờ rồi, về chứ!


Một anh bạn vỗ vai tôi.


*


Hôm sau, tôi đến thăm người sản phụ ở phòng. Hai mẹ con khỏe mạnh. Hôm nay bà đẹp hơn hôm qua nhiều.


– Bà đặt tên cho em bé là gì?


– Dạ Mai. Quỳnh Mai!


– Ủa! sao bà biết?


Người sản phụ mở to mắt ngạc nhiên nhìn tôi đang ngạc nhiên nhìn bà.


Đỗ Nghê

(Bv Từ Dũ, Saigon 1965)


_____________


(*) Độ nở tử cung khi chuyển dạ.


(**) OIGA, OIDP, OP: Chữ tắt chỉ vị trí, tư thế của đầu thai nhi so với khung xương chậu của người mẹ.


 


(Nguồn: Tạp chí Mai – 1965)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 17, 2016 21:16

October 16, 2016

Năm học mới (2016)

Thư gởi bạn xa xôi,


Năm học mới (2016)

Mỗi năm, đúng như bạn nói, mình rút dần, rút dần, không còn đủ sức khỏe để dạy nhiều như trước. Nhớ lại 27 năm trước, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch mới mở, lúc đó còn mang tên là Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế Thành phố do Bác sĩ Dương Quang Trung làm Giám đốc (chưa gọi là Hiệu trường) thì khóa đầu tiên (1989) chỉ có 44 em sinh viên mà có đến chừng 40 thấy cô là giảng viên. Riêng Bộ môn Sức khỏe Cộng đồng (Bộ môn chủ lực của hướng đào tạo mới, đào tạo người bác sĩ vừa lâm sàng vừa cộng đồng, biết chữa bệnh, phòng bệnh và nâng cao sức khỏe [health promotion] cho người dân) thì có hơn cả chục người, gồm Bs Dương Quang Trung, Nguyễn Văn Truyền, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thanh Nguyên, Lê Trường Giang, Dương Đình Công, Nguyễn Ngọc Chiếu… họp hành ngày đêm, thiết kế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và tổ chức cơ sở thực địa là Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (Primary Health Care) ở xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, Tp HCM.


Mới thôi mà đã 27 năm.  Kẻ mất người còn. Các em khóa đầu tiên đó, nay đã là những giảng viên nồng cốt của trường, là giám đốc của các bệnh viện, trung tâm, các chương trình sức khỏe…


Bây giờ, vài ba năm gần đây, Trường đã có khối lượng sinh viên lên đến cả ngàn em.


Các lớp học như cá hộp. Các em chia ra 4,5 giảng đường mà chỉ có một giảng đường duy nhất thấy… mặt thầy, được tiếp xúc với thầy. Các giảng đường khác các em chỉ nghe tiếng thầy và coi slides chiếu trên màn hình, không có cả video. Phương pháp “Giáo dục chủ động tạo tham gia” phá sản. Thực tập cũng trở nên một vấn đề lớn.


Bộ môn mình phụ trách lúc đầu là Tâm lý học và Xã hội học (cùng với Bs Lâm Xuân Điền, có Bs Nguyễn Khắc Viện làm Cố vấn), sau đổi thành Bô môn Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe, nay là Bộ môn Y đức – Khoa học hành vi. Bây giờ với tuổi tác, sức khỏe… mình đã trở thành cố vấn và chỉ giảng dạy chút ít thôi.


Thường những buổi học đầu tiên, mình có dịp gặp gỡ với các em với bài “Đại Cương về Y đức và Khoa học hành vi”. Đó là cơ hội để mình gần gũi, chuyện trò với các em khi chân ướt chân ráo bước vào giảng đường đại học Y khoa.


Giảng đường 508. Thầy Đỗ Hồng Ngọc và các em Y 1, ngày 3/10/2016. (Ảnh: Trương Trọng Hoàng)

Giảng đường 508. Thầy Đỗ Hồng Ngọc và các em Y 1, ngày 3/10/2016.
(Ảnh: Trương Trọng Hoàng)


Mình chỉ như một thầy thuốc già kể chuyện… ngày xưa với các em. Mình nghĩ đó chính là cách dạy Y đức tốt nhất. Nếu không, chỉ là những bài học máy móc, trả nợ.


Mình hỏi vì sao em chọn học ngành Y? Để làm giàu? để có danh?…hay để có hạnh phúc, sống vì người? Mình nói về vocation (thiên hướng), về nghiệp… Nói với các em về cách học đại học, và ngành y có cái sướng là được học… suốt đời! Rồi khuyên các em giữ sức khỏe để có sức bền mà học Y. Không quên khuyên các em đọc sách. Đọc Cronin, Sommerset Maugham, Tchekov… Khuyên các em học y mà cũng đừng quên rèn luyện những năng khiếu riêng: thể thao, văn nghệ để có sự cân bằng trong cuộc sống đầy cam go của ngành nghề.


Rồi kể chuyện học Y ngày xưa… và ngày nay. Đây là một nghề đặc biệt trước sinh mệnh con người. Con người thì có cả thân lẫn tâm… Dĩ nhiên mình không quên kể chuyện mất sữa mẹ, chuyện đái dầm, chuyện nuốt rắn… Ôi còn biết bao điều!


Sau đó chiếu một số slides. Ít thôi. Nhớ ít thôi. Và chỉ nhớ những điều quan trọng. Thực lòng mình muốn chia sẻ với các em những cảm xúc, những tâm tư, những đặc điểm của người Thầy thuốc với những nguyên lý cơ bản trong y đức có tính phổ quát từ thời Hippocrates đến nay, từ Hải Thượng Lãn Ông đến nay như Primo Non Nocere (Trước hết, không làm hại, First Do No Harm); Làm lợi nhất cho bệnh nhân, Giữ bí mật nghề nghiệp, Công minh (không phân biệt), Tôn trọng sự tự chủ của người bệnh… Rồi những vấn đề trách nhiệm với cộng đồng, với đồng nghiệp, với đàn anh, thầy cô… và đặc biệt với “truyền thông”. Tất cả có trong Nghĩa vụ luận y khoa (Déontologie médicale) từ ngày xưa nhưng nay không còn dạy. Ngày nay người ta thấy trên truyền hình, báo chí xuất hiện nhiều giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ này nọ… quảng cáo thuốc và không phải thuốc rất tự nhiên…


Vậy đó. Chuyện dạy học đầu năm của mình với sinh viên Y 1. Năm nay mình cũng không còn dạy môn Chăm sóc sức khỏe ban đầu (PHC) như mọi năm, đã có BsThs Trương Trọng Hoàng thay thế.  Tóm lại, đã đến lúc “về thu xếp lại”, bạn mình ạ.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


img_1937


Sinh viên ở các giảng đường khác coi slides... trên màn hình...

Sinh viên ở các giảng đường khác coi slides… trên màn hình…

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 16, 2016 01:22

October 12, 2016

Có Lúc

Thiếu nữ tranh Thái Tuấn

Thiếu nữ
tranh Thái Tuấn


Có Lúc

tặng QT


Có lúc rồi anh sẽ hỏi

Hôm nay em nói với ai

Có lúc rồi anh sẽ hỏi

Hôm nay em cười với ai


Có lúc rồi anh sẽ hỏi

Hôm nay em đi nơi đâu

Có lúc rồi anh sẽ hỏi

Hôm nay em về nơi đâu…


Bởi em là riêng anh đó

Bởi anh là của em thôi

Như nắng là riêng của gió

Như biển là riêng của trời!


Đỗ Nghê


(blog tranthinguyetmai…)


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 12, 2016 22:32

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.