Huy Đức's Blog, page 9
September 7, 2015
Tin Buồn
Kể từ khi phát hiện bệnh đa u tủy xương (2014) và không còn có thể đi xe đạp nữa, cha tôi hay nói, “Thôi, các con để cha đi”. Đôi khi, nghĩ, ông cũng cô độc, bạn bè cùng tuổi đã thành cát bụi. Những người gọi ông bằng anh cũng gần như không còn ai. Những người gọi ông là chú, bác cũng còn rất ít.
Sáng nay ông đã… đi, lúc 8:10 ngày 8-9-2015 (nhằm ngày 26 tháng Bảy, Ất Mùi).


September 1, 2015
Tượng Đài Độc Lập
Tiến sỹ Nguyễn Quang A về tới Nội Bài vào ngày 1-9-2015 có thể chỉ là một sự trùng hợp. Nhưng việc tước 15 giờ tự do của ông trong đêm trước lễ Độc lập đã gửi một thông điệp rất phản chính trị.
Tiến sỹ Nguyễn Quang A là một người vận động cải cách một cách ôn hòa. Ông khát khao một tiến trình chuyển đổi an toàn. Thay vì “lật đổ” hay “cướp chính quyền”, ông chủ trương một lộ trình dân chủ hóa có sự tham gia của cả những người đang cầm quyền.
Nếu không có tự do chính trị thì không thể có dân chủ. Nhưng nếu chỉ có tự do chính trị thì chưa phải là dân chủ. Một nền dân chủ mạnh, bền vững, chỉ có thể đứng được trên nền tảng: xã hội dân sự, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền.
Không thể có dân chủ khi nó không phải là nỗi khát khao cháy bỏng của mỗi người dân. Nhưng cũng không thể có dân chủ khi khát khao quá cháy bỏng để rồi nôn nóng quá. Đa đảng có thể xuất hiện sau một đêm nhưng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự thì cần một quá trình.
Tôi có đôi lần trao đổi với tiến sỹ Nguyễn Quang A, Việt Nam cần một lộ trình đi đến dân chủ mất hai mươi năm hơn là một lộ trình hai tháng hay chỉ hai năm. Tất nhiên, là phải bắt đầu lộ trình đó ngay từ bây giờ chứ không phải vì “còn hai mươi năm” mà trì hoãn.
Không có những người dấn thân thì không thể có những đổi thay. Nhưng đó không phải là công cuộc tìm kiếm minh quân. Tiến trình xây dựng nền tảng của xã hội dân sự, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền cần sự tham gia của mọi người. Ai cũng có phần việc của mình để góp một cục gạch cho ngôi nhà tương lai đó.
Tại sao “nước độc lập hơn 70 năm” mà “dân vẫn chưa có tự do”.
Có chính quyền mà nhân sự và mô hình chính trị không được quyết định bởi lá phiếu của người dân thì chỉ mới có được một phiên bản khác của nền thực dân. Có chính quyền mà dân không tin là hết lệ thuộc, đường lối đối nội, đối ngoại chưa hoàn toàn minh bạch, thì Nước cũng chưa độc lập.
Cờ – đèn – kèn – trống chỉ có giá trị sân khấu. Tự do của dân chúng mới là tượng đài vững bền. Tượng đài độc lập.
Huy Đức


June 27, 2015
Một Cái Tên Đã Thành Danh: TRẦN QUANG CƠ
Tuy từ chối chức bộ trưởng Ngoại giao, ông Trần Quang Cơ vẫn là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất lên đường lối đối ngoại của Việt Nam – không phải bằng quyền lực, chức vụ mà bằng những gì ông bạch hóa trong cuốn Hồi Ức & Suy Nghĩ được “leak” ra hồi đầu thập niên 2000s. Cuốn hồi ký có giá trị cảnh báo nguy cơ Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc mới.
Năm 1991, ông Nguyễn Cơ Thạch chịu nhiều áp lực phải rời khỏi chính trường. Chiếc ghế bộ trưởng ngoại giao được chuẩn bị cho ông Trần Quang Cơ nhưng ông từ chối. Khi Quốc hội đã nhóm họp, ông Trần Quang Cơ vẫn “công tác” ở Lào. Ông Đỗ Mười tưởng ông Cơ “đòi” cái ghế ủy viên Bộ chính trị nên hứa là nếu ông Cơ nhận, Trung ương sẽ bổ sung. Ông Cơ kiên quyết từ chối.
Thật tình cờ, tôi nhận được điện thoại của đại sứ Đinh Hoàng Thắng báo ông Trần Quang Cơ đồng ý trả lời phỏng vấn khi đang ở trong Thành phỏng vấn Tướng Lê Đức Anh. Phải ngồi với cả hai mới thấy được sự khác nhau giữa họ về nhân cách, tầm nhìn; sự khác nhau giữa tham vọng quyền lực và lòng yêu quê hương đất nước.
Trong cuộc gặp vào chiều cùng ngày (có đại sứ Đinh Hoàng Thắng), tôi hỏi, vì sao ông lại không nhận chức bộ trưởng Ngoại giao. Ông Cơ thẳng thắn: “Lúc ấy, trong Bộ chính trị đã phân công cho Tướng Lê Đức Anh, Chủ tịch Nước, phụ trách quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Tướng Lê Đức Anh là kiến trúc sư chính của Hội nghị Thành Đô. Nghị quyết Đại hội VII xác định đường lối ngoại giao đa phương. Nhưng chúng tôi biết rõ ‘phương ưu tiên’ của ông ta là ai, là ngược lại với chúng tôi, dẫu có nhận chức, trước sau cũng mất chức”. Tôi nói: “Tại sao anh không nhận chức rồi đấu tranh, nếu có mất chức vì bất đồng quan điểm thì lịch sử càng làm rõ ai công, ai tội”. Ông Trần Quang Cơ cười: “Cậu nghĩ là người ta sẽ cho tôi mất chức vì bất đồng quan điểm ư”. Khi ông Cơ nói điều đó, chưa xảy ra vụ “hai bao cao su” nhưng tôi cũng phần nào hiểu được.
Rồi các đồng nghiệp của ông Trần Quang Cơ sẽ đánh giá về sự nghiệp ngoại giao của ông. Nhưng, việc ông và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch bị gạt khỏi cuộc chơi hồi thập niên 1990s đã để lại một khoảng trống trí tuệ to lớn cho Hà Nội. Trong khoảng trống đó, người ta mặc sức sử dụng con ngoáo ộp “diễn biến hóa bình” những con ngoáo ộp “made in” Trung Quốc.
Chúng ta chỉ mới biết đến những mất mát ở thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm, điểm cao 1509… Chúng ta còn rất ít biết đến những mất mát to lớn hơn: những cơ hội để cải cách chính trị; những cơ hội để cải cách kinh tế theo hướng thị trường; những cơ hội hội nhập sâu rộng hơn với các quốc gia tiến bộ; những cơ hội để ký BTA, đi trước Trung Quốc trong làm ăn với Mỹ.
Cho dù rất chia sẻ với quyết định của ông; vẫn kính trọng tài năng và tâm huyết của ông; không dám trách ông “bỏ cuộc chơi”… nhưng vẫn tiếc, vận nước vào những lúc khó khăn, lại quá thiếu vắng những con người tử tế.
Xin tiễn biệt ông. Ông ra đi nhưng người đời sẽ còn nhắc tên ông, một cái tên đã thành danh: TRẦN QUANG CƠ.
Huy Đức


May 28, 2015
Công Lý
Dự thảo Luật Tố tụng Hình sự đang được thảo luận tại Quốc hội (tháng 5-2015) đã “tiếp thu” được vài nguyên tắc mà “loài người tiến bộ” đã từng áp dụng từ hàng trăm năm qua. Các đại biểu Quốc hội cũng bắt đầu nhận ra, cho dù nhu cầu chống tội phạm lớn tới đâu cũng không thể chấp nhận oan sai. Tuy nhiên, nếu không nhận thấy nguyên nhân sâu xa của oan sai thì không những không thể thiết kế một nền tư pháp có thể mang lại công lý mà trong vài trò chống tội phạm, nó còn có thể trở thành công cụ của từng băng nhóm.
Dân Trí hay Quan Trí
Không ngạc nhiên khi các tướng công an không ủng hộ quyền im lặng của bị can. Quyền ấy chắc chắn sẽ làm khó hơn cho tiến trình điều tra. Chỉ ngạc nhiên, sao các tướng – những người thực thi – lại được đặt ngồi trong cơ quan lập pháp.
Quyền không khai những điều có thể trở thành bằng chứng chống lại mình khi chưa có luật sư được người Mỹ đưa vào Hiến pháp năm 1789 (Tu chính án thứ Năm). Tướng Trịnh Xuyên cho rằng áp dụng nguyên tắc này sẽ không phù hợp với dân trí nước ta. Nói như thế thật là xúc phạm người dân Việt Nam, không lẽ sau 70 năm xây dựng CNXH, dân trí nước ta lại thua dân trí Mỹ 226 năm về trước.
Nếu Quốc hội đã “học Mỹ” khi đưa “quyền im lặng” vào luật Việt Nam chỉ xin quý vị hiểu lại cho rõ nguyên lý “nhà nước của dân”. Năm 2006, khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đến thăm nơi tưởng niệm Tổng thống Abraham Lincoln, tôi thấy ông đứng rất lâu trước câu nói của Lincoln: “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Những nhà cách mạng Mỹ không chỉ là tác giả của câu nói này mà còn đã thể chế hóa thành công nguyên tắc này.
Khi giành được độc lập, khi đã cầm quyền thay vì quay lưng với nhân dân như nhiều nhà cách mạng khác, vị tổng thống thứ Nhất của họ, ngay trong năm đầu cầm quyền, đã đưa vào Hiến pháp 10 tu chính án ngăn chặn Quốc hội ra các đạo luật ngăn cản các quyền tự do quan trọng nhất của người dân.
Các đại biểu đến từ phía Nam – hai luật sư Trương Trọng Nghĩa và Trần Du Lịch – đã tranh luận khá thẳng thắn với các tướng công an. Nhưng rất tiếc chưa thấy hai ông chỉ ra hai nguyên tắc cơ bản để bảo vệ quyền im lặng: Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc một người không thể bị coi là có tội khi chưa có một bản án có hiệu lực của tòa. Vì không coi trọng hai nguyên tắc này mà nhiều người dân chỉ cần bị dân phòng bắt đã bị đối xử như tội phạm.
Camera & Nhục Hình
Nhiều đại biểu Quốc hội đưa ra sáng kiến dùng camera đặt trong phòng hỏi cung để ngăn chặn điều tra viên sử dụng nhục hình. Camera liệu có tác dụng không khi “phòng hỏi cung” nằm trong tay cơ quan điều tra? Các vị nghĩ rằng các điều tra viên sẽ bật nó lên cho quý vị xem cách họ làm cho những người vô tội ký vào đơn nhận tội?
Có những cuộc tra tấn được điều tra viên trực tiếp tiến hành trong phòng hỏi cung như vụ 7 công dân vô tội bị ép nhận tội giết người ở Sóc Trăng. Nhưng, không phải điều tra viên nào cũng sử dụng nhục hình thô thiển vậy.
Theo tiến sĩ Dương Thanh Biểu, nguyên Phó Viện trưởng VKS TC, ngay cả con người huyền thoại Tạ Đình Đề – người bảo vệ Hồ Chí Minh thời đang còn là “Lý Thụy ở Vân Nam” – trong hai lần bị “công an ta” bắt (1975-1976 và 1985-1988), nếu không nhận tội, không khai đúng ý” của người thẩm vấn cũng bị “chuyển phòng giam khác, bị giao cho đầu gấu”. Tạ Đình Đề kể với ông Biểu: “Khi nghe lệnh chuyển phòng, người tôi bủn rủn… Sang phòng giam mới, bị nhốt với bọn đầu gấu mới (tôi sẽ phải chịu đủ trò) tinh quái và độc ác”(Tạ Đình Đề – NXB Hội Nhà Văn 2014, trang 254).
Kinh nghiệm của ông Tạ Đình Đề không chỉ là câu chuyện của thập niên 1970s, 1980s. Khi gặp Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, bị án Hồ Duy Hải vẫn không dám kêu oan mà chỉ xin giảm án vì Ủy ban Tư pháp gặp xong rồi về còn Hải thì phải quay lại trại giam của công an Long An. Một khi hệ thống trại giam, đặc biệt là các trại tạm giam đang nằm trong tay các cơ quan điều tra thì chuyện ngăn chặn bức cung, nhục hình là vô vọng cho dù có gắn bao nhiêu camera trong phòng hỏi cung.
Độc Lập giữa Các Cơ Quan Tố Tụng
Không có nhà nước nào cơ quan lập pháp lại mang các vụ án ra đánh giá sai đúng trong các phiên toàn thể. Không phải tự nhiên mà tố tụng phải bao gồm nhiều định chế độc lập: điều tra, VKS, TA, luật sư. Quyền giám sát tố tụng nằm ở khả năng “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật” của các cơ quan thực thi chứ không phải là ở quyền giám sát chính trị của cơ quan lập pháp.
Điều nguy hiểm nhất hiện nay là các công tố viên và thẩm phán bị cơ quan điều tra viên “lôi vào cuộc”, bị “cộng đồng trách nhiệm” ngay trong những ngày đầu. Các thủ tục tố tụng phải dựa trên chứng cứ chứ không phải là suy đoán của điều tra viên. Nếu kiểm sát viên độc lập và không quá sợ cơ quan điều tra, anh ta sẽ không phê chuẩn tạm giam một công dân nếu chứng cứ mà cơ quan điều tra đưa ra không thuyết phục.
Tòa án cũng có khuynh hướng bị lũng đoạn bởi cơ quan điều tra nên cách an toàn nhất trong công tác xét xử của họ là “án tại hồ sơ” và với những vụ phức tạp thì tòa dưới còn tham vấn tòa trên nhằm tránh án bị “cải, sửa” khi phúc thẩm để không “mất điểm thi đua”.
Không phải tự nhiên mà trong suốt nhiều năm ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang kêu oan, VKS lẫn TATC đều im, dù họ không trực tiếp dùng nhục hình bức cung. Vì cả VKS và TA đã “đồng lõa” với cơ quan điều tra ngay từ đầu, đứng chung xuồng ngay từ đầu, nên minh oan cho ông Chấn thì họ sẽ trở thành tội phạm.
Cũng như ông Chấn, 7 bị cáo ở Sóc Trăng được minh oan là vì kẻ thực sự gây án đã ra tự thú. Những người thực sự oan khuất chưa chắc đã nằm trong số được tòa tuyên vô tội. Không ai có thể biết chắc trong số hàng triệu “vụ án đẹp”, trong số hàng triệu bộ hồ sơ án hoàn hảo, hàng triệu bị can nhận tội kia có bao nhiêu thực sự oan sai. Những kẻ gây án thực sự đang ở trong tù hay vẫn ở ngoài vòng pháp luật.
Quyền Lực Tuyệt Đối
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, thật khó để nhận ra quyền lực cao nhất đang nằm ở đâu. Nhưng rõ ràng không có cơ quan nào có những quyền đáng sợ như Bộ Công an đang nắm.
Trong vụ án Năm Cam và những vụ án tướng Thành sử dụng tay chân ở Tiền Giang, người dân chỉ biết câu chuyện một băng đảng xã hội đen bị đánh tan. Ít ai biết sự lộng quyền của tướng Thành, biết cái cách thức ông ta khống chế TA và VKS không khác gì Năm Cam cả.
Vì tướng Thành đã trở thành “anh hùng của nhân dân”, trở thành “thần tượng của số đông”, nên người ta đã không tống giam ông cho dù những điều tra viên Tiền Giang bắt bớ, chia chác theo lệnh ông đều đã phải vào tù hoặc vào nhà thương điên để tránh vành móng ngựa.
Không tính thứ bậc trong Đảng, TA, VKS không dễ dàng độc lập trước một Bộ có trong tay quá nhiều công cụ. “Quyền lực có khuynh hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”(Lord Acton). Không chỉ trong hệ thống tư pháp, không có nhà nước nào nuôi dưỡng nguy cơ chính trị bằng cách tạo ra một siêu bộ nếu không muốn các chính trị gia trở thành con tin của bộ ấy.
Chưa kể sự khuynh loát của quyền lực, không ai có thể một lúc hoàn thành quá nhiều chức năng. Vậy nhưng, Bộ Công an hiện nay đang nắm trong tay vai trò điều tra, cảnh sát và cả an ninh, tình báo.
Tình báo phải là một cơ quan độc lập và chỉ nhắm vào kẻ thù bên ngoài chứ không phải nhắm cả vào bên trong (Có thể có an ninh nội địa nhưng đến khi có một nhà nước thực sự của dân thì không cần cơ quan an ninh kiểu như hiện nay). Và, ngay trong vai trò cảnh sát thì cũng nên tách ra: Cảnh sát quốc gia và cảnh sát địa phương.
Cảnh sát địa phương phải thuộc thẩm quyền của các địa phương ; quy mô và phương thức hoạt động tùy từng nơi mà tổ chức khác nhau. Không nhất thiết một huyện ngoại thành cũng có cảnh sát như một huyện ở vùng nông thôn. Những thành phố quá an ninh chỉ cần có vài ba trăm cảnh sát cho vui thay vì cũng nhiều tướng tá như nơi đầy trộm cướp.
Cảnh sát giao thông nên là một lực lượng riêng. Nếu cơ quan điều tra không cùng một mẹ với cảnh sát giao thông thì chắc sẽ mạnh tay hơn với nạn mãi lộ mà không sợ ngành tai tiếng.
Cảnh sát quốc gia thiết lập trật tự và sự thống nhất trên toàn quốc ở những vấn đề cảnh sát địa phương không với tới và nắm những lực lượng như cảnh sát cơ động, cảnh sát chống bạo động. Cảnh sát địa phương đảm trách vai trò giữ gìn trật tự và điều tra những án thuộc về trị an như cướp giật, trộm cắp, kể cả những vụ giết người thuần hình sự xảy ra trên địa bàn.
Nên lập cơ quan điều tra quốc gia để điều tra những vụ án có yếu tố băng đảng, những vụ tham nhũng và những vụ liên quan đến trách nhiệm thi hành công vụ.
Tòa Ba Cấp
Nên thiết lập hệ thống tòa án theo ba cấp xét xử: sơ thẩm, phúc thẩm và tòa phá án. Không tòa nào là cấp trên của tòa nào; các cấp xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Không thể để chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, “nằm trên tòa án”. Các ứng cử viên thẩm phán phải chủ yếu nằm trong số các luật sư giỏi và uy tín nhất.
Tòa nên xét xử bằng tranh tụng: công tố buộc tội; luật sư bào chữa; hội thẩm nhân dân quyết định có tội hay không; thẩm phán lượng hình nếu hội thẩm nhân dân tuyên có tội. Với thủ tục này, mỗi phiên sơ thẩm chỉ cần một thẩm phán và 5-7 hội thẩm viên. Để đảm bảo khách quan, thẩm phán có thể không cần đọc trước hồ sơ, riêng hội thẩm thì không được đọc trước hồ sơ vụ án.
Vấn đề băn khoăn nhất là luật sư. Tuy nhiên ngay cả với bị cáo không có tiền “chạy” và thuê luật sư giỏi thì tình trạng pháp lý cũng không thể xấu hơn với cách tiến hành tố tụng hiện nay. Chỉ cần yêu cầu mỗi luật sư hàng tháng phải tham gia bào chữa miễn phí một số vụ theo chỉ định của tòa. Chỉ cần cho xã hội dân sự phát triển sẽ có nhiều luật sư tình nguyện bào chữa cho người nghèo và sẽ có nhiều tổ chức hỗ trợ pháp lý cho người nghèo.
Nhà nước cũng có thể dùng một ngân khoản để trả cho luật sư trong trường hợp đặc biệt. Đây là khoản chi cho công lý chứ không phải đơn giản cho bị cáo.
Đừng sợ mất vai trò của Đảng. Một đảng tốt là một đảng đảm bảo có một hệ thống tư pháp có thể cung cấp công lý chứ không phải là một đảng khi muốn thì thọc tay vào vụ án. Các tướng lĩnh cũng không nên cố công bảo vệ đặc quyền cho công an. Quan nhất thời. Hãy nhìn gương tướng Quắc, tướng Trần Văn Thanh. Rất có thể có ngày quý vị trở thành nạn nhân của hệ thống tư pháp mà quý vị đang thiết kế.
Huy Đức


May 27, 2015
Nắng Trưa với Hai Gia Đình Gạc Ma ở Quảng Bình
Rất tiếc là thời gian ở Quảng Bình ngắn, nên tôi chỉ có thể thay mặt Nhịp Cầu Hoàng Sa đến thăm gia đình hai liệt sĩ hy sinh ngày 14-3-1988 tại Gạc Ma: trung úy Nguyễn Mậu Phong và chiến sỹ Hoàng Văn Túy. Trung úy Nguyễn Mậu Phong là sĩ quan có cấp bậc cao nhất trực tiếp xuống đảo chỉ huy, hy sinh ngay trong loạt đạn đầu và xương cốt hãy còn nằm lại ở Gạc Ma cùng với 51 đồng đội khác (3 người được đồng đội tìm thấy xác ngay cuộc thảm sát Gạc Ma; 10 bộ hài cốt được tìm thấy trong những nỗ lực của Bộ Tư lệnh Hải quân vào tháng 7 & 8-2008).
Theo Lê Hữu Thảo, người sống sót trong ngày 14-3: “Trung úy Phong là người trực tiếp ra các mệnh lệnh trong thời khắc lịch sử ấy và đã hy sinh như một anh hùng”.
Cha mẹ của trung úy Phong, ông Nguyễn Mậu Bảo (sinh năm 1930) và bà Nguyễn Thị Lênh (sinh 1932), cư ngụ tại thôn Hiển Lộc, xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh. Ông Bảo nói: “Nhà cửa vậy cũng tạm ổn (đã xây tường nhưng chưa đủ tiền đóng cửa), trợ cấp bố mẹ liệt sĩ được 1,3 triệu/người cũng tạm đủ sống. Chỉ buồn về đường con cái.

Với cụ Nguyễn Mậu Bảo, 85 tuổi, thân phụ trung úy Nguyễn Mậu Phong.
Con trai cả của ông, trung úy Phong, hy sinh năm 29 tuổi; người con thứ hai, cũng đột ngột mất khi đang làm phó chủ tịch một huyện ở Tây Nguyên; người con trai thứ Tư sinh ra hai đứa con, cả hai được xác định là chịu ảnh hưởng của chất độc da cam, bị mù và mất trí nhớ.
Cách đó không xa là nhà chị Trần Thị Liễu, vợ trung úy Nguyễn Mậu Phong. Mất chồng năm 28 tuổi, khi đang mang thai người con trai thứ hai, chị Liễu – một thôn nữ xinh đẹp, từng phục vụ 5 năm trong quân đội – hiện ở một mình với cháu nội. Hai con trai của chị và anh Phong sau đó đều xung phong nhập ngũ.

Chị Trần Thị Liễu và cháu nội, thành quả phụ Gạc Ma năm 28 tuổi.
Người con thứ hai, sinh năm 1988, đang là sĩ quan Hải quân. Người con đầu, sinh 1986, từng là lính Trường Sa, hiện xuất ngũ về học cao đẳng điện rồi làm thợ ở Vũng Tàu, trong khi vợ con vẫn ở quê. Vừa bế đứa cháu nội, chị Liễu vừa nói với chúng tôi: “Chỉ mong hai đứa nó xin được việc làm hoặc cùng ở Vũng Tàu, hoặc cùng ở Quảng Bình để được gần nhau”. Tuy theo chị Liễu, những ngày tháng cơ cực nhất đã qua nhưng công cuộc mưu sinh của người con trai xuất ngũ còn cơ cực qúa.
Gia đình của liệt sỹ Hoàng Văn Túy hiện sống ven bờ biển Tân Định, Hải Ninh. Mẹ anh, cụ Nguyễn Thị Tròn (sinh 1931) vừa qua đời trước Tết Ất Mùi. Cha anh, cụ Hoàng Văn Nhỏ (sinh 1928) lưng còng nhưng gương mặt quắc thước, chân bước thoăn thoắt.

Cụ Hoàng Nhỏ, 87 tuổi, thân phụ liệt sĩ Hoàng Văn Túy.
Năm ngoái khi Công đoàn Bộ Văn hóa tặng 100 triệu. Con trai út của Cụ vay mượn thêm để xây một ngôi nhà hết 470 triệu đồng. Để có ngôi nhà khang trang hơn trong xóm, gia đình vẫn còn nợ 170 triệu. Người con trai út ngày ngày ra biển đánh cá trong khi người vợ ở nhà làm món đặc sản nổi tiếng của Quảng Bình: khoai deo.

Làm khoai deo – đặc sản Quảng Bình – ở nhà em trai liệt sĩ Hoàng Văn Túy.
Năm 2013, khi một doanh nghiệp tặng gia đình 20 triệu đồng để sửa nhà, cụ Hoàng Văn Nhỏ đã dùng số tiền ấy làm một bữa giỗ chung cho 64 liệt sĩ Gạc Ma. Theo nhà báo Cu Làng Cát: “Cụ dựng rạp, lập trang thờ; cỗ, món nào cũng đủ 64 phần, 64 đôi đũa, 64 chiếc bát, 64 phần khoai đặc sản, 64 bát nước, 64 nén nhang… Cụ mời xóm làng, mời cán bộ xã cùng đến để nhớ về, biết về sự kiện đó. Bài khấn của cụ giản dị. Cụ nói: Các con, 64 đứa, mỗi đứa một xóm, mỗi đứa một làng, mỗi đứa một miền. Nhưng tiếng nói là tiếng Việt Nam, nước uống là nước uống xứ Nam, máu mủ ruột rà người Nam. Bọ nghèo có bữa cơm đạm bạc, mời mấy con cùng về ăn với xóm làng của bọ để bà con biết mặt, biết tên. Về đây để biết nhà thằng Túy, biết làng hắn, biết dạ người ở đây như dạ người của quê các con”.
Từ đó, đến ngày giỗ Gạc ma, cụ đều nhang khói cho cả 64 liệt sĩ.
Huy Đức


May 13, 2015
Anh Hùng
Tôi không có đủ hồ sơ để đánh giá “những sai phạm” của ông Kim Quốc Hoa nhưng với những gì nêu trong bài này thì thấy rằng ông Hoa có khá nhiều sơ hở. Ông Hoa có thể rất khó chứng minh tất cả những người chống tham nhũng là “bọn biến chất”; có thể không có bằng chứng khi nói về “thị trường sao vạch”… Nhưng vấn đề là, buộc tội ông rồi dân có tin ở VN “không có thị trường sao vạch” không? Có tin những người đang ở trong các cơ quan chống tham nhũng là trongsạch không?
Về những bài báo “không phù hợp với quan điểm của Đảng”, “ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, của cá nhân Tổng bí thư”… thì theo tôi không thể đặt nó trong phạm vi điều chỉnh của luật hình sự được. Mặt khác, trong một đất nước mà báo chí và dân không được quyền chỉ trích, quyền nói khác quan điểm của đảng cầm quyền (ngay cả những chỉ trích đó không chính xác) thì làm sao có thể coi đất nước đó có dân chủ. Làm sao có thể “lợi dụng quyền tự do dân chủ” khi quyền đó không tồn tại.
Nếu thực sự ông Kim Quốc Hoa đã cho đăng những bài báo sai sự thật thì hãy để những người có liên quan yêu cầu tờ báo trả lời, đính chính theo Luật Báo chí. Nếu tờ báo hoặc ông Kim Quốc Hoa không tuân thủ Luật Báo chí hoặc có những bài báo vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm các tổ chức, cá nhân thì hãy để các tổ chức, cá nhân đó khởi kiện dân sự hoặc yêu cầu khởi tố theo Bộ Luật Hình sự.
Ông Hoa bị khởi tố vào ngày mà 7 năm trước đó hai nhà báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên bị bắt trong vụ PMU 18. Nếu như trong vụ PMU 18, các báo thay vì bị bắt mà bị các ông Nguyễn Việt Tiến, Cao Ngọc Oánh kiện ra tòa vì đã đăng những thông tin bịa đặt vu khống, bôi nhọ họ. Thì, cho dù các nhà báo có chứng minh, họ vì quá ngây thơ nên đã bị những kẻ lưu manh như Tướng Quắc biến thành công cụ đâm thuê chém mướn trước đại hội của một số người, thì các nhà báo cũng phải nhìn ra lỗi lầm của mình.
Đành rằng báo chí Nhà nước đã từng nhiều khi rất lộng quyền (mà nạn nhân nhiều khi là người ngay), cách xử lý của chính quyền vẫn thường biến họ trở thành anh hùng thay vì, đôi khi, đáng lẽ họ phải ra đi xấu hổ.
Huy Đức


April 15, 2015
Đỉnh Cao Của Sự Sợ Hãi
Nếu có một cơ hội để đối thoại, người dân Tuy Phong, chắc chắn, sẽ không lựa chọn giải pháp cứng rắn như họ đang làm. Những nông dân hôm qua còn chân chất, hiền lành, có thể sẽ bị bắt.
Những nông dân chất phác đó có thể đã phải cân nhắc, họ chấp nhận rủi ro vì không thể tiếp tục hít thở bụi than.
Tương lai họ sẽ ra sao nếu thân mình thì tù tội trong khi con quái vật khổng lồ đó vẫn ngày ngày phun xỉ than vào phổi của con em họ.
Tại sao nhà thầu Trung Quốc có thể đưa công nghệ luyện thép lò đứng đến Vũng Áng, đưa nhiệt điện đốt than tới Tuy Phong. Chúng ta rất khó nói ra câu trả lời mà ai cũng nghĩ trong đầu. Nhưng nếu người dân có đại diện thực sự của họ, các tổ chức môi trường có thể dễ dàng hình thành, những công nghệ đã bị xua đuổi ở các nước phát triển đó chắc chắn khi đến Việt Nam đã bị chặn từ khi bắt đầu dự án.
Chế độ có muốn nông dân biểu tình cắt đứt tuyến giao thông huyết mạch không. Không. Chế độ có muốn công nhân đình công không. Không. Vậy sao Chế độ không đặt câu hỏi: Tại sao dưa ế, những tiếng nói đầu tiên tìm lối thoát giúp nông dân Quảng Ngãi không phải là Hội Nông dân? Tại sao khi cảm thấy Điều 60, Luật Bảo hiểm xã hội chi trả tiền bảo hiểm không công bằng, 90 nghìn công nhân PouYuen phải đình công thay vì tìm tiếng nói từ Tổng Liên đoàn lao động?
Nếu muốn “ổn định chính trị” đừng chi những khoản ngân sách khổng lồ cho những đoàn thể chỉ biết làm cái loa rè cho Chế độ. Nếu muốn quy trình ban hành chính sách tránh được những quy định kích hoạt những cuộc đình công khổng lồ như Điều 60 Luật Bảo hiểm thì hãy để công nhân lập ra những hội đoàn nói tiếng nói của họ thay vì chỉ nói những điều “bịt tai, bưng mắt” Chính quyền. Nếu muốn những nông dân chất phác hiền lành không có một ngày tự nhiên vác gậy gộc ra chặn đường thì hãy để cho họ có một hội nông dân của họ.
Di sản lớn nhất mà loài người nhận được từ chế độ cộng sản là sự sợ hãi. Dân chúng thì sợ từ anh dân phòng cho tới công an, quan tòa. Chính quyền thì sợ nhau và sợ dân.
Đỉnh cao của sự sợ hãi của những người trong tay không có gì sẽ là sự khuất phục hoàn toàn nhưng cũng có thể là sự liều lĩnh khó lường. Đỉnh cao của sự sợ hãi của những kẻ cầm quyền hoặc là bỏ chạy hoặc trở nên vô cùng tàn bạo.
Hãy để cho dân thiết lập các kênh đối thoại để trước hết giải thoát sự sợ hãi cho Chế độ.
Huy Đức


�����nh Cao C���a S��� S��� H��i
N���u c�� m���t c�� h���i ����� �����i tho���i, ng�����i d��n Tuy Phong, ch���c ch���n, s��� kh��ng l���a ch���n gi���i ph��p c���ng r���n nh�� h��� ��ang l��m. Nh���ng n��ng d��n h��m qua c��n ch��n ch���t, hi���n l��nh, c�� th��� s��� b��� b���t.
Nh���ng n��ng d��n ch���t ph��c ���� c�� th��� ���� ph���i c��n nh���c, h��� ch���p nh���n r���i ro v�� kh��ng th��� ti���p t���c h��t th��� b���i than.
T����ng lai h��� s��� ra sao n���u th��n m��nh th�� t�� t���i trong khi con qu��i v���t kh���ng l��� ���� v���n ng��y ng��y phun x��� than v��o ph���i c���a con em h���.
T���i sao nh�� th���u Trung Qu���c c�� th��� ����a c��ng ngh��� luy���n th��p l�� �����ng �����n V��ng ��ng, ����a nhi���t ��i���n �����t than t���i Tuy Phong. Ch��ng ta r���t kh�� n��i ra c��u tr��� l���i m�� ai c��ng ngh�� trong �����u. Nh��ng n���u ng�����i d��n c�� �����i di���n th���c s��� c���a h���, c��c t��� ch���c m��i tr�����ng c�� th��� d��� d��ng h��nh th��nh, nh���ng c��ng ngh��� ���� b��� xua ��u���i ��� c��c n�����c ph��t tri���n ���� ch���c ch���n khi �����n Vi���t Nam ���� b��� ch���n t��� khi b���t �����u d��� ��n.
Ch��� ����� c�� mu���n n��ng d��n bi���u t��nh c���t �����t tuy���n giao th��ng huy���t m���ch kh��ng. Kh��ng. Ch��� ����� c�� mu���n c��ng nh��n ����nh c��ng kh��ng. Kh��ng. V���y sao Ch��� ����� kh��ng �����t c��u h���i: T���i sao d��a ���, nh���ng ti���ng n��i �����u ti��n t��m l���i tho��t gi��p n��ng d��n Qu���ng Ng��i kh��ng ph���i l�� H���i N��ng d��n? T���i sao khi c���m th���y ��i���u 60, Lu���t B���o hi���m x�� h���i chi tr��� ti���n b���o hi���m kh��ng c��ng b���ng, 90 ngh��n c��ng nh��n PouYuen ph���i ����nh c��ng thay v�� t��m ti���ng n��i t��� T���ng Li��n ��o��n lao �����ng?
N���u mu���n “���n �����nh ch��nh tr���” �����ng chi nh���ng kho���n ng��n s��ch kh���ng l��� cho nh���ng ��o��n th��� ch��� bi���t l��m c��i loa r�� cho Ch��� �����. N���u mu���n quy tr��nh ban h��nh ch��nh s��ch tr��nh �������c nh���ng quy �����nh k��ch ho���t nh���ng cu���c ����nh c��ng kh���ng l��� nh�� ��i���u 60 Lu���t B���o hi���m th�� h��y ����� c��ng nh��n l���p ra nh���ng h���i ��o��n n��i ti���ng n��i c���a h��� thay v�� ch��� n��i nh���ng ��i���u “b���t tai, b��ng m���t” Ch��nh quy���n. N���u mu���n nh���ng n��ng d��n ch���t ph��c hi���n l��nh kh��ng c�� m���t ng��y t��� nhi��n v��c g���y g���c ra ch���n �������ng th�� h��y ����� cho h��� c�� m���t h���i n��ng d��n c���a h���.
Di s���n l���n nh���t m�� lo��i ng�����i nh���n �������c t��� ch��� ����� c���ng s���n l�� s��� s��� h��i. D��n ch��ng th�� s��� t��� anh d��n ph��ng cho t���i c��ng an, quan t��a. Ch��nh quy���n th�� s��� nhau v�� s��� d��n.
�����nh cao c���a s��� s��� h��i c���a nh���ng ng�����i trong tay kh��ng c�� g�� s��� l�� s��� khu���t ph���c ho��n to��n nh��ng c��ng c�� th��� l�� s��� li���u l��nh kh�� l�����ng. �����nh cao c���a s��� s��� h��i c���a nh���ng k��� c���m quy���n ho���c l�� b��� ch���y ho���c tr��� n��n v�� c��ng t��n b���o.
H��y ����� cho d��n thi���t l���p c��c k��nh �����i tho���i ����� tr�����c h���t gi���i tho��t s��� s��� h��i cho Ch��� �����.
Huy �����c


February 25, 2015
Quốc Phụ & Quốc Sư
Tuy thất vọng trước chương trình Táo quân Giao thừa 2015, nhưng ngay sáng mùng Một Tết, công chúng đã được đền bù khi nhìn thấy những tấm hình chụp “thâm cung” nhà Cựu TBT Nông Đức Mạnh. Trận cười chưa dứt thì hôm qua, mùng 6 Tết, dân chúng lại mục kích loạt ảnh GS Vũ Khiêu hôn má và cho chữ hoa hậu Kỳ Duyên. Nhưng đừng tưởng truyền thông nhà nước chỉ đóng vai trò mua vui. Các nhà báo lề phải thâm thúy hơn những gì vài facebookers đang chế nhạo.
Lâu nay, giới học thật – căn cứ vào những “tác phẩm” từng xuất bản khi ông còn trẻ – không lạ gì vốn chữ nghĩa của học giả Vũ Khiêu. Nhưng với công chúng số đông, nếu truyền thông nhà nước không cho chúng ta đọc câu đối mà Vũ Khiêu tặng Kỳ Duyên – “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc – Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” – làm sao biết, GS Vũ Khiêu không những không biết “niêm luật” tối thiểu khi viết câu đối mà còn, phần văn vẻ nhất, lại đạo thơ Lý Bạch (chưa kể về ý, vế đầu tự viết thì tối nghĩa, vế sau của Lý Bạch thì dung tục khi dùng cho tình huống một ông già trăm tuổi tặng cô gái 19 tuổi – Vũ Khiêu cũng đã từng đạo lời Quản Trọng nói về Thúc Nha, thời Đông Chu, khi “khóc” Tướng Giáp).
Nhiều người sững sờ khi nhìn thấy Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế tay rồng, trước một hương án “thếp vàng”. Không nói về sự xa hoa. Dân chúng không còn kỳ vọng vào sự thanh liêm của những người như ông. Nhưng dân chúng, theo lẽ tư duy thông thường, nghĩ, một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất.
Ngoài khía cạnh văn hóa, việc tổng bí thư của một đảng cộng sản khi về hưu tự thửa cho mình một chiếc ghế mô phỏng ngai vàng còn cho thấy, tuy kêu gọi dân chúng làm cách mạng, quét sạch tàn dư phong kiến nhưng trong thẳm sâu, không ai thèm khát tàn dư phong kiến bằng họ – những nông dân có quyền vua chúa.
Có lẽ những chức tước đã kinh qua và những danh hiệu “cao quý nhất” mà Chế độ đã gắn cho GS Vũ Khiêu không những làm công chúng mà chính ông cũng choáng ngợp và tưởng thật. Khi ngồi trên cái ngai vàng hàng nhái đó để tiếp khách chính thức, có chụp ảnh (có thể còn quay phim), chắc chắn ông Mạnh không nhận ra thân phận của một “hoàng đế cởi truồng”. Nhưng vàng, thau thì không bao giờ lẫn lộn. Khi xuất hiện trước công chúng, những công dân trưởng thành đã chỉ ra sự tồng ngồng của họ.
Sau thất bại của “Táo quân” tưởng không có gì vui. Sau những cuộc cười đau bụng tưởng đã có gì vui. Nhưng đời chẳng có gì vui. Văn chương như Vũ Khiêu mà biết bao năm qua vẫn được không ít người tôn là “quốc sư”, vẫn được không ít người trông coi đình đền miếu mão mời viết văn bia; Văn hóa như Nông Đức Mạnh mà vẫn có thể làm Chủ tịch Quốc hội tới 9 năm, vẫn làm Tổng bí thư tới 10 năm… thì, đất nước không như thế này mới lạ.
Huy Đức

Qu���c Ph��� & Qu���c S��
Tuy th���t v���ng tr�����c ch����ng tr��nh T��o qu��n Giao th���a 2015, nh��ng ngay s��ng m��ng M���t T���t, c��ng ch��ng ���� �������c �����n b�� khi nh��n th���y nh���ng t���m h��nh ch���p “th��m cung” nh�� C���u TBT N��ng �����c M���nh. Tr���n c�����i ch��a d���t th�� h��m qua, m��ng 6 T���t, d��n ch��ng l���i m���c k��ch lo���t ���nh GS V�� Khi��u h��n m�� v�� cho ch��� hoa h���u K��� Duy��n. Nh��ng �����ng t�����ng truy���n th��ng nh�� n�����c ch��� ����ng vai tr�� mua vui. C��c nh�� b��o l��� ph���i th��m th��y h��n nh���ng g�� v��i facebookers ��ang ch��� nh���o.
L��u nay, gi���i h���c th���t – c��n c��� v��o nh���ng “t��c ph���m” t���ng xu���t b���n khi ��ng c��n tr��� – kh��ng l��� g�� v���n ch��� ngh��a c���a h���c gi��� V�� Khi��u. Nh��ng v���i c��ng ch��ng s��� ����ng, n���u truy���n th��ng nh�� n�����c kh��ng cho ch��ng ta �����c c��u �����i m�� V�� Khi��u t���ng K��� Duy��n – ���Tr�� nh�� b���ch tuy���t t��m nh�� ng���c – V��n t�����ng y th�����ng hoa t�����ng dung��� – l��m sao bi���t, GS V�� Khi��u kh��ng nh���ng kh��ng bi���t “ni��m lu���t” t���i thi���u khi vi���t c��u �����i m�� c��n, ph���n v��n v��� nh���t, l���i �����o th�� L�� B���ch (ch��a k��� v��� ��, v��� �����u t��� vi���t th�� t���i ngh��a, v��� sau c���a L�� B���ch th�� dung t���c khi d��ng cho t��nh hu���ng m���t ��ng gi�� tr��m tu���i t���ng c�� g��i 19 tu���i – V�� Khi��u c��ng ���� t���ng �����o l���i Qu���n Tr���ng n��i v��� Th��c Nha, th���i ����ng Chu, khi “kh��c” T�����ng Gi��p).
Nhi���u ng�����i s���ng s��� khi nh��n th���y N��ng �����c M���nh ng���i tr��n chi���c gh��� tay r���ng, tr�����c m���t h����ng ��n “th���p v��ng”. Kh��ng n��i v��� s��� xa hoa. D��n ch��ng kh��ng c��n k��� v���ng v��o s��� thanh li��m c���a nh���ng ng�����i nh�� ��ng. Nh��ng d��n ch��ng, theo l��� t�� duy th��ng th�����ng, ngh��, m���t ng�����i ���� ng���i ��� v��� tr�� t���t �����nh quy���n l���c su���t g���n hai th���p ni��n, v��� m���c ����� tr���c ph��, l��� ra ph���i kh�� h��n c��c �����i gia bu��n �����t.
Ngo��i kh��a c���nh v��n h��a, vi���c t���ng b�� th�� c���a m���t �����ng c���ng s���n khi v��� h��u t��� th���a cho m��nh m���t chi���c gh��� m�� ph���ng ngai v��ng c��n cho th���y, tuy k��u g���i d��n ch��ng l��m c��ch m���ng, qu��t s���ch t��n d�� phong ki���n nh��ng trong th���m s��u, kh��ng ai th��m kh��t t��n d�� phong ki���n b���ng h��� – nh���ng n��ng d��n c�� quy���n vua ch��a.
C�� l��� nh���ng ch���c t�����c ���� kinh qua v�� nh���ng danh hi���u “cao qu�� nh���t” m�� Ch��� ����� ���� g���n cho GS V�� Khi��u kh��ng nh���ng l��m c��ng ch��ng m�� ch��nh ��ng c��ng cho��ng ng���p v�� t�����ng th���t. Khi ng���i tr��n c��i ngai v��ng h��ng nh��i ���� ����� ti���p kh��ch ch��nh th���c, c�� ch���p ���nh (c�� th��� c��n quay phim), ch���c ch���n ��ng M���nh kh��ng nh���n ra th��n ph���n c���a m���t “ho��ng ����� c���i tru���ng”. Nh��ng v��ng, thau th�� kh��ng bao gi��� l���n l���n. Khi xu���t hi���n tr�����c c��ng ch��ng, nh���ng c��ng d��n tr�����ng th��nh ���� ch��� ra s��� t���ng ng���ng c���a h���.
Sau th���t b���i c���a “T��o qu��n” t�����ng kh��ng c�� g�� vui. Sau nh���ng cu���c c�����i ��au b���ng t�����ng ���� c�� g�� vui. Nh��ng �����i ch���ng c�� g�� vui. V��n ch����ng nh�� V�� Khi��u m�� bi���t bao n��m qua v���n �������c kh��ng ��t ng�����i t��n l�� “qu���c s��”, v���n �������c kh��ng ��t ng�����i tr��ng coi ����nh �����n mi���u m��o m���i vi���t v��n bia; V��n h��a nh�� N��ng �����c M���nh m�� v���n c�� th��� l��m Ch��� t���ch Qu���c h���i t���i 9 n��m, v���n l��m T���ng b�� th�� t���i 10 n��m… th��, �����t n�����c kh��ng nh�� th��� n��y m���i l���.
Huy �����c

Huy Đức's Blog
- Huy Đức's profile
- 51 followers
