Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 90
October 5, 2016
MỘT NẾP SỐNG AN LẠC
Đó là buổi Nói chuyện (tào lao) của tôi nhân Ngày Quốc tế Người cao tuổi tại Cafe Thứ bảy của Nhạc sĩ Dương Thụ, có TS Nguyễn Văn Trọng làm MC. Một không khí thân tình, gần gũi, ấm cúng… như thường lệ ở không gian Cafe ”Gặp gỡ & Đối thoại” này, có điều hôm nay khá đông và ngạc nhiên hơn là rất nhiều bạn trẻ.
Cũng khá nhiều bè bạn thân thiết của tôi chắc cũng đã nghe tôi ”tào lao” vấn đề này nhiều lần nhưng cũng đến để ”ủng hộ”, thực ra là để gặp nhau, tay bắt mặt mừng, tán gẫu…30 phút trước khi ”nhập cuộc”. Có ông chủ Dương Thụ, có ông MC (thường lãnh giải Sách Hay) Ts Nguyễn Văn Trọng, nhà báo kỳ cựu Trần Trọng Thức, nhóm “”Kailash” từng đi Tây Tạng, Nepal, Bhutan như Ngô Tiến Nhân, Hưng, Thu, anh Phi Hùng từ Nhóm học Phật, KTS Nguyễn Hữu Thái- Tuyết Hoa, Bs Trương Trọng Hoàng, dược sĩ Chí, Ngọc Vân, họa sĩ Lê Ký Thương, Kim Quy, Thu Vàng, Hoàng Anh…
Rất nhiều câu hỏi đặt ra và buổi ”đối thoại” ngày càng trở nên sôi nổi.
Cảm ơn Bs Trương Trọng Hoàng và các bác sĩ trẻ Thanh Ngân, Nguyên Hùng… đã ghi hình và đưa lên youtube để chia sẻ cùng các bạn bè nơi xa xôi…
Đỗ Hồng Ngọc
October 3, 2016
Tham vấn Sức khỏe và các hạnh Bồ-tát
Đỗ Hồng Ngọc
Người thầy thuốc được dạy để chữa cái đau, cái bệnh cho con người nhưng con người không chỉ đau, chỉ bệnh, con người còn khổ nữa! Nỗi khổ còn khủng khiếp hơn cả nỗi đau, dày đặc dài lâu hơn nỗi đau, làm cho con người héo hắt, không sao có thể đạt được sức khỏe mà theo định nghĩa của Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO, 1946) là: Sự sảng khoái (bien-être; well-being) toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật! Chính cái khổ rồi cũng dẫn đến cái đau, cái bệnh, làm trầm trọng thêm tình trạng sức khỏe của con người. Ai cũng biết người mẹ đang cho con bú mà khổ vì ghen thì sữa có thể bị dứt đột ngột, con phải bị đói. Thuốc gì chấm dứt cơn ghen, tái lập phản xạ tiết sữa? Ai cũng biết người đau bao tử, người cao huyết áp không phải chỉ là do bao tử, do huyết áp, do vi trùng mà do sự bực dọc, đè nén, căng thẳng (stress) trong các mối quan hệ với gia đình, xã hội và cả với chính bản thân mình.
Người thầy thuốc có thể cho thuốc nhức đầu, đau bụng, thuốc ngủ, thuốc giải lo (anxiolityque) nhưng được bao lâu rồi đâu lại vào đó, nặng hơn, trầm trọng hơn vì nỗi khổ vẫn còn kia! Một nghiên cứu của Harvard cho thấy 60-90% các trường hợp người bệnh đến “khám bác sĩ” là có nguồn gốc từ stress, từ vấn đề tâm lý, tâm thần, từ đó sinh bệnh về thể chất.
Ngày nay, thời đại toàn cầu hóa, thế giới phẳng, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhanh như vũ bảo, đời sống vật chất cải thiện không ngừng tưởng như sẽ mang lại hạnh phúc, an lạc cho kiếp sống con người nhưng dường như còn nhiều hơn những bất công, kỳ thị, chia cắt, còn đầy những “khổ đau ách nạn”, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… tràn lan, con người ngày càng bất hạnh hơn, mà gốc vẫn từ tham sân si, từ vô minh do chính con người tạo ra để hủy diệt chính mình.
Cho nên phải “nương tựa vào chính mình” trước hết, phải thay đổi chính mình trước hết, và đó là lý do tại sao ngày người ta càng tìm đến thầy thuốc, nhà tham vấn, nhà trị liệu tâm lý, các cơ sở tôn giáo…
Căn bệnh thời đại toàn cầu hóa ngày nay là SAD. Buồn bã! Nhưng không phải. Đó là chữ viết tắt của Stress (căng thẳng), Anxiety (Lo âu) và Depression (trầm cảm). Ngày càng có nhiều phương thức trị liệu tâm lý được phát triển để đối trị. Nào CBT (liệu pháp nhận thức hành vi), nào ACT (liệu pháp chấp nhận, cam kết), MBSR, liệu pháp giảm thiểu căng thẳng dựa trên Thiền định (Meditation-based Stress Reduction) và MBCT liệu pháp nhận thức hành vi nhờ thiền định (Meditaton-based Cognitive Therapy). Không phải tự dưng người ta đến với Thiền định như một liệu pháp! Thiền định nở như nấm gặp mưa ở Âu Mỹ ngày nay, được coi như một liệu pháp tâm lý cơ bản, nhưng thực ra nếu chỉ dừng lại ở đó như tìm đến một lãng quên thì thật là đáng tiếc. Bởi chưa đạt đến Chánh định để từ đó có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp… của con đường Bát chánh đạo, với Giới Định Huệ để đối trị Tham Sân Si… tận gốc rễ thì còn lâu. Bởi không thể không thấy nghiệp báo, nhân quả để từ đó, thấy Duyên sinh, Không, Vô ngã, Thực tướng vô tường thì vẫn cứ còn luẩn quẩn không lối thoát.
Không gì tệ hại hơn người thầy thuốc mà hù dọa cho người ta sợ hãi về thân bệnh để trục lợi, hay người tu sĩ mà hù dọa cho người ta sợ hãi về tâm bệnh để trục lợi! Tại các thiền viện, các chùa chiền… thường thấy có Tham vấn đường, nơi người ta tìm đến để được giúp đỡ, để biết quay về nương tựa chính mình, thực hành chánh pháp, an lạc thân tâm. Người thầy thuốc, người tu sĩ trở thành một tham vấn viên (counseller) để giúp cho thân chủ (client), thí chủ của mình.
Tham vấn là một tiến trình đối thoại và tương tác giữa tham vấn viên và thân chủ, giúp xác định một vấn đề, giải quyết một khủng hoảng, quyết định một kế hoạch hành động. Một tiến trình đòi hỏi thời gian và một số điều kiện để thiết lập mối tương giao lành mạnh, truyền thông hiệu quả giữa tham vấn viên và thân chủ, nhằm giúp thân chủ tự khám phá, tự hiểu biết, tự quyết định và có hành động tích cực, làm chủ được cảm xúc, cư xử có trách nhiệm, thích nghi với hoàn cảnh và duy trì các mối quan hệ xã hội…
Tham vấn sức khỏe gồm tham vấn khủng hoảng (crisis counselling), tham vấn quyết định (counselling for decision-making) và tham vấn hành vi (behavioral counselling). Mỗi kiểu có tiến trình, vị trí của thân chủ, vai trò của tham vấn viên và phương pháp khác nhau, nhưng cốt lõi vẫn là mối quan hệ giữa một người có kỹ năng, có kiến thức và có tâm từ là tham vấn viên và một người có nhu cầu, có vấn đề là thân chủ. Nếu tương quan này mà bị trục trặc, gãy đổ, cuộc tham vấn sẽ thất bại.
Tham vấn đặt trọng tâm vào thân chủ hay còn gọi là “thân chủ trọng tâm” (client-centered) là cốt lõi của cả ba loại tham vấn sức khỏe nêu trên. Thân chủ là trọng tâm của tiến trình tham vấn, vì chính thân chủ chứ không phải ai khác biết rõ vấn đề của họ, cảm xúc thực sự của họ và những giải pháp của họ. Tham vấn viên là người giúp đỡ, hướng dẫn nhưng không quyết định thay họ được. Tham vấn viên giúp cho thân chủ tự khám phá, tự hiểu biết, tự quyết định. Có thể ví thân chủ là bà mẹ đau đẻ, còn tham vấn viên là cô mụ đỡ đẻ. Cô mụ giúp bà mẹ đẻ chứ không thể đẻ thay cho bà mẹ được.
Mối quan hệ, tương giao “lành mạnh” là bản chất chủ yếu của quá trình giúp đỡ này. Suy nghĩ và cảm xúc của thân chủ là yếu tố quan trọng chính yếu. Mối quan hệ giữa tham vấn viên và thân chủ là mối quan hệ sâu xa giữa con người với con người.
Cảm xúc và suy nghĩ của thân chủ là yếu tố quan trọng. Cuộc đối thoại và tương tác giữa tham vấn viên và thân chủ sẽ tùy thuộc vào bản chất chủ quan của vấn đề do thân chủ đặt ra.
Tham vấn đòi hỏi nhiều thời gian, sự bền lòng, những khoảnh khắc lặng im, khả năng vượt qua chính mình của tham vấn viên. Điều quan trọng là tham vấn viên phải có lòng tin mạnh mẽ vào khả năng tự điều chỉnh của thân chủ, tính bản thiện của thân chủ, từ đó khơi dậy nơi thân chủ lòng tự tin vào chính họ. Giải pháp đã luôn sẵn có. Vấn đề là nhận ra. Cuối cùng chính thân chủ tự giúp họ. Còn vai trò tham vấn viên là hỗ trợ, xúc tác mà thôi. Để có được mối quan hệ tốt đẹp đó, cần có một số điều kiện, cũng có thể gọi là phẩm chất, và kỹ năng cần thiết của tham vấn viên, đó là:
– Gần gũi thân chủ, dễ gặp gỡ, dễ tiếp xúc;
– biết lắng nghe;
– giúp tự tin;
– giữ bí mật;
– kiên định;
– giúp chọn lựa nhiều giải pháp phù hợp.
Các sai lầm thường gặp là:
– Phán đoán, đánh giá… sẽ đào sâu thêm mặc cảm;
– suy diễn, chụp mũ… sẽ làm lạc hướng;
– trấn an, che chở, an ủi… tạo lệ thuộc;
– điều tra, tò mò dẫn đến che đậy, giấu giếm;
– đưa ra lời khuyên, giải pháp tức thời… có tính áp đặt, chỉ đạo…
Đức tính quan trọng hàng đầu của tham vấn viên là có khả năng thấu cảm (emphathy), nghĩa là đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của thân chủ để thấu hiểu một cách sâu sắc suy nghĩ, cảm xúc của họ. Thân chủ thấy có người hiểu mình, thông cảm trọn vẹn với mình thì sự bộc lộ càng dễ dàng, thẳng thắn. Đặt mình trong tình huống của thân chủ, xem xét vấn đề theo quan điểm của thân chủ, đánh giá theo cách nhìn của thân chủ, tham vấn viên mới có thể trải qua các kinh nghiệm của thân chủ và thực sự cảm thông, từ đó giúp thân chủ tự khám phá, tự thay đổi. Các đức tính khác là chân thành (genuine) và tôn trọng (respect) hay chấp nhận (acceptance) là những đức tính đòi hỏi phải có ở một tham vấn viên để có thể tạo mối tương giao lành mạnh, truyền thông hiệu quả.
Cái gì làm cho ta khi vui thì tìm đến người này mà khi buồn khi khổ thì tìm đến người kia? Người này có đặc điểm gì, còn người kia cần có những phẩm chất gì? Rõ ràng khi vui, ta tìm ngay một bạn “nhậu”, ta cần nơi ồn ào, còn khi khổ khi buồn, ta tìm đến một người biết lắng nghe, biết chia sẻ. Người đó không thể ngồi với ta mà cứ nhìn đồng hồ, cứ lo ra vì những việc khác. Người đó không thể nói những lời đãi bôi, an ủi, vỗ về, phê phán đạo đức, tỏ ra thương hại, ban ơn. Người đó cũng không thể bép xép, hoặc suy diễn linh tinh. Lúc đó ta cần một người chia sẻ lặng lẽ, biết lắng nghe để ta được giãi bày. Giãi bày, trút hết nỗi lòng đã làm vơi đi bao nỗi khổ đau, giảm nhẹ đi một nửa gánh nặng. Một người biết lắng nghe? Một người chịu khó, ân cần, nghe ta tỏ bày những bức xúc? Một người biết giữ bí mật những điều ta nói với họ? Một người sẵn sàng có mặt bất cứ lúc nào, ở đâu, khi ta cần đến? Người đó còn phải biết tôn trọng ta hay ít ra chấp nhận ta như là ta? Dĩ nhiên, có tôn trọng thì mới lắng nghe. Chỉ cần một ánh mắt, một cử chỉ, lời nói không đúng lúc, đúng chỗ là đủ làm sụp đổ, đủ làm ta co cứng, gồng người, khựng lại, rồi giấu giếm, phân trần và trốn chạy…
Một người chỉ thoáng nhìn – dù đóng kịch có khéo léo đến đâu, có giả vờ ngon ngọt, giả vờ tôn trọng ta – mà cử chỉ, lời nói, cái nhìn, cái nghĩ mâu thuẫn thì ta biết ngay là không đáng tin cậy buộc ta phải thủ thế, phải đề phòng. Người đó không có tình thương thực sự. Vì người đó không thể hiểu mình. Mà muốn hiểu thì phải có khả năng đặt mình vào vị trí người khác. Có đặt mình vào vị trí người khác mới hiểu hết nguồn cơn. Một khi đã hiểu thì tình thương sẽ là tình thương đích thực, không phải vờ vĩnh, không phải kịch. Tình thương đích thực không nhất định là những lời an ủi đầu môi chót lưỡi, những lời khuyên hời hợt, những giọt nước mắt vắn dài, mà có khi là những quát tháo, nổi giận, xỉ vả. Xỉ vả, nổi giận, quát tháo mà ta vẫn vui, vẫn thấy nhẹ người vì được hiểu, được thương, được san sẻ. Bỏ được qua một bên những quan điểm riêng, giá trị riêng của mình để đặt mình vào địa vị người khác, hòa mình vào kinh nghiệm người khác quả là không dễ dàng nếu không sẵn có lòng từ tâm.
Để hiểu được còn phải vượt qua những rào cản của ngôn ngữ, kể cả những ngôn ngữ không lời và chọn lựa những ngôn ngữ sao cho cuộc đối thoại và tương tác diễn ra phù hợp tùy từng xúc cảm, suy nghĩ, hoàn cảnh. Tham vấn viên cho trẻ đường phố cần biết rành những tiếng lóng của trẻ đường phố, tham vấn viên cho mại dâm, ma túy đều phải hiểu và sống với những ngôn ngữ của họ. Khoảng cách sẽ được lấp đầy.
Nhưng thế vẫn chưa đủ. Thế cũng mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Còn đòi hỏi một cái nhìn trọn vẹn về cuộc sống, về con người, về mối tương quan của mỗi con người và hoàn cảnh xã hội. Bà mẹ Mạnh Tử không dời nhà đến ba lần thì không có thầy Mạnh Tử. Môi trường xã hội tác động lên con người một cách mạnh mẽ. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Một cô gái mại dâm có thể sẽ không là cô gái mại dâm. Người thanh niên nghiện xì-ke kia có thể sẽ không bao giờ nghiện xì-ke nữa. Những tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm cộng đồng, xã hội gây ra những kết quả này kết quả khác tùy môi trường tương tác. Nghĩ như vậy, chính ta cũng có trách nhiệm đã góp phần tạo nên tình trạng xã hội như là một thành viên của xã hội đó. Nhìn bằng cái nhìn biến dịch, bằng cái nhìn tương tác, ta thấy cuộc sống thật là phong phú và khả năng thay đổi là có được ở mỗi con người. Ngay cả tình trạng tăng huyết áp kia của ta cũng không phải do chính nó. Nó là kết quả của sự co thắt mạch máu, kết quả của lưu lượng máu, kết quả của bề dày mạch máu, của sự vận động cơ thể, của thức ăn nhiều mỡ nhiều muối làm xơ vữa, làm giữ nước…, của sự tham lam, giận hờn, lo lắng, âu sầu, làm tiết ra những hormones. Nói khác, không có cái gọi là tăng huyết áp, nó chỉ là hậu quả của vô vàn tương tác. Cái nhìn đó làm cho ta tin tưởng ở con người hơn, yêu thương con người hơn, và giúp ta nhìn thấy tham vấn viên với thân chủ là một, tham vấn viên trở thành thân chủ và thân chủ cũng là tham vấn viên… Vì vậy mà một thân chủ khi trở thành tham vấn viên bao giờ cũng dễ tạo mối tương giao lành mạnh, tốt đẹp, các tiến trình truyền thông tham vấn được tiếp nhận dễ dàng, thực hiện được thay đổi hành vi một cách hiệu quả, cái đó gọi là giáo dục đồng đẳng (peer education).
Điều lạ lùng là 2600 năm trước, một người đã nói và có những đức tính, phẩm hạnh của một “tham vấn viên” vừa nêu lên, đó chính là Đức Phật. Ngài là một bậc y vương (thầy thuốc vua), một nhà sư phạm lỗi lạc, nhà tâm lý vĩ đại đã “hình tượng hóa” những đức tính, phẩm hạnh cần thiết của một tham vấn viên qua hình tượng những vị gọi là Bồ-tát, những người đã giác ngộ nhưng chưa muốn làm Phật, còn ở lại cõi Ta-bà này để giúp đời, giúp người. Bồ-tát Thường Bất Khinh (Sadaparibhuta) làm ta kinh ngạc! Cái tên đủ nói lên phẩm chất của ông: Thường là luôn luôn, Bất là không, và Khinh là coi nhẹ. Thường Bất Khinh là người luôn luôn không bao giờ coi nhẹ người khác, hay nói cách khác, người luôn luôn tôn trọng người khác. Đó chẳng phải là phẩm chất quan trọng hàng đầu để thiết lập mối tương quan bình đẳng giữa con người với con người sao? Thường Bất Khinh là vị Bồ-tát gặp bất cứ ai cũng chắp tay cung kính chào và nói câu: “Ngài là một vị Phật sẽ thành”. Vì ông tin rằng ai cũng là Phật, ai cũng sẽ thành Phật. Ông tin ở con người. Với lòng tin đó, ông có thể vực dậy một tâm hồn đầy mặc cảm, trao cho họ niềm tin vào chính mình. Khi người ta ngờ vực, đánh mắng, xua đuổi ông, ông vẫn mặc, vẫn kiên trì, vẫn một mực chắp tay cung kính nói lên câu đó với họ. Đến lúc họ giật mình nhìn lại, và nhen nhóm niềm tin. Đó là sự khởi đầu của Tín tấn niệm định tuệ. Bồ-tát Dược Vương (Bhaisajyaraja) là một Bồ-tát khác, thiết yếu trong tiến trình tham vấn.. Dược vương có nghĩa là thứ thuốc vua – thuốc hay hơn tất cả thứ thuốc khác. Đó là vị Bồ tát sống rất hồn nhiên, trong sáng, không tư lợi, không ích kỷ, không tính toan, luôn hòa đồng với mọi người, có khả năng “biến” (thị hiện) thành người này hay người khác, tức là một khả năng thấu cảm, đặt mình vào địa vị người này người khác để cảm xúc như họ, suy nghĩ, nói năng như họ. Nhờ vậy mà vượt qua được rào cản, hố sâu ngăn cách, kéo họ ra khỏi những khổ đau. Dược Vương nhờ phẩm hạnh đó mà “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” (nhất thiết chúng sanh hỷ kiến). Ở ông, thân, khẩu, ý là một, không nói một đàng nghĩ một nẻo. Sự chân thành, trung thực là yếu tố quan trọng để tạo tương giao lành mạnh trong tham vấn. Vị Bồ-tát thứ ba ai cũng biết là Quán Thế Âm (Avalolitesvara), với hình ảnh một người phụ nữ tay cầm bình tịnh thủy chứa nước cam lồ, có thể dập tắt cả lửa sân hận, sợ hãi! Quán Thế Âm là “lắng nghe tiếng kêu của trần thế”! Và lúc nào cũng sẵn sàng, mỗi khi có người gọi đến tên. Lắng nghe với lòng yêu thương là vị Bồ tát có khả năng thấu cảm tuyệt vời nhất. Với cái nhìn dân gian, bà là người có nghìn mắt nghìn tay, thấy được mọi thứ, làm được mọi điều, để giúp đỡ người gặp khổ nạn. Bà có bình nước cam lồ “rưới vào đâu là tắt vùi ngọn lửa thù hận, tham lam, sợ hãi…” đến đó. Thực ra, biết lắng nghe thôi đã đủ làm nguôi, đủ “hạ hỏa”, đủ giúp sáng suốt trở lại mà thấy vấn đề đúng, hành động đúng như có nghìn mắt nghìn tay. Cho nên kỹ năng ‘lắng nghe’ là quan trọng số một trong tiến trình tham vấn. Quán Thế Âm còn có lòng đại Từ đại Bi. Từ bi không phải là thương hại. Cũng không phải là thương suông. Có khi Quán Thế Âm nổi giận, hiện ra ông Ác, đe đọa, quát nạt, giúp người ta tỉnh ngộ. Hình ảnh nữ của Quan Thế Âm thật tuyệt vời, tượng trưng cho bao dung, cho sức chứa, cho sự chịu đựng, nhẫn nại, lại rất nhạy cảm! Cuối cùng là Bồ-tát Diệu Âm (Gadgadasvara) – âm thanh vi diệu – là vị Bồ tát có khả năng hiểu được mọi thứ ngôn ngữ của mọi loài (giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn), nhờ đó mà hòa nhập được với mọi người, thấu cảm được mọi người (hiện nhất thiết sắc thân), thiết lập được một sự truyền thông, đối thoại hiệu quả với mọi người. “Đối thoại” không chỉ bằng lời mà bằng những âm thanh khác, kể cả âm thanh của sự im lặng. Với những biểu trưng đó, chính là những phẩm hạnh, những đức tính, những tố chất của một người tham vấn viên. Đức Phật nhờ có đầy đủ những phẩm hạnh “Bồ tát” mà truyền được kinh nghiệm của mình cho mọi người, giúp mọi người cũng thành Phật như mình!
(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo, 1.10.2016)
September 29, 2016
Nhóm Học Phật “du học” trong ngày.
“Du học” trong ngày
Cũng đã 6 tháng từ chuyến “Về Huế… thăm chùa”, đến nay Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi mới có dịp “du học” một chuyến gần: Bình Dương. Lần này ngoài Nhóm học Phật với các bạn quen thân, còn có thêm các anh Ngô Tiến Nhân, Hưng và Thu tháp tùng. Càng đông càng vui. Anh Nhân và Thu đều đã từng có dịp đi Kailash với TS Nguyễn Tường Bách năm xưa.
Ghé Lái Thiêu trước, thăm chùa Phước Ân của Ni cô Diệu Xuân. Chùa đang xây lở dở, gặp không ít khó khăn. Trong đoàn có Phi Hùng, “chuyên gia” xây dựng góp nhiều ý kiến khả thi. Hy vọng năm sau, chùa sẽ xây cất xong.
Tên chùa Phước Ân làm nhớ đến ngôi chùa ở Đồng Tháp, cũng tên Phước Ân, nơi có ngôi mộ tháp nhỏ của cụ Nguyễn Hiến Lê. Ông Lê là một nhà Nho, chuyên viết về Nho giáo, nhưng bà Lê lại là một Phật tử thuần thành, sau cũng đã xuất gia. Chính bà đã đặt ngôi mộ tháp của ông ở chùa Phước Ân, ở Đồng Tháp, ngày nay đã có nhiều người biết đến viếng thăm.
Ni cô Diệu Xuân đích thân hướng dẫn đoàn về Dĩ An thăm chùa Long Bửu, nơi có Phòng khám đa khoa Từ thiện của Ni sư Liên Thanh, cũng là một bác sĩ tốt nghiệp Đại học y dược Tp.HCM chuyên khoa tim mạch. Phòng khám đa khoa kết hợp vừa Đông y vừa Tây y và Phật pháp, rất được bà con tín nhiệm. Có cả khoa xét nghiệm, vật lý trị liệu, thiền đường, nhà nghỉ dưỡng v.v… Hàng ngày có đến mấy trăm người đến khám chữa bệnh. Thỉnh thoảng có các đoàn từ thiện trong và ngoài nước giúp đỡ. Ni sư Bác sĩ Liên Thanh rất hoạt bát, năng động, không xa lạ với thầy Ngọc nên buổi trao đổi chuyên môn y học lẫn Phật pháp cùng đoàn rất sôi nổi.
Đoàn tiếp tục về Bình Dương thăm chùa Tây Tạng. Sư Ông Tịch Chiếu, 105 tuổi vừa mất tháng 6 rồi. Chùa nay do thầy Chơn Hạnh trụ trì. Ngôi chùa Tây Tạng Bình Dương nổi tiếng từ xa xưa, nay đã được mở mang rất rộng, nhiều sinh hoạt sổi nổi. Mỗi ngày có cả ngàn người đến viếng. Rằm, ngày Lễ, có khi mười lăm, hai chục ngàn người về chùa là thường. Có hội trường lớn, có khu triển lãm khá thú vị. Nhiều trích giảng lời Đức Đạt lai Lạt ma, của Sư Ông được ghi lại. Có những câu nói của Sư Ông thực ra chỉ nên dành riêng cho đệ tử hơn là cho đại chúng… Tuy vậy, có nhiều câu ý nghĩa thâm sâu.
Rời chùa Tây Tạng, đoàn ghé thăm chùa Hội Khánh, ngôi chùa cổ đã 275 năm. Trao đổi với thầy Huệ Thông trụ trì để biết thêm về ngôi cổ tự này. Chùa nay cũng là nơi có tượng Phật nằm trên mái chùa (đối diện) dài 53m và đã xây thêm ngôi chùa mới Hội An hoành tráng ở Thành phố mới Bình Dương.
Nhiều tượng cổ rất có giá trị trong chánh điện ngôi chùa xưa gần 300 năm này, nhưng rất tiếc, bức tượng Phật trong chánh điện lại quá mới, lớn, màu sắc sặc sỡ có vẻ không phù hợp với không gian chung.
Đã xế trưa, đoàn đến quán café bờ Sông Bé, đầu nguồn của sông Saigon làm một ly café và để có dịp nhìn những đám lúc bình trôi về phía thượng nguồn…
Đã đến giờ hẹn về Bến Nẩy. Kết thúc chuyến đi ngắn trong ngày của Nhóm Học Phật. Hẹn kỳ sau.
Đỗ Hồng Ngọc
(14/9/2016)
“Một cốt cách ở đời”: Võ Phiến
“Một cốt cách ở đời” (*)
Đỗ Hồng Ngọc
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến, NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẽ sợi tóc làm tư, lặn lội vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng hiện ra trước mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ đặt ở trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây… Chút nắng vàng giờ đây cũng vội… (Trịnh Công Sơn). Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều người tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy. Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ của trần gian nữa. Dù có khi anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Cuối Cùng của Võ Phiến là một tập sách trang nhã. Bìa cứng cổ điển. Nhưng bìa bọc ngoài lại là một mầu trời xanh và mây trắng với những cái bóng của Võ Phiến. Không phải hình, mà bóng. Một cái lõi, xưa cũ, cứng cáp bên trong; một cái vỏ, bay bỗng, tuyệt mù.. bên ngoài.
Trang cuối không đánh số trang của Cuối Cùng như đã nói là một bài thơ. Mộc Mạc là tên bài thơ đó. Một sự trở về. Về với mộc mạc, với chất phác. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt (Trịnh Công Sơn). Chắc vậy rồi. Với Võ Phiến, chốn về đó là xóm là làng, có con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ, bà con cô bác…
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc Mạc)
“Đều là cố tri”. Họ thân thiết nhau quá, gần gũi nhau quá mà! Đi sao nỡ. Xa sao đành. Chẳng qua gặp thời thế thế thời thôi. Một người như Võ Phiến hẳn “chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà cái thềm nhà cho đến bụi cây khóm cỏ…:” (Quốc văn giáo khoa thư). Rứt sao ra.
Rồi Võ Phiến viết tiếp sau khi ngậm ngùi nhớ những “cố tri” đó của mình:
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
( Mộc Mạc)
Ra gì là ra gì? “Múa may” coi cũng được quá đó chứ! Mọi người đều nhìn nhận Võ Phiến, dù không nói ra mà ai cũng phải gật gù. Đông Hồ khen “nhất” miền Nam. Nguyễn Hiến Lê khen tùy bút sâu sắc, tự nhiên, dí dõm, đa dạng…Đặng Tiến bảo tác giả hàng đầu, Nguyễn Hưng Quốc kêu nhà văn của thế kỷ… Vậy mà múa may mãi chẳng ra gì sao? Tới bây giờ, nhớ Đêm xuân trăng sáng hay Thác đổ sau nhà của ông đọc từ hồi còn trẻ, tôi vẫn còn như nghe nhột nhột ở đùi trong…
Tuyệt vời nhất ở hai chữ: mỗi lâu. Vừa mộc mạc vừa sâu thẳm. Sao lại “mỗi lâu”? Ấy là bởi ông đã đợi chờ, đã nghe ngóng, đã mong mỏi nó “rụp rụp” cho rồi, ai dè nó cứ dùng dằng dủng dẳng, bực cả mình. Rụp rụp như cái dao phay chặt thịt mà ông từng thấy ở một người đàn ông mặc áo thun, bán hủ tíu, quơ dao múa may mấy cái rồi rụp rụp ngon lành. Đầu này nó cứ đủng đỉnh, cứ lằng nhằng. Nó càng đủng đỉnh, càng lằng nhằng ông càng bẽn lẽn vì đã có đôi lần ông làm thơ “giã biệt” gởi cho “những người ở lại’ rồi, thế mà, chính ông lại ở lại. “Quê” quá chứ phải không? Nhưng mỗi lâu rồi thì sao? Thì, khổ thay, cứ mỗi lâu nó lại thêm một cách ly, rã rời! Cách ly? Rã rời? Ông thấy hình như mọi người đâu đó đã sẵn sàng cả rồi, hồi hộp chờ đợi cả rồi, vậy mà chuyện lại không tới. Tẻn tò, tản ra, xa dần, quên lãng… ? Tự ông, ông cảm thấy “ngượng ngập vu vơ”. Ngượng ngập. Vu vơ. Văn viết không ra, chỉ có thơ mới “nói lên” được: mỗi lâu thêm một cách ly rã rời…
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
( Mộc Mạc)
Người ta thì gần đất xa trời, ông thì gần trời xa đất. Đất lạ, trời quen. Với người xa xứ “lạc loài đến đây” như ông thì cách ly với con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lủ sẻ đã đành là khổ, mà cách ly với những thân tình càng khổ hơn: “Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xun xoe nhấp nhỏm. Bỗng chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện … như thế… trên đời… ối dào! ( Người ơi người ở dài dài, tr45)”. Mãn Giác thiền sư chẳng đã từng than “Sự trục nhãn tiền quá/ Lão đầu tùng thượng lai…” đó sao? Còn “rã rời”. Làm sao mà không rã rời cơ chứ? Có cái gì gắn với cái gì đâu. Toàn tạm bợ, lắp ráp cả đó chứ. Ngũ uẩn giai không mà! Bài thơ “Cũng Hợp” –lại Thơ- mở đầu cho cuốn Cuối Cùng, ông chẳng bảo “lắp ráp” xài chơi, lâu ngày chầy tháng thấy “cũng hợp”, cũng OK. Rồi đến một lúc nghĩ hay là ta… ở lại trần gian luôn chừng nghìn năm nữa cũng được. Để rồi giật mình: đã lắp ráp thì hẳn có lúc phải rời ra. Một câu hỏi đặt ra: Lắp ráp để chi? Để “trưa nào cũng bay” ( tr 139) chớ chi. Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì rã. Rã rồi lại ráp không chừng. “Cả năm uẩn chúng quấy ta là thế” (Cũng Hợp). Võ Phiến hiện nguyên hình thành một… thiền sư!
Dặn lòng lòng vẫn nao nao
Ta đi mây ở, trưa nào cũng bay
Nhưng thiền sư mà có cái chuyện dặn lòng này mới lạ! Dù sao thì cũng chỉ nao nao thôi. Nao nao khác với bừng bừng. Đó là khi ông nhìn những phút “ân tình” của chim câu: “…cái đuôi con chim mái, vẹt qua một phía… “. Xong. Rồi bay. Trưa nào cũng bay. Ông thấy “nao nao”. Nao nao quá chớ. Nó đến nó đi hờ hững thản nhiên. Sao trời nỡ đọa đày nhau đến thế? (Cũng Hợp, tr 17).
* **
“Cái còn lại của một cốt cách : ít ỏi quá, mong manh quá”. (Hình bóng cũ, tr 32).
Không đâu. Cái cốt cách ở đời của Võ Phiến theo tôi không ít ỏi quá, cũng chẳng mong manh quá. Nó đáng cho ta ngã mũ chào. Với một nụ cười tủm tỉm, hân hoan.
(ĐHN)
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Cuối Cùng, Võ Phiến.
“Một nếp sống An-lạc”
Nhân Ngày Quốc Tế Người Cao Tuổi 1/10:
“Một nếp sống An-lạc”
Một buổi “tào lao” của Đỗ Hồng Ngọc
tại Café Thứ 7 Dương Thụ.
9h sáng, Thứ bảy ngày 01.10.2016
tại 19b Phạm Ngọc Thạch, Quận 1, Tp.HCM.
Rảnh ghé chơi nhe!
(ĐHN)
September 28, 2016
“Một nếp sống An-lạc”
Nhân Ngày Quốc Tế Người Cao Tuổi 1/10:
“Một nếp sống An-lạc”
Một buổi “tào lao” của Đỗ Hồng Ngọc
tại Café Thứ 7 Dương Thụ.
9h sáng, Thứ bảy ngày 01.10.2016
tại 19b Phạm Ngọc Thạch, Quận 1, Tp.HCM.
Rảnh ghé chơi nhe!
(ĐHN)
September 27, 2016
“Một cốt cách ở đời”: Võ Phiến
“Một cốt cách ở đời” (*)
Đỗ Hồng Ngọc
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến, NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẽ sợi tóc làm tư, lặn lội vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng hiện ra trước mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ đặt ở trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây… Chút nắng vàng giờ đây cũng vội… (Trịnh Công Sơn). Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều người tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy. Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ của trần gian nữa. Dù có khi anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Cuối Cùng của Võ Phiến là một tập sách trang nhã. Bìa cứng cổ điển. Nhưng bìa bọc ngoài lại là một mầu trời xanh và mây trắng với những cái bóng của Võ Phiến. Không phải hình, mà bóng. Một cái lõi, xưa cũ, cứng cáp bên trong; một cái vỏ, bay bỗng, tuyệt mù.. bên ngoài.
Trang cuối không đánh số trang của Cuối Cùng như đã nói là một bài thơ. Mộc Mạc là tên bài thơ đó. Một sự trở về. Về với mộc mạc, với chất phác. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt (Trịnh Công Sơn). Chắc vậy rồi. Với Võ Phiến, chốn về đó là xóm là làng, có con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ, bà con cô bác…
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc Mạc)
“Đều là cố tri”. Họ thân thiết nhau quá, gần gũi nhau quá mà! Đi sao nỡ. Xa sao đành. Chẳng qua gặp thời thế thế thời thôi. Một người như Võ Phiến hẳn “chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà cái thềm nhà cho đến bụi cây khóm cỏ…:” (Quốc văn giáo khoa thư). Rứt sao ra.
Rồi Võ Phiến viết tiếp sau khi ngậm ngùi nhớ những “cố tri” đó của mình:
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
( Mộc Mạc)
Ra gì là ra gì? “Múa may” coi cũng được quá đó chứ! Mọi người đều nhìn nhận Võ Phiến, dù không nói ra mà ai cũng phải gật gù. Đông Hồ khen “nhất” miền Nam. Nguyễn Hiến Lê khen tùy bút sâu sắc, tự nhiên, dí dõm, đa dạng…Đặng Tiến bảo tác giả hàng đầu, Nguyễn Hưng Quốc kêu nhà văn của thế kỷ… Vậy mà múa may mãi chẳng ra gì sao? Tới bây giờ, nhớ Đêm xuân trăng sáng hay Thác đổ sau nhà của ông đọc từ hồi còn trẻ, tôi vẫn còn như nghe nhột nhột ở đùi trong…
Tuyệt vời nhất ở hai chữ: mỗi lâu. Vừa mộc mạc vừa sâu thẳm. Sao lại “mỗi lâu”? Ấy là bởi ông đã đợi chờ, đã nghe ngóng, đã mong mỏi nó “rụp rụp” cho rồi, ai dè nó cứ dùng dằng dủng dẳng, bực cả mình. Rụp rụp như cái dao phay chặt thịt mà ông từng thấy ở một người đàn ông mặc áo thun, bán hủ tíu, quơ dao múa may mấy cái rồi rụp rụp ngon lành. Đầu này nó cứ đủng đỉnh, cứ lằng nhằng. Nó càng đủng đỉnh, càng lằng nhằng ông càng bẽn lẽn vì đã có đôi lần ông làm thơ “giã biệt” gởi cho “những người ở lại’ rồi, thế mà, chính ông lại ở lại. “Quê” quá chứ phải không? Nhưng mỗi lâu rồi thì sao? Thì, khổ thay, cứ mỗi lâu nó lại thêm một cách ly, rã rời! Cách ly? Rã rời? Ông thấy hình như mọi người đâu đó đã sẵn sàng cả rồi, hồi hộp chờ đợi cả rồi, vậy mà chuyện lại không tới. Tẻn tò, tản ra, xa dần, quên lãng… ? Tự ông, ông cảm thấy “ngượng ngập vu vơ”. Ngượng ngập. Vu vơ. Văn viết không ra, chỉ có thơ mới “nói lên” được: mỗi lâu thêm một cách ly rã rời…
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
( Mộc Mạc)
Người ta thì gần đất xa trời, ông thì gần trời xa đất. Đất lạ, trời quen. Với người xa xứ “lạc loài đến đây” như ông thì cách ly với con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lủ sẻ đã đành là khổ, mà cách ly với những thân tình càng khổ hơn: “Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xun xoe nhấp nhỏm. Bỗng chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện … như thế… trên đời… ối dào! ( Người ơi người ở dài dài, tr45)”. Mãn Giác thiền sư chẳng đã từng than “Sự trục nhãn tiền quá/ Lão đầu tùng thượng lai…” đó sao? Còn “rã rời”. Làm sao mà không rã rời cơ chứ? Có cái gì gắn với cái gì đâu. Toàn tạm bợ, lắp ráp cả đó chứ. Ngũ uẩn giai không mà! Bài thơ “Cũng Hợp” –lại Thơ- mở đầu cho cuốn Cuối Cùng, ông chẳng bảo “lắp ráp” xài chơi, lâu ngày chầy tháng thấy “cũng hợp”, cũng OK. Rồi đến một lúc nghĩ hay là ta… ở lại trần gian luôn chừng nghìn năm nữa cũng được. Để rồi giật mình: đã lắp ráp thì hẳn có lúc phải rời ra. Một câu hỏi đặt ra: Lắp ráp để chi? Để “trưa nào cũng bay” ( tr 139) chớ chi. Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì rã. Rã rồi lại ráp không chừng. “Cả năm uẩn chúng quấy ta là thế” (Cũng Hợp). Võ Phiến hiện nguyên hình thành một… thiền sư!
Dặn lòng lòng vẫn nao nao
Ta đi mây ở, trưa nào cũng bay
Nhưng thiền sư mà có cái chuyện dặn lòng này mới lạ! Dù sao thì cũng chỉ nao nao thôi. Nao nao khác với bừng bừng. Đó là khi ông nhìn những phút “ân tình” của chim câu: “…cái đuôi con chim mái, vẹt qua một phía… “. Xong. Rồi bay. Trưa nào cũng bay. Ông thấy “nao nao”. Nao nao quá chớ. Nó đến nó đi hờ hững thản nhiên. Sao trời nỡ đọa đày nhau đến thế? (Cũng Hợp, tr 17).
* **
“Cái còn lại của một cốt cách : ít ỏi quá, mong manh quá”. (Hình bóng cũ, tr 32).
Không đâu. Cái cốt cách ở đời của Võ Phiến theo tôi không ít ỏi quá, cũng chẳng mong manh quá. Nó đáng cho ta ngã mũ chào. Với một nụ cười tủm tỉm, hân hoan.
(ĐHN)
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Cuối Cùng, Võ Phiến.
September 21, 2016
Nhóm Học Phật “du học” trong ngày.
“Du học” trong ngày
Cũng đã 6 tháng từ chuyến “Về Huế… thăm chùa”, đến nay Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi mới có dịp “du học” một chuyến gần: Bình Dương. Lần này ngoài Nhóm học Phật với các bạn quen thân, còn có thêm các anh Ngô Tiến Nhân, Hưng và Thu tháp tùng. Càng đông càng vui. Anh Nhân và Thu đều đã từng có dịp đi Kailash với TS Nguyễn Tường Bách năm xưa.
Ghé Lái Thiêu trước, thăm chùa Phước Ân của Ni cô Diệu Xuân. Chùa đang xây lở dở, gặp không ít khó khăn. Trong đoàn có Phi Hùng, “chuyên gia” xây dựng góp nhiều ý kiến khả thi. Hy vọng năm sau, chùa sẽ xây cất xong.
Tên chùa Phước Ân làm nhớ đến ngôi chùa ở Đồng Tháp, cũng tên Phước Ân, nơi có ngôi mộ tháp nhỏ của cụ Nguyễn Hiến Lê. Ông Lê là một nhà Nho, chuyên viết về Nho giáo, nhưng bà Lê lại là một Phật tử thuần thành, sau cũng đã xuất gia. Chính bà đã đặt ngôi mộ tháp của ông ở chùa Phước Ân, ở Đồng Tháp, ngày nay đã có nhiều người biết đến viếng thăm.
Ni cô Diệu Xuân đích thân hướng dẫn đoàn về Dĩ An thăm chùa Long Bửu, nơi có Phòng khám đa khoa Từ thiện của Ni sư Liên Thanh, cũng là một bác sĩ tốt nghiệp Đại học y dược Tp.HCM chuyên khoa tim mạch. Phòng khám đa khoa kết hợp vừa Đông y vừa Tây y và Phật pháp, rất được bà con tín nhiệm. Có cả khoa xét nghiệm, vật lý trị liệu, thiền đường, nhà nghỉ dưỡng v.v… Hàng ngày có đến mấy trăm người đến khám chữa bệnh. Thỉnh thoảng có các đoàn từ thiện trong và ngoài nước giúp đỡ. Ni sư Bác sĩ Liên Thanh rất hoạt bát, năng động, không xa lạ với thầy Ngọc nên buổi trao đổi chuyên môn y học lẫn Phật pháp cùng đoàn rất sôi nổi.
Đoàn tiếp tục về Bình Dương thăm chùa Tây Tạng. Sư Ông Tịch Chiếu, 105 tuổi vừa mất tháng 6 rồi. Chùa nay do thầy Chơn Hạnh trụ trì. Ngôi chùa Tây Tạng Bình Dương nổi tiếng từ xa xưa, nay đã được mở mang rất rộng, nhiều sinh hoạt sổi nổi. Mỗi ngày có cả ngàn người đến viếng. Rằm, ngày Lễ, có khi mười lăm, hai chục ngàn người về chùa là thường. Có hội trường lớn, có khu triển lãm khá thú vị. Nhiều trích giảng lời Đức Đạt lai Lạt ma, của Sư Ông được ghi lại. Có những câu nói của Sư Ông thực ra chỉ nên dành riêng cho đệ tử hơn là cho đại chúng… Tuy vậy, có nhiều câu ý nghĩa thâm sâu.
Rời chùa Tây Tạng, đoàn ghé thăm chùa Hội Khánh, ngôi chùa cổ đã 275 năm. Trao đổi với thầy Huệ Thông trụ trì để biết thêm về ngôi cổ tự này. Chùa nay cũng là nơi có tượng Phật nằm trên mái chùa (đối diện) dài 53m và đã xây thêm ngôi chùa mới Hội An hoành tráng ở Thành phố mới Bình Dương.
Nhiều tượng cổ rất có giá trị trong chánh điện ngôi chùa xưa gần 300 năm này, nhưng rất tiếc, bức tượng Phật trong chánh điện lại quá mới, lớn, màu sắc sặc sỡ có vẻ không phù hợp với không gian chung.
Đã xế trưa, đoàn đến quán café bờ Sông Bé, đầu nguồn của sông Saigon làm một ly café và để có dịp nhìn những đám lúc bình trôi về phía thượng nguồn…
Đã đến giờ hẹn về Bến Nẩy. Kết thúc chuyến đi ngắn trong ngày của Nhóm Học Phật. Hẹn kỳ sau.
Đỗ Hồng Ngọc
(14/9/2016)
Thư gởi bạn xa xôi: “Đi dự giùm”…
Thư gởi bạn xa xôi
Đi dự giùm
Bạn biết đó, mình không “chơi” facebook, nhưng bạn bè thương tình thỉnh thoảng cũng copy từ facebook những tin tức có liên quan gởi cho xem.
Hôm qua Cao Kim gởi cho cái đoạn này thật dễ thương và cảm động, nên xin phép “các tác giả” cho ghi lại nơi đây và xin trân trọng cảm ơn.
Trái đất cứ ngày càng nhỏ xíu lại. Tối nọ, mình có buổi Nói chuyện về Thân tâm an lạc ở chùa Phật học Xá Lợi thì gặp một nhóm các anh chị từ Long Thành Đồng Nai, cách Saigon 60km về nghe. Hỏi. Thì ra có cô em bên kia bờ gọi điện về kêu nên đi nghe bèn kéo nhau đi.
Lần này cũng vậy. Một người bạn bên kia nhắn bạn mình bên nay “đi dự giùm” buổi ra mắt “Những thằng già nhớ Mẹ” của Vũ Thế Thành, có mặt Đỗ Trung Quân, Đỗ Hồng Ngọc…
Người bạn bên nay dù bận rộn, cũng cố thu xếp đến dự và đã chụp hình, xin thủ bút tác giả để gởi cho bạn mình bên kia như “nói có sách, mách có chứng”!
Hèn chi hôm đó mình thấy có một người còn khá trẻ (!)… lịch sự đưa mảnh giấy nhỏ xíu của quán café xin mình chép cho bài thơ vừa đọc, rồi đưa mảnh giấy lớn hơn nhờ Đỗ Trung Quân chép cho bài thơ vừa đọc…
Thì ra là để gởi cho người bạn ở phương xa nhắn gởi, nhờ “đi dự giùm”…
Mình không biết ông bạn trẻ bên này là ai, còn người bên kia là ThaiNC, em của NT, Cao Kim cho biết như thế.
Trái đất bây giờ nhỏ xíu thấy chưa?
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………………..
“Thứ Bảy 17/9 này ai ở Sài Gòn rảnh rỗi đi giùm tui cái này. Ôi thiệt là tiếc mình ở quá xa. Mới cái tựa đề là đã hấp dẫn rồi !
Ba khách mời thì có hai người là nhà thơ Đỗ Trung Quân và BS Đỗ Hồng Ngọc là hai người mình mến mộ và đang mong có ngày gặp mặt “ (ThaiNC)
Nhận được dòng thông báo của ông bạn từ bên kia biển lớn, ngầm hiểu “ai ở Sài Gòn rảnh rỗi đi giùm tui cái này”, tuy nhiên chưa dám nhận lời vì chưa biết đi được hay không. Chiều nay thu xếp công việc (quên, tư việc chứ), để “đi giùm” ông bạn. Có thay mặt bạn mình để bắt tay với “hai ông Đỗ” nhưng không chụp chung hình vì … “ghét chụp hình với người nổi tiếng” ( do mình không nổi tiếng bằng họ ). Mấy tiếng đồng hồ ngồi nghe mà cứ rươm rướm nước mắt. Lợi dụng lúc các ông ấy giao lưu với người nghe, xin được hai bài thơ có thủ bút của hai ông (vì sợ nghe xong đến lúc về thì quên mất ).
Ông bạn già, xem như ông đã dự rồi đó nghe”.
(xin lỗi, không biết tên)
Đỗ Trung Quân, Đỗ Hồng Ngọc, Vũ Thế Thành
September 18, 2016
“những thằng già nhớ mẹ” (tt)
“những thằng già nhớ mẹ” (tiếp theo)
May mà trời không mưa! Khá đông người tham dự, gần 200 người, đa số là các bạn trẻ. Một điều đáng mừng.
Nhiều chia sẻ và nhiều câu hỏi rất hay. Có bạn hỏi tác giả “những thằng già nhớ mẹ” có bài viết nào nhớ cha không? Vũ Thế Thành trả lời chân thật: không, vì cha anh mất sớm. Tôi không nghĩ vậy. Nay mai có thể anh sẽ có tập “những thằng già nhớ cha” chăng? Có lẽ cũng vì thế, trong bài thơ viết cho người bạn trẻ hôm trước, tôi cũng khuyên nên nhớ đến cha.
“Cha sinh mẹ dưỡng/ Đức cù lao/ Lấy lượng nào đong/ Thờ cha mẹ phải hết lòng/ Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường…” (Quốc văn giáo khoa thư)
Một thính giả xưng mình là “một con già nhớ mẹ”… Một thính giả hỏi làm sao cho hết nỗi ân hận…
Vũ Thế Thành viết chân thành, giản dị, nhưng sâu sắc, nhiều chỗ dí dỏm dễ thương và cảm động. Nguyễn Đông Thức nhắc chuyện Mẹ, nữ sĩ Bà Tùng Long, và đọc hai câu thơ của anh: “Mẹ thành mây trắng đã lâu/ Con về thăm mẹ ngồi đâu cũng buồn” (Bạch Vân là bút hiệu của nữ sĩ ). Đỗ Trung Quân nói về người mẹ mất sớm của mình, lúc tuổi mới 66. Rồi anh đọc mấy bài thơ về mẹ, đặc biệt bài thơ về người mẹ bị Alzheimer, mẹ của một người bạn, không nhận ra đứa con mình đã lâu không gặp. Tôi cũng nhắc mẹ mình, và đọc mấy câu thơ nhỏ: Bông hồng cho Mẹ: “Con cài bông hoa trắng/ Dành cho mẹ đóa hồng/ Mẹ nhớ gài lên ngực/ Ngoại chờ bên kia sông…”
và ca sĩ Thu Vàng đã hát bài phổ thơ này của Võ Tá Hân, sau đó cô còn hát bài Kỷ Niệm của Phạm Duy.
Ca sĩ Cẩm Vân và Khắc Triệu đến dự. Cẩm Vân hát bài Lòng Mẹ của Y Vân, bài hát ngày xưa Bà Tùng Long rất yêu thích để tặng Nguyễn Đông Thức và một bài của Trần Tiến cũng viết về mẹ. Ca sĩ Tương Phùng trong nhóm Học bổng của NĐT hát “Bà mẹ quê” và “Giọt mưa trên lá”…
Vậy là có thơ, có nhạc… cho một buổi chiều mát rượi ở Đường Sách có lá me bay…
từ trái: Đỗ Trung Quân, Đỗ Hồng Ngọc, Vũ Thế Thành, Nguyễn Đông Thức
Buổi giao lưu khá sôi nổi. Ai cũng có một bà mẹ để nhớ về, để ân hận, để tiếc nuối. Nhà báo Trung Dân nói mà khóc khi nhắc ngày giỗ mẹ không biết ngày xưa mẹ thích món ăn gì để mua về cúng mẹ. Một bạn trẻ hỏi con phải làm sao đây bây giờ… khi không ít lần làm mẹ buồn!
Lâu mới gặp Đỗ Trung Quân. Trông có da có thịt, đẹp…lão hơn xưa. Quân khoe bấy lâu nay nhờ vẽ mà tâm hồn thanh thản. Đã có hàng trăm bức sơn dầu rất đẹp… Hiện đang viết hồi ký. Quân nói nhỏ: năm mươi năm nay em đi tìm cha – không biết cha là ai – bây giờ mới được gặp, nhưng không tiết lộ vội…
ĐHN
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

