Huy Đức's Blog, page 2
December 28, 2018
Lưng Rồng, “TÀU” & CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI 17-2
Tôi không thích Lưng Rồng nhưng vô cùng thất vọng khi nghe nói cuốn sách này bị cấm. Không thích vì nhận thấy Đỗ Hoàng Diệu vẫn còn bị bóng đè, tuy Lưng Rồng không còn là sản phẩm của một cô gái mới về nhà chồng (như trong Bóng Đè) nữa. Ngòi bút điêu luyện của Diệu bóc tách không thương tiếc những khao khát thân xác của một phụ nữ có chồng “lên Biên giới” và cũng ngay lập tức hả hê trước những dằn vặt đoan chính của nàng.
Tấm lưng đĩ thoã của một “hậu duệ Thuý Kiều” bắt đầu được xăm Rồng vào lúc 4 giờ sáng, ngày 17-2.
Sử dụng não trạng tuyên huấn mà đọc văn chương; lấy sự sợ hãi các ám chỉ mà soi xét tính ẩn dụ trong từng con chữ thì giật mình trước Lưng Rồng là không có gì bất ngờ. Nhất là thời điểm tưởng niệm 40 năm cuộc chiến tranh Biên giới.
Tôi không thích Bóng Đè cũng như Lưng Rồng vì chủ nghĩa dân tộc được Diệu nói ở đây vừa rất tự ti, vừa rất yếm thế. Nhưng tôi tôn trọng cái cách mà Diệu nhìn vấn đề “Tàu”, không phủ nhận là điều đó tồn tại một phần trong tâm thức người Việt. Tâm thức của người Việt trước Tàu là những điều không chỉ các nhà sử học mà rất cần được cả các nhà văn mổ xẻ.
Điều tôi đang tự hỏi, là bây giờ Cục Xuất Bản cấm Lưng Rồng, liệu vài tuần nữa, Tuyên Giáo có cấm nói về cuộc chiến tranh Biên giới. Chỉ còn 8 tuần nữa là tới ngày 17-2, ngày quân Trung Quốc gây chiến tranh 1979. Cuộc chiến tranh chưa xa, hàng nghìn liệt sỹ ở Vị Xuyên vẫn chưa tìm thấy xác. Cuộc chiến tranh cũng không còn quá gần để ta phải sợ nó tấy lên, mưng mủ.
Hôm trước tôi có nói đến cuốn Phán Xét; cuốn sách này không mới về tư liệu mà mới ở chỗ, lần đầu tiên một thượng tướng An ninh sử dụng tư liệu lịch sử nhiều nguồn để khẳng định rằng, nguồn gốc Cộng sản của Việt Minh là cản trở quan trọng nhất để các phe phái công nhận độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh và ý thức hệ đóng vai trò quyết định khi đặt VN vào các cuộc chiến sau đó. Phán Xét cũng nói rất nhiều đến vai trò Trung Cộng trong việc chia cắt nước ta ở sông Bến Hải.
Phán Xét cũng nói đến súng đạn và cố vấn TQ, đặc biệt nói đến con số 320 nghìn binh sỹ Trung Quốc từng có mặt ở miền Bắc Việt Nam một thời gian trong thập niên 1960s.
Chúng ta biết rất nhiều về Lê Duẩn với vai trò như một người hùng chống Trung Quốc. Nhưng chúng ta rất ít nói đến vai trò TQ đứng rất lâu sau lưng Lê Duẩn.
Sau 1956, khi Trường Chinh mất chức TBT để cứu uy tín của Đảng trong CCRĐ, Bắc Kinh ngăn cản ứng cử viên Tướng Giáp. Sau đó, Bắc Kinh tìm cách đưa Lê Duẩn ra Bắc. Năm 1957, chiếc xe và lái xe đưa Lê Duẩn đào thoát từ Sài Gòn sang Phnom Pênh là của người Hoa. Một điệp viên người Hoa đón Lê Duẩn ở Phnom Pênh và sau đó một điệp viên người Hoa khác đưa Lê Duẩn về HK rồi Trung Hoa Lục Địa. Bắc Kinh rất quan tâm tới con cái Lê Duẩn và bà vợ thứ Hai của ông trong thời gian bà ở Bắc Kinh.
Trong cuộc chiến tranh của Lê Duẩn ở miền Nam, ngoài súng đạn, Bắc Kinh trang bị cho bộ đội miền Bắc đến từng cái kim sợi chỉ; cung ứng ngoại tệ cho Lê Duẩn nhiều tới mức, sau ngày 30-4 vẫn còn hơn một trăm triệu đô la tiền mặt chưa dùng đến.
Khúc ngoặt quan trọng nhất của Lê Duẩn với Bắc Kinh là sự kiện Nixon bắt tay với Mao. Nhưng, nếu không có cú bắt tay này, Mỹ có buông miền Nam như thế… Có lẽ Lê Duẩn chỉ nhìn thấy trong sự kiện đó sự “trở mặt” của Bắc Kinh mà không nhìn thấy nó khởi đầu cho một sự thay đổi hoàn toàn bàn cờ thế giới. Sau 1972, quân cờ VN không còn quá quan trọng trong tay hai phe nữa.
Sau Chiến tranh 1979 nổ ra, có “riu mơ”, năm 1973 khi Kissinger sang Hà Nội, ông ta chỉ tay về phương Bắc và nói với Lê Đức Thọ rằng, “Từ nay kẻ thù của VN là đây chứ không phải là Mỹ nữa”. Năm 2006, tôi mang câu chuyện này hỏi lại Kissinger (khi phỏng vấn ông ở Boston), Kissinger cười, “Tôi tới HN, Lê Đức Thọ dẫn tôi đi thăm bảo tàng lịch sử, khi đó ở đấy chưa có phần nào trưng bày về chiến tranh với Mỹ nhưng có rất nhiều phần trưng bày về chiến tranh với Trung Quốc. Anh nghĩ người VN còn cần tôi dạy họ ai mới là kẻ thù của họ sao”.
Ông Trần Việt Phương, Trợ lý cố thủ tướng Phạm Văn Đồng và là một người rất gần gũi HCM, nói, “Trong lịch sử nghìn năm giữ nước, chưa có thời nào ngây thơ (quốc tế vô sản) và mất cảnh giác với Trung Quốc như thời đại HCM”.
Thay vì cấm đoán những cuốn sách như Lưng Rồng, nên ủng hộ cái nhìn nhiều chiều về văn hoá và lịch sử. Tôi hy vọng Phán Xét là một tín hiệu – phát đi từ trong nội bộ Đảng – cho thấy, chính người Việt Cộng sản cũng đang có nhu cầu mổ xẻ các bài học của mình về cách ứng xử bên cạnh một láng giềng như Trung Quốc.
[image error]
December 26, 2018
Thế Hệ Thứ Ba
BCT giới thiệu nhân sự quy hoạch hai năm trước đại hội là một cách làm mới nhưng để kết quả không như cũ thì Đảng phải công khai ngay danh sách cho dân giám sát.
Nếu “nhà nước thực sự là của dân” như Đảng tuyên bố thì nhân sự không phải là công việc nội bộ của Đảng. Phần lớn trong 200 con người được quy hoạch đó đang hoặc sẽ nắm giữ những quyền lực then chốt nhất của nhân dân. Nên nhớ là những Nguyễn Tấn Dũng, Trần Đại Quang, Đinh La Thăng, Tất Thành Cang… đều được quy hoạch từ rất sớm.
Nhưng bản chất của “quy hoạch” vẫn là sự lựa chọn của các bậc cha chú. Ông Võ Văn Kiệt thường nói, “Lãnh đạo phải hơn người khác một cái đầu; nhưng khi không hơn người khác, họ thường có khuynh hướng chọn người kém mình một cái đầu”. Bộ máy cũ không những đẻ ra chính nó mà còn đẻ ra một thế hệ kế tục kém xa hơn nó. Đó là kết quả sinh sản của những cuộc hôn nhân cận huyết.
Hơn 70 năm qua đã có 3 thế hệ nắm quyền, cả ba thế hệ đều không có vai trò của dân thông qua những thiết chế thực quyền.
Thế hệ các bậc “công thần khai chế độ”, bao gồm những người cho dù xuất thân là vô sản, giang hồ hay trí thức, thì cũng đều là những người có khát vọng. Lựa chọn của họ có thể quăng quật đất nước qua biết bao tao loạn nhưng tham vọng của họ không tủn mủn như vàng bạc hay chức tước cho vợ con. Họ biết chuẩn bị một thế hệ kế tục “con đường” của mình.
Thế hệ được lựa chọn này có thể tính từ Phan Văn Khải, Nguyễn Đình Lộc, Đậu Ngọc Xuân… và những người tiếp theo như Đỗ Quốc Sam, Vũ Khoan, Trần Xuân Giá, Võ Hồng Phúc… Họ hoặc là có nguồn gốc trí thức hoặc được Đảng cho ăn học nhưng vẫn mang khí chất của những người trí thức.
Cho dù được chuẩn bị để “kế tục sự nghiệp”, nhưng khi họ cầm quyền cũng là khi Liên Xô sụp đổ. Nhiều người trong số họ tự giải phóng đầu óc mình ra khỏi tình trạng “bị cầm tù trong sự giáo điều”. Dù nhiều người không hẳn là liêm khiết, khí chất kẻ sỹ vẫn giúp họ đặt khát vọng quốc gia, dân tộc cao hơn lợi ích cá nhân. Chính họ nhìn thấy sự lầm than chủ yếu vì “lỗi hệ thống” chứ không đổ cho chiến tranh, chia cắt.
Họ khôn ngoan cài cắm các khái niệm tích cực vào các văn kiện, rồi mềm dẻo “thể chế hoá” chúng. Hiến pháp 1992, Luật Đất Đai 1993, Luật Doanh Nghiệp 1999…, những chính sách mang dấu ấn của họ, đã thiết lập các hành lang pháp lý để VN có thể đặt chân đến cánh cửa của kinh tế thị trường. Họ là thế hệ thấu hiểu mô hình Xô – Viết, chính họ đã khôn ngoan biến công cuộc đổi mới của Đảng (từ 1986) – khởi xướng bởi những người từng là con đẻ của Xô – Viết – trở thành một công cuộc từng bước đưa VN thoát khỏi mô hình Xô – Viết.
Tiếc thay, họ thường nghiêng về kỹ trị hơn là chính trị. Họ thua ngay những người gần như cùng thời với mình như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng…
Thế hệ thứ Ba, không phải không còn những người có khí chất, biết giữ gìn. Tuy nhiên, những người còn chút lòng với đất nước này nhanh chóng bị đẩy vào nhóm thiểu số. Nguyên tắc “tập trung dân chủ” từng tập trung vào tay Tổng bí thư, trong hai nhiệm kỳ gần như nằm trong tay Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Tấn Dũng được cơ cấu vào dự khuyết Trung ương năm 1986, khi đang là Bí thư Hà Tiên. Chẳng phải Võ Văn Kiệt, hay Lê Đức Anh mà chính học thuyết “pháo đài cấp huyện” của Lê Duẩn đã chọn ông, một người chẳng tài cán, chưa công lao, như đã chọn Nguyễn Thị Xuân Mỹ (Quận Lê Chân, Hải Phòng), Trương Mỹ Hoa (Tân Bình)… Cơ hội thực sự của Nguyễn Tấn Dũng là được đón Lê Đức Anh tới thăm Kiên Giang vào ngày 5-5-1993. Chỉ mấy tháng sau, Ba Dũng được đưa ra làm thứ trưởng Bộ Nội Vụ thay thế Tướng Võ Viết Thanh, trong một ý đồ nắm Bộ sức mạnh này của Lê Đức Anh.
Ai từng biết Ba Dũng trước khi ông ta lên Thủ tướng thì mới thấy đó là một con người hoàn toàn khác, thân thiện với đồng sự; ngoan ngoãn, nhất mực vâng lời các cha chú Anh – Kiệt – Mười. Võ Văn Kiệt thích Ba Dũng vì tính quyết đoán. Đỗ Mười chọn ông ta vì “con liệt sỹ, lại đã kinh qua chiến đấu, kiên định vững vàng”. Ông Võ Văn Kiệt nhận ra con người Ba Dũng chỉ sau một năm Ba Dũng trở thành Thủ tướng. Tam nhân chọn lựa nhưng chỉ có Lê Đức Anh là đứng rất lâu sau lưng Ba Dũng.
Hai thập niên ông tướng này bảo vệ đất quân đội cũng vì quyền lực; rồi chính ông để cho Ba Dũng, Phùng Quang Thanh… chia chác đất quân đội cũng vì tiếp tục muốn có ảnh hưởng quyền lực. Trước Đại hội, khi sức đã tàn ông Tướng vẫn còn can thiệp để giữ “anh Ba” ở lại.
Điểm nổi bật của “thế hệ thứ Ba” là hiểu biết rất “ba chớp ba nhoáng” về mô hình Xô – Viết nhưng lại cầm quyền vào thời điểm quyền lực rất có màu. Những người tôn thờ tiền bạc nhất lại rất giỏi nói những lời có cánh về “định hướng”. Họ tăng trưởng nhanh dưới thời Ba Dũng. Họ không chỉ tự tha hoá mình về mặt con người, mà còn làm vô hiệu các nỗ lực cải cách thể chế của những người tiền nhiệm. Giai đoạn sau 2006, Việt Nam thay vì có thể vững chắc đi đến thị trường, con đường tích tụ tư bản của các doanh nghiệp phần lớn bị đặt ở sân sau, hoang dã.
Đúng là lỗi hệ thống nhưng chính những người như Nguyễn Tấn Dũng đã chung chạ bừa bãi với phần lăng loàn nhất của thể chế để “đẻ” ra những Đinh La Thăng, Bắc Hà, Phan Văn Vĩnh… và “khối doanh nghiệp sân sau”. Tất Thành Cang không chỉ nằm trong số đó mà còn là truyền nhân nguy hiểm nhất. Cang không chỉ giỏi ton hót Lê Thanh Hải, Nguyễn Tấn Dũng… mà còn chơi trong nhóm các cậu ấm Nguyễn Thanh Nghị, Lê Trương Hải Hiếu… Người dân Sài Gòn không phải không biết Cang là ai. Vấn đề là quy trình cán bộ đưa Cang lên nắm quyền không có vai trò của các đảng viên tử tế, đừng nói chi vai trò của dân.
Đội ngũ lãnh đạo đất nước này phần lớn được lựa chọn trong mười năm qua; nhung nhúc “những đứa con cận huyết”. Họ chỉ kém sự du côn của Cang và không được vẫy vùng trong lãnh địa của “anh Hai”. Các quy trình đã từng đưa họ lên, khi có cơ hội sẽ đưa họ thành Cang, thành Thăng, thành Vĩnh…
Cả ba thế hệ đều đã lệ thuộc rất nhiều vào cá nhân, thế hệ nào cũng không tránh được sự tha hoá. Đừng để “thế hệ thứ Ba” khi có cơ hội lại đưa đất nước quay lại “thời kỳ Ba Dũng”. Phải để những kẻ tha hoá biết sợ dân, sợ thể chế chứ không chỉ sợ một người; phải để cây thành rừng, thành gỗ chứ không chỉ thành củi. Dân chúng hân hoan khi thấy bọn tham nhũng bị tống vào tù; nhưng dân chúng cần có đủ niềm tin vào thể chế để tìm cảm hứng phát triển ngay cả khi “lò” tắt.
December 7, 2018
Giáo Dục Vị Sinh Viên Hay Vị Người Ngồi Trên
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đang cho thanh tra các trường đại học về việc chấp hành chỉ thị (số 10) đưa nội dung “phòng chống tham nhũng” vào chương trình giảng dạy trong nhà trường. Chỉ thị do PTT Nguyễn Thiện Nhân “ký thay” Nguyễn Tấn Dũng [Nguyễn Tấn Dũng là “cha đẻ” của những Bình VinaShin, Đinh La Thăng, Trần Bắc Hà…]
Chỉ thị số 10 ký từ tháng 6-2013; tháng 10-2018, ông Nhạ bắt đầu tổ chức thanh tra. Nghĩa là, tín chỉ tham nhũng chỉ trở thành “pháp lệnh” dưới thời ông Nhạ. Đành rằng, thành tựu chống tham nhũng trong hai năm vừa qua là rất đáng kể. Nhưng, ông Nhạ muốn trong trường học, học sinh ca tụng công cuộc đốt lò hay muốn “tiêm vaccine” cho chúng.
Muốn tiêm vaccine phòng tham nhũng cho thế hệ trẻ thì ngay từ bậc phổ thông đã phải hướng các em đến khát vọng công lý; trang bị cho các em những kiến thức căn bản về nhà nước pháp quyền; giúp các em nhận ra nguy cơ tham nhũng như Phạm Nhan trong những quốc gia không áp dụng tam quyền phân lập.
Ngoài tín chỉ bắt buộc, “tham nhũng”, các trường đại học hiện còn đang phải khẩn trương chỉnh sửa chương trình để chèn thêm tín chỉ thứ hai, “khởi nghiệp”. Cứ theo cách làm chính sách giáo dục kiểu “vị những người ngồi trên” thế này, nhiều giáo sư e rằng, nay mai Bộ sẽ bắt buộc các trường dạy thêm những tín chỉ về “4.0”, về “tự chuyển hoá” và “tự diễn biến…”
Thời gian và khả năng tiếp thu của sinh viên có giới hạn chính vì thế, để có sản phẩm giáo dục chất lượng, “bán” được trên thị trường lao động, các trường đại học phải thiết kế chương trình làm sao trang bị cho các em những điều hữu ích nhất. Bày vẽ những môn hình thức đồng nghĩa với việc cắt bớt những kiến thức thiết thân. Chương trình đào tạo là sản phẩm tự chủ của các trường đại học chứ không phải là sản phẩm ép từ trên xuống của tư duy bao cấp.
Đây không chỉ là câu chuyện của Bộ, của trường hay của các thầy mà là quyền của người học. Sinh viên – người mua dịch vụ đào tạo – trả học phí cho mình chứ không phải trả chi phí cho lợi ích chính trị của vài người làm chính sách. Các thầy nặn óc để soạn giáo án dạy những tín chỉ này mất một thì người học mất mười. Khi phải tiêu tốn năng lượng cho những môn học nặng về hình thức, sản phẩm giáo dục Việt Nam sẽ mãi là “1.0” chẳng bao giờ có cửa cạnh tranh trên sân nhà khi mà thị trường lao động ASEAN đã dần thống nhất.
Lựa chọn này có thể giúp chúng ta hiểu vì sao uy tín của ông Nhạ trong Quốc hội rất thấp, ông cũng không chấp. MXH nặng lời chỉ trích ông cũng cứ hếch mặt lên. Giáo dục của ông không phải là “vị học sinh, sinh viên” vì phụ huynh học sinh đâu có ảnh hưởng tới ghế ngồi của ổng.
December 6, 2018
Những Miền Quê Yêu Dấu
Vũ Thư Hiên là một nhân vật chứ không chỉ là một tác giả. Nhưng, Miền Thơ Ấu của ông là một tác phẩm rất thuần văn. Có lẽ vì cuốn sách là tự truyện nên nó được viết không hề trau chuốt. Sức hấp dẫn nằm ở chỗ nó mang đến cho chúng ta tầng tầng lớp lớp những bức tranh đẹp mê hồn và những câu chuyện buồn thăm thẳm ở một miền quê yêu dấu.
Chuyện viết từ một làng công giáo toàn tòng. Toàn tòng nhưng vẫn thờ Khổng Tử. Trọng cha kính Chúa nhưng trong sâu thẳm vẫn chịu chi phối của lề thói nho giáo. Những nhà nho cuối cùng thất thế, đói đến nhiều khi cả tháng không có cơm mà vẫn coi việc kiếm ăn là của đàn bà, phụ nữ.
Những người phụ nữ vừa phải tần tảo nuôi chồng, vừa phải lo toan giỗ chạp, gìn giữ nếp nhà. Đặc biệt là những “bà cô” kiêu hãnh nhưng vì gánh gia đình, gánh gia phong trĩu nặng trên vai; vì sự bất ổn của tương lai… mà đôi khi trở nên khắc nghiệt.
Cũng như bao miền quê khác của Việt Nam, mấy năm tuổi thơ của Vũ Thư Hiên loanh quanh trong một làng mà “những sự kiện lịch sử bao giờ cũng nhuốn màu truyền thuyết còn những truyền thuyết thì lại tìm sự minh chứng cho tính hiện hữu của nó nơi các sự kiện lịch sử”. Chuyện lại diễn ra ở một giai đoạn đất nước phải chứng kiến sự suy tàn của các nền tảng cũ, sự bế tắc của tầng lớp văn thân, để rồi những người muốn đi tìm cái mới đã đặt chân vào con đường cộng sản.
Tác giả lúc chỉ mới là một đứa bé, đã phải nếm mùi nhà tù khi cùng mẹ đến thăm cha, một người cộng sản; trớ trêu thay khi những người cộng sản nắm được chính quyền, cả cha và con lại vào tù lần nữa.
Cuốn sách đặc biệt này được bắt đầu từ cuối năm 1970, khi Vũ Thư Hiên đang bị giam tại trại quân pháp Bất Bạt. “Nó được viết trên giấy gói keo, vỏ bao thuốc lá, trên bất cứ thứ giấy nào nhặt được”.
Khi tác giả ra tù, dù Lê Đức Thọ ra lệnh cấm, không cho tên Vũ Thư Hiên xuất hiện. Ông Hà Mậu Nhai vẫn cho in Miền Thơ Ấu với chính danh Vũ Thư Hiên. Năm 1988, nhà văn Tô Hoài cùng Ban giám khảo đã trao giải nhất, giải văn học của năm, cho cuốn sách. Thật thú vị là cho dù tác giả đang phải sống lưu vong, chúng ta vẫn có trên tay Miền Thơ Ấu.
PS: Tôi không có ý định so sánh; nhưng hôm qua khi ngồi trên máy bay, đọc dăm truyện ngắn trong tập Hoan Lạc Đỏ của Nguyễn Thị Minh Hoa bỗng nhiên liên tưởng tới Miền Thơ Ấu. Những miền quê yêu dấu của tôi vẫn tiếp tục sản sinh những câu chuyện thật buồn. Những người phụ nữ đẹp của thời đại ngày nay vẫn phải gánh trên vai quá nhiều sứ mệnh… trong khi thường chỉ nhận được sự an ủi từ những người chồng hoặc là buôn lậu, hoặc tàn phế về mặt thể chất, hoặc lại là một ông Hàn Quốc.
Click to view slideshow.
November 29, 2018
Nên Đặc Xá Trần Huỳnh Duy Thức
Cho đến nay, một cựu lãnh đạo Cục An ninh kinh tế (A17 cũ) vẫn cho rằng, vụ Trần Huỳnh Duy Thức đã bị chính trị hoá. Hành vi “chống phá” đáng kể nhất của anh là lập ra hai blogs: Change We Need – nói những chuyện khuất tất trong gia tộc Nguyễn Tấn Dũng; Trần Đông Chấn – chỉ trích các chính sách của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Giờ đây, nhiều bài viết từ trước 2009 của anh, đọc lại, chúng ta vẫn thấy rất là tâm đắc.
Từ Công ty tin học Duy Việt (1994) cho tới công ty cổ phần Công nghệ thông tin EIS (EIS, Inc. 2000), Trần Huỳnh Duy Thức và cộng sự đã chứng minh các anh đủ năng lực và khát vọng để “Tiến công mạnh mẽ vào thị trường CNTT quốc tế, chuyển tri thức Việt Nam thành những giá trị cao trong nền kinh tế tri thức thế giới.”
Chỉ sau 2 năm, nhóm của anh đã có 3 công ty: One-Connection Singapore, One-Connection USA và One-Connection Vietnam có mặt ở San Jose (California, Mỹ), Sài Gòn và Singapore. Nhiều năm trước khi bị bắt, One Connection Singapore đã được coi là “nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên môi trường Internet toàn cầu”.
Tháng 3-2009, Lê Mạnh Hà – con trai tướng Lê Đức Anh, người luôn hậu thuẫn mạnh mẽ cho Nguyễn Tấn Dũng – ra quyết định buộc One-Connection Việt Nam ngừng cung cấp dịch vụ, tịch thu các máy móc thiết bị. Cũng trong tháng 3, Trần Huỳnh Duy Thức & Lê Công Định “bị dụ” sáng Phu Khét, Thái Lan… tháng 5 họ bị bắt. Vụ án không đơn giản chỉ là “chống phản động” mà còn nhắm tới hai thành viên trong “Top Five”.
“Âm mưu chính trị” của nhóm Trần Huỳnh Duy Thức nếu có chỉ là khát khao canh tân đất nước. Họ nôn nóng và nhanh chóng bị đàn áp bởi chống độc tài mà vừa không có chút kinh nghiệm đối phó nào với các mẹo vặt của đám tay chân của các nhà độc tài; vừa quá lãng mạn cách mạng; lại vừa thuộc vào rất ít các “nhà chính trị” tin vào “Trạng”, vào “Sấm” vào “chân mệnh” của những người họ nghĩ sẽ trở thành “Thiên tử”.
Trần Huỳnh Duy Thức vừa là một trí thức tầm cỡ, có tư duy, có khát vọng; vừa là một doanh nhân tài ba. Lẽ ra giờ đây, chúng ta đã có một người VN có chỗ đứng trong nền kinh tế tri thức ở bên ngoài Biên giới. Họ sa cơ trong một tình huống mang nhiều màu sắc của động cơ cá nhân.
Bây giờ là lúc không nên trễ hơn nữa để Chủ tịch Nước ký lệnh đặc xá anh. Tôi tin, cho dù Trần Huỳnh Duy Thức có rất nhiều quần chúng, việc trả tự do cho anh không những không hề đe doạ Chế độ mà còn tăng thêm nhiều thiện cảm hơn cho Chế độ.
October 14, 2018
An Ninh Mạng, Nguy Cơ Cao Hơn Từ Trung Quốc
Quy định phải lưu trữ toàn bộ thông tin của người dùng Việt Nam tại Việt Nam và phải cung cấp cho Bộ Công an khi được yêu cầu đặt các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên internet của nước ngoài vào 2 sự lựa chọn:
(1) Tuân thủ quy định này. Kéo theo đó là tăng chi phí kinh doanh, nguy cơ lộ lọt dữ liệu, và nguy cơ bị người dùng tại Việt Nam và trên toàn thế giới tẩy chay.
(2) Không tuân thủ quy định này. Hệ quả là các doanh nghiệp này sẽ bị phía Việt Nam chặn truy cập hoặc họ sẽ chủ động không cung cấp dịch vụ cho người dùng Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam chắc chắn thích các doanh nghiệp này chọn phương án (1) nhất. Vì như vậy sẽ rất dễ kiểm soát được dữ liệu của người Việt mà không gây tác động quá lớn đến nền kinh tế.
Hiện chưa rõ các doanh nghiệp lớn như Facebook, Google sẽ lựa chọn phương án nào, nhưng hầu như chắc chắn các dịch vụ nhỏ hơn như Skype, Dropbox, Viber, Spotify, Apple, Wikipedia… sẽ chọn phương án (2).
Thử hình dung chuyện gì sẽ xảy ra đối với người Việt theo hai phương án trên:
Nếu phương án (1) xảy ra, các doanh nghiệp nước ngoài buộc phải sao chép dữ liệu thô của người dùng Việt Nam về máy chủ đặt tại Việt Nam (khả năng là sẽ thuê của các doanh nghiệp như VNPT, FPT…). Như vậy, tác động đầu tiên là các doanh nghiệp trong nước sẽ kiếm thêm được doanh thu cho thuê máy chủ.
Tuy nhiên, do mức độ an toàn dữ liệu tại Việt Nam tương đối thấp, những doanh nghiệp này lại không có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo đảm an ninh cho những hệ thống dữ liệu lớn như vậy, nên khả năng để lộ lọt thông tin là rất cao. Khi đó, người dùng Việt Nam sẽ chịu thiệt hại hơn so với việc dữ liệu được lưu trữ ở những trung tâm dữ liệu tốt hơn trên thế giới.
Tiếp theo đó, việc phải cung cấp dữ liệu cho Chính phủ Việt Nam sẽ khiến quyền riêng tư của người dân và doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ bị xâm hại. Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng trao quyền cho Cục An ninh mạng không chỉ tiếp cận thông tin của người Việt “nhằm phục vụ điều tra vi phạm pháp luật” mà còn trong trường hợp thông tin được tạo ra quá 36 tháng, hoặc khi doanh nghiệp dừng cung cấp dịch vụ.
Như vậy, toàn bộ các email, tin nhắn, dữ liệu trên google drive, dropbox, lịch sử tìm kiếm,… của toàn bộ người dân Việt Nam, từ dân thường cho đến các doanh nghiệp, cả các quan chức, người nổi tiếng sẽ được Cục An ninh mạng tiếp cận bất kỳ khi nào họ muốn.
Đối với nhiều người dân không có gì để che giấu thì việc bị lộ thông tin cá nhân cũng không có gì nghiêm trọng. Nhưng đối với các doanh nghiệp thì dữ liệu, bí mật kinh doanh là điều quan trọng nhất mà họ có, từ các danh sách khách hàng, các bản vẽ, thiết kế, các hợp đồng, các sổ sách kế toán, tài chính… đều sẽ được Cục An ninh mạng dễ dàng tiếp cận.
Có ý kiến còn e ngại các thông tin bí mật đời tư của các quan chức sẽ được sử dụng để gây các áp lực chính trị, để thao túng quan chức. Điều này không phải là không có nguy cơ xảy ra khi các phe cánh trong nội bộ Nhà nước có mâu thuẫn, đấu đá, và phe cánh nào nắm được bí mật của phe còn lại sẽ có rất nhiều lợi thế.
Việc lưu trữ thông tin tại các máy chủ tại Việt Nam hoặc tại Trung tâm dữ liệu của Cục An ninh mạng sẽ khiến những thông tin này dễ bị tấn công, đánh cắp bởi tin tặc trên toàn thế giới hơn rất nhiều. Khi đó, toàn bộ dữ liệu người dùng của Việt Nam không chỉ bị phơi bày ra trước các cán bộ tại Cục An ninh mạng mà còn phơi bày trước tin tặc toàn thế giới.
Nếu phương án (2) xảy ra, thiệt hại kinh tế đối với Việt Nam là vô cùng lớn.
Khi đó, người dùng tại Việt Nam không còn được sử dụng những dịch vụ tiện ích như công cụ tìm kiếm (Google), email (Gmail, Yahoo mail), lưu trữ dữ liệu online (Drive, Dropbox), xem video (Youtube), tin nhắn, gọi điện (Facebook Messenger, Viber, Skype, WhatsApp), tra cứu tri thức (Wikipedia), mạng xã hội (Facebook, Instagram), bản đồ (Google Map) và vô số những tiện ích khác đang và sẽ xuất hiện trên thế giới.
Đến lúc đó, người dùng Việt Nam liệu có quay trở lại với những biện pháp hết sức thủ công như dùng USB, ổ cứng di động để copy, lưu trữ dữ liệu, hoặc dùng bản đồ giấy, dùng từ điển giấy, đi thuê băng đĩa nghe nhạc, xem phim hoặc rất tốn chi phí như gọi điện, nhắn tin qua mạng viễn thông di động.
Nhiều ý kiến cho rằng đây sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước phát triển. Đây cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Nhưng tương lai này quả là mù mịt và không chắc chắn, vì trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn kém quá xa những doanh nghiệp hàng đầu thế giới.
Nhiều người lấy ví dụ việc Trung Quốc cấm các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng internet nước ngoài và đã tạo ra những ông lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin của họ như Alibaba, Tencent, Baidu… Nhưng nếu ai đã từng sử dụng công cụ tìm kiếm, dùng mạng xã hội, hay những phần mềm, ứng dụng của các hãng này thì thấy chất lượng về mức độ thân thiện và tiện ích thấp hơn nhiều so với những hãng phương Tây.
Một số ý kiến cũng đưa ra nguy cơ Việt Nam từ chối những nhà cung cấp dịch vụ của phương Tây thì sẽ là cơ hội để những nhà cung cấp dịch vụ của Trung Quốc tràn vào. Việc VNG, một trong những doanh nghiệp công nghệ lớn nhất Việt Nam có phần vốn góp đáng kể của Trung Quốc khiến nguy cơ này không thể bị bỏ qua. Sự xâm nhập của các nhà cung cấp dịch vụ Trung Quốc có thể diễn ra bằng nhiều cách mà đôi khi chúng ta rất khó nhìn ra, từ trực tiếp cung cấp dịch vụ, đến việc sở hữu cổ phần, cung cấp công nghệ nguồn, cung cấp nhân lực. Khi đó, nguy cơ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bị xâm phạm sẽ còn lớn hơn rất nhiều.
PS: Bài cậy đăng của một chuyên gia giấu tên.
October 11, 2018
Nghị Định Về An Ninh Mạng & Di Sản Chính Trị Của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc
Một chuyên gia về chính sách vừa phải gỡ bài viết về dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng khi ông chỉ ra khuynh hướng trao quyền cho cơ quan soạn thảo vượt quá phạm vi mà Luật này hướng tới. Theo Dự thảo, công an sẽ có quyền can thiệp vào rất nhiều ngành kinh tế (sử dụng nền tảng internet) thay vì chỉ nhắm vào những hoạt động “đe doạ đến sự tồn vong của Chế độ”.
Suốt 30 năm theo dõi tiến trình hình thành chính sách sau Đổi Mới, chưa bao giờ tôi thấy không khí tranh luận, phản biện lại gặp những áp lực bất thường như tiến trình soạn thảo và ban hành Luật này.
Trong thời gian QH thảo luận Luật, thay vì các ý kiến phản biện cần được khuyến khích và lắng nghe, nhiều người trong số họ đã phải chịu rất nhiều sức ép. Một số bài viết chỉ trích, bôi nhọ lập tức xuất hiện trên một số trang mạng xấu nhắm vào những người phản biện, kể cả những người là đại biểu QH, chuyên gia và bloggers… Thậm chí tên tuổi của một số chuyên gia đã bị bêu rếu trên một chương trình truyền hình chính thức.
Nghị định này sẽ tác động đến hầu hết các ngành. Có thể nội các cũng sẽ gặp không ít sức ép. Các bộ trưởng đừng “dĩ hoà vi quý” cũng như đừng sợ hãi. Hãy đọc và cân nhắc từng chữ. Đừng bỏ phiếu trao cho ngành khác những công cụ rất có thể không chỉ biến cả nước thành con tin mà chính quý vị cũng có khả năng trở thành con tin. Đừng để các dữ liệu cá nhân của quý vị trở thành con dao dí sau lưng quý vị.
Nhưng, ảnh hưởng của Dự thảo không chỉ đe doạ quyền riêng tư hay quyền tự do ngôn luận. Không phải tự nhiên, khi Luật đang bắt đầu được viết, các chuyên gia quốc tế đều đánh giá, nếu nó được thi hành nghiêm, tăng trưởng của Việt Nam sẽ mất 1,7 điểm GDP và đầu tư nước ngoài sẽ giảm 3%.
Sáng kiến Luật ANM là của ngành Công an, phôi thai từ thời Bộ trưởng Trần Đại Quang. Sở dĩ Luật này tìm được sự đồng thuận ở cấp cao là vì nó đề cao vai trò “bảo vệ chế độ”. Các quy phạm trong Luật đều rất chung, chỉ khi Dự thảo Nghị định được đưa ra, chúng ta mới thấy, không chỉ nhắm vào các hoạt động “chống phá chế độ” trên MXH, Dự thảo đang mở đường cho lực lượng ANM có thể can thiệp vào rất nhiều ngành kinh tế.
Trái bóng hiện thời đang nằm trong chân Thủ tướng. Nghị định này có thể trở thành một di sản xấu của ông. Nó không chỉ làm ngỡ ngàng những người đồng cấp ở các quốc gia mà còn có thể làm Nghị viện châu Âu ngạc nhiên. Trong khi VN đang phải vận động để thông qua các hiệp định thương mại với châu Âu, Dự thảo lại đưa ra các điều khoản đi ngược với rất nhiều điều VN cam kết.
Thủ tướng nên lắng nghe các chuyên gia, đặc biệt là nghe riêng các ngành (ngoài Công an), để có đủ thông tin: Sự thật có phải “18 quốc gia có luật ANM” như VN? Có phải không cần buộc các doanh nghiệp đặt máy chủ ở VN như VN đã cam kết cũng có thể “kéo đám mây” dữ liệu người dùng vào trong nước? Trước khi Chính phủ bỏ phiếu, nên thảo luận và lắng nghe từ các hiệp hội và chuyên gia độc lập.
Luật ANM đang dừng ở dạng “khung”. Điều này vừa cho Chính phủ một cơ hội để lựa chọn những công cụ thật sự cần thiết để “bảo vệ chế độ”[tôi tạm thời chưa tranh luận về tính cần thiết và hiệu quả của mục tiêu này] đồng thời lại có thể bị lợi ích cục bộ nhân danh bảo vệ chế độ, tự trang bị cho ngành quá nhiều quyền hành. Nghị định, vì thế, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hình ảnh của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trên trường quốc tế và tác động sâu sắc tới các chính sách phát triển đúng hướng của ông.
Thủ tướng cũng đừng ngạc nhiên khi trước một nghị định có ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội và kinh tế đất nước như thế mà báo chí, các tiếng nói quan trọng trên MXH và ngay cả những cơ quan như VCCI, từng đồng hành với Thủ tướng trong những nỗ lực có ý nghĩa nhất của ông lại không phản biện hay chỉ nói hời hợt về Dự thảo. Đừng “buông” hoàn toàn Nghị định cho Bộ Công an. Mong Thủ tướng nhận ra điều bất thường đó để điều hành việc thảo luận, thông qua Nghị định này trong một quy trình bình thường, lắng nghe đầy đủ phản biện trước khi quyết định.
October 3, 2018
Tang Chế, Lễ Nghĩa & Chi Phí Xã Hội
Để tránh quốc tang Chủ tịch nước, một doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam đã dời lễ tri ân khách hàng của họ sang thứ Bảy tuần này và lại phải vừa thông báo huỷ. Một sự kiện được chờ đợi nhất trong năm, chương trình biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng London – dự kiến diễn ra vào tối thứ Sáu tuần này ở Hà Nội – đến giờ vẫn chưa ai dám cho thực hiện.
Nếu như việc tang thường xảy ra bất ngờ thì một buổi hoà nhạc mời những dàn nhạc tên tuổi lại phải có kế hoạch hàng năm. Cho dù có diễn ra hay không, khoản chi phí lên tới hàng triệu USD là không thể nào rút lại. Có nên băn khoăn để huỷ bỏ một chương trình hoà nhạc đã lên kế hoạch từ lâu, diễn ra trước ngày quốc tang [Đại truyền hình quốc gia vẫn thường sử dụng nhạc cổ điển để thay thế các chương trình văn nghệ khác trong các quốc tang].
Bày tỏ lòng tôn kính khi quốc có tang là cần. Nhưng, ngay cả tang chế với ông bà tổ tiên sinh ra chúng ta cũng đã được điều chỉnh rất nhiều so với truyền thống.
Tang chế quá nghiêm cẩn cũng là chưa tính hết các chi phí xã hội: bồi thường hợp đồng, mất doanh thu từ các hoạt động giải trí… Lẽ ra, trong những ngày chính thức quốc tang, chỉ nên cấm các hoạt động ca hát ngoài trời. Các hoạt động trong nhà như chiếu phim, diễn kịch… thì cứ để lẳng lặng cho dân thực hiện.
Có thể cũng không lâu nữa sẽ có thêm một quốc tang, sau TBT Đỗ Mười có thể là Đại tướng Lê Đức Anh… hai nguyên thủ theo Đảng từ thời “tiền khởi nghĩa”. Việc Chế độ dành những nghi lễ cao nhất để tiễn đưa các bậc công thần của mình là điều có thể chia sẻ.
Tuy nhiên, Chế độ cũng cần chia sẻ với những vấn đề mà dân chúng đang phải đối diện trong các lễ quốc tang. Đặc biệt, cũng cần phải chia sẻ với những cảm xúc khi nghe tin quốc tang của dân chúng. Nếu tổ chức quốc tang cho một người mà cái chết của người đó không thật sự làm nhân dân thương tiếc thì chỉ có áo đen mà không nước mắt.
Sau khi tiễn đưa thế hệ “công thần khai chế độ”, quốc tang chỉ nên dành cho một người: Nguyên thủ, mất khi tại vị. Các trường hợp khác, do chính phủ, các đoàn thể đề nghị và UBTV QH quyết định. Các vị lãnh đạo từng là tứ trụ, tam trụ nên áp dụng tang lễ cấp nhà nước, treo cờ rủ ở các công sở và tang lễ được tổ chức trang trọng.
Tang chế càng giản dị, thì không những bạn bè quốc tế càng tôn trọng mà dân chúng cũng sẽ ghi nhận sự lắng nghe. Nếu người ra đi không đến mức tiếc thương thì người dân cũng không nỡ nào bàn ra tán vào những lời không phải.
September 10, 2018
Quốc Gia & Trại Lính
Nếu Tướng Nguyễn Mạnh Hùng xây dựng được một “hệ sinh thái số VN” tôi sẽ lựa chọn ngay vì tất cả những gì tôi viết là bằng tiếng Việt và cho người Việt. Nhưng, 39% người sử dụng MXH ở VN là cho mục tiêu kinh doanh. Họ cần chảy trong không gian 2 tỷ người của Google, Facebook… chứ không cần ao tù, nước đọng.
Tôi không cực đoan để cho rằng, VN không nên học cái gì từ Trung Quốc. Nhưng, Viettel có thể copy mô hình Huawei, còn nếu VN áp dụng mô hình Baidu, Weibo… là chỉ học của các “chú Khách” phần tiểu xảo. Baidu, Weibo… là vết nhơ của chính quyền Bắc Kinh chứ không phải là niềm tự hào của người Trung Hoa vì Bắc Kinh thiết lập MXH ấy là để nhốt dân trí mình trong đó.
Hệ sinh thái số là sản phẩm của tự do chứ không phải là công cụ để hạn chế tự do. Một quốc gia chỉ nên tự thấy bị sỉ nhục khi dân chúng cảm thấy tự do hơn khi “sống” trong cộng đồng Facebook, Google chứ nếu chỉ thấy bị sỉ nhục khi không buộc được Facebook, Google gỡ bài thì chủ quyền trở nên vô nghĩa.
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi…” Nếu nước độc lập mà dân có ít tự do hơn khi bị cai trị bởi ngoại bang thì độc lập ấy chỉ là để nội địa hoá nền thực dân, xã tắc không còn thiêng liêng nữa.
Hãy quan sát những người dân sinh sống trên sông Mekong. Họ là những người đã tham gia “toàn cầu hoá” hàng nghìn năm trước khi có internet. Họ thường là nạn nhân của các quốc gia, ít khi được bảo hộ bởi các quốc gia. Các đường biên giới thường chỉ để thoả mãn khát vọng quyền lực của các triều đại thay vì chở che dân chúng.
Tướng Nguyễn Mạnh Hùng là một người rất quyết đoán, thông minh. Nhưng cương vị mới cần một người tư duy (chính sách) chứ không cần một tư lệnh. Có lẽ kỷ luật quân đội đã tạo ra thành công của Viettel. Nhưng quốc gia không phải là một trại lính. Kỷ cương của quốc gia không phải là kỷ luật quân đội mà là pháp quyền. Và mục tiêu của pháp quyền là nhằm cung ứng nhiều tự do hơn cho dân chúng.
Cấu trúc của Bộ Thông tin & Truyền thông như hiện nay là một thách thức cho Tướng Nguyễn Mạnh Hùng. Bộ vừa phải “nắm” báo chí vừa phải phát triển công nghệ thông tin. Ở VN, hai chức năng đó không bổ sung được cho nhau vì vai trò của các cơ quan quản lý báo chí không phải là để bảo vệ quyền tự do ngôn luận mà là để kiểm soát quyền tự do ngôn luận. Không có tự do thì đừng nói tới MXH trừ khi cấm Facebook, Google…
Lẽ ra nên thành lập một cơ quan quản lý báo chí riêng, Bộ TT & TT nên trở thành Bộ phát triển công nghệ (bao gồm phần viễn thông hiện nay và một phần chức năng của Bộ Khoa học và Công nghệ). Nếu chưa có một bộ với chức năng như vậy thì tôi cũng mong Tướng Nguyễn Mạnh Hùng đừng vội vàng.
“Cường quốc kinh tế số” là một khát vọng đúng. Nhưng, muốn có kinh tế số thì đừng nôn nóng dùng ngân sách để đốt cháy giai đoạn. Vai trò của một Bộ trưởng là đưa ra chính sách để xã hội làm chứ không phải tự mình làm. Nên quy hoạch chỗ ngồi của mình trong lịch sử bằng cách đưa VN tới gần với các giá trị phổ quát của loài người hơn thay vì xây thành đắp luỹ để cô lập VN hơn với cộng đồng quốc tế.
September 5, 2018
Nguyên Ngọc
Nhà văn “đồng niên” Xuân Sách “vịnh” Nguyên Ngọc: “Mấy lần Đất Nước Đứng Lên/ Đứng lâu cũng mỏi cho nên lại nằm/ Hại thay một Mạch Nước Ngầm/ Cuốn trôi Đất Quảng lẫn Rừng Xà Nu”. Đất Nước Đứng Lên hay Đất Quảng & Rừng Xà Nu đều là tên những tác phẩm của ông, những tráng ca. Nếu như năm 1960, Nguyên Ngọc không viết Mạch Nước Ngầm thì ông đã cứ thế hanh thông trên quan lộ.
Mạch Nước Ngầm được viết sau chuyến đi thực tế ở Khu Gang Thép Thái Nguyên. Gang Thép Thái Nguyên là một mô hình tiêu biểu của miền Bắc thời đi lên XHCN vậy mà Nguyên Ngọc lại sử dụng từ “ngu dốt” để chỉ “nhân vật chính diện”. Nguyên Ngọc cũng đã nhìn thấy sự “u ẩn” trong những cán bộ miền Nam tập kết. Ông cho rằng, “Chúng ta vẫn chưa đủ sức dò cho hết những mạch nước ngầm trong lòng đất và cả trong lòng người”[Xuân Cang]. Cùng với Con Nai Đen của Nguyễn Đình Thi, Mùa Đông của Vũ Tú Nam… Mạch Nước Ngầm là một “án treo” cho Nguyên Ngọc.
Theo cụ Xuân Sách thì sau khi đọc bài thơ, một lần xuống Vũng Tàu, cụ Nguyên Ngọc nói, “Sách ơi, lần này mình đứng lên rồi, không nằm nữa đâu”.
Hôm qua, 4-9, sinh nhật lần thứ 86 của nhà văn Nguyên Ngọc. Theo nhà báo Võ Mai Nhung, thì tuy chân cụ Nguyên Ngọc không còn cứng nữa nhưng cụ vẫn “đứng” rất vững.
Năm 1978, đại tá Nguyên Ngọc được Tố Hữu chọn về làm Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà Văn. Nếu ông cứ theo nghị quyết thì việc trở thành uỷ viên Trung ương ở Đại hội V là gần như chắc chắn. Nhưng, sau chuyến đi đến Campuchia tháng Giêng năm 1978, Nguyên Ngọc nhìn thấy ở đó điều còn sâu xa hơn cả những “cánh đồng chết” đó là cái chế độ do Pol Pot lập nên đã tạo ra một xã hội mà “nhân dân đã bị đảng cầm quyền biến thành vô danh tính”.
Ngày 10-3-1979, tại hội nghị đảng viên của Hội, Nguyên Ngọc đã trình bày bản đề dẫn chỉ ra căn nguyên của nền văn học chỉ ngọ nguậy dưới trần “thượng tầng kiến trúc” của CNCS. Văn học vì thế đã không nhận thấy số phận con người, “dung tục hoá mối quan hệ giữa hiện thực và văn học; khiếp nhược hiện thực… hạ thấp văn học xuống thành sao chép hiện thực”.
“Đề Dẫn” này đã làm tiêu tan sự nghiệp chính trị (theo hướng quan quyền) của Nguyên Ngọc. Nhưng, Xuân Sách cho rằng: Nếu Nguyên Ngọc thành ông Trung ương, thì không có Nguyên Ngọc làm tổng biên tập báo Văn nghệ thời kỳ đổi mới… không có “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, không có Tướng Về Hưu và những truyện ngắn mới mẻ xuất sắc của Nguyễn Huy Thiệp, của Phạm Thị Hoài… không có những tiểu luận như “Đọc lời ai điếu cho một thời kỳ văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu…
Nhưng, cũng vì tin tưởng vào “Cởi Trói” và tiếp tục “đứng lên”, Nguyên Ngọc mất chức TBT Văn Nghệ. Cũng theo Xuân Sách, “Nguyên Ngọc chuyển hoạt động của mình sang một hướng khác. Anh lại đem tài năng của mình để làm được điều gì đó có lợi ích cho dân cho nước, và lại phải vượt qua những thử thách gian nan mới”.
Yêu Tây Nguyên đến cực đoan, quá quyết liệt với “chân lý”, cùng với tính cách rất tiêu biểu Quảng Nam, Nguyên Ngọc không phải là một người thành công trong vai trò quản lý cũng như trên các thang bậc của quyền lực chính trị.
Nhưng, chính nhờ thế ta có một Nguyên Ngọc nổi bật hơn với vai trò của một học giả, một nhà văn hoá. Với những khát vọng (tuy vẫn còn dang dở ở) Đại học Phan Chu Trinh, với những công trình cá nhân và những đóng góp ở Quỹ Văn hoá Phan Chu Trinh, Nguyên Ngọc có một di sản ít ai trong thời đại của ông có được.
[Cám ơn anh Ngô Nhật Đăng đã giúp cung cấp các tư liệu về hai cụ]
[image error]
Huy Đức's Blog
- Huy Đức's profile
- 51 followers
